Ngày đăng: Oct 14, 2016 1:41:43 AM
Bài 1: Huynh Trưởng – Nhà giáo dục thiếu nhi
Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông tuôn đến cùng Ngài trong nơi hoang vắng, Ngài chạnh lòng thương vì họ bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt, và Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều“ (Mc 6,34-44).
DẪN NHẬP
Tài liệu Hướng Dẫn dành cho Giáo lý viên năm 1992 của Thánh Bộ Phúc Âm hoá các dân tộc có những chỉ dẫn khá chi tiết về việc huấn luyện giáo lý viên, theo những tiêu chuẩn sau đây: Huấn quyền của Hội Thánh luôn đòi hỏi và nhất quyết đòi hỏi sự chuẩn bị cho giáo lý viên, vì mọi hoạt động tông đồ “nếu không được đảm nhận bởi những người có đào tạo, thì chắc chắn sẽ thất bại”.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II minh định: Để bảo đảm cho sứ vụ của Hội Thánh có nhân sự xứng hợp, cốt thiết phải có chương trình đầy đủ và cơ chế thích hợp để đảm nhận việc huấn luyện giáo lý viên về các mặt, từ huấn luyện nhân bản đến huấn luyện thiêng liêng, tín lý, tông đồ và chuyên môn” (Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế, 73; Tông huấn Người Kitô hữu giáo dân, 60).
Thư Chung 2007 lấy giáo dục Kitô giáo làm chủ đề. Điều đó thật đúng lúc khi mà khắp nơi trên thế giới, giáo dục đang là vấn đề thời sự nóng bỏng và đặc biệt tại Việt Nam, nhiều người cho rằng đã đến lúc phải cương quyết nói “Không” với tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục.
I. TỔNG QUAN VỀ GIÁO DỤC
1. Vài nhận định
Giáo dục là gì? Giáo là dạy dỗ, Dục là nuôi dưỡng,nhằm đào tạo những con người toàn diện về ba mặt: Trí, Đức, Thể. Giáo dục là hướng dẫn, chỉ dạy để giúp cho một người nhận thức được điều đúng sai, tốt xấu để họ hoàn chỉnh con người mình. Giáo dục không phải là nhồi nhét, áp đặt mà phải dùng tình thương chân thật và phải có thời gian giúp con người phát triển về nhân cách, tư duy để họ sống đúng với phẩm giá con người. Vì con người là một huyền nhiệm, nên giáo dục không phải là giải quyết một vấn đề.
Người xưa vẫn quan niệm: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Đạo đức được đặt trên tri thức; vì thế Giáo dục đạo đức là bộ phận quan trọng có tính nền tảng của giáo dục, có nhiệm vụ rèn luyện lý tưởng, ý thức, hình thành ở các em những thói quen, những phẩm chất đạo đức.
Cần có giáo dục toàn diện: cả 3 mặt đức dục, trí dục và thể dục. Một người tài giỏi thông minh nhưng thiếu đạo đức sẽ nguy hiểm cho xã hội. Tiến bộ khoa học không đi đôi với tiến bộ về đạo đức sẽ dẫn thế giới đến hủy diệt. Do đó, Con người cần được phát triển về mọi mặt để trở nên con người tự do và có tinh thần trách nhiệm, vừa biết tìm chân lý vừa biết tranh đấu bảo vệ chân lý. Tìm chân lý đích thực mọi kitô hữu cần phải lĩnh hội nền giáo dục Kitô giáo.
Mục đích của nền giáo dục Kitô giáo không chỉ là rèn luyện nhân cách con người thành hữu ích đối với bản thân, gia đình và xã hội, mà còn là giúp con người sống xứng đáng với tư cách con Thiên Chúa để mai sau trở thành công dân nước trời. Sứ mạng đó được khơi nguồn từ Chúa Cha, được thực hiện nơi Chúa Con và được kiện toàn nhờ Chúa Thánh Thần. (Thư chung HĐGMVN 2007).
2. Công tác giáo dục
a. Nhà giáo dục .
Ai là người có trách nhiệm giáo dục ?
Cũng như Đức Giêsu được sai đến với muôn dân,Giáo hội cũng có sứ mạng đem Tin Mừng đến cho mọi người. Mỗi Kitô hữu phải là nhà giáo dục đức tin, bởi vì qua bí tích rửa tội, chúng ta được mời gọi tham gia vào công trình giáo dục. Theo lời Đức Gioan Phaolô II, “mỗi chúng ta vừa là đích điểm, vừa là khởi điểm của việc huấn luyện: chúng ta càng tự rèn luyện, càng có khả năng huấn luyện người khác” (TH/KTHGD 7)
Giáo hội có trách nhiệm lớn trong công tác giáo dục Kitô giáo, nhưng các nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu vẫn là cha mẹ, ông bà, anh chị em trong gia đình, kế đến là thầy dạy, bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp và cộng đồng Kitô hữu.
b. Môi trường giáo dục
- Gia đình là Giáo Hội tại gia, là trường học tự nhiên và căn bản trong nền giáo dục Kitô giáo. Mọi thành viên của gia đình, ông bà, cha mẹ và các anh chị em sống đạo nhiệt thành, làm thành truyền thống đức tin gia đình. Nơi đây, đức tin được truyền thụ qua những lời cầu nguyện, lời nhủ bảo, đặc biệt trong những biến cố vui buồn của cuộc sống và qua những mẫu gương đức tin. Gia đình còn là “chiếc nôi của sự sống và tình yêu” (GHXH/GH 209) giúp các phần tử gia đình cảm nghiệm tình yêu và lòng trung thành của Thiên Chúa, đồng thời cũng giúp tập các nhân đức, xây dựng mối tương quan nhân vị trong xã hội.
Về phương diện tự nhiên, gia đình là nơi nuôi dưỡng chăm sóc phần xác cho bé, bé được luyện tập những kỹ năng: tập nghe, tập nói, tập đi, tập sử dụng các đồ vật …, giúp trẻ nhận ra mối tương quan với người khác.
Gia đình còn là nơi bắt đầu hình thành nhân cách của bé. Từ lứa tuổi tiền học đường tới trưởng thành các em được tập cho biết đón nhận nhau, biết hy sinh, giúp đỡ, yêu thương vô vị lợi,...cha mẹ giúp trẻ vượt qua những giai đoạn quan trọng trong đời cách tốt đẹp thì bé mới trưởng thành được. Những khủng hoảng ấu thơ sẽ đi theo bé và tác hại trên đời bé. Một khủng hoảng không vượt qua được, sẽ giữ bé ở lại trong tình trạng ấu trĩ tâm lý, suy nghĩ phản ứng lệch lạc so với lứa tuổi của mình.
- Nhà trường không chỉ là nơi để các em trau dồi kiến thức văn hóa mà còn là môi trường các em sống mối tương quan với bạn bè, thầy cô. Là nơi hình thành những mối tương quan xã hội. Thầy cô và bạn bè là những người tiếp nối giúp việc hình thành nhân cách còn dang dở nơi em. Ảnh hưởng của thầy cô và bạn bè cũng rất quan trọng. Kết quả: có thể em sẽ biết sống yêu thương, tự giác, tự lập theo phương pháp suy tư và cung cách hành động của mình hay có thể bị lệ thuộc người khác và bị gương xấu lôi kéo.
- Tại giáo xứ: đức tin được thông truyền nhờ việc giảng dạy và việc cử hành phụng vụ.Với những lớp giáo lý cha xứ cùng với các giảng viên sẽ chịu trách nhiệm khai tâm Kitô giáo và huấn giáo cho thiếu nhi chuẩn bị lãnh các bí tích và sống đức tin. Tại đây, các em có môi trường để củng cố và thể hiện đức tin với các thành phần khác của giáo xứ, được cuốn hút vào các giờ kinh lễ, phụng vụ, bí tích.(x. TN/GD 4). Chính khi đoàn kết yêu thương nhau và cầu nguyện chung với nhau, đức tin của Kitô hữu được nuôi dưỡng và củng cố.
3. Thực trạng nền giáo dục hôm nay
a. Bối cảnh xã hội
Hàng ngày qua báo chí, truyền hình chúng ta vui mừng vì tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tạo cho con người nếp sống cao về mọi mặt: những sản phẩm dinh dưỡng không chỉ giúp các em tăng trọng, tăng sức khỏe, mà còn tăng chỉ số thông minh. Nhiều học sinh đoạt giải trong các kỳ thi quốc tế. Nhưng nếu quá chú tâm vào những tiến triển vật chất như công nghệ, khoa học, của cải, thì hầu như người ta xem nhẹ những tiến triển tinh thần như các giá trị đạo đức, văn hoá, tôn giáo.
Thực ra để hình thành một kỷ nguyên mới về phát triển, thì không chỉ các giá trị vật chất được khuyến khích mà cần phải chú trọng đến sự bảo tồn và phát triển các giá trị tinh thần, trong đó không thể thiếu các giá trị tôn giáo. Nhưng buồn thay, vì mải chạy theo những trào lưu xã hội, những cái gọi là văn minh thời đại (thời các loại “siêu” được tôn vinh: siêu sao, siêu tốc, siêu lợi nhuận …) thì những giá trị tinh thần chỉ còn là thứ yếu.
Xuất hiện các loại tệ nạn: hối lộ, tham nhũng, gian dối trong mọi lĩnh vực ngay cả lĩnh vực giáo dục thì thử hỏi việc giáo dục các em có thể đạt kết quả tốt không? Việc tham lam chạy theo lợi nhuận tiền bạc đang khiến nhiều người bán rẻ lương tâm, phá vỡ truyền thống gia đình, hủy hoại tình người.
Phương tiện truyền thông: Học sinh, sinh viên hiện nay tiếp cận với nền khoa học kỹ thuật hiện đại, thế giới tỏ ra nhỏ bé, gần gũi. Thông qua Internet, người ta có thể biết ngay một sự kiện vừa xảy ra ít phút trước đó bên kia trái đất. Tuy nhiên, thế hệ @ này có thể bị lâm nguy vì những thông tin kém đạo đức.
b. Nhà trường:
Là nơi các em trải qua nhiều thời gian nhất, môi trường sư phạm rất tốt, nhưng vẫn đang có những báo động: Hối lộ để chạy trường, những gian dối trong giáo dục do bệnh thành tích, Chương trình học tạo cho các em khá nhiều áp lực, khiến có em bị Stress.. Đáng tiếc hơn nữa, Giáo Hội công giáo, với tư cách là tổ chức tôn giáo, đành phải đứng bên lề sự nghiệp giáo dục của xã hội Việt Nam, không có quyền nhập cuộc, đành đóng vai một quan sát viên bất đắc dĩ. (TC.HĐGM số 15).
c. Gia đình:
Do ảnh hưởng của não trạng duy kinh tế, nền giáo dục gia đình đang bị khủng hoảng. Chủ nghĩa khoa bảng, khiến nhiều phụ huynh lao vào đầu tư cho con em mình đủ mọi kiến thức để trở thành kỹ sư, bác sĩ mà ít quan tâm đến việc giáo dục nhân bản, giáo dục đức tin cho chúng. Vì luôn bận rộn với vấn đề kinh tế, nên trong gia đình mọi người không còn thời gian cho nhau và cầu nguyện chung với nhau nữa.
Một số cha mẹ chạy theo niềm vui riêng mình, hậu quả là: gia đình bị chia cắt; người bị tổn thương nhiều nhất chính là các em. Trẻ em không có tội tình gì, chỉ vì người lớn sai lầm mà các em phải gánh chịu hậu quả.
d. Giáo hội
Với những mối quan ngại trên, Giáo dục kitô giáo chỉ còn trông chờ nơi các giáo xứ. Nhưng trở ngại là:
+ Nhiều Cha xứ không quan tâm đủ, không có nơi xứng hợp cho công tác giáo lý.
+ Mỗi tuần huynh trưởng giáo lý viên chỉ có tối đa hai giờ để tiếp xúc gặp gỡ các em vào giờ học giáo lý. Phụ huynh đưa các em đến các lớp giáo lý chỉ mong chúng được lãnh nhận các bí tích cho đúng luật rồi sau đó buông trôi, không cần biết giáo lý là gì nữa.
+ Có những huynh trưởng-giáo lý viên chưa được đào tạo đúng mức, chưa hiểu rõ vai trò của mình, khiến giờ giáo lý buồn tẻ hay chỉ còn là giờ nhồi nhét những kiến thức thần học.
Làm sao các em có thể yêu thích đến nhà thờ khi nơi đó chỉ toàn những gương mặt nghiêm khắc với những luật lệ, cấm đoán, kết tội và hình phạt? Huynh trưởng phải phản ánh được dung mạo Đức Giêsu Kitô, người Thầy hiền lành và chan chứa tình thương, luôn quan tâm, lắng nghe, cảm thông và chia sẻ những ưu tư của từng em, bằng trái tim yêu thương của Chúa. Huynh trưởng phải giúp các em tin tưởng tìm đến với Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh vui buồn của đời sống trong niềm tin yêu phó thác. Nhờ sự trợ giúp và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, các em ngày càng lớn càng trở nên giống Đức Kitô
- Công tác giáo dục đòi hỏi nhiều kiên nhẫn: chỉ vận dụng tài năng, kiến thức và lòng nhiệt thành bản thân thì chưa đủ, người giáo dục cần có một tấm lòng, một đời sống nội tâm sâu sa, vững vàng để khích lệ, nâng đỡ, an ủi, giúp định hướng đời sống cho các em, giúp các em sống mỗi ngày hoàn thiện hơn, có ý nghĩa hơn.
Cùng với giáo xứ, các tổ chức, các đoàn thể Công Giáo, phong trào TNTT góp phần không kém quan trọng trong việc giáo dục đức tin cho thiếu nhi và giới trẻ.
II. HUYNH TRƯỞNG, NHÀ GIÁO DỤC THIẾU NHI
1. Sứ mệnh giáo dục của huynh trưởng
- Huynh trưởng là người tiếp nối sứ mệnh Chúa Giêsu, nhận trách nhiệm điều khiển, hướng dẫn và giáo dục các em Thiếu Nhi nên người tốt, nên con Chúa theo Tôn chỉ, Mục đích của Phong Trào TNTT.
- Huynh trưởng là người tình nguyện dấn thân cho Phong Trào để phục vụ Chúa và các em thiếu nhi trong sứ mệnh đặc biệt của việc rao giảng Tin Mừng. Sứ mệnh cao cả ấy làm cho Huynh trưởng trở thành người cộng tác với Chúa trong việc hoàn thiện hóa con người. Đó là công việc rất quan trọng và cần thiết để xây dựng và mở rộng nước Chúa. Huynh Trưởng trong phong trào TNTT có sứ mệnh tham gia thực hiện mục đích của phong trào.
Việc thực hiện mục đích của phong trào làm cho huynh trưởng thành những nhà giáo dục: Sứ mệnh giáo dục là sứ mệnh có tính siêu nhiên:
a. Siêu nhiên tự nguồn gốc: Vì là sứ mệnh Chúa Cha đã trao cho Chúa Giêsu, Chúa Giêsu trao lại cho Hội Thánh, “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. (Ga 20,21).
Trước khi về trời, Chúa Giêsu trao cho các tông đồ mệnh lệnh cuối cùng, là loan báo Tin Mừng cho muôn dân, và dạy họ tuân giữ tất cả những gì Người đã truyền.
b. Siêu nhiên trong chủ đích: Sứ mệnh này nhằm đem Chúa Giêsu đến với các em và làm cho Chúa Giêsu lớn lên trong tâm hồn các em. Trọng tâm của việc dạy giáo lý là Đức Kitô, là con người Chúa Giêsu thành Nadareth, “Con Một đến từ Đức Chúa Cha… đầy ân sủng và chân lý, “Đấng đã chịu nạn, chịu chết vì chúng ta và giờ đây, sau khi sống lại, đang ở cùng chúng ta”. Chính Chúa Giêsu, Đấng “là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”.
Sứ mệnh cao cả ấy làm cho Huynh trưởng trở thành những người cộng tác với Chúa trong kế hoạch mầu nhiệm yêu thương của Thiên Chúa.
2. Huynh trưởng dạy gì cho các em?
a. Giáo dục siêu nhiên
Tài liệu Hướng dẫn tổng quát về việc dạy Giáo lý của Thánh Bộ Giáo Sĩ ban hành ngày 15.8.1997 xác định: mục đích và nhiệm vụ việc giảng dạy Giáo lý như sau: “Mục đích quyết định của việc giảng dạy Giáo lý không chỉ là giúp người học giáo lý tiếp cận với Đức Giêsu Kitô mà còn là giúp người ấy đi vào mối tương quan hiệp thông, mật thiết với Người” (số 80).
Các nhiệm vụ căn bản của việc giảng dạy Giáo lý là:
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiểu biết về đức Tin: biết Chúa Kitô và kế hoạch của Chúa Cha mà Chúa Giêsu biểu lộ. Việc đào sâu hiểu biết về đức Tin đem lại cho cuộc sống ánh sáng mới, nuôi dưỡng đời sống đức Tin, giúp hiểu các lý lẽ của đức tin trong cuộc sống.
+ Giáo dục về phụng vụ: Việc dạy Giáo lý không chỉ giúp thiếu nhi hiểu ý nghĩa phụng vụ và các bí tích mà còn phải giúp các em tham dự phụng vụ cách tích cực và siêng năng, huấn luyện các em về “cầu nguyện, tạ ơn, sám hối; về sự tin tưởng phó thác trong cầu nguyện và về ý nghĩa cộng đoàn…”
+ Huấn luyện về luân lý: Việc giảng dạy Giáo lý phải giúp cho các em biến đổi nội tâm “từ con người cũ sang con người mới trong Đức Kitô” là Đấng yêu thương, luôn dạy dỗ và cứu chữa. Như Giakêu, người phụ nữ Samari, … được biến đổi sau khi gặp Chúa.
+ Dạy cầu nguyện: Theo gương Chúa Giêsu, huynh trưởng dạy các em cầu nguyện với những tâm tình mà Người đã diễn tả trong lời cầu nguyện với Cha: đó là tâm tình thờ phượng, ngợi khen, cảm tạ, tin cậy, phó thác, sám hối và cầu xin, ngưỡng mộ trước vinh quang của Cha trong Kinh Lạy Cha, kinh mà Đức Giêsu đã dạy các môn đệ và là mẫu mực của kinh nguyện Kitô giáo (tlđd, só 85).
+ Các nhiệm vụ khác của việc giảng dạy giáo lý
* Giáo dục đời sống cộng đoàn: Giáo huấn của Đức Giêsu về đời sống cộng đoàn được Mátthêu tường thuật lại trong Tin Mừng, nêu lên một số thái độ: tinh thần đơn sơ khiêm tốn (Mt 18,3); sự quan tâm đến những người bé nhỏ nhất (Mt 18,6); đặc biệt quan tâm đến những người lạc đường (Mt 18,12); việc sửa lỗi huynh đệ(Mt 18,15); cầu nguyện cộng đoàn (Mt18,19); sự tha thứ cho nhau (Mt 18,22); Tình yêu huynh đệ thống nhất tất cả các thái độ kể trên” (Ga 13,34).
* Khai tâm về truyền giáo: Khi kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, Tấm Bánh bẻ ra cho đời, các em cũng ý thức mình là tấm bánh cho người khác. Trong môi trường sống các em sẽ truyền giáo bằng những hy sinh giúp đỡ bạn bè, lối xóm. Đời sống gương mẫu ngoan ngoãn của các em có giá trị truyền giáo hữu hiệu.
Tóm lại, huynh trưởng giúp các em phát triển về mọi phương diện của đức tin: sự hiểu biết, cầu nguyện, phụng vụ và đời sống nhân đức. Sau cùng huynh trưởng giúp các em biết dâng mình cho Chúa, nhất là ơn gọi mà Thiên Chúa mời gọi các em và sống đúng theo ơn gọi đó. (ibid. số 144) ơn gọi.
b. Giáo dục tự nhiên.
+ Giáo dục nhân bản: Huynh trưởng có ảnh hưởng trong việc hình thành nhân cách của các em. Ở lứa tuổi nào: Ấu, Thiếu, Nghĩa, các em cũng có những vấn đề riêng. Trẻ còn đang tiến triển, đang lớn lên một cách toàn diện và liên tục. Tâm hồn trẻ là một thế giới riêng biệt không giống người lớn. Với hiểu biết đại cương về khoa tâm lý, huynh trưởng không làm cản trở sự hình thành nhân cách nơi các em.
Mẫu mực nhân bản mà huynh trưởng phải giới thiệu cho các em là Chúa Giêsu trong Tin Mừng, hướng dẫn các em nhận biết: Chúa Giêsu là người thật, Người luôn làm việc và kết hiệp với Chúa Cha, luôn thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Con Người đó có đủ những đức tính nhân bản. Chúa Giêsu là người khoẻ mạnh: Ngài đi rao giảng khắp nơi, làm việc không biết mệt. Ngài còn vác Thập giá nặng sau khi bị roi đòn. Ngài dũng cảm, cương quyết lên Giêrusalem chịu nạn (Mt 16,22-23). Sống lạc quan, tự lập: “chim có tổ, chồn có hang, con người không có chỗ tựa đầu”.
Nội tâm luôn yên tĩnh, khôn ngoan, điềm đạm, tự do trong hành động, tiếp xúc với mọi hạng người, không lệ thuộc dư luận: Tranh cãi về ngày Sabat, gặp gỡ người phụ nữ Samari. “Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa…” (Lc 20,25). Những lời Ngài nói vừa làm kinh ngạc, vừa làm say mê cả đối thủ. Các vệ binh đi bắt Chúa nói “Xưa nay chưa có ai nói năng như người ấy”(Ga 7,46).
Đức tính nổi bật nhất và là bản chất của Chúa Giêsu là Đức yêu thương: Chúa Giêsu dễ mến và thu hút mọi người, đông đảo trẻ em đến với Người (Mc 10,13-15). Ngài động lòng thương rao giảng, hoá bánh để nuôi dân, thương chữa những người bệnh tật, Chúa Giêsu đã sống yêu thương và dạy chúng ta làm như thế. Điều răn mới Người ban cho chúng ta là “Hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu” (Ga 13,34).
+ Huấn luyện lương tâm: không chỉ là giảng dạy những mệnh lệnh của hệ thống luật luân lý nhưng còn là tập cho các em hồn nhiên lắng nghe lòng mình phán đoán thiện ác. Khi có lương tâm ngay thẳng, con người sẽ làm chứng cho chân lý, mạnh dạn đưa ra những chủ trương và đường lối của mình, trước những trào lưu đi ngược lại với giáo huấn Tin Mừng và đạo đức xã hội.
+ Xã hội tính: Con người không là một ốc đảo. Giáo dục Kitô giáo góp phần cổ võ tình liên đới, làm cho con người có trách nhiệm với nhau, trách nhiệm đối với xã hội và công ích, cùng xây dựng cuộc sống tốt đẹp, an bình: biết tương thân tương ái, yêu thương giúp đỡ, cứu giúp nhau khi gặp hoạn nạn. Tuân hành những luật lệ chung của chính quyền.
+ Truyền thống văn hóa của dân tộc: “Dân tộc chúng ta luôn tự hào về tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo. Truyền thống ấy nếu trong quá khứ đã góp phần làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và sản sinh những danh nhân làm vẻ vang đất nước, thì nay phải trở thành một trong những tiêu chí của nền giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam” (Thư chung HĐGMVN 2007). Tuỳ theo lứa tuổi và tuỳ theo môi trường sinh hoạt như: lớp giáo lý, sa mạc… huynh trưởng dạy các em kỹ năng sống, nét đẹp văn hoá xã hội.
3. Việc huấn luyện huynh trưởng giáo lý viên
Người ta không thể cho cái mình không có, Mù dắt mù sao được (Lc 6,39 1; Cor 7,12). Huynh trưởng phải học và sống những gì mình dạy, cũng như giáo huấn người khác bằng sự tự rèn luyện mình.
- Huynh trưởng giáo lý viên cần được đào tạo toàn diện” và “chuyên biệt”. Toàn diệnnghĩa là bao gồm mọi chiều kích của nhân cách giáo lý viên. Chuyên biệt nghĩa là phù hợp với các đặc tính của công việc mà giáo lý viên được mời gọi như loan báo Lời Chúa cho mọi người xa gần…. (Thông diệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế, 73).
- Trưởng thành về mặt nhân bản: Lãnh vực nhân bản bao gồm: sự quân bình tâm sinh lý, sức khỏe tốt, có trách nhiệm, thật thà, năng động, đạo đức trong sinh hoạt nghề nghiệp và gia đình, tinh thần hy sinh, mạnh bạo, kiên trì v.v… Huynh trưởng là người xây dựng hòa bình; có khả năng thăng tiến, phát triển, linh hoạt văn hóa xã hội ; nhạy bén trước vấn đề công lý, y tế v.v… Huynh Trưởng phải là kitô hữu trưởng thành, là công dân tốt, có đời sống nhân bản vững chắc, kiến thức cần thiết và đạo đức tốt. Có như thế Huynh Trưởng mới là tấm gương sáng cho các em noi theo…. “lời nói lung lay gương bày lôi kéo”.
- Huynh trưởng-Giáo lý viên cũng “phải được huấn luyện để thống nhất đời sống của mình, đời sống của một người vừa là phần tử của Giáo hội, vừa là công dân của xã hội loài người”.(Tông huấn Người Kitô hữu giáo dân của Đức Gioan Phaolô II, số 59). Cuộc sống của huynh trưởng nơi gia đình, ngoài xã hội, cũng như tại giáo xứ phải là một. Huynh trưởng phải hy sinh cho đi cả con người của mình, phải là hạt lúa mì tự nguyện gieo vào lòng đất để tự hủy đi những tính khí, tình cảm, thói quen … gây trở ngại cho công tác giáo dục.
- Huynh Trưởng phải có hiểu biết và sống giáo lý, có khả năng sư phạm để có thể truyền đạt các chân lý của Giáo hội dạy, một cách chính xác và rõ nét. “Chuẩn bị về nội dung giáo lý cho giáo lý viên là điều tối cần thiết, nhằm giúp họ nắm vững nội dung cốt yếu của giáo lý công giáo, truyền đạt rõ ràng và sống động, không sai sót hay lệch lạc, như vậy các giáo lý viên phải có trình độ văn hóa căn bản, thiếu trình độ văn hóa sẽ nẩy sinh nhiều khó khăn. Việc đào tạo thần học phải gần gũi với kinh nghiệm nhân bản. Giáo lý viên không chỉ biết những nguyên tắc thần học mà còn biết khám phá khoa học trần thế, đặc biệt là khoa tâm lý học và khoa học xã hội cũng như đem ra thực hành cốt sao cho các thiếu nhi đến gần họ …
- Đời sống của Huynh Trưởng phải phản ảnh được dung mạo Chúa Giêsu, người Thầy hiền lành và chan chứa tình thương, luôn biết quan tâm, lắng nghe, cảm thông và chia sẻ những ưu tư của từng em bằng trái tim yêu thương của Chúa. Huynh Trưởng phải là người có uy tín, không những là thầy mà còn là một người bạn, để các em có thể gửi gắm tình cảm, những suy tư của các em..., để những lúc gặp khó khăn các em sẽ đến với Huynh Trưởng, nhờ đó ta dẫn các em đến với Chúa.
- Sứ mạng của người giáo dục đức tin đòi hỏi giáo lý viên phải có một đời sống thiêng liêng sâu sắc. Đây là khía cạnh cao nhất và quý giá nhất của nhân cách;
do đó, cũng là chiều kích ưu tiên của việc huấn luyện. Giáo lý viên đích thực là một vị thánh(xem Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Thế của Đức Gioan Phaolô II, 90). Trọng tâm đời sống thiêng liêng của giáo lý viên là sự hiệp thông sâu xa trong niềm tin vào Đức Kitô và mến yêu Ngài, Đấng đã mời gọi và sai họ đi. Huynh Trưởng phải luôn nhớ nền tảng cho việc đào tạo lý trí, tình cảm của một con người là đạo đức. Không có đời sống đạo đức không thể là một nhà giáo dục các em Thiếu Nhi.
4. Thực hành giảng dạy
Không phải cứ tham gia các khoá huấn luyện là trở thành nhà giáo dục, huynh trưởng phải xác định ơn gọi của mình, xem mình có yêu mến thiếu nhi để có thể hy sinh thời gian, sức khoẻ, tài năng phục vụ cho các em. Huynh trưởng cần học nơi Chúa Giêsu, người Mục Tử nhân lành về Tinh thần phục vụ: “Ta đến để phục vụ chứ không phải được phục vụ”; Tinh thần khiêm tốn: “Ai muốn làm đầu hãy trở nên rốt hết”. Chúa Giêsu, Người Mục tử nhân lành biếtcác chiên và hy sinh cho chiên “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theoTa”. (Ga 10,14).
Huynh Trưởng phải có lòng yêu trẻ thực sự, chân thành, bao dung, vì trẻ dễ quên và hay sai lỗi. Chính tình thương là phương thế hoán cải, giáo dục trẻ hữu hiệu. Vì “tình yêu có sức hoán cải tâm hồn hơn lòng sốt sắng nhiệt thành, hơn mọi kiến thức cũng như tài hùng biện của ta” (P. Faber). - Huynh Trưởng phải nhớ trẻ em cũng có một nhân vị. Giáo dục nhắm đến con người của trẻ. Do đó phải để ý đến tinh thần cũng như thể chất của các em, phải yêu thương và tôn trọng phẩm giá các em trong khi giáo dục, lúc khen thưởng cũng như lúc kỷ luật.
Tình yêu tạo được sự tín nhiệm, yêu mến và kính trọng của trẻ, giúp ta hy sinh dấn thân phục vụ, giúp ta chịu đựng mọi sai lỗi, thiếu sót… của trẻ, nhưng vẫn bình tĩnh để sửa chữa. Tình yêu giúp ta đón nhận từng em một và có những săn sóc phù hợp cho các em.
Xã hội ngày nay thường có hiện tượng” bằng thật, học giả”. Trong phong trào TNTT, hôm nay chúng ta cũng cần khẳng định: Huynh trưởng không phải là một học vị, hay một chức tước cần nhất thời đạt cho bằng được. Không phải chỉ cần đi sa mạc và sau khi được thăng cấp là huynh trưởng đã hoàn tất việc huấn luyện, đã có thể giáo dục các em.
Giáo dục là cả một công trình lâu dài không thể hoàn thành ngay. Người trẻ cần được huấn luyện mỗi ngày trở nên hoàn thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng hoàn thiện (xem TC HĐGM số 38).
--- oOo ---
Bài 2: Vai trò của Thánh Kinh trong việc giáo dục thiếu nhi
“Ngôi Lời là Thiên Chúa…
Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.”
(Ga 1, 1. 14)
DẪN NHẬP
Là Kitô hữu, không ai trong chúng ta có thể phủ nhận tầm quan trọng của Thánh Kinh trong đời sống của mình. Quả thật, đời sống tín hữu được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và các Bí tích. Chính Hội Thánh, Mẹ chúng ta đã, đang và sẽ không ngừng khuyến khích con cái mình năng tiếp cận, lắng nghe, học hỏi và nhất là thực hành Lời Chúa trong cuộc sống. Hội Thánh không ngừng đề nghị và trao ban cho chúng ta nhiều cơ hội và phương cách để mỗi người trong chúng ta được gần gũi với Lời Chúa, được thấm nhuần Lời Chúa, để cho Lời Chúa nên sức mạnh và ánh sáng giúp chúng ta sống và hoạt động như những người con đích thực của Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Để giáo dục Israel, Thiên Chúa không chỉ dùng lời nói mà còn dùng các biến cố, các điềm thiêng dấu lạ,... qua các tổ phụ, các tiên tri, ... qua chính Con Một. Thiên Chúa không chỉ khuyên dạy, năn nỉ, răn đe mà còn đánh phạt, ủi an. Thánh Kinh chính là cuốn sách ghi chép lại công trình giáo dục của Thiên Chúa và của Đức Giêsu. Qua Thánh Kinh chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thương, tôn trọng và kiên nhẫn biết bao với con người, chính vì thế Thánh Kinh phải là kim chỉ nam cho công tác giáo dục giới trẻ.
Ngay từ thơ ấu, người Kitô hữu đã được giáo dục trong bầu khí thấm nhuần Lời Chúa. Điều đó được nhìn thấy cách rõ rệt qua các chương trình Giáo lý Thánh kinh. Các chương trình Giáo lý dành cho trẻ em cũng như cho người lớn, luôn được xây dựng trên nền tảng Lời Chúa, lấy nguồn mạch từ Lời Chúa. Cuốn Hướng dẫn Đại cương về việc dạy Giáo lý của Thánh bộ Giáo sĩ đã nói rõ: “Việc dạy Giáo lý phải cụ thể dẫn nhập chính thống vào bài học Lời Chúa (lectio divina), nghĩa là đọc Thánh kinh ‘theo Thánh Thần’, Đấng ngự trong Hội Thánh.” (x. số 127)
Công đồng Vatican II, trong Hiến chế Tín lý về Mạc khải (Dei Verbum), cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của Thánh Kinh trong đời sống Hội Thánh, và đặc biệt trong việc đào tạo người Kitô hữu: “Thánh Kinh phân phát cách bất di bất dịch Lời của chính Chúa và làm vang dội tiếng nói của Chúa Thánh Thần qua các Ngôn sứ cùng các Tông đồ. Bởi vậy, mọi lời giảng dạy trong Giáo Hội cũng như chính đạo thánh Chúa Kitô phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn” (x. số 21).
Vì thế, không ngạc nhiên khi Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể Việt Nam, đoàn thể Công giáo tiến hành dành cho Thiếu nhi Công giáo Việt nam, dưới ánh sáng của Công đồng Vatican II, đã tự canh tân trong tinh thần Thánh Kinh nói trên. Nội quy Tổng Liên đoàn năm 1974, điều 4: Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể Việt Nam đã khẳng định: “Lời Chúa trong Thánh Kinh là nền tảng và chất liệu đặc biệt mà Tổng Liên đoàn dùng để giáo dục, thánh hóa và hướng dẫn giới trẻ trong các hoạt động tông đồ cũng như xã hội”. Hơn nữa, trong điều 5, tôn chỉ của Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể Việt Nam là “sống Lời Chúa và kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể”
Thực tế, trong việc giáo dục các em Thiếu nhi được Hội Thánh giao phó cho mình, Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể Việt Nam nói riêng, cũng như tất cả các trường Giáo lý Công giáo nói chung, phải lấy Lời Chúa làm nền tảng và chất liệu đặc biệt để giáo dục và thánh hóa các em. Lời Chúa thật sự đóng vai trò quan trọng, căn bản, nền tảng và bao trùm việc giáo dục đời sống Kitô giáo.
Những suy nghĩ sau đây như những chia sẻ về vai trò của Lời Chúa trong việc giáo dục Thiếu nhi, đồng thời xin trình bày một vài ưu tư quanh chủ đề này.
I. LỜI CHÚA LÀ NỀN TẢNG
CỦA VIỆC GIÁO DỤC THIẾU NHI
1. Việc giáo dục Thiếu nhi
Hội Thánh được Chúa Kitô tin tưởng giao phó nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Người (x. Ga 21, 15-17), trong đó có đoàn chiên bé nhỏ, là những Kitô hữu nhỏ tuổi, những em ấu nhi, thiếu nhi, thiếu niên, những người, hơn ai hết, cần sự hướng dẫn tận tình của các vị Chủ chăn. Vì thế, trong Tông huấn về việc dạy Giáo lý “Catechesi Tradendae”, Hội Thánh nhấn mạnh: Việc giáo dục thiếu nhi nằm trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh, sứ vụ mà chính Chúa Kitô đã giao phó cho Hội Thánh trước khi Ngài về trời, khi bảo các Tông đồ: “Anh em hãy đi loan báo Tin mừng cho muôn dân” (Mc 16, 15)
Sách Chỉ nam Giáo lý Tổng quát nêu rõ: “Giáo dục Thiếu nhi là một trong những hoạt động của Hội Thánh nhằm dẫn đưa cộng đoàn tín hữu và từng cá nhân tới đời sống trưởng thành đức tin” (x. số 21). Đời sống đức tin trưởng thành là đời sống thông hiệp mật thiết với Đức Giêsu, đời sống ao ước được trở nên giống như Ngài. Do đó, mục đích việc giáo dục Thiếu nhi Công giáo không chỉ là giới thiệu cho các em biết Chúa Giêsu là ai, giáo huấn của Ngài là gì, thông qua giáo huấn đó, ta biết được Thiên Chúa là ai và kế hoạch của Ngài đối với con người là gì, mà giáo dục Thiếu nhi Công giáo còn là giúp cho các em ngày càng yêu mến Thiên Chúa và “trở nên trọn lành như Cha trên trời”, sống như những người con đích thực của Thiên Chúa, đạt đến sự thông hiệp mật thiết với Thiên Chúa trong Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần..
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong Tông huấn “Dạy Giáo lý” đã viết: “Mục đích tối hậu của việc dạy Giáo lý là làm cho con người không những được tiếp xúc mà còn được thông hiệp, thân thiết với Chúa Giêsu Kitô: chỉ một mình Người mới có thể đưa ta đến tình yêu của Chúa Cha trong Thần Khí và làm cho ta tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh.” (số 5)
Chính Chúa Giêsu cũng đã dành một niềm ưu ái đặc biệt cho các em thiếu nhi khi Ngài bảo: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng” (Mc 10,14). Ngài luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho các em, Ngài thân thiết, gần gũi và trân trọng các em. Trong 3 năm rong ruỗi trên đường truyền giáo, chắc chắn có không ít thiếu nhi trong số thính giả say mê các bài giảng đơn sơ, giản dị và dễ hiểu của Ngài; hơn nữa, các em còn cộng tác tích cực vào công việc rao giảng của Ngài (như cậu bé đã tặng Ngài 5 chiếc bánh và 2 con cá, để làm nên phép lạ bánh hóa nhiều); hoặc chính các em hân hạnh là người được lãnh nhận phép lạ từ Ngài (như cô bé được Chúa cho sống lại, như đứa trẻ bị kinh phong được chữa lành…)
Tham gia vào sứ mạng giáo dục Thiếu nhi, Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể xác định rõ mục đích là đào luyện thanh thiếu niên về phương diện tự nhiên và siêu nhiên để các em trở thành những con người kiện toàn và những Kitô hữu hoàn hảo, đồng thời hướng dẫn các em biết truyền thông Tin Mừng cho tha nhân (Nội quy 1974, điều 2).
Khi trung thành theo đuổi mục đích này, Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể đã góp phần cùng với Hội Thánh thi hành sứ vụ cao cả là loan báo Tin mừng. Và cũng đáp lời mời gọi của Đức Gioan Phaolô II trong Tông huấn “Dạy Giáo lý” khi Ngài yêu cầu các hiệp hội, các phong trào, các nhóm Công giáo tiến hành “không được thiếu một sự nghiên cứu nghiêm túc giáo thuyết Kitô giáo. Việc giảng dạy Lời Chúa phải là chiều kích không bao giờ được thiếu trong đời sống tông vụ của các nhóm này.” (số 47)
Trong thực tế, Giáo lý đã trở nên thành phần chủ chốt trong chương trình học hỏi của Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể. Trong các giáo xứ mà Đoàn Thiếu nhi Thánh Thể được thành lập và phát triển: việc các em đến với Phong trào cũng đồng nghĩa với việc đến các Lớp Giáo lý, hay ngược lại. Nói cách khác, Phong trào đảm nhiệm việc giáo dục các em thiếu nhi trong các Giáo xứ.
Một điều cần lưu ý là Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể chú trọng giáo dục các em Thiếu nhi không chỉ về phương diện siêu nhiên (đời sống đức tin) mà cả về phương diện tự nhiên (đời sống nhân bản). Như vậy, nếu đạt được mục đích giáo dục kép này, Phong trào sẽ cung cấp cho Giáo hội những Kitô hữu trưởng thành trong đời sống thiêng liêng và cho xã hội những con người kiện toàn trong đời sống tự nhiên.
Điều đó cho thấy mục tiêu cao cả mà Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể đang vươn tới là chung vai với Hội Thánh thi hành sứ mạng loan báo Tin mừng cho một thành phần rất đặc biệt là các em thiếu nhi. Công việc này thật cao cả và tế nhị. Vì như có người đã ví von: “Giáo lý hôm nay, Hội thánh ngày mai”. Việc giáo dục niềm tin Kitô giáo cho các em thiếu nhi hôm nay sẽ quyết định đời sống đức tin của Hội Thánh trong tương lai.
Khi hăng say theo đuổi mục đích giáo dục đức tin cho Thiếu nhi, Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể không xem nhẹ chiều kích tự nhiên. Hơn nữa, để giúp các em phát triển cách quân bình đời sống cả về tự nhiên lẫn siêu nhiên, Phong trào cũng nhấn mạnh việc giáo dục nhân bản Kitô giáo, bao gồm việc giáo dục những đức tính nhân bản, những kỹ năng sống có ích cho cộng đồng, phát triển những năng khiếu bản thân, trí lực, thể lực…
Như vậy, theo sự dẫn dắt của Hội Thánh, Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể dấn thân thực hiện sứ mạng giáo dục các em Thiếu nhi, giúp các em đi vững trên hai chân một cách quân bình.
2. Lời Chúa
Theo sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo, Lời Chúa được chứa đựng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền, đây là hai cách lưu truyền mặc khải của Thiên Chúa (số 80-82). Văn kiện Công đồng (Dei Verbum, số 9) và sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo (số 81) định nghĩa: “Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa được ghi chép lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, đã được trao bằng văn bản”; còn “Thánh Truyền chứa đựng Lời Thiên Chúa mà Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần đã ủy thác cho các tông đồ, và lưu truyền toàn vẹn cho những người kế nhiệm các ngài, để nhờ Thánh Thần chân lý soi sáng, họ trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến qua lời rao giảng”. Do đó, “Thánh Truyền và Thánh Kinh liên kết và giao lưu mật thiết với nhau, vì cả hai kết hợp nên một toàn bộ và hướng về cùng một mục đích”. (x. số 80, Giáo lý Hội Thánh Công giáo). Huấn quyền có nhiệm vụ giải thích Lời Chúa một cách chính thức nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Giáo Hội thi hành quyền giáo huấn để phục vụ cộng đoàn.
Vậy Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn quyền gắn bó mật thiết và liên đới với nhau, “mỗi bên theo cách của mình” đều là những nền tảng và nguồn mạch của việc giáo huấn Kitô giáo nói chung, và việc giáo dục các Thiếu nhi Công giáo nói riêng.
Hội Thánh được ủy thác nhiệm vụ lưu truyền và giải thích Mặc Khải, “không chỉ nhờ Thánh kinh mà biết cách xác thật tất cả những điều mặc khải, nên cả Thánh Kinh và Thánh Truyền đều phải được đón nhận và tôn kính bằng một tâm tình yêu mến và kính trọng như nhau” (Dei Verbum, số 9).
Cũng theo Công đồng Vatican II, Hội Thánh luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng vụ thánh, Hội Thánh không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu. (Dei Verbum, số 21). Vì thế, Hội Thánh ý thức và luôn kêu gọi các mục tử ý thức việc “phải mở rộng lối vào Thánh Kinh cho các Kitô hữu”.
Ngoài ra, Lời Chúa không chỉ được chứa đựng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền mà còn được cử hành trong Phụng vụ, trong Thánh lễ, trong nghi thức các Bí tích, trong đời sống cầu nguyện của Hội Thánh (các giờ kinh Phụng vụ, các kinh nguyện…). Nhờ đó, Lời Chúa được tôn vinh trong Hội thánh, trong đời sống đức tin của người Kitô hữu.
Đức Giêsu Kitô không chỉ truyền đạt Lời mà chính Người là Lời Chúa. Vì thế toàn bộ giáo lý Kitô giáo quy chiếu về Người. Hoặc nói cách khác, Thánh Kinh là chính Chúa Kitô, Lời Chúa chính là Chúa Kitô, là Ngôi Lời, là Con Thiên Chúa, xuống thế làm người. Vì thế, Thánh Giêrônimô từng khẳng định: “Không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô”.
3. Lời Chúa trong đời sống người Kitô hữu
Câu nói trên của Thánh Giêrôminô cho thấy vai trò rất quan trọng của Thánh Kinh trong đời sống người Kitô hữu, những người được chính Đức Kitô gọi là “bạn hữu”, những người mang trong mình hình ảnh của Đức Kitô và ao ước được kết hợp làm một với Người.
Thánh Kinh có vai trò quan trọng trong đời sống của Hội Thánh, là nguồn mạch nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu. Hội Thánh không ngừng đón nhận và kín múc sự sống thần linh của Thiên Chúa từ hai bàn tiệc Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa để phân phát cho các Kitô hữu.
Thánh Kinh giữ vị trí nổi bật trong tất cả tác vụ Lời Chúa và cùng với Thánh Truyền là nguồn mạch của việc dạy Giáo lý. Việc dạy giáo lý phải hấp thụ và thấm nhuần tư tưởng, tinh thần và thái độ theo Thánh Kinh và nhất là theo Tin Mừng, hạt ngọc của Thánh Kinh, nhờ năng tiếp xúc với những bản văn, được đọc với trí hiểu và tâm hồn của Hội Thánh, trong sự dẫn dắt sáng soi của Chúa Thánh Thần.
Như vậy, Thánh Kinh tối cần thiết đối với đời sống người Kitô hữu. Chúng ta đọc, lắng nghe Lời Chúa là để hiểu biết về Chúa Kitô và qua Ngài hiểu biết về Thiên Chúa, để từ đó yêu mến Ngài, bởi vì “không biết thì không thể yêu mến” (“vô tri bất mộ”). Nhờ Lời Chúa, chúng ta gặp gỡ, lắng nghe Thiên Chúa nói với ta và ta thưa chuyện với Ngài, sống thân mật với Ngài. Thiên Chúa dùng Lời hằng sống của Ngài để nuôi dưỡng đời sống linh hồn ta và hướng dẫn ta sống đời làm con của Ngài.
4. Lời Chúa là nền tảng của việc giáo dục Thiếu nhi
Nếu đối với đời sống người Kitô hữu, Lời Chúa đóng vai trò quan trọng như trên, thì Lời Chúa còn quan trọng hơn rất nhiều trong việc giáo dục Thiếu nhi.
Vì nền tảng và mọi công cuộc giáo dục Kitô giáo đều bắt nguồn từ Lời Chúa, mọi chương trình giáo dục của Hội Thánh đều được xây dựng dựa trên Lời Chúa. Việc giáo dục Thiếu nhi Công giáo, mà phần chủ yếu là giáo dục đức tin và ngay cả giáo dục nhân bản, đều kín múc, từ nội dung cho đến phương pháp, từ Lời Chúa. “Việc dạy Giáo lý bao giờ cũng lấy nội dung ở nguồn mạch sống động là Lời Chúa, thông truyền trong Thánh Kinh và Thánh Truyền vì cả hai hợp thành kho tàng thánh thiện duy nhất chứa đựng Lời Chúa, đã được giao phó cho Hội Thánh.” (Catechesi Tradendae, số 27)
Khi nói rằng Thánh Kinh và Thánh Truyền là nguồn mạnh của Giáo lý, Hội Thánh muốn nhấn mạnh rằng Giáo lý phải thấm đẫm và chuyển tải những tư tưởng, tinh thần và thái độ của Thánh Kinh, nhất là của Tin Mừng. Vì thế, Giáo lý phải tạo điều kiện cho các em tiếp xúc thường xuyên và trực tiếp với Lời Chúa; đồng thời đừng quên rằng Giáo lý trở nên phong phú và hiệu quả hơn khi các em đọc các bản văn Thánh Kinh dưới sự hướng dẫn của Hội Thánh, với sự hiểu biết và tình yêu của Hội Thánh, đã tích lũy những suy tư và kinh nghiệm sống từ hơn hai ngàn năm nay. Như vậy, giáo huấn, phụng vụ và đời sống của Hội Thánh bắt nguồn từ Lời Chúa và dẫn đưa các em tới nguồn mạch là Lời Chúa.
Theo định nghĩa, Giáo lý chính là Lời Chúa được trình bày cách đơn giản, cụ thể và sống động để người tín hữu hiểu biết và sống đức tin. Như vậy, Giáo lý càng gần Thánh kinh thì càng phong phú và vững chắc. Do đó, các bài Giáo lý luôn khởi đầu bằng một đoạn Thánh Kinh liên hệ với nội dung Giáo lý cần được trình bày. Đoạn Thánh Kinh được công bố trang trọng vào đầu giờ Giáo lý, được giải thích và quảng diễn trong giờ học, để dẫn đưa vào chân lý đức tin, và kết thúc bằng quyết tâm đem điều vừa học từ Lời Chúa ra thực hành trong đời sống.
Như vậy, có thể nói Lời Chúa là nền tảng trong việc giáo dục các em thiếu nhi vì những lý do sau đây:
a. Trước hết, Lời Chúa giúp chúng ta hiểu biết về Thiên Chúa nhất là Chúa Giêsu, vì qua Lời Chúa ta biết cách Chúa hành động, về chương trình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người, và về mong muốn của Ngài đối với con người. Quả vậy, các bài Giáo lý, được sắp xếp theo một chương trình tiệm tiến chỉ là phỏng theo lịch sử cứu độ, như thứ tự được trình bày trong Thánh Kinh, hoặc theo một chương trình Giáo lý chuẩn bị lãnh nhận Bí tích, thì cũng đều giúp các em có được những kiến thức nền tảng nhất về các chân lý đức tin Kitô giáo.
b. Nhưng Lời Chúa còn mời gọi dấn thân, giúp biến đổi con người. Nếu giáo dục đức tin chỉ là cung cấp kiến thức về Thiên Chúa thì Giáo lý không khác gì một môn học thông thường. Thế nhưng, Lời Chúa không chỉ cung cấp kiến thức về Chúa Kitô và giáo lý của Ngài, mà Lời Chúa còn giúp các em gặp gỡ Chúa và sống thân mật với Ngài. Đây chính là mục tiêu cuối cùng của việc dạy Giáo lý như Tông huấn về “Dạy Giáo lý” đã nói đến.
Do đó, cầu nguyện có một vai trò hết sức quan trọng trong việc Giáo lý. Bất kỳ một buổi học Giáo lý nào cũng được mở đầu bằng cầu nguyện (để xin Chúa thánh hóa buổi học, xin ơn soi lòng mở trí cho người dạy và người học), rồi đạt đến đỉnh cao trong cầu nguyện giữa giờ (sau khi nghe công bố, giải thích, học hỏi Lời Chúa và tiếp nhận chân lý đức tin, các em được mời gọi đáp trả tiếng Chúa, nói lên tâm tình của em đối với Chúa), và kết thúc bằng phút cầu nguyện cuối giờ (thường là để nói lên quyết tâm áp dụng Lời Chúa vừa được học vào cuộc sống, hoặc đơn giản là cám ơn Chúa vì chân lý vừa được lãnh nhận trong buổi Giáo lý).
Chính Lời Chúa khơi nguồn cho tâm tình cầu nguyện của các em trong giờ giáo lý. Cầu nguyện giúp các em nội tâm hóa những giáo huấn của Lời Chúa, chuyển kiến thức thành tâm tình và hành động cụ thể. Như thế, cầu nguyện gắn Giáo lý với Phụng vụ và đời sống. Từ chỗ lắng nghe, học hỏi Lời Chúa để hiểu biết về Chúa Giêsu, các em gặp được Ngài trong giây phút đối thoại thân tình và mang Ngài vào cuộc sống của em bằng quyết tâm thực hiện điều em vừa học được từ Lời của Ngài. Từ đó, mối quan hệ cá nhân thân tình giữa em và Chúa được xây dựng và phát triển; đó cũng là lúc việc giáo dục đức tin chạm đến mục đích tối hậu của mình.
c. Chúa Giêsu nói:“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Như vậy, Lời Chúa là lương thực nuôi dưỡng đời sống các em Thiếu nhi, Lời Chúa có sức thông ban sự sống thần linh, thông ban Thần Khí cho các em tương tự như các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể.
Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể là hai cách hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh. Tin Mừng theo thánh Luca gợi cho chúng ta thấy điều ấy trong câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau: Họ thấy lòng mình bừng cháy khi Chúa Giêsu nói với họ và giải nghĩa Sách Thánh cho họ, và khi Người “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ” họ nhận ra Người. (x.Lc 24, 13-32).
Như vậy, Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể là của ăn thông ban và nuôi dưỡng sự sống đời đời cho chúng ta. Nếu trong Cựu ước, khi dân Israel hành trình trong hoang địa về Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi họ bằng manna và Lời của Ngài (Đnl 8, 3) thì trong thời của Giao ước mới, Chúa Giêsu Phục sinh cũng đồng hành với Hội Thánh là dân riêng mới của Thiên Chúa, Người nuôi chúng ta bằng Lời Chúa và bằng Mình Máu Thánh Người. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ai tuân giữ lời Tôi thì sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 8, 51).
Vì thế, Hội Thánh luôn công bố Lời Chúa khi cử hành các Bí tích và các giờ Kinh Phụng vụ. Cách rõ ràng nhất trong Bí tích Thánh Thể, chính Lời Chúa và Mình Máu Chúa là lương thực nuôi dưỡng đời sống tâm linh của người tín hữu. Do đó, khi các em đến với các Bí tích, tham dự các giờ kinh nguyện, giờ Thánh Thể, nhất là Thánh lễ, các em được lắng nghe Lời Chúa, được giải thích và hướng dẫn của Hội Thánh (thông qua các Cha, các Huynh trưởng - Giáo lý viên), các em sẽ được Chúa ban ơn nuôi dưỡng đời sống đức tin. Chính qua Lời Chúa, các em gặp gỡ Thiên Chúa và nghe Ngài ngỏ lời với các em bằng tất cả lòng trìu mến, và đến lượt mình, các em cũng được hướng dẫn cách thức trò chuyện với Thiên Chúa. Như thế, bằng Lời Chúa, các em đã đi vào mối tương quan thân tình với Thiên Chúa và nhận lấy sự sống thần linh từ Ngài, hơn nữa để Chúa biến đổi các em ngày càng trở nên tốt hơn, vì Lời Chúa có sức mạnh nội tại để cải hóa con người.
d. Một khi đã được Lời Chúa biến đổi, đến lượt các em, các em sẽ trở thành trung gian chuyển tải Lời Chúa cho những người sống quanh em, cụ thể là cho các bạn đồng trang lứa trong môi trường học đường, khu xóm, các nhóm sinh hoạt khác, tức là các em tham gia vào sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh, làm tông đồ cho người trẻ như lời mời gọi của Hội Thánh, và như lời hứa thứ tư của mỗi đoàn sinh Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể - là “làm Tông đồ.”
II. LỜI CHÚA LÀ CHẤT LIỆU ĐẶC BIỆT
PHONG TRÀO DÙNG ĐỂ GIÁO DỤC THIẾU NHI
Khi ý thức: Lời Chúa không chỉ là nền tảng mà còn là chất liệu đặc biệt để giáo dục các em Thiếu nhi, các phương pháp giáo dục của Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể đã không ngừng kín múc và lấy cảm hứng từ Lời Chúa, thông qua nhiều cách thức sau đây:
1. Phương pháp giáo dục của Chúa Kitô
Phương pháp giáo dục của Phong trào lấy cảm hứng từ phương pháp giáo dục mà Chúa Kitô đã thực hành để huấn luyện các môn đệ của Người: Người đào tạo họ thành những con người toàn vẹn, không chỉ thông hiểu kiến thức, mà còn biết thực hành để đạt đến đời sống trọn lành, để nên giống Người trong mọi sự: từ suy nghĩ, đến nhân cách, thái độ sống và hành động:
- Người dạy cho các môn đệ hiểu sự phong phú của mầu nhiệm Nước Trời (Mt 13, 1) Người đưa các môn đệ vào mối quan hệ thân tình với Chúa Cha qua việc cầu nguyện: “Khi cầu nguyện, hãy thưa: Lạy Cha…” (Lc 11,2)
- Người cũng dạy họ hãy gắn bó, bắt chước các nhân đức, thái độ và cách sống của Ngài: “Anh em hãy học với Tôi vì Tôi hiền lành và kiêm nhượng trong lòng”(Mt 11,29)
- Người dạy họ làm việc Tông đồ: “Người sai từng hai người một đi với nhau …” (Lc 10, 1)
Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể cũng bắt chước Chúa Kitô khi hướng đến mục tiêu giáo dục các em nên con người kiện toàn và những Kitô hữu đích thực. Các phương pháp giáo dục siêu nhiên và tự nhiên của Phong trào đều nhắm đến 4 nội dung sau:
a. Truyền đạt kiến thức, để thiếu nhi hiểu biết về Chúa Kitô, về mặc khải qua việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa.
b. Giáo dục đời sống cầu nguyện, phụng vụ để các em phát triển lòng yêu mến, gắn bó với Chúa.
c. Giúp các em sống Lời Chúa, huấn luyện đạo đức, luân lý, nhân bản, sao cho các em ngày càng nên giống Chúa trong cách sống, cư xử, lời nói, thái độ, hành động
d. Huấn luyện các em tinh thần truyền giáo, biết mang Chúa đến cho người khác bằng đời sống gương mẫu của mình
Theo phương pháp giáo dục của Chúa Giêsu, Phong trào rút ra một số những bí quyết sư phạm rất hữu hiệu như: trình bày vừa tầm người nghe, thích hợp với tâm lý, tuổi tác của người nghe; dùng ngôn ngữ giản dị; dùng hình ảnh, ngữ ảnh, những câu chuyện minh họa gần gũi, sống động; dùng cái dễ hiểu để nói về cái khó hiểu; dùng phương pháp quy nạp đơn sơ, lối ẩn dụ so sánh bình dân; đúc kết chân lý đức tin thành những câu dễ nhớ; nhắc lại dưới nhiều hình thức khác nhau; tiệm tiến từng bước theo trình độ của người nghe; dùng Kinh Thánh để chứng minh; và nhất là vừa giảng vừa cảm hóa người nghe, đánh động nơi họ tâm tình thờ lạy, yêu mến và sẵn sàng thay đổi cuộc sống.
2. Khung cảnh Thánh Kinh
Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể lấy Thánh kinh tạo nên khung cảnh giáo dục đặc biệt dành cho các em, được gọi là Khung cảnh Thánh Kinh, làm nền cho mọi sinh hoạt của Thiếu nhi theo từng lứa tuổi:
- Với Ấu nhi, Phong trào chiêm ngắm và giới thiệu cho các em về quãng đời thơ ấu của Chúa Giêsu với những biến cố xảy đến với Chúa và gia đình Người trong giai đoạn này; giúp các em làm quen với bé Giêsu, sống ngoan ngoãn, vâng lời cha mẹ với tâm tình cảm phục, biết ơn.
- Với Thiếu nhi, Phong trào gợi lên và đặt các em trong khung cảnh thời niên thiếu của Chúa Giêsu, giai đoạn Người sống ẩn dật tại Nadarét trong gia đình thánh, âm thầm, khiêm tốn học tập và làm việc, gieo vào lòng các em ao ước nên giống Chúa Giêsu bằng những việc làm cụ thể trong gia đình, khu xóm, trường học, giáo xứ với tinh thần cầu nguyện và quảng đại hy sinh.
- Tuổi Nghĩa sĩ và Hiệp sĩ được mời gọi suy nghĩ và sống khung cảnh sôi động đời hoạt động, rao giảng của Chúa Giêsu với tinh thần dấn thân hết mình vì sứ mạng loan báo Tin Mừng, xả thân vì lý tưởng Nước Trời, từ đó khơi dậy nơi các em nhiệt tình và khao khát làm việc tông đồ, đem Chúa đến cho tha nhân và đem tha nhân đến với Chúa.
Như vậy, Khung cảnh Thánh Kinh cung cấp cho các em lý tưởng sống và lời mời gọi phù hợp với từng lứa tuổi, giúp các em hăng hái dấn thân, vui vẻ hy sinh, quảng đại yêu mến, bắt chước Chúa Giêsu qua các giai đoạn phát triển tự nhiên trong cuộc đời trần thế của Người, xem Người như khuôn mẫu, gợi mở để noi theo, với khao khát nên giống Người mỗi ngày một hơn.
3. Bầu khí Thánh Kinh
Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể giúp các em hít thở, ngụp lặn trong bầu khí giáo dục thấm nhuần tinh thần Thánh Kinh. Lời Chúa là môi sinh lành mạnh và bổ ích cho các em.
Bầu khí Thánh Kinh được tạo nên bằng nhiều cách thức phong phú: Ngoài bài học Giáo lý, các bài hát, trò chơi, băng reo cảm hứng từ Lời Chúa, các hoạt cảnh, kịch nghệ, phim ảnh xoay quanh các đề tài Thánh Kinh, đố vui Thánh Kinh, vẽ tranh, thi kể chuyện Thánh Kinh, các chiến dịch thi đua, hội trại, Sa mạc, Xuất du, Hành trình Sa mạc, Lửa thiêng Thánh Thể… cũng không ngừng múc lấy nguồn mạch từ Thánh Kinh. Trong tổ chức, Phong trào còn lấy các tên: nhân vật, địa danh Thánh Kinh đặt tên cho Đội, cho Đoàn…
Bằng cách đó, Phong trào giúp các em sống thường xuyên trong Khung cảnh và Bầu khí Thánh Kinh, cho các em cơ hội tiếp xúc thường xuyên, trở nên quen thuộc với Lời Chúa, gặp gỡ và kết thân với chính Chúa Giêsu như với người anh, người bạn thân thiết nhất của em. Nhờ quen sống, đụng chạm và tư duy dựa trên Lời Chúa, tiếp xúc thường xuyên và thân mật với Thánh Kinh, các em sẽ dễ dàng qui chiếu Lời Chúa trong thái độ, lời nói, cung cách cư xử của mình trong hiện tại và tương lai.
4. Học hỏi Lời Chúa
Các chương trình Giáo lý Thánh kinh, chương trình Thăng tiến của Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể đều đặt trọng tâm ở Lời Chúa. Các chân lý đức tin đều được trình bày trong ánh sáng Lời Chúa. Lịch sử cứu độ được tái hiện thông qua chương trình Giáo lý, dù là một mẩu trong từng bài học, hay cả tấm bánh trong cả chương trình, thì chân lý đức tin luôn được trình bày cách trọn vẹn, hợp với trình độ người học, và hướng về Chúa Kitô là trung tâm của các mầu nhiện Kitô giáo.
Ngoài việc học hỏi Lời Chúa và giáo lý qua chương trình Thăng Tiến, các em còn được tiếp xúc với Lời Chúa qua các bài giảng Chúa nhật, được các Linh mục trình bày phù hợp với tâm lý, trình độ hiểu biết của các em. Ngoài ra, có nhiều nỗ lực trong việc giảng dạy Lời Chúa được hỗ trợ bởi các công cụ trợ giảng, các phương tiện thính thị rất phong phú: tranh ảnh, phim, hoạt cảnh, kịch, đố vui, video, cassette, trò chơi vi tính, internet, sách hướng dẫn cho giáo lý viên, cho phụ huynh… Các công cụ này lấy cảm hứng từ nội dung Lời Chúa, sâu sát với những quan tâm, thắc mắc, ưu tư của các em, nói bằng ngôn ngữ của các em... nhằm giúp các em đạt đến một hiểu biết sâu xa, thiết thực về những chân lý đức tin, đánh động tâm tình thờ lạy, tin yêu nơi các em, đưa đến quyết tâm hoán cải, hoàn thiện cuộc sống hơn.
Thách thức đối với Giáo lý viên-Huynh trưởng hôm nay là làm sao vận dụng triệt để những phương tiện trợ giảng có sẵn, nỗ lực sáng kiến hoặc làm sao vận dụng Lời Chúa để tự tạo nên những công cụ hỗ trợ hữu hiệu cho việc học tập trong hoàn cảnh tài chánh thường là eo hẹp của phần đông các lớp Giáo lý, các Đoàn Thiếu nhi Thánh Thể.
5. Đọc, lắng nghe, lãnh nhận, suy niệm, chia sẻ và sống Lời Chúa
Ngoài các giờ học Giáo lý - Lời Chúa theo một chương trình được soạn thảo chu đáo, các sinh hoạt khác của Phong trào cũng tạo cho các em nhiều cơ hội để đọc, lắng nghe, suy niệm và sống Lời Chúa.
Các buổi họp Đội, họp Chi đoàn, Đoàn… luôn có phần lắng nghe, chia sẻ, lãnh nhận Lời Chúa. Các buổi Xuất du, các Sa mạc không thể thiếu Lời Chúa.
Lời Chúa còn luôn hiện diện trong các giờ Thánh Thể, qua việc Huynh trưởng giúp em lắng nghe, suy niệm Lời Chúa trước Chúa Giêsu Thánh Thể, để Người ngỏ lời với các em trong không khí trang nghiêm nhưng thân tình của Giờ Thánh, và mời gọi các em đáp lời trong tâm tình cầu nguyện.
Đoàn sinh Thiếu nhi Thánh Thể còn hứa siêng năng đọc Lời Chúa và viếng Chúa hằng ngày. Cuốn Thánh Kinh, nhất là Tân ước, phải trở thành sách gối đầu giường của mọi thành viên Phong trào.
Như vậy, Phong trào huấn luyện và giúp các em thực hành ngay từ tuổi thơ thói quen đọc, lắng nghe, suy niệm, cầu nguyện bằng Lời Chúa, tạo nên nơi các em thái độ mến yêu, tin tưởng, thân thiết với Lời Chúa, và nhất là giúp các em thực hành Lời Chúa trong đời sống thường nhật bằng những công việc cụ thể, tuy bé nhỏ nhưng thiết thực. Nếu thực hành thường xuyên như vậy, các em chắc chắn sẽ trở thành những Kitô trưởng thành trong đời sống đức tin.
III. VÀI ƯU TƯ VỀ VAI TRÒ CỦA THÁNH KINH
TRONG VIỆC GIÁO DỤC THIẾU NHI HIỆN NAY
Biết rằng Thánh Kinh – cùng với Thánh Thể, đóng vai trò tối quan trọng trong việc giáo dục đời sống đức tin của các em như đã trình bày, chúng ta không khỏi băn khoăn và ưu tư khi nhìn vào một số thực tế giáo dục thiếu nhi trong các Giáo xứ hiện nay:
1. Nhiều Thiếu nhi còn dửng dưng với Lời Chúa
Trong Thư Mục vụ năm 2005, Hội đồng Giám mục Việt Nam nhận định rằng: Nhìn chung, người Công giáo Việt Nam rất siêng năng đọc kinh nhưng còn chưa chú trọng đến việc đọc và suy niệm Lời Chúa. Thánh Kinh chưa có chỗ xứng đáng trong các sinh hoạt đạo đức, nhất là trong đời sống gia đình. Điều này một phần giải thích được vì sao còn nhiều Thiếu nhi dửng dưng với Lời Chúa, không tha thiết với việc học hỏi Lời Chúa, nhiều em chưa biết đến cuốn Kinh Thánh vì trong gia đình không có sách thánh.
Bên cạnh đó, phải kể đến áp lực học hành ngày càng nặng nề của các em, việc gia tăng các phương tiện giải trí đi đôi với sự phát triển đời sống kinh tế của gia đình khiến cha mẹ và các em dửng dưng với việc học hỏi Giáo lý và Lời Chúa. Ngày nay, lý do bỏ lớp Giáo lý vì hoàn cảnh gia đình khó khăn không còn nhiều; thay vào đó, các em hoặc cha mẹ quyết định cho các em bỏ học Giáo lý vì ưu tiên cho việc học văn hóa và các nhu cầu học hành, giải trí khác.
Trước hoàn cảnh đó, thách đố đặt ra cho những người có trách nhiệm đối với việc giáo dục đức tin các em ngày càng quyết liệt hơn. Làm sao để giành các em về lại với các lớp Giáo lý, với các sinh hoạt của Phong trào. Điều này đòi hỏi những nỗ lực mạnh mẽ hơn nơi các Linh mục, nơi Huynh trưởng – Giáo lý viên, các đoàn thể khác. Gây ý thức cho gia đình các em nhằm cảm hóa, giúp phụ huynh và các em ý thức về sự cần thiết của việc học hỏi Lời Chúa trong đời sống đạo của em hiện nay cả trong tương lai. Đồng thời, Đoàn Thiếu nhi, lớp Giáo lý phải tổ chức sao cho sinh động, hấp dẫn, vui tươi, để các em mong mỏi đến học hỏi và sinh hoạt trong tinh thần tự nguyện và yêu thích, hơn là như một bổn phận nặng nề, phải “học cho xong chuyện”.
2. Lời Chúa chưa được xem là trọng tâm của việc giáo dục chân lý đức tin
Do thời gian eo hẹp hoặc do ý thức của người hướng dẫn chưa thấy đủ: tầm quan trọng của Lời Chúa, nên đôi khi việc dạy Giáo lý được rút gọn thành việc truyền đạt chân lý mặc khải đã được đúc kết sẵn trong sách Giáo lý mà bỏ qua phần Lời Chúa đã được đề nghị như nguồn mạch và nền tảng của chân lý đức tin.
Một số địa phương, việc dạy Giáo lý theo kinh bổn: hỏi-thưa, vẫn được áp dụng như cách thức duy nhất để truyền đạt đức tin. Vì thế, các em chỉ được học thuộc lòng các công thức chân lý đức tin, mà không có dịp tiếp xúc trực tiếp với Lời Chúa, không biết các chân lý ấy đã được Thiên Chúa mặc khải như thế nào.
Để khắc phục vấn đề trên, thiết nghĩ cách học Giáo lý mới khơi nguồn từ và quy chiếu về Lời Chúa nên được phổ biến và phát huy rộng rãi hơn. Và chính các Huynh trưởng–Giáo lý viên phải đầu tư tìm tòi sao cho bài Giáo lý thật sự bắt nguồn từ Lời Chúa, xoay quanh Lời Chúa, và dẫn các em đến với Lời Chúa.
Ngoài ra, các chất liệu giáo dục bắt nguồn từ Lời Chúa cũng nên được xem trọng và vận dụng nhiều hơn. Ví dụ: Thay vì kể câu chuyện đời thường để minh hoạt một ý tưởng trong bài học, Huynh trưởng có thể kể một câu chuyện rút ra từ Thánh Kinh. Thay vì cho các em vẽ một bức tranh đề tài tự do, hãy cho các em phát họa một cảnh trong Thánh Kinh. Khi sinh hoạt, hãy cho các em hát những bài ca sinh hoạt, bài ca ý lực lấy cảm hứng từ Lời Chúa., những trò chơi mang màu sắc Thánh Kinh. (Đây cũng là khó khăn: kiếm đâu ra những nhạc sĩ tâm huyết sáng tác những ca khúc cho Thiếu nhi mang đậm nét Thánh Kinh)
Các em phải được khuyến khích và yêu cầu có cuốn Thánh Kinh, ít là Tân Ước, của riêng mình, mang theo khi đi sinh hoạt Giáo lý, mỗi ngày đọc một đoạn ngắn khi cầu nguyện riêng (sáng hoặc tối).
Ngoài bài học Giáo lý, Huynh trưởng–Giáo lý viên còn có thể khơi gợi lòng say mê Kinh Thánh nơi các em bằng cách kể hoặc cho các em xem phim về các câu chuyện trong Thánh Kinh, vốn rất dồi dào và hấp dẫn: Công cuộc sáng thế, Cuộc đời các tổ phụ, Cuộc xuất hành, Chuyện các thẩm phán, các vua, nhất là cuộc đời Chúa Giêsu. Mỗi ngày một ít; nhờ thế các em sẽ biết được toàn bộ lịch sự cứu độ qua các câu chuyện. Hoặc tổ chức những cuộc thi tìm hiểu, đố vui Kinh Thánh, thi kể chuyện, thi vẽ theo Kinh Thánh…
3. Huynh trưởng – Giáo lý viên chưa là những người tha thiết với Lời Chúa
Muốn có những sáng tạo và nỗ lực áp dụng Thánh Kinh vào việc giáo dục các em như trên, trước tiên, người Huynh trưởng phải am hiểu, yêu mến và sống Lời Chúa.
Tông huấn Catechesi Tradendae dạy: “Người Giáo lý viên theo chân Đức Giêsu Kitô, phải luôn chuyên cần học hỏi Lời Chúa do huấn quyền của Hội Thánh thông truyền, phải luôn kết thân sâu xa với Đức Kitô và với Chúa Cha, phải có tinh thần cầu nguyện, từ bỏ bản thân, hoàn toàn để Chúa Thánh Thần làm việc nơi mình trong mọi sự và mọi lúc.” (số 5 và 6)
Soi mình trong lời dạy của Hội Thánh, Huynh trưởng–Giáo lý viên đôi khi cũng phải hổ thẹn vì đã không ít lần xem nhẹ Lời Chúa, chưa thật sự quan tâm đến Lời Chúa, không siêng năng đọc, tìm cơ hội lắng nghe và học hỏi Lời Chúa, chưa lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam cho đời sống bản thân, nhất là chưa khao khát tìm gặp và kết thân với Chúa Giêsu qua Lời của Người.
Để phát huy hết vai trò của Thánh Kinh trong việc giáo dục các em, Giáo Hội nói chung và Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể nói riêng cần những Giáo lý viên-Huynh trưởng tha thiết, say mê, gắn bó với Lời Chúa, với Chúa Giêsu Thánh Thể, có đời sống nội tâm sâu sắc, đời sống đức tin trưởng thành được nuôi dưỡng bằng việc khao khát lắng nghe, suy niệm, chiêm ngắm và cầu nguyện với Lời Chúa, để Lời Chúa hướng dẫn mọi suy nghĩ, lời nói và hành động. Chỉ như thế Giáo lý viên–Huynh trưởng mới có khả năng mang Chúa đến cho các em và mang các em đến với Chúa.
Để đạt được điều đó, ngoài nỗ lực của bản thân và ơn Chúa giúp, các Giáo lý viên – Huynh trưởng cần sự nâng đỡ, cổ vũ và hướng dẫn của các vị Mục tử thông qua các khóa huấn luyện, bồi dưỡng về kiến thức Kinh Thánh, về phương pháp học hỏi, suy niệm Lời Chúa, về sư phạm Kitô giáo, cũng như thông qua những buổi chia sẻ kinh nghiệm sống Lời Chúa được tổ chức thường xuyên hay định kỳ ở Giáo xứ, Giáo hạt, Giáo phận.
KẾT LUẬN
Tuy nhiên, dù với những nỗ lực bản thân, vận dụng mọi phương tiện hỗ trợ, thì người Huynh trưởng vẫn xác tín hiệu quả của việc giáo dục vẫn tùy thuộc bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Vì đó là ân huệ của Chúa Thánh Thần, như Thánh Phaolô kinh nghiệm: “Tôi trồng, Apôlô tưới; nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng, người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể.” (1 Cr 3,6-7)
Sẽ chẳng có việc giáo dục thiếu nhi nào có hiệu quả nếu không có hành động của Chúa Thánh Thần. Hướng dẫn Đại cương về việc dạy Giáo lý đã nói rõ: “Trong việc thực hành dạy giáo lý, thì không phải các kỹ thuật sư phạm dù tiên tiến nhất, cũng không phải là người Giáo lý viên có nhân cách hấp dẫn nhất có thể thay thế cho hành động thầm lặng và kín đáo của Chúa Thánh Thần được. Chính Ngài là “tác nhân đích thực” của tất cả các sứ vụ của Hội Thánh, chính Ngài là “Giáo lý viên đầu tiên”, là “người thầy nội tâm”, là nguyên tắc linh hứng của mọi công trình dạy Giáo lý và của những ai chu toàn việc đó”. (số 288)
Vậy, thay cho lời kết những suy tư này, chúng ta hãy cùng nhau khiêm tốn cầu xin Thần Khí của Ngôi Lời ban ơn giúp sức, làm cho công cuộc giáo dục các em thiếu nhi mà Ngài đã tin tưởng giao phó cho chúng ta được sinh hoa kết quả tốt đẹp và lâu dài, để xã hội có nhiều công dân chân chính, Hội Thánh ngày càng có thêm nhiều người Kitô hữu trưởng thành trong đức tin và đạt đến cuộc sống viên mãn trong Đức Kitô.
--- oOo ---
Bài 3: Những chỉ dẫn của Giáo Hội về việc dạy Giáo lý
Việc dạy giáo lý luôn được Giáo Hội coi là bổn phận rất quan trọng vì đây chính là mệnh lệnh của Đức Kitô trước khi về trời (xem Mt 28,19-20). Giáo Hội, trải qua bao thời đại và dưới sức tác động của Chúa Thánh Thần, đã không ngừng tìm tòi, nghiên cứu những cách thức truyền đạt Lời Chúa một cách có hiệu qủa. Để theo sát đường hướng của Giáo Hội, Huynh trưởng, giáo lý viên cần học hiểu và áp dụng những chỉ dẫn của Giáo Hội liên quan đến việc dạy giáo lý. Những chỉ dẫn này được tìm thấy trong các tài liệu giáo huấn của Giáo Hội.
Chúng ta sơ lược một vài tài liệu quan trọng hơn, trực tiếp nói đến việc dạy giáo lý đó là:Tông huấn Loan báo Tin Mừng của ĐTC Phaolô VI, Tông huấn Dạy Giáo Lý của ĐTC Gioan Phaolô II và cuốn Hướng dẫn đại cương về việc dạy Giáo lý năm 1997 của Bộ giáo sĩ.
I. TÔNG HUẤN LOAN BÁO TIN MỪNG
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAOLÔ VI
1. Ý nghĩa việc loan báo Tin Mừng theo Tông huấn:
Công đồng Vaticanô II định nghĩa: “Giáo Hội tự bản tính là truyền giáo”(TG 2). Giáo Hội có nhiều sứ mạng, nhưng sứ mạng quan trọng, thuộc yếu tính của Giáo Hội, đó là truyền giáo hay còn gọi là loan báo Tin Mừng. Sứ mạng này bắt nguồn từ lệnh truyền của Đức Kitô: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy cho anh em” (Mt 28, 19-20)
Việc loan báo Tin mừng này luôn được Giáo Hội coi là nhiệm vụ ưu tiên, là bổn phận thiêng liêng, là mối bận tâm hàng đầu. Trải qua bao thế hệ, do sự thách thức của xã hội và của các nền văn hóa khác nhau, Giáo Hội tự biết mình có sứ mệnh phải loan báo Tin Mừng bằng nhiều cách khác nhau. Do đó các kiểu mẫu huấn giáo ra đời và thay đổi theo giòng thời gian để Tin Mừng Đức Kitô đã gieo vào trần gian được nẩy sinh và phát triển cách thích hợp trong lòng con người.
Đặc biệt Đức Thánh Cha Phaolô VI, trong Tông huấn “Loan báo Tin Mừng”, đã thúc bách toàn thể Giáo Hội phải ý thức và dồn mọi nỗ lực của mình vào việc loan báo Tin mừng. Vậy, loan báo Tin Mừng là gì ?
Không chỉ giới hạn trong việc giảng dạy về tôn giáo. Loan báo Tin mừng là công việc khá phức tạp, không một định nghĩa nào có thể lột hết được thực tại phong phú, phức tạp và sinh động này. Nếu coi việc loan báo Tin Mừng chỉ là giảng dạy và rửa tội, ta đã làm cho việc đó trở nên nghèo nàn và không thấy được bao quát những yếu tố chính yếu của nó. Trong chương II của Tông huấn Loan báo Tin mừng, ĐTC Phaolô VI nêu lên 7 yếu tố của việc loan báo Tin mừng như sau:
a. Là làm đổi mới bộ mặt nhân loại, là thay đổi tự bên trong, nghĩa là:
·“Giáo Hội tìm cách hoán cải lương tâm cá nhân và tập thể của con người”.
·Hoán cải mọi sinh hoạt mà con người đang dấn thân
·Hoán cải đời sống và hoàn cảnh cụ thể của họ.
·Dùng sức mạnh Tin mừng làm đảo lộn những tiêu chuẩn phán đoán, những giá trị dẫn đạo, những bận tâm chính yếu, những trào lưu tư tưởng, những nguồn cảm hứng, những mẫu mực sống của nhân loại khi những điều ấy ngược với Lời Chúa và chương trình cứu độ.
·Phúc Am hóa các nền văn hóa: văn minh, kiến thức và tất cả những gì liên quan tới cuộc sống con người. “Phúc Am hóa các nền văn hóa phải được thực hiện sống động sâu xa tới tận gốc rễ, chứ không theo kiểu trang trí như lớp sơn bóng ngoài mặt”1
b. Làm chứng tá bằng sự hiện diện, bằng thái độ sống, bằng gương sáng...
“Tin Mừng trước tiên phải công bố bằng cách làm chứng. Cứ xem một kitô hữu hay một tập thể kitô hữu đang sống giữa cộng đồng con người, họ có tỏ ra khả năng thông cảm và đón nhận, thái độ chia sẻ vận mệnh với người khác, tình liên đới trong các nỗ lực chung nhằm tất cả những gì cao thượng và tốt lành.
Một cách thật đơn giản và hồn nhiên, lòng họ tin nơi những “giá trị” vượt xa những giá trị thông thường, và trông cậy vào những gì người ta không thấy... Một chứng tá như vậy đã là sự công bố Tin Mừng tuy thầm lặng nhưng rất mãnh liệt và hiệu qủa... Một đời sống làm chứng bao hàm sự hiện diện, chia sẻ, liên đới là thành tố chính yếu của việc loan báo Tin Mừng”.
c. Loan báo công khai Đức Giêsu Kitô:
Chứng tá cho dù đẹp đẽ nhất cũng trở nên vô hiệu theo thời gian, nếu nó không được soi sáng, biện minh và nếu nó không được diễn đạt bằng một sự loan báo rõ ràng, không mập mờ về Đức Kitô. Vậy Tin Mừng đã được công bố bằng đời sống làm chứng, sớm muộn gì cũng phải được công bố bằng Lời ban sự sống. Không có loan báo Tin Mừng thực sự nếu danh tánh, lời giảng dạy, đời sống, lời hứa, Triều đại, mầu nhiệm của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa không được loan báo.
Vậy làm thế nào để các mầu nhiệm Chúa Kitô được vang lên và tới tai mọi người ?
Mục vụ rao giảng Lời Chúa gồm có :
- Tiền Phúc Âm hóa (Pré-Évangélisation): giai đoạn khơi gợi niềm tin trong lòng con người.
- Loan báo Tin Mừng: Truyền giảng Tin mừng cho người chưa tin Đức Kitô (Kérygme, Évangélisation)
- Giúp người ta khám phá và đón nhận đức tin Kitô giáo (catéchumène), giúp các tín hữu đào sâu và sống trưởng thành trong đức tin (Catéchèse)
- Diễn giảng Lời Chúa (Homélie)
- Giảng dạy Thần học (Didascalie, Théologie): Dạy giáo lý ở mức đại học, vừa sử dụng Kinh Thánh, vừa dùng lý luận để trình bày Lời Chúa.
d. Gắn bó với chân lý, với cuộc sống, với nước trời
“Lời loan báo chỉ đạt hết kích thước của nó khi được gắn bó với những chân lý. Nhưng hơn nữa, gắn bó với một cuộc sống đã được biến đổi. Nghĩa là gắn bó với thế giới mới, với tình trạng mới, một sự hiện hữu mới, một cách sống mới và cách chung sống mới mà Tin mừng đã khai mở. Gắn bó như thế thì không còn gì là trừu tượng nhưng được tỏ ra một cách cụ thể.”
e. Gia nhập cộng đoàn tín hữu một cách cụ thể, thấy được. “Những ai đã được biến đổi đời sống thì cần phải gia nhập một cộng đồng tín hữu”.
g. Đón nhận những dấu chỉ của đời sống mới:
“Gia nhập vào một cộng đoàn, cộng đoàn này là một dấu chỉ biến đổi, một dấu chỉ của đời sống mới. Đó chính là Giáo Hội, bí tích hữu hình của ơn cứu độ…”
h. Trở thành những sứ giả Tin mừng:
Người đã được nghe rao giảng, tới lượt họ phải đi rao giảng lại. “Đó là sự trắc nghiệm của chân lý, là đá thử vàng của việc đón nhận Tin Mừng. Không thể tưởng tượng được một người đã tiếp nhận Lời và đã hiến thân cho Nước Trời mà lại không trở nên người làm chứng và loan báo Tin Mừng”.
2. Nhiệm vụ loan báo Tin Mừng.
Với các định nghĩa trên, ta thấy Tông Huấn đã nêu lên những điểm then chốt trong việc loan báo Tin Mừng, nhiệm vụ hàng đầu của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu. Các hình thức khác nhau của việc truyền giảng Tin Mừng luôn cần thiết mọi nơi và mọi lúc để khơi dậy, củng cố và nuôi dưỡng niềm tin. Do đó Thánh Phaolô đã khẳng định:
“Làm sao người ta có thể tin nếu không được nghe Tin mừng, làm sao có thể nghe Tin mừng nếu không có người đi rao giảng… Vậy tin là do nghe truyền giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Kitô”.
Trong số 66 của Tông huấn, Đức Thánh Cha khẳng định: “Toàn thể Giáo Hội được mời gọi làm công việc loan báo Tin Mừng và mỗi người phải chu toàn những nhiệm vụ loan báo Tin Mừng khác nhau tùy khả năng và theo hoàn cảnh. Tuy khác nhau nhưng cũng một sứ mệnh duy nhất là làm cho công cuộc loan báo Tin Mừng được giầu đẹp.”
Như vậy bất cứ một thành phần nào trong Giáo Hội: Giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân đều là những người phục vụ Tin Mừng. Đặc biệt đối với các tu sĩ, Đức Thánh Cha viết: “Các tu sĩ tìm được trong đời sống tận hiến một phương thế tốt đẹp đặc biệt để loan báo Tin Mừng có hiệu qủa. Đó là bằng chính con người của mình và bằng sự khao khát sống thánh thiện. Họ làm chứng cho sự thánh thiện ấy... Bằng nếp sống, họ là những dấu chỉ của việc sẵn sàng phục vụ Chúa, Giáo Hội và tha nhân... Có tu sĩ loan báo Tin mừng bằng thinh lặng, sám hối, hy sinh... Có người từ bỏ hết mà đi loan báo Tin Mừng đến mút cùng trái đất”18.
Còn đối với giáo dân, Đức Thánh Cha viết: “Phạm vi dành riêng cho hoạt động loan báo Tin Mừng của họ là thế giới rộng lớn và phức tạp của những sinh hoạt chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, khoa học, nghệ thuật... và một số những thực tại khác như tình yêu, gia đình, nghề nghiệp, đau khổ...”
Như vậy, mỗi kitô hữu, trong cách thế của mình có thể truyền giảng Tin mừng bằng nhiều đường lối tùy theo đối tượng chúng ta gặp gỡ, tiếp xúc.
3. Giáo lý viên và sứ mệnh loan báo Tin Mừng
Giáo lý viên là người loan báo Tin mừng qua ngả huấn giáo, nghĩa là tập trung vào việc dạy giáo lý. Vì dạy giáo lý là một phần trong việc loan báo Tin Mừng nên nội dung của giáo lý không có gì khác với việc loan báo Tin Mừng, có khác là do đối tượng và cách thức truyền đạt mà thôi.
Những tài liệu của công đồng Vatican II vào đầu thập niên 1960 đã đề ra mục tiêu cơ bản cho vai trò của giáo lý viên. Đó là: “Giáo lý viên được mời gọi để giúp cho những người khác sống trưởng thành đức tin”. Những người khác ở đây có thể là các em thiếu nhi, thanh niên, giới trưởng thành- từ cá nhân đến cộng đoàn.
Đức tin ở đây phải hiểu là tiếng đáp trả trọn vẹn của con người đối với Thiên Chúa và Lời của Ngài bằng cả trí khôn và tình cảm, cả linh hồn và thân xác. Vì đức tin bao gồm toàn thể nhân cách con người, được biểu lộ trong hành động và lối sống, nên chúng ta có thể xác định phận vụ của người giáo lý viên là: “được mời gọi để giúp người khác sống tốt đời sống kitô hữu”
Để thực hiện sứ mệnh này, Chương VII của Tông huấn mời gọi giáo lý viên phải sống xứng đáng với ơn gọi “Sứ giả Tin Mừng”, nghĩa là phải có những thái độ nội tâm cần thiết như sau :
a. Làm việc dưới sức tác động của Chúa Thánh Thần
“Sẽ không bao giờ có thể loan báo Tin Mừng nếu không có tác động của Chúa Thánh Thần... Có những kỹ thuật loan báo Tin Mừng là điều tốt, nhưng những kỹ thuật này dù hoàn hảo nhất cũng không làm sao thay thế được tác động của Thánh Thần. Không có Ngài thì sứ giả Tin Mừng có sửa soạn hết sức tinh tế cũng chẳng làm được gì.”20
b. Là những chứng nhân đích thực.
“Thế giới này khao khát sự đích thực. Nhất là giới trẻ, họ chán ghét những gì là giả tạo... Thiên hạ luôn vặn hỏi chúng ta: Các người có thực sự tin điều các người loan báo không ? Các người có truyền giảng thực sự điều các người sống không ? Hơn bao giờ hết, làm chứng bằng đời sống đã trở thành một điều kiện thiết yếu để việc giảng dạy có hiệu quả sâu xa.”
“Nhiệt tình loan báo Tin Mừng phải vọt lên từ một đời sống thực sự thánh thiện được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện và nhất là bằng lòng yêu mến Thánh Thể... Thế giới chờ đợi nơi chúng ta một đời sống giản dị, tinh thần cầu nguyện, đức vâng phục, lòng khiêm tốn, sự từ bỏ chính mình, tình yêu thương đối với mọi người, nhất là những ai bé mọn và nghèo khổ. Không có những dấu hiệu và sự thánh thiện như thế, lời chúng ta sẽ khó đi vào lòng dạ con người thời nay được. Nó có thể thành vô ích và vô hiệu.”
c. Là những người xây dựng hiệp nhất
“Là những sứ giả Tin Mừng, chúng ta phải cống hiến cho các tín hữu của Đức Kitô, không phải hình ảnh của những con người chia lìa nhau vì những tranh chấp không chút xây dựng, nhưng là hình ảnh những con người chín chắn trong đức tin, có khả năng gặp gỡ nhau bên trên những căng thẳng thực tế nhờ việc cùng nhau tìm kiếm chân lý một cách chân thành và vô vị lợi. Số phận công cuộc loan báo Tin Mừng chắc chăn được gắn liền với việc sống và làm chứng cho sự hiệp nhất.”22
d. Là những người phục vụ chân lý
“Tin Mừng mà chúng ta loan báo là lời chân lý, chân lý đem lại tự do (Ga 8,32)...Thiên Chúa của chân lý mong đợi chúng ta tỉnh thức bảo vệ và tận tụy rao truyền chân lý... Nhiệm vụ của chúng ta là giúp đỡ người khác khám phá chân lý, kể cả chân lý tôn giáo và thiêng liêng”23.
e. Có động lực là lòng yêu thương.
“Sứ giả Tin Mừng phải có lòng thương yêu anh chị em ngày càng lớn mãi... Còn hơn nhà giáo dục, đó là tình thương của một người cha, người mẹ... Dấu chỉ của tình thương yêu là biết cho người khác chân lý và đưa vào sự hiệp nhất. Một dấu chỉ nữa là biết hy sinh trọn vẹn và dứt khoát cho việc loan báo Tin Mừng.”24
g. Làm việc với sự nhiệt tình
“Việc loan báo Tin Mừng trong thời đại chúng ta gặp nhiều trở ngại, một trong những trở ngại lớn là sự thiếu nhiệt tình. Nó càng trầm trọng bởi lẽ nó phát xuất từ bên trong, nó biểu lộ trong sự mệt mỏi và chán nản, sự làm lấy lệ và hờ hững, nhất là sự thiếu niềm vui và hy vọng. Vì vậy chúng tôi khuyên những ai có nhiệm vụ loan báo Tin Mừng ở bất cứ cấp bậc nào, hãy nuôi dưỡng nhiệt tình cho tâm hồn mình.”25
Tóm lại, trách nhiệm cơ bản nhất của giáo lý viên là giúp người khác nhận biết, say mến Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người. Tuy nhiên, một trong những thách đố lớn nhất của người chứng nhân là làm sao tìm được thái độ sống đúng trong thế giới phức tạp, đầy kích động và đa diện. Nhưng đức tin và truyền thống Công giáo được hình thành qua 40 thế kỷ Do thái và Kitô giáo cho chúng ta kinh nghiệm là lối sống rập theo gương Đức Kitô là lối sống bảo đảm nhất tính hiệu nghiệm của công cuộc loan báo Tin Mừng.
II. Tông huấn Về Việc Dạy Giáo Lý của ĐTC Gioan Phaolô II
Tông huấn cề việc Dạy giáo lý được ĐTC Gioan Phaolô II ban hành ngày 16 tháng 10 năm 1979. Tông huấn này là kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ IV họp từ 30-9 đến 29-10-1977. Các Giám Mục đã tích cực thảo luận về đề tài: “Huấn giáo đặc biệt trong giới thiếu nhi và thanh niên” do ĐTC Phaolô VI nêu ra. Những đề nghị của các Giám Mục được khai thác rộng ra thành tài liệu chính thức về Huấn giáo, mang tên Catechesi Tradendae (Dạy giáo lý).
1. Một vài nhận định:
Trước khi tóm lược nội dung Tông Huấn, chúng ta nêu lên một vài nhận định của các quan sát viên về tình hình việc giáo lý qua những bàn bạc của các Giám Mục thế giới:
- Rất nhiều ý kiến nêu lên sự đối lập giữa hai phương pháp dạy giáo lý. Phương pháp hỏi thưa (cổ điển) do một người truyền đạt nhằm học hỏi những kiến thức tôn giáo và phương pháp quy nạp (tân tiến) chủ trương phân biệt và làm rõ những điểm chính, điểm phụ trong khi trình bày sứ điệp Kitô giáo. Cần nỗ lực để áp dụng một nền Huấn giáo nhắm đúng mục đích là nuôi dưỡng đời sống đức tin và giúp gặp gỡ được chính Đức Kitô trong đời sống hơn là nhồi nhét những lý thuyết, những biểu tượng lỗi thời.
- Cần làm nổi bật vai trò Đức Kitô, Ngài không phải là một tư tưởng, một ý thức hệ nhưng là một con người lịch sử. Môn huấn giáo sẽ mất ý nghĩa nếu không có Đức Kitô làm trung tâm.
- Nhiệm vụ của Giáo Hội là luôn trở về với Tin mừng Chúa Kitô để tìm ra cái “hồn sống” của con người trong mọi thời đại và qua mọi nền văn minh, chứ không nghiêng về cấp tiến hay bảo thủ, phe này hay phe kia.
- Giáo lý viên không phải là người nhắc bảo nhưng trước hết phải là một người làm chứng về Đức Kitô. Nếu Huấn Giáo có mục đích giúp người thụ huấn xác định một chọn lựa, thì đó chính là chọn lựa gắn bó với Chúa Kitô, Đấng cho họ sống và hướng dẫn cuộc sống của họ quy hướng về Ngài.
- Người trẻ ngày nay bị ảnh hưởng bởi văn hóa vô thần, khơi gợi đủ thứ nghi ngờ. Họ cần những chứng từ sống đức tin của người lớn, của giáo lý viên. Vì thế, nên dựa vào văn hóa của mỗi dân tộc để trình bày những chân lý đức tin cho sống động và dễ hiểu.
- Cần dựa vào bối cảnh và đời sống cụ thể của con người để trình bày đức tin.
2. Nội dung Tông huấn:
Nét chủ đạo của Tông Huấn Dạy giáo lý là mệnh lệnh của Đức Kitô truyền cho các tông đồ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ các điều Thầy đã truyền dạy anh em”26. Điều này các tông đồ đã thực hiện và Giáo Hội vẫn tiếp tục thi hành qua mọi thời đại.
Ta có thể nói Tông huấn này là gia sản chung của Giáo Hội, được làm nên bằng những hiểu biết, kinh nghiệm từ bao đời trong việc nuôi dưỡng đời sống đức tin của Dân Chúa.
Ngoài phần nhập đề và phần kết, Tông huấn chia làm 9 chương:
PHẦN NHẬP ĐỀ
Tông huấn nhấn mạnh đến sứ vụ quan trọng của Giáo Hội là truyền giảng Tin Mừng, mà khởi điểm là mệnh lệnh của Đức Kitô cho các tông đồ, đồng thời nói lên sự quan tâm của các Đức Thánh Cha qua những tài liệu hướng dẫn việc dạy giáo lý. Rồi Tông huấn nhắc đến những hoa trái mà Thượng Hội đồng đã gặt hái được dưới sức tác động của Chúa Thánh Thần, sau cùng là niềm mong ước của Đức Thánh Cha cho toàn thể kitô hữu được củng cố đức tin và có sáng kiến gieo rắc niềm vui ơn cứu độ cho thế giới.
CHƯƠNG I
CHÚNG TA CHỈ CÓ MỘT THẦY LÀ ĐỨC KITÔ
Thượng Hội đồng nhấn mạnh tính “quy Kitô” của khoa Huấn giáo. Đối tượng của Đức tin không phải là một bản văn, một giáo thuyết, nhưng là một ngôi vị: Đức Giêsu Kitô, Đấng là đường, là sự thật và là sự sống27, và mục đích của Huấn giáo là làm cho mọi người hiểu biết và thông hiệp mật thiết với Đức Kitô.
Giáo lý không phải là những ý niệm trừu tượng, nhưng là thông truyền các chân lý sống động của Thiên Chúa. Với tư cách là Thầy, Đức Kitô là Giáo lý Viên mẫu mực, Ngài để lại cho chúng ta tấm gương tuyệt hảo về cách thức loan báo Tin mừng qua lời nói, cử chỉ và thái độ đối với mọi người.
Do đó, giáo lý viên không thể truyền đạt những lời nói suông nhưng là người vừa rao giảng, vừa làm chứng bằng cả đời sống theo mẫu gương Đức Kitô.
CHƯƠNG II
MỘT KINH NGHIỆM CỔ XƯA NHƯ GIÁO HỘI
Tông huấn nhắc đến lịch sử việc dạy giáo lý của Giáo Hội từ Đức Kitô đến các tông đồ, và cho đến ngày nay. Điều này cho thấy tính liên tục cũng như nguồn gốc căn bản của việc dạy giáo lý đã được chính Đức Kitô khởi sự và thi hành cách tuyệt hảo qua lời nói, cử chỉ và lối sống của Ngài.
Tông huấn nhấn mạnh việc dạy giáo lý vừa là một quyền lợi vừa là một bổn phận ưu tiên của Giáo Hội cũng như của mỗi kitô hữu. Hơn nữa giáo lý cần phải được canh tân liên tục để một mặt luôn khám phá ra tính mới mẻ của giáo lý, mặt khác luôn trung thành với Tin Mừng.
CHƯƠNG III: VIỆC DẠY GIÁO LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ VÀ TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI
Việc dạy giáo lý nằm trong hoạt động mục vụ và truyền giáo của Giáo Hội. Đây là một cách loan báo Tin mừng mà mỗi thành viên trong Giáo Hội đều phải học hỏi và thi hành. Việc dạy giáo lý không những cần thiết để củng cố và trưởng thành trong đức tin mà còn để làm chứng nhân cho Tin Mừng Chúa Kitô qua việc tuyên xưng niềm tin, qua những kinh nghiệm sống và qua tình liên đới hiệp thông trong một thân thể duy nhất là Giáo Hội mà Đức Kitô là Đầu.
CHƯƠNG IV
TOÀN THỂ TIN MỪNG NGAY TẠI NGUỒN MẠCH
Nguồn suối của giáo lý là Thánh kinh và Thánh truyền. Lời Chúa chính là sứ điệp Tin Mừng cứu độ phải được thấm nhuần cách sâu xa trong mọi khía cạnh của giáo lý; và Kinh Tin Kính do các tông đồ truyền lại, cũng bắt nguồn từ Kinh Thánh phải nhằm tuyên xưng đức tin và củng cố niềm tin vào Mầu nhiệm Chúa Kitô. Mầu nhiệm này cao cả và phong phú mà Giáo Hội qua mọi thời đại luôn dựa vào Thánh Kinh mà khai triển cho thêm trong sáng và vững chắc.
Vì Mầu nhiệm Chúa Kitô là Mầu nhiệm rất đa dạng, nên khoa Huấn giáo luôn tìm kiếm những phương pháp thích hợp cho mỗi trình độ, mỗi lứa tuổi để trình bày cách sống động và tốt nhất con người Đức Kitô và Tin Mừng của Người.
CHƯƠNG V
MỌI NGƯỜI CẦN ĐƯỢC HẤP THỤ GIÁO LÝ
Tông huấn nhắc đến từng lứa tuổi, từ trẻ đến già: tất cả cần được hấp thụ giáo lý. Bởi vì giáo lý giúp hoàn thiện mọi sinh hoạt của con người và xã hội.
Trong đoạn cuối, Tông huấn nhắc: “Giáo Hội phải làm sao để không ai cảm thấy mình được miễn học giáo lý, và nhất là những người đang chuẩn bị đảm nhận việc dạy giáo lý…” Những người này cần phải học nhiều hơn cả để có đủ khả năng và bản lãnh chu toàn nhiệm vụ đón nhận từ Giáo Hội.
CHƯƠNG VI
ĐƯỜNG LỐI VÀ PHƯƠNG TIỆN DẠY GIÁO LÝ
Trong thời đại ngày càng phát triển, môn giáo lý cũng phải vận dụng hết mọi điều kiện hiện tại để có thể đáp ứng cách đầy đủ và nhanh chóng nhu cầu của con người. Các phương tiện truyền thông là những dụng cụ thích hợp và hữu ích cho việc giảng dạy giáo lý.
Tuy nhiên, khi sử dụng những phương tiện sẵn có, giáo lý phải luôn giữ được những yếu tố căn bản của đức tin. Vì thế sách giáo lý phải có những tiêu chuẩn sau:
- Sách giáo lý phải theo sát đời sống cụ thể của lớp tuổi mà sách nhắm tới, biết rõ các nhu cầu, các vấn đề của họ.
- Ngôn ngữ diễn tả phải phù hợp với lứa tuổi và trí hiểu của họ.
- Sách giáo lý trình bày đầy đủ và chính xác sứ điệp của Chúa Kitô và của Giáo Hội Người. Không được bỏ sót hay làm méo mó một khía cạnh nào.
- Sách giáo lý giúp người học một sự hiểu biết ngày càng sâu rộng về Đức Kitô và giúp họ cải hóa thực sự và có quyết tâm thay đổi đời sống cho phù hợp với Tin Mừng.
CHƯƠNG VII : DẠY GIÁO LÝ CÁCH NÀO
Qua mọi thời đại, nội dung giáo lý vẫn không thay đổi: đó là Mầu nhiệm Chúa Kitô. Tuy nhiên, cách thế trình bày Đức Kitô phải tùy theo văn hóa, hoàn cảnh sống, trình độ hiểu biết mà dùng những phương pháp khác nhau để việc dạy giáo lý mang lại ích lợi thực sự là làm cho con người khắc cốt ghi tâm Lời của Chúa và lớn lên trong tình hiệp thông với Ngài.
Do đó, việc dạy giáo lý là một cuộc canh tân tinh thần liên tục và lâu dài, giúp con người đạt đến hạnh phúc toàn diện bằng cách trung thành với Thiên Chúa và với con người trong tình yêu.
CHƯƠNG VIII : NIỀM VUI CỦA ĐỨC TIN TRONG MỘT THẾ GIỚI KHÓ KHĂN
Thế giới mỗi ngày mỗi có thêm những khó khăn, những lo âu, dẫn đến sự lãnh đạm và coi thường những giá trị tinh thần. Những xu hướng trần tục đang dần làm mất ý nghĩa của tôn giáo, của Phúc Âm. Chính trong thế giới ấy mà giáo lý phải cố đóng trọn vai trò của mình là huấn luyện con người trở thành muối và ánh sáng giữa trần gian. Khoa Giáo lý phải tìm kiếm những ngôn ngữ thích hợp với người nghe mà không bóp méo nội dung.
Nhờ sự quan sát, nhận định chính xác về tâm trạng cũng như những khó khăn của con người thời đại mà khoa giáo lý có thể trả lời và giúp con người tìm thấy chân lý thực sự.
CHƯƠNG IX
NHIỆM VỤ ẤY LIÊN HỆ ĐẾN TẤT CẢ CHÚNG TA
Đức Thánh Cha khuyến khích mọi người có trách nhiệm, từ Giám Mục đến giáo dân, nghĩa là mọi kitô hữu và mọi tổ chức, từ gia đình đến các phong trào lớn nhỏ trong Giáo Hội đều phải hợp tác trong việc dạy giáo lý.
Một điều khá mới mẻ của Tông huấn là chỗ đứng của giáo dân trong việc dạy giáo lý. Ngài kêu gọi họ đóng góp tích cực vào các sinh hoạt của Giáo Hội.
Đức Thánh Cha kêu gọi mọi người: tùy theo vai trò và trách nhiệm, mỗi người hãy đáp ứng nhu cầu giáo lý cho những người chung quanh theo mức độ mình có thể.
PHẦN KẾT
Tông huấn lược tóm vai trò của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội: Ngài là người Thầy nội tâm, luôn hướng dẫn, dạy dỗ và biến đổi các kitô hữu trở thành những chứng nhân đích thực của Đức Kitô qua mọi thời, bắt đầu từ con người nội tâm đến khung cảnh gia đình, làng mạc, dân tộc và cả thế giới.
Đức Maria vừa là người dạy dỗ vừa là môn đệ đầu tiên của Đức Kitô. Mẹ vừa là một giáo lý viên sống động vừa là Mẹ và gương mẫu của các giáo lý viên, Mẹ sẽ giúp ta hiến thân trên con đường mến Chúa yêu người.
Tông huấn kết thúc bằng lời cầu xin Chúa Thánh Thần, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, ban cho Giáo Hội lòng hăng say trong việc dạy giáo lý là sứ mệnh cốt yếu của Giáo Hội.
--- oOo ---
Bài 4: Hướng dẫn tổng quát về việc dạy Giáo lý (năm 1997)
1. Lý do xuất hiện cuốn Hướng dẫn tổng quát về việc dạy giáo lý
Kể từ thế kỷ XIX, phong trào Huấn giáo được phát triển liên tục và lan rộng khắp nơi. Các tư tưởng, đường lối canh tân được truyền bá qua các tạp chí quốc tế và quốc gia. Người ta đặc biệt lưu ý đến 3 khía cạnh canh tân lần lượt theo 3 giai đoạn sau :
· Giai đoạn canh tân phương pháp: Vào các thập niên 30-40, người ta nhấn mạnh đến việc đổi mới cách dạy giáo lý. Thời kỳ này, người ta đã khám phá ra nhiều quy luật tâm lý và phương pháp sư phạm. Giáo Hội cũng cập nhật những phương pháp này vào khoa Huấn giáo.
· Giai đoạn canh tân nội dung: Vào các thập niên 40-50, người ta nhấn mạnh sự quan trọng của nội dung giáo lý hơn là phương pháp. Nội dung giáo lý là một Tin Mừng mang lại hạnh phúc chứ không phải là những lý thuyết trừu tượng.
· Giai đoạn canh tân chủ đích: Theo đường hướng huấn giáo của Công đồng Vaticanô II, người ta xác định lại chủ đích của giáo lý là đón nhận, sống Lời Chúa và yêu mến Ngài.
Với 3 phong trào canh tân trên, khoa Huấn giáo đã đổi mới nhiều khuôn mặt của các giáo hội địa phương. Và để hưởng ứng lời kêu gọi của Giáo Hội hoàn vũ, tất cả những góp ý về việc canh tân giáo lý của các Giáo Hội địa phương được đưa về Rôma và được chuẩn nhận chính thức trong cuốn “Chỉ Nam tổng quát việc dạy giáo lý năm 1971”. Nhưng ngay sau đó ít năm, một số vấn đề mới xuất hiện ngoài xã hội và cả bên trong Giáo Hội dẫn đến việc bó buộc phải có những suy nghĩ mới. Đó là nội dung của Thượng hội đồng Giám mục năm 1977, được nối tiếp bằng Tông huấn của Đức Gioan Phaolô II, Catechesi tradendae (1979).
Sau đó, các Đại hội nghị bình thường và ngoại thường của Thượng Hội Đồng giám mục đã có những vang dội riêng về vấn đề giáo lý. Cho đến 1985, Hôi nghị Thượng đỉnh bất thường đã đánh dấu một cách dứt khoát cả hiện tại lẫn tương lai của giáo lý. Một bản tổng kết 20 năm áp dụng Công Đồng Vaticanô II đã được trình bày vào dịp này và các nghị phụ của Thượng Hội Đồng đã trình lên Đức Thánh Cha bản soạn thảo một cuốn giáo lý phổ quát cho Giáo Hội công giáo. Đức Gioan Phaolô II không những rất ưng thuận mà còn cổ võ khuyến khích,và cuốn “Giáo lý của Giáo Hội công giáo” đã được hoàn tất 1992.
Biến cố này đòi buộc phải có sự duyệt lại cuốn “Chỉ nam tổng quát về giáo lý” để thích nghi thứ dụng cụ thần học và mục vụ qúy báu này vào các nhu cầu mới. Vì thế công việc duyệt lại cuốn “Chỉ Nam tổng quát về Giáo lý» đã bắt đầu và chú ý đến hai đòi hỏi lớn sau đây:
- Một đàng đưa giáo lý vào việc phúc âm hóa theo đòi hỏi của các Tông huấn Loan báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi) và Dạy Giáo lý (Catechesi Tradendae).
- Đàng khác, để ý tới các nội dung của đức tin theo cuốn Giáo lý của Giáo hội Công giáođề nghị.
2. Sơ lược nội dung cuốn Hướng Dẫn Tổng Quát Về Việc Dạy Giáo Lý (1997)
Cuốn Hướng Dẫn Tổng Quát Về Việc Dạy Giáo Lý 1997 vẫn giữ lại những cơ cấu nền tảng của bản văn 1971, được chia thành dàn bài như sau :
PHẦN MỞ ĐẦU
LOAN BÁO TIN MỪNG TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY
Phần mở đầu đưa ra các chỉ dẫn giúp chú giải và hiểu biết các trạng huống con người và tình hình Giáo Hội theo ánh sáng đức tin và trông cậy ở sức linh hoạt của hạt giống Phúc âm. Đây là những chẩn đoán vắn tắt cho sứ vụ.
Phần này được mở đầu bằng dụ ngôn người gieo giống. Hạt giống là Lời Chúa, người gieo giống là Đức Kitô và những ai tiếp nối công việc của Người, ruộng lúa là thế gian với những khác biệt về lịch sử, tôn giáo, văn hóa và xã hội. Vai trò của Giáo Hội trong thế giới không những làm men trong thúng bột mà còn phải luôn đổi mới đời sống Giáo hội ngay từ bên trong. Để cho hạt giống Tin mừng trổ sinh tươi tốt, phải biết đọc những dấu chỉ thời đại cũng như biết nắm bắt những thách đố trong việc dạy giáo lý.
Phần mở đầu này nhằm khuyến khích các vị chủ chăn và những ai dạy giáo lý phải ý thức sự cần thiết của việc luôn sẵn sàng quan tâm đến mảnh đất được gieo trồng, để thực hiện việc gieo giống với cái nhìn của đức tin và của lòng nhân ái.
PHẦN I : GIÁO LÝ TRONG SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG CỦA GIÁO HỘI
Phần này gồm ba chương và thả neo sâu hơn cho nền Huấn giáo của Công đồng dựa vào Hiến chế Mạc Khải (Dei Verbum). Đặt giáo lý vào khung cảnh Phúc-âm-hóa mà Tông huấn Loan báo tin mừng (Evangeli Nuntiandi) và Dạy giáo lý (Catechesi Tradendae) đã trình bày. Phần này cũng nêu rõ bản chất của giáo lý.
Từ ngữ “dạy giáo lý” đã có chuyển biến về ý nghĩa trong hai mươi thế kỷ lịch sử Giáo Hội. Ở đây, quan niệm về việc dạy giáo lý được soi sáng từ những tài liệu huấn quyền của Giáo Hội thời hậu Công Đồng, nhất là từ các Tông huấn về Loan báo Tin Mừng, Dạy giáo lý, và Sứ vụ Đấng Cứu Thế.
Chương hai đặt việc dạy giáo lý trong khuôn khổ việc loan báo Tin Mừng và trong tương quan với các hình thức khác của tác vụ Lời Chúa. Nhờ mối tương quan này, người ta dễ dàng khám phá đặc tính cá biệt của việc dạy giáo lý.
Chương ba phân tích trực tiếp hơn việc dạy giáo lý phải: mang đặc tính Giáo Hội, mục đích bắt buộc là thông hiệp với Đức Giêsu Kitô và những bổn phận của việc dạy giáo lý là giúp hiểu biết về Đức Kitô và tin yêu Ngài; giúp cử hành và sống niềm tin; giúp chiêm ngắm con người Đức Kitô và bước theo Ngài
Chương I: Mạc khải và sự chuyển đạt mạc khải trong việc loan báo Tin Mừng.
Chương I dựa trên nền tảng thần học để nhắc lại cách vắn gọn khái niệm về mạc khải theo Hiến chế Tín lý về Mạc Khải (Dei Verbum). Công Đồng rất quan tâm đến mạc khải vì mạc khải là nền tảng của Thần học. Đức Kitô chính là trung gian và là sự viên mãn của toàn thể mạc khải. Ngài đến bổ túc và hoàn tất mạc khải bằng sự hiện diện và bằng việc tỏ mình ra qua lời nói, việc làm, dấu chỉ, phép lạ, nhất là qua cái chết và sự phục sinh, và sau cùng bằng việc sai Thánh Thần chân lý đến như một chứng tích của Thiên Chúa hằng ở với chúng ta.
Chương này cũng làm sáng tỏ cách thức đón nhận Lời Chúa. Những khái niệm về Lời Chúa, Tin Mừng, Nước Thiên Chúa và truyền thống được trình bày trong Hiến Chế Mạc khải làm nên ý nghĩa của giáo lý. Với ý nghĩa này, việc loan báo Tin mừng của Giáo Hội trở thành điểm nhắm bắt buộc của giáo lý. Giáo Hội hiện hữu để loan báo Tin Mừng, nghĩa là đem Tin Mừng vào mọi tầng lớp nhân loại và nhờ sự tiếp xúc này làm thay đổi từ bên trong và làm cho nhân loại được đổi mới.
Chương II: Giáo lý trong công cuộc loan báo Tin mừng.
Chương II xác định vị trí của giáo lý trong khuôn khổ loan báo Tin Mừng và đặt giáo lý trong tương quan với các hình thức khác của sứ vụ Lời Chúa. Nhờ tương quan này, người ta khám phá cách dễ dàng hơn đặc tính riêng của giáo lý:
· Tiền Phúc âm hóa (Pré-évangélisation): là truyền giáo cho những người chưa tin hay người dửng dưng với tôn giáo, nhằm thức tỉnh đức tin nơi họ. Giáo lý giúp cho đức tin mới chớm nở được chín chắn và sát nhập họ vào cộng đồng tín hữu qua việc trở lại với đức tin Kitô giáo. Vậy hai hình thức này khác nhau và bổ túc cho nhau.
· Khai tâm Kitô giáo (Initiation chrétienne): Đức tin là lời đáp trả của con người trước Thiên Chúa được bắt đầu bằng nhiệm tích Thánh tẩy. Giáo lý là yếu tố căn bản cho việc chuẩn bị lãnh nhận các bí tích khai tâm Kitô giáo, nhất là bí tích rửa tội (tuyên xưng đức tin). Mục đích của giáo lý là làm cho đức tin của mọi người trở nên sống động, minh bạch và hữu hiệu
· Giáo dục thường xuyên đời sống đức tin (Éducation permanente de la foi): việc giáo dục này được thực hiện dưới nhiều hình thức của giáo lý tùy theo nhu cầu, trình độ và môi trường...
Chương III: Bản chất, mục đích và sứ vụ của giáo lý
Chương này nhấn mạnh đến:
· Bản chất của giáo lý: Việc dạy giáo lý không tách khỏi các hoạt động mục vụ và truyền giáo của Giáo Hội, nên việc dạy giáo lý cũng nằm trong bản chất của Giáo Hội. Giáo Hội tiếp tục sứ vụ làm thầy giáo dục đức tin dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
· Mục đích của giáo lý là giúp tín hữu diễn tả niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi qua việc kết hiệp mật thiết với Đức Kitô và nên một với Ngài.
· Sứ vụ của giáo lý là đạt được mục đích trên qua việc học hỏi về Chúa, cử hành phụng vụ, sống đức tin cách cụ thể và chiêm ngắm mầu nhiệm Đức Kitô. Ngoài ra giáo lý còn có nhiệm vụ giúp tín hữu sống chiều kích Giáo Hội và tích cực tham gia việc truyền giáo.
PHẦN II : SỨ ĐIỆP TIN MỪNG
Phần này nói về nội dung của sứ điệp Tin Mừng, gồm hai chương :
Chương I: Các quy tắc và tiêu chuẩn để trình bày sứ điệp phúc âm trong giáo lý
Ấn định những quy tắc và tiêu chuẩn mà giáo lý phải theo để trình bày nội dung giáo lý :
· Nguồn mạch của giáo lý: Lời Chúa.
· Lời Chúa được chứa đựng trong Thánh Kinh và Thánh Truyền.
· Trung tâm điểm của giáo lý: Chúa Kitô và các mầu nhiệm của Người.
· Sứ điệp của Đức Kitô: Tin Mừng Nước Thiên Chúa đem lại ơn cứu độ.
· Lịch sử ơn cứu độ.
· Hội nhập sứ điệp cứu độ vào các nền văn hóa khác nhau.
Chương II: Niềm tin của chúng ta, niềm tin của Giáo Hội.
Chương II để trình bày giáo lý của Hội Thánh Công giáo như một bản văn để quy chiếu mỗi lúc muốn truyền đạt đức tin qua giáo lý cũng như muốn soạn thảo ra các sách giáo lý địa phương. Bản văn cũng nêu các nguyên tắc nền tảng để soạn giáo lý cho các Giáo Hội địa phương.
Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo và Hướng dẫn đại cương về việc dạy giáo lý là hai dụng cụ khác nhau và bổ túc cho nhau, rất cần thiết cho việc dạy giáo lý.
PHẦN III : SƯ PHẠM ĐỨC TIN
Phần này được trình bày dưới hình thức khá mới bằng cách nêu lên tính thiết yếu của đường lối sư phạm đức tin, dựa trên sư phạm của Thiên Chúa. Đây là vấn đề có liên hệ đến cả thần học lẫn các khoa học nhân văn.
Khi nói đến khoa sư phạm đức tin, không phải là vấn đề truyền thông một hiểu biết loài người dù hết sức cao sâu, nhưng là vấn đề truyền thông mạc khải của Thiên Chúa cách trọn vẹn.
Chương I: Sư phạm của Thiên Chúa, nguồn gốc và mẫu mực của sư phạm đức tin. Chương này trình bày sư phạm của Thiên Chúa, của Đức Kitô và của Giáo Hội, được coi như mẫu mực của tất cả các khoa sư phạm khác.
Chương II: Các phương pháp
Trong việc truyền đạt đức tin, Giáo Hội không có phương pháp riêng hay phương pháp duy nhất nào. Nhưng dưới ánh sáng của khoa sư phạm Thiên Chúa, Giáo Hội sử dụng các phương pháp hiện hành, dùng những gì tốt đẹp, đúng đắn, thích hợp có thể phục vụ cho việc rao giảng Tin Mừng; đồng thời nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo lý viên, không có phương pháp nào miễn cho người giáo lý viên bổn phận nghiên cứu cụ thể cách thức truyền đạt nội dung bài giáo lý.
Ngoài ra, cộng đoàn giáo xứ, các nhóm, các tổ chức, các hội đoàn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển đời sống đức tin cụ thể của một con người.
PHẦN IV : CÁC ĐỐI TƯỢNG GIÁO LÝ
Phần IV nhấn mạnh: giáo lý nhắm vào những ai. Phần này có 5 chương ngắn. Nghiên cứu các tình huống rất khác nhau, các con đường mà giáo lý nhắm tới, các khía cạnh liên quan đến tình huống xã hội, tôn giáo và bàn cách đặc biệt về vấn đề hội nhập văn hóa.
Chương I: Vài nét chung về việc thích nghi với các đối tượng giáo lý. Mọi tín hữu được kêu gọi lớn lên trong đức tin, nên họ có nhu cầu và có quyền học giáo lý. Tuy nhiên việc truyền đạt sứ điệp Tin Mừng phải phù hợp với cá nhân, với cộng đoàn nơi các cá nhân chung sống và hoàn cảnh sống của từng người.
Chương II: Giáo lý theo tuổi.
Nêu lên sự quan trọng của việc dạy giáo lý theo tuổi. Chương này cho một số đặc tính và chỉ dẫn quan trọng trong việc soạn thảo và dạy giáo lý cho người lớn, giới trẻ, trẻ em và người cao niên.
Chương III: Giáo lý trong những hoàn cảnh đặc biệt.
Giáo lý phải được truyền đạt một cách đặc biệt và phù hợp cho những người khuyết tật, bị bỏ rơi và những thành phần đặc biệt trong xã hội. Giáo lý phải thực sự đi vào môi trường sống của con người.
Chương IV: Giáo lý trong hoàn cảnh xã hội tôn giáo.
Hiện nay người tín hữu thường sống trong những môi trường đa tôn giáo và đảng phái, một môi trường gợi lên những vấn đề thật tế nhị và phức tạp với những niềm tin khác nhau. Hơn nữa, tại nhiều nơi, đức tin người công giáo luôn phải đương đầu với phong trào tục hóa, kể cả vô thần, đôi khi bị hăm dọa và uy hiếp... Trước những hoàn cảnh đó, giáo lý cần phải nghiên cứu kỹ môi trường để giúp người tín hữu đào sâu, củng cố, nuôi dưỡng và làm cho đức tin của họ trưởng thành hơn.
Chương này cũng nhấn mạnh thái độ tôn trọng của người tín hữu với các tôn giáo khác.
Chương V : Giáo lý trong hoàn cảnh văn hóa xã hội.
Việc dạy giáo lý phải phù hợp với hoàn cảnh văn hóa đương thời, nghĩa là phải đưa sức mạnh Tin Mừng vào trong lòng văn hóa và các nền văn hóa. Muốn thế, việc dạy giáo lý phải tìm hiểu các nền văn hóa và cách thức diễn tả có ý nghĩa nhất của chúng ; phải tôn trọng các giá trị và kho tàng phong phú riêng của mỗi nền văn hóa. Nhờ vậy giáo lý mới có thể truyền đạt sứ điệp Tin Mừng cách thích hợp với từng nền văn hóa khác nhau.
PHẦN V
GIÁO LÝ TRONG CÁC GIÁO HỘI ĐỊA PHƯƠNG
Phần V coi các Giáo Hội địa phương là trọng tâm hấp lực của giáo lý; Giáo Hội này có nhiệm vụ chính là cổ vũ, tiên đoán, canh chừng và phối hợp mọi sinh hoạt giáo lý. Phần này mô tả đặc biệt vai trò tương xứng của các cán bộ giáo lý khác nhau (họ luôn tìm được điểm quy chiếu nơi vị chủ chăn của Giáo Hội địa phương), cũng như các đòi hỏi phải huấn luyện trong từng trường hợp.
Chương I: Sứ vụ giáo lý trong các giáo hội địa phương và các giáo lý viên.
Chương này suy nghĩ về sứ vụ của giáo lý và vai trò của những người tham dự vào sứ vụ này. Các Giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân phải tích cực dấn thân vào sứ vụ này tùy theo mức độ trách nhiệm và đặc sủng riêng của mình.
Chương II : Huấn luyện giáo lý viên
Việc huấn luyện giáo lý viên đóng vai trò quyết định trong việc dạy giáo lý. Muốn dạy giáo lý có hiệu qủa, giáo lý viên cần được đào tạo kỹ lưỡng về tâm linh, nhân bản, thần học và kỹ năng. Nếu không, giáo lý viên không thể chu toàn trách nhiệm cao cả được ủy thác.
Chương III: Nơi chốn và các nẻo đường của giáo lý
Gia đình, giáo xứ, học đường, các hội đoàn, các phong trào... là nơi chốn, là không gian thích hợp cho việc dạy giáo lý. Vì vậy các tín hữu được mời gọi gia nhập cụ thể vào một cộng đoàn.
Chương IV: Tổ chức mục vụ giáo lý trong các Giáo Hội địa phương.
Chương 4 bàn đến những tổ chức đặc biệt hơn liên quan đến việc huấn giáo như các Ủy Ban mục vụ huấn giáo cấp thế giới, quốc gia, giáo phận, giáo xứ... Các Ủy Ban này hướng dẫn mọi sinh hoạt huấn giáo trong phạm vi của mình và đề nghị những cách thức áp dụng cụ thể để việc dạy dỗ đem lại hiệu quả thích đáng.
PHẦN KẾT
Kêu gọi phải tăng cường sinh hoạt giáo lý, ca ngợi suy tư và mở các hướng đi bằng cách mời gọi mọi người đặt tin tưởng nơi hoạt động của Chúa Thánh Thần và nơi hiệu quả của Lời Chúa được gieo vãi trong tình yêu
Tóm lại: Mục tiêu của cuốn Hướng dẫn này nêu ra “các nguyên tắc nền tảng có tính thần học và mục vụ, được rút ra từ Huấn Quyền của Giáo hội, nhất là của Công Đồng Vaticanô II, làm sao để hoạt động mục vụ trong sứ vụ Lời –mà cụ thể là giáo lý– có thể được hướng dẫn và sắp xếp thứ tự cho thích nghi hơn”.
Ý hướng trước đây cũng như bây giờ thiết yếu ở chỗ đưa ra những suy tư và những nguyên tắc hơn là gợi lên các áp dụng trực tiếp hoặc cho những hướng dẫn thực tế.
Ngay từ đầu, phải hiểu đúng đắn bản chất và các mục tiêu của giáo lý cũng như hiểu các chân lý và các giá trị phải truyền đạt để tránh được các thiếu sót, các sai lầm trong vấn đề giáo lý.
Thẩm quyền riêng của hàng Giám mục là cho áp dụng cụ thể các nguyên tắc và các điều tuyên bố ấy bằng các định hướng, các chỉ dẫn mang tính quốc gia, từng miền, từng địa phận, bằng các sách giáo lý và bằng mọi phương tiện khác mà các ngài phán đoán là thích hợp để thăng tiến giáo lý cho kết quả.
Dĩ nhiên, tất cả các phần của Hướng Dẫn không có tầm quan trọng giống nhau. Những phần đề cập tới mạc khải, tới bản chất của giáo lý, tới các tiêu chuẩn chỉ đạo việc loan báo sứ điệp Kitô giáo đều có giá trị cho mọi người. Ngược lại, các phần có liên hệ tới tình huống hiện tại, đến phương pháp luận và cách thức thích ứng giáo lý vào các lứa tuổi và các bối cảnh văn hóa khác nhau, nên được coi như là những chỉ dẫn và định hướng.
Cuốn Hướng Dẫn chủ yếu nhắm vào các Giám mục, các Hội Đồng Giám mục và những ai thừa lệnh Giám mục và có trách nhiệm trong lãnh vực giáo lý. Dĩ nhiên cuốn Hướng Dẫn là dụng cụ hữu ích cho việc đào tạo các ứng sinh vào chức linh mục, cho việc thường huấn của các linh mục và để đào tạo các giáo lý viên.
Một mục tiêu tức khắc của cuốn Hướng Dẫn là giúp cho việc soạn thảo các hướng dẫn dạy giáo lý và các sách giáo lý. Hợp với các gợi ý trước đây của số đông Giám mục, cuốn Hướng Dẫn này đã thêm vào nhiều ghi chú và nhiều qui chiếu nên chúng có thể rất ích lợi cho việc khai triển các phương tiện này.
Khi được gởi tới các Giáo Hội địa phương, mà những tình huống và những nhu cầu mục vụ rất khác nhau, vì thế cuốn Hướng Dẫn chỉ có thể xét được các tình huống chung chung. Cũng phải hiểu như thế khi đề cập đến việc mô tả cách tổ chức giáo lý ở các cấp độ khác nhau. Khi sử dụng cuốn Hướng Dẫn nên để ý tới nhận xét này: Cũng như bản văn 1971 đã nhận xét, đối với những miền mà trình độ giáo lý đã cao, cả về thể chất lẫn phương tiện, cuốn Hướng Dẫn có thể không đầy đủ, nhưng ở nơi mà giáo lý chưa phát triển, nó lại có vẻ quá thừa.
Giáo Hội đã phổ biến tài liệu này như một chứng từ mới nói lên mối bận tâm ưu ái của Tòa Thánh đối với sứ vụ giáo lý: “Chúng tôi mong muốn nó được đón nhận, được kiểm tra và nghiên cứu kỹ lưỡng mà vẫn để ý tới các nhu cầu mục vụ của từng Giáo Hội địa phương. Chúng tôi cũng mong rằng tài liệu này sẽ đưa tới một sự nghiên cứu và tìm tòi sâu xa hơn để đáp lại các nhu cầu của giáo lý cũng như các quy tắc và các định hướng của huấn quyền Giáo Hội.
Xin Đức Trinh nữ Maria, ngôi sao chiếu sáng trên sự đổi mới trong việc rao giảng Tin Mừng, dẫn đưa chúng ta tới sự hiểu biết Chúa Giêsu Kitô là Thầy và Chúa chúng ta».
KẾT: Những chỉ dẫn của Giáo Hội trong 3 tài liệu nói trên cho ta một cái nhìn rõ ràng và chính xác hơn về đường hướng dạy giáo lý. Dạy giáo lý không phải là giúp chạy theo những nhu cầu hợp sở thích hay đáp ứng những đòi hỏi thời đại, nhưng là tìm cách khám phá kho tàng phong phú của Lời Chúa để giúp các kitô hữu sống đạo cách tốt đẹp giữa xã hội văn minh vật chất và luôn thay đổi.
IV. MỤC ĐÍCH VÀ NỘI DUNG GIÁO LÝ
Khi dạy giáo lý ta không nên đơn giản nghĩ rằng cứ dạy những gì được trình bày trong các sách giáo lý, còn việc phải theo sát mục đích và nội dung giáo lý là bổn phận của những người soạn sách giáo lý. Quan niệm như thế cũng một phần đúng, vì người soạn sách giáo lý chắc chắn phải thấu hiểu những quy tắc và những yêu cầu của Giáo Hội. Nhưng thực ra, nếu dựa vào những chỉ dẫn của Giáo Hội trong phần II cuốn Hướng dẫn Tổng Quát về việc dạy giáo lý thì nội dung giáo lý phong phú hơn nhiều so với các bản văn giáo lý hiện hành.
Sách giáo lý mặc dù cần thiết nhưng các giáo lý viên cũng phải hiểu rõ mục đích và nội dung của giáo lý, để trong khi trình bày, chúng ta biết phân biệt đâu là điểm chính cần nhấn mạnh, đâu là điểm phụ chỉ cần lướt qua.
1. Mục đích của Giáo lý:
Mục đích của giáo lý là giáo dục đức tin. Tông huấn Dạy giáo lý của Đức Gioan Phaolô II đã khẳng định như sau: “Mục đích đặc biệt của việc dạy giáo lý, trong toàn thể công cuộc loan báo Tin Mừng là, với sự trợ giúp của ơn Chúa, làm phát triển đức tin còn thơ ấu, thăng tiến tới mức độ trưởng thành viên mãn và nuôi dưỡng hằng ngày đời sống Kitô của các tín hữu. Nghĩa là giúp người tín hữu tin và tiếp nhận con người Đức Kitô làm Chúa duy nhất và sau khi đã gắn bó hoàn toàn với Người bằng sự chân thành hoán cải tâm hồn, người tín hữu cố gắng tìm hiểu Chúa Kitô cùng với các mầu nhiệm của Người, Vương quốc của Người, các đòi hỏi chứa đựng trong Tin Mừng và các nẻo đường mà Người đã vạch ra cho ai muốn theo Người” (DGL 20).
Qua định nghĩa trên, ta có thể tóm tắt mục đích của giáo lý như sau :
- Truyền thông kiến thức về Thiên Chúa, làm phát triển sự hiểu biết các mầu nhiệm Đức Kitô và Giáo Hội của Người.
- Đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa bằng cách đổi mới bản thân, trở thành một thụ tạo mới.
- Bước vào đời sống mới trong Đức Kitô, tức là đi theo vết chân Người và nên một với Người.
Muốn đạt được mục đích trên, đức tin của người kitô hữu phải mang những chiều kích sau đây :
· Đức tin có nội dung vững chắc dựa trên mạc khải của Thiên Chúa, đặc biệt là con người và giáo huấn của chính Đức Kitô.
· Một đức tin mang tính cộng đồng: là đón nhận đức tin từ Giáo Hội, sống đức tin trong lòng Giáo Hội và cùng liên đới, cùng có trách nhiệm về đức tin của anh em.
· Một đức tin dấn thân là biết chấp nhận từ bỏ những gì không hợp với Tin Mừng và luôn sống phó thác để chân lý biến đổi bản thân mình mỗi ngày nên tốt hơn.
· Một đức tin phục vụ là làm chứng cho niềm tin bằng cuộc sống yêu thương phục vụ trong mọi hoàn cảnh sống.
Vì vậy, nếu giáo lý luôn hướng theo mục đích nói trên thì chắc chắn đời sống đạo của các kitô hữu được hoàn thiện rất nhanh.
2. Nội dung của Giáo lý :
Trong Tông huấn Dạy giáo lý: “Nội dung giáo lý là nội dung của tất cả việc loan báo Tin Mừng. Cũng một sứ điệp Tin Mừng cứu độ, được nghe cả trăm lần và được tiếp nhận với cả tâm hồn, thì trong việc dạy giáo lý, luôn luôn được đào sâu nhờ sự suy tư có hệ thống, nhờ sự ý thức luôn được khích lệ hơn, về các ảnh hưởng của sứ điệp ấy vào đời sống cá nhân mỗi người; nhờ việc sứ điệp thấm nhuần vào cái khối linh hoạt và hài hòa là đời sống kitô hữu trong xã hội và trong thế giới” (DGL 26).
Và trong số 27, Tông huấn viết tiếp: “Việc dạy giáo lý bao giờ cũng lấy nội dung ở nguồn mạch sống động là Lời Chúa, thông truyền trong Kinh Thánh và Thánh Truyền vì cả hai hợp thành một kho tàng thánh thiện duy nhất chứa đựng Lời Chúa” (DGL 27).
Như vậy học giáo lý chính là học Lời Chúa. Ngoài Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa được chép lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, còn có Thánh truyền là Lời Chúa được ủy thác cho các Tông đồ và những người kế vị các ngài. Nói cách khác nội dung giáo lý là toàn bộ Mầu nhiệm Kitô giáo mà trung tâm điểm là Mầu nhiệm Cứu Độ. Chính Đức Kitô là trung tâm của lịch sử cứu độ này. Nội dung giáo lý được triển khai trong sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo. Chúng ta nhắc lại dàn bài của cuốn giáo lý:
I. TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN: gồm hai chương
- Đức tin là gì ?
- Tin những điều gì ?
Phần này là lời tuyên xưng đức tin của người kitô hữu. Trước những mạc khải của Thiên Chúa, con người đáp lại bằng chính niềm tin của mình vào một Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi.
II. CỬ HÀNH ĐỨC TIN: gồm hai chương:
- Kế hoạch bí tích
- Bảy bí tích của Giáo Hội.
Trình bày ơn cứu độ đã được Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Kitô, nay vẫn tiếp tục thực hiện trong việc cử hành phụng vụ của Giáo Hội, đặc biệt trong bảy bí tích.
III. ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN: gồm hai chương:
- Ơn gọi của con người: đời sống trong Thần Khí
- Mười điều răn
Mục đích việc Thiên Chúa tạo dựng con người là để họ được hạnh phúc. Phần này trình bày những nẻo đường đưa đến hạnh phúc như sống ngay thẳng, tự do theo lề luật và ân sủng của Chúa cũng như thực thi mệnh lệnh mến Chúa và yêu người triển khai qua Mười điều răn.
IV. CẦU NGUYỆN TRONG ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN: gồm hai chương:
- Cầu nguyện là gì ?
- Cầu nguyện như thế nào ?
Nói về ý nghĩa và tầm quan trọng của cầu nguyện trong đời sống Kitô hữu. Nền tảng của mọi kinh nguyện chính là Kinh Lạy Cha.
Sách Giáo lý Công giáo trình bày cách hệ thống về toàn bộ đức tin cũng như mọi sinh hoạt tôn giáo của người kitô hữu. Tuy nhiên khi dạy giáo lý không phải ta cứ lần lượt kê khai mọi chân lý là đủ và cũng không phải hết mọi chân lý đều có tầm quan trọng ngang nhau, nhưng phải trình bày các Mầu nhiệm Kitô giáo một cách mạch lạc và liên kết với nhau thành một toàn thể ăn khớp và liên tục. Do đó, ta có thể trình bày theo cấu trúc sau đây:
· Chúa Ba Ngôi: Mầu nhiệm Ba Ngôi phát sinh mọi mầu nhiệm khác. Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần cùng chia sẻ một nguồn sống và một tình yêu (hiệp thông nội tại). Và qua Đức Kitô, mỗi người chúng ta được mời gọi gia nhập cộng đoàn Ba Ngôi để trở thành con cái Thiên Chúa (hiệp thông ngoại tại). Ý định cứu rỗi của Thiên Chúa phát sinh từ hiệp thông này.
· Đức Kitô là trung tâm: Trọng tâm của giáo lý là một Ngôi Vị: Đức Giêsu Kitô. Dạy giáo lý là giúp người khác đi vào sự thông hiệp thân mật với Đức Kitô, là tìm hiểu con người của Ngài, giáo huấn của Ngài và công việc cứu thế của Ngài. Khi nói đến Đức Kitô là trung tâm của lịch sử cứu độ, Pascal đã phát biểu như sau: “Cựu ước ngước nhìn Đức Kitô như sự hoàn tất của mình. Tân ước ngoảnh nhìn Đức Kitô như khởi điểm của mình. Cả hai Giao ước nhìn Đức Kitô như trung tâm điểm của mình”.
· Lịch sử cứu độ: Ý định cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện từng bước trong thời gian, được diễn tiến qua nhiều giai đoạn liên tục:
- Chuẩn bị ơn cứu độ: Cựu ước
- Thực hiện ơn cứu độ: Tân ước
- Phân phối ơn cứu độ: thời Giáo Hội
- Công cuộc cứu độ sẽ được hoàn tất trong Nước Trời: sau ngày tái lâm của Đức Kitô.
· Các mầu nhiệm: mà trung tâm điểm là mầu nhiệm Phục sinh.
· Các nhiệm tích: Nhiệm tích thông ban đời sống mới trong Đức Kitô. Mỗi nhiệm tích là một nguồn suối chuyển thông sự sống của Đức Kitô cho con người và làm cho con người được gặp gỡ Đức Kitô cách thân tình.
· Sống theo gương Đức Kitô: Giáo lý giúp con người theo gương Đức Kitô bằng việc thực thi giới luật được đúc kết trong tám mối phúc và bằng các nhân đức, nhất là các nhân đức đối thần.
--- oOo ---
Bài 5: Huynh Trưởng Thiếu nhi Thánh Thể với nhiệm vụ dạy Giáo lý
NHẬN ĐỊNH
A- VỀ PHONG TRÀO
1. Mục đích của Phong Trào nhằm giới thiệu Chúa Giêsu cho các em
Phong Trào TNTT là một đoàn thể công giáo tiến hành, dành riêng cho giới thiếu nhi. Trọng tâm của việc giáo dục các em được quy về hai lãnh vực: tự nhiên và siêu nhiên. Trong đó, các em được giáo dục toàn diện về đức dục, trí dục, thể dục, để trở thành một công dân tốt ngoài xã hội và một Kitô chân chính, huấn luyện các em nên thánh noi gương Anh Cả Giêsu. Bởi thế, phương pháp giáo dục phải thấm nhuần tinh thần tôn giáo và Thánh Kinh hoá mọi sinh hoạt học tập của các em.
Để thực hiện, Phong Trào có Chương Trình Thăng Tiến, trong đó bao gồm: Giáo lý, Thánh Kinh, Nhân Bản, Đời sống tôn giáo, Phong Trào, trò chơi, bài hát, băng reo, Kỹ năng chuyên môn… với ‘phương châm học mà vui, vui mà học’. Vì thế Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể không chỉ nhằm huấn luyện thiếu nhi thành những linh hoạt viên (sinh hoạt, nhảy nhót), mà trọng tâm của phong trào dẫn các em đến với Chúa Giêsu Thánh Thể qua việc giảng dạy giáo lý Thánh Kinh và áp dụng phương pháp tự nhiên và siêu nhiên để ngày sống của các em gắn bó với Chúa.
2- Nền tảng của Phong Trào là Thánh Kinh và Giáo Huấn của Giáo Hội.
Phong Trào lấy Lời Chúa làm NỀN TẢNG, là chất liệu đặc biệt để giáo dục, thánh hóa và hướng dẫn giới trẻ, làm chứng nhân Tin Mừng trong môi trường sống của mình. Mọi sinh hoạt phải lấy Thánh Kinh làm gốc, lấy Giáo huấn của Giáo hội Công giáo làm nền mới đi đúng hướng của Phong Trào.
3- Lý tưởng của Phong Trào là Chúa Giêsu
Phong Trào TNTT lấy Chúa Giêsu làm LÝ TƯỞNG, luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể trong việc cầu nguyện, học hỏi Lời Chúa, tham dự Thánh lễ, rước lễ… để củng cố đức tin, hoàn thiện đức mến và sẵn sàng hy sinh làm việc tông đồ cho các bạn trẻ. Nói cách khác, Phong Trào nhận Chúa Giêsu Thánh Thể là trung tâm, là nguồn sống thiêng liêng và là lý tưởng sống của đời mình.
B- VỀ GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI
1- Nhiệm vụ của Đoàn Thể trẻ là học Giáo lý
Đức Gioan-Phaolô II, trong Tông Huấn CATECHESI TRADENDAE Số 47 đã đề cập đến các đoàn thể trẻ phải có trách nhiệm dạy giáo lý cho đoàn viên của mình như sau: “Cha cũng xin nhắc đến các đoàn thể trẻ dưới nhiều danh hiệu và hình thức khác nhau, nhưng luôn có một mục đích là làm cho người ta biết về Chúa Giêsu Kitô bằng cách sống theo Tin Mừng.... Các nhóm này là một nguồn mạch của niềm hy vọng lớn lao cho Hội Thánh tương lai. Nhân danh Đức Kitô, cha thúc đẩy các người trẻ thuộc các nhóm này, các huynh trưởng của họ, và các linh mục phải dành phần lớn việc mục vụ cho họ: không cần biết phải trả giá nào, đừng để những nhóm này, là cơ hội đặc biệt để gặp gỡ những người khác, được chúc phúc bằng tình bằng hữu và đoàn kết phong phú giữa những người trẻ, bằng niềm vui và sự hăng say, bằng suy niệm về những biến cố và dữ kiện, đừng để các nhóm này thiếu sự học hỏi nghiêm chỉnh về những giáo thuyết Kitô giáo. Nếu không, các nhóm này sẽ bị lâm nguy”
2- Nhiệm vụ dạy Giáo lý của Huynh Trưởng
Ngài còn nói tiếp ở số 70 như sau: “Phải khuyến khích các đoàn thể, phong trào, và các nhóm giáo dân, dù mục đích là thực hành các việc đạo đức, làm việc tông đồ trực tiếp, làm việc từ thiện hay cứu trợ, hãy chứng tỏ sự hiện diện của Đức Kitô trong những vấn đề trần thế. Tất cả các đoàn thể này sẽ đạt được mục đích của mình, và phục vụ Hội Thánh cách tốt hơn, nếu họ biết thật sự dành cho việc huấn luyện tôn giáo cho các thành viên một chỗ đứng quan trọng trong việc tổ chức nội bộ và các phương pháp hành động của họ.
Trọng tâm của Phong Trào TNTT là việc dạy Giáo lý. Phong Trào hấp dẫn các em đến với giáo lý bằng khung cảnh Thánh Kinh, bằng ngày Thánh Thể, bằng sinh hoạt hội đoàn, đây là sân chơi bổ ích, là môi sinh tốt cho các em.
I. KHÁI NIỆM VỀ VIỆC DẠY GIÁO LÝ
1- Bản Chất và Ý Nghĩa của việc dạy Giáo lý
Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý, nên Ngài đã sai Ngôi Hai xuống trần làm Người, và được Thánh Thần tấn phong làm Tiên Tri, Tư Tế, Vương Đế. Đấng Cứu Thế rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho mọi hạng người, làm các phép lạ để khơi gợi và củng cố lòng tin, hiến thân làm lễ đền tội cho nhân loại, thiết lập Hội Thánh để công trình cứu độ của Ngài được tiếp tục. Vì thế, Hội Thánh nhận sứ mệnh :
+ Rao giảng đức tin (Lời Chúa)
+ Cử hành đức tin (ban phát các Bí tích)
+ Chứng tá đức tin (làm chứng về Chúa Kitô)
Huấn giáo hay dạy giáo lý nằm trong sứ mệnh rao giảng đức tin.
2- Huấn Giáo gồm hai việc :
+ Truyền thông đức tin
+ Giáo hoá đời sống giúp con người trở nên Kitô hữu, làm con Thiên Chúa và là một Kitô khác (Alter Christus).
3- Nguồn và Chất Liệu của Giáo Lý
· Kinh Thánh: Cựu Ước và Tân Ước.
· Phụng Vụ: là việc cử hành mầu nhiệm Đức Kitô, nuôi dưỡng và phát triển đức tin.
· Đời sống Hội Thánh: các biến cố, giáo huấn của Hội Thánh, Gương các Thánh….
· Qui luật Đức Tin: Các điều phải tin, phải giữ.
III- HUYNH TRƯỞNG TNTT LÀ AI ?
1- Huynh Trưởng là môn đệ của Chúa Kitô, là người em của Anh Cả Giêsu
Huynh Trưởng là người môn đệ nhiệt thành của Chúa Kitô, đang tiếp tục sứ mạng hướng dẫn tuổi trẻ tiến đến sự hoàn thiện theo tinh thần Tin Mừng. Huynh Trưởng còn là người em của Anh Cả Giêsu, dẫn dắt và cùng các em thiếu nhi đến với Chúa Giêsu Thánh Thể.
2- Huynh Trưởng là người lãnh đạo
Huynh Trưởng tham dự vào công tác lãnh đạo, quản trị và giáo dục tuổi trẻ. Khác với thưở ban đầu, khi mới thành hình dưới danh xưng “Hội Nghĩa Binh”, thì các ông quản, bà quản coi sóc, dạy dỗ. Nhưng sau Công đồng Vaticanô II, khi được đổi tên là Thiếu Nhi Thánh Thể thì trách vụ ấy được giao về cho các Huynh Trưởng: là người hiểu biết về Phong Trào, là người nắm bắt tâm lý các em, gần gũi các em. Điều này đòi hỏi người Huynh Trưởng phải nỗ lực đào sâu về Thánh Kinh, Giáo lý, Giáo Huấn của Giáo Hội, các kiến thức về sinh hoạt, quản trị và điều hành… Phong Trào đặt niềm tin vào các Trưởng và muốn các anh chị dìu dắt đàn em của mình bước theo Anh Cả Giêsu trên con đường thăng tiến và hoàn thiện.
3- Việc Huấn Luyện và Đào tạo Huynh Trưởng:
Để chuẩn bị cho việc rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu đã kêu gọi, tuyển chọn và huấn luyện các tông đồ để các ông thấm nhuần tinh thần và đường lối của Ngài. Đức Giêsu còn xin Chúa Cha ban Thánh Thần cho các ông, để Ngài giúp các ông hiểu rõ những việc Ngài làm, những lời Ngài dạy, để các ông can đảm ra đi tiếp nối sứ mệnh lôi kéo nhiều người sống theo tinh thần Tin Mừng.
Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể cũng theo đường lối huấn luyện của Thầy, mời gọi các bạn trẻ nam nữ nhiệt thành trong cộng đoàn Dân Chúa có lòng yêu trẻ, trở thành các giáo lý viên, đồng thời giới thiệu và huấn luyện họ về tinh thần và đường lối của Phong Trào, để họ trở nên những Huynh Trưởng vừa có khả năng hướng dẫn giáo lý, vừa có kỹ năng giúp các em áp dụng giáo lý vào cuộc sống. Người Huynh Trưởng phải trưởng thành trong đức tin, quảng đại trong việc phục vụ Tin Mừng, luôn hiệp nhất với Giáo Hội trong khi lãnh đạo và giáo dục các em.
IV- DẠY GIÁO LÝ LÀ GÌ ?
1- Trọng tâm của việc dạy Giáo lý
Dạy giáo lý là giúp cho người học hiểu biết và trưởng thành hơn trong đức tin vào Chúa Giêsu Kitô; gắn bó và yêu mến Người sâu xa hơn; đồng thời vững lòng dấn thân để theo Người. Mục đích của việc dạy giáo lý là giúp kết hiệp với Đức Kitô. Giáo lý giúp học sinh đi vào mầu nhiệm Đức Kitô, gặp gỡ Người nhờ đó tìm ra ý nghĩa cuộc sống của mình. Đối tượng đức tin ấy chỉ có thể giảng dạy một phần nhỏ nào thôi, nhưng còn cần sống, cảm nhận và thể hiện nó bằng nhiều cách.
Nói cách khác, trọng tâm của việc huấn giáo hay dạy giáo lý là Chúa Kitô, những gì còn lại cũng đều qui chiếu về Người. Mục tiêu của việc huấn giáo là làm cho người khác biết Đức Kitô, tin Người, yêu Người và nên một với Người, để nên một với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Phong Trào TNTT hỗ trợ những phương tiện làm sinh động hóa và cụ thể hóa bài giáo lý. Đức Kitô là trung tâm điểm của đời sống cá nhân từng thành viên của Phong Trào.
2- Giáo lý là nội dung quan trọng của Chương Trình Thăng Tiến
Chương Trình Thăng Tiến là chương trình huấn luyện cho các Ngành, các Cấp trong Phong Trào cách tiệm tiến và theo tâm lý từng lứa tuổi nhằm từng bước khai tâm cho các em thiếu nhi đi vào đời sống Kitô hữu. Nội dung quan trọng không thể thiếu là: Giáo lý, Thánh Kinh và Đời sống tôn giáo. Vì mục đích của Phong Trào TNTT là đoàn ngũ hoá và giáo dục các em nên người và nên thánh, dựa trên nền tảng là Thánh Kinh và Giáo Huấn của Giáo Hội. Do đó, để lãnh đạo và hướng dẫn các em, người Huynh Trưởng phải tự rèn luyện và không ngừng học hỏi chuyên sâu về Thánh Kinh, Giáo lý, Phụng Vụ; đồng thời cũng phải nắm bắt và tìm hiểu thêm về các Thông Điệp, Tông Thư, Tông Huấn, Sắc Lệnh… của Giáo Hội.
3- Huynh Trưởng TNTT phải có kinh nghiệm gặp gỡ Chúa trong đời sống thường ngày.
Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc đã nói với các anh chị Giáo lý viên Giáo phận Mỹ Tho như sau: “Giáo lý viên, là người thường xuyên trình bày Chúa Kitô cho các em nhỏ… Chúng ta không thể nói về Chúa, nếu chúng ta không có chút kinh nghiệm tối thiểu về Chúa, nếu chúng ta không gặp gỡ Chúa, cảm nghiệm được tình yêu của Chúa, kết hợp với Chúa, nên một với Chúa. Dĩ nhiên kinh nghiệm ấy không phải là kinh nghiệm theo kiểu thế gian, mà là kinh nghiệm đức tin, kinh nghiệm thiêng liêng… Tất cả những điều đó, người giáo lý viên có thể thực hiện trong thánh lễ và nhờ thánh lễ. Chúa Thánh Thần và Giáo hội giúp người giáo lý viên đón Chúa, gặp gỡ Chúa, cảm nghiệm được tình yêu của Chúa, kết hợp với Chúa, nên một với Chúa”. (Bài“Giáo lý viên sống Mầu nhiệm Thánh Thể”)
Người Huynh Trưởng TNTT cũng thường xuyên giới thiệu Chúa Kitô cho các em, hướng dẫn các em kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể qua việc dâng ngày, cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, Rước Lễ, Viếng Thánh Thể, sống Ngày Thánh Thể… vì nguồn sống của PT/TNTT và của người Huynh Trưởng chính là Bí Tích Thánh Thể, do đó người Huynh Trưởng phải có kinh nghiệm gặp gỡ Chúa trong đời sống thường ngày. “Không ai có thể cho cái mình không có” (Nemo dat quod non habet)
4- Chúa Giêsu trong đời sống người Huynh Trưởng
Trọng tâm đời sống người Huynh Trưởng chính là Chúa Giêsu Thánh Thể. Cuộc sống của Huynh Trưởng phải phản ảnh chính cuộc sống của Chúa Giêsu, Anh Cả là mẫu gương, là lý tưởng của Phong Trào. Chúa Giêsu không chỉ là Thầy, nhưng còn là Bạn của các môn đệ Người. Cung cách dạy dỗ của Đức Kitô nói lên đặc tính chia sẻ. Những gì Người lãnh nhận từ Chúa Cha, Người đã chuyển lại cho các môn đệ. Không phải là chia sẻ một kiến thức, nhưng là chia sẻ cả cuộc sống, cả con người yêu thương ta. Người không chỉ là Lời của Thiên Chúa mà thôi, nhưng còn là Lời hóa nên người phàm. Người dạy những gì Người đã thực sự sống. Đời sống tâm linh của Đức Kitô không chỉ thể hiện qua những lời giảng dạy, nhưng nhất là qua lối sống của Người. Đi bên cạnh Chúa, các môn đệ có thể chưa hiểu ý nghĩa những điều Người giảng dạy nhưng các ông có thể trực giác và cảm nhận ý nghĩa những việc Người làm.
Ví dụ: Trước khi dạy cầu nguyện, Đức Kitô đã sống đời cầu nguyện. Trước khi dạy lòng thương xót, Đức Kitô đã biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa qua những gì Người làm cho dân “đang lầm than vất vưởng như đàn chiên không người chăn dắt”…
Như Đức Kitô đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cha để có sự sống phong phú mà chia sẻ cho nhân loại, người Huynh Trưởng cũng phải kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu để được sống dồi dào và chia sẻ sự sống ấy cho các em thiếu nhi.
V- ĐỜI SỐNG TÂM LINH CỦA HT-TNTT
1- Huynh Trưởng TNTT phải có đời sống tâm linh
Dạy Giáo lý, đòi hỏi phải có một đời sống tâm linh phong phú. Đời sống này đã được tập luyện ngay từ khi người Huynh Trưởng bước chân vào Phong Trào: CẦU NGUYỆN, RƯỚC LỄ, HY SINH, LÀM TÔNG ĐỒ được thực hành thường xuyên trong mỗi ngày sống, đồng thời cũng là 4 luật đầu trong 10 điều Luật của Phong Trào. Ngoài ra người Huynh Trưởng còn Sống Ngày Thánh Thể, Giờ Thánh Thể, học hỏi Lời Chúa để được luôn kết hiệp với Chúa.
Huynh Trưởng là người tình nguyện dấn thân phục vụ Chúa Giêsu Thánh Thể và các em trong sứ mệnh đặc biệt của Hội Thánh: rao giảng Tin Mừng. Khởi đầu của rao giảng Tin Mừng là giúp người ta đến với Đức Kitô, giáo dục họ trong đức tin và tháp nhập họ vào đời sống cộng đồng Kitô. Tiếp đến, nhằm giúp những người đã lãnh nhận bí tích Rửa tội hoặc cả ba bí tích khai tâm được trưởng thành trong đức tin của mình. Do đó, nếu huấn giáo là sứ vụ của Giáo Hội giúp người ta trở về với Đức Kitô và tiếp tục lớn lên trong đức tin, thì học sinh giáo lý chính là đối tượng của việc rao giảng Tin Mừng, vì tất cả các em cần được giúp đỡ để lớn lên trong đức tin.
Tham dự sứ vụ giáo huấn đòi hỏi người Huynh trưởng phải được chuẩn bị kỹ lưỡng, như chủng sinh phải được huấn luyện đầy đủ để thi hành chức vụ linh mục. Việc đào tạo đời sống tâm linh không chỉ nằm ở bình diện trí óc hiểu biết, nhưng đi vào chiều sâu của trái tim và ý chí con người. Chẳng ai có thể cấp chứng chỉ về đời sống nội tâm cho một Huynh trưởng hay giáo lý viên sau khi họ tham dự một khóa sa mạc, tĩnh tâm cả!
2- Huynh Trưởng TNTT được mời gọi nên thánh
a- Đối với Giáo lý viên :
Cũng như mọi tín hữu, người giáo lý viên được mời gọi nên thánh. Tuy nhiên, vì tác vụ và sứ mệnh của họ, lời mời gọi nên thánh mang tính cách cấp bách đặc biệt. Đời sống thiêng liêng của giáo lý viên phải được thể hiện qua những điểm sau đây:
· Có lòng yêu mến Chúa và yêu mến Giáo Hội, thể hiện qua việc gắn bó với giáo xứ của mình.
· Có đời sống thống nhất và trung tín được biểu lộ qua việc hân hoan sống tinh thần đức tin, cậy, mến.
· Có đời sống cầu nguyện và hăng hái dấn thân cho sứ mệnh rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội
· Lòng nhiệt thành truyền giáo. Tích cực tham gia cộng đoàn giáo xứ địa phương, nhất là tham dự Thánh lễ Chúa Nhật
· Có lòng tôn thờ Thánh Thể, lòng sùng kính Mẹ Maria và các thánh.
Đời sống thiêng liêng rất cần thiết vì nó cung cấp cho giáo lý viên sức sống, lòng nhiệt thành và sự tích cực, tức là cái tâm, cái hồn của người tông đồ. Đời sống thiêng liêng đem lại cho giáo lý viên điểm tựa chắc chắn là: lòng yêu mến, cầu nguyện, sống các nhân đức, tinh thần truyền giáo, theo gương Mẹ Maria và sống nhờ lương thực Thánh Thể để họ chu toàn sứ mệnh.
b- Đối với Huynh Trưởng TNTT:
Mục đích của Phong Trào là giúp đoàn viên nên người và nên thánh. Thể hiện qua những tôn chỉ:
· Sống Lời Chúa và kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể:
Tôn chỉ của Phong Trào TNTT là sống Lời Chúa và kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể trong sự cầu nguyện, rước lễ, hy sinh, làm việc tông đồ, nhất là làm tông đồ cho giới trẻ bằng mọi cách như sắc lệnh Tông đồ Giáo dân đã nói: “Giới trẻ phải làm tông đồ trước tiên và trực tiếp cho giới trẻ” (Sắc lệnh TĐGD, số 12) (Nội Quy, điều 5)
Như vậy trong sinh hoạt, Phong Trào giúp các em thấm nhuần hai tư tưởng này là: GIỮvà THỰC HÀNH Lời Chúa dạy; đồng thời luôn gắn bó và yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể qua việc siêng năng tham dự Thánh lễ, Rước lễ và Chầu Mình Thánh Chúa…
· Yêu mến và tôn kính Đức Mẹ
Thiếu nhi với tình con thảo yêu mến và tôn sùng Đức Maria, Mẹ Chúa Cứu Thế, theo gương Mẹ mà đón nhận Chúa và đem Chúa vào đời như Mẹ đã thực hiện cách tuyệt hảo. (Nội Quy, điều 6)
Điều luật sống thứ 4: Thiếu nhi nhờ Mẹ cố gắng, quyết làm gương sáng xứng danh tông đồ. Vì thế Thiếu Nhi một lòng yêu mến và tôn sùng Đức Mẹ.
· Tôn kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Lịch sử Giáo Hội Việt Nam trong lúc bị thử thách, bắt bớ, cấm đoán đã được viết lại bằng máu của các tiền nhân anh dũng: hy sinh mạng sống mình vì Đức Tin, vì lòng Yêu Mến Chúa, vì mong muốn Danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa được hiển trị… Phong Trào sẽ trình bày và noi gương các vị tiền bối để giáo dục đức tin của các em ngày một trưởng thành hơn.
· Yêu mến, Vâng phục Đức Thánh Cha
Ngay từ ban đầu, Hội Nghĩa Binh đã được coi là đạo quân riêng của Đức Thánh Cha. Tiếp tục truyền thống tốt đẹp đó, Phong Trào luôn coi Đức Thánh Cha là Thủ Lãnh hữu hình của mình; vì thế luôn vâng phục, cầu nguyện và thực thi những điều ngài muốn. (cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng sớm hôm)
· Luôn thăng tiến bản thân.
Huynh Trưởng có trách nhiệm hướng dẫn Đoàn sinh theo đường lối và mục đích của Phong Trào, do đó cần phải thăng tiến mình cả hai phương diện: nên người và nên thánh. Điều này được cụ thể hoá bằng việc giữ và sống 10 điều Luật của phong trào, cũng như lời hứa của người Huynh trưởng với lòng yêu mến.
Cái nhìn về đời sống thiêng liêng nói trên khiến người Huynh Trưởng phải tự hỏi: Vậy tôi có đời sống thiêng liêng chưa? Nó có ở mức độ tối thiểu để tôi bắt đầu thi hành sứ vụ huấn giáo không? Tôi phải làm gì để tiếp tục vun đắp đời sống thiêng liêng của tôi hầu giúp cho sứ vụ huấn giáo mang lại kết quả tốt đẹp hơn, tức là giúp tôi chia sẻ dồi dào hơn với các em thiếu nhi những gì tôi đã lãnh nhận được từ nơi Chúa?
VI- NGHỆ THUẬT GIẢNG DẠY
1- Thiên Chúa Cha :
Thiên Chúa Cha đối xử với con cái Ngài thế nào? Con cái thế nào thì Ngài chấp nhận chúng như thế, và Ngài làm mọi cách để giải thoát chúng khỏi tội lỗi và kéo chúng lại với Ngài. Qua các biến cố, qua lời nói Thiên Chúa Cha bày tỏ lòng yêu thương chung thủy của Người.
Cách giáo dục hay nghệ thuật giảng dạy của giáo lý viên phải bắt chước cách giáo dục của Thiên Chúa. Giáo lý viên phải giúp các em nhìn thấy bàn tay Thiên Chúa hoạt động trong các biến cố của cuộc đời. Qua môn giáo lý, học viên hiểu giá trị của mối liên hệ thâm sâu của mình với Thiên Chúa. (Liên hệ CHA – CON)
2- Chúa Giêsu :
Qua giáo huấn, đời sống, cái chết và cuộc Phục sinh của Người. Đức Kitô cho chúng ta thấy và cảm nghiệm tình Ngài yêu thương và muốn Cứu độ chúng ta.
Chúa Giêsu niềm nở, trân trọng đón tiếp mọi người nhất là người nghèo, người tội lỗi, và cho thấy họ “là những người được Thiên Chúa thương yêu và tìm kiếm”. Người bày tỏ một tình yêu nhạy bén và mãnh liệt để giúp con người chiến thắng tội lỗi.
Chúa Giêsu cho thấy tình yêu của Thiên Chúa lớn lao thế nào, Người luôn mời gọi và thúc giục ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi niềm hy vọng ấy sẽ đem lại cho họ sự sống.
Khi dạy, Chúa Giêsu dùng những hình ảnh cụ thể, sinh động, cách nói đối thoại trực tiếp vừa tầm người nghe, đúc kết thành những câu dễ nhớ, nhắc lại dưới nhiều hình thức khác nhau, tiến từng bước theo nhịp độ hiểu biết của người nghe, lấy lời Thánh Kinh để minh chứng lời nói, không những trình bày mà còn cảm hóa...
Khi Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ theo Người với hết trí khôn và tâm hồn, Người truyền lại cho các ông nghệ thuật giảng dạy của Người như là phương thức căn bản để chia sẻ trọn vẹn sứ vụ của Người. Đồng thời Người còn cầu nguyện cho họ để họ làm kiên vững đức tin của anh chị em.
3- Giáo Hội :
Trọn đời sống của Hội Thánh là công cuộc giáo dục Đức Tin. Là Mẹ và là Thầy, Hội Thánh cũng theo nghệ thuật giảng dạy của Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu Kitô dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Trải qua nhiều kỷ nguyên Kitô, chúng ta tìm thấy sự phong phú của khoa sư phạm giáo lý trong Hội Thánh: đời sống của các thánh và của các giáo lý viên; những cách thể hiện đức tin và truyền thông đức tin cho tha nhân, thí dụ như sách giáo lý, các công cuộc từ thiện bác ái,...
4- Tác động của Chúa Thánh Thần :
Nghệ thuật giảng dạy của Thiên Chúa Cha và của Chúa Giêsu Kitô được tác động của Chúa Thánh Thần nơi tâm hồn học viên giúp họ khám phá ý định của Chúa Cha và mỗi ngày trở nên giống Đức Chúa Con, là Đức Giêsu Kitô. Cứu cánh của việc dạy giáo lý là sự hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa nhờ trở nên giống Đức Kitô mỗi ngày một hơn. Họ trở nên giống Đức Kitô tùy theo mức độ đáp trả sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
Tóm lại, nghệ thuật dạy giáo lý là làm sao cho người thụ huấn ngày càng nên giống Đức Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần là Đấng Trợ Giúp và Hướng Dẫn. Nghệ thuật dạy về đức tin là nghệ thuật giúp người khác gắn bó với Thiên Chúa trong tình yêu và sự thánh thiện của đờisống
Việc dạy giáo lý tuy được thực thi bởi những con người, dùng những phương tiện loài người, nhưng lại là sự tham gia tích cực vào sứ mệnh cứu độ của Đức Kitô, và hành động cứu độ của Thiên Chúa Cha. Vì thế giáo lý viên phải ý thức là họ trình bày chân lý đức tin, chứ không phải tư tưởng riêng của mình hay một hệ thống tư tưởng nào đó. Nghệ thuật dùng giảng dạy phải cho phép họ đẩy mạnh việc gắn bó học viên hoàn toàn với Thiên Chúa và nội dung sứ điệp của Đức Kitô.
Đức tin phải giúp phát triển con người toàn diện: sự hiểu biết, cầu nguyện, phụng tự, cùng với đời sống nhân đức. Sau cùng, giáo lý viên giúp học viên biết dâng mình cho Thiên Chúa, nhất là trong “ơn gọi mà Chúa mời gọi họ.” Về điểm này, việc dạy giáo lý còn thi hành nguyên tắc cơ bản cho việc tông đồ ơn gọi mà qua đó Hội Thánh giúp người trẻ khám phá ơn gọi của mình và thực hiện nó với cả niềm xác tín của mình.
Vậy việc dạy giáo lý ứng dụng khoa sư phạm của Thiên Chúa, là đấng đã cúi xuống với con cái của Ngài, dùng ngôn ngữ, hành động và những cách thể hiện mà họ có thể hiểu để biểu lộ tình thương của Ngài. Qua những kinh nghiệm khác nhau trong đời sống, người dạy giáo lý phải tìm phương thế, đồng thời phải kính trọng chân lý của đức tin và hoàn cảnh cụ thể của học viên. Nhờ làm thế, việc dạy giáo lý giúp học viên biến đời sống họ thành một món quà tình yêu chân thành và tinh tuyền cho Thiên Chúa Cha và tha nhân.
VII- NGUYÊN TẮC CỦA HUẤN GIÁO
Cha Fx. Nguyễn Hùng Oánh, trong cuốn “Sư Phạm Giáo Lý” đã giới thiệu 8 nguyên tắc sau đây:
1. Huấn giáo phải đảm nhiệm sứ mệnh truyền thông Lời Chúa cách trung thành, cho mọi hạng người đã tin.
2. Huấn giáo phải phát xuất từ Phụng vụ và quy hướng vào Phụng vụ.
3. Huấn giáo phải trung thành với quy luật đức tin.
4. Huấn giáo phải có tính khoa học.
5. Huấn giáo phải xây dựng, củng cố và phát triển đức tin cho mọi người.
6. Huấn giáo phải Hội nhập văn hoá.
7. Huấn giáo phải nhắm tới đối tượng thụ nhân cách thích hợp.
8. Huấn giáo đưa thụ nhân tới trưởng thành tâm linh
VIII- PHƯƠNG PHÁP DẠY GIÁO LÝ
1- Sự Đa Dạng của Các Phương Pháp
Trong việc giảng dạy đức tin, Hội Thánh không bắt buộc một phương pháp nào duy nhất nhưng có thể ứng dụng nhiều phương pháp khác nhau, miễn là chúng phù hợp với đường lối sư phạm của Thiên Chúa, nghĩa là trung thành với nội dung đức tin và phù hợp với đối tượng lãnh nhận. Qua các kỷ nguyên Kitô, nhiều phương pháp khác nhau đã được dùng tùy theo năng khiếu của cả giáo lý viên lẫn học viên. Dù dùng phương pháp nào thì mục đích của việc dạy giáo lý luôn luôn là: giáo dục con người toàn diện về đức tin.
2- Sáu Phương Pháp Huấn Giáo
a. Cụ thể
- Là dễ trưởng tượng, dễ hình dung, hiểu được ngay, vì nó đánh động vào giác quan. Người nghe càng nhỏ tuổi, bài giáo lý càng phải cụ thể, vì trẻ nhỏ có nhiều kinh nghiệm cảm tính (khả giác) và suy nghĩ bằng hình ảnh, chứ chưa lĩnh hội được các ý niệm và chưa lý luận cách trừu tượng.
- Dùng từ ngữ và kiểu nói dễ hiểu. Từ ngữ và kiểu nói đơn giản sẽ cụ thể hóa các ý niệm trừu tượng và đưa các ý niệm đó đến vừa tầm tiếp nhận của trẻ. Thánh Kinh dùng nhiều ngữ ảnh: Chúa là ánh sáng, là thành lũy, là mục tử... Ngài chăn dắt ta trên đồng cỏ xanh, dẫn đưa tới suối nước mát... Cây gậy (để đánh sói dữ) của Ngài làm ta an lòng...
- Để cụ thể hóa bài giáo lý, ngoài ngữ ảnh vừa nói, có thể dùng thể ảnh: tranh ảnh, hình vẽ, hình chụp... Thể ảnh cụ thể và có thể hiệu năng sư phạm cao hơn ngữ ảnh do khả năng gợi ý và thu hút sức chú ý của nó. Ví dụ: một tấm ảnh phong cảnh thiên nhiên thật đẹp có thể diễn tả về quyền phép của Thiên Chúa cụ thể hơn lời mô tả của giáo lý viên.
Có hai loại thể ảnh :
* Ảnh tải liệu : ảnh ghi lại những sự kiện đã xảy ra ở những nơi có thật... nhưng xa chúng ta trong không gian hoặc thời gian.
Ví dụ: hình ảnh Đất thánh, Công đồng Vatican II, ... ảnh tài liệu chỉ có giá trị nếu trung thực và đúng sự thật.
* Ảnh gợi ý : ảnh có tính chất sáng tác, tượng trưng dể diễn tả một ý tưởng hay một tâm tình nào đó. Loại ảnh này phải diễn tả những ý tưởng đúng và những tâm tình tôn giáo sâu sắc mới thích hợp với giáo lý. Trong phạm vi giáo lý thì: ảnh “có ý nghĩa” quan trọng hơn là ảnh “đẹp”.
Không nên dùng quá nhiều hình ảnh trong một bài giáo lý, cần tập trung và phố hợp hình ảnh với các bài giảng cho nhịp nhàng, đúng lúc, đúng đề tài.
- Phương pháp tốt nhất để làm cho bài giáo lý trở nên cụ thể là dùng lối kể chuyện
b. Quy nạp
- Thần học thường dùng phương pháp diễn dịch. Từ một mệnh đề A gọi là tiên đề rút ra một mệnh đề B gọi là kết luận, rồi B lại được dùng làm tiền đề để rút ra một kết luận C khác và cứ như thế mãi. Tiền đề bao giờ cũng tổng quát hơn kết luận. Nhiều người đem áp dụng lối suy luận này vào giáo lý cho trẻ nhỏ, nhưng không thích hợp, vì nó trừu tượng và khô khan. Giáo lý phải là loan Tin Mừng một cách sống động. Hơn nữa, đối với trẻ em, hướng dẫn nỗ lực suy nghĩ phôi thai của nó theo nhu cầu tâm lý, chứ không phải theo quy luật luận lý.
- Có thể dùng lối diễn dịch trong giáo lý người lớn nhưng đối với thanh thiếu niên phải theo phương pháp quy nạp. Quy nạp là từ một câu chuyện hay từ nhiều sự kiện cụ thể rút ra một kết luận có tính cách tổng quát. Trong khi phương pháp diễn dịch đi từ nguyên tắc tổng quát đến kết luận đặc thù, thì phương pháp quy nạp đi từ sự kiện đặc thù để rút ra một kết luận tổng quát.
- Khi dùng dụ ngôn giảng dạy, Chúa Giêsu đã theo phương pháp quy nạp. Chúa thuật một câu chuyện, rồi từ câu chuyện đó rút ra một bài học.
- Để áp dụng phương pháp quy nạp vào bài giáo lý, có thể phân biệt ba giai đoạn :
* Giới thiệu : đưa ra một sự kiện làm khởi điểm
* Giải thích : từ sự kiện đó rút ra những ý tưởng, những bài học thích hợp
* Áp dụng : đem những ý tưởng, những bài học đó soi sáng đề tài giáo lý mình muốn trình bày.
c. Chủ động
Là tạo điều kiện cho các học viên tích cực tham gia vào việc khám phá và đồng hóa chân lý, chứ không bị nhồi sọ hoặc đón nhận thụ động, giáo lý viên chỉ là người hướng dẫn giúp các học viên vận dụng khả năng suy tư của mình. Chủ động sẽ gây nên thích thú, đây là điều kiện để đạt được kết quả sư phạm tốt.
Có hai cách làm cho lớp giáo lý trở nên sinh động: đối thoại và sinh hoạt (xem bài riêng).Trong bài giáo lý cần đặt hệ thống câu hỏi giúp các em suy nghĩ. Chủ đích không phải là kiểm tra kiến thức của các em như các loại “câu đố” nhưng để hướng dẫn các em tự mình từng bước tiến tới gần chân lý.
Do đó, câu hỏi phải có tính gợi ý và tiệm tiến.
- Gợi ý: có nghĩa là câu hỏi phải vừa tầm các em và lời giải đáp đã mặc nhiên nằm trong câu hỏi. Câu hỏi gợi ý khác với câu đố, câu đố càng khó và bí hiểm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Trái lại trong câu hỏi gợi ý, cách hỏi tự nó đã mở đường cho lời đáp.
- Tiệm tiến: có nghĩa là các câu hỏi phải nối tiếp nhau, liên tục, ăn khớp với nhau cùng quy hướng về vấn đề đang tìm hiểu và càng ngày càng thâu hẹp vấn đề và trở nên chính xác hơn.
Là phương pháp kích biện Socrate đã dùng huấn luyện các môn đệ và được Platon ghi lại trong các “đối thoại”.
Qua câu hỏi gợi ý, giáo lý viên “lái” sự suy nghĩ và câu trả lời của các em vào vấn đề chính. Cần vững tay lái, nếu không thì chính giáo lý viên sẽ lạc đường. Dĩ nhiên, lối đối thoại rất tốt về mặt sư phạm, nhưng khó áp dụng khi lớp quá đông hoặc thời gian có hạn.
d. Cảm nghiệm
Giáo lý không phải chỉ tìm cách trau dồi kiến thức tôn giáo, nhưng nhằm hoán cải con người toàn diện, dẫn đưa vào đời sống mới trong Chúa Giêsu. Do đó, trong khi trình bày chân lý cần đồng thời lay động tâm tình người nghe. Cả tâm hồn lẫn trí tuệ đều cần được vận dụng trong giờ giáo lý.
- Mỗi bài giáo lý có chủ đề nhất định, không được gộp chung nhiều đề tài khác nhau trong cùng một bài, làm như vậy bài giáo lý sẽ không mạch lạc về mặt nhận thức và phân tán sức chú ý của trẻ em. Sau khi đã ấn định chủ đề giáo lý, cần xác định tâm tình tôn giáo thích hợp với chủ đề đó.
Ví dụ : . Chủ đề : Chúa Giêsu quyền phép
. Tâm tình : cảm phục Thiên Chúa.
Giáo lý viên phải trình bày thế nào để vừa làm cho các em hiểu Chúa Giêsu quyền phép, vừa làm cho các em cảm phục Ngài tự đáy lòng. Như vậy mới đạt chủ đích của bài giáo lý.
- Muốn áp dụng nguyên tắc cảm nghiệm cần phải phối hợp bài giáo lý với cầu nguyện. Không kể cầu nguyện mở đầu hay kết thúc giờ giáo lý, cần dành ít phút cầu nguyện trong chính bài giáo lý ngay sau bài giảng. Phút cầu nguyện này là đỉnh cao của bài giáo lý. Tâm tình khơi động trong bài giảng sẽ được sống mãnh liệt và kết thúc thành lời nguyện. Phút cầu nguyện này không cần dài, nhưng phải là một cuộc gặp gỡ thật sự với Thiên Chúa. Như vậy, trong giờ giáo lý chẳng những nói với các em về Thiên Chúa nhưng còn giúp các em sống với Thiên Chúa.
e. Tiệm tiến:
- Trong chương trình: Mỗi tuổi có những vấn đề riêng, có mức độ hiểu biết và nhu cầu tâm lý khác nhau, do đó phải có chương trình giáo lý riêng cho mỗi lứa tuổi. Và ngay trong những vấn đề chung cho mọi tuổi cũng có cách trình bày riêng cho từng tuổi. Dùng một sách giáo lý chung cho mọi tuổi vừa trái quy luật tâm lý và sư phạm, vừa không trung tín với chính Tin Mừng.
Phải dạy những gì mà lứa tuổi đó không thể không biết và chỉ dạy những gì mà lứa tuổi ấy có thể hiểu được. Cả hai thái độ bất cập và thái quá có thể đưa tới sai lầm về mặt chân lý, và lệch lạc lương tâm về mặt luân lý.
Giáo lý là công cuộc dài hạn phải tiếp tục suốt đời người tín hữu, không thể thu gọn trong vài ba tháng, với chủ đích duy nhất là để lãnh các Bí tích. Vì thế, không thể và cũng không cần nhồi vào óc các em, trong một thời gian ngắn, toàn bộ giáo lý. Trong lãnh vực đức tin không thể vội vã. Cần có thời gian hạt giống mới có thể mọc một cách bình thường.
g. Vận dụng trí nhớ:
- Vận dụng trí nhớ cần thiết về cả về phương diện sư phạm và giáo dục đức tin
* Sư phạm: hiểu và nhớ liên quan mật thiết với nhau và hỗ trợ nhau. Điều gì đã hiểu thì dễ nhớ. Ngược lại cũng đúng, có nhiều điều ban đầu người ta chưa hiểu hết ý nghĩa của nó, nhưng nếu được ghi nhớ trong ký ức thì với thời gian, dần dần sẽ khám phá ý nghĩa sâu xa của nó.
* Giáo dục đức tin: ký ức liên hệ đến đức tin, vì đức tin có chiều kích lịch sử. Tin là tin vào Thiên Chúa qua những Lời Ngài đã nói và những việc Ngài làm trong lịch sử. Do đó, tin cũng có nghĩa là ghi nhớ. Muốn tin và nuôi dưỡng đức tin cần phải nhớ những huấn giáo và những kỳ công của Thiên Chúa, ghi nhớ như Đức Maria đã làm ở Belem và Nagiarét, để suy niệm trong lòng. Nhờ ký ức và suy niệm, người tín hữu ngày càng hiểu và đi sâu vào ý định của Thiên Chúa hơn.
- Phương pháp giáo lý mới cải tiến việc vận dụng trí nhớ theo hai hướng
* Trong phương pháp quy nạp, câu kết luận là câu tóm lược và đúc kết tất cả phần diễn giảng. Vì thế, trong bài giáo lý, câu được chọn để học thuộc lòng chính là câu đúc kết bài giảng giáo lý. Như vậy lớp giáo lý không mở đầu bằng phần học thuộc lòng, nhưng kết thúc bằng phần này. Giảng bài trước, rồi tóm lược bài giảng trong một câu ngắn gọn, sau cùng cho các em ghi chép và học thuộc lòng câu này. Nếu thuộc và hiểu câu này, các em sẽ nhớ được những điểm chính yếu của bài giảng giáo lý.
* Những câu thuộc lòng thường được trích nguyên văn, hoặc là tóm lược một cách trung thực những lời Thánh Kinh hoặc Phụng vụ. Chỉ khi nào không có những lời Thánh Kinh hoặc Phụng vụ trực tiếp liên quan đến chủ đề giáo lý được trình bày thì mới cần sáng tác. Tuy nhiên những câu được sáng tác cần ngắn gọn, vững chắc về nội dung nhưng lại dễ hiểu, dễ nhớ. Tuyệt đối tránh những công thức trừu tượng, những danh từ quá chuyên môn vượt tầm hiểu biết của trẻ. Cần phải nắm vững nguyên tắc căn bản về sư phạm giáo lý: diễn tả những điều khó một cách dễ hiểu.
Các nguyên tắc chủ yếu có tính tổng quát. Giáo lý viên cần nắm vững, đồng thời còn phải tìm cách áp dụng nguyên tắc cho linh động và cụ thể. Điều này chỉ có thể đạt được nhờ thực hành và kinh nghiệm.
3- Kinh Nghiệm Con Người trong Huấn Giáo
Việc dạy giáo lý phải giúp học viên trở nên ý thức hơn về những cảm nghiệm của họ và lượng giá chúng dựa theo ánh sáng giáo huấn của Hội Thánh, để sống một đời sống có trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa.
Kinh nghiệm đức tin giúp cho người ta hiểu được các giáo thuyết. Chúng ta nhớ rằng Chúa Giêsu dùng những kinh nghiệm khác nhau để dạy chân lý Tin Mừng thế nào. Đối với những kinh nghiệm cá nhân, đó là nơi mà Thiên Chúa tự tỏ mình cho chúng ta, cho đến việc Ngài tỏ mình cách hoàn hảo qua việc Thiên Chúa Con mặc lấy bản tính nhân loại của chúng ta. Giáo lý viên có nhiệm vụ giúp học viên: thông qua kinh nghiệm sống hằng ngày có được nhãn quan của Tin Mừng và giáo huấn Hội Thánh. Chỉ khi đó việc dạy giáo lý mới đưa đến một đời sống Kitô sâu xa hơn.
4- Vai Trò của Huynh Trưởng và Giáo Lý Viên
Không phương pháp nào có thể thay thế việc phục vụ của các Huynh Trưởng hay giáo lý viên. Người Huynh Trưởng-giáo lý viên cộng tác với Chúa Thánh Thần xây dựng cho các em một đời sống thiêng liêng và huấn luyện các nhân đức. Huynh Trưởng-Giáo lý viên là một dụng cụ quan trọng mà nhờ đó Lời Chúa đến với các em. Vì thế, đời sống của Huynh Trưởng-giáo lý viên đừng là trở ngại hay phản chứng.
Một Huynh Trưởng-giáo lý viên tốt sẽ ý thức sâu sắc nhu cầu nuôi dưỡng đức tin của mình qua việc học hỏi và cầu nguyện. Cầu nguyện cho mình và cho các thụ nhân. Từ đó tương quan cá nhân giữa giáo lý viên và người được giáo hoá sẽ có tác động tích cực và sâu đậm.
5- Sự Tham Gia Tích Cực của Học Viên
Để việc dạy giáo lý đạt được mục đích cao quý tối hậu, là sự hiểu biết và lòng yêu mến Thiên Chúa sâu đậm, thì người thụ huấn cũng được mời gọi và nỗ lực đáp trả tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách tích cực, linh động. Huynh Trưởng-Giáo lý viên nên nghĩ ra các hình thức như: những chiến dịch thi đua, những trò chơi chuyển tải nội dung bài giáo lý Thánh Kinh để các em tích cực tham gia. Nhưng trên hết và quan trọng hơn cả là tập cho các em siêng năng cầu nguyện, tích cực tham dự các việc phụng tự chung, tham dự các Bí Tích, và nỗ lực sống bác ái.
--- oOo ---
Bài 6: Khung cảnh Thánh Kinh
“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,
là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 108, 105).
Để Lời Chúa trở thành ngọn đèn và là ánh sáng soi bước đường ta đi, ta phải tiếp cận với Lời Chúa. Lời Chúa không chỉ là những mầu nhiệm cao sâu nhưng trái lại là những gì diễn ra trước mắt và ngay xung quanh ta; bởi như trong sách (Đnl 30, 11-14) đã chép: “mênh lênh tôi truyền cho anh em không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh em, nhưng ngay trong miệng, trong lòng cốt để anh em đem ra thực hành”. Những điều ấy,có thể tạm gọi là khung cảnh Thánh Kinh.
Để giáo dục Israel, Thiên Chúa không chỉ dùng lời nói mà còn dùng các biến cố, các điềm thiêng dấu lạ,... qua các tổ phụ, các tiên tri, ... qua chính Con Một. Thiên Chúa không chỉ khuyên dạy, năn nỉ, răn đe mà còn đánh phạt, ủi an. Thánh Kinh chính là cuốn sách ghi chép lại công trình giáo dục của Thiên Chúa và của Đức Giêsu.
Lời Chúa là chính Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu chính là Thầy dạy cho mọi người, Người dạy không cầu kỳ, không máy móc, không lắt léo, nhưng trái lại những gì Người giảng dạy rất cụ thể và gần gũi với cuộc sống con người. Như vậy, nhà giáo dục phải chiêm ngắm cung cách cư xử của Thiên Chúa trong Thánh kinh, rồi áp dụng vào bài giáo lý, đưa các em vào cuộc sống và khởi đi từ cuộc sống, qua khung cảnh Thánh Kinh.
Hay có thể nói rõ nét hơn là mỗi phong trào giáo dục cũng phải được đặt trọng tâm vào chính nền tảng của Thánh Kinh; bởi Thánh Kinh chính là nền tảng và là chất liệu cho mọi phong trào giáo dục; thì hẳn phong trào TNTT cũng không nằm ngoài đường hướng đó. Như thế, đường hướng, phương pháp của phong trào TNTT dựa vào Lời Chúa. Chẳng những thế, còn phải biết thấm sâu vào chính trong Lời Chúa. Nhưng để dựa vào và thấm sâu từ Lời Chúa ta phải khám phá ra khung cảnh đích thực trong Thánh Kinh. Vậy đâu là khung cảnh đích thực trong Thánh Kinh?
Khung cảnh đích thực trong Thánh Kinh chính là khoảng không gian và thời gian trong lịch sử. Nơi đó, lúc đó diễn ra những việc Thiên Chúa làm cho nhân loại, những lời Thiên Chúa nói với con người. Lời Thiên Chúa nói với con người cách đây hơn 2000 năm nhưng vẫn còn thiết thực và sống động cho mọi người và nhất là vẫn còn có ích cho việc giáo dục TNTT bằng khung cảnh Thánh Kinh.
I. TẠi sao giáo dục thiếu nhi bằng khung cảnh Thánh Kinh ?
Là nhà giáo dục tâm huyết ai cũng tự đặt cho mình một câu hỏi: đâu là giáo lý của tuổi Thiếu Nhi ? Theo tông huấn về việc dạy giáo lý, giáo lý phải đưa đến cuộc sống tức là dẫn nhập và áp dụng vào chính trong cuộc sống, đi từ lý thuyết đến thực hành, từ cái đơn giản đến sự kiện dễ nhớ. Để giáo lý gắn với cuộc sống, ta phải có khung cảnh; bởi khung cảnh là môi trường tạo nên cuộc sống. Vậy, khung cảnh ấy là gì nếu không phải là những hình ảnh, sự kiện diễn ra trước mắt, khiến người chứng kiến dễ cảm nhận, dễ nhớ và nhớ lâu. Khi giảng dạy cho dân chúng, Chúa Giêsu đã tạo một khung cảnh thích hợp và dùng những hình ảnh rất gần gũi và xác thực như người gieo giống, hạt cải, cỏ lùng, men trong bột … (x. Mt 13).
Cũng vậy, Phong Trào TNTT cũng phải “tạo môi sinh tốt cho các em học tập và lớn lên”. Để tạo môi sinh tốt, không gì khác hơn là dẫn các em đến với Lời Chúa. Lời Chúa là của ăn thiêng liêng và là “lương thực bồi dưỡng hằng ngày cho các em”. Vậy chúng ta đưa các em đến với Lời Chúa bằng cách nào? Đưa các em đến với Lời Chúa qua việc giúp các em học hỏi, suy niệm Lời Chúa, ca hát, nhảy múa … giúp các em sống và thực hành Lời Chúa”.
Mục đích của mỗi giờ giáo lý phải là giúp các em cảm nhận và gặp gỡ Chúa trong chính Lời Chúa. Những bài hát, những vũ diệu, băng reo... là để khơi gợi nơi tâm trí các em những giá trị, ý nghĩa trong cuộc sống. Những cuộc trại nhằm giúp các em sống, thực hành những điều mình học. Những cuộc hành hương về thánh địa nhằm mục đích giúp cho khách hành hương sống lại khung cảnh xưa kia Thiên Chúa đến với nhân loại, nơi xưa kia Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người đã sinh ra, lớn lên và hoàn tất sứ vụ cứu chuộc của Người”.
Quả thật, khung cảnh Thánh Kinh rất cần thiết cho việc giáo dục Thiếu Nhi; bởi khung cảnh Thánh Kinh giúp các em khởi đi từ cuộc sống đến cách ứng xử và khung cảnh Thánh Kinh làm cho bài học Thánh Kinh trở nên sống động, gần gũi với các em.
II. Áp dụng khung cảnh Thánh Kinh cho đoàn sinh như thế nào ?
“Thánh Kinh là đường dẫn ta đến với Chúa Kitô”, qua Chúa Giêsu để đến cùng Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu là Lời quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Cách thức để Người bày tỏ quyền năng và tình thương của Thiên Chúa là vai trò và sứ vụ cứu thế của Người. Để mặc khải cho nhân loại biết về vai trò và sứ vụ của Người, Con Thiên Chúa đã không ngần ngại trở nên như con người, gần gũi với con người đặc biệt những người thu thuế và phường tội lỗi, Ngài đã “sống như mọi người chỉ trừ tội lỗi”. Như vậy, mầu nhiệm nhập thể, rao giảng là khởi điểm sứ vụ cứu thế của Ngài, chịu chết và Phục Sinh là hoàn tất sứ vụ cứu thế của Ngài.
Để hiểu về vai trò sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu, ta phải tiếp xúc với Thánh Kinh; vì Thánh Kinh “là con đường dẫn tới Chúa Kitô”. Để giáo dục Thiếu Nhi cách hữu hiệu, không có con đường nào tốt hơn là giúp các em tiếp cận với Thánh Kinh và qua Thánh Kinh giúp các em tiếp cận với Chúa Giêsu. Chính Thánh Kinh trình bày cuộc đời Chúa Giêsu. Để áp dụng cho việc giáo dục đoàn sinh, phong trào TNTT dùng khung cảnh cuộc đời Chúa Giêsu từ thời thơ ấu cho đến rao giảng, thương khó,...
1. Chúa Giêsu thời thơ ấu:
Chúa Giêsu trải qua đời thơ ấu với cuộc sống ngoan hiền, yêu thương trong môi trường gia đình ấm cúng. Cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu chính là mục đích và chất liệu giáo dục cho các em ấu nhi.
- Mục đích Giáo dục ngành ấu: là giúp các em từng bước trở thành những ấu nhi ngoan ngoãn, đơn sơ, chân thành, thật thà trong môi trường gia đình, học đường, đoàn thể, với bạn bè và những người các em gặp trong cuộc sống.
- Chất liệu giáo dục các em là chiêm ngắm Chúa Giêsu ấu thơ, từng bước theo gương sống của Chúa Giêsu ấu thơ là “ngoan ngoãn, đơn sơ, biết cầu nguyện, vâng lời và chu toàn bổn phận”. Cũng như giúp cho trẻ biết cảm tạ và ca ngợi Thiên Chúa vì những kỳ công, qua vẻ đẹp thiên nhiên là những ân huệ Chúa ban bằng những lời trong thánh vịnh.
- Tạo ra khung cảnh Thánh Kinh cho tuổi ấu là tận dụng những ngày lễ lớn như Truyền Tin, Giáng Sinh, đặc biệt là Tết Thiếu Nhi, Ngày quốc tế Thiếu Nhi, để giúp các em hình dung và noi gương Chúa Giêsu.
2. Chúa Giêsu thời niên thiếu.
Cuộc đời niên thiếu của Chúa Giêsu được Thánh Kinh tóm kết bằng lời sau đây: “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadaréth và hằng vâng phục các ngài còn Đức Giêsu ngày càng thêm tuổi, thêm khôn ngoan, thêm cao lớn, thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2, 51-52). Sở dĩ, Chúa Giêsu ngày càng thêm ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta là vì Người hằng vâng phục cha thánh Giuse, Mẹ Maria và đặc biệt là Thiên Chúa Cha. Như vậy, qua mẫu gương thời niên thiếu của Chúa Giêsu là vâng phục, hy sinh, cũng chính là châm ngôn sống và là mục đích giáo dục đối với các em ở tuổi niên thiếu.
- Mục đích giúp các em đi từng bước biết sống cho, sống cùng, và sống với người khác cũng như biết hy sinh cho nhau từ trong gia đình tới học đường và đoàn thể.
- Chất liệu giáo dục: “là những việc làm, bài học, trò chơi, bài hát xoay quanh các đề tài Thánh Kinh” nhưng sao cho ngắn gọn, xúc tích và một ít suy nghĩ, vì ở tuổi này, các em đã bắt đầu thắc mắc. Tuy nhiên, cũng phải “vừa tầm hiểu biết và óc phán đoán của các em”.
- Tập cho các em biết vâng lời và hy sinh theo gương Chúa Giêsu thời niên thiếu.
3. Chúa Giêsu thời rao giảng:
Là giai đoạn khởi đầu công cuộc loan báo Tin Mừng và mặc khải cho con người biết về sứ vụ ơn cứu độ của Ngài; bằng việc thực thi thánh ý Chúa Cha. Theo gương Chúa Giêsu thời rao giảng nỗ lực chinh phục các tâm hồn về cho Chúa. Đây là mục đích và chất liệu giáo dục cho lứa tuổi nghĩa sĩ và Hiệp sĩ.
- Giúp các em từng bước trưởng thành, biết phán đoán chính xác, biết suy nghĩ độc lập, có lương tâm trong sáng, có tinh thần bác ái vô vị lợi”
Chất liệu giáo dục là những việc làm, bài học, trò chơi, bài hát xoay quanh các đề tài Kinh Thánh và những đề tài mang tính giáo dục. Khích lệ tinh thần dấn thân phục vụ phù hợp với lứa tuổi đầy tiềm năng và nhiệt thành này. Chúng ta có thể giao cho các em một vài công tác nhưng phải phù hợp với khả năng của các em để từng bước giúp các em trưởng thành.
Với tuổi dậy thì cần giúp các em sống quân bình. Ở tuổi ước mơ, trẻ dễ phấn khởi với lý tưởng nhưng mau chán với thực tế, nhưng có điều là chúng rất quảng đại, biết cố gắng. Do vậy, phải giúp chúng đừng nản lòng khi thất bại nhưng nỗ lực dấn thân, vì “thất bại là mẹ của thành công”.
- Tục ngữ Việt Nam có câu: “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Và Thánh Phaolô lưu ý: “anh em nhớ: chơi với người xấu, người tốt cũng thành xấu” (1 Cr 15,33). Lời ấy muốn khẳng định với chúng ta rằng: con người rất dễ chịu ảnh hưởng và bị lôi cuốn bởi môi trường. Do vậy, bầu khí đạo đức thánh thiêng tức là khung cảnh Thánh Kinh rất cần cho Thiếu nhi; Chính qua khung cảnh Thánh Kinh ấy giúp các em từng bước thấm nhuần Lời Chúa. Cũng chính qua chất dinh dưỡng từ Lời Chúa, giúp các em chín chắn và có phản ứng xứng hợp trước các biến cố và hoàn cảnh của cuộc đời. Do vậy, cách dạy hữu hiệu và tốt nhất là “dẫn các em đến với Chúa”. Trong khung cảnh Thánh Kinh ngang qua cuộc đời của Chúa Giêsu từ thời thơ ấu cho tới thời rao giảng...
--- oOo ---
Bài 7: Phương pháp giáo dục Thiếu nhi Thánh Thể
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là sẽ được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.” (Mt 7,21)
Trong vai trò của người Huynh trưởng Thiếu nhi Thánh thể, chúng ta đã “thi hành ý muốn” của Thiên Chúa qua việc giáo dục Thanh thiếu nhi ra sao? thực hiện theo một đường lối hay là tùy tiện theo cảm tính? Và có bao giờ chúng ta nhìn lại kết quả “sự nghiệp giáo dục” của chúng ta qua những biểu hiện mà các em thiếu nhi bộc lộ ra bên ngoài!
Trên đây là vấn nạn mà người Huynh trưởng cần quan tâm, qua đó phải nắm bắt thật sâu sắc về nội dung lẫn hình thức các phương pháp để thực hiện việc giáo dục Thanh thiếu nhi theo đúng mục đích của Phong trào.
I. KHÁI NIỆM:
Phương pháp là những cách thức tiến hành thực hiện một công việc nào đó, giúp đạt tới mục đích đã đề ra và hoàn tất công việc đó. Muốn đạt tới mục đích cách chính xác, dễ dàng và ít tốn công sức... ta phải có các phương pháp hữu hiệu thì mới hy vọng đạt được hiệu quả cao.
Mục đích của Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể là đào luyện Thanh thiếu nhi về hai phương diện tự nhiên và siêu nhiên để họ trở thành những con người kiện toàn và những Kitô hữu hoàn hảo.
- Phương pháp Tự nhiên với mục đích giúp các em trở thành những con người kiện toàn về thể chất, tinh thần và nhân cách với những đức tính căn bản của một con người; có khả năng, tinh thần tự nguyện và có ý thức góp phần xây dựng gia đình, khu xóm và xã hội. Phương pháp tự nhiên sử dụng các hình thức:
o Phương pháp hàng đội.
o Tổ chức Hội họp.
o Chương trình thăng tiến.
o Sinh hoạt vui.
o Vào Sa mạc.
- Phương pháp Siêu nhiên với mục đích giúp các em nên người Kitô hữu hoàn hảo, có nền tảng đạo đức chắc chắn, đức tin kiên vững, lương tâm ngay thẳng, hân hoan sống đạo. Phương pháp Siêu nhiên dùng các hình thức:
o Ngày Thánh Thể.
o Giờ Thánh Thể.
o Học hỏi và Sống Lời Chúa.
o Khung cảnh Kinh Thánh.
o Bầu khí Kinh Thánh.
Vì con người là hồn và xác nên hai phương pháp này đan lồng vào nhau, không thể xem nhẹ hay bỏ bớt khía cạnh nào, Huynh trưởng phải nhớ rằng Lời Chúa luôn luôn là điểm xuất phát, đồng hành và kết thúc cho bất kỳ hình thức hoạt động nào, phải giúp các em biết kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể và từ đó mục đích giáo dục của Phong trào mới có hiệu quả thiết thực.
II. PHƯƠNG PHÁP TỰ NHIÊN:
1/ Phương Pháp Hàng Đội:
a. Khái niệm
Phương pháp hàng đội là hình thức thực hiện cơ cấu tổ chức cho một tập thể (Liên đoàn- Hiệp đoàn- Xứ Đoàn), trong đó tập thể này được chia thành những tập thể nhỏ, tập thể nhỏ nhất và căn bản là Đội. Mỗi Đội có một người đứng đầu là Đội trưởng, Đội trưởng được trao quyền để điều động các đoàn sinh thực hiện các hoạt động theo hoạt động chung của tập thể trên mình.
Ngay chính Chúa Giêsu cũng đã thực hiện phương pháp hàng đội: ngoài các tông đồ, Ngài “chỉ định bảy mươi hai người khác và sai các ông từng hai người một” (Lc 10,1) để thực hiện việc rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành người đau yếu. Ngài không làm một mình mà tin tưởng trao quyền cho các môn đệ, như thế Giáo Hội mới tồn tại và phát triển đến ngày hôm nay.
Trong Xã hội, người sử dụng phương pháp Phân cấp- Phân quyền. Việc tổ chức theo phương pháp này có lợi ích trên mọi mặt hoạt động, từ việc điều động nhân sự, chủ động và chịu trách nhiệm trong công tác được giao, phát huy sáng kiến trong sản xuất kinh doanh…
b. Mục đích:
Mục đích của Phương pháp hàng đội bao gồm:
- Huấn luyện tinh thần đồng đội, tinh thần trách nhiệm cá nhân và liên đới tự quản với nhau để hoàn thành công việc chung của Đội.
- Giúp các em có cơ hội tự đào luyện và giúp nhau thăng tiến, qua đó các em sẽ biết đoàn kết yêu thương, biết quan tâm săn sóc nhau
- Giúp việc tổ chức và giáo dục đạt hiệu qủa cao, mọi người tham gia công việc một cách ý thức và tự nguyện.
- Giúp từng em được quan tâm và giáo dục, cảm thấy mình được tôn trọng và có ích trong hoạt động chung.
c. Tổ chức thực hiện
Phương pháp hàng đội trong Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể thực hiện đối với từng ngành Ấu - Thiếu – Nghĩa - Hiệp sĩ có thể theo nội dung như sau:
- Tổ chức:
+ Tìm kiếm, từ trong các lớp Giáo lý chọn lựa những em có phẩm chất tốt, Huấn luyện Đội kiểu mẫu (nội dung huấn luyện thay đổi theo ngành từ đơn giản đến phức tạp). Sinh hoạt như một Đội chính quy với mục đích cho các em biết rõ ràng hoạt động của Đội.
+ Tổ chức họp định kỳ các Đội trưởng để trao đổi và rút kinh nghiệm trong việc điều động Đội.
- Tùy theo ngành các Huynh trưởng sẽ trao nhiệm vụ cho Đội trưởng nhiều hay ít. Trong việc trao nhiệm vụ cho Đội trưởng, Huynh trưởng cần chú ý các điểm sau:
+ Tin tưởng đội trưởng, giám sát hỗ trợ và hướng dẫn đội trưởng, giúp các em hoàn thành nhiệm vụ.
+ Thường xuyên trao đổi lắng nghe ý kiến của Đội trưởng, nắm bắt những ưu tư của đội trưởng, giúp các em giải toả những vướng mắc trong việc điều hành đội.
+ Tổ chức các buổi họp chung các đội trưởng cùng ngành để trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau.
+ Tận dụng cơ hội cho các em làm việc tự lập, tạo điều kiện cho các em được trưởng thành, giữ uy tín cho đội trưởng trước mặt các đội viên của em. Áp dụng nguyên tắc phân quyền rõ rệt.
2/ Hội Họp:
a. Mục đích:
“Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18,19-20). Chính vì thế, hội họp là một sinh hoạt không thể thiếu của Thiếu Nhi Thánh Thể. Thông qua hội họp, các em được:
- Gặp nhau thường kỳ. Từ đó nảy sinh tình thân ái, tình đồng đội, biết sống cho và sống với tha nhân.
- Biết phát biểu ý kiến cá nhân để góp phần vào hoạt động tập thể và giúp tập thể tiến bộ.
- Học tập để đào sâu đời sống tâm linh, nhân bản; trau dồi kỹ năng chuyên môn, chuẩn bị cho đời sống trưởng thành mai sau.
b. Hình thức và Nội dung Hội họp:
Hội họp được tổ chức dưới hai hình thức: Họp thường kỳ và Họp bất thường
* Thời gian tổ chức hội họp:
- Được tổ chức hàng tuần, là các giờ giáo lý, có thể vào trước hay sau giờ lễ dành cho các em vào ngày Chúa nhật, hoặc vào buổi tối ngày thường trong tuần nhưng cần chú ý ngày thuận tiện nhất để đông đảo các em có thể tham gia
- Được triệu tập theo nhu cầu đột xuất, tuy nhiên cần báo trước cho các em ít nhất một ngày, và họp vào buổi tối nếu đó là ngày thường.
* Nội dung cuộc họp:
- Thường kỳ: Học Giáo lý, các chương trình đã lập theo kế hoạch học tập. Thông báo chương trình tuần sắp tới, kiểm điểm đúc kết công tác tuần vừa qua. Củng cố và phát triển tinh thần đồng đội, trao đổi thông tin trong đội, giải quyết những vướng mắc trong hoạt động của đội.
- Đột xuất: Không dùng để học hỏi theo kế hoạch học tập, tuy nhiên có thể triệu tập để học hỏi đối với những Huấn luyện viên khách mời đột xuất mà không thể thu xếp vào thời gian khác. Thông báo những chương trình, kế hoạch đột xuất cần giải quyết gấp.
c. Chương trình Hội họp:
Chương trình hội họp bao gồm các phần chính:
- Tập họp, điểm danh, ổn định đội hình;
- Đọc kinh khai mạc, hát bài ca truyền thống hay bài ca ý lực;
- Phổ biến nội dung chính của chương trình hội họp;
- Cùng nhau học tập, trao đổi theo nội dung bài khóa;
- Sinh hoạt vui xen kẽ;
- Thực hiện các hoạt động tổ chức nội bộ của Đội;
- Kiểm điểm rút tỉa kinh nghiệm các hoạt động của tuần vừa qua;
- Phổ biến và phân công các hoạt động tuần kế tiếp;
- Đọc kinh bế mạc.
Tuỳ theo nhiệm vụ của từng đoàn sinh trong đội hay theo nội dung chính của chương trình đã đề ra, nên phân công cho nhiều người, để mỗi người phụ trách một phần vụ khác nhau.
d. Cách điều hành một buổi họp
- Người điều hành phải nắm vững nội dung cuộc họp, mục đích phải đạt được sau khi cuộc họp kết thúc, từ đó không đi lan man từ vấn đề này sang vấn đề khác mà không đạt được yêu cầu chính đã đặt ra;
- Khai mạc và bế mạc đúng giờ, thời lượng các phần vụ trong cuộc họp hợp lý, tổng thời lượng không quá 90’;
- Tạo bầu khí nhẹ nhàng, vui tươi, thân tình, khơi gợi sự đóng góp ý kiến chân thành của các đoàn sinh.
- Kết luận rõ ràng, phân công cụ thể, như thế việc thực hiện kế hoạch sắp tới mới mang tính khả thi.
- Nếu có xung đột, nên tạm thời chấm dứt cuộc họp sớm, sau đó sẽ đề ra đường hướng khác phù hợp hơn.
3/ Sinh Hoạt Vui:
a. Mục đích:
Sinh hoạt vui là điều kiện cần trong việc giáo dục thiếu nhi “Học mà vui, vui mà học”. Sinh hoạt vui như “chất dẫn, chất xúc tác” với mục đích:
- Giúp các em dễ dàng hấp thụ nội dung học tập.
- Giáo dục các em ngay trong sinh hoạt, như lòng ngay thẳng, thành thật, sự hăng hái, tình đồng đội…
- Giúp củng cố và ghi sâu các bài học.
- Khi vui tươi, thoải mái, các em sẽ bộc lộ bản ngã của mình, qua đó Huynh trưởng có thể nhận biết cá tính của từng em và điều chỉnh cách giáo dục cho phù hợp.
b. Các hình thức sinh hoạt vui
Các hình thức sinh hoạt vui TNTT: Bài hát, Mini vũ, Băng reo, Trò chơi…
Bài hát, Mini vũ, băng reo, Trò chơi... rất cần thiết vì giúp các em hoạt động vui chơi. Đây là những kỹ năng người Huynh trưởng, Đội trưởng cần có khi tổ chức sinh hoạt cho các em. Tuy nhiên ở đây chỉ nêu những ý niệm tương đối khái quát. Để thực hiện, cần có sự linh hoạt, chế biến riêng, như thế mới tạo được sự sinh động.
+ Bài hát :
- Huynh trưởng phải nắm vững bài hát về nội dung, điệu nhạc, tiết tấu tương đối chính xác, nếu được nên thuộc lòng bài hát dự định tập.
- Có nhiều loại bài hát sinh hoạt nhưng nên chọn những bài hát vui tươi, ngắn gọn khoảng 4 câu, lời trong sáng và cần nhất là phù hợp với lứa tuổi:
. Ngành Ấu: Đơn giản, vui tươi, câu chữ ngắn gọn, tượng hình để các em dể nhớ.
. Ngành Thiếu: Đơn giản, có nhịp mạnh, câu chữ dứt khoát rõ ràng.
. Ngành Nghĩa: Mang tính nghệ thuật, có nội dung sâu sắc hơn các ngành nhỏ.
- Huynh trưởng hát qua một lần, tập câu 1 sau đó tập câu 2, kết hợp câu 1 câu 2 và mỗi câu lập đi lập lại khoảng 3 đến 5 lần. Thực hiện tập câu 3 và câu 4 cũng như tập câu 1 và câu 2, sau cùng ôn toàn bài.
+ Mini Vũ:
- Là những cử điệu dùng để kết hợp với bài hát, do đó động tác cần phù hợp với nội dung bài hát.
- Chú ý đừng để động tác giống nhau lập đi lập lại nhiều lần, nên đơn sơ không quá cầu kỳ.
- Nên sử dụng phương pháp đối xứng, ví dụ có một câu đi qua bên phải, sau đó nên có câu đi qua trái, hoặc có câu đi vào trong thì nên có câu đi trở ra.
- Tương tự như tập bài hát, cũng áp dụng hình thức tập từng câu rồi kết hợp 2 câu.
+ Băng reo:
- Có thể kết hợp với bài hát và mini vũ, tuy nhiên cũng có thể sử dụng đơn lẻ, kết hợp với động tác như vỗ tay, giơ tay lên trời, nhảy lên cao
- Băng reo cần ngắn gọn, sát với chủ đề bài hát hay bài giảng.
- Tương tự như tập bài hát, cũng áp dụng hình thức tập từng câu rồi kết hợp 2 câu.
+ Trò chơi:
- Giúp giáo dục thể chất, tinh thần, phản xạ nhanh nhẹn, ý thức, luyện tập giác quan, dạy các đức tính nhẫn nại, ngay thẳng, tinh thần tập thể.
- Các em đa phần hiếu động, do đó trò chơi phải giúp các em phản ứng với động thái ngược lại như: cẩu thả - cẩn thận; nóng nảy - trầm tĩnh; nhút nhát – gan dạ …
- Phải sửa soạn kỹ nội dung, phổ biến rõ ràng, nắm thật vững luật chơi, phải cho chơi nháp và phát hiện tình huống không phù hợp hay có tính nguy hiểm.
- Luật phải rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu từ hình thức chơi đến các trường hợp vi phạm luật chơi.
Bài hát hay băng reo thường có nội dung mang tính giáo dục về Tôn giáo hay nhân bản. Trò chơi thì không có, do đó Huynh trưởng biết cách Tôn giáo hóa trò chơi như thế sẽ hấp dẫn và tạo ý thức cho các em.
4/ Chương Trình Thăng Tiến:
Chương Trình Thăng Tiến Thiếu Nhi Thánh Thể là chương giáo dục tiệm tiến của Phong trào, là hệ thống các Bài học (lý thuyết và thực hành) nhằm giúp thiếu nhi ngày càng trưởng thành về đời sống tâm linh và đời sống nhân bản theo định hướng Giáo dục Kitô giáo.
Được gọi là Chương Trình Thăng Tiến vì nó vừa tiệm tiến vừa nâng cao về nội dung và hình thức giáo dục: từ dễ đến khó, từ thấp lên cao, phù hợp với tâm lý của từng lứa tuổi, tương ứng với từng ngành: Ấu (6-9 tuổi); Thiếu (10-12 t); Nghĩa (13-15 t), Hiệp sĩ (16-17 t) và được phân phối phù hợp với các buổi hội họp, học tập trong năm.
Chương Trình Thăng Tiến TNTT có 4 phần chính:
a. Giáo lý:
Nội dung bao gồm: Thánh Kinh, Tín lý, Phụng Vụ, Bí tích, Các Bí tích, Luân lý và Đời sống cầu nguyện, các kinh căn bản. Đây là nền tảng để giáo dục các em về phương diện siêu nhiên. Hiện nay Giáo phận Tp HCM đã có một bộ sách giáo lý gồm 12 cuốn, chia theo độ tuổi và ngành cụ thể như sau:
Ngành Ấu: Giáo lý Khai Tâm 1, Giáo lý Khai Tâm 2, Giáo lý Rước Lễ 1, Giáo lý Rước Lễ 2.
Ngành Thiếu: Giáo lý Thêm Sức 1, Giáo lý Thêm Sức 2, Bao Đồng 1.
Ngành Nghĩa: Giáo lý Bao Đồng 2, Giáo lý Bao Đồng 3, Giáo lý Bao Đồng 4.
Ngành Hiệp sĩ: Giáo lý Vào Đời 1, Giáo lý Vào Đời 2
b. Nhân bản: Đào luyện về đức, trí, thể, mỹ: Sống tương giao với tha nhân (gia đình, khu xóm, trường học, xã hội…)
c. Phong trào: Hiểu biết về Bản chất, Tôn chỉ, Mục đích, Đường lối, Phương pháp của Phong Trào TNTT. Đào sâu tình liên đới với Chúa Giêsu Thánh Thể là lý tưởng của Phong trào.
d. Các kỹ năng chuyên môn: hiểu công dụng và thực hành: nút dây, morse, mật thư, dấu đường, gia chánh, trang trí, cứu thương, thể dục, thể thao, nhạc, hoạ, vi tính, ... Tạo cơ hội áp dụng các kỹ năng trong sinh hoạt. Nhất là trong đời sống thường ngày.
5/ Sa Mạc:
a. Khái niệm:
Vào Sa mạc là trại huấn luyện, là cách giáo dục thiếu nhi trong môi trường thiên nhiên. Giữa thiên nhiên các em dễ: Hướng tâm hồn lên, gặp gỡ Chúa trong tĩnh lặng ca tụng Chúa khi ngắm nhìn thiên nhiên.
Thoát ra khỏi những lo toan thường ngày, dễ nảy sinh tâm tình đạo đức. Đời sống trong sa mạc giúp các em thắt chặt tình thân ái vì sống chung nên hiểu nhau hơn, biết đón nhận nhau. Có cơ hội học tập những điều mới và thực hành những điều đã học.
b. Tổ chức Sa mạc cho các em:
- Thành lập Ban Điều hành và Ban Huấn luyện.
- Cùng với Ban Điều hành dự thảo và phác hoạ kế hoạch tổ chức. Liên lạc với Ban Điều hành cấp trên để thực hiện các thủ tục cần thiết.
- Xác định thời gian sao cho phù hợp với điều kiện có thể tham gia được của các em (mùa hè, ngày nghỉ), thời lượng tổ chức tuỳ theo lứa tuổi: ngành ấu: 1ngày; ngành Thiếu, Nghĩa: 2 ngày 1 đêm...
- Tìm kiếm địa điểm thích hợp, an toàn, dễ dàng cho việc di chuyển, an ninh. Thuận tiện cho việc thiết trí và sắp xếp các lều, sân cờ, chỗ sinh hoạt và học khoá.
- Soạn thảo chương trình sa mạc sao cho vừa phải, tránh dồn ép thì giờ, các khoá và các sinh hoạt trong sa mạc nên có sự phối hợp, theo với ý lực, hợp với tuổi ...
- Phân công rõ rệt các trách nhiệm trong Ban điều hành, Ban Huấn luyện. Soạn các đề tài cho phần tiền sa mạc và các điều kiện tham dự Sa mạc.
- Mời Huấn Luyện Viên chuyên môn cho các khoá. Dựa theo khả năng chuyên môn của mỗi Huấn luyện viên để mời
- Thực hiện Sổ Khoá, bảng tên, Sổ Trực, Sổ Sinh Hoạt, Điểm thưởng..,
- Quan sát kỹ lưỡng địa điểm để vẽ sơ đồ sa mạc, hướng dẫn đường đi, sắp xếp vị trí các lều.
- Gởi các thông báo đến các Huấn luyện viên và SMS.
- Chuẩn bị Cờ Phong Trào, Cờ Quốc Gia, Cờ Đội…
- Chuẩn bị phần Phụng Vụ: Sách Lễ, sách hát, Thánh Giá, tượng Đức Mẹ, Mặt Nhật…
- Dự tính các phần chi thu sao cho đừng bị thiếu hụt.
- Ban Quản lý chuẩn bị đồ ăn, thức uống đủ cho các ngày trong sa mạc.
- Dự tính vấn đề chuyên chở, đưa đón và phân chia cho các Trưởng phụ giúp.
- Chuẩn bị vấn đề vệ sinh: Giấy vệ sinh, bao rác… Vấn đề y tế: Các loại thuốc thông dụng và cứu thương.
- Thông báo hành trang sa mạc cho các Sa Mạc Sinh.
+ Phân công hoạt động của các Ban:
- Ban Hành chánh: Tập hợp danh sách, phân đội, làm bảng tên, sổ khoá, theo dõi điểm danh.
- Ban Trực nhật, Kỷ luật, Thi đua: phân giờ chương trình, soạn nội quy, soạn chương trình thi đua;
- Ban Sinh Hoạt: Tạo bầu khí sống động và phấn khởi ngay từ lúc nhập sa mạc, Thi đua có thưởng trong mọi sinh hoạt. Soạn chương trình sinh hoạt, lửa thiêng Thánh thể, hành trình sa mạc;
- Ban Quản lý: chuẩn bị vật dụng trại như lều, cọc, dây, cổng sa mạc, củi, ẩm thực, cung cấp đầy đủ nước uống cho SMS tại những chỗ thuận tiện gần nơi học khoá.
- Ban Phụng vụ: soạn giờ chầu Thánh thể, Thánh lễ, viếng Chúa, lãnh nhận Lời Chúa (Nội dung và các vật dụng cần thiết như chén Thánh, sách lễ, đèn,…)
- Ban Y tế: vật dụng y tế bông băng, các loại thuốc thông thường như thuốc cảm, đau bụng, dầu…
- Ban Huấn Luyện:
+ Chuẩn bị và cung cấp đầy đủ bài khoá, tài liệu học tập, sinh hoạt cho Sa Mạc Sinh.
+ Cộng tác chặt chẽ với Trưởng Trực trong việc theo dõi sự tham gia, học hỏi, thái độ và tinh thần hợp tác, đóng góp của mỗi Sa Mạc Sinh.
+ Nên cùng tham dự các khoá, các sinh hoạt với các SMS sau các giờ khoá của mình.
+ Luôn đồng phục chỉnh tề.
+ Sẵn sàng giúp đỡ các Sa Mạc Sinh khi cần.
c. Giai đoạn Tổ Chức và Điều Hành:
Bố trí trong mặt bằng Sa mạc:
- Lều Điều Hành: vị trí dễ quan sát toàn diện sa mạc.
- Lều Thánh Thể: vị trí cao ráo, thoáng mát, rộng rãi, sạch sẽ, riêng biệt…
- Khu Ẩm Thực: Tránh gần chỗ sinh hoạt, thuận tiện cho việc lấy nước, chỗ rửa và đổ rác.
- Lều Sa Mạc Sinh: hướng về khu vực trung tâm.
- Sân Cờ, khu vực học tập, vui chơi: Cần chỗ rộng rãi, bằng phẳng, an toàn.
- Nhà Tắm, Vệ Sinh: Không nên quá xa mà cũng không quá gần các lều.
Chương trình Sa mạc:
Tuỳ theo kế hoạch và mục tiêu huấn luyện đã đề ra mà Ban Điều hành phải sắp xếp chương trình sa mạc sao cho phù hợp, cụ thể như sau :
- Theo kế hoạch Huấn luyện, các bài khoá sẽ dược chọn lựa và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên. tuỳ theo Huấn luyện viên để sắp xếp giờ giấc cho phù hợp. Nên tham khảo trước với các Huấn luyện viên
- Mời Huấn luyện viên theo đúng khả năng chuyên môn của họ cho các bài khoá.
- Sắp xếp các giờ giải lao xen kẽ, giờ nghỉ ngơi, vệ sinh cá nhân. Nên sắp xếp bài khoá nào có vẻ hấp dẫn, sôi động vào sau bữa ăn trưa.
- Đừng tham lam, ôm đồm nhiều. Nếu thời gian và hoàn cảnh cho phép, chuẩn bị các khoá lý thuyết trước để sa mạc sinh học hỏi trước.
- Giờ nghỉ đêm đừng quá trễ, giờ thức giấc không nên quá sớm, giờ vệ sinh cá nhân vào buổi sáng đừng quá ngắn.
- Đừng để một người ôm hai ba việc một lúc hoặc không nên khoán trắng cho một người.
Trong chương trình Sa mạc cần duy trì các điểm nhấn, cụ thể như sau:
Các Ý lực trong Sa mạc: Ngày Cầu Nguyện, Ngày Thánh Thể, Ngày Hy Sinh, Ngày Tông Đồ
Các Sinh Hoạt Truyền Thống: Chầu Thánh Thể, Viếng Thánh Thể, Lửa Thiêng Thánh Thể, Hành Trình Sa mạc
Các Sinh Hoạt Chuyên Môn, Chuyển Khoá, Khen Thưởng:
- Bài hát, băng reo, trò chơi ngắn
- Thăm viếng lều trại
- Thi đua kỹ thuật chuyên môn
- Khen thưởng: Tua, Cờ Danh Dự, Quà Thưởng.
d/ Giai đoạn Hậu Sa mạc:
- Đúc kết sa mạc, rút ưu khuyết điểm, Tổng kết toàn bộ sa mạc và báo cáo lên Ban Điều hành cấp trên về công việc tổ chức sa mạc;
- Trình kết quả học tập của Sa mạc sinh và đề nghị cấp quyết định công nhận cấp chứng chỉ huấn luyện cho sa mạc sinh;
--- oOo ---
Bài 8 : Phương pháp huấn luyện siêu nhiên của Thiếu Nhi Thánh Thể
Mục đích của việc giáo dục TNTT cốt để giúp các em đạt tới mức trưởng thành về thể chất và tinh thần. Để được như vậy phải có thời gian, việc giáo dục thường tiệm tiến trải qua những giai đoạn khác nhau cả về mặt sinh lý lẫn phương diện lý trí và đời sống tâm linh.
Về mặt sinh lý, giúp cho các em vui sống, phát huy các tiềm năng vốn có nơi mỗi em. Về mặt tâm linh, giúp các em đi vào mối tương quan thân tình và sống hòa hợp với Chúa và với anh chị em. Phương pháp siêu nhiên TNTT nhằm giáo dục các em về đời sống tâm linh.
Phương pháp siêu nhiên đặt nền trên hai bàn tiệc là Lời Chúa và Thánh Thể. Thánh Kinh và Thánh Thể là hai bàn tiệc nuôi dưỡng đời sống tâm linh cũng như hướng dẫn công tác giáo dục.
1. Ngày Thánh Thể .
Cộng đoàn tín hữu đầu tiên đã tồn tại là nhờ chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy và siêng năng tham dự lễ bẻ bánh. Nhờ vậy, mọi thành phần trong hội thánh hiệp thông với nhau một cách sâu xa, trở nên một lòng một ý. Yếu tố sâu xa giúp họ trở nên một và đồng tâm nhất trí với nhau đó chính là Thánh Thể. Quả thế, Thánh Thể có một tầm quan trọng, sức mạnh và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tâm linh của mỗi người kitô hữu.
Phong trào TNTT đã xoáy vào nét trọng tâm này: Phong trào quy tụ các em quanh Chúa Giêsu Thánh Thể nhằm giúp các em nên người Kitô hữu, biết yêu thương và phục vụ. Đưa các em đến với Chúa Giêsu để chính Chúa Giêsu huấn luyện các em..
Tham dự Thánh lễ và rước lễ là lúc các em đi vào huyền nhiệm của tình yêu Ba Ngôi và trở nên một trong tinh thần với Người. Từ đó các em sẽ chuyên cần cầu nguyện, vui vẻ làm việc và mau mắn chu toàn bổn phận. Thông qua những việc ấy giúp các em kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể cách mật thiết hơn. Do vậy, phải giúp các em ý thức về giá trị và tầm quan trọng của giờ cầu nguyện. Hơn nữa Thánh lễ, rước lễ chính là lúc các em sống mối tương quan với Chúa trong từng giây phút của cuộc đời, trong mỗi nơi, mỗi hoàn cảnh. Là một thụ tạo các em không thể chiêm ngưỡng, sống mối tương quan với Chúa nếu không cần đến lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa. Bởi vậy, ta phải giúp các em biết xét mình, xin Chúa tha thứ và quyết mỗi ngày nên giống Chúa hơn.
2. Giờ Thánh Thể
Thánh Thể đóng vai trò quan trọng trong đời sống đức tin Kitô giáo, vừa là quà tặng cao qúi của Thiên Chúa vừa là thần lương cho chúng ta trên đường dương thế. Thánh Thể có vai trò đặc biệt, vì vừa là bí tích trao ban ân sủng mà còn là chính Đấng ban ân sủng. Chúa Trời đất trở nên tấm bánh nhỏ bé để gần gũi con người, để hòa nhập với con người. Để họ đến tâm sự và giãi bày cùng Ngài mà không e sợ, để Ngài ở trong ta và ta ở trong Ngài.
Đưa các em Thiếu Nhi đến với Chúa Giêsu Thánh Thể là giúp các em có giờ phút tâm tình, thờ lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, đây là phương cách hữu hiệu để các em sống tình hiệp thông với Chúa Giêsu qua lòng mến và nảy sinh tình bác ái với mọi người.
Thánh thể diễn tả cụ thể và rõ nét mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của con Thiên Chúa, Ngài trở nên gần gũi và giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ tội lỗi. Ngài trở nên giống chúng ta cốt để chúng ta nhận ra dấu chỉ tình yêu khiêm tốn của Thiên Chúa. Qua dấu chỉ ấy, Ngài mời gọi chúng ta hãy đến với Ngài.
Như thế, Thánh Thể cho chúng ta thấy toàn bộ sự sống mới được trao ban cho nhân loại đều xuất phát từ Đức Kitô: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì có sự sống đời đời và Tôi cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”. Chính nhờ sự sống mới trong Đức Kitô làm triển nở và tăng trưởng lòng mến của các em đối với Chúa Giêsu và đối với tha nhân. Để giúp tăng trưởng đời sống tâm linh của các em TNTT ta phải đưa các em đến với Chúa, chiêm ngắm và dọn lòng rước Chúa Giêsu Thánh Thể cụ thể hoặc cách thiêng liêng.
3. Học Hỏi Và Sống Lời Chúa.
Thánh Giêrônimô xác quyết: “Ai không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”. Lời Chúa là sức mạnh và là nguồn sống mới, hiểu và xác tín điều đó, nên Thánh Phêrô mới tuyên tín “Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy có lời ban sự sống đời đời”. Giáo Hội cũng ý thức rằng: “Lời Chúa có sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ, tăng cường, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội và lương thực nuôi sống linh hồn của mỗi tín hữu”. Rao giảng lúc thuận tiện cũng như không thuận tiện.
Do đó, phong trào giúp các em tiếp cận với Chúa bằng việc học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa. Chính việc suy niệm, sống Lời Chúa, giúp các em có một cái nhìn đúng đắn, biết suy nghĩ, đánh giá sự kiện, phản ứng trước các tình huống trong đời sống theo tình thần Tin Mừng.
4. khung Cảnh Thánh Kinh.
Lời Chúa là nền tảng giáo dục cho phong trào. Như thế, để giáo dục, hình thành nhân cách, mỗi người cần phải tiếp cận và đào sâu Lời Chúa. Khi chúng ta nói PTTNTT được xây dựng trên nền tảng Thánh Kinh là chúng ta muốn minh định rằng: Cái nền vững nhất là gì nếu không phải là Lời Chúa: “Lời Chúa tồn tại mãi mãi”. Nhà xây trên nền đá sẽ tồn tại mãi dù phong ba bão táp.
Tái tạo một khoảng không gian nhất định trong lịch sử, nơi đó, lúc đó, diễn ra lời Thiên Chúa nói, những việc Thiên Chúa làm cho nhân loại. Lời Thiên Chúa ngày nay, vẫn còn vang vọng ở mỗi nơi, mỗi lúc, trong mỗi hoàn cảnh, giúp người say mê tìm kiếm Thiên Chúa qua Lời Chúa, sẽ khám phá ra nếu người hướng dẫn không khơi gợi cho các em khung cảnh linh thánh và sinh động hầu các em dễ tiếp cận, dễ gặp gỡ Thiên Chúa.
Nhờ gặp gỡ, tiếp cận với Thiên Chúa qua khung cảnh Thánh Kinh như chất dinh dưỡng nuôi sống đức tin của các em. Tuỳ theo lứa tuổi Phong Trào TNTT cố xây dựng khung cảnh sinh động nơi đó, con Thiên Chúa đã sống, đã gặp gỡ, đã cầu nguyện. Nhờ đó các em dễ hiểu và nhớ lâu.
5. Bầu Khí Thánh Kinh.
Mục đích của việc giáo dục không chỉ nhằm hiểu và nhớ lâu mà còn phải được chứng minh bằng chính thái độ sống; bởi mục đích của việc giáo dục là giúp các em đi từ cuộc sống- lên tới Chúa và trở về cuộc sống. Đây cũng chính là nhịp sống hàng ngày và thường xuyên của các em. Để đạt được cuộc sống ấy, người giáo dục không chỉ giúp các em gặp gỡ nhưng còn phải biết sống hiệp thông thân mật với Chúa Kitô. Làm sao các em có thể sống thân mật với Chúa Kitô nếu các em không hiểu và yêu mến Chúa Kitô.
Biết và yêu mến Chúa Kitô chính là châm ngôn sống của Thánh Augustino: “Hãy yêu đi rồi bạn muốn làm gì thì làm”. Và đây cũng chính là châm ngôn sống của các thiếu nhi. Biết và yêu mến Chúa Kitô là gì nếu không phải là giúp các em tiếp cận với Chúa Giêsu qua khung cảnh Thánh Kinh bằng những lời nguyện, bài hát, trò chơi, băng reo, vũ khúc đượm mầu Thánh Kinh tạo nên môi sinh thấm đậm Lời Chúa. Đạt được mục đích tối hậu như thế thì khung cảnh Thánh Kinh được tổ chức thành công.
Thánh Kinh và Thánh Thể là hai lãnh vực sinh hoạt trong đời sống tâm linh của TNTT; chính Thánh Kinh, Thánh Thể như sức mạnh, nguồn sống của các em. Đồng thời, Thánh Kinh và Thánh Thể là nền tảng của giáo dục. Như Thánh Gioan Bosco nói: “Đứa trẻ không phải chỉ được yêu nhưng các em phải cảm thấy mình được yêu. Thánh Thể và Thánh Kinh thắm đẫm trong phương pháp siêu nhiên và tự nhiên bảo đảm cho việc giáo dục thiếu nhi, góp phần làm phát triển toàn diện cả về phương diện thể chất lẫn tinh thần.
--- oOo ---
Bài 9 : Lãnh nhận Lời Chúa
“Lãnh nhận Lời Chúa em ơi xiết bao mừng vui.
Lãnh nhận Lời Chúa em ơi gắng ghi trong lòng.
Em nhớ rằng Thiên Chúa yêu em.
Ngài yêu em không bờ bến.
Ngài yêu em đến muôn đời…”
I. LÃNH NHẬN LỜI CHÚA
Lãnh nhận là sự tiếp thu với niềm vui, với lòng biết ơn một ân huệ, một phần thưởng, một món quà: có thể là lời khuyên, lời chúc tụng... mà đối tượng thụ lãnh mong muốn trong một quá trình, một nỗ lực bản thân vươn đến thành công. Ví dụ: Lãnh bằng tốt nghiệp, lãnh phần quà học bổng, lãnh nhận ý kiến đóng góp…
Lãnh nhận Lời Chúa là phút gặp gỡ chân thành giữa Thiên Chúa và bản thân người lãnh nhận, qua Lời Chúa tác động, người lãnh nhận lắng đọng, suy gẫm quãng thời gian sống đã trải qua: điều được, điều chưa được, cùng tạ ơn và xin ơn Chúa soi sáng, nâng đỡ để trở nên người tín hữu tốt lành như Chúa mong muốn.
Lãnh nhận Lời Chúa cũng là lúc trao ban, chia sẻ: “Chúa đã thực hiện trên tôi như thế nào?”, “Tôi đã đáp lại lời chỉ bảo của Người ra sao, tôi còn thiếu sót, sai lỗi gì?” Do đó, buổi lãnh nhận Lời Chúa sẽ giúp cho các thành viên tin tưởng hơn về tình thương Chúa quan phòng, cùng nhau học hỏi kinh nghiệm nơi bạn bè trong bầu khí chân thành, quyết tâm vươn tới.
Tóm lại lãnh nhận Lời Chúa là kết quả của việc đọc Kinh Thánh, suy niệm và sống Lời Chúa, qua đó cho thấy chúng ta đã “nghe” Lời Chúa thế nào, từ đó sẽ có định hướng và quyết tâm hoán cải.
“Cảm thấy hối lỗi vì những thiếu sót, đã bỏ qua không nghe tiếng mách bảo của lương tâm cũng như của các thành viên xung quanh nhắc nhở… Hứa từ nay sẽ cố gắng sửa đổi lỗi lầm thiếu sót và cố gắng sống tốt hơn.
1- Là một Huynh Trưởng của Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể, với tôn chỉ Lời Chúa là nền tảng và là chất liệu cần thiết cho đời sống Kitô hữu. Việc lãnh nhận Lời Chúa là điều rất cần thiết.
2- Để việc lãnh nhận Lời Chúa đem lại hiệu quả thiết thực Huynh Trưởng phải:
a. Siêng năng đọc và suy gẫm Lời Chúa.
b. Đón nhận và sống Lời Chúa truyền dạy.
c. Yêu mến và theo sự hướng dẫn của Giáo Hội về chú giải Lời Chúa.
d. Ap dụng Lời Chúa vào sinh hoạt của phong trào (cụ thể trong việc thực hiện 10 điều luật sống bác ái.)
e. Chia sẻ lòng yêu mến Lời Chúa cho các em và các đồng sự.
II. ÁP DỤNG GIỜ LÃNH NHẬN LỜI CHÚA
TRONG PHONG TRÀO THIẾU NHI THÁNH THỂ
1/ Địa điểm và thời gian lãnh nhận Lời Chúa:
Nội quy điều 53- Chương IV: Sinh hoạt Tổng Liên Đoàn, nêu rõ: “Lời Chúa trong Thánh Kinh là nền tảng và là phương pháp huấn luyện của Tổng Liên Đoàn.” Điều này cũng đồng nghĩa: mỗi thành viên trong Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể xác tín: Lời chúa là nền tảng và là chất liệu cần thiết cho đời sống của mỗi người.
Theo truyền thống Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể, trong các kỳ Sa mạc huấn luyện việc lãnh nhận Lời Chúa thường được thực hiện trước bữa cơm trưa, thời gian khoảng 15 phút. Với mục đích nhắc nhở chúng ta rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4,4)
2/ Lãnh nhận Lời Chúa hiệu quả, thiết thực:
Để giờ lãnh nhận Lời Chúa đem lại kết quả tốt đẹp, chúng ta phải:
+ Thành tâm lắng nghe Lời Chúa, để Lời Người thấm nhập và tác động trong đời sống chúng ta.
+ Thật lòng chia sẻ một cụm từ, một câu trong đoạn Kinh Thánh tác động sâu sắc đến bản thân. Tránh giảng giải, cắt nghĩa từ ngữ. Tôn trọng ý kiến của các thành viên khác. Không nên sửa lỗi ai trong lời chia sẻ.
+ Lắng nghe, học hỏi bạn bè trong giờ lãnh nhận.
III. TIẾN TRÌNH CỦA GIỜ LÃNH NHẬN LỜI CHÚA:
1/ Cùng hát hoặc đọc kinh về Chúa Thánh Thần, xin ơn Ngài soi sáng để đón nhận Lời Chúa sắp công bố.
2/ Một người đọc đoạn Kinh Thánh Tân Ước hay Cựu Ước (có thể đọc chung, chậm rãi, rõ ràng, nghiêm trang). Đội trưởng hay Trưởng hiện diện nói ít lời mở đầu.
3/ Một ít phút thinh lặng để Lời Chúa thấm vào mỗi tâm hồn.
- Đặt mình vào khung cảnh diễn ra đoạn Tin Mừng
- Ngắm nhìn khuôn mặt của các nhân vật, đặt mình vào hoàn cảnh của từng nhân vật.
- Ngắm nhìn hành động của các nhân vật.
- Lắng nghe Lời Chúa nói qua các nhân vật.
- Kiểm điểm lại bản thân
- Quyết tâm biến đổi cuộc đời mình
4/ Mỗi người chia sẻ, những gì đã suy nghĩ. Vi dụ như :
§ XEM: Qua đọan Lời Chúa, cụm từ nào hay câu Lời Chúa hôm nay đã tác động đến tôi như thế nào? Chúa muốn nói và nhắc nhở tôi điều gì?
§ XÉT: Các nhân vật khiến tôi nhớ lại biến cố nào trong cuộc đời tôi? Tôi đã có hành động như thế nào? Tôi cảm thấy sung sướng vì làm đẹp lòng Chúa? Hay tôi cảm thấy hối hận, hối tiếc, hổ thẹn, buồn vì đã yếu đuối làm phiền lòng Chúa.
§ LÀM: Tôi phải làm gì đề đáp lại Lời Chúa hôm nay đã nói, đã nhắc nhở tôi…
5/ Cảm tạ ơn Chúa (bằng lời nguyện, lời kinh, hoặc bài hát chung)
Lưu ý:
+ Nên chọn đoạn Kinh Thánh phù hợp với ý lực sống mỗi ngày Sa mạc
+ Không nhất thiết tất cả các thành viên đều phát biểu. Lắng nghe chia sẻ để học hỏi và quyết tâm hoán cải cũng là cách lãnh nhận Lời Chúa.
--- oOo ---
Bài 10: Phương pháp tổ chức nhân sự áp dụng vào việc
điều hành đoàn
“Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Ga 10,14)
DẪN NHẬP
Phương pháp hàng đội trong phong trào Thiếu nhi Thánh Thể là một phương pháp giáo dục tự nhiên giúp các em tự tin, có tinh thần đồng đội, trách nhiệm tự quản và chăm sóc lẫn nhau, đồng thời giúp việc tổ chức và giáo dục đạt hiệu quả cao. Như vậy, mỗi đội trưởng trong phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể cũng là nhà lãnh đạo nhỏ. Nếu các đội trưởng không được huấn luyện thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến các thiếu nhi khác.
Lãnh đạo là một nhiệm vụ khó khăn và nặng nhọc:
Lãnh đạo phải sống sao cho người ta lắng nghe và đi theo vì người ta khám phá nơi bạn một sức mạnh nội tâm mà không gì có thể hủy diệt.
Lãnh đạo là một nhiệm vụ cao quí, vì vậy người trưởng cần có đời sống thiêng liêng sâu sắc: biết làm việc tốt và cuốn hút người khác làm những việc tốt như mình.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu là gương mẫu cho chúng ta về nhà lãnh đạo tài ba, nhân hiền và đầy lòng thương xót. Ngay từ những giây phút đầu rao giảng, Chúa Giêsu đã có các tông đồ bên cạnh. Trên đường rao giảng, Ngài không ngừng dạy dỗ để họ có thể kế tục sự nghiệp cứu độ của Ngài và làm cho danh Cha cả sáng.
I. KHÁI NIỆM VỀ ĐỘI NGŨ
1. Con người ưu tiên hàng đầu .
Con người là yếu tố vô cùng quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của tổ chức. Chính vì vậy trong chiến lược xây dựng và phát triển một tổ chức các nhà điều hành cần phải đặt mối quan tâm về con người lên hàng đầu.
Người lãnh đạo phải thuyết phục và bảo đảm những thành viên tích cực và tận tâm rằng: Thiện chí của họ được định hướng đúng và người lãnh đạo luôn trân trọng và đánh giá đúng giá trị cũng như thành quả của họ.
Trong đoàn Thiếu nhi Thánh Thể, các huynh trưởng cần hiểu biết và luôn tâm niệm: mỗi người có đặc sủng và nhiệm vụ phụng sự khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí, không ai ít giá trị hơn ai.
· Thánh Phaolô nói: người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người được ơn hiểu biết để trình bày, người được ơn chữa lành bệnh, người nói tiếng lạ, người giải thích tiếng lạ… Nhưng chính Thần Khí duy nhất làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách tuỳ theo ý của Người (1Cr 12, 4-11).
· Khi ý thức điều này, các thành viên sẽ không tranh chấp và giành quyền lợi cũng như địa vị cao thấp mà chung sức hy sinh tích cực đóng góp vì lý tưởng chung.
· Các huynh trưởng cũng nên nhớ: Người có quyền đánh giá mọi hoạt động của ta là Thiên Chúa, chính nhà lãnh đạo uy quyền này luôn định hướng đúng và đánh giá đúng những thành quả của mỗi người. Do đó chúng ta đừng tranh giành để được khen thưởng hay tệ hơn đừng tìm cách chiến thắng kẻ khác, nhưng làm sao chiến thắng được chính mình, chiến thắng những cám dỗ về địa vị và quyền lợi, hãy quyết tâm đem Chúa cho các em thiếu nhi, nghĩa là đạt thành quả tốt đẹp trong công tác được giao: đó mới chính là một đội ngũ đúng nghĩa.
2. Sức mạnh của đội ngũ
Dân gian thường nói: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Có những việc mà một người không thể làm nhưng với sức mạnh của tập thể họ đạt những thành tựu bất ngờ. Tuy nhiên cần phân biệt: Tập hợp các cá nhân không thể xem là một đội ngũ khi họ không có kỹ năng, như vậy không thể kỳ vọng họ đạt những mục tiêu của một tổ chức.
Một đội ngũ khi biết chung sức, có thể đạt những thành tựu đáng kinh ngạc. Họ phải thể hiện sự thống nhất về mục đích, sự phối hợp đồng bộ giữa các thành viên và đối với một số người thì họ còn là biểu hiện của sự bình đẳng.
Mỗi tổ chức phải lưu ý những điểm sau:
Các thành viên chính là cội nguồn thành công, họ phải tận tâm với các mục tiêu chính của đội ngũ. Và, để họ có thể duy trì được tinh thần và động lực làm việc tích cực, trưởng nhóm phải tạo cơ hội để các thành viên thể hiện năng lực bản thân.
Công việc của thành viên phải mang tính thách thức khả năng và luôn tiến triển theo thời gian.
Quản lý hiệu suất làm việc là một hệ thống bao gồm nhiều hoạt động như thiết lập mục tiêu, theo dõi những sự thay đổi, huấn luyện, khích lệ, đánh giá, và phát triển nhân viên. Những việc này đòi hỏi sự tương quan mật thiết giữa nhà quản lý và nhân viên. Do đó việc đầu tiên phải làm là xây đựng đội ngũ.
II. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
1. Lựa chọn đội ngũ
Đây là việc rất quan trọng: Chúa Giêsu đã lên núi cầu nguyện trước khi chọn lựa các tông đồ. (Lc 6,12-16). Đến sáng, Người gọi các môn đệ lại, chọn lấy 12 ông gọi là Tông đồ, đó là Simon gọi là Phêrô….
Ngoài đời các cơ quan tuyển nhân viên theo bằng cấp và khả năng chuyên môn. Đa số người được chọn thường đạt những tiêu chuẩn, theo yêu cầu của công việc.
Họ giống như những viên gạch mẫu đúng loại, đúng kích thước.
Ở giáo xứ không được như vậy, một tập thể thường gồm các tình nguyện viên ở các độ tuổi và những trình độ khác nhau. Đó là những viên đá ghồ ghề khi to, khi nhỏ, khi tròn, khi dài. Việc quan trọng đối với người trưởng là biết xây dựng một thành luỹ không phải bằng những viên gạch chuẩn nhưng bằng những viên đá gồ ghề đó, vì vậy cần phải khéo léo kết hợp họ lại, bằng chính tình yêu thương chân thành và bằng lý tưởng, sứ mệnh chung là theo gương Chúa Giêsu phục vụ các thiếu nhi. Tuy nhiên nếu các tình nguyện viên có quá nhiều khiếm khuyết không thể khắc phục được, tốt hơn bạn nên hướng dẫn họ vào một đoàn thể khác, thích hợp với họ hơn. Thánh Phaolô có những tiêu chuẩn nghiêm khắc: “Người giám quản cần phải đứng đắn hiếu khách và có khả năng truyền giảng không được hay gây sự,… các trợ tá là người đàng hoàng biết giữ lời hứa không rượu chè say sưa” (1Tim,3).
Theo tài liệu Hướng Dẫn dành cho Giáo lý viên: “huynh trưởng-Giáo lý viên phải trưởng thành về mặt nhân bản” có nghĩa là có sự quân bình tâm sinh lý, sức khỏe tốt, có trách nhiệm, thật thà, năng động, đạo đức trong sinh hoạt nghề nghiệp và gia đình, có tinh thần hy sinh v.v… Kế đến, giáo lý viên cần có khả năng thích hợp cho công tác như dễ dàng tiếp xúc gặp gỡ, làm việc chung với người khác, phán đoán minh bạch, hiểu biết và thực tế.
Tốt nhất là chọn những người năng động, những người mà tự bản thân họ đã có động lực thúc đẩy. Bạn có thể nhận biết sự năng động qua thái độ lạc quan, tự tin, và sẵn sàng đón nhận thử thách. Những người này chỉ cần bạn giao phó công việc đúng với khả năng, hỗ trợ những nguồn lực phù hợp, thì họ sẽ hoàn tất công việc cách hiệu quả.
Nếu bạn khởi sự với những con người phù hợp với công việc, bạn sẽ dễ thành công. Đội ngũ sẽ tăng thêm sức mạnh khi có những thành viên tài giỏi .
Có trưởng rất sợ người khác hơn mình, nên chỉ chọn những người ngoan ngoãn dễ khuất phục, như vậy đội ngũ sẽ sớm đi xuống và thất bại vì không có sáng kiến, vì ý tưởng quá nghèo nàn và đơn điệu. Bất cứ tập thể nào cũng cần đa dạng và sự đóng góp tài sức của các thành viên. Vì vậy nên chọn những thành viên với những khả năng khác nhau có thể bổ sung cho nhau. Không nên sưu tập các ngôi sao tài năng nhưng thích tranh nhau để trở thành siêu sao.
Vẫn biết: “Bá nhân bá tánh”, nhiều người càng có nhiều mâu thuẫn nhưng trưởng sẽ không dễ bị khuất phục trước một người nào đó có cá tính mạnh.
2. Vai trò các thành viên
Để có một đội ngũ tốt cần hội đủ các vai trò :
Người lãnh đạo là người hướng dẫn thành viên không lạc mục tiêu, hỗ trợ cho các thành viên đạt hiệu quả tối đa và hoàn tất công việc xuất sắc.
Người sáng tạo, thông minh, có óc sáng kiến, tìm cái mới nhưng luôn tuân thủ các luật lệ. Biết phê bình, phân tích các ý kiến khách quan và lôgích.
Người thực hiện: biến tư tưởng thành hành động, lên kế hoạch, xác định thời hạn và chỉ tiêu công việc.
Người đôn đốc: trực tiếp giám sát mức độ tiến hành công việc, tạo bầu khí thi đua trong tinh thần “chung sức vì việc chung”.
Người tháo vát biết tháo gỡ các vướng mắc, và tìm cách nối kết các ý kiến.
Người phối hợp: nhạy cảm với nhu cầu của thành viên, giữ cho mối tương quan giữa các thành viên luôn hài hòa.
Người hoàn tất: nhắc nhở các thành viên đóng góp vào mục tiêu chung.
3. Huấn luyện
Bất kỳ công ty nào cũng đều chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực.
Công tác huấn luyện rất quan trọng: Ở các cơ quan mặc dù các thành viên được tuyển chọn là những người đáp ứng những chuẩn mực đề ra, nhưng khi được phân công vào chuyên ngành vẫn cần được huấn luyện.
a. Đạo đức và kiến thức
Một người tài giỏi thông minh nhưng thiếu đạo đức sẽ càng nguy hiểm cho xã hội. Tiến bộ khoa học không đi đôi với tiến bộ về đạo đức sẽ dẫn thế giới đến hủy diệt.
Ở giáo xứ, để thành lập xứ đoàn trước hết phải huấn luyện đội kiểu mẫu, các đội trưởng, nếu được huấn luyện đúng, sẽ là những nhà lãnh đạo nhỏ và những tông đồ nhiệt thành. Các huynh trưởng cần phải được huấn luyện toàn diện và chuyên biệt về kiến thức tôn giáo, đạo đức, tâm lý giáo dục, sư phạm, chuyên môn.
Từ ngày tái thành lập liên đoàn đã tổ chức rất nhiều sa mạc huấn luyện. Thông thường có các khóa huấn luyện về mọi lĩnh vực cho huynh trưởng giáo lý viên các cấp ở giáo phận, các sa mạc riêng cho huynh trưởng ba ngành Ấu, Thiếu, Nghĩa. Ngoài ra còn có các buổi thường huấn cho các huấn luyện viên.
Ở xứ đoàn cần tổ chức các khóa huấn luyện tông đồ đội trưởng, dự trưởng và các khóa chuyên biệt: khóa sư phạm giáo lý, tâm lý cho các lứa tuổi, các sinh hoạt kỹ thuật chuyên môn ... Những buổi họp hàng tuần là những buổi huấn luyện thường xuyên cho các huynh trưởng nhất là trong hoàn cảnh hôm nay, mỗi huynh trưởng còn phải đảm trách việc dạy giáo lý cho các em.
Các huynh trưởng cũng được nhắc nhở, hướng dẫn tự rèn luyện và đào sâu kiến thức. Những tài liệu này có thể tìm thấy ở văn phòng Ban mục vụ thiếu nhi.
b. Tinh thần đồng đội hay đời sống cộng đồng
Muốn đạt kết quả tốt ngay từ đầu các trưởng phải tạo được:
Bầu khí yêu thương: thật sự trong tình liên đới. Yêu thương là lệnh truyền của Chúa. Khi sống chan hòa yêu thương mọi người sẽ tương trợ nhau trong công việc.
Khi thành công họ hiểu rằng đó là kết quả của tập thể: “Tôi trồng anh tưới, nhưng Chúa mới cho mọc lên”. (1Cr 3,8)
Khi thất bại cùng chung chia trách nhiệm, không đổ lỗi cho riêng ai, các thành viên phải biết liên đới để cùng bắt đầu và lại bắt đầu.
Tín nhiệm lẫn nhau trong chân thành và trung thực. Chân thành sống đúng con người của mình không che đậy, không thổi phồng. Chúa dạy: “Có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5,33-37). Trung thực: không làm việc theo kiểu đối phó. Chỉ làm việc khi có cha hay bề trên.
Dám góp ý sửa sai cho tập thể trong sự kính trọng và yêu mến. Hy sinh vì lý tưởng cao đẹp: Việc của các huynh trưởng là việc không lương. Những hy sinh hôm nay, sẽ được thưởng công mai sau trên trời mà thôi. “Cáo có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20). Do đó các trưởng cần:
Trưởng thành trong công việc: Ý thức tự giác và tinh thần trách nhiệm, tích cực, chủ động, sáng tạo vì sự tồn tại và phát triển của đoàn. Nếu áp dụng triệt để phương pháp hàng đội trong sinh hoạt sẽ đào tạo những thành viên trưởng thành có tinh thần đồng đội tuyệt hảo.
III. SINH HOẠT CỦA ĐOÀN
1. Phân công
Để có thể thành công trong trách vụ của mình, trưởng cần phải biết mọi vấn đề liên quan đến công việc của mình với nguyên tắc “Không phải làm gì cả, nhưng có thể làm được tất cả”. Dù giỏi mấy, một người cũng không thể làm hết mọi việc, luôn cần sự hỗ trợ của các thành viên trong đội.
Để phân công đúng, đừng quên nguyên tắc vàng. Chúa nói: “Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”.
Biết là điều kiện để thành công. Phải biết: Xem người, xem hoàn cảnh, xem việc. Người quản trị nhân sự phải biết rõ khả năng của từng người, biết rõ về tính tình, lý lịch, người dưới quyền.
Nhất là tìm hiểu hoàn cảnh hiện tại để xếp đặt công việc, chương trình cho thích hợp, để phân công đúng người, đúng vị trí phù hợp với khả năng, giúp họ đạt kết quả tốt. Thí dụ: Có trưởng đủ tài đức nhưng vì hoàn cảnh gia đình và thời gian, ta không thể nài ép họ tham gia.
Giao nhiệm vụ cho thành viên phù hợp với những mặt mạnh và điều kiện thời gian của họ. Có người không muốn phân công vì không chấp nhận người khác, và cũng không muốn chia sự thành công cho bất cứ ai. Thật ra, người trưởng phải biết công nhận những tài năng cá biệt và động cơ của mỗi thành viên để sắp xếp con người và công việc cho hợp lý. Đừng quên: Biết phân công là cơ hội giúp mình và những người khác thăng tiến. Những thử thách là cơ hội kích thích họ phát huy tài năng.
Trong Cựu Ước, lúc đầu Môsê cố gắng tự giải quyết mọi vấn đề nhưng không xuể, về sau chính ông bố vợ là Jethro gợi ý cho ông chọn lựa một đội ngũ gồm những người có khả năng và giao cho họ trách nhiệm giải quyết các công việc từ đó dòng người chờ đợi ông trước lều không còn nữa. (Xh 18,21-24).
Trưởng biết trao quyền cho những thành viên, cho phép họ hoạt động, tạo điều kiện tốt, xây dựng cho họ những kỹ năng cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ, và cho họ cơ hội nâng cao những kỹ năng để phù hợp với những công việc có qui mô lớn. Không thể nào có tiến bộ nếu bạn không biết khai thác khả năng tối đa của mỗi người. Hãy thách thức họ trong một vài trường hợp đặc biệt, trong các công tác đa dạng của xứ đoàn từ chuyện học đến chuyện giải trí: các sa mạc huấn luyện, các chuyến dã ngoại, giao lưu, các lễ hội, các sinh hoạt hè, văn nghệ, thi đua, chiến dịch….
2. Quản lý công việc
Vậy nhà quản lý giỏi không chỉ đạt được mục tiêu của phòng ban, mà còn phải có được sự nể trọng và tin tưởng của nhân viên cấp dưới thông qua những hoạt động hiệu quả sau đây:
+ Duy trì được chuẩn mực cao cho bản thân và cho cấp dưới
+ Trao quyền và phát triển nghề nghiệp cho nhân viên cấp dưới
+ Thừa nhận những đóng góp của người khác
+ Đón nhận ý kiến phản hồi khách quan
+ Khen thưởng cho hiệu suất làm việc tốt
+ Quan tâm đến mục tiêu cá nhân của cấp dưới
Theo cách hiểu thông thường thì chu kỳ quản lý hiệu suất làm việc bắt đầu từ việc thiết lập mục tiêu, sau đó là theo dõi tiến trình thực hiện và cuối cùng là đánh giá, thường là trong cuộc họp.
a. Thiết lập mục tiêu
Sự đóng góp của thành viên: Các thành viên cần biết công việc của mình. Trong nhiều trường hợp, việc truyền lệnh, phổ biến yêu cầu cho nhân viên không đem lại hiệu quả cao so với việc gợi ý, để nhân viên được tự do phát huy nhiều hơn trong suy nghĩ, hành động và đóng góp cho kế hoạch làm việc. Thí dụ bạn ra chiến dịch trong mùa Giáng sinh, trong buổi họp, hãy cùng nhau thảo luận, lắng nghe những ý kiến đóng góp.
Khi bạn và các thành viên đạt được sự nhất trí, hãy ghi chép những kết luận trong biên bản chính thức gồm các chi tiết :
- Thời gian họp
- Các điểm chính được hai bên nêu ra
- Các mục tiêu mà nhân viên đồng ý theo đuổi
- Những gì nhân viên sẽ làm để đạt được mục tiêu
- Mô tả bất kỳ hình thức huấn luyện hay đào tạo nào mà bạn đồng ý hỗ trợ
- Ngày đánh giá chính thức hiệu suất làm việc của nhân viên.
Tránh trường hợp chỉ hợp đồng miệng rồi bỏ qua.
b. Ra quyết định:
Trưởng phân chia công việc rõ ràng cho người thừa hành đúng với khả năng của họ. Làm cho họ hiểu vai trò, công việc của họ là gì, họ có khả năng thực thi vai trò đó. Chúa Giêsu sai các môn đệ lên đường với những chỉ dẫn rõ ràng. “Huấn luyện, ban cho quyền trừ quỷ, đi từng hai người, không mang gì trừ gậy…”(Lc 9,1-5)
Hãy giao việc, đề ra chỉ tiêu, xem xét kết quả và xác định tiến trình công việc.
c. Xác định chỉ tiêu và thời gian
Trưởng cho biết thời gian bắt đầu và hoàn tất. Xác định mức độ để căn cứ vào đó mà đánh giá kết quả tốt hay xấu. Chỉ tiêu phải hội các điều kiện :
- Có thể đạt được, không quá cao
- Có khả năng kích thích, không quá thấp. Những thách thức chính là cơ hội cho thành viên phát triển
- Phổ quát cho mọi thành viên có thể thực hiện. Loan báo chỉ tiêu và giải thích tường tận
3. Theo dõi tiến trình thực hiện:
Sau khi đã thống nhất và ra quyết định thực hiện chương trình, trưởng cần bảo đảm các thành viên thực hiện đúng kế hoạch để mọi việc không bị chệch hướng.
Theo dõi, nhắc nhở khôn khéo, tránh xâm phạm vào lãnh vực mình đã trao trách nhiệm, hãy để họ làm việc theo cách thức và phương pháp của họ.
Tuy nhiên không nên có thái độ lơ là theo kiểu đem em bé bỏ xuống nước mà không dạy bơi. Không thể bắt một tân huynh trưởng đứng lớp khi chưa được trang bị kiến thức đầy đủ và chưa có cơ hội thực tập. Xứ đoàn nên tổ chức những buổi dạy mẫu, dự giờ và khéo léo phê bình để giúp các tân huynh trưởng đứng lớp.
Huynh trưởng không phải chỉ để sai vặt hay chỉ lo sinh hoạt vui nhộn. Nhiều xứ đoàn người ta chia ra: anh chị lớn lo giảng bài còn huấn luyện chuyên môn, dạy sinh hoạt thì trao cho các em hay ngược lại.
Trong tinh thần hòa đồng vui vẻ, người trưởng năng kiểm soát công việc và có thể tiếp tay mọi việc nếu thấy trục trặc, ngưng trệ, thiếu sót để có thể đóng góp và quyết định kịp thời, chuẩn xác.
4. Báo cáo công tác:
Các buổi họp theo phương pháp giáo dục của phong trào rất cần thiết và mang tính bắt buộc đối với mọi thành viên. Các huynh trưởng báo cáo việc mình đã làm, chưa làm hoặc không thực hiện được, góp ý thảo luận.
Vào một thời điểm đã xác định, thí dụ cuối giai đoạn một của chiến dịch, các trưởng ngồi lại cùng nhau đánh giá mức độ thực hiện, xét theo các mục tiêu đã định. Sau đó bàn bạc về các mục tiêu mới. Đây là kết thúc tự nhiên của một chu kỳ quản lý hiệu suất làm việc và bắt đầu cho một chu kỳ mới. Tuy nhiên, giữa điểm bắt đầu và kết thúc này, trưởng có nhiều cơ hội để can thiệp tích cực thể hiện qua những lần kiểm tra định kỳ.
5. Đánh giá kết quả:
Khi trưởng làm việc theo nguyên tắc tôn trọng và bình đẳng sẽ phát sinh những thành viên trung thành, nhiệt tình và làm việc có hiệu quả.
Cần giải quyết những bất công cũng như tặng thưởng xứng đáng một cách nhanh chóng.
a. Trường hợp thành viên không đạt yêu cầu
Phải giải quyết ngay, không có thái độ tránh né như “đà điểu thấy nguy hiểm vùi đầu trong cát”. Một thành viên làm sai, nếu không chận đứng, sẽ tạo thói quen vô tổ chức, vô trách nhiệm cho toàn bộ tập thể.
Cách giải quyết: Mỗi vấn đề đều có nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân trước khi có biện pháp. Hãy nhớ giữ gìn phẩm giá và lòng tự trọng của cấp dưới bằng mọi giá, ngay cả khi bạn phải phê bình hiệu suất làm việc của họ. Bạn không thể khích lệ nhân viên nếu bạn tước bỏ phẩm giá của họ: khen ngợi trước mọi người nhưng gặp riêng để phê bình. Sự xúc phạm đến phẩm giá cấp dưới thường hủy hoại động lực làm việc của người ấy.
Phê bình: Gặp riêng, lắng nghe họ trình bày có thể ta sẽ tìm ra nguyên do những sai trái và có hướng giải quyết. Chỉ khi nào trầm trọng mới đưa ra hội đồng.
Tìm một quyết định tích cực.
b. Khen thưởng
Quản lý công việc còn để phát hiện và tích cực khuyến khích thưởng công cho những hành động tốt có tính chất xây dựng.
Như vậy, không chỉ làm người khác dễ chịu mà còn góp phần xây dựng mục tiêu chung nhờ làm tăng lòng trung thành và hiệu suất làm việc của nhân viên.
Có hai loại phần thưởng: tinh thần và vật chất. Phần thưởng tinh thần không thể định lượng được nhưng đem lại sự thoả mãn cá nhân như ý thức thành đạt, sự cảm nhận công việc của mình thành công và được đánh giá tốt. Phần thưởng vật chất là hình thức công nhận cụ thể như tăng lương, thăng tiến, tiền thưởng…
Cả hai loại phần thưởng này đều hiện diện trong hệ thống quản lý hiệu suất làm việc như giáo sư Brian Hall của Đại học Kinh doanh Harvard nói: “Nhân viên được thúc đẩy bởi cả phần thưởng tinh thần lẫn vật chất”.
Công ty Continental Airlines tặng mức thưởng đầu tiên là 65 đôla cho ai hoàn thành chỉ tiêu đúng thời hạn, và cứ thế mức thưởng tăng dần.
Có một câu hỏi được đặt ra: có nên trả lương cho huynh trưởng-Giáo lý viên?
Frederic Hertzberg nhận xét: Đồng tiền có thể là một động lực mạnh, nhưng nó lại thường thúc đẩy những hành vi sai trái -chẳng hạn như khuyến khích nhân viên xem thường nguyên tắc đạo đức miễn sao kiếm được nhiều tiền thưởng- và không xây dựng sự tận tâm.
Vì vậy huynh trưởng, ý thức sứ mạng mang tính siêu nhiên của mình, sẽ không cần phần thưởng nào hơn là biết mình đang thực hiện và hoàn thành tốt thánh ý Chúa. Nhưng không vì vậy mà không khen thưởng. Động lực thúc đẩy mạnh nhất thường là phần thưởng tinh thần. Phong trào cũng cần khuyến khích bằng phần thưởng hoặc hình thức nào mang tính tinh thần, nhờ đó các thành viên tự đánh giá mức độ nỗ lực và thành công của mình.
IV. ĐỨC TÍNH TỐT CỦA NHÀ QUẢN LÝ
1. Lúc bình thường
Để thành công người lãnh đạo cần trang bị những kiến thức cần thiết, những kỹ năng cơ bản như: giao tiếp, quản lý, phát triển nhóm… trau dồi những đức tính nhân bản và những nhân đức, cao trọng nhất là Đức ái. Thánh Phaolô nói “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8).
Một người trưởng cần phải :
+ Bao dung độ lượng: vì đó là hành động có tính thuyết phục nhất. Đừng bỏ qua những nhu cầu cảm xúc của từng người, Chúa Giêsu luôn săn sóc từng con chiên. “Hãy đối xử với tha nhân theo cách ngươi muốn người ta đối xử lại với mình”.
+ Khiêm tốn: Người lãnh đạo cần ý thức rằng: chức vụ quyền hành là để phục vụ tha nhân chứ không để phục vụ cá nhân mình. Chúa Giêsu nói: “Thủ lãnh các dân thì lấy quyền mà thống trị, những người làm lớn thì dùng uy quyền mà cai quản dân.. Giữa anh em không được như vậy : Ai muốn làm lớn thì phải làm người phục vụ ….” (Mt 20,25-27). Trưởng phải luôn cư xử hiền hòa với mọi người, cả với người đồng cấp hay người dưới cấp.
a. Với ban chấp hành: Có tinh thần đoàn kết hợp tác. Luôn tươi vui, niềm nở lắng nghe, tìm hiểu, cảm thông. Bàn bạc trước khi ra quyết định. Luôn nêu cao tính công ích, khi quyết định.
b. Với người dưới cấp: Có tinh thần của một trưởng đúng nghĩa với ý muốn dìu dắt đàn em nên tốt. Giao việc hợp khả năng. Khi giao việc, nhắc lại những nỗ lực đã thực hiện để bàn đến những việc sắp làm.
Không ép các thành viên vào việc ngoài khả năng. Khi thử thách cũng cần bàn luận trao đổi trước. Khuyến khích khi trao nhiệm vụ khó khăn, nên nhớ là khuyến khích chứ không áp đặt.
Lắng nghe tâm tư nguyện vọng của các thành viên trong những buổi họp đoàn, họp ngành nhất là trong những lần tiếp xúc cá nhân.
Luôn chính trực không thiên vị ai. Tránh thái độ cửa quyền nhưng kiên quyết và khéo léo khi truyền đạt một quyết định. Thay cách nói “Hãy làm” bằng cách nói “Chúng ta cùng làm”.
2. Lúc gặp khó khăn
Không nên có: Những thái độ hốt hoảng, thiếu bình tĩnh. Bi quan, chán nản, phóng đại cái khó phải vượt qua. (Chúa Giêsu và các môn đệ trước sóng to gió lớn).
Nhưng: Cầu nguyện để tìm ý Chúa, và can đảm sống Lời Chúa. Can đảm chấp nhận mọi hy sinh và luôn bình tĩnh vượt qua thử thách. Can đảm nhận trách nhiệm xem ra khó thực hiện, biết khiêm tốn nhận những bất toàn của mình, khôn ngoan bàn hỏi với cấp trên, trưởng phụ trách, cha Tuyên úy…..
V. PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ LÃNH ĐẠO
1. Chuẩn bị đội ngũ kế thừa
Đây là việc quan trọng mà các trưởng thường quên, việc phát triển đội ngũ là việc có ý nghĩa sống còn của một tổ chức. Hãng phần mềm Trilogy phân công cho một nhân viên cũ bảo trợ một nhân viên mới, nếu đạt kết quả sẽ được thưởng 1.000 đô la, nhưng nếu thất bại sẽ bị trừ 4.000 đô la.
Một nhà lãnh đạo tốt luôn coi trọng thành công của tổ chức hơn lòng tự tôn vì vậy họ ước muốn cho người nối nghiệp thành công hơn mình. Công ty Pepsico đào tạo hơn 1.500 nhà quản lý tại nhà nghỉ trên quần đảo Cayman
Một tổ chức sẽ không phát triển, không tồn tại nếu người trưởng không trao quyền cho người kế nhiệm đã được phát triển đầy đủ và biết chia sẻ sứ mệnh.
Có những sự kiện khẩn cấp và bất ngờ có thể xảy ra. Trong mọi tình huống, người lãnh đạo cần chuẩn bị người thay thế mình, khi phải vắng mặt đột xuất hoặc theo thời gian ấn định trước, như sau một nhiệm kỳ chẳng hạn, cốt sao cho công việc chung không bị đình trệ.
Như vậy người lãnh đạo trong khi thi hành nhiệm vụ sẽ huấn luyện cho người thừa hành bằng cách chia sẻ công việc và hướng dẫn họ thực hành. Thường xuyên đánh giá khả năng người kế tục. Tận tâm hướng dẫn và chỉ bảo là chìa khoá để phát triển những người lãnh đạo tốt cho tương lai. Môsê từng dạy bảo cho Giôsuê trong Lều Hội Ngộ (Xh 33,9-11).
Ngay từ đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã có các tông đồ bên cạnh. Ngài không ngừng huấn luyện các ông. Ngài đã chuẩn bị cho lực lượng kế thừa. Trong Tin Mừng ta có thể đoán ra ý định của Chúa Giêsu: Ngài thường nói chuyện với các tông đồ và Phêrô cũng thường đại diện anh em để thưa chuyện với Chúa. Trong danh sách các tông đồ Phêrô được nhắc tên đầu tiên.
Trong các sách Tin Mừng tên Simon Phêrô được nhắc đến 184 lần, các tông đồ khác thì rất ít ngay cả thánh Gioan tông đồ chỉ được nhắc đến 30 lần.
Chúa có vẻ lưu ý đặc biệt Simon, Ngài đã chọn thuyền của Simon để ngồi giảng dạy và tiên báo Simon sẽ là kẻ chài lưới người (Lc 5, 3-8). Ngài hứa cầu nguyện cho Phêrô để khi chỗi dậy ông làm kiên vững anh em
Trong vườn cây dầu, giữa cơn đau đớn tột cùng, Chúa hỏi Phêrô: Anh em không thể canh thức với Thầy một giờ sao? (Mt 26,40-41). Huynh trưởng giáo lý viên không là những người làm thuê nhưng được cộng tác vào việc làm sáng danh Chúa, việc rao giảng Tin Mừng, là việc phải thực hiện dài dài cho đến khi Chúa đến.
Là người kế tục sứ mạng của Chúa, huynh trưởng sẽ học hỏi nơi Chúa Giêsu, cũng sẽ chuẩn bị cho đàn em thực hiện tốt sứ mạng kế thừa. Vì vậy liên đoàn không ngừng huấn luyện các huynh trưởng huấn luyện viên.
2. Sự chuyển giao công tác
Nhà lãnh đạo sẽ chuyển giao từ từ, để thế hệ lãnh đạo kế tiếp có sự phát triển đầy đủ và nối nghiệp thành công. Ta hãy xem sự ra đi của Môsê khi trao việc lại cho Giôsuê, đó là một cuộc chuyển giao thật tốt đẹp trong Cựu Ước: Khi ông được 120 tuổi, biết mình không thể sang qua sông Giođan vào Đất Hứa, ông nói với ông Giôsuê trước mặt toàn thể Israel “Mạnh bạo lên, can đảm lên! Chính anh sẽ cùng với dân này vào đất Đức Chúa đã hứa. Chính Người sẽ ở với anh” (Đnl 34, 7). Ông Giôsuê đã được đầy thần khí khôn ngoan vì ông Môsê đã đặt tay trên ông.
Không tham quyền cố vị nhưng sẵn sàng rút lui khi cảm thấy những người kế thừa đã đủ khả năng “Khi các hoa trái có khả năng làm nhiều điều tốt đẹp và hữu ích hơn cả cây sản sinh nên chúng, thì chúng đang làm tôn vinh chính cây đã sản sinh nên mình” (Ga 14,11-14).
Kết luận :
Đoàn Thiếu nhi Thánh Thể sẽ tồn tại và phát triển nếu mỗi thành viên được huấn luyện: trưởng thành trong nhân bản và trong đức tin, luôn quảng đại hy sinh, phục vụ trong khiêm tốn, nhiệt thành và bao dung.
Tuy là người lãnh đạo, Chúa Giêsu luôn phục vụ:“Con người đến không để được phục vụ nhưng để hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân” (Mc 10,45).
Cuối năm phụng vụ, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ. Trong bài Tin mừng chúng ta được xem hình ảnh một vị vua, không cẩm bào, không vương miện chịu chết trần trụi trên thập giá. Vua ở đây được hiểu là Vua Tình thương, Vua của sự trao ban và tha thứ. Nhà lãnh đạo ở đây là một Mục Tử nhân lành, hy sinh mạng sống cho đàn chiên.
Huynh trưởng hãy bắt chước gương của Chúa Giêsu nhà lãnh đạo khôn ngoan, tài ba, nhưng hiền lành và có trái tim biết thương cảm này: “Ai muốn làm đầu phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân” (Mt 20,25-28)
--- oOo ---