Ngày đăng: Oct 12, 2016 3:5:8 PM
Bài 1: Tổng quát về Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam
Mọi việc xẩy ra đều có nguyên nhân. Nguyên nhân thường là các biến cố hoặc do sáng kiến. Sự hiện diện của Thiếu Nhi Thánh Thể cũng không ngoại lệ. Thiếu Nhi Thánh Thể đã có khởi đầu từ những biến cố:
- Năm 1865, cha Léonard Cross và cha Henri Ramière qui tụ các thiếu nhi Pháp trong hội cầu nguyện, chống lại chủ trương tục hóa trong xã hội Pháp, đang ảnh hưởng đến các trường học Công giáo nhất là thanh thiếu niên lúc bấy giờ. Hội được gọi là Đạo quân của Đức Giáo Hoàng, lấy tinh thần đạo binh Thánh giá, thay vì bảo vệ đất thánh thì bảo vệ tâm hồn các em.
- Hưởng ứng Sắc lệnh Quam Singulari của Đức Giáo hoàng Pio X ban hành năm 1910 nhằm khuyên khích lòng tôn sùng Thánh Thể và cho phép các thiếu nhi được rước lễ sớm hơn (7 tuổi). Năm 1917, cha Albert Bessière, thuộc dòng Tên đã thành lập Hội Nghĩa binh Thánh thể (quân của Chúa Giêsu Thánh Thể) với tôn chỉ là cầu nguyện, rước lễ, hy sinh và làm tông đồ. Phong trào phát triển lớn mạnh trên khắp nước Pháp và các nước Âu châu.
- Thấy hiệu quả tốt đẹp của phong trào Nghĩa binh Thánh Thể, hai cha dòng Xuân bích là Léon Palliard và Paul Uzureau đã đem vào Việt nam: Đoàn Nghĩa binh Thánh thể đầu tiên được thành lập tại Hà Nội năm 1929, rồi tiếp tục đến Huế, Saigon, Phát Diệm, Thanh Hóa, Vĩnh Long, Qui Nhơn, Thái Bình, Bùi Chu, Mỹ Tho, Xuân Lộc, Phú Cường và phát triển rộng rãi tại hầu hết các Giáo phận. Quả thật, trong vòng 25 năm (1929–1954) Nghĩa binh Thánh Thể đã chứng minh được hiệu quả giáo dục thiếu nhi.
- Năm 1954 do biến cố chia đôi đất nước, Nghĩa binh Thánh Thể tại các giáo phận miền Bắc tạm ngưng hoạt động. Bù lại Nghĩa Binh Thánh Thể lại phát triển nhanh và mạnh mẽ tại các Giáo phận miền Nam
- Năm 1957 Nghĩa binh Thánh Thể có tổ chức qui mô, được Hội đồng Giám Mục Việt nam chính thức công nhận và bổ nhiệm cha Micael Nguyễn Khắc Ngữ làm Tổng Tuyên Úy đầu tiên.
- Năm 1965, Hội đồng Giám mục Việt nam chấp nhận việc đổi danh xưng Nghĩa binh Thánh Thể thành Phong Trào Thiếu nhi Thánh Thể với vị tân Tổng Tuyên úy là Linh mục Phaolô Nguyễn Văn Thảnh.
- Trong 10 năm, từ năm 1965 đến 1975, Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể vừa phát triển vừa hoàn thiện về tổ chức cũng như về huấn luyện và đào tạo. Để đánh dấu bước trưởng thành của phong trào, Đại hội Huynh Trưởng toàn quốc VỀ ĐẤT HỨA I được tổ chức tại Bình Triệu-Sàigòn, qui tụ hơn 2000 huynh trưởng trong tổng số gần 4000 huynh trưởng thuộc 14 giáo phận phía nam.
- Năm 1975, các đoàn Thiếu nhi Thánh Thể tạm ngưng những hoạt động bên ngoài và được chuyển thành các lớp Giáo lý.
- Năm 1998, khi Đức Tổng Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn chính thức thành lập Ban Mục Vụ Thiếu Nhi, Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể cũng được nhen nhúm trở lại.
- Năm 2002 cha Trưởng ban Mục Vụ Thiếu Nhi, Giuse Phạm Đức Tuấn mời gọi các tuyên úy và huynh trưởng TNTT đã hoạt động trước năm 1975 ngồi lại. Năm 2003 chính thức tái lập Thiếu Nhi Thánh Thể tại Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh.
- Ngày 24 tháng 5 năm 2005, trong Bản Chỉ Dẫn Về Các Sinh Hoạt của Giới Thiếu Nhi Công Giáo, Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục Giáo phận Tp Hồ Chí Minh viết: “…nhằm đạt kết quả tối đa trong việc giáo dục Thiếu nhi, hai phương pháp được áp dụng là Phương Pháp Tự Nhiên và Phương Pháp Siêu Nhiên của Phong trào Thiếu nhi Thánh thể”. Từ đó Phong Trào Thiếu nhi Thánh Thể bắt đầu nở rộ trên toàn Giáo phận. Tính đến tháng 12 năm 2006, đã có hơn 60% các giáo xứ trong giáo phận đã tái lập Thiếu nhi Thánh Thể với gần 3000 huynh trưởng cấp I; hơn 300 huynh trưởng cấp II; 100 huynh trưởng cấp III và 30 huynh trưởng huấn luyện viên.
- Năm 2005 và 2006 Liên đoàn Giáo Phận Thành phố Hồ Chí Minh đã cử các Tuyên úy và huấn luyện viên đến tận nơi để hỗ trợ việc huấn luyện Huynh trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể cho các Giáo phận Mỹ Tho, Nha Trang, Huế và Hải Phòng. Một số giáo xứ thuộc các giáo phận như Nha Trang, Ban Mê Thuột, Cần Thơ, Xuân Lộc đã gửi người về tham dự các sa mạc huấn luyện của Giáo phận Thành phố.
Dù trải qua nhiều thời kỳ thay đổi về danh xưng, phương pháp; trải qua nhiều biến cố thăng trầm, Thiếu Nhi Thánh Thể vẫn là một đoàn thể đạo đức chuyên biệt dành cho trẻ em, nhằm mục đích gần là dạy các em yêu mến và sống kết hợp với Chúa Giêsu Thánh thể, bằng cách tập cho các em siêng năng rước lễ, sống cầu nguyện, hy sinh và làm tông đồ cho các bạn hữu cùng môi trường sống, đồng thời giúp các em trở thành những kitô hữu nhiệt tâm làm tông đồ và góp phần xây dựng xã hội trần thế.
Thiếu nhi Thánh Thể lãnh trách nhiệm giáo dục thiếu nhi về 2 phương diện siêu nhiên và tự nhiên: để các em trở thành người Kitô hữu hoàn hảo; và để các em trở thành những con người kiện toàn về tinh thần và thể chất giúp các em sống tích cực, tự nguyện, ý thức và dấn thân trong việc đem Chúa đến cho môi trường sống.
Giáo dục toàn diện cho thiếu nhi là vấn đề phức tạp và dài hơi. Phức tạp, vì thiếu nhi là lứa tuổi đang phát triển đang thành người. Cả tâm lý và thể lý của các em luôn thay đổi, tuy theo một định luật phát triển chung, nhưng mỗi em vẫn là một thế giới riêng, có môi trường và hoàn cảnh sống riêng. Việc giáo dục các em không những cần hiểu biết, nắm vững qui luật phát triển chung mà còn đòi hỏi phải gần gũi theo dõi sự phát triển bên trong và bên ngoài của từng em, đồng thời phải hiểu môi trường văn hóa, hoàn cảnh gia đình các em đang sống và lớn lên, từ đó mới mong đạt hiệu quả. Dài hơi vì Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể đảm trách việc giáo dục các em từ 6 tới 18 tuổi. Mười hai năm này rất quan trọng cho việc hình thành nhân cách của các em. Giáo dục không phải là nắn các em theo ý người lớn, nhưng là giúp các em khám phá và phát triển tiềm năng, là hướng thượng các khuynh hướng tự nhiên, là giúp từng bước định hình nhân cách của các em hầu tiến đến trưởng thành cách an toàn.
Để hoàn thành nhiệm vụ lớn lao và nặng nề đó, Phong trào TNTT song song với việc kiện toàn tổ chức, đã nghiên cứu và đưa ra một chương trình huấn luyện tiệm tiến: lấy Lời Chúa và Thánh Thể làm nền tảng, làm khung cảnh, là nguồn sống và bầu khí cho mọi sinh hoạt. Chương trình tiệm tiến gồm bốn phần chính: Giáo Lý, Nhân Bản, Phong Trào TNTT, Kỹ năng chuyên môn được soạn từ dễ đến khó, từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp áp dụng phù hợp với khả năng tiếp thu và nhận thức của từng lứa tuổi
Trong giáo dục thiếu nhi, việc dạy và học giáo lý là chủ yếu. Phong trào không chỉ dạy và dừng ở chỗ cho các em biết giáo lý, nhưng thông qua chương trình giáo lý, giúp các em từng bước gặp Chúa Giêsu, xây dựng mối tương quan biệt vị, để trong đời sống các em cảm nhận ngày càng sâu sắc sự hiện diện của Ngài, giúp các em nhận ra và đón nhận ý Chúa trong cuộc sống, qua các biến cố, đang khi các em sống trong một xã hội tục hóa, một thế giới ngày càng thờ ơ hoặc chối bỏ Thiên Chúa, gạt Thiên Chúa ra khỏi đời sống của mình dưới nhiều hình thức và lãnh đạm với tôn giáo.
Để giúp các em dễ dàng tiếp thu giáo lý, Phong trào TNTT chủ trương tạo cho các em một bầu khí mới, lành mạnh, phấn khởi, thích nghi và cởi mở để các em “vui mà học, học mà vui”
Song song với việc chuẩn bị và giúp các em tập sự, tìm kiếm, gặp gỡ Chúa ngang qua việc học giáo lý và sống đạo, Phong trào còn dạy các em về Nhân Bản để các em sống tốt mối tương quan với chính mình, với tha nhân và với cộng đồng.
Thiếu Nhi Thánh Thể là một phong trào Công giáo tiến hành, có đường lối, phương pháp giáo dục riêng nhằm tập cho các em bây giờ làm tông đồ cho các bạn hữu, và sau này làm tông đồ trong môi trường lớn hơn và phức tạp hơn. Ngày nay nhiều người trưởng thành, mà trước đây được giáo dục theo phương pháp Thiếu Nhi Thánh Thể đang tham gia các công tác tông đồ trong các hội đoàn, các Hội đồng mục vụ giáo xứ và các công tác xã hội rất nhiệt tâm và có hiệu quả nhờ áp dụng các giá trị Thiếu nhi Thánh thể mà họ đã lãnh hội từ thời niên thiếu.
Môi trường giáo dục và sinh hoạt chính của Thiếu Nhi Thánh Thể là giáo xứ. Về phương pháp tổ chức, TNTT là đoàn thể lựa chọn, nhưng về nhiệm vụ giáo dục, TNTT lãnh trách nhiệm giáo dục tất cả các thiếu nhi trong giáo xứ, tuyển lựa nhưng không loại trừ vì tuyển lựa để áp dụng cho đúng phương cách giáo dục với từng đối tượng. Tại Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, một đoàn TNTT trung bình có khoảng từ 300 đến 500 đoàn sinh các ngành Ấu, Thiếu, Nghĩa, Hiệp sĩ. Để tổ chức và giáo dục các em hữu hiệu, Phong trào áp dụng hệ thống tổ chức và điều hành từ giáo xứ lên giáo hạt, giáo phận và toàn quốc. Tại mỗi giáo xứ, đơn vị tổ chức căn bản là ĐỘI gồm từ 8 đến 12 em, dưới sự dẫn dắt của một em nhanh nhẹn, tháo vát, có uy tín và trổi vượt về khả năng chỉ huy. Từ 3 đến 5 đội cùng ngành, cùng phái hợp lại thành Chi đoàn dưới sự chỉ huy của ít nhất một huynh trưởng cấp I, là người đã được huấn luyện kỹ lưỡng và phải từ 18 tuổi trở lên.
Các Chi đoàn nam và nữ cùng ngành hợp lại thành Phân đoàn (Ấu, Thiếu, Nghĩa, Hiệp sĩ) có ít nhất một hoặc hai Huynh trưởng cấp II chỉ huy. Các Phân đoàn trong cùng một xứ hợp lại thành Đoàn hoặc còn gọi là Xứ đoàn, có một Ban Quản Trị gồm Đoàn trưởng, đoàn phó, thư ký, thủ quỹ trực tiếp điều hành dưới sự coi sóc của cha Tuyên Úy (Cha Phó hoặc chính cha sở).
Các Đoàn trong Hạt hợp lại thành Hiệp Đoàn, có Ban Quản Trị Hiệp đoàn gồm Hiệp đoàn trưởng, một hoặc hai Hiệp đoàn phó, Thư ký, Thủ quỹ dưới sự lãnh đạo của Cha Tuyên úy Hiệp Đoàn, thường do các cha trong hạt chỉ định.
Các Hiệp đoàn trong Giáo phận hợp lại thành Liên đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể giáo phận có Ban Chấp Hành Liên đoàn gồm Chủ tịch, Phó chủ tịch Nội vụ, Phó chủ tịch Ngoại vụ, Phó chủ tịch Nghiên huấn, thư ký, thủ quỹ và các ủy viên chuyên môn (tùy nhu cầu) trực tiếp điều hành liên đoàn dưới sự lãnh đạo của Cha Tuyên Úy do Đức Giám Mục Địa phận bổ nhiệm.
Các Liên đoàn trên toàn quốc hợp lại thành TỔNG LIÊN ĐOÀN TNTT VIỆT NAM có Ban Chấp Hành tổng Liên Đoàn trực tiếp điều hành dưới sự lãnh đạo của Cha Tổng Tuyên úy do Hội đồng Giám Mục Việt Nam bổ nhiệm.
Với số đoàn sinh đông đảo, hệ thống tổ chức quy mô như vậy, những huynh trưởng giữ của Phong trào cần được huấn luyện kỹ lưỡng để có thể hoàn thành trách nhiệm. Vì vậy, Phong Trào từ cấp Giáo phận và cấp toàn quốc có một ban chuyên môn nghiên cứu và huấn luyên, gọi tắt là BAN NGHIÊN HUẤN. Phong trào TNTT có nhiều cấp huấn luyện:
- Các đoàn tại mỗi giáo xứ tự tổ chức huấn luyện thường kỳ nhằm ôn tập và học thêm những điều cần thiết của đoàn.
- Các Hiệp đoàn tổ chức huấn luyện trưởng cấp I cho các đoàn trong hạt của mình. Trong trường hợp Hiệp đoàn không đủ nhân sự, có thể nhờ Liên đoàn yểm trợ.
- Liên đoàn tổ chức huấn luyện cấp II cho các Hiệp đoàn. Khi không đủ nhân sự, có thể nhờ Tổng liên đoàn yểm trợ.
- Tổng liên đoàn tổ chức huấn luyện huynh trưởng cấp III và Đặc Cấp cho các giáo phận. Tổng liên đoàn cũng có thể ủy quyền cho các Liên Đoàn tổ chức huấn luyện huynh trưởng cấp III cho những Liên đoàn có yêu cầu và có khả năng.
Phương pháp huấn luyện huynh trưởng của Phong trào TNTT là “VÀO SA MẠC”. Xưa kia dân Chúa, để tiến vào đất hứa họ đã bỏ lại sau lưng tất cả, được thanh luyện khi băng qua sa mạc. Trong sa mạc họ đã gặp Chúa, được Chúa từng bước dạy dỗ, uốn nắn bằng lời dạy và bằng những biến cố thăng trầm, để rồi họ nhận ra Chúa yêu thương, chổ che luôn ở với họ, nhận Chúa là Chúa của mình, sống theo các giới răn của Người, trở thành dân của Người. Ngày nay Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể đưa các huynh trưởng vào sa mạc, tạm quên đi những bận tâm, lo lắng thường nhật, sống trong điều kiện có thể là thiếu thốn, chung đụng, chịu đựng lẫn nhau, cùng nhau học tập, quây quần quanh Chúa Giêsu Thánh thể nơi nhà tạm, gặp Chúa để đối chiếu lại chính mình trước mặt Chúa trong giờ sám hối, giao hòa với Chúa, với anh em qua bí tích hòa giải, nghe tiếng Chúa, thờ lạy Chúa trong giờ Thánh Thể; để hâm nóng tình huynh đệ và cùng vui bên nhau trong đêm lửa thiêng Thánh Thể; Để khi chia tay trở về giáo xứ, họ được trang bị thêm khả năng và hân hoan với lý tưởng dấn thân, phục vụ.
Thành lập đoàn TNTT là việc khó nhưng nuôi dưỡng đoàn lại là việc khó hơn. Để duy trì và phát triển đoàn TNTT, cần có những sinh hoạt thường xuyên. Phong trào TNTT xử dụng hai phương pháp căn bản là Phương pháp siêu nhiên và tự nhiên.
Phương pháp siêu nhiên gồm:
- Giờ Thánh Thể: Chầu Chúa, gặp gỡ Chúa trong T.Thể
- Sống ngày Thánh Thể: Phong trào cổ vũ và tập cho các em sống mầu nhiệm tận hiến của Chúa Giêsu trong mọi chi tiết của đời sống, để mỗi ngày sống trở thành Ngày Thánh Thể qua việc dâng ngày, dâng lễ, rước lễ, viếng Chúa, hy sinh, làm việc tông đồ, lần chuỗi mân côi…
- Bó Hoa Thiêng: là cách giúp các em kiểm điểm đời sống mỗi tối không chỉ xét tội để ăn năn xin Chúa tha thứ, mà còn xét những việc tốt đã làm được trong ngày để cảm tạ Chúa nhờ đó cố gắng sống và làm việc tốt hơn.
- Học Giáo Lý: Giáo lý được dạy cho đoàn sinh trong các buổi họp. Hiện nay Ban Mục Vụ Thiếu Nhi đã có giáo trình giáo lý 12 năm gồm Giáo Lý, Nhân Bản, Phong Trào, và kỹ năng, được chia theo từng tuần ứng với các buổi họp của đoàn.
- Thánh Kinh: Lời Chúa là nền tảng của Phong trào. Đoàn sinh được dạy để hiểu biết, suy niệm, sống và chia sẻ Lời Chúa. Đồng thời dùng các bài ca, băng reo, trò chơi mang giá trị Thánh Kinh trong sinh hoạt và dùng tên các thánh, các nhân vật Thánh kinh đặt cho các đơn vị nhằm giúp các em làm quen và sống trong bầu khí Thánh kinh, bảo vệ các em khỏi những quyến rũ và bầu khí thế tục của môi trường xung quanh.
Phương pháp tự nhiên gồm:
- Phương Pháp Hàng Đội: Chia các em thành từng nhóm do một em làm Đội trưởng chỉ huy, dưới sự giám sát, hướng dẫn của huynh trưởng. Không nhắm mục đích “chia để trị”, nhưng nhắm mục đích giáo dục: có thể đến với từng em. Để các em biết làm việc chung, điều rất cần cho các em sau này khi lớn lên. Để các em tập lãnh trách nhiệm, tự đào luyện và giáo dục nhau
- Hội Họp: Hai hình thức hội họp quan trọng nhất là Họp đội và Họp chi đoàn.
Hội họp nhằm hai mục đích: để học theo chương trình Thăng tiến và để tổ chức, củng cố, duy trì, phát triển đơn vị.
- Sinh Hoạt Vui: Với Thiếu nhi cần vui để học. Dạy bài học bằng cách lồng vào các trò chơi, bài hát, băng reo. Dùng các sinh hoạt vui vừa để các em thư giãn vừa để củng cố bài học.
- Phương Pháp tiệm tiến: Dạy từng bước, tùy theo tâm lý của từng lứa tuổi, được lập lại nhiều lần, mỗi lần thêm chi tiết phong phú hơn để nâng cao dần nhận thức của các em. Đây là lý do Phong trào vạch ra Chương Trình Thăng Tiến, áp dụng cho các ngành Ấu, Thiếu, Nghĩa, Hiệp sĩ.
- Vào Sa Mạc: Với các đoàn sinh thì đơn giản hơn và nhắm mục đích giáo dục qua các sinh hoạt ngoài trời với các kỹ năng như lều trại, nút dây, truyền tin, … các kỹ năng này, tự nó không giúp nhiều cho cuộc sống hiện tại, nhưng hiệu quả giáo dục rất tốt, nó giúp kích thích, khơi dậy tiềm năng và phát triển năng khiếu (khéo tay, hoạt bát, lanh lợi, chịu đựng dẻo dai…)
Hơn ba phần tư thế kỷ hiện diện và hoạt động, TNTT Việt nam đã đem lại nhiều thành quả đáng khích lệ cho giới thiếu nhi, cho Giáo Hội, nhưng cũng không ít gian nan trắc trở. Trắc trở từ những khó khăn bên ngoài và từ những tiêu cực bên trong. Biến cố 1954 đã khiến TNTT miền Bắc ngưng hoạt động gần 30 năm, nhưng bù lại, TNTT miền nam lại phát triển mạnh và có qui mô tổ chức TNTT Việt nam rộng khắp. Biến cố 1975 khiến cho nhiều người tưởng TNTT Việt nam đã vĩnh viễn không còn, đóng lại ở trong nước thì TNTT lại được lan trải và phát triển mạnh mẽ tại các nước Âu châu, Mỹ châu và Úc châu. Ngày nay, TNTT đã và đang hồi sinh tại các giáo phận trên toàn quốc, tiếp tục sứ mệnh giáo dục thiếu nhi, góp phần vào việc tông đồ của Giáo hội, và chắc chắn sẽ cộng tác tích cực với mọi người, không phân biệt lương giáo, ý thức hệ để góp phần xây dựng xã hội. Những biến cố xem ra là thất bại, là mất mát, là trắng tay đó phải chăng lại là “duyên cớ” Chúa dùng để phát triển Phong trào ?
Dân Chúa xưa được thành lập do ý định của Chúa, khởi đi từ ơn gọi của Abraham. Giáo hội cũng được Chúa Giêsu thành lập khởi đi từ việc Chúa trao quyền cho Phêrô. Nhưng lịch sử cứu độ đã cho thấy cả dân cũ lẫn dân mới luôn phải chịu những thử thách, cả bách hại. Nhưng dân Chúa vẫn tiến vào đất hứa, Giáo hội vẫn tồn tại cho đến tận thế. Thiên Chúa có thể biến đổi sự dữ thành sự lành hay nói như thánh Phaolô: “Mọi sự đều sinh ích cho những ai có lòng yêu mến Chúa”.
Có ai nói chắc được rằng TNTT từ nay sẽ không còn những bước thăng trầm? Nhưng nếu nhìn TNTT như một công cụ trong tay Chúa, như một hồng ân Chúa ban cho giới trẻ Việt nam, thì đây là việc của Chúa, Ngài sẽ làm việc theo cách của Ngài chứ không phải theo cách chúng ta. Chúng ta cứ làm những việc phải làm của những đầy tớ vô dụng (Lc 15,7), bởi vì “Chính Chúa sẽ xây nhà cho Đavid, chứ không phải Đavid xây nhà cho Chúa”.
--- oOo ---
Bài 2: Vai trò của Thánh Kinh trong giáo dục Thiếu Nhi
Nội Quy Tổng Liên Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam xác định:
Điều 3: CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ, đang tiếp tục cách kỳ diệu Mầu Nhiệm Nhập Thể Và Phục Sinh trong cuộc đời chúng ta, là Lý tưởng của Phong trào.
Điều 4: LỜI CHÚA trong Thánh Kinh là nền tảng và là chất liệu đặc biệt Phong trào dùng để giáo dục, thánh hóa và hướng dẫn giới trẻ trong hoạt động tông đồ cũng như xã hội.
Nhận Chúa Giêsu Thánh Thể là Lý Tưởng của Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể, nghĩa là mọi thành phần trong Phong trào đã chọn đích điểm để đạt tới là Chúa Giêsu Thánh Thể. Đạt tới Chúa Giêsu Thánh Thánh Thể ở mức hoàn hảo nhất là kết hợp, là nên một với Ngài trong sự Cầu Nguyện, Rước Lễ, Hy Sinh và Làm Tông Đồ.
I. VAI TRÒ THÁNH KINH
Lời Chúa trong Thánh Kinh là Nền Tảng và là Chất Liệu Đặc Biệt…nghĩa là mọi thành phần trong Phong trào đã xác định con đường để theo nhằm đạt tới Chúa Giêsu Kitô, Lý Tưởng của Phong trào.
Con đường duy nhất dẫn tới Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa xác định trong ý định cứu rỗi của Ngài, và đã được Thiên Chúa cho diễn ra một các tiệm tiến ngay trong lịch sử nhân loại, lịch sử của một dân tộc, Dân Israel. Đó là Lịch Sử Cứu Độ.
Lịch Sử Cứu Độ bao gồm những Lời Thiên Chúa nói với con người ngang qua các tổ phụ, các ngôn sứ; Những việc Thiên Chúa làm cho con người và vì phần rỗi của con người, được truyền lại ngôn ngữ nhân loại và được chép lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, để chuẩn bị cho con người đón nhận Lời Sống Động của Thiên Chúa: Đức Giêsu Kitô. Đó là Thánh Kinh Cựu Ước. Thánh Kinh Cựu Ước trình bày cho mọi người biết Thiên Chúa là ai, con người là ai; đồng thời trình bày Thiên Chúa công bình, nhân hậu đối xử với loài người như thế nào…(HC.MK 15)
Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể “đã được sai đến với loài người”, “là Lời của Thiên Chúa” (Ga 3, 34) cùng với những việc Người làm, được ghi chép lại dưới sự Linh hứng của Chúa Thánh Thần vì phần rỗi của con người. Đó là Thánh Kinh Tân Ước. Qua bốn Phúc Âm, đã được các Thánh sử trung thành ghi lại những gì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, khi sống giữa loài người, đã làm và đã dạy vì phần rỗi đời đời của họ, cho tới ngày Người lên trời (Cv 1, 1-2).Các sách khác của Thánh Kinh Tân Ước là những lá thư và bút tích của các Tông Đồ hướng dẫn các tín hữu sống đạo, đã được viết dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, theo ý định khôn ngoan của Thiên Chúa để:
- Chứng thực những gì đã được nói về Chúa Kitô,
- Trình bày giáo lý đích thực của Người ngày rõ ràng hơn,
- Rao truyền sức mạnh cứu độ của công trình thần linh của Chúa Kitô,
- và kể lại những bước đầu, sự phát triển kỳ diệu, cùng tiên báo sự kết thúc vinh hiển của Giáo Hội…. (HC.MK 20)
Thánh Kinh (46 cuốn Cựu Ứơc và 27 cuốn Tân Ước) là Lời Thiên Chúa được ghi chép lại dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, được Hội Thánh công nhận và truyền lại cho ta.
Lời Thiên Chúa Tạo thành vũ trụ (Ga 1,3) - Lời Thiên Chúa đã kéo Abraham ra đi để thành lập một dân tộc cho Chúa (St 12,2-3) - Lời Thiên Chúa đã dẫn đưa và nuôi sống Dân trong sa mạc (Xh 4, 15-18) - Lời Thiên Chúa đã nuôi Dân trong suốt thời gian chờ đợi Đấng Cứu Thế, nhất là thời gian bị lưu đày và bách hại. (Dt 1,1-2)- Lời Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô, đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc do Chúa Cha giao phó (Ga 5,36) - Lời Thiên Chúa đã, đang và sẽ mãi mãi ở cùng chúng ta, Lời ấy hướng dẫn và nuôi dướng Giáo Hội cho đến tận thế. (Mt 28, 20) - Lời Thiên Chúa phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người (Dt 4, 12) - Lời Thiên Chúa có khả năng gây dựng và ban gia tài cho mọi người đã được thánh hóa (Cv 20, 32).
II. TRONG VIỆC GIÁO DỤC THIẾU NHI:
· Ơn gọi của Kitô Hữu, của các em thiếu nhi và của chính chúng ta, là tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa không thể tìm kiếm nơi nào khác ngoài Đức Giêsu Kitô.
· Giả thiết rằng các Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên là những người đã biết Chúa Kitô, nhiệm vụ chính yếu của chúng ta là giáo dục đức tin cho thiếu nhi. Chúng ta tin:
- Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa- Làm Người-đã chịu chết- đã sống lại-lên trời vinh hiển vì phần rỗi của loài người.
- Đức Giêsu Kitô, Đấng đã ban Thần Chân Lý là Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội để bảo đảm sự chân thật trong những điều Giáo Hội truyền đạt về Chúa Giêsu.
· Muốn giúp các em yêu mến và sống kết hợp với Chúa Giêsu, cần chuẩn bị cho các em con đường học biết về Ngài (Vì không biết thì không mến!) bằng cách giúp các em làm quen và học Kinh Thánh một cách tiệm tiến. Nói khác đi, Thánh Kinh là đường đẫn tất cả chúng ta đến với Chúa Giêsu. Vai trò của Thánh Kinh trong việc giáo dục thiếu nhi là đây!.
· Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Giêsu. (Thánh Gieronimo). Như chúng ta đã biết, Thánh Kinh là một bộ sách gồm nhiều quyển, nhiều thể văn khác nhau, được diễn tả bằng ngôn ngữ và tâm thức của những người thuộc một nền văn hóa (cách nghĩ) cách xa chúng ta cả về không gian lẫn thời gian. Nên, hiểu Thánh Kinh đã khó, việc dạy Thánh Kinh cho các em còn khó khăn hơn.
· Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên sẽ không dạy Thánh Kinh như những nhà chuyên môn nghiên cứu Thánh Kinh, bởi chính chúng ta không có khả năng ấy; và cũng không thể dạy các em theo cách ấy. chúng ta sẽ dạy Thánh Kinh cho thiếu nhi bằng con tim, bằng lòng xác tín của mình, được thể hiện qua cách nhìn đời, cách phản ứng trong đời sống hơn bằng lý trí.
· Theo tinh thần Sách “Hướng Dẫn Đại Cương về Việc Dạy Giáo Lý” của Thánh Bộ Giáo Sĩ năm 1997, Trong tất cả các bài học Thánh Kinh, dù đã được tài liệu cắt nhỏ hoặc phân chia theo yêu cầu của khoa sư phạm, Huynh truởng hay Giáo Lý viên khi dạy, phải, thông qua bài học đó, giúp các em hướng về Chúa Kitô. Những điều Giáo Lý muốn truyền đạt chính là Giáo Huấn Chúa Kitô, là Chân Lý mà Người thông truyền cho chúng ta. Chân Lý chính là Ngài. (xem Tài Liệu trên, trang 99) dẫn đưa họ đến trưởng thành, biết phán đoán sự việc trong ánh sáng đức tin.
· Về mặt tâm lý, để việc truyền đạt được sinh động, giúp các em vui học và dễ nhớ, khi dạy Thánh Kinh, Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên có thể áp dụng Phương pháp khung cảnh Thánh Kinh của phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể. Cụ thể là:
- Đối với Ấu Nhi: Tuổi mở ra những khả năng hoạt động rất quý báu. Dạy các em về Cuộc Đời Thơ Ấu của Chúa Giêsu với hoàn cảnh và những biến cố xảy đến với Ngài trong thời kỳ này; Giúp các em hiểu Chúa Giêsu càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan nhân đức… Đồng thời dạy các em sống theo gương Chúa Giêsu Thơ Ấu bằng những việc làm cụ thể trong đời sống hàng ngày trong gia đình, học đường, lớp Giáo Lý, Đoàn Thiếu Nhi… (Bé làm việc bé!)
- Đối với Thiếu Nhi: Dạy các em hiểu về Cuộc Đời Niên Thiếu (An Dật) của Chúa Giêsu với hoàn cảnh và biến cố xẩy đến với Ngài trong thời kỳ này; Giúp các em hiểu Chúa Giêsu đã lớn lên và sống tuổi niên thiếu như thế nào. Dạy các em sống theo gương Chúa Giêsu Niên Thiếu bằng những việc làm cụ thể trong đời sống hằng ngày nơi gia đình, học đường, lớp Giáo Lý, đoàn Thiếu Nhi…sống lòng tín thác, xả kỷ, biết hợp tác vui tươi.
- Đối với Nghĩa Sĩ: Dạy các em về cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu với hoàn cảnh, những biến cố, nội dung sứ điệp và cách ứng xử của Ngài trên đường rao giảng; Giúp các em hiểu nội dung sứ điệp Chúa Giêsu rao giảng; Dạy các em sống lời dạy của chúa Giêsu, học cách vâng phục của Chúa Giêsu với Chúa Cha, tình thương của Chúa Giêsu đối với mọi người. Giáo dục tinh thần trách nhiệm trong Hội thánh, biết làm chứng cho đạo trong xã hội
- Đối với ngành Hiệp sĩ: Thiên Chúa là tình yêu nguyên thủy và trọn vẹn. Bản chất tình yêu này là không giữ riêng một mình với Thiên Chúa mà Ngài muốn cho đi. Chiêm ngắm Chúa Giêsu chịu thương khó, chết trên Thập giá và Phục sinh vinh quang cho chúng ta thấy lòng Chúa yêu thương chúng ta vô cùng. Vì thế mục tiêu căn bản của cuộc sống con người là nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng hơn, cảm nghiệm tình yêu này sâu xa hơn và dấn thân phục vụ Ngài cách trung thành hơn theo gương mẫu Chúa Kitô.
Qua các dấu chỉ trong đời sống thường ngày con người được mời gọi để khám phá, nhận định, cộng tác và thể hiện ý Chúa muốn nơi chính mình. Nhờ đó con người có thể đáp trả và làm phát triển tình yêu mà Thiên Chúa hằng quan phòng qua thánh ý tốt lành của Ngài.
Chúa Giêsu qua bí tích Thánh Thể đã chia sẻ chính sự sống mình để hòa giải và hiệp nhất con người nên một trong tình yêu Thiên Chúa. Do đó người Hiệp sĩ Thánh Thể được mời gọi theo chân Thầy mình để cộng tác dấn thân và dự phần vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
KẾT LUẬN:
Tóm lại Thánh Kinh là kho tàng chân lý mà Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể đã chọn và rút từ đó những chất liệu giáo dục để:
- Giáo dục thiếu nhi cả về phương diện siêu nhiên lẫn tự nhiên: Nhờ học Thánh Kinh, các em được trang bị những hành trang cần thiết để lớn lên và vào đời với đời sống sung mãn về đức tin, hoàn chỉnh về nhân bản; Nhờ việc học hỏi, tập sống Lời Chúa hằng ngày, các em có khả năng sẵn sàng ứng phó với cuộc đời nhiều cạm bẫy và cám dỗ.
- Nhờ hiệu quả của việc học hỏi và sống Lời Chúa, các em có khả năng chọn lựa các giá trị cuộc sống khi phải va chạm với xã hội ngày càng đa dạng và ngày càng bị tục hóa ngày nay.
- Nhờ học Thánh Kinh, đường dẫn tới Chúa Kitô, các em và cả chúng ta, không chỉ “biết Chúa” nhưng là tiếp cận, là đích thân đụng chạm tới Chúa, là tạo được mối tương quan riêng biệt, sống động giữa ta và Chúa bằng một “tần số“ đặc biệt giữa Chúa và ta. Không ai có thể thay thế nhau trong mối tương quan này.(Ga 4,42).
--- oOo ---
Bài 3: Khung cảnh Thánh Kinh
Lời Chúa trong Thánh Kinh là nền tảng và là chất liệu giáo dục thiếu nhi, nghĩa là Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể được xây dựng trên nền tảng Thánh Kinh; đường lối, tôn chỉ, phương pháp đều dựa vào và thấm sâu Lời Chúa. Lời Chúa bao trùm và hướng dẫn mọi hoạt động của Phong trào. Tóm lại: Phong trào hoạt động trong khung cảnh Thánh Kinh.
Khung cảnh Thánh Kinh đích thực là khoảng không gian và thời gian trong lịch sử, nơi đó, lúc đó diễn ra những việc Thiên Chúa làm cho nhân loại; những lời Thiên Chúa nói với nhân loại, và sau này được ghi lại trong Thánh Kinh.
I.-TẠI SAO GIÁO DỤC THIẾU NHI BẰNG KHUNG CẢNH THÁNH KINH ?
Khung cảnh cũng có nghĩa là hình ảnh và sự kiện diễn ra trước mắt khiến người chứng kiến dễ cảm nhận, dễ nhớ và nhớ lâu
Những cuộc du khảo nhằm mục đích cho học sinh, sinh viên thấy tận mắt những điều bài học vừa được trình bày. Những cuộc hành hương về Thánh địa nhằm mục đích giúp cho khách hành hương thấy lại nơi mà xưa kia Thiên Chúa đến với nhân loại; nơi xưa kia Giêsu, Thiên-Chúa-Làm-Người đã sinh ra, lớn lên và hoàn thành sứ vụ cứu chuộc. Nhờ đó họ hiểu rõ hơn, nảy sinh tâm tình biết ơn và yêu mến.
II.-ÁP DỤNG KHUNG CẢNH THÁNH KINH CHO ĐOÀN SINH THẾ NÀO?
Tất cả chiều dài của Lịch sử cứu độ chỉ nhằm loan báo về một Con Người duy nhất: ĐỨC GIÊSU cứu thế và về một sự kiện duy nhất: Đức Giêsu giáng thế làm người, rao giảng, chịu chết và phục sinh để cứu chuộc nhân loại. Chúa Giêsu, Thiên-Chúa-Làm-Người, đã sinh ra, lớn lên và sống như mọi người ngoại trừ tội lỗi, là lý tưởng, khuôn mẫu cho chúng ta noi gương. Nói cách khác, Thánh Kinh là đường dẫn tới Chúa Kitô.
Vậy khung Cảnh Thánh Kinh áp dụng cho sinh hoạt Thiếu Nhi Thánh Thể và cho việc giáo dục đoàn sinh theo từng lứa tuổi chính là cuộc đời Chúa Giêsu.
1. Chúa Giêsu Ấu Thơ với biến cố Truyền Tin, thăm viếng; hang Belem, nơi Chúa sinh ra; cuộc di tản, tỵ nạn sang Ai Cập; Cuộc sống ngoan hiền, yêu thương; Cảnh sống ẩn dật, gia đình đầm ấm, yêu thương, bình an là khung cảnh thích hợp cho các em Ấu Nhi là tuổi biết suy nghĩ, thích sống theo nhịp êm đềm bình thản. Muốn có thời giờ để nhìn ngắm, lắng nghe, tìm hiểu. Châm Ngôn Sống của các em là NGOAN. Ngoan theo gương Chúa Giêsu.
- Mục đích giáo dục tuổi Ấu là giúp các em từng bước trở thành những ấu nhi ngoan ngoãn, đơn sơ, thật thà trong môi trường gia đình, học đường, đoàn thể; với bạn bè và mọi người các em gặp trong đời sống.
- Chất liệu giáo dục các em là những việc làm, bài học, bài ca, trò chơi xoay quanh các đề tài Thánh Kinh ngắn gọn, dễ hiểu và các đề tài mang tính giáo dục thực hành, đơn giản, cụ thể, phù hợp với tầm hiểu biết, và trí tưởng tượng của các em (trẻ biết cảm phục và thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, do đó giàu cảm quan tôn giáo và nhạy cảm với các mầu nhiệm). Gương sống của Ấu nhi là Chúa Giêsu thời thơ ấu: ngoan ngoãn, đơn sơ, biết cầu nguyện, vâng lời và chu toàn bổn phận. Nên tập cho trẻ dùng Thánh vịnh ca ngợi Thiên Chúa qua các vẻ đẹp của thiên nhiên.
- Tạo ra khung cảnh Thánh Kinh cho tuổi Ấu là tận dụng, hoặc tạo lại những cơ hội “nghe, nhìn” như các dịp lễ Truyền Tin, Giáng Sinh, Ba Vua, lễ Thánh Gia, dâng Chúa trong Đền Thờ, kết hợp với dịp tết nhi đồng (Trung Thu), ngày Quốc Tế Thiếu Nhi... nhằm giúp các em hình dung cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu, nơi và lúc Chúa Giêsu sinh ra, lớn lên và sống ngoan ngoãn trong gia đình êm ấm, nơi đó cha mẹ yêu thương, chăm sóc con; con yêu mến vâng lời, sẵn sàng giúp đỡ cha mẹ. Lương tâm chớm nở: trẻ tự mình đánh giá được các hành vi, phân biệt thiện ác, có thể chọn lựa thiện ác,... dấu hiệu là trẻ trở nên e lệ, khép kín, không còn hồn nhiên như trước, trẻ muốn biết tại sao khuyên làm điều này tránh điều kia...
2· Chúa Giêsu Thời Niên Thiếu: sống hy sinh, vâng phục ý Thiên Chúa; được dạy dỗ, yêu thương; biết phụ giúp cha mẹ…là khung cảnh thích hợp cho tuổi thiếu nhi. Châm Ngôn Sống của các em là HY SINH
- Mục đích giáo dục tuổi thiếu là giúp các em, từ căn bản ngoan ngoãn của tuổi Ấu, từng bước trở nên người biết sống cho và sống với người khác; biết đón nhận người khác trong cái hay và cái dở của họ; biết cộng tác với người khác, hy sinh cho nhau mà cụ thể là trong gia đình, nơi học đường, đoàn thể và những người các em gặp trong đời sống. Trẻ tuổi này có thể chịu đựng, cố gắng, chú ý bền hơn.
- Trẻ dễ bị thế giới bên ngoài lôi cuốn, những gì nghe thấy, sờ được sẽ lôi cuốn chú ý và sự thích thú của chúng, tuổi “thực nghiệm”. Chất liệu giáo dục các em ngành Thiếu là những việc làm, bài học, trò chơi, bài hát xoay quanh các đề tài Thánh Kinh, ngắn gọn, dễ hiểu nhưng đòi hỏi chút ít suy nghĩ (vì tuổi thiếu bắt đầu biết thác mắc) và những đề tài mang tính giáo dục phù hợp với tầm hiểu biết và óc phán đoán đang chớm nở của các em.
- Gương sống của các em là Chúa Giêsu thời niên thiếu vâng lời và hy sinh. Tạo ra khung cảnh Thánh Kinh cho tuổi Thiếu, tuổi bắt đầu thắc mắc, là tận dụng hoặc tạo ra những cơ hội giúp các em suy nghĩ, trình bày ý kiến để được giải thích và hiểu về những biến cố và thái độ sống thời niên thiếu của Chúa Giêsu trong Thánh Gia, trong Đền Thờ, nơi xóm ngõ... Chúa Giêsu đã sống vâng lời và hy sinh. Từ đó giúp các em suy nghĩ và chọn lựa cách sống tận tuỵ hy sinh trong từng môi trường, bằng những hy sinh nhỏ bé làm nền cho các em biết dấn thân trong môi trường lớn, “luôn nhìn thánh giá gặp khổ vẫn vui”. Trẻ thích hoạt động hơn suy nghĩ, không thích được bao che, hoặc gây cảm tình với người khác, nhưng thích quan sát người lớn làm việc, thích khám phá cách sử dụng máy móc, chế tạo đồ vật, có óc thực tiễn, chỉ nhằm kết quả, thích chuyện phiên lưu, chú trọng qui luật hành động, không thích chuyện thần tiên. Trẻ thường sống theo thói quen đều đặn, nên tập cho trẻ những tập quán tốt, những việc đạo đức đều đặn và trung kiên nhưng phải khơi động tinh thần bên trong, tránh làm theo hình thức, máy móc.
3· Chúa Giêsu Thời Rao Giảng với bước đường ngang dọc loan báo Tin Mừng; Thực thi Thánh Ý Cha; Chinh phục, cứu độ muôn dân là Khung Cảnh Giáo Dục dành cho tuổi Nghĩa Sĩ, những người trẻ tràn sức sống, sẵn sàng tham gia và nối tiếp bước đường rao giảng của Chúa Giêsu. Châm Ngôn Sống của các em là CHINH PHỤC
- Mục đích giáo dục tuổi Nghĩa làgiúp các em, từ căn bản ngoan ngoãn của tuổi Ấu và hy sinh của tuổi Thiếu, từng bước trở nên người trưởng thành: biết phán đoán chính xác; biết suy nghĩ độc lập; Có lương tâm trong sáng; có lòng trắc ẩn; có tinh thần bác ái, bất vụ lợi, sẵn sàng quảng đại dấn thân vì đại nghĩa.
- Vì tuổi Nghĩa là tuổi chuyển tiếp, tuổi bất ổn và hay chống đối, mang tiếng là vô kỷ luật, khó dạy, tỏ ra mình đã lớn (không còn là trẻ con mà chưa là người lớn) Chất liệu giáo dục các em Nghĩa là những việc làm, bài học, công tác, trò chơi, bài hát xoay quanh các đề tài Thánh Kinh và những đề tài mang tính giáo dục, dấn thân, phục vụ phù hợp với tuổi đầy tiềm năng, tuổi “nổi dậy và nghĩa hiệp” của các em.
- Tuổi dậy thì: trẻ chú ý đến những gì liên quan đến thân xác và sự sống, đồng thời trẻ trở nên đa cảm và mơ mộng, cần giúp chúng giữ quân bình. Gương sống của tuổi Nghĩa là Chúa Giêsu Thời Rao Giảng. Chúa đã sống, làm việc theo Thánh Ý Chúa Cha; Chúa yêu thương chữa lành, đã rao giảng và xua trừ ma quỷ, thẳng thắn khi cần, đã không thỏa hiệp với thế gian, tội lỗi.
- Tuổi này mơ ước hơn là nhìn rõ thực tế và ít khi thực hiện nổi điều đã dự định. Trẻ dễ phấn khởi vì lý tưởng nhưng lại mau chán trước thực tế. Tuy nhiên trẻ biết quảng đại, cố gắng dám hy sinh, cần nâng đỡ trẻ đừng nản lòng ngay cả khi thất bại, tập cho trẻ sống trong hy vọng. Tạo ra Khung Cảnh Thánh Kinh cho tuổi Nghĩa là tận dụng hoặc tạo ra những cơ hội cho các em tiếp cận Lời Chúa; học hỏi, suy nghĩ và tập sống Lời Chúa, để được Lời Chúa biến đổi. Lời Chúa đến với con người không dừng lại ở những chữ viết, như là mớ kiến thức, nhưng Lời Chúa đòi hỏi con người phải đáp trả bằng việc làm, bằng đời sống qua việc chiến thắng sự dữ, chinh phục các tâm hồn đưa họ về với Chúa. Đó là cách em Nghĩa sĩ sống châm ngôn Chinh Phục của mình vậy.
- Tuổi này ngưỡng mộ cuộc đời cao cả, gương sáng của các anh hùng và thánh nhân. Đối với tuổi này nên nhấn mạnh đến tiếng gọi của thánh nhân hơn là đến vâng lời, kỷ luật và vâng phục. Cuộc đời của thánh Phaolô cũng là gương mẫu cho các em
III.-KẾT LUẬN
Bắt nguồn từ nhận thức rằng “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” con người rất dễ chịu ảnh hưởng và bị cuốn hút bởi môi trường họ đang sống, nhất là trẻ nhỏ.
Muốn cho các em hít thở bầu khí đạo đức, thánh thiêng, cần phải đưa các em vào môi trường thiêng thánh-tức là khung cảnh Thánh Kinh bằng các sinh hoạt được khơi nguồn từ Thánh Kinh như bài hát, trò chơi, băng reo, vào sa mạc, lửa thiêng Thánh Thể bên cạnh các bài giáo lý, suy niệm, chia sẻ Lời Chúa cộng với những sinh hoạt đạo đức như dâng ngày, dâng lễ, viếng Chúa, lần hạt,... Những sinh hoạt khơi nguồn từ thánh Kinh này sẽ dần dần thấm sâu vào tâm hồn các em và trở thành chất dinh dưỡng cho các em trong cách suy nghĩ, cách nhìn, cách phản ứng trước các biến cố, hoàn cảnh sống đời thường. Tất cả đều phản ánh Lời Chúa dạy trong Thánh Kinh.
Tóm lại: Dạy về Chúa Giêsu tốt nhất là dẫn các em đến sống với Chúa trong khung cảnh cuộc đời của Ngài.
--- oOo ---
Bài 4: Tổ chức và thực hiện giờ Chầu Thánh Thể của Thiếu Nhi
Nội quy Thiếu Nhi Thánh Thể, điều 3: “Chúa Giêsu Thánh Thể, là lý tưởng của Phong Trào, đang tiếp tục cách kỳ diệu Mầu nhiệm nhập thể và Phục sinh trong cuộc đời chúng ta”;
Điều 5: “Tôn chỉ của Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể là sống Lời Chúa và kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể trong sự cầu nguyện, rước lễ, hy sinh và làm tông đồ”.
Như vậy, một trong những cách tuyệt hảo để vươn tới lý tưởng là kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể qua giờ chầu Thánh Thể. Để tổ chức giờ Thánh Thể cho Thiếu nhi, cần lưu ý:
I.- Mục Đích của giờ chầu Thánh Thể Thiếu Nhi.
Đưa các em đến gặp Chúa Giêsu Thánh Thể trong tình cha con, để tâm tình với Chúa, nghe Chúa nói, thưa chuyện với Chúa, tìm kiếm ý Chúa, để từ đó hâm nóng đức tin và tình yêu Chúa. Cũng tập cho các em làm quen với việc rước lễ thiêng liêng.
II.- Chủ đề giờ chầu Thánh Thể, Có thể:
- Theo chủ đề Năm phụng vụ, theo các mùa Phụng vụ,...
- Theo nhu cầu và lời mời gọi của Giáo Hội
- Theo hoàn cảnh riêng (Giáo xứ, sa mạc huấn luyện; tĩnh tâm, tuyên hứa,…)
III.- Thời Gian:
- Thời điểm tổ chức giờ chầu Thánh Thể thường là buổi tối, vì bớt những ưu tư, dễ tạo bầu khí thinh lặng, ấm cúng, giúp các em dễ cảm nhận sự thánh thiêng và gần gũi Chúa hơn.
- Thời gian thường giao động tùy theo lứa tuổi:
. 15 đến 30 phút cho Ấu và Thiếu
. 30 đến 45 phút cho Nghĩa và Hiệp sĩ
IV.- Không Gian:
- Nếu vài ba chục em, có thể quây quần quanh bàn thờ
- Nếu đông hơn, tập trung nơi những hàng ghế gần bàn thờ.
- Sa mạc huấn luyện, thì quây quần quanh Lều Thánh Thể.
V.- Khung Cảnh:
- Bàn Thờ: đơn sơ nhưng trang nghiêm. Hào quang đựng Mình Thánh phải đặt nổi bật đặc biệt
- Ánh sáng: rực rỡ nơi bàn thờ; êm dịu chỗ các em.
- Âm thanh ấm cúng, vừa nghe. Đàn, hát nhẹ nhàng, truyền cảm, khơi dậy tâm tình. Cần có những phút thinh lặng để các em thưa chuyện riêng với Chúa.
- Hướng dẫn viên: Nghiêm trang, càng ít di chuyển càng tốt, nên sắp xếp trước, cung kính khi cần đi lại trong giờ Thánh Thể
- Chỗ ngồi của các em: Thông thoáng, thoải mái
VI.- Thực Hiện Giờ Chầu Thánh Thể
1. Chuẩn Bị:
- Bàn Thờ: Hào quang, Mình Thánh, Áo các phép, khăn phép lành, hương nhang…được chuẩn bị sẵn. Không để thiếu sót, vội vàng, lộn xộn trên Cung Thánh. Việc này nên giao cho các em biết việc hoặc nhờ ban lễ sinh.
- Sách hát, tài liệu được phân phối trước giờ khai mạc. Nên chọn những bài quen thuộc để các em có thể hát thuộc lòng
- Người Hướng Dẫn: Dọn sẵn lời dẫn, gần như thuộc để lời dẫn được truyền cảm.
- Các em được chuẩn bị tinh thần trước. Thinh lặng vào nhà thờ, trang nghiêm theo sự hướng dẫn của các trưởng. Nếu trước đó các em đã chơi trò vận động hoặc quá sôi động và mệt, cần có thời gian cho các em thư giãn, nghỉ ngơi trước khi vào nhà thờ
- Ca Đoàn: Bài hát nên phân phối trước, có thể ôn lại để mọi người cùng hát. Ca đoàn giúp hát câu riêng hoặc hỗ trợ. Người điều khiển ca đoàn và người điều khiển cộng đoàn cần ăn ý với nhau trước.
2. Chương trình tổng quát:
- Hướng ý: Nói lên chủ đề, mời gọi mọi người lắng đọng tâm hồn, ý thức sự hiện diện của Chúa và xin ơn Chúa Thánh Thần giúp chúng ta biết thưa chuyện với Chúa.
- Làm dấu Thánh Giá, hát kinh Chúa Thánh Thần, (có thể đọc 3 kinh Tin, Cậy, Mến và kinh ăn năn tội để chuẩn bị tâm hồn các em vào giờ chầu Chúa)
- Đặt Mình Thánh Chúa (Hát thờ lạy Mình Thánh)
- Nội dung giờ Chầu (sẽ nói ở mục sau)
- Thinh lặng
- Phép lành Thánh Thể (Hát cầu cho Đức Giáo Hoàng, lời nguyện, hát thờ lạy Thánh Thể, Lời nguyện)
- Kết thúc
3. Nội dung giờ chầu:
Có nhiều cách thức, sau đây là một số gợi ý:
- Lời Chúa, hướng dẫn (giảng, suy niệm, cầu nguyện,..)
- Lời nguyện đối đáp (Thánh Vịnh, tâm tình cầu nguyện, Lần hạt theo những suy niệm,...)
- Suy niệm các chặng đàng Thánh Giá, cầu nguyện, Hát
- Kết hợp các dạng trên: suy niệm, cầu nguyện đối đáp, lần chuỗi, lời nguyện tự phát, hát,... (Tham khảo thêm cuốn “Nửa giờ Chầu Chúa” của TNTT giáo phận)
Điều quan trọng là phải có chuẩn bị trước và phải sắp sẵn mọi sự từ khung cảnh (âm thanh, ánh sáng, bài hát, dụng cụ, ...) đến con người (cha chủ sự phải nắm vững tiến trình, có cha giải tội nếu cần, người đàn hát, tập hát, người đọc lời nguyện,... cần phân vai phân nhiệm rõ ràng). Phải tôn trọng bầu khí thiêng thánh của giờ chầu, tránh những gì có thể gây xáo trộn.
Bài Mẫu (gợi ý)
· NGƯỜI HƯỚNG DẪN (NHD)(Mời các em đứng)
Các em thân mến, giờ đây chúng ta đang đối diện với Chúa Giêsu Thánh Thể. Nhưng chúng ta biết thưa gì với Chúa đây! Chúng ta cùng cầu xin Chúa Thánh Thần soi lòng mở trí để chúng ta biết cầu nguyện và thờ lạy Chúa cho xứng đáng.
Làm Dấu Thánh Giá, Hát Cầu Xin Chúa Thánh Thần.
(Hát xong cha đặt Mình Thánh Chúa. Các em quỳ)
· NHD: Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con tin thật Chúa đang hiện diện trước mặt chúng con, trong nhà chầu này. Từ ngày tỏ mình với các tổ phụ, cho đến chúng con hôm nay, và mãi mãi về sau, Chúa chỉ muốn chúng con tôn thờ một mình Chúa. Xin cho chúng con biết thờ lạy Chúa thật lòng, tôn vinh Chúa bằng lời lẽ đơn sơ của chúng con.
· (hát) CON THỜ LẠY CHÚA ….
· NHD: Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con tin Chúa có Lời Ban Sự Sống. Chúng con khao khát Lời Chúa, xin cho chúng con biết nói như Samuel ngày xưa rằng: “Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”.(đứng hát)
. XIN CHO CON BIẾT LẮNG NGHE, LỜI NGÀI…
· CHA CHỦ SỰ: (công bố Lời Chúa, cha Giảng. Nếu không có cha thì một Trợ uý hay một trưởng lớn công bố Lời Chúa, đọc suy niệm hay hướng dẫn ít lời) (giảng xong, các em đứng hát)
..BỎ THẦY CON BIẾT THEO AI…
· NHD: (mời các em quỳ) Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, giờ đây chúng con quây quần bên Chúa, như những đứa con xa nhà nay được hội tụ về. Chúa yêu thương, luôn chờ đợi chúng con. Tâm hồn chúng con ngổn ngang nhiều sự lo toan, cùng tất cả những lỗi lầm, thiếu sót của chúng con đối với Chúa, với cha mẹ, với thầy cô với các anh chị huynh trưởng và với bạn bè chúng con…
. (hát) QUỲ BÊN CUNG THÁNH….
· NHD: (Mời các em ngồi) Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, vì yêu chúng con, Chúa đã vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, sinh xuống thế gian, làm người để chia sẻ thân phận yếu hèn của chúng con, Chúa còn chịu chết để chuộc tội cho muôn người, muôn đời. Nhưng chúng con vẫn nhiều lần lỗi nghĩa cùng Chúa.
· CE: Xin thức tỉnh chúng con, để chúng con biết quay về với Chúa mỗi ngày, mỗi giờ trong đời chúng con.
· NHD: Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đã ban cho chúng con có cha mẹ, thày cô, các anh chị huynh trưởng và giáo lý viên để dạy dỗ và hướng dẫn chúng con. Nhưng chúng con đã nhiều lần không vâng phục, yêu mến và biết ơn.
· CE: Xin cho chúng con biết nhận ra quyền bính Chúa nơi cha mẹ, thày cô và các anh chị, để chúng con vâng phục và yêu mến, như xưa Chúa đã làm gương cho chúng con.
· NHD: Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đã ban cho con những người bạn trong lớp học, trong đoàn và trong khu xóm, để chúng con yêu thương, chia sẻ và giúp đỡ nhau. Nhưng chúng con đã nhiều lần sống ích kỷ, chia rẽ, hận thù, gây gỗ và làm ngơ trước sự khốn khó của anh chị em chúng con.
· CE: Xin cho chúng con biết nhận ra Chúa trong mọi người, để chúng con sẵn sàng yêu thương, tha thứ và đùm bọc lẫn nhau.
(Hát): ĐÂU CÓ TÌNH YÊU THƯƠNG…
--- oOo ---
Bài 6: Chương trình thăng tiến
Chương Trình Thăng Tiến của Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể chính là Phương pháp Giáo Dục Tiệm Tiến của PT/TNTT. Chương Trình Thăng Tiến là hệ thống các bài học, gồm lý thuyết và thực hành, nhằm giúp thiếu nhi ngày càng lớn lên và trưởng thành về đời sống tâm linh cũng như nhân bản theo định hướng của Giáo Dục Kitô Giáo.
Nền giáo dục này nhằm giúp giới trẻ biết cách thờ phượng Thiên Chúa trong Tinh Thần và Chân Lý (Eph 4,22-24) nhờ vậy họ đạt tới con người hoàn thiện, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô (Eph 4,13) và góp phần vào việc tăng trưởng của Nhiệm Thể…để chính họ phải tập thói quen minh chứng niềm cậy trông của mình (1P 3,15) cũng như phải góp phần cải tạo thế giới theo tinh thần Kitô Giáo. Nhờ đó những giá trị tự nhiên sẽ góp phần vào lợi ích của toàn thể xã hội…
Chính Thiên Chúa cũng từng bước tiệm tiến giáo dục dân Người. Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể, nhận trọng trách giáo dục thiếu nhi, đã đưa ra một nội dung giáo dục và huấn luyện thiếu nhi, theo tiến trình từ dễ đến khó; từ thấp lên cao; từ đơn giản đến phức tạp, tương ứng với đặc tính tâm lý của từng lứa tuổi (Ấu: 7-9 tuổi; Thiếu, từ 10-12; Nghĩa, từ 13-15; Hiệp, từ 16-18), và được phân bố phù hợp với các buổi học quanh năm. Gồm 4 phần chính là: Giáo Lý, Phong Trào, Nhân Bản và Kỹ Năng Chuyên Môn.
I.- GIÁO LÝ:
- Hiện nay Giáo Phận đã có một bộ sách Giáo Lý được soạn khá công phu và đầy đủ. Bộ sách này gồm: Giáo lý Khai tâm 1, 2. Giáo lý Rước Lễ 1,2. Giáo lý Thêm Sức 1,2. Giáo lý Bao Đồng 1,2,3,4. Giáo lý Vào Đời 1,2.
- Nếu đem so sánh việc phân bố chương trình của bộ Giáo Lý này vào chương trình học của các cấp, các ngành trong Thiếu Nhi Thánh Thể, thấy có sự tương hợp về nội dung và về thời gian
- Bộ sách này đã và đang được áp dụng khá lâu và rộng rãi trong giáo phận. Nếu Liên Đoàn đưa ra một chương trình Giáo Lý mới, e gây nhiều phiền phức không cần thiết cho cả Giáo Lý viên lẫn Huynh Trưởng khi phải thay đổi tài liệu giáo khoa.
- Xin đề nghị, phần Giáo Lý của Chương Trình Thăng Tiến Thiếu Nhi Thánh Thể thống nhất chọn Chương Trình giáo lý hiện tại của giáo phận do Ban Mục Vụ Thiếu Nhi phát hành.
1. Ấu nhi:
- Cấp 1: Bài Học Giáo Lý Khai Tâm 2. + Trò chơi. Tiếng reo. Bài ca minh hoạ.
- Cấp 2: Bài Học Giáo Lý Rước Lễ 1 + Trò chơi. Tiếng Reo, Bài Hát minh họa.
- Cấp 3: Bài Học Giáo Lý Rước Lễ 2 + Trò Chơi. Tiếng Reo. Bài Hát minh họa.
2. Thiếu nhi:
- Cấp 1: Bài Học Giáo Lý Thêm Sức 1. + Trò Chơi. Tiếng Reo. Bài Hát minh hoạ
- Cấp 2: Bài Học Giáo Lý Thêm Sức 2. + Trò Chơi. Tiếng Reo. Bài Hát minh họa.
- Cấp 3: Bài Học Giáo Lý Bao Đồng 1. + Trò Chơi. Tiếng Reo. Bài Hát minh họa.
3. Nghĩa sĩ:
- Cấp 1: Bài Học Giáo Lý Bao Đồng 2. + Trò Chơi. Tiếng Reo. Bài Hát minh hoạ
- Cấp 2: Bài Học Giáo Lý Bao Đồng 3. + Trò Chơi. Tiếng Reo. Bài Hát minh họa.
- Cấp 3: Bài Học Giáo Lý Bao Đồng 4. + Trò Chơi. Tiếng Reo. Bài Hát minh họa.
4. Hiệp sĩ
- Cấp 1: Bài Học Giáo Lý Vào Đời 1. + Trò Chơi. Tiếng Reo. Bài Hát minh họa.
- Cấp 2: Bài Học Giáo Lý Vào Đời 2. + Trò Chơi. Tiếng Reo. Bài Hát minh họa.
- Cấp 3: Tìm hiểu về Đức Mẹ – Tìm hiểu về Công Đồng
II.- NHÂN BẢN:
Một chương trình giáo dục nhân bản, dựa vào:
- Qui luật phát triển tự nhiên của con người;
- Môi trường sống;
- Mối tương quan nhất định của con người với nhau và với môi trường sống.
Để đưa ra những nội dung phù hợp nhằm giúp các em:
. Sống và phát triển theo luật tự nhiên, nhưng có hướng dẫn
. Sống hài hoà với môi trường và sống tốt các mối tương quan có chọn lựa. Đồng thời lớn lên một cách lành mạnh nhờ thấm nhuần các giá trị tích cực của môi trường, mà các em hay phụ huynh dù muốn dù không cũng phải sống trong đó, và chịu sự chi phối của nó.
1. Ấu nhi:
- Cấp 1: Sống Tương Quan Gia Đình: Vâng lời cha mẹ, anh chị em thương yêu nhau. Trò chơi. + Tiếng reo. Bài ca minh hoạ
- Cấp 2: Sống Tương Quan Thân Tộc: Biết cội nguồn của mình, hiểu biết về quan hệ gia tộc. Sống tinh thần gia tộc. + Tiếng Reo. Trò Chơi. Bài Hát minh họa
- Cấp 3: Sống Tương quan học đường: Tình thầy trò, nghĩa bạn bè. + Tiếng Reo, Trò Chơi. Bài Hát minh họa.
2. Thiếu nhi:
- Cấp 1: Học và Sống Tương Quan Học Đường: Bổn phận của đoàn sinh Thiếu Nhi Thánh Thể trong trương quan học đường. + Trò chơi. Tiếng reo. Bài ca minh hoạ
- Cấp 2: Học và Sống Tương Quan Cộng Đồng Xứ Đạo: Hiểu biết về tổ chức xứ đạo, chuẩn bị hiểu biết về Giáo Hội. + Trò Chơi. Tiếng Reo. Bài Hát.
- Cấp 3: Tìm hiểu bản thân.: Sự phát triển con người về thể lý (vấn đề giới tính cần xét lại). + Trò Chơi. Băng Reo. Bài Hát.
3. Nghĩa sĩ:
- Cấp 1: Tìm hiểu bản thân: Sự phát triển con người thể lý (có thể thêm chút ít về giới tính). Tôn trọng thân xác. Sống cao thượng. + Trò Chơi. Tiếng Reo. Bài Hát.
- Cấp 2: Tìm Hiểu Cộng Đồng Xứ Đạo: Hiểu biết về sinh hoạt và điều hành xứ đạo. + Trò Chơi. Băng Reo. Bài Hát.
- Cấp 3: Tham gia cộng đồng xứ đạo: Ý thức về vai trò của bản thân trong cộng đồng xứ đạo. tinh thần cộng tác tham gia các sinh hoạt của xứ đạo. + Trò Chơi. Băng Reo. Bài Hát.
4. Hiệp sĩ
- Câp 1: Tìm hiểu cộng đồng xã hội địa phương: Lịch sử địa phương; Thành phần xã hội địa phương; nét đặc thù của địa phương. Thám du, tường trình. + Trò chơi. Tiếng reo. Bài ca.
- Cấp 2: Tham gia cộng đồng xã hội địa phương. Tư cách của người Công giáo nói chung và Thiếu Nhi Thánh Thể nói riêng khi tham gia địa phương. tinh thần truyền giáo trong công tác xã hội địa phương. + Trò Chơi. Băng Reo. Bài Hát.
- Cấp 3: Hướng nghiệp. Học hành, Trắc nghiệm bản thân, định hướng tương lai. Chọn nghề. + Trò Chơi. Băng Reo. Bài Hát.
III.- PHONG TRÀO:
1. Ấu nhi: Không học lý thuyết, không ghi chép bài. Nhưng giúp các em hiểu những điều căn bản về Phong Trào bằng thực hành với trò chơi, tiếng reo, và các bài ca minh hoạ
- Cấp 1: Thực hành nhuần nhuyễn cách tập họp, cách chào, Đồng phục Thiếu Nhi Thánh Thể
- Cấp 2. Nhận ra các cấp đoàn sinh qua khăn quàng, cấp hiệu bằng thực hành
- Cấp 3: Thuộc Bài Tân Hành Ca, Bài ca Ngành, các bài ca nghi thức Phong Trào
2. Thiếu nhi: Lý thuyết ngắn, gọn, xúc tích. Chủ yếu là thực hành bằng cách lặp lại nhiều lần trong các buổi họp hàng tuần. Cùng với các trò chơi, tiếng reo, bài ca minh hoạ
- Cấp 1: Tập thói quen dâng ngày; 10 Luật Sống Thiếu Nhi
- Cấp 2: Ý nghĩa cách chào của Thiếu Nhi; Tổ chức đoàn Thiếu Nhi; Cách thực hiện Hoa Thiêng
- Cấp 3: Hiểu và sống Tôn chỉ Phong Trào bằng sinh hoạt thực hành
3. Nghĩa sĩ: Dùng Nội quy để giải thích những điều các em đã thực hành nhuần nhuyễn ở Au và Thiếu.
- Cấp 1. Lý thuyết đơn giản Nội Qui Chương1
- Cấp 2: Lý thuyết đơn giản Nội Qui Chương 2
- Cấp 3: Lý tuyết đơn giản Nội Qui chương 3
4. Hiệp sĩ: Cung cấp kiến thức căn bản về Phong Trào, chuẩn bị cho các em bước lên Huynh Trưởng.
- Cấp 1: Lý thuyết đơn giản Nội Qui Chương 4
- Cấp 2: Lý thuyết đơn giản Nội Qui Chương 5
- Cấp 3: Lý thuyết đơn giản Nội Qui Chương 6
IV.- CHUYÊN MÔN:
Nội dung chuyên môn không phải là mục đích cuối cùng. Nhưng là phưng tiện giúp éc em khéo léo, hiệu quả trong đời sống thường nhật. Mục đích chính là góp phần đào luyện con người trưởng thành.
1. Ấu nhi:
- Cấp 1: Chăm Sóc Bản Thân: Vệ sinh; điều độ; Thể dục. Trò Chơi. Băng Reo. Bài Hát .
- Cấp 2: Làm Việc Trong Gia Đình: Giúp cha mẹ những việc trong khả năng; tự tổ chức chỗ học riêng… Trò Chơi. Băng Reo. Bài Hát.
- Cấp 3: Nhận Biết Các Dấu Hiệu Giao Thông Đơn Giản. Trò Chơi. Băng Reo. Bài Hát
2. Thiếu nhi:
- Cấp 1: Dấu Hiệu Giao Thông, Dấu Đường Trong Trò Chơi Lớn, Hành Trình Sa Mạc, Trò Chơi, Bài Ca Sinh Hoạt
- Cấp 2: Morse, Các Nút Dựng Lều, Cách Dựng Lều, Trang Trí Lều, Trò Chơi, Bài Ca Sinh Hoạt
- Cấp 3: Các Nút Cao Cấp, Các Hình Thức Mật Thư Và Hiểu Biết Vể Khoá Giải Mã, Trò Chơi, Bài Ca Sinh Hoạt.
3. Nghĩa sĩ:
- Cấp 1: Ước Đạc, Cách Đọc Bản Đồ, Tính Cự Ly Theo Tỷ Lệ Xích…Các Trò Chơi. Bài Ca ý lực
- Cấp 2: Phương Hướng, Chòm Sao, Cách Xử Dụng Địa Bàn Hải Bàn, Vẽ Bản Đồ….Trò Chơi. Bài Ca ý lực.
- Cấp 3: Đọc Sách Ngắn. Tóm Lược Và Kể Lại Và Nhận Xét. Trò Chơi. Bài Ca ý lực.
4. Hiệp sĩ:
- Cấp 1: Quan Sát Sự Kiện, Phê Phán, Chọn Quyết Định Đúng. Trò Chơi. Bài Ca ý lực.
- Cấp 2: Điều Tra Cơ Bản.Thống Kê Xã Hội. Trò Chơi. Các Bài Ca ý lực.
- Cấp 3: Thiết Kế, Thực Hiện Chương Trình Từ Thiện, Bác Ai Nhỏ. Trò Chơi. Bài Ca ý lực.
LƯU Ý:
- Hiệp Sĩ là ngành mới được thành lập (từ năm 1990, tại Orange, Califonia) nơi Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam tại Hoa Kỳ, nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục thanh niên. Hành trình thăng tiến Hiệp sĩ có 5 bước: Hiệp sĩ khơi nguồn, Hiệp sĩ Xuất hành, Hiệp sĩ Nhập thế, Hiệp sĩ Xây Đời, Hiệp sĩ Hướng Tâm.
- Tại Úc Châu cũng có áp dụng. Tại Việt Nam, từ năm 2004 ngành này được nghiên cứu và thử nghiệm tại một vài nơi trong các lớp Giáo lý Vào đời.
- Nội dung chi tiết các phần học đã được phổ biến tại Văn Phòng Mục Vụ Thiếu Nhi và trong các Sa Mạc Huấn Luyện.
--- oOo ---
Bài 7: Sống ngày Thánh Thể
“Dù anh em ăn uống hay làm việc gì, anh em hãy làm tất cả vì Danh Chúa Giêsu Kitô” (1Cr 10,31)
Sống ngày Thánh Thể là phương pháp giáo dục siêu nhiên của phong trào TNTT .
Một đoàn sinh Thiếu nhi Thánh Thể được luyện tập nên thánh từng ngày bằng việc sống ngày Thánh thể. Nhiều ngày sống Thánh Thể sẽ kết thành những tháng, năm và một đời sống Thánh Thể.
I. BÍ TÍCH THÁNH THỂ . SỐNG NGÀY THÁNH THỂ
“Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con một của Ngài” (Ga3,16) . Chúa Con vì yêu thương loài người đã vâng phục Chúa Cha nhập thể làm người để cứu chuộc loài người chúng ta. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu không muốn lìa xa chúng ta, Ngài đã thiết lập Bí tích Thánh Thể để làm nguồn sống thần linh cho chúng ta và để ở lại với chúng ta như lời Ngài đã hứa: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,30). Như vậy, Bí tích Thánh Thể :
Là Lễ Tạ Ơn, như người Do Thái xưa luôn ca ngợi Thiên Chúa nhất là trong bữa ăn.
Là sự Tưởng niệm cuộc Thương Khó, Cái Chết, sự Phục Sinh của Đức Kitô, tức là mầu nhiệm Vượt Qua, nền tảng của ơn cứu độ chúng ta .
Là Bí tích Tình Yêu: Một tình yêu dâng hiến, Chúa Giêsu đã hoàn toàn trút bỏ chính mình.
Là Phụng vụ thánh thiện và thần linh, là Mầu nhiệm rất thánh, Bí tích cực thánh.
Thánh Thể tạo ra sự hiệp thông và gìn giữ sự hiệp thông .
Thời Giáo hội sơ khai các tín hữu đầu tiên hiệp thông với nhau, tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện (Cv 2,42). Một sự hiệp thông huynh đệ cả tinh thần lẫn vật chất.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nhấn mạnh đến sự hiện diện của Đức Giêsu giữa cộng đoàn qui tụ với nhau nhân danh Chúa. Như vậy nhắc đến Thánh Lễ, ta không thể quên tính hiệp thông của Thánh Thể, qua đó chúng ta được mời gọi cộng góp với Chúa trở thành tác nhân của ơn cứu độ giữa cộng đồng.
Tôn chỉ của phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể là sống Lời Chúa và kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể, và phong trào TNTT cũng chỉ có một lý tưởng là Chúa Giêsu Thánh Thể. Như vậy, sống ngày Thánh Thể là sống kết hiệp với Chúa Giêsu. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta ca tụng Thiên Chúa Cha bằng cách sống tốt, thánh hóa và chu toàn các bổn phận thường ngày. Tất cả mọi việc làm trong ngày sẽ thực hiện với tâm tình yêu mến, nguyện cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Cùng với Chúa Giêsu, trong tâm tình của Chúa Giêsu chúng ta sống chan hòa yêu thương với mọi người, đó chính là ý nghĩa của NGÀY THÁNH THỂ .
II. VÌ SAO PHẢI SỐNG NGÀY THÁNH THỂ :
Trong bữa tiệc ly, sau khi đã rửa chân cho các tông đồ, để làm gương về sự phục vụ. Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể. Qua đó, Người muốn chúng ta tái diễn việc hy sinh tận hiến của Người “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy làm điều chính Người đang làm, Người làm việc gì nếu không phải là hiến dâng mạng sống mình cho chúng ta . Như vậy, sau khi lãnh nhận Hiến lễ tình yêu, chúng ta cũng được mời gọi nên của lễ hy sinh và trao ban cho nhân loại . Do đó, việc cử hành Thánh lễ sẽ không trọn vẹn ý nghĩa nếu cuộc sống chúng ta không phải là cuộc sống Thánh Thể, một cuộc sống trao ban .
Đời sống Kitô hữu phải là cuộc sống chứng tá để người ta nhận ra khuôn mặt đích thực của Chúa Giêsu, Vua Hoà Bình, Vua Tình Yêu nơi con người họ gặp gỡ.
Thánh lễ nơi thánh đường kết thúc, nhưng đời ta luôn là một thánh lễ nối dài. Hiến tế núi Sọ đã hoàn tất nhưng mở ra cho hiến tế cuợc đời. Chúng ta không chỉ kết hiệp với Chúa nơi thánh đường mà trong từng phút giây ngày sống, chúng ta phải thể hiện tình yêu hiệp thông trong khi công tác. Giúp đỡ tha nhân tức là tiếp nối sứ mạng yêu thương và cứu chuộc mà Chúa Giêsu đã truyền .
Loan báo Lời Chúa bằng hành động, là chứng tá sinh động của cuộc sống trong vai trò ngôn sứ của một huynh trưởng. Ngày nay, người ta tin vào những người chứng hơn là những lời rao giảng. Chính vì thế, người huynh trưởng hôm nay không chỉ cần một nền linh đạo vững chắc nhưng còn cần một tấm lòng với Chúa và anh chị em.
III. THỰC HIỆN SỐNG NGÀY THÁNH THỂ :
Theo Tin Mừng (Mc 1,14-39), Một ngày hoạt động của Chúa Giêsu bao trùm mọi không gian: tôn giáo cũng như trần thế, tư cũng như công, liên quan đến toàn thể con người. Lúc thì ở: hội đường, tư gia, cửa thành, chốn hoang vắng. Và ngay từ đầu luôn có các môn đệ bên cạnh. Như thế nếu chúng ta tự nguyện sống kết hiệp với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ không thể sống khác với nếp sống của Ngài. Vả lại, chúng ta còn có một chỉ nam để soi dẫn là Mười điều luật Thiếu nhi Thánh Thể:
1. Lúc thức dậy :
Chúa Giêsu hằng cầu nguyện và dạy chúng ta cầu nguyện luôn . Sáng sớm lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu chỗi dậy đi vào nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó (Mc1,35) .
Điều luật 1: Thiếu nhi mỗi sáng dâng ngày, làm cho đời sống hoá nên lời cầu.
Khi thức giấc, chúng ta dâng ngày cho Chúa. Không để sự ươn lười “ngủ nướng” thắng mình. Khi dâng lên Chúa những khó khăn sẽ gặp trong ngày, chúng ta nhận được can đảm để đối mặt với những điều không như ý xảy ra. Trong lời kinh dâng lên Chúa:
- Tạ ơn Chúa vì đã qua một đêm ngủ an bình. Tạ ơn Chúa vì một ngày mới, còn nhìn thấy mặt trời, còn được chiêm ngắm những kỳ công Chúa tạo dựng.
- Dâng ngày mới cho Chúa theo ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha kèm theo những ý hướng :
+ Noi gương Chúa Giêsu sống đời tận hiến.
+ Cộng tác với Chúa trong việc cứu rỗi nhân loại .
- Nhắc nhớ Ý LỰC: trong ngày. Bí tích ThánhThể là bí tích Tình yêu. Ngày sống Thánh Thể phải đượm tâm tình yêu thương bác ái: Hôm nay tôi sống Thánh Thể bằng việc biết yêu thương, hy sinh hơn, làm cho những người gặp tôi được hạnh phúc
Thứ Hai : Cầu cho sự hiệp nhất.
Thứ Ba : Cầu cho việc truyền giáo .
Thứ Tư : Kính Thánh Giuse, cầu cho gia đình .
Thứ Năm : Kính Chúa Giêsu Thánh Thể, cầu cho các linh mục .
Thứ Sáu : Kính Thánh Tâm Chúa, cầu cho những người tội lỗi trở về với Chúa .
Thứ Bảy : Kính Đức Mẹ .
Chúa Nhật : Mầu nhiệm Phục Sinh .
- Tham dự Thánh lễ: Vì Thánh lễ là đỉnh cao của đời sống Kitô-hữu, là việc sùng kính tốt nhất và trọng đại nhất, cũng là lời tạ ơn đẹp lòng Chúa nhất để múc lấy ân sủng từ suối nguồn .
2. Dưới ánh mặt trời :
Bắt đầu ngày mới tại trường học, sở làm, hãy lấy Lời Chúa là đèn soi khi chọn lựa bất cứ quyết định hay thái độ nào .
Sống ngày đã dâng với niềm vui, tin tưởng phó thác nơi Chúa
+ Tích cực : làm nhiều việc đạo đức thiêng liêng, bác ái, sống hòa thuận, yêu thương và giúp đỡ tha nhân .
+ Trước mỗi việc quan trọng: cầu nguyện và dâng lên Chúa với ý hướng muốn làm theo ý Chúa. Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết sức mạnh của lời cầu nguyện. “Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện thì anh em sẽ được” (Mt 21, 22).
+ Gặp những vất vả khó khăn: biết điều chỉnh trạng thái tâm hồn, biết bình tĩnh nhận sự mất mát dưới cái nhìn của Đức Tin ta sẽ tìm được sự thư thái và bình an. Hãy chấp nhận đau khổ để chia sẻ các khổ nạn của Chúa trên Thánh giá.
+ Khi gặp vui sướng: hãy liên kết cùng niềm vui Chúa Phục Sinh và tạ ơn Chúa.
+ Chu toàn bổn phận hàng ngày: Đời sống thánh thiện không phải do làm những việc phi thường, nhưng chu toàn những bổn phận tầm thường hàng ngày cách phi thường, với tinh thần đức tin, với tinh thần trách nhiệm và với lương tâm nghề nghiệp. Như vậy, mỗi chúng ta sẽ giúp ích cho xã hội, làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, mọi người sẽ ấm no hạnh phúc hơn.
Một nông dân biết chăm bón ruộng lúa khỏi thiếu phân nước, khỏi sâu rầy. Người trồng hoa tô điểm cho cuộc sống thêm muôn màu muôn vẻ .
Cả đến người quét đường tầm thường cũng có công lớn trong việc làm sạch đường phố, tạo không khí trong lành, giữ gìn mối trường không ô nhiễm, hợp vệ sinh .
Trái lại : sự sơ hở của một công nhân kỹ thuật, có thể tạo thiệt hại dây chuyền cho các khâu khác .
Một điều dưỡng chậm trễ vài phút có thể làm thiệt mạng một bệnh nhân .
Tiêu cực : Tránh xa những hành vi không phù hợp với Lời Chúa. Trong cuộc sống bon chen hôm nay, người ta muốn chiến thắng người khác bằng những lời nói không trung thực để nâng mình lên và làm hại người khác. Không làm chứng gian, nhưng bênh vực lẽ phải. Cần lưu ý là: không thực thi bác ái, sống lãnh đạm chính là lỗi lớn về đức ái cần phải tránh.
Đừng quên lời chúc bình an của linh mục ở cuối lễ :”Chúa ở cùng anh chị em … Chúc anh chị em ra đi bình an”. Vâng Chúa Giêsu đã hứa sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế . Chúa mong muốn ta được bình an đich thực của Chúa. Chúng ta hãy lắng nghe và sống Lời Chúa trong từng phút giây của đời ta.
3. Khi màn đêm buông xuống :
Thành thực biên sổ hoa thiêng : dâng lễ, rước lễ, hy sinh, các việc tông đồ.... Hãy xem việc ghi sổ hoa thiêng như là những trang nhựt ký viết về người mình yêu thương .
Kiểm điểm lại cả ngày sống : tôi có làm điều gì làm buồn lòng Chúa ? Có giữ đầy đủ các việc đạo đức trong ngày không ? Có những sai lỗi, thiếu sót gì trước mặt Chúa : tư tưởng, lời nói, việc làm ? Có sống thiếu bác ái ? Có những lỗi lầm nào với tha nhân… ? Xin Chúa tha thứ và quyết tâm không tái phạm .
Hãy vui mừng vì những việc tốt đã thực hiện và cố gắng phấn đấu để thăng tiến hơn.
4. Kinh tối :
Tạ ơn Chúa về một ngày sống tốt, về những việc làm đẹp lòng Chúa. Thống hối về những lỗi lầm, thiếu sót trong ngày và quyết tâm sửa đổi .
Dâng lên Chúa một đêm ngủ an bình .
Như vậy, Sống Ngày Thánh Thể là sống ngày đã hiến dâng cho Chúa trong sự cầu nguyện liên tục và hy sinh, trong tâm tình cảm tạ tri ân, kết thúc bằng những hồi tâm kiểm điểm trung thực .
5. HIỆU QUẢ CỦA SỐNG NGÀY THÁNH THỂ :
Sống ngày Thánh Thể là phương pháp giáo dục siêu nhiên của phong trào TNTT . Một người không thể sau một đêm ngủ dậy, vươn vai là thành thánh .
Như ông bà thường nói :”Dạy con từ thuở còn thơ “ hoặc “Uốn tre, uốn thuở còn măng”
Một đoàn sinh Thiếu nhi Thánh Thể được luyện tập nên thánh từng ngày một, như lời Chúa đã dạy “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng hoàn thiện” bằng cách sống ngày Thánh Thể . Dần dần đoàn sinh biết :
- Kết hợp với Đức Kitô, và cùng với tha nhân trở nên một thân thể .
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến với bàn tiệc của Người và nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời, bằng Thịt và Máu của Người . Khi rước Mình và Máu của Người nơi ta có sự biến đổi : thịt và máu chúng ta thành chính Thịt và Máu của Người . Thánh Augustinô nói : “Nếu bạn là thân mình và chi thể của Người, thì bạn sẽ tìm thấy trên bàn tiệc thánh mầu nhiệm của chính bạn . Phải, bạn lãnh nhận mầu nhiệm của chính bạn”. Chính trong khi Sống Ngày Thánh Thể cách tự nguyện ta sẽ càng ngày càng giống Chúa hơn .
- Khi đã giống Chúa, chúng ta sẽ ra khỏi nếp sống theo xác thịt, thù nghịch cùng Thánh Thần và đức bác ái .
- Và như thế, ta sẽ can đảm hy sinh cho tha nhân như thánh Gioan đã viết :”Người đã thí mạng người cho ta, nên ta cũng thí mạng mình cho anh em” (1 Ga 3,16) .
- Hoạt động tông đồ của chúng ta trở nên hữu hiệu bằng chính cuộc sống chứng tá của chúng ta .
Muốn có hiệu quả tốt đẹp, chúng ta phải sống ngày Thánh Thể một cách ý thức, tự nguyện và tự do trong TÌNH YÊU . Đức Giêsu đã nói : “Thầy là cây nho, anh em là cành . Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinhnhiều hoa trái , vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được “ (Ga 15,5) . Hoa trái ở đây chính là sự thánh thiện của một đời sống kết hợp với Đức Kitô .
--- oOo ---
Bài 8: Sinh hoạt trong giờ Giáo lý và giờ hoạt động
Giờ giáo lý sẽ đạt hiệu quả cao khi Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên tạo được bầu khí sống động nhờ phối hợp giữa phương pháp truyền giảng và phương pháp hoạt động. Tuy nhiên, phải tránh biến buổi học giáo lý thành buổi sinh hoạt vui nhộn lấn át nội dung đức tin và bầu khí tôn giáo của lớp giáo lý. Vì thế cần lưu ý chủ đích và những tính cách phải có trong sinh hoạt giáo lý.
I. Nguyên tắc :
1) Chủ đích :
Sinh hoạt giáo lý giúp các em hiểu sâu, ghi khắc và thấm nhuần lời Chúa bằng mọi khả năng, giúp các em chủ động hơn trong trong giờ học giáo lý. Những sinh hoạt này không nhằm giải trí, thư giãn nhưng giúp các em “tiêu hóa” hiểu sâu, ghi khắc, thấm nhuần lời Chúa hơn.
Sinh hoạt giáo lý giúp các em tập quen với đời sống cộng đoàn Hội Thánh, vì đến lớp giáo lý là đến với Hội Thánh. Khi cùng nhau soạn lời nguyện, dọn hang đá, quét dọn lớp giáo lý, ca hát...các em sẽ tập quen với đời sống cộng đoàn của Hội Thánh.
Sinh hoạt giáo lý giúp Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên thấy rõ hơn khả năng giảng dạy của mình. Vì có những sinh hoạt học viên sẽ không làm được nếu chưa thấu đáo bài học (ví dụ : dọn một lời nguyện chung cho đúng ý).
Sinh hoạt giáo lý giúp Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên thấy rõ các em hơn: những khả năng, tài khéo cũng như tính nết của các em sẽ bộc phát khi sinh hoạt.
2) Những đặc tính của sinh hoạt giáo lý :
Để đạt chủ đích giáo dục thiêng liêng, những sinh hoạt giáo lý cần có những đặc điểm: Liên hệ mật thiết với bài giáo lý.
Phải động viên được toàn thể khả năng của trẻ: nhờ đó các em có thể thấm nhuần lời Chúa cách nhẹ nhàng, thích thú.
Giúp các em có dịp sáng kiến: sinh hoạt sẽ kết quả tốt, ảnh hưởng sâu nếu chính các em được làm trong tinh thần tự do, tự nhiên (ví dụ: các em được tự chọn mẫu để vẽ Chúa, hay cùng một đề tài nhưng được tự chọn khổ giấy, mầu...)
Cần sự hướng dẫn ân cần, tế nhị của Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên để giúp các em phấn khởi chứ đừng làm các em cụt hứng, co cụm lại.
Cần chú trọng đến ý nghĩa muốn diễn tả qua hĩnh vẽ hơn là giá trị thẩm mỹ: Các em có thể hát sai, hát lợ cung, múa trật nhưng điều đó không quan trọng lắm.
Cần có ý hướng: những sinh hoạt giáo lý dù nhẹ nhàng, thích thú nhưng phải luôn mang ý nghĩa, ý hướng thiêng liêng trong bầu khí cầu nguyện giúp các em học hiểu Chúa, hướng về Chúa. Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên nghiêm túc sẽ giúp các em nghiêm túc với những gì là thiêng thánh.
II. Thực hành :
1) Trò chơi :
a. Ý nghĩa và ích lợi của trò chơi :
Với trẻ, chơi là một nhu cầu cần thiết. Với nhà giáo dục, trò chơi là một phương thế hữu hiệu để trẻ phát triển toàn diện. Đối với trẻ sống là chơi, trẻ mê chơi đến quên ăn quên ngủ, đối với nhà giáo dục trò chơi là phương thế lôi cuốn và nhất là để giáo dục các em về thể chất cùng như tinh thần:
- Trò chơi là phương pháp giáo dục rất hữu ích nhằm giúp các em phát triển thể chất, tinh thần đồng thời cũng rèn luyện các giác quan, phản xạ nhanh nhậy và rèn luyện các đức tính kiên trì thật thà, ý thức kỉ luật, tinh thần tập thể.. Qua đó giáo dục cho trẻ toàn diện về đức, trí, thể dục: Chậm thành nhanh, Nhát thành bạo, Tính kiên trì, thắng không kiêu, bại không nản, Rèn tính thật thà và tinh thần tập thể.
- Đem lại kích thích, hứng thú cho các buổi hội họp. học tập
- Đặc tính của trẻ là hiếu động, ham chơi, chơi hết mình. Trong khi chơi, trẻ bộc lộ rõ cá tính. Nhờ đó người trưởng có thể hiểu tính cách, đặc điểm của từng em để khuyến khích và uốn nắn chúng một cách có hiệu quả.
Trò chơi giúp trẻ thêm thành thật, can đảm, kỷ luật, biết tự chủ, kiên nhẫn và có tinh thần đồng đội.
Trong khi chơi trẻ bộc lộ tính khí con người thật của mình giúp Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên có thể hiểu rõ nhờ đó hướng dẫn từng em.
Trong giờ giáo lý: trò chơi theo sát chủ đề giáo lý giúp các em dễ hiểu, dễ nhớ lời Chúa và đề tài giáo lý sinh động hơn.
b. Thực hiện :
Chọn trò chơi: trò chơi cần dễ hiểu, đơn giản, không cần nhiều dụng cụ, thích hợp với nơi chốn và người chơi. Do đó cần đạt ba yêu cầu :
+ Xây dựng bầu khí: giúp các em cởi mở, thoát tính nhút nhát, ngại ngùng, giải tỏa căng thẳng tâm lý cũng như thể lý.
+ Rèn luyện kỹ năng: tạo những động tác chạy nhảy, biến những bài học khô khan thành những trò chơi động não, luyện trí nhớ, trí hiểu cách thích thú. Đôi khi sau trò chơi chính các em và ngay cả Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên cũng không ngờ các em lại có những khả năng bén nhạy như vậy.
+ Giáo dục chiều sâu: đây là yêu cầu quan trọng, Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên đừng vô tình biến giờ giáo lý thành giờ sinh hoạt vui nhộn mất bầu khí, mất nhiều thì giờ.
c. Phân loại
Phong trào TNTT sử dụng nhiều loại trò chơi :
- Trò chơi Kinh Thánh: đây là nét đặc trưng của TNTT dùng bầu khí Thánh kinh trong sinh hoạt nhằm giúp các em dễ thuộc, dễ nhớ và khắc sâu một đoạn Kinh Thánh: Xây thápBabel, Tìm chiên lạc, tiệc cưới Cana..
- Trò chơi rèn luyện : Trí tuệ (Vân Tiên, nói tiếp sức..) Thể chất (cướp cờ, nhảy ngựa, chuyền banh ..) Luyện giác quan, sự khéo léo …. Tinh thần đồng đội, thi đua tiếp sức
d- Cách tổ chức một trò chơi :
- Chọn lựa trò chơi phù hợp với không gian, thời gian, khung cảnh chơi, người chơi, mục đích giáo dục qua trò chơi
- Sửa soan kĩ càng: nắm vững trò chơi, người điều khiển đã chơi vài lần hay ít ra đã xem người khác chơi nhiều lần, dụng cụ chơi đầy đủ.
+ Chuẩn bị : Sửa soạn dụng cụ cần thiết. Phân công những gì cần làm.
Trình bày trò chơi cách đơn giản dễ hiểu, nhưng cặn kẽ, hỏi lại xem tất cả đã hiểu rõ chưa, quan trọng là có hiểu ý nghĩa và chủ đích của trò chơi, cho chơi thử.
+ Vào trò chơi : Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên nên tham gia để tạo tinh thần, hòa đồng và khích lệ các em (đặc biệt những em nhút nhát, thụ động).
Nhắc nhở tinh thần tự giác chủ động trật tự.
Nếu cần có thể ngưng ngay trò chơi để giải thích thêm khi có những em chơi sai hay chưa dám chơi. (Đừng chỉ chơi với những em biết chơi và bỏ rơi những em khác).
+ Sau trò chơi : Cho đôi phút thư giãn. Nhắc lại ý nghĩa, chủ đích của trò chơi.
Nhận định kết quả, lưu ý những gì cần bổ khuyết, nêu những điều xấu chung phải sửa sai. (Ví dụ : còn mất trật tự, chậm chạp...).
Tuyên bố kết quả công bằng, đừng quên khen thưởng (ví dụ: một bài hát, một tràng pháo tay...) còn hình phạt chỉ nên tượng trưng mang tính giáo dục. (ví dụ: phải nhảy cò cò, phải hát tặng những người thắng một bài, đi bắt tay, đi chào một vòng...)
2) Hát vũ :
a. Y nghĩa và lợi ích :
Ca hát, nhất là ca hát có kèm theo cử điệu (vũ) là một trong những cách biểu lộ tâm tình bên trong cách nghệ thuật tự nhiên và ưa thích của thiếu nhi.
Ca múa có tác dụng giáo dục rất cao, lời ca, điệu nhạc hay sẽ cảm kích, đánh động và ghi sâu vào lòng người. Hát cũng là cầu nguyện, là giúp các em hướng lòng lên với Thiên Chúa. Có những bài ca được hát đi hát lại để gây cho các em tràn đầy tình yêu nước. Lại có những bài ca người ta lồng vào đó một ý nghiã nhằm hướng dẫn, giáo dục các em. Nhưng để ích lợi thật sự, chúng ta phải biết chọn cho các em những bài ca xây dựng, những bài ca mang tính giáo dục cao. Là đoàn thể trẻ nên những bài ca phải mang tính cộng đồng, ngắn gọn, ý tứ rõ ràng, dễ thuộc, vui tươi. Ngoài ra, nếu bài ca còn có các cử điệu thích hợp để diễn tả ý nghiã thì thật là hay. Trẻ em hát vui thường cảm thấy thích múa máy chân tay, cử động thân thể. Vậy chúng ta có thể cho các em thực hiện các động tác đồng đều, đẹp mắt, diễn tả được phần nào ý nghiã bài hát và còn ích lợi cho sức khoẻ của các em.
b. Chọn bài hát :
Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên có thể tập bài đã chọn sẵn trong sách giáo lý hoặc bài khác nhưng hợp với đề tài Giáo lý để các em dễ nhớ về những lý thuyết đã học, tùy hoàn cảnh (vui nhộn, nghiêm trang, hòa nhã, lúc khỏe, lúc mệt...). Bài hát ngắn gọn, hợp lứa tuổi (hợp cung giọng và nhịp điệu: không cao hoặc thấp quá, không nhanh hoặc chậm quá, không quá nhiều luyến láy,...) chọn những bài hùng tráng có tinh thần dân tộc, quê hương, vui tươi phấn khởi, hài hước mà đúng đắn, êm dịu mà không ủy mị (tránh đặt lời). Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên phải thuộc và nắm vững nhịp điệu, khi cần hãy nhờ người khác tập giúp.
+ Bài hát theo chủ đề :
* Cựu ước: Qua biển đỏ, về đất hứa, lưu đầy sa mạc
* Tân ước: người gieo giống, chặt phứt tay đi, nén bạc Chúa trao…
* Sống đạo: đôi cánh thiên thần, thiếu nhi hy sinh, dâng ngày, cầu nguyện ….
+ Bài hát vui tươi, lành mạnh, mang tính giáo dục: Mỗi người là hoa, mở hội tình thương, tình mẹ con…
+ Cách áp dụng : Tuy nhiên phải tùy hạng tuổi, tùy phái tính, tùy hoàn cảnh, tùy mục đích giáo dục mà chọn bài ca, điệu múa thích hợp:
* Phái nữ: thường thích các bài hát vui mà êm đềm, thích các điệu múa mềm mại, dịu dàng, uyển chuyển.
* Phái nam: thích các điệu ca vui tươi, hùng tráng, hò la mặc sức và thích các điệu múa cứng mạnh, đôi khi còn mệt nhọc nữa.
* Ấu nhi: nên chọn các bài ca ngắn gọn, dễ thuộc, nhiều chỗ ngắt để lấy hơi, điệu nhạc thường đi quãng trưởng không cao qúa nốt rê và cũng không thấp quá nốt đô. Không sử dụng các móc kép hai, kép ba quá nhanh. Bài ca nên có vũ điệu và các cử điệu cũng phải đơn sơ và không quá nhiều cử điệu
* Thiếu nhi: chọn các bài hát vui tươi, ngắn gọn. Am vực có thể cao hơn hoặc thấp hơn, tiết tấu có thể nhanh hơn, và câu nhạc cũng có thể dài hơn. Cử điệu có thể mạnh mẽ hơn, nhiều hơn, phức tạp hơn so với ấu nhi.
* Nghiã sĩ: chọn bài ngắn gọn hát trong lúc sinh hoạt tập thể. Ngoài ra,thỉnh thoảng cũng nên xen những bài dài nhưng hùng tráng. Ở lứa tuổi này, phải là những điệu vũ có nghệ thuật và phân loại theo phái mà tập.
* Nếu bạn là nhạc sĩ : tiêu chuẩn sáng tác cũng phải dựa vào từng phái, từng loại tuổi mà sáng tác thì mới thích hợp thực sự cho các em. Nói thế không có nghiã là bạn không thể sáng tác các bài ca, điệu vũ sinh động cho các em, nhưng để có những bài ca, điệu múa hiệu quả chắc đòi hỏi ở bạn không ít thời gian và công sức, cùng với lòng yêu trẻ.
c. Cách tập hát :
Người tham dự đứng (hoặc ngồi) vòng tròn hay vòng cung. Cho đỡ loãng tiếng, người dạy hát đứng (hoặc ngồi) ở giữa.
Hát một, hai lần chậm rãi để mọi người biết qua tiết điệu.
Chia bài thành từng đoạn ngắn, tập từng câu (thuộc, đúng câu này mới sang câu khác).Sửa lại ngay chỗ hát sai (cũng đừng quá chú ý tiểu tiết vì nhằm chủ đích giáo lý chứ không phải nghệ thuật)
Tập xong kiểm tra lại từng nhóm (các em có dịp vừa hát, vừa nghe sẽ linh động, cố gắng mau thuộc hơn).
Cần cho các em hát lại những bài đã tập để dần dần các em thấm nhuần lời ca.
d. Vũ - Múa :
Vũ điệu ở đây là những cử chỉ đi theo bài ca giáo lý, dù không phải vũ điệu chuyên nghiệp nhưng để hấp dẫn và ăn sâu vào lòng trẻ, chúng ta cần lưu ý.
+ Cử điệu cần đơn sơ, dễ dàng nhưng không độc điệu. Cử điệu phải tự nhiên không kỳ khôi, thô kệch, buồn cười, động tác phải đi đôi với lời ca. Động tác đừng quá nhiều, quá phức tạp.
+ Người dạy phải thuộc lời, nắm vững nhịp điệu, làm mẫu các cử điệu theo bài hát. Tập kỹ cho trẻ từng động tác, từng phần, từng đoạn, sai thì sửa ngay trước khi sang động tác mới.
+ Người học phải nhìn nhau mà làm sao cho rập ràng, tự nhiên, nhẹ nhàng, không đùa giỡn ... Đặt mình trong khung cảnh, ý hướng và tâm tình của lời ca, điệu vũ.
3) Băng reo :
Là nhiều loại âm thanh hợp lại, những chuỗi khẩu hiệu, những cử điệu, bắt chước tiếng mưa rơi, pháo nổ,... Tiếng reo có giá trị rất lớn, nó làm nổi bật sự hăng hái, phấn khởi của đoàn sinh giúp in sâu vào tâm trí người nghe. Nó như một lời quảng cáo ngắn gọn kích thích thị hiếu khách hàng ...
a. Tiếng reo là gì ?
Là nhiều loại âm thanh hợp lại.
Là một số câu nói hài hước kích động.
Là một bài hát ngắn gọn có ý nghĩa.
Là những khẩu hiệu ghép lại.
Là một hay nhiều tiếng dội trong thiên nhiên.
Là những cử điệu bắt chước trong thiên nhiên như xe chạy, bò rống, mưa rơi ...
Người ta có thể tạo ra rất nhiều loại tiếng reo, nhưng muốn thành công phải giữ bốn điều sau đây: Giản dị, Dễ làm, Vui mạnh, Y nghĩa. Âm thanh nào cũng có thể trở thành tiếng reo vui hấp dẫn, đó là do tài tháo vát của Trưởng áp đặt sao cho phù hợp với bốn tiêu chuẩn trên.
b. Phân loại tiếng reo:
- Tiếng reo để đón rước tưng bừng, chào mừng, hoan hô
- Tiếng reo để nhấn mạnh một chủ đề, chiến dịch..
- Tiếng reo làm thay đổi bầu khí, vui lên, xua tan mỏi mệt
- Tiếng reo để kích thích tinh thần mọi người.
- Tiếng reo để khích lệ, tán thưởng.
Cũng như ca hát và nhảy múa, phải biết lợi dụng hoàn cảnh mà phổ biến thì tiếng reo mới thích hợp và hữu hiệu. Tuổi tác và phái tính không quan hệ trong việc sử dụng tiếng reo vì như đã nói mỗi cá nhân sẽ bị lôi cuốn bởi cả tập thể trong tiếng reo.
c. Sáng tác tiếng reo:
Tùy theo tình huống, hoàn cảnh, mỗi Huynh Trưởng phải có thể tự tạo ra những tiếng reo thích hợp.
Tiếng reo phải ngắn gọn, mạnh mẽ, có ý nghĩa.
Thường mỗi tiếng reo đều có cử điệu thích hợp, diễn tả ý nghĩa của lời reo và thái độ của người reo:
- Hoan nghênh: nắm tay giơ thẳng lên trong khi hô.
- Hoan hô: vỗ tay, A,a,a...(vỗ tay vào miệng, kêu liên tục)
- Vui mừng: 2 tay giơ cao, tung người
- Kết thân: bắt tay, khoác vai
d. Tiếng reo dùng để làm gì?
Sau đây là một ít công dụng thiết thực :
. Để kích thích tinh thần cộng đoàn hăng hái.
Ví dụ : QT : Ơ này anh em ơi!
TC : Ơi!
QT : Một cây làm chẳng nên non (này) !
TC : Ba cây chụm lại nên hòn núi cao ...
. Để nhấn mạnh một chiến dịch đang, sẽ thực hiện :
QT : Thánh Thể
TC : Yêu mến (hai tay ôm ngực).
QT : Thánh Thể.
TC : Tôn thờ (chắp tay)
QT : Amen.
TC : A!
QT : Ai vui vẻ lịch sự buồn cười?
TC : Chúng ta.
. Để tán thưởng một người :
QT : Bravi, Bravo, Brava.
TC : Huri, Huro, Hura : Vivat.
(Tiếng Vivat kéo dài khi nào Quản trò bỏ tay xuống, thì tất cả dậm chân hô lớn : La Sonoa !)
. Để chào mừng :
Vỗ tay 1, 2, 3, 4, 5 : hoan.
Vỗ tay 1, 2, 3, 4, 5 : hô.
Vỗ tay 1, 2, 3 : hoan hô.
. Để nâng cao tinh thần đoàn kết :
Ví dụ : Chia: Bắc, Trung, Nam, quản trò chỉ đâu nhóm đó hô tên mình. Cuối cùng quản trò: Bắc Trung Nam, tất cả: một nhà.
. Để thay đổi bầu khí ...Và rất nhiều công dụng khác nữa tùy lúc, tùy nơi, tùy hoàn cảnh. Bạn hãy sáng tác nhiều băng reo cho thật hào hứng.
Thường người ta cũng kết hợp tiếng reo với cử điệu, như thế tác dụng của chúng càng mạnh mẽ hơn.
c. Để thực hiện:
Tùy theo tình huống, hoàn cảnh sinh hoạt, mỗi huynh trưởng phải có thể tự tạo những tiếng reo thích hợp. Như thế, Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên cần nắm vững một số bộ điệu, cử chỉ diễn tả hầu như đã trở thành quy ước :
Vui mừng : đưa cao hai tay, nhảy mừng.
Cầu nguyện : chắp tay, đưa hai tay vươn cao, ngước mắt .
Chối từ : mở hai lòng bàn tay ra phía trước ngang ngực.
Giận : hai tay nắm chặt, mím môi.
Buồn : nét mặt ánh mắt xụ xuống, cúi mặt.
Thân tình : bắt tay, khoác vai ...
Lắng nghe, suy niệm: chắp tay trước ngực, đứng thẳng hơi cúi đầu, hoặc hai bàn tay úp vào ngực, ngước mắt lên.
Chúc lành : hai tay đặt úp trên người được chúc lành.
Don Bosco dạy : “Hãy để trẻ em tự do chạy nhảy, kêu la mặc sức, thể thao, âm nhạc, văn nghệ ... Vui chơi là những phương pháp rất hiêu lực để giữ kỷ luật. Có lợi cho đạo đức và sức khỏe. Chỉ lưu ý sao cho không có gì đáng trách”.
Vì thế, nếu áp dụng những sinh hoạt : trò chơi, hát vũ, băng reo trong giờ giáo lý và hoạt động cách nhuần nhuyễn đúng mức. Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên đã thực sự góp phần dẫn dắt trọn vẹn con người các em, thể xác lẫn tâm hồn các em đến với Thiên Chúa.
Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể đào tạo thiếu nhi về cả 2 phương diện siêu nhiên và tự nhiên. Vì thế, ngoài phương pháp siêu nhiên xây dựng trên nền tảng Thánh Thể và Thánh Kinh còn chú trọng đến các phương pháp tự nhiên phù hợp với tính hiếu động của trẻ. Ca múa, trò chơi chính là một trong những phương pháp tự nhiên hữu hiệu mà phong trào dùng để giáo dục trẻ.
Ca múa, trò chơi không phải là là phần chính của các buổi hội họp, sinh hoạt nhưng nó giúp cho các buổi học tập thêm hứng khởi, đỡ tẻ nhạt.Vì thế, đừng hiểu lầm rằng trong buổi sinh hoạt cứ cho hát, cho chơi thật nhiều là kết quả. Nhưng phải biết dung hoà các bài hát, trò chơi với sự học tập, rèn luyện. Nên nhớ rằng hát múa, trò chơi là phương thế giúp sinh động hóa bài học cho việc học tập, hội họp, sinh hoạt đạt hiệu quả.
--- oOo ---
Bài 9: Nghệ thuật kể chuyện cho Thiếu Nhi
Tuổi thơ rất thích được nghe kể chuyện. Thế giới của các em đầy những câu chuyện cổ tích thần thoại, những câu chuyện hay đẹp. Đó là một thực tế không thể chối cãi. Phải chăng những câu chuyện từ thời thơ ấu vẫn luôn đậm nét trong tâm hồn chúng ta.
Câu chuyện là cách hay nhất để dẫn các em tới những hành động tốt đẹp. Nhiều khi chúng ta thao thao bất tuyệt để giảng một bài Giáo Lý đã dọn sẵn nhưng các em tiếp thu chưa tốt. Nhưng nếu biết vận dụng một câu chuyện kể phù hợp thì sẽ gây được hứng thú nghe và sẵn sàng làm theo những gì chúng ta đề nghị
Bài giáo lý được trình bày theo lối quy nạp. Vì thế trong bài giảng này thường lấy một câu chuyện cụ thể để làm khởi điểm, rồi dựa vào câu chuyện để trình bày đề tài giáo lý.
I- TÁC DỤNG CỦA KỂ CHUYỆN
- Nhằm mục đích giáo dục đức tin, câu chuyện dùng làm phương thế dẫn tới Tin Mừng và truyền đạt Tin Mừng.
- Giúp cho các em tiếp thu kiến thức cần truyền đạt một cách dễ dàng,
- Kích thích sự hứng thú học tập của trẻ vì kể chuyện là món ăn tinh thần không thể thiếu của các em, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ
- Không khí buổi học sinh động, vui tươi, thu hút sự chú ý của các em
- Bài học được rút ra từ câu chuyện sẽ làm cho trẻ ghi nhớ lâu hơn một bài học thông thường
II- CÁC LOẠI CHUYỆN
1. Chuyện Kinh Thánh
Trong Thánh Kinh Cựu Ước cũng như Tân Ước, có rất nhiều chuyện hay. Những chuyện này thường dùng để trình bày giáo lý rất tốt và thích hợp nhất nhờ tính chất và nội dung tôn giáo của các câu chuyện.
Khi dùng các câu chuyện Kinh Thánh để trình bày giáo lý thì việc chuyển sang áp dụng vào đề tài giáo lý rất dễ dàng, tự nhiên và mạch lạc. Do đó, khi soạn bài giáo lý cần dùng ưu tiên cho loại truyện này.
Ví dụ:
· Chuyện Cain: Thiên Chúa thấu hiểu mọi sự.
· Noe và lụt hồng thủy: Chúa không chấp nhận tội lỗi.
· Abraham: Tin, vâng phục Thiên Chúa vô điều kiện và để Thiên Chúa dẫn dắt.
· Lửa trong bụi gai: Chúa là Thiên Chúa hằng sống.
· Vượt Biển Đỏ: Chúa giải thoát chúng ta và đưa chúng ta về đất hứa.
2. Chuyện lịch sử Giáo Hội và cuộc đời các Thánh
Đây cũng là kho tàng chứa đựng rất nhiều sự kiện có thể dùng để trình bày các đề tài giáo lý. Tuy nhiên cần trung thực: nhất là khi dùng chuyện các Thánh, những chi tiết ly kỳ, phi lịch sử, thuộc loại huyền thoại, có thể làm cho các em thích thú lúc đó, nhưng có thể làm hại đức tin của các em sau này. Phải lựa chọn kỹ lưỡng và áp dụng cho khéo.
Ví dụ:
· Cuộc đời Thánh Phaolô: Ơn gọi truyền giáo
· Cuộc đời Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu.
· Cuộc hiện ra của Đức Mẹ với 3 Thánh trẻ ở Bồ Đào Nha
· Cuộc đời các Thánh Tử Đạo Việt Nam: Lòng trung tín của các chứng nhân
3. Những chuyện thường nhật hoặc thời sự
Những việc xảy ra hằng ngày, những biến cố có tính thời sự cũng có thể đưa vào làm khởi điểm để suy nghĩ về một đề tài giáo lý. Tuy nhiên, việc lựa chọn những chuyện này khó hơn. Cần hội đủ hai điều kiện:
· Thích hợp, hoặc ít nhất cũng không mâu thuẫn với chủ đề tôn giáo.
· Có thể từ câu chuyện chuyển sang đề tài giáo lý một cách dễ dàng, không gượng ép giả tạo.
II. CÁCH THỰC HIỆN
1. Nắm vững chủ đích
Kể chuyện trong giờ giáo lý không nhằm mục đích mua vui hay giải trí. Câu chuyện được dùng làm phương thế dẫn tới việc truyền đạt nội dung. Vì thế phải lựa chọn những câu chuyện phù hợp để qua đó lồng vào bài học, những kiến thức cần truyền đạt,
2. Nội dung chuyện kể
Cũng vì nhằm mục đích mới xác định ở trên, nên phải nắm vững nội dung câu chuyện, tránh: đầu Ngô mình Sở, tránh những nội dung thần thoại, mê tín dị đoan mà cần phải quy về quyền năng Chúa.
Nội dung câu chuyện phải được trình bày một cách sống động, ngắn gọn, cụ thể. Cần loại bỏ những chi tiết dư thừa, lan man không trực tiếp liên quan đến vấn đề được trình bày làm trẻ bị phân tâm, không ghi nhớ hết, chỉ giữ những nét có thể làm nổi bật những điểm mình muốn đem áp dụng vào bài giáo lý.
Nội dung chuyện cần làm sáng tỏ điều hay, điều dở để các em so sánh, nhận định và có thể tự rút ra bài học (câu chuyện có kết luận mở)
3. Cách kể chuyện
- Người kể nắm vững câu chuyện, tránh tình trạng đọc truyện.
- Cần hóa thân vào nhân vật trong chuyện giúp các em dễ bị cuốn hút vào câu chuyện.
- Sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu phù hợp với trình độ nhận thức của trẻ.
- Khả năng biểu cảm trong diễn đạt: chất giọng rõ ràng, dễ nghe. Giọng nói thay đổi cao độ, cường độ, trường độ cho phù hợp nhằm làm câu chuyện thêm lôi cuốn. Tuy nhiên cần tránh tình trạng kịch tính. Ngoài ra, các yếu tố phi ngôn ngữ như nét mặt, điện bộ, cử chỉ cũng góp phần lớn cho thành công của câu chuyện.
- Đặt mình vào trình độ người nghe, hiểu được cảm nghĩ của trẻ, theo dõi sát sự chú tâm của trẻ:
· Chúng im lặng theo dõi : câu chuyện cuốn hút trẻ chăm chú nghe.
· Chúng lơ láo, ngáp vặt, nghịch ngầm: chuyện làm chúng chán nản. Cần phải thay đổi bầu khí, thu ngắn chuyện, nêu câu hỏi đàm thoại, băng reo… để lấy lại bầu khí
- Sau khi kể xong phải đặt lại câu hỏi với các em , rút ra ý chính , điều cần học tập, hoặc để chuyển tiếp vào bài Giáo Lý
Kể chuyện là một phương pháp hữu hiệu để giúp trẻ tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, hứng thú, nhiều hiệu quả. Điều quan trọng là chúng ta cần nắm vững tâm lý trẻ, chuẩn bị tốt nội dung và nhập tâm làm cho câu chuyện sống động, hào hứng , Có như thế trẻ sẽ tiếp thu tốt và ghi nhớ lâu dài.
--- oOo ---
Bài 10: Giáo dục theo tâm lý các lứa tuổi
1 - Tâm Lý Là Gì?
Tâm Lý là những sự kiện vô chất thể nơi con người (buồn, vui, giận, ghét, yêu, đam mê, cảm xúc…). Ta không thể nhìn thấy, hay mô tả các sự kiện tâm lý như mô tả một sự vât cụ thể; không thể định hình hay định vị. Nhưng phải nhìn nhận rằng tâm lý là sự kiện có thật được nhận thấy qua thái độ, ngôn ngữ, phản ứng và hành vi (nhìn một người khóc, tôi biết họ đang buồn hoặc quá vui; nhìn đứa trẻ đang gào thét, tôi biết em đang bị uất ức điều gì đó).
2 - Tâm Lý Học là gì?
Tâm Lý Học là khoa khảo sát về những sự kiện tâm lý qua nỗ lực quan sát các sự kiện khả giác bên ngoài của con người để nhìn ra và giải thích cái nguyên nhân bên trong của sự kiện đó. Sự kiện tâm lý và sự kiện thể lý là nguyên nhân và là hậu quả lẫn cho nhau. Khó có thể phân định cái nào sinh ra cái nào. Nghiên cứu tâm lý cần căn cứ vào cả những thể hiện của thể lý. Trong phạm vi bài này, người Huynh Trưởng, Giáo Lý Viên không có tham vọng đi sâu vào việc nghiên cứu tâm lý, nhưng chỉ vận dụng những thành quả của khoa tâm lý học để áp dụng vào việc dẫn dắt các em thiếu nhi được giao cho chúng ta trong lớp Giáo Lý hoặc trong đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể.
3 - Tâm Lý Học ứng dụng vào những lãnh vực nào?
Nói đến KhoaTâm Lý Học, người ta thường nghĩ đến những công trình khảo cứu có tính bác học. Đành vậy, nhưng trên thực tế, tâm lý học được xử dụng hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống cá nhân, cộng đồng và trong các mối tương giao, các sinh hoạt kinh tế, xã hội, chính trị, gia đình, học đường, giáo dục, lãnh đạo, quản lý, thậm chí cả trong chiến tranh.
Như vậy, có thể nói Tâm Lý Học là khoa nghiên cứu về ý thức con người. Nhà kinh doanh tìm hiểu tâm lý khách hàng; Nhà quân sự tìm hiểu tâm lý đối phương; nhà lãnh đạo cộng đồng tìm hiểu tâm lý quần chúng; nhà giáo dục tìm hiểu tâm lý học sinh; cha mẹ tìm hiểu tâm lý con cái. Tất cả để đối phó hoặc phục vụ đối tượng của mình cách hữu hiệu nhất.
4 - Sao Huynh Trưởng TNTT phải hiểu tâm lý đoàn sinh ?
Biết mình biết người, trăm trận tăm thắng! Huynh Trưởng có nhiệm vụ giúp các đoàn sinh của mình để phát triển con người toàn diện, về phương diện siêu nhiên và tự nhiên. Hiểu theo nghĩa này, Huynh Trưởng là nhà giáo dục. Nhà giáo dục cần phải tìm hiểu đối tượng giáo dục, các đoàn sinh của mình, nhằm tìm ra cách giáo dục phù hợp với tầm hiểu biết, khả năng tiếp thu; khai thác sự yêu thích, sự quan tâm của các em để đạt đến hiệu quả giáo dục cao nhất là giúp các em dần dần hoàn thiện hóa tiềm năng đang phát triển nơi các em trong tiến trình dẫn đến sự trưởng thành. Bởi vì trẻ em hoặc thiếu niên là lứa tuổi đang phát triển để thành người lớn. Tâm Lý(tình cảm, suy nghĩ, trí nhớ, sự liên tưởng, óc tưởng tượng) cũng như thể lý của trẻ (sức khỏe, cơ năng, sự vận động, sinh dục…) ảnh hưởng lẫn nhau, và đều đang trong quá trình phát triển để đạt tới sự tròn đầy của người trưởng thành. Đó là lý do Huynh Trưởng phải tìm hiểu tâm lý trẻ và sự biến đổi tâm lý theo lứa tuổi. Giới hạn của vấn đề là Tâm Lý các lứa tuổi đang phát triển – chưa trưởng thành.
Ở Cấp I, nhứng đặc tính được trình bày cách tổng quát nhăm giúp các giáo lý viên làm quen với việc tìm hiểu tâm lý thiếu nhi.
Nay, ở cấp II, các trưởng đi sâu thêm vào nhưng đặc tính tâm lý của từng lứa tuổi và tìm hiểu những giải pháp giáo dục chung phù hợp cho từng lứa tuổi, nhằm dẫn dắt các em phát triển tích cực và đúng hướng.
Bước sang cấp III, chúng ta căn cứ vào những kiến thức căn bản này, các trưởng sẽ quan sát thái độ, hành vi của các em, đọc ra nguyên nhân của hiện tượng (các sự kiện tâm lý đang diễn ra trong tâm hồn các em) . Để rồi quyết định đưa ra một giải pháp thích hợp cho từng trường hợp của nhóm, đoàn hoặc của từng em.
Tâm lý tuổi Ấu
Tuổi Ấu thường được xác định từ 6-9 tuổi hoặc 7-10 tuổi. Có những đặc tính sau đây.
1. Khả Năng Tập Trung:
Không chú ý được lâu. —> Không nên ép các em chú ý lâu. Giờ Chầu, Lễ, buổi học không nên kéo dài quá 30 phút. Ngay trong thời gian này cũng cần có sự thay đổi bầu không khí.
2. Trí nhớ chưa có sự chọn lựa.
Ghi nhận nhanh, nhớ nhanh và nhớ lâu những gì các em thích. (chuyện kể, phim ảnh…)
—> Muốn các em thích học và nhớ lâu, bài học cần được minh họa bằng hình ảnh, cử điệu; lời nói vui, gây sự chú ý.
3. Sự hiểu biết và trí nhớ lệ thuộc vào nét nổi bật của sự vật của hình ảnh, sự rực rỡ của mầu sắc. Để rồi mô tả và nói đúng như các em thấy. Không màng đến ý nghĩa bên trong, hoặc mục đích xa gần.
—> Muốn các em hiểu và nhớ vấn đề gì, vấn đề đó cần được minh họa bằng hình ảnh đẹp và có màu sắc. Những hình ảnh đó sẽ tạo ra một ký ức hay một ấn tượng, làm nền móng cho sự hiểu biết về ý nghĩa và mục đích sau này. Còn gọi là phương pháp trực quan (trực: thẳng; quan nhìn thấy, nhận thấy, nghe thấy…)
4. Bắt đầu hiểu biết, phân biệt được giá trị của con số và thứ bậc:
Biết nhiều điểm là tốt (bài làm được 10 điểm là giỏi hơn được 6 điểm…).
Biết số nhỏ trong thứ bậc là tốt hơn số lớn (đứng hạng 3 là giỏi hơn đứng hạng 9…)
—> Hình thức thi đua và cho điểm có tác dụng đối với lứa tuổi này.
5. Tuổi bắt đầu đi học, cũng có nghĩa là các em các em bắt đầu bung ra khỏi cái nôi gia đình.
Trước kia cha mẹ và anh chị là mẫu mực, là chỗ dựa, là “cuốn tự điển” cho những thắc mắc của các em. Bây giờ thì khác rồi! Thầy cô, Giáo Lý Viên, Huynh Trưởng, Bạn Bè (kể cả xã hội) là người cung cấp kiến thức mới cho các em. Đôi khi những kiến thức này chẳng những mới mà còn mâu thuẫn với kiến thức các em đã hấp thụ trong gia đình trước đây. Lúc này, các em rất tin cậy và vâng lời thầy cô, huynh trưởng, nhất là trong những vấn đề mà gia đình và bên ngoài mâu thuẫn nhau.
—> Vì các em quá tin nơi thầy cô và huynh trưởng, nên Huynh Trưởng phải: Cung cấp kiến thức chính xác, dạy các em những việc làm và cách sống đạo đúng;
- Huynh trưởng, luôn phải là gương mẫu cho các em.
- Sự sai lầm trong việc giáo dục các em ở tuổi này sẽ ghi dấu ấn sâu đậm, khó sửa.
- Huynh trưởng cần ý thức tầm quan trọng của vai trò mình đang đảm trách để luôn cẩn trọng trong việc giảng dạy, lời ăn tiếng nói đối với các em.
6. Con người bẩm sinh có xã hội tính.
Con người có khuynh hướng tìm đến người khác và sống cộng đoàn với nhau. Khuynh hướng xã hội của lứa tuổi này bắt đầu lộ diện, phát triển và được thể hiện qua:
- Cách có tổ chức, có hướng đi, có mục đích như lớp học, đoàn thể; hoặc cách tự nhiên không tổ chức, không mục đích rõ rệt như nhóm bạn
—> Cần chuẩn bị cho các em vươn tới những mối quan hệ mới, cụ thể là: Gia đình tin trưởng, cộng tác và hỗ trợ các tổ chức như nhà trường, lớp giáo lý, đoàn thể. Các em sẽ phấn khởi khi thấy gia đình và đoàn thể hợp tác với nhau;
- Ủng hộ, khuyến khích, kiểm soát khéo léo và hướng dẫn các em trong quan hệ bạn bè, nhóm.
- Ngăn ngừa hiện tượng băng đảng. Giá trị đạo đức và giá trị giáo dục của nhóm bạn và băng đảng hoàn toàn khác xa nhau, nhưng ranh giới giữa nhóm bạn và băng đảng lại rất gần nhau. Sự sa đọa của nhóm bạn dễ dàng biến nhóm bạn thành băng đảng!
- Các đoàn thể cần áp dụng phương pháp hàng đội cho các em ngày từ tuổi này. Phương pháp Hàng Đội là các đáp ứng thích hợp nhất cho khuynh hướng xã hội đang phát triển nơi các em. Điều đáng tiếc là sự quan tấm của phụ huynh đến nhóm bạn của con cái còn có vẻ xa lạ trong xã hội Việt Nam. Có nhiều phụ huynh rất yên tâm và hãnh diện rằng “con tôi đi đến nơi, về đến nhà không bầu bạn với ai…”!! Một đứa trẻ và kể cả người lớn mà chỉ “đi đến nơi về đến nhà, chẳng bầu bạn với ai” đó là người bất thường.!!! không đáng hoan nghênh.
7. Khái niệm không gian và thời gian chưa rõ ràng:
Bởi còn thiếu kinh nghiệm: Chẳng hạn chưa hình dung được khoảng thời gian một nghìn năm trước công nguyên hay một nửa vòng trái đất là thế nào,
—> Thường bắt đầu câu chuyện cổ tích bằng từ “ngày xưa hoặc ngày xửa ngày xưa”để nói lên rằng đã lâu lắm rồi. Không cần bắt các em phải nhớ chính xác những niên đại xa xôi, hoặc những cự ly quá lớn, làm che khuất nhứng điều đơn giản mà các em cần phải nhớ.
8. Trí tưởng tượng mạnh.
Thích chuyện thần tiên, biến hóa mà không quan tấm đến tính hợp lý hay khoa học của câu chuyện.
—> Việc Chúa tạo dựng, Chúa Ba Ngôi, Phép Lạ của Chúa được các em chấp nhận dễ dàng. Các Trưởng, Giáo Lý Viên không nên bận tâm cắt nghĩa sâu xa vấn đề này cho các em. Hơn nữa càng cắt nghĩa, chính các bạn càng đi vào ngõ bí, và làm cho các em bối rối, không hiểu trưởng đang nói gì.
9. Ngôn ngữ còn nghèo nàn.
Chịu ảnh hưởng nặng ngôn ngữ gia đình, địa phương. Chưa hiểu từ trừu tượng, bác học như “ý thức, khách quan, tư duy...”
—> Để diễn đạt một bài học cho các em tuổi này,
- Trưởng nên tìm và dùng những từ đơn giản phù hợp với lứa tuổi của các em, phù hợp với ngôn ngữ địa phương của các em.
- Dùng kinh nghiệm của mìmh để khi nghe các em nói thiếu mà ta vẫn hiểu đầy đủ; các em nói sai, nhưng ta biết các em muốn gì, nhằm tránh sự hiểu lầm, sự trừ điểm, hoặc hình phạt oan cho các em, ảnh hưởng xấu đến uy tín của trưởng và đến quá trình giáo dục toàn diện.
10. Muốn được người lớn quan tâm, chăm sóc, muốn “có một chỗ đứng” trong lòng người lớn nhất là cha mẹ, thầy cô, Huynh Trưởng Giáo Lý Viên.
——> Yếu tố quan trọng làm cho các em vâng lời và có ảnh hưởng tốt đến quá trình giáo dục toàn diện là:
- Nhớ tên, nhớ việc làm tốt em đã làm trước đây, nhớ ưu điểm của em; Biết cha mẹ, nơi ở của các em; Cư xử thân thiện, cởi mở, dịu dàng với các em.
Tâm lý học thì rộng lớn mênh mông; Thiếu nhi đang độ tuổi thay đổi không ngừng và nhanh chóng; môi trường sống mỗi nơi có ảnh hưởng riêng đối với thiếu nhi ở từng khu vực. Những điều được trình bày trên đây dù sao vẫn chỉ là những điều còn rất chung chung, không thể phản ánh từng trường hợp. Do đó cũng không đưa ra được những giải pháp cho mọi trường hợp. Chỉ mong đây là những điển hình cơ bản, từ đó các trưởng vận dụng vào thực tế, cùng với suy tư và kinh nghiệm riêng từng nơi, từng lúc để giáo dục thiếu nhi bằng những giải pháp cập nhật nhất. Sự hợp tác chặt chẽ giữa Đoàn Thể – Gia Đình và Học Đường là cách giáo dục thiếu nhi hữu hiệu nhất.
Tâm lý tuổi Thiếu
Tuổi Thiếu thường được xác định từ 10 đến 12 tuổi. Có những đặc tính sau đây.
1. Khả Năng Tập Trung:
- Vẫn chưa chú ý được lâu. Nhưng đã có ý thức về sự chú ý. Nghĩa là khi chú ý vào vấn đề nào đó, các em có nhắm đến một mục đích (td. cố gắng tập trung nghe giảng bài vì sắp đến kỳ thi)
—> Thời gian học tập, Kinh Lễ không nên kéo dài quá 45 phút, và cần thay đổi bầu không khí trong thời gian này;
- Thi đua có thưởng, tuyên dương là cách giúp các em luyện tập sự chú ý.
- Cần luyện tập sự chú ý nhằm nâng cao khả năng tập trung tư tưởng, giúp các em dần dần có khả năng chú ý lâu và bền bỉ, chuẩn bị cho các em sau này tiếp thu những vấn đề lớn hơn. Luyện tập chú ý không có nghĩa là gò các em làm việc quá sức, nhưng là tạo cơ hội vừa sức để giúp các em rèn luyện khả năng chú ý theo quy luật phát triển của lứa tuổi.
2. Sự hát triển khả năng nhớ:
- Biết quan sát và nhận xét sự việc, hình ảnh theo cách nghĩ của mình.
- Có thể nhìn ra các mối liên quan “nguyên nhân – hậu quả” (làm toán đố, toán hình học chẳng hạn). Có thể căn cứ vào những ký ức cũ, tổng hợp chúng để đưa ra câu trả lời cho một câu hỏi mới
—> Bài học có thể dài hơn, có tính suy luận hơn.
- Củng cố bài học bằng những câu hỏi nối kết và suy luận đơn giản (td. Từ việc các em hiểu Chúa Giêsu đến nói cho con người biết Thiên Chúa là ai, Ngài làm gì cho ta; Ngài muốn ta làm gì, các em không thể suy ra nhưng dễ chấp nhận rằng Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa nhờ biết nối kết tư tưởng và suy luận dựa trên sự nối kết trí nhớ;)
3. Đã biết thắc mắc.
- Những thắc mắc của các em thường là “thắc mắc tại sao” khi các em:
. Tự đối chiếu điều mới học với điều đã học mà các em còn nhớ và thấy có sự khác nhau;
. Thấy điều mới học khác với thực tế các em đã trải nghiệm.
—> Điều ta muốn các em chấp nhận phải có tính hợp lý, và phải tiên liệu những thắc mắc của các em để chuẩn bị câu trả lời;
- Khi các em “không có chút thắc mắc nào” về lời nói hoặc bài học, đừng vội cho rằng các em đã hiểu bài. Nhìn vào ánh mắt, vẻ mặt của các em mới có thể biết các em có hiểu và chấp nhận điều ta truyền đạt hay không, để rồi khéo léo đặt câu hỏi “trúng chỗ ngứa” của các em.
- Không nên dập tắt thắc mắc của các em, mặc dù đôi khi những câu hỏi có vẻ là thừa, ngớ ngẩn. Xuyên qua câu hỏi không hoàn chỉnh đó, trưởng phải đọc ra ý các em thắc mắc điều gì, hoặc giúp các em xác định, để rồi đưa ra câu trả lời soi sáng cho các em.
4. Khuynh hướng độc lập, tư hữu phát triển.
Mặc dù em chưa có thể tự mình quyết định được điều gì nhưng khuynh hướng độc lập, tự quyết đang nổi dậy. (td. muốn đi học, đi lễ một mình, không muốn cha mẹ hoặc anh chị đưa đi tới nơi đưa về tới nhà như xưa nữa). Mặc dù các em chưa có gì “làm của riêng”, nhưng tự trong thâm tâm các em vẫn muốn có cái gì đó riêng cho mình: một góc học tập trong gia đình, xe đạp riêng, tiền túi riêng…Và đây là những ước muón chính đáng.
—> Hãy tôn trọng và tạo điều kiện cho khuynh hướng này phát triển đúng hướng nhằm giúp các em biết suy nghĩ, phát biểu, làm việc và sống độc lập (không phải biệt lập) trong khi vẫn khuyến khích tinh thần cộng đồng nơi các em.
- Nhưng vẫn tạo điều kiện để các em tín nhiệm vào người lớn nói chung bằng cách người lớn phải tỏ ra hiệu quả và có sức thuyết phục trong các quết định và việc làm.
- Gia đình cung cấp cho các em những yêu cầu chính đáng này kèm theo sự giáo dục về cách xử dụng những thứ đó, sẽ là sự đóng góp quý giá vào tiến trình trưởng thành của các em.
- Đoàn thể có thể góp phần vào tiến trình giáo dục này bằng cách giúp các em ý thức giữ gìn tài sản đội đồng thời tôn trọng cái riêng của các bạn khác trong đội, trong đoàn như của chính mình.
5. Khuynh Hướng Xã Hội Phát triển.
- Có nhu cầu tự nhiên kết bạn, lập nhóm.
- Sinh hoạt trong nhóm bạn, giúp các em hiểu biết người khác, nhận ra chính mình và nhất là có tinh thần vị tha, tương thân tương ái .v.v…Giảm bớt tính ích kỷ, hẹp hòi.
- Có nhiều nhóm bạn đã kéo dài sự liên kết đến suốt đời và trong thời gian đó họ đã học tập lẫn nhau, giúp nhau thăng tiến và cùng nhau làm được nhiều điều hữu ích. Những nhóm Thiếu Nhi Thánh Thể, Giáo Lý Viên, Hướng Đạo hiện nay là những bằng chứng xác thực nhất.
——> Trong đoàn thể, phương Pháp Hàng Đội là cách tốt nhất nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội này;
- Trong gia đình phụ huynh cần khuyến khích các con em có bạn. Nhưng cần hướng dẫn, theo dõi xem con mình chơi với những ai, thuộc thành phần nào. Đồng thời phải biết hoạt động của nhóm bạn mà con em mình tham gia.
- Phụ huynh nên cách nào đó tham gia vào các tổ chức của con em để hướng dẫn hoặc huấn luyện. Cách này hiện nay còn xa lạ đối với xã hội Việt Nam, những đã phổ biến ở các nước phương Tây, Hoa Kỳ chẳng hạn, đã chứng tỏ được hiệu quả tích cực.
- Nhờ hoạt động cộng đồng, sinh hoạt nhóm, các em sẽ vừa có thể tự khẳng định và từng bước điều chỉnh mình vừa góp phần xây dựng cộng đồng.
6. Dễ chịu ảnh hưởng xã hội qua nghe ,nhìn.
Phim ảnh, sách báo có ảnh hưởng mạnh mẽ vì sự hấp dẫn của nó. Các nhân vật trong phim, sách truyện, giáo viên, huynh trưởng, cầu thủ, võ sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ …dễ trở thành thần tượng của các em: các em có thể kể lại một cuốn phim hay một câu chuyện cách say sưa và khá chi tiết. Các em cũng có thể kể lại một đám đánh nhau hay cãi nhau các đầy đủ cho người lớn.
——> Bài học phải hấp dẫn, cách trình bày phải lôi cuốn.
- Không nên dập tắt sự say sưa kể chuyện của các em. Trưởng (người lớn) cần lợi dụng đặc tính này, lắng nghe các em và đặt ra cho các em vài câu hỏi có mục đích giúp các em đánh giá nhân vật, thái độ và hành động của nhân vật, giúp các em nhận ra cái đúng để bắt chước, cái sai để loại bỏ (td. sự trả thù trong phim; những lời chửi bới thô tục trong đám cãi nhau…).
- Huynh trưởng không mong thành thần tượng “hão” nhưng lợi dụng đặc tính này để dạy dỗ các em.
7. Thích được khen.
- Thật ra tuổi nào cũng thích được khen, kể cả người lớn! Miễn là khen đúng.
- Lời khen công khai, có tác dụng bao nhiêu, thì lời chê công khai tác hại bấy nhiêu.
——> Nên nhìn các em bằng cái nhìn tích cực, cố gắng tìm ra những điểm tốt, đúng, hay để khuyến khích và khen ngợi.
- Nhìn yếu điểm cả các em bằng cái nhìn bao dung và cố gắng tìm cách biện hộ, giải thích trước khi đi đến giải pháp kỷ luật, và hết sức hạn chế hình thức kỷ luật công khai. Thông thường nên sửa dạy các em cách kín đáo.
8. Muốn được người lớn tín nhiệm và giao việc. Các em:
- Hãnh diện được người lới trao trách nhiệm;
- hãnh diện khi nhận ra mình đã đóng góp điều gì đó vào thành quả chung của tập thể.
- Khi được giao công việc, các em sẽ cố gắng hoàn thành có thể hơn cả sự mong đợi của người lớn.
—> Nghi thức sai đi, Trao khăn, Tuyên hứa, Trao quyền chỉ huy là cách tuyệt vời để các em có cơ hội nhận ra khả năng của mình, để hoàn thành nhiệm vụ và rèn luyện tinh thần trách nhiệm.
- Những thành quả đầu đời này là sự khuyến khích, là nền tảng, và là bàn đạp rất quan trọng cho sự thành công tương lai của các em
9. Hiếu động:
- Thích hoạt động ganh đua.
- Thích trò chơi mạnh. Nam nữ có khác nhau về thể lực, nên các thể hiện cái “mạnh” có khác nhau (td. nam thích tập trận giả, kéo dây, đã bóng; nữ thì nhảy dây, đuổi bắt…).
- Cũng do sự phát triển mạnh về thể chất, sức sống tràn đầy, các em không chịu ngồi yên.
- Kiến thức và kinh nghiệm của các em không do sự suy tư hay sự nhồi nhét lý thuyết, nhưng được các em tích lũy ngang qua hành động (td. dạy kỹ thuật hoặc chiến thuật bóng đá sau một trận đấu thì hiệu quả hơn trình bày lý thuyết trước khi ra sân)
10. Muốn lập thành tích.
Thành tích là thành tựu được ghi nhận, được công khai hóa, và được mọi người (hoặc nhiều người) công nhận.
——> Nên tuyên dương trước tập thể, ghi vào hồ sơ hoặc nhật ký đoàn những thành công hoặc sự đóng góp của các em cho việc chung nhằm tưởng thưởng việc làm tốt ngày hôm này đồng thời khuyến khích sự cố gắng hơn nữa của ngày mai.
- Tuy nhiên không thể không đề phòng sự nổi dậy của lòng kiêu ngạo. Đạt được cả hai mục đích này là nghệ thuật của trưởng!
Tâm lý học thì rộng lớn mênh mông; Thiếu nhi đang độ tuổi thay đổi không ngừng và nhanh chóng; môi trường sống mỗi nơi có ảnh hưởng riêng đối với thiếu nhi ở từng khu vực. Những điều được trình bày trên đây dù sao vẫn chỉ là những điều còn rất chung chung, không thể phản ánh từng trường hợp. Do đó cũng không đưa ra được những giải pháp cho mọi trường hợp. Chỉ mong đây là những điển hình cơ bản, từ đó các trưởng vận dụng vào thực tế, cùng với suy tư và kinh nghiệm riêng từng nơi, từng lúc để giáo dục thiếu nhi bằng những giải pháp cập nhật nhất. Sự hợp tác chặt chẽ giữa Đoàn Thể – Gia Đình và Học Đường là cách giáo dục thiếu nhi hữu hiệu nhất.
Tâm lý tuổi Nghĩa
Tuổi Nghĩa thường được xác định từ 13 đến 15 hoặc 16 tuổi. Có những đặc tính sau đây.
1. Khả Năng Tập Trung:
Tuổi này khả năng tập trung đã cao hơn.
- Các em có thể tập trung sự chú ý vào vào một vấn đề hay một đối tượng phức tạp, đa dạng. (td. để giải một bài tóan, không chỉ chú ý tới một định đề hay định lý đơn thuần, mà có thể phải chú ý tới hai hay nhiều định lý).
- Có thể tiếp thu một bài học ở dạng chứng minh đơn giản.
- Có khả năng chọn lựa sự chú ý, không hoàn toàn lệ thuộc vào cái thích hoặc tác động tự nhiên bên ngoài như mầu sắc, hoặc hình ảnh nổi bật như tuổi ấu nữa.
- Nhưng vì còn thiếu kinh nghiệm, sự chọn lựa chưa chín chắn, cần có người có kinh nghiệm hướng dẫn sự chọn lựa điểm tập trung- —> Trong bài dạy, cần:
- Nhắc nhở cho các em biết điểm nào quan trọng và cần thiết cho mục tiêu các em đang nhắm tới.
- Đặt ra những câu hỏi giúp các em chọn lựa điểm tập trung (điều nào quan trọng) để qua câu trả lời, trưởng có thể giúp các em điều chỉnh điểm tập trung.
2. Do bộ não đã phát triển khá hoàn chỉnh, trí nhớ cũng phát triển theo.
- Có thể ghi nhớ những bài học dài, nhiều chi tiết.
- Biết chọn lựa cái để nhớ. Biết tự tìm cách để nhớ.
- Biết phối hợp ký ức để nhận ra vấn đề mới nhờ hoài niệm, liên tưởng và kinh nghiệm. Đây là sự khởi đầu hình thành sáng kiến và khả năng phát minh do ảnh hưởng của khuynh hướng suy nghĩ và phán đoán độc lập.
—> Hãy để các em:
- Tự chọn điều gì cần nhớ, sau đó mới giúp các em điều chỉnh hoặc thay đổi hoặc loại bỏ những điều không cần thiết hoặc sai lầm bằng sự cố vấn có tính thuyết phục (chứ không bằng mệnh lệnh).
- Giúp các em tổng hợp kiến thức nhằm đưa ra một nhận định hoặc quyết tâm đúng. (td. Bài Giáo Lý cho tuổi này gồm các bước:
. Cung cấp văn bản;
. Tiên liệu và cắt nghĩa những điểm cần thiết;
.Để các em nhận định, tìm ra ý chính với sự điều chỉnh của trưởng
. Yêu cầu các em đưa ra quyết tâm hoặc lời đáp trả tuỳ theo bài.)
3. Tuổi Nghĩa là tuổi nhiều thắc mắc, hay đặt lại vấn đề:
- Thắc mắc của tuổi Nghĩa không đơn thuần là “thắc mắc tại sao”.
- Biết đối chiếu bài cũ với bài mới, sự kiện nơi này với nơi khác, cách giải thích lúc này với lúc khác, người này với người khác và đặt thành câu hỏi với ý muốn đòi hỏi sự nhất quán, mặc dù cách đặt câu hỏi có thể không mạch lạc vì còn hạn chế về vốn từ ngữ. Khi những thắc mắc không được giải đáp thoả đáng, phát sinh sự phản kháng, phá phách
—> Trưởng cần:
- Thông cảm khi nghe lời nói hoặc nhìn hành động không mấy lọt tai hoặc vừa mắt của các em, để đọc ra nội dung hoàn chỉnh trong các câu hỏi bất toàn về ngôn ngữ cũng như hành động vụng về của các em để đưa ra lời giải đáp hoặc hành động đúng vào “chỗ ngứa” của các em.
- Thông cảm không có nghĩa là đồng tình, nhưng đón nhận các em với những bất toàn của tuổi này để từng bước dẫn các em đến chỗ hoàn chỉnh vì các em còn đang trong tiến trình “thành người”.
- Sự giận hờn hoặc nổi nóng với các em là dấu chỉ của sự chịu thua, và thất bại là điều chắc chắn. Về vấn đề này trưởng cần là người bạn đồng hành với các em để các em có thể tỏ bày tâm sự. Khi các em dám tâm sự với trưởng, trưởng đã nắm được một nửa của sự thành công. Còn nửa kia tuỳ thuộc vào khả năng “bắt mạch và kê toa” của trưởng mà thôi.
4. Khuynh hướng độc lập, tư hữu phát triển.
- Muốn quyết định một mình, làm điều mình muốn. Không muốn lệ thuộc vào cha mẹ hay người lớn. Không muốn bị kiểm soát chi ly như “thuở nhỏ”.
- Các em muốn được tham vấn hơn là chỉ thị; muốn được nhắc nhở hơn là khiển trách.
- Muốn có của riêng: xe riêng để trang trí, xử dụng theo ý mình; tiền riêng để chi tiêu riêng chứ không muốn mỗi việc mỗi xin.
- Muốn tự mình đưa ra kế hoạch và kỷ luật làm việc, mặc dù còn non kém-
—> Để hướng dẫn khuynh hướng này,
- Những gì các em làm được hãy để cho các em làm, người lớn theo dõi để hướng dẫn và rút kinh nghiệm sau mỗi công việc.
- Không bao giờ khiển trách lỗi của một em ra trước toàn đội hay toàn đoàn. Khen thì khen chung; nhưng sửa phạt thì làm riêng. Cần loại bỏ ý tưởng phản giáo dục là “ phạt để làm gương”.
- Ngoài chương trình chung, trưởng cần hiểu biết và làm việc cá nhân với từng em.
5. Khuynh Hướng Xã Hội Phát triển mạnh.
- Việc kết bạn trở nên chặt chẽ, có tính cách chọn lựa và lâu bền, có quy định hẳn hoi để giúp nhau, bênh vực nhau. Nhưng cũng có nguy cơ biến thành băng đảng nếu không được quan tâm hướng dẫn và kiểm soát.
- Coi mình là người lớn, không muốn người lớn phải nhắc nhở những việc nhỏ như nhớ đội nón khi ra đường…
- Có quan tâm, đặt lại vấn đề đối với các giá trị gia đình, học đường xã hội (td. tập tục, kỷ luật, phép tắc…của gia đình, học đường, xã hội). —> Nên:
- Tán đồng, khuyến khích các em có bạn. Giáo dục các em về giá trị của tình bạn, tình đồng đội, trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể. Cách tốt nhất là tập cho các em sinh hoạt theo Phương Pháp Hàng Đội.
- Đọc ra hoặc nhìn nhận nguyên nhân của sự phản kháng của các em, bình tĩnh giúp các em hiểu và tự định lại thái độ. Không thể ép các em chấp nhận điều các em chưa thông.
6. Dễ bị lôi cuốn bởi trào lưu xã hội.
Môi trường sống của các em không còn thu gọn trong gia đình và mái trường nữa. Các em đã tiếp cận xã hội với tất cả những phức tạp của nó.
- Thoát ra khỏi vòng kiểm soát của gia đình, các em gặp phải ngay ảnh hưởng của xã hội. Ảnh hưởng xã hội không hoàn toàn xấu như những người bi quan thường gán cho nó. Thật ra ảnh hưởng xã hội rất đa dạng, xấu tốt lẫn lộn, nhưng tất cả đều có sức lôi cuốn! Trong xã hội có những đoàn thể làm công tác phục vụ cộng đồng, cũng có những phong trào làm băng hoại cộng đồng.
- Vấn đề là các em được hay bị đẩy vào môi trường nào, khung cảnh nào, bầu khí nào. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng; Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài!
- Những em rơi vào các băng đảng quậy phá, đua xe …là vì các em không có việc gì làm để tiêu thụ “năng lực thặng dư” nơi các em. Tội lỗi không hoàn toàn tại các em mà phần lớn do xã hội và cộng đồng đã không tạo cơ hội cho các em phát triển thể hiện chính mìn
—> Trên cở sở nhận thức rằng tuổi này không muốn ở không, luôn thích làm việc. Do đó
- Không nên để các em quá nhàn rỗi, cần tạo cho các em một khung cảnh sinh hoạt lành mạnh, hướng đến lợi ích cho chính bản thân các em và cộng đồng, sao cho các em nhìn thấy hiệu quả tốt trong đó các em có góp phần vào.
- Tổ chức cho các em tham gia các chiến dịch thi đua văn nghệ, thể thao để “tiêu thụ sức mạnh thể lý đang bùng lên” của các em; làm công tác từ thiện, bác ái để đáp ứng cái “máu nghĩa hiệp” rạo rực trong tâm hồn của lứa tuổi này.
7. Anh hùng tính.
- Mang trong mình mấm mống bất mãn, không bằng lòng với sự gò bó của luật lệ, rất nhạy cảm với những sự bất công, áp bức và những sự kiện thương tâm.
- Sẵn sàng can thiệp khi thấy bạn bè, người thân hoặc kẻ cô thế bị đối xử bất công.
- Sẵn sàng lăn vào công việc cứu tế.
- Mặt trái của anh hùng tính là khuynh hướng bá chủ, khuynh loát và “hỗn xược”. —>Trưởng cần:
- Đưa các em vào vai trò tổ chức và chỉ huy người khác, để các em sẽ nhận ra sự cần thiết của luật lệ, Các em sẽ nhận ra thái độ và phản ứng của cấp dười, từ đó giúp các em nhìn lại những thái quá hoặc bất cập của chính mình nhằm điều chỉnh khuynh hướng bá chủ và khuynh loát hoặc “hỗn xược”.
- Giúp các em tìm hiểu nguyên nhân của sự bất công, áp bức trong từng sự kiện, yêu cầu các em tìm ra một giải pháp tốt hơn với mục đích làm cho các em hiểu rằng muốn đập phá cái cũ, phải có cái mới và tốt hơn để thay thế, không chỉ đập phá vô trách nhiệm.
8. Phái tính phát triển rõ nét.
Đây là tuổi phát dục.
- Đã có sự phân biệt rõ rệt giữa nam và nữ cả về thể lý (nam mạnh hơn nữ rất nhiều) lẫn tâm lý (nữ ý tứ và có vẻ người lớn hơn nam).
- Rất nhạy cảm về cảm giác giới tính: Bắt đầu thắc mắc về chính mình và người khác phái, hậu quả tiêu cực là sự tò mò, tìm hiểu, có thể gây ra những hậu quả tai hại lâu dài về sau nếu không được hướng dẫn bởi người có kinh nghiệm.
- Về mặt sinh lý, ở tuổi 13 các em nữ đã có thể được coi là người lớn, vì đã có khả năng làm mẹ. Các em nam có thể trễ hơn, vào khoảng 15 đã có khả năng làm cha.
- Nhưng về tâm lý thì chưa đủ để đảm trách vai trò quan trọng này.
- Bắt đầu có sự mâu thuẫn nội tại: e dè với bạn khác phái, nhưng lại cuốn hút lẫn nhau. Khác với tuổi ấu thơ: chẳng cuốn hút cũng chẳng e dè (cùng nhau tắm mưa thải mái!). ——>Đối với lyứa tuổi này:
- Giới hạn các trò chơi chung nam nữ, nhất là những trò chơi mạnh vì sự không cân bằng về sức mạnh và tránh những đụng chạm không cần thiết.
- Tránh làm mất mặt các em trước các bạn khác phái.
- Tỏ ra thông cảm, gần gũi đến mức các em có thể giãi bày tâm sự, từ đó hướng dẫn các em cả về tâm lý lẫn sinh lý nhằm giúp các em vượt qua lứa tuổi nguy hiểm này cách an toàn.
9. Muốn được người lớn tín nhiệm và giao việc.
- Vốn sẵn có sức mạnh dư thừa, có khuynh hướng kết bạn, có tính hiếu động, các em muốn được người lớn tin cậy và giao cho làm việc gì đó để khẳng định mình.
- Khẳng định mình là nhu cầu tự nhiên của con người trong cộng đồng. Ở mức độ nào đó, sự khẳng định mình là cần thiết để các em có thể hiện diện và đóng góp với cộng đồng cách tích cực và có ý thức, là hành vi của nguời quân bình và trưởng thành.
——> Hãy: Cẩn trọng tin tưởng và giao phó cho các em những việc vừa sức, để các em tự nghĩ cách thực hiện. Đồng thời quan sát, theo dõi và hỗ trợ khi cần sao cho các em cảm thấy chính các em đã có phần tích cực trong sự thành công mà không cần kể công của trưởng.
- Điều này đem đến hai tác dụng:
+ Các em phấn khởi, tự tin hơn trong những công tác sau.
+ Qua làm việc, các em tự nhận ra giới hạn của mình, vì trong thâm tâm các em thừa nhận rằng trong sự thành công này các em không làm tất cả mà còn cần có sự trợ giúp của các trưởng. Các em sẽ bớt “nổ” và kiêu căng để tiến dần đến sự trưởng thành quân bình.
10. Thẳng thắn, không thích quanh co.
Tuy đã vượt ra khỏi tuổi ngây thơ hồn nhiên, nhưng tâm hồn các em vẫn còn giữ được sự trong trắng, thẳng thắn:
- Các em nghĩ thẳng, nói thẳng, không giả dối và không muốn bị nói dối, cũng không muốn tham gia vào việc nói dối.
- Thần tượng của các em tức khắc bị sụp đổ khi các em phát hiện nơi thần tượng có điều gian dối.
- Tuy nhiên trong thực tế vẫn có những em nói dối. Đó là do ảnh hưởng của xã hội và gương xấu của người lớn trong gia đình, học đường, đoàn thể. Người lớn đã đưa các em vào vòng nói dối vì quyền lợi của mình, của đoàn thể mình, trường mình.
- Gương xấu gian dối ngày nay vô cùng phổ biến trong xã hội, kể cả trong trường học và gia đình…
—> Việc thi cử, làm bài, kinh doanh, quảng cáo, kể các việc đạo, trò chơi trưởng,
- Đừng bào giờ vì thân quen, vì danh hiệu hay vì phần thưởng của đơn vị mình mà đưa các em vào hoàn cảnh phải nói dối.
- Trước mắt các em có thể hể hả về thắng lợi, nhưng về lầu về dài các em không phục và vô tình tạo cho các em cái gương xấu về sự nói dối. Hậu quả sã là chúng ta đã phá hỏng con người các em. Và gậy ông sẽ đập vào lưng ông!
Tâm lý học thì rộng lớn mênh mông; Thiếu nhi đang độ tuổi thay đổi không ngừng và nhanh chóng; môi trường sống mỗi nơi có ảnh hưởng riêng đối với thiếu nhi ở từng khu vực. Những điều được trình bày trên đây dù sao vẫn chỉ là những điều còn rất chung chung, không thể phản ánh từng trường hợp. Do đó cũng không đưa ra được những giải pháp cho mọi trường hợp. Chỉ mong đây là những điển hình cơ bản, từ đó các trưởng vận dụng vào thực tế, cùng với suy tư và kinh nghiệm riêng từng nơi, từng lúc để giáo dục thiếu nhi bằng những giải pháp cập nhật nhất.
Sự hợp tác chặt chẽ giữa Đoàn Thể – Gia Đình và Học Đường là cách giáo dục thiếu nhi hữu hiệu nhất.
--- oOo ---
Bài 11: Giao tế nhân sự
I.- Giao Tế Nhân Sự là gì?
- Giao tế nhân sự là mối tương quan giữa người với người trong cộng đồng, trong xã hội hay trong một tổ chức lớn nhỏ. Là người, ai cũng bị đặt trước mối liên hệ với người khác tuỳ vai trò, cấp bậc, vị trí của mình mà mối liên hệ đó hạn hẹp, rộng rãi, bình thường hay quan trọng… (giao tế nhân sự của nhà lãnh đạo, giao tế nhân sự của một học sinh…)
- Lịch thiệp là hoa thơm của đức bác ái. Mà thánh Phaolo dạy rất rõ về đức ái: “Đức ái thì nhẫn nhục, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, Đức ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả”. “Anh em hãy cố đạt cho được đức ái... hãy tìm kiếm để được dồi dào các ân huệ đó, nhắm xây dựng Hội thánh” Thực hiện giao tế nhân sự là duy trì phát triển ngày một tốt đẹp hơn mối tương quan giữa người với người.
II.- Đối tượng của giao tế nhân sự.
Giao tế nhân sự luôn luôn có hai vế: Tôi và anh, chúng tôi và các anh… Địa vị, tư cách của mỗi người trong cộng đồng, được cộng đồng nhìn nhận cách tự nhiên (người cao niên mặc nhiên được cộng đồng kính trọng, người hiền lành, nhân đức được mọi người nể vì); hoặc do định chế (một linh mục, tu sĩ mặc dù còn trẻ, được mọi người kính trọng; các công nhân kính trọng giám đốc).
Đối tượng giao tế của Huynh Trưởng gồm: Cấp trên như Cha Xứ, Cha Uyên Uý, Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ. Ngang hàng như các đoàn thể bạn trong giáo xứ, các tổ chức khu xóm trong họ đạo. Cấp dưới như huynh trưởng thuộc cấp, các em đoàn sinh
Vì có những vị trí khác nhau trong tổ chức hay trong xã hội, nên giao tế nhân sự trở thành vấn đề các Trưởng phải quan tâm.
III.- Mục đích của Giao Tế Nhân Sự:
Mỗi cuộc giao tế đều có mục đích:
- Công nhân đến gặp công ty để xin việc làm,
- Công dân đến cơ quan hành chánh xin liên hệ công việc...
- Đoàn Trưởng gặp Cha Tuyên Úy hay cha Xứ để trình bày vấn đề của đoàn,
- Huynh trưởng tiếp xúc với phụ huynh về việc của con em họ trong đoàn,
- Huynh trưởng tiếp xúc với đoàn sinh các cấp để giảng dạy, huấn luyện…
IV.- Nghệ thuật giao tế.
1. Nắm vững mục đích:
Cuộc gặp gỡ nhằm đạt được điều gì. Câu chuyện dù có vòng vo tới đâu đi nữa, đừng quên mục đích và tìm cơ hội thuận tiện nhất để đưa vào đề. Tuỳ đối tượng, có khi phải để cho câu chuyện “vòng vo tam quốc”, hoặc nhập đề cách lung khởi và ta vẫn phải kiên nhẫn với sự vòng vo đó nếu đối tượng là cấp trên hoặc người vị vọng, nhưng luôn tỉnh táo theo dõi tiến trình và tìm cơ hội đưa câu chuyện trở lại vấn đề.
2. Biết rõ về đối tượng giao tế:
Trong giao tế, cần biết rõ đối tượng: về chức vụ, địa vị, trình độ kiến thức, tính tình, sở thích, tuổi tác, lập trường về vấn đề có liên quan để chuẩn bị tâm lý, sắp xếp tiến trình giao tế.
- Với cấp trên: Lễ phép, thẳng thắn, trung thực
- Với cấp ngang hàng: Tôn trọng, đại lượng, tế nhị, hợp tác.
- Với cấp dưới: Chân thành, niềm nở, bao dung, yêu thương.
3. Tác phong khi giao tế:
Luôn tôn trọng nhau. Tuỳ theo cấp bậc, vị trí và công việc mà ta có cách mở đầu và tiến hành việc giao tế khác nhau. Nhưng cách chung, trong giao tế thông thường, huynh trưởng cần:
- Dùng ngôn ngữ quen thuộc của đối tượng, hoặc đặt ra những vấn đề phù hợp với trình độ kiến thức và mối quan tâm của đối tượng.
- Gặp đối tượng “nói nhiều”, ta nên đóng vai “người nghe” để “chịu trận”, nhưng vẫn để ý theo sát và nắm ý chính. Khi “đài tạm nghỉ” để lấy sức, ta mới nêu lên điều mình muốn nói đã được chuẩn bị trước. Không nên ngắt lời, nhất là khi người đối diện là cấp trên và đang hưng phấn.
- Nếu đối tượng có vẻ lạnh nhạt, ta nên tạo sự hưng phấn bằng cách hỏi vài điều về “nghề của chàng”. (td. với một sĩ quan hồi hưu, nên hỏi về một trận đánh nổi tiếng nào đó trong lịch sử mà người ấy có tham gia...), rồi chịu khó ngồi nghe và tìm cơ hội đưa câu chuyện vào lại đề tài chính.
- Thực sự quan tâm theo dõi điều đối tượng đang nói, vì rất có thể câu chuyện đó đem đến cho ta sự hiểu biết mới bất ngờ. Đồng thời cũng là cách đối xử lịch sự, làm vừa lòng đối tượng. “lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau!”
- Cần chăm chú nghe và nhìn vào đối tượng, đừng nhìn “trừng trừng”, cũng đừng “ngó lơ”.
- Tùy theo vai vế của đối tượng để chọn lời xưng hô hoặc mở đầu (cách xưng hô đối với người Việt nam rất quan trọng, có thể bể chuyện lớn vì những lỗi nho này).
Một số lưu ý:
+ Ít quảng cáo về mình bao nhiêu có thể. Chỉ nói về mình, nhất là những ưu điểm của mình, khi được hỏi tới và chỉ nói vừa đủ những chi tiết mà đối tượng yêu cầu.
+ Có những trường hợp phải trình báo bằng văn bản: nên sọan sẵn để có thể thay đổi hay thêm bớt ngay trên văn bản khi lãnh ý. Cũng có thể hẹn ngày gặp lại để đọc văn bản hoàn chỉnh
+ Tránh phê phán, Khi cần hãy góp ý trong tinh thần xây dựng và tôn trọng, bình tĩnh chọn từ ngữ và cẩn thận trong cách nói để tránh xúc phạm cấp trên, tránh mất bạn hữu và làm nản lòng cấp dưới: Đừng khẳng định rằng đối tượng sai lầm hoặc kết án đối tượng cách trắng trợn nhất là đối với cấp trên và cho dù là cấp dưới.
+ Bình tĩnh, bao dung sẵn lòng tha thứ khi đối tượng lỡ xúc phạm đến mình, và tìm cách lướt qua để đối tượng không bị ngượng.
+ Việc góp ý sửa sai luôn luôn được thực hiện với từng cá nhân. Tránh tuyệt đối phê bình cá nhân trước tập thể khi không đủ lý do cần thiết.
+ Khi phát biểu ý kiến, tránh những cử chỉ hung hăng như vung tay, đập bàn; Đừng chỉ tay vào mặt đối tượng cũng tránh vỗ ngực mình.
+ Giọng nói cần rõ ràng, lớn vừa đủ nghe, gọn gàng, dứt khoát và truyền cảm bao có thể.
+ Khi bắt tay hãy nắm chặt tay và nhìn vào đối tượng. Tránh bắt cách hời hợt, ngó lơ. Đừng quên hỏi thăm cha mẹ, vợ, chồng, con cái của đối tượng.
+ Muốn đối tượng cởi mở, hãy mở lòng mình trước. Tránh một chiều khai thác (trao đổi mà như hỏi cung thì không nên)
Tất cả những điều trên đây phải xuất phát từ lòng chân thật nhằm mục đích tạo bầu không khí thân mật, tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau. Không thể là chiến thuật hay thủ đoạn ngoại giao, giả hình. Vì:
- Sự chân thành và khiêm tốn, có giá trị thuyết phục hơn sự ba hoa và mưu mẹo.
- Mưu mẹo và chiến thuật chỉ có thể thành công nhất thời mà thường là mầm mống của sự đổ vỡ trong giao tế.
Đối với Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể, nền tảng của nghệ thuật giao tế là lòng mến, sự chân thành, khiêm tốn, và sự tương kính (1Cr. 13, 1-6)
--- oOo ---
Bài 12 - Lịch sử Việt Nam
Đất nước Việt Nam hiện nay có hình dáng long chữ S, thuộc khu vực Đông Nam Á trong vùng khí hậu nhiệt đới. Lãnh thổ dài và hẹp mở rộng về phía Tây. Vùng hẹp nhất là tỉnh quảng Bình khoảng 50 km. Vùng rộng nhất là bình nguyên Bắc bộ tính từ ngã ba biên giới Việt-Lào-Trung đến Móng Cái rộng trên 300 km.
Phía Bắc có các đồng bằng rộng lớn nằm dọc theo lưu vực sông Hồng, sông Lô và sông Chảy. Phía Nam có đồng bằng sông Cửu Long tạo nên vựa lúa lớn nhất cho cả nước. Miền Trung có dãy núi Trường Sơn về hướng Tây chạy đọc theo bờ biển. Với các con sông ngắn tạo nên đồng bằng nhỏ hẹp ở phía Đông. Phía Tây Nam là các cao nguyên rộng lớn trù phú hợp với các cây công nghiệp: cao su, trà, cà phê, ca cao,..
Tự hào là dân tộc Bách Việt: đất nước thân yêu này là chốn nương thân của nhiều dân tộc với các nền văn hóa khác nhau trong suốt dòng lịch sử.
Từ những người Việt cổ ở Bắc Bộ với nền văn hóa Sơn Vi cách đây khoảng 23 ngàn năm TCN, văn hóa Hòa Bình–Bắc Sơn 10 ngàn năm TCN, văn hóa Đông Sơn 2700 năm TCN. Trong khi nhiều dân tộc ở Nam Trung Bộ: từ Thừa Thiên đến lưu vực sông Đồng Nai thuộc nền văn hóa Sa Huỳnh, tổ tiên là người Chăm. Nền văn hóa Óc Eo ở miền cực Nam với vương quốc Phù Nam ở các tỉnh Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp và nền văn hóa Khơ Me ở đồng bằng sông Cửu Long. Tất cả các dân tộc ấy tạo thành cộng đồng người Việt hiện nay với 54 dân tộc khác nhau, trong đó người Kinh chiếm gần 85% tổng dân số cả nước.
Trong quá trình xây dựng đất nước, những dân tộc ấy đã đổ bao công sức, mồ hôi, nước mắt để khai hoang, phục hóa, phá rừng làm rẫy, đắp đê chống lũ ngăn mặn, lấn biển,…Các dân tộc đều nhân danh giang sơn, gấm vóc để đấu tranh chống kẻ thù xâm lược hay mở rộng biên cương. Cuối cùng đất nước, núi sông vẫn còn đó, không dành cho riêng ai mà của mọi người.
I. KỶ NGUYÊN ĐẦU
a) Khung niên đại
Các bộ chính sử trước đây đều lấy năm 111 trước CN (năm nhà Tây Hán lật đổ Nam Việt rồi thay Nam Việt mà thống trị nước ta) làm năm mở đầu. Khoa học lịch sử hiện đại đã bác bỏ niên đại này. Và thay vào đó là năm 179 trước CN, năm Triệu Đà (vua Nam Việt) đã đánh bại An Dương Vương, thiết lập nền đô hộ đối với nước ta.
Các bộ chính sử cũ cũng lấy năm 938 (năm Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán xâm lược) hoặc năm 968 (năm Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân và lên ngôi hoàng đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng) làm năm kết thúc thời Bắc thuộc. Khoa học lịch sử chọn năm 905 (năm Khúc Thừa Dụ đã khôn khéo thiết lập nền độc lập và tự chủ) vì cho rằng kể từ đây, nền đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc đối với nước ta đã chấm dứt.
b) Các triều đại phong kiến Trung Quốc đã nối nhau thống trị nước ta trong thời Bắc thuộc (từ 179 trước CN đến 905 sau CN).
Lưu ý: niên đại trong bảng kê dưới đây chỉ là niên đại tính trên danh nghĩa. Về thực chất, niên đại cụ thể có phẩn khác hơn, nhưng sử vẫn chép theo danh nghĩa.
Những năm sau công nguyên, chúng tôi không ghi thêm ba chữ sau công nguyên vì sợ dài dòng, còn tất cả những năm trước công nguyên đều viết tắt là TCN.
NAM VIỆT (Họ Triệu): Thành lập năm 206 TCN. Đô hộ nước ta từ năm 179 TCN. đến năm 111 TCN. Tổng cộng: 68 năm.
TIỀN HÁN (Hay Tây Hán–họ Lưu): Thành lập năm 206 TCN. Lật đổ Nam Việt rồi thay Nam Việt để đô hộ nước ta từ năm 111 TCN đến năm 08. Tổng cộng: 119 năm.
NHÀ TÂN (Vương Măng): Lật đổ và thay Tiền Hán đô hộ nước ta từ năm 08 đến năm 25. Tổng cộng: 17 năm.
HẬU HÁN (hay Đông Hán – họ Lưu): Dẹp nhà Tân rồi thay Tân đô hộ nước ta. Đô hộ nước ta từ năm 25 đến năm 220.
NHÀ NGÔ (họ Ngô): Là một trong ba nước của thời hỗn chiến Tam Quốc (Ngô – Thục và Ngụy). Đô hộ nước ta từ năm 220 đến năm 280.
NHÀ TẤN (họ Tư Mã): Thống nhất Trung Quốc, thay nhà Ngô đô hộ nước ta. Khởi đầu năm 280 đến năm 420.
NAM TRIỀU (Tống, Tề, Lương, Trần): Đây là thời loạn lạc của Trung Quốc, gọi là thờiNam – Bắc triều. Nam triều với nhiều triều đại khác nhau đã trực tiếp đô hộ nước ta. Khởi đầu năm 420. Chấm dứt ách đô hộ năm 542. Tổng cộng 122 năm. (Nam triều còn tồn tại cho đến năm 581 nhưng từ năm 542 ta giành được độc lập nhờ thắng lợi của cuộc khởi nghĩa do Lý Bí lãnh đạo).
NHÀ TÙY (họ Dương): Thành lập năm 581. Xâm lược và đô hộ nước ta từ năm 602. đến năm 618.
NHÀ ĐƯỜNG (họ Lý): Thay nhà Tùy mà đô hộ nước ta từ năm 618. Chấm dứt ách đô hộ năm 905. Nhà Đường còn tồn tại đến năm 907 nhưng hai năm sau cùng, chúng không còn đủ sức để đô hộ nước ta. Vả chăng, năm 905, họ Khúc đã khôn khéo thiết lập được chính quyền độc lập và tự chủ. Tổng cộng 287 năm.
c) Tính chất của thời Bắc thuộc
Dòng nổi bật thứ nhất của lịch sử thời Bắc thuộc là dòng đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Đây là thời kỳ lịch sử đen tối nhất của lịch sử nước nhà trong thiên niên kỷ thứ nhất sau công nguyên. Quân đô hộ đã quyết tâm xóa bỏ cho bằng được nền độc lập và tự chủ của ta, vơ vét và bóc lột nhân dân ta một cách rất thậm tệ. Đây cũng là thời mà những âm mưu đồng hóa nguy hiểm được thực hiện rất ráo riết.
Dòng nổi bật thứ hai của lịch sử thời Bắc thuộc là dòng đấu tranh liên tục và ngoan cường của dân ta. Hàng loạt những cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ, tấn công không khoan nhượng vào toàn bộ cơ đồ thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc đô hộ. Điểm lại, ta thấy nổi lên những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu sau đây:
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nổ ra năm 40, chống lại ách đô hộ của nhà Đông Hán (tức Hậu Hán). Hai Bà đã giành được chính quyền trong ba năm (40 – 43). Sử gọi đó là thời Trưng Nữ Vương.
Khởi nghĩa Lý Bí (tức Lý Bôn) nổ ra năm 542, chống lại ách đô hộ của nhà Lương (một trong những triều đại của Nam Triều). Đầu năm 544, Lý Bí lên ngôi hoàng đế, xưng là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đặt niên hiệu là Thiên Đức (cũng có sách chép là Đại Đức). Trên danh nghĩa, nước Xuân Vạn tồn tại đến năm 602.
Khởi nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến, nổ ra năm 687 chống lại ách đô hộ của nhà Đường.
Khởi nghĩa năm 722, chống lại ách đô hộ của nhà Đường. Mai Thúc Loan lên ngôi hoàng đế, xưng là Mai Hắc Đế.
Khởi nghĩa Phùng Hưng (? – 791), chống lại ách đô hộ của nhà Đường. Phùng Hưng đã giành được chính quyền trong một thời gian khá dài. Năm 789 ông qua đời, con ông là Phùng An đã tôn cha là Bố Cái Đại vương.
Khởi nghĩa Dương Thanh, nổ ra năm 819 kéo dài đến năm 820, chống lại ách đô hộ của nhà Đường.
Lịch sử thời Bắc thuộc tuy có hai dòng hoàn toàn khác nhau, nhưng điều đáng nói nhất là ở chỗ, cuối cùng dòng đấu tranh ngoan cường của nhân dân ta đã giành được toàn thắng.
II. KỶ NGUYÊN ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ
VÀ GIÀNH THỐNG NHẤT (905 – 1527)
Kỷ nguyên này gồm năm chặng nối tiếp nhau, tuy cũng có lúc đất nước ta phải chịu những thử thách rất cam go, nhưng xu hướng chung vẫn là phát triển một cách toàn diện và mạnh mẽ. Năm chặng này cụ thể như sau:
a) Xây dựng và khẳng định kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất (từ năm 905 đến năm 1009)
Đây là chặng có khá nhiều dòng họ nối nhau trị vì đất nước.
Họ Khúc (905 – 930)
Tuy chưa đặt quốc hiệu và niên hiệu, tuy chưa xưng Đế hay xưng Vương, thậm chí còn tự coi mình là quan lại của Trung Quốc, nhưng thực sự họ Khúc thực sự đã có công đặt nền tảng căn bản đầu tiên cho kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất của nước nhà. Họ Khúc truyền nối được ba đời, nắm quyền trong 25 năm.
Khúc Thừa Dụ (905 – 907); Khúc Hạo (907 – 917);
Khúc Thừa Mỹ (917 – 930)
Họ Dương (931 – 937)
Năm 930, quân Nam Hán sang xâm lược nước ta lần thứ nhất, cuộc kháng chiến do Khúc Thừa Mỹ lãnh đạo đã thất bại. Nhưng, ngay lập tức, một bộ tướng của họ Khúc là Dương Đình Nghệ đã đánh đuổi được quân Nam Hán ra khỏi bờ cõi. Sau thắng lợi, Dương Đình Nghệ thành lập chính quyền mới do ông đứng đầu. Năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn (con nuôi và cũng là bộ tướng của ông) giết hại để tranh giành quyền hành.
Họ Ngô (930 – 941)
Năm 937, được tin Kiều Công Tiễn giết hại Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền lập tức đem quân đến hỏi tội. Hốt hoảng Kiều Công Tiễn đã đi cầu cứu quân Nam Hán. Ngô Quyền liền giết chết Kiều Công Tiễn và đánh tan quân Nam Hán ở Bạch Đằng. Sau đó ông lên ngôi, đóng đô ở Cổ Loa. Sử gọi đó là thời Ngô vương. Ong trị vì được sáu năm. Sau ông, con và cháu ông còn tiếp tục nối nhau trị vì thêm một thời gian nữa, nhưng vai trò của họ Ngô thì kể như đã chấm dứt sau cái chết của Ngô Quyền.
Với trận thắng lịch sử ở Bạch Đằng năm 938 và với sự nghiệp kiến thiết đất nước sau chiến tranh, Ngô Quyền đã khẳng định kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất của nước nhà.
Họ Đinh (968 – 980)
Sau khi Ngô Quyền mất, đất nước lâm vào một thời kỳ loạn lạc chưa từng thấy. Các thế lực khác cứ nổi lên khắp nơi. Theo quy luật chung, thế lực nào yếu sẽ bị tiêu diệt sớm, thế lực nào mạnh sẽ tồn tại lâu hơn. Đầu nửa sau của thế kỷ thứ mười, chỉ còn lại 12 thế lực mạnh, sử gọi đó là loạn mười hai sứ quân.
Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp được loạn mười hai sứ quân, và năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, định đô ở Hoa Lư. Năm 970 ông đặt niên hiệu là Thái Bình. Họ Đinh truyền nối được hai đời.
Đinh Tiên Hoàng (968 – 979).
Đinh Phế Đế (tức Đinh Toàn): 980
Với sự nghiệp dẹp loạn mười hai sứ quân và kiến thiết nước nhà trong những năm trị vì, Đinh Tiên Hoàng là người đã có công hoàn thiện kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất của nước nhà.
Nhà Tiền Lê (980 – 1009)
Nhà Tiền Lê được lập nên do sự chọn lựa và suy tôn của các quan lại cùng các nhà sư. Bấy giờ, vận nước lâm nguy bởi mưu đồ xâm lăng của nhà Tống mà Đinh Toàn không đủ uy tín, càng không đủ tài năng để điều khiển vận mệnh quốc gia. Là quan Thập Đạo tướng quân, lại đang nắm quyền Phó vương cho Đinh Toàn, Lê Hoàn được suy tôn lên ngôi. Nhà Tiền Lê truyền nối được ba đời, trị vì 29 năm:
Lê Hoàn (980 – 1005)
Lê Trung Tông (ba ngày của tháng 11 năm 1005)
Lê Long Đĩnh (tức Lê Ngọa Triều:1005 – 1009)
Trong thời Tiền Lê, Lê Hoàn là người đã có công rất lớn:
Đánh tan cuộc xâm lăng của quân Tống vào năm 981.
Chừng trị đích đáng sự quấy phá của Chiêm Thành vào năm 982.
Tiếp tục xây dựng và củng cố kinh đô Hoa Lư, ban hành nhiều chính sách cai trị rất tích cực và tiến bộ.
b) Nước Đại Việt dưới thời Lý (1010 – 1225)
Triều Lý được hình thành do sự đồng lòng suy tôn của quan lại và các nhà sư dưới thời Tiền Lê, sau khi Lê Long Đĩnh qua đời vào năm 1009.
Người có công khai sáng ra triều Lý là Lý Công Uẩn.
Nhà Lý có mấy cống hiến nổi bật sau đây:
+ Về chính trị: Thiết lập guồng máy nhà nước của quý tộc họ Lý. Dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long (1010). Đặt quốc hiệu mới là Đại Việt (1054)
+ Về quân sự: Chừng trị đích đáng quân Chiêm Thành khi chúng liên tục quấy nhiễu biên cương phía Nam (1069). Đại phá quân Tống xâm lăng (1077)
+ Về văn hóa: Tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển mạnh mẽ. Mở đường cho nền giáo dục và thi cử Nho học được xác lập và không ngừng đi lên. Đưa các lãnh vực khác của đời sống văn hóa nước nhà bước vào một giai đoạn hưng thịnh mới.
Nhà Lý tồn tại trước sau được 215 năm, gồm 9 đời hoàng đế nối nhau trị vì. Cụ thể như sau:
Lý Thái Tổ (tức Lý Công Uẩn): 1010 – 1028
Lý Thái Tông (tức Lý Phật Mã): 1028 – 1054
Lý Thánh Tông (tức Lý Nhật Tôn): 1054 – 1072
Lý Nhân Tông (tức Lý Càn Đức): 1072 – 1127
Lý Thần Tông (tức Lý Dương Hoán): 1128 – 1138
Lý Anh Tông (tức Lý Thiên Tộ): 1138 – 1175
Lý Cao Tông (tức Lý Long Trát): 1175 – 1210
Lý Huệ Tông (tức Lý Hạo Sảm): 1210 – 1224
Lý Chiêu Hoàng (tức Lý Phật Kim, công chúa út của Lý Huệ Tông): 1224 – 1225
c) Nước Đại Việt dưới thời Trần (1226 – 1400)
Nhà Trần được thành lập trên cơ sở lợi dụng hôn nhân để lật đổ nhà Lý vốn đã đổ nát từ hàng chục năm trước đó.
Hoàng đế khởi đầu của nhà Trần là Trần Thái Tông (tức Trần Cảnh, chồng của Lý Chiêu Hoàng).
Nhà Trần có mấy cống hiến lớn sau đây:
+ Về chính trị: Tái thiết và củng cố guồng máy nhà nước của quý tộc (một mô thức vốn dĩ đã có từ thời Lý). Lập chế độ hai ngôi: Thượng Hoàng và Hoàng Đế nhằm tránh nạn tranh giành ngôi báu thường có giữa các Hoàng Tử.
+ Về quân sự: Xây dựng lực lượng vũ trang theo phương châm quân sĩ cốt ở tinh nhuệ chứ không phải cốt ở số đông. Ba lần đại phá quân Nguyên Mông xâm lược. Lần thứ nhất: 1257 – 1258. Lần thứ hai: 1285. Và lần thứ ba là năm 1288.
+ Về văn hóa: Đưa nền giáo dục và thi cử Nho học tiến dần đến một giai đoạn phát triển mới, rất mạnh mẽ. Trong khi đó, Phật giáo và Đạo giáo vẫn có cơ hội để tiếp tục khẳng định vị trí của mình. Tạo điều kiện cho tất cả các lĩnh vực khác của đời sống văn hóa đi lên, góp phần quan trọng vào việc để lại cho lịch sử dấu ấn sâu sắc của văn hóa Lý Trần.
Với 13 đời nối nhau trị vì trong 175 năm, nhà Trần gồm các vị Hoàng đế sau đây:
Trần Thái Tông (tức Trần Cảnh): 1226 – 1258
Trần Thánh Tông (tức Trần Hoảng): 1258 – 1278
Trần Nhân Tông (tức Trần Khâm): 1278 – 1293
Trần Anh Tông (tức Trần Thuyên): 1293 – 1314
Trần Minh Tông (tức Trần Mạnh): 1314 – 1329
Trần Hiến Tông (tức Trần Vượng): 1329 – 1314
Trần Dụ Tông (tức Trần Hạo): 1314 – 1369
Dương Nhật Lễ (kẻ cướp ngôi): 1369 – 1370
Trần Nghệ Tông (tức Trần Phủ): 1370 – 1372
Trần Duệ Tông (tức Trần Kính): 1372 – 1377
Trần Phế Đế (tức Trần Hiệu): 1377 – 1388
Trần Thuận Tông (tức Trần Ngung): 1388 – 1398
Trần Thiếu Đế (tức Trần An): 1398 – 1400
d) Đất nước những năm đầu thế kỷ thứ 15
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi của nhà Trần và lập ra triều Hồ. Thời Hồ có mấy điểm đáng lưu ý sau đây:
Quốc hiệu mới của nước ta là Đại Ngu.
Kinh đô mới là Đại Lại (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa ngày nay)
Nhà Hồ truyền nối được hai đời:
Hồ Quý Ly chỉ ở ngôi một năm (1400)
Hồ Hán Thương (1400 – 1407)
Cuối năm 1406, quân Minh tràn sang xâm lược nước ta, cuộc kháng chiến do nhà Hồ lãnh đạo bị thất bại.
Từ năm 1407, quân Minh bắt đầu thiết lập nền đô hộ trên toàn cõi nước ta. Thời thuộc Minh tuy không dài, nhưng đây cũng là thời đầy bi thương của cả dân tộc.
Dưới thời thuộc Minh, nhân dân ta đã không ngừng nổi dậy đấu tranh với nhiều dạng thức và mức độ khác nhau. Dưới đây là những cuộc đấu tranh tiêu biểu:
Khởi nghĩa Trần Ngỗi – Trần Quý Khoáng (1407 – 1413). Cả hai lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa này đều xưng đế (Trần Ngỗi là Giản Định Đế, Trần Quý Khoáng là Trùng Quang Đế). Sử gọi đây là thời Hậu Trần.
Khởi nghĩa Phạm Ngọc (1419 – 1420)
Khởi nghĩa Lê Ngã (1419 – 1420)
Phong trào Ao Đỏ (1407 – 1427)
Tuy nhiên, lớn nhất và giành được thắng lợi vẻ vang nhất vẫn là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi phát động và lãnh đạo (1418 – 1427).
e) Nước Đại Việt thời Lê sơ (1428 – 1527)
Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc chiến tranh giải phóng, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế. Nhà Hậu Lê được lập nên từ đó. Trên danh nghĩa, triều Lê có lịch sử trị vì lâu nhất (khoảng 360 năm), tuy nhiên, không phải lúc nào quyền lực của nhà Lê trên vũ đài chính trị của nước nhà cũng mạnh mẽ như nhau. Căn cứ vào thực trạng này, sử chia nhà Hậu Lê làm ba chặng, trong đó chặng đầu tiên gọi là thời Lê sơ. Chặng thứ hai là thời Lê trung hưng (từ sau 1533 đến đầu thế kỷ 18). Chặng thứ ba là thời Lê mạt gồm khoảng thời gian còn lại.
Dưới thời Lê, lịch sử có mấy điểm nổi bật sau đây:
Thăng Long được tái lập làm kinh đô
Quốc hiệu Đại Việt lại được tiếp sử dụng
Bộ máy nhà nước thời Lê sơ không phải là bộ máy nhà nước của quý tộc như thời Lý và thời Trần, ngược lại, đây là bộ máy nhà nước của bá quan văn võ được tuyển chọn trong trăm họ, chủ yếu là thông qua con đường thi cử.
Về tư tưởng, thời Lê sơ là thời Nho giáo chiếm vị trí độc tôn.
Về kinh tế, đây là thời kỳ mà Đại Việt thực sự là một cường quốc trong khu vực.
Thời Lê sơ kéo dài 100 năm, gồm 11 đời Hoàng đế nối nhau trị vì. Cụ thể là:
Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi): 1428 – 1433
Lê Thái Tông (tức Lê Nguyên Long): 1433 – 1442
Lê Nhân Tông (tức Lê Bang Cơ): 1422 – 1459
Lê Nghi Dân (kẻ cướp ngôi): 1459 – 1460
Lê Thánh Tông (tức Lê Tư Thành): 1460 – 1497
Lê Hiến Tông (tức Lê Tranh): 1497 – 1504
Lê Túc Tông (tức Lê Thuần): 6 tháng cuối năm 1504
Lê Uy Mục (tức Lê Tuấn): 1505 – 1509
Lê Dương Dực (tức Lê Oánh): 1510 – 1516
Lê Chiêu Tông (tức Lê Y): 1516 – 1522
Lê Cung Hoàng (tức Lê Xuân): 1522 – 1527
III. ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỶ ĐỔ NÁT
CỦA NỀN THỐNG NHẤT QUỐC GIA (1527 – 1801)
Đến đây, độc lập và tự chủ tuy về cơ bản vẫn tiếp tục được giữ vững, nhưng đất nước lại lâm vào cuộc nội chiến triền miên. Nhiều hệ thống chính quyền khác nhau đã đồng thời tồn tại và không ngừng tìm cách thủ tiêu lẫn nhau.
a) Cục diện Nam – Bắc triều hay còn gọi là chiến tranh Lê – Mạc (1527 – 1592)
Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi của nhà Lê. Triều Mạc được dựng lên từ đó. Triều Mạc đóng đô ở Thăng Long (tức là ở phía Bắc) nên sử gọi là Bắc triều.
Năm 1533, triều Lê được tái lập ở Thanh Hóa (tức là ở phía Nam) nên sử gọi là Namtriều. Nam triều tuy danh nghĩa là triều Lê nhưng thực sự lại nằm trong tay Nguyễn Kim rồi sau đó là trong tay Trịnh Kiểm và dòng dõi của Trịnh Kiểm.
Từ năm 1533 đến năm 1592, hai bên Nam – Bắc triều đã đánh nhau 38 trận lớn. Kết quả là Nam triều đã đè bẹp được Bắc triều. Sau năm 1592, tuy họ Mạc vẫn còn tiếp tục hoạt động chống Nam triều thêm một thời gian nữa, nhưng về cơ bản, vai trò của Bắc triều đến đó kể như đã chấm dứt.
b) Cục diện Đàng Ngoài – Đàng Trong hay còn gọi là thời Trịnh – Nguyễn phân tranh (1588 – 1786)
Ngay khi cục diện Nam Bắc triều chưa chấm dứt, thì một cục diện khác, sôi động và quyết liệt hơn đã hình thành và hình thành ngay trong Nam triều.
Năm 1588, tướng của Nam triều là Nguyễn Hoàng đã vào làm Trấn Thủ xứ Thuận Hóa. Năm 1570, ông lại được kiêm quản cả xứ Quảng Nam. Cơ đồ của họ Nguyễn bắt đầu hình thành kể từ đó.
Nguyễn Hoàng đã thực hiện chính sách hai mặt: Về công khai thì Nguyễn Hoàng vẫn tỏ rõ là người trung thành với nhà Lê, thực hiện đầy đủ chức phận của một vị quan ở nơi biên ải.. Về bí mật thì Nguyễn Hoàng ra sức tìm cách gầy dựng cơ đồ riêng.
Đến đời con của Nguyễn Hoàng thì chính sách hai mặt này không còn nữa. Hai bên họ Trịnh và họ Nguyễn đã đánh nhau bảy trận lớn.
Năm 1672, do thấy không thể tiêu diệt được nhau, hai bên đã lấy sông Gianh (Quảng Bình ngày nay) làm giới tuyến để chia cách lâu dài: Từ sông Gianh trở ta Bắc gọi là Đàng Ngoài, do họ Trịnh nắm quyền cai quản. Từ sông Gianh trờ vào Nam gọi là Đàng Trong, do họ Nguyễn cai quản.
Cục diện Đàng Ngoài – Đàng Trong chấm dứt năm 1786 bởi cuộc tấn công của Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy.
c) Tây Sơn (1771 – 1801)
Năm 1771, phong trào Tây Sơn bùng nổ. Phong trào này có ba giai đoạn mang tính chất khác nhau:
Từ năm 1771 đến năm 1784 là giai đoạn Tây Sơn chiến đấu quyết liệt mà mục tiêu là tấn công vào toàn bộ cơ đồ của họ Nguyễn ở Đàng Trong.
Từ năm 1784 đến năm 1789 là giai đoạn Tây Sơn đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ khác nhau: Đẩy mạnh và mở rộng cuộc tấn công vào tất cả các tập đoàn phong kiến thống trị ở cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài. Dũng cảm đảm nhận sứ mệnh bảo vệ độc lập dân tộc tiêu diệt quân Xiêm ở Đàng Trong (1785) và quân Mãn Thanh ở Đàng Ngoài (1789).
Từ năm 1789 đến năm 1801 là giai đoạn Tây Sơn tồn tại với tư cách của những hệ thống chính quyền khác nhau.
d) Từ năm 1527 đến năm 1801, đất nước có mấy hệ thống chính quyền sau đây
Chính quyền của nhà Mạc: trên danh nghĩa chính thống, nhà Mạc truyền nối được 10 đời, trong đó có 5 đời đầu thuộc thời tương đối thịnh trị, còn 5 đời cuối thuộc đời suy tàn.
Mạc Thái Tổ (tức Mạc Đăng Dung): 1527–1529
Mạc Thái Tông (tức Mạc Đăng Doanh): 1530–1540
Mạc Hiến Tông (tức Mạc Phúc Hải): 1540–1546
Mạc Tuyên Tông (tức Mạc Phúc Nguyên): 1546–1561
Mạc Hậu Hợp 1562–1592
Mạc Toàn 1592–1593
Mạc Kính Chỉ (1592 – 1593). Lúc này nhà Mạc có hai vua.
Mạc Kính Cung 1593–1625
Mạc Kính Khoan (1623 – 1638). Một lần nữa, nhà Mạc lại có hai vua (1623 – 1625)
Mạc Kính Vũ 1638–1677
Chính quyền của nhà Lê: tuy chỉ là hư vị, nhưng trên danh nghĩa, nhà Lê vẫn còn tiếp tục truyền nối được 16 đời nữa. Cụ thể như sau:
Lê Trang Tông (tức Lê Ninh): 1533–1548
Lê Trung Tông (tức Lê Huyền): 1548–1556
Lê Anh Tông (tức Lê Duy Bang): 1556–1573
Lê Thể Tông (tức Lê Duy Đàm): 1573–1599
Lê Kính Tông (tức Lê Duy Tân): 1599–1619
Lê Thần Tông (tức Lê Duy Kỳ): ở ngôi hai lần
Lần 1: 1619 – 1643
Lần 2: 1649 – 1662
Lê Chấn Tông (tức Lê Duy Hựu): 1643–1649
Lê Huyền Tông (tức Lê Duy Vũ): 1662–1671
Lê Gia Tông (tức Lê Duy Cối): 167l–1675
Lê Hy Tông (tức Lê Duy Hiệp): 1675–1705
Lê Dụ Tông (tức Lê Duy Đường): 1705–1729
Lê Đế Duy Phường (tức Lê Duy Phường): 1729–1732
Lê Thuần Tông (tức Lê Duy Tường): 1732–1735
Lê Ý Tông (tức Lê Duy Thận): 1735–1740
Lê Hiển Tông (tức Lê Duy Diêu): 1740–1786
Lê Chiêu Thống (tức Lê Duy Kỳ): 1786–1788
Chính quyền họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Đây là chính quyền song tồn với chính quyền của nhà Lê và là chính quyền có vị trí quan trọng nhất. Xét về danh chính ngôn thuận thì có một số người như Trịnh Bách và Trịnh Bính chưa từng ở Ngôi chúa một cách chính thức, nhưng xét về thực quyền, thì họ đã làm chúa. Vì lẽ đó, nhiều tác phẩm sử học vẫn xếp Trịnh Bách và Trịnh Bính vào danh sách các chúa Trịnh. Theo đó thì danh sách các chúa Trịnh cụ thể như sau:
Trịnh Kiểm (1545–1569); Trịnh Cối (1569–1570)
Trịnh Tùng (1570–1623); Trịnh Tráng (1623–1657)
Trịnh Tạc (1657–1682); Trịnh Căn (1682–1709)
Trịnh Bách (1684): Được phép nắm quyền phủ chúa ngay khi cha là Trịnh Căn còn sống
Trịnh Bính (1688): Được phép nắm quyền phủ chúa ngay khi ông nội là Trịnh Căn còn sống (Trịnh Bính là cháu đích tôn của Trịnh Căn, cha là Trịnh Vĩnh bị bệnh mà mất sớm).
Trịnh Cương (1709–1729); Trịnh Giang (1729–1740)
Trịnh Doanh (1740–1767); Trịnh Sâm (1767–1782)
Trịnh Cán (1782). một tháng; Trịnh Khải (1782–1786)
Trịnh Bồng (1786), hai tháng
Chính quyền của họ Nguyễn ở Đàng Trong:
Nguyễn Hoàng (1588–1613)
Nguyễn Phúc Nguyên (1613–1635)
Nguyễn Phúc Lan (1635–1648)
Nguyễn Phúc Tần (1648–1687)
Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691)
Nguyễn Phúc Chu (1691–1725)
Nguyễn Phúc Chú (1725–1738)
Nguyễn Phúc Khoát (1738–1765)
Nguyễn Phúc Thuần (1765–1777)
Nguyễn Phúc Dương (1777). Lúc này họ Nguyễn có hai chúa.
Chính quyền của Tây Sơn. Trong thực tế, Tây Sơn có đến ba hệ thống chính quyền khác nhau. Theo đó thì:
Chính quyền của Nguyễn Nhạc: Nguyễn Nhạc (tức Thái Đức Hoàng Đế hay Trung Ương Hoàng Đế, đóng đô ở Quy Nhơn): 1778 – 1793. Nguyễn Bảo (con Nguyễn Nhạc): 1793 (chỉ ở ngôi một thời gian rất ngắn).
Chính quyền của Nguyễn Huệ: Nguyễn Huệ (tức Quang Trung Hoàng đế, định đô ở Phú Xuân tức là Huế ngày nay. Sau Quang Trung dự kiến rời đô ra Nghệ An – Phượng Hoàng Trung Đô – nhưng chưa kịp hoàn tất thì Quang Trung qua đời (1788 – 1792). Nguyễn Trác (tức Quang Toản Hoàng đế): 1792 – 1801
Chính quyền của Nguyễn Lữ (tức Đông Thịnh Vương). Đây là chính quyền yếu nhất trong số các hệ thống chính quyền của Tây Sơn. Nguyễn Lữ cai quản đất Gia Định nhưng lại ít khi ở Gia Định. Ong mất năm 1787 tại Quy Nhơn, Nguyễn Lữ ở ngôi Đông Định Vương chỉ một năm (1786 – 1787).
IV. VIỆT NAM THỜI NGUYỄN (1802–1945)
Vài nét về triều Nguyễn
Triều Nguyễn được dựng lên trên cơ sở đánh bại và tước đạt những thành quả của phong trào Tây Sơn. Tuy không phải là con cháu trực hệ, nhưng các Hoàng đế nhà Nguyễn cũng là dòng dõi của các chúa Nguyễn.
Trên danh nghĩa, triều Nguyễn tồn tại trước sau 143 năm, nhưng lịch sử triều Nguyễn lại bao hàm hai giai đoạn mang hai tính chất hoàn toàn khác nhau.
Giai đoạn thứ nhất từ 1802 đến năm 1884 là giai đoạn triều Nguyễn tồn tại chủ yếu với tư cách của một vương triều độc lập. Giai đoạn này thuộc khung lịch sử trung đại Việt Nam.
Giai đoạn thứ hai từ năm 1884 đến năm 1945 là giai đoạn triều Nguyễn tồn tại trong khuôn khổ cho phép của chủ nghĩa thực dân Pháp. Sử thường gọi đây là thời thuộc địa nửa phong kiến. Giai đoạn này thuộc khung lịch sử cận đại Việt Nam.
Thời Nguyễn, lịch sử Việt Nam có mấy sự kiện lớn sau đây:
Lãnh thổ rộng nhất so với tất cả các triều đại trước đó.
Quốc hiệu mới của nước ta là Việt Nam (kể từ tháng 6 năm 1804). Kinh đô mới của nước ta là Huế.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, cuộc chiến đấu chống xâm lăng do triều Nguyễn tổ chức và lãnh đạo đã thất bại. Sau đó, một bộ phận không nhỏ của triều đình nhà Nguyễn đã cam tâm hợp tác và làm tay sai cho thực dân Pháp.
Phong trào yêu nước của dân ta liên tục nổi lên với nhiều hình thức và tính chất phong phú khác nhau. Nổi bật có mặt trận Việt Minh(1930). Sau mười lăm năm hoạt động, cuộc Cách Mạng do những người Cộng Sản Việt Nam phát động, tổ chức và lãnh đạo đã toàn thắng. Lịch sử Việt Nam hiện đại bắt đầu kể từ đó.
Tuy vị trí có khác nhau, nhưng trong 143 năm tồn tại, triều Nguyễn có tất cả 13 đời Hoàng đế nối nhau trị vì. Cụ thể như sau:
Gia Long (tức Nguyễn Anh): 1802–1819
Minh Mạng (tức Nguyễn Phước Đảm): 1820–1840
Thiệu Trị (tức Nguyễn Phước Nguyên Tông): 1841–1847
Tự Đức (tức Nguyễn Phước Hồng Nhậm): 1848–1883
Dục Đức (tức Nguyễn Phước Ưng Chân): 3 ngày (-7.1883)
Hiệp Hòa (tức Nguyễn Phước Hồng Dật): 4 tháng cuối 1883
Kiến Phước (tức Nguyễn Phước Ưng Đăng): đến tháng 4.1884
Hàm Nghi (tức Nguyễn Phước Ưng Lịch): 1884–1888
Đồng Khánh (tức Nguyễn Phước Ưng Xuy): 1885–1888.
Khi Hàm Nghi xuất bôn đánh Pháp, Đồng Khánh được đưa lên ngôi, vì thế trên danh nghĩa thì từ 1885 đến 1888, nước ta có hai vị Hoàng đế.
Thành Thái (tức Nguyễn Phước Bửu Lân): 1889–1907
Duy Tân (tức Nguyễn Phước Vĩnh San): 1907–1916
Khải Định (tức Nguyễn Phước Bửu Đảo): 1916–1925
Bảo Đại (tức Nguyễn Phước Vĩnh Thụy): 1925–1945
V. NƯỚC VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
Sau thế chiến I (1914-1918) và thứ II (1939-1945). Việt Nam trải qua thời kỳ bất ổn triền miên, kéo dài tới năm 1954. Nhiều phong trào chống Pháp nổi lên, tiêu biểu là Cuộc cách mạng Việt Minh (19.8.1945) thành công. Bản tuyên ngôn độc lập ngày 02.9.1945, dẫn đến chiến thắng quyết định ở Điện Biên Phủ năm 1954, Ngày 20.7.1954 Hiệp định Genève, quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam. chấm dứt chế độ thuộc địa của Pháp. Nước Việt Nam bị chia làm 2, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến tạm thời. Miền Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Miền Nam là nước Việt Nam Cộng Hòa
Sau 21 năm (1954-1975) Việt Nam đã tái thống nhất, trở thành quốc gia độc lập. Từ năm 1976, quốc hiệu mới của nước ta là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Việt Nam đang nỗ lực khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng và đổi mới để có thể sánh vai với cường quốc năm châu, hội nhập với cộng đồng quốc tế.
--- oOo ---
Bài 13: Chương trình sinh hoạt dài hạt cho Đoàn
I.- DẪN NHẬP
Muốn Đoàn hoạt động đều hòa, sinh động vui tươi, Mỗi Trưởng phải có một chương trình sinh hoạt cho đơn vị của mình. Chương trình sinh hoạt có thể là chương trình ngắn hạn hoặc dài hạn. Ngắn hạn là 1 tháng, ba tháng. Dài hạn là một năm hoặc cả một nhiệm kỳ hai hoặc ba năm.
II.- SOẠN CHƯƠNG TRÌNH DÀI HẠN
Soạn chương trình sinh hoạt cho Đoàn là nhiệm vụ của Ban chấp hành, nhất là đoàn trưởng. Muốn soạn chương trình sinh hoạt dài hạn, nói chung, cần xác định những điểm sau:
1. Chương trình dài hạn nhắm thời gian bao lâu ?
Thông thường, một Chương trình dài hạn cho đoàn được chọn là 6 tháng hoặc 12 tháng. Trong bài này, chúng ta chọn Chương trình dài hạn là một năm.
2. Chương trình dài hạn gồm những mục tiêu thực tế nào và mốc thời gian chính yếu nào ?
Trưởng phải nhận định: Đoàn cần làm những việc gì, cần đạt những mục đích nào trong thời gian sắp tới. Mục tiêu nào cần đạt trước và phải đạt được vào thời điểm nào. Do vậy việc gì cần làm trước, việc gì cần làm sau và làm vào lúc nào, cần những ai phụ giúp.
3. Chương trình dài hạn chịu ảnh hưởng những yếu tố bên ngoài nào ?
Đoàn là một đơn vị của giáo xứ, giáo hạt nên chương trình sinh hoạt của đoàn tùy thuộc vào chương trình của giáo xứ, giáo hạt, có những đoàn thể khác cùng sinh hoạt, nếu chương trình sinh hoạt trùng hợp có thể gây trở ngại cho nhau. Các em còn đi học nên tránh mùa thi hay những sinh hoạt đặc biệt của trường, ...
4. Chương trình dài hạn tùy thuộc vào những yếu tố nào ?
Chương trình đưa ra phải được thực hiện. Nhưng việc thực hiện đòi hỏi phải đáp ứng được những yếu tố sau:
- Nhân sự trưởng đang có trong tay.
- Biết khả năng, điều kiện của người đảm trách công việc.
- Hoàn cảnh hiện tại thuận tiện của Giáo xứ, của xã hội.
- Sự ưng thuận của cha xứ, cha Tuyên úy đoàn.
5. Chương trình dài hạn liên quan đến những ai, tùy thuộc vào ai ?
Chương trình sinh hoạt của đoàn được thể hiện trong giáo xứ, nên dù muốn hay không cũng liên quan cách này cách khác đến cha xứ, cha tuyên úy, Hội đồng mục vụ giáo xứ, phụ huynh. Khi lập chương trình, trưởng cần bàn bạc và trình với cha tuyên úy. Chương trình chỉ được thi hành khi cha tuyên úy đã duyệt. Nên gửi cho cha xứ, cho Hội đồng mục vụ chương trình này.
6. Chương trình dài hạn có khả thi không ?
Khi dự phóng chương trình năm cho Đoàn, Trưởng phải vận dụng kiến thức, kinh nghiệm, và căn cứ vào khả năng, điều kiện, nề nếp, hoàn cảnh của Đoàn, của xứ để thấy trước khả năng thành công của chương trình. Chương trình dài hạn có chương trình huấn luyện và chương trình thi đua, các chiến dịch. Sau những nét phác thảo, trưởng cần trao đổi để biết ý kiến của cha Tuyên uý, đóng góp của các trưởng có kinh nghiệm rồi mới vẽ tiếp những nét chi tiết. Lưu ý: Chương trình không phải là một bản vẽ suông.
7. Tổng quát các giai đoạn của Chương trình dài hạn.
Chương trình càng dài, càng cần được phân chia thành nhiều giai đoạn thực hiện, nhiều đề mục cần được cụ thể hoá, để đạt được những mục tiêu của từng giai đoạn, từng đề mục. Xác định các mục tiêu của từng giai đoạn, từng đề mục là nấc thang tiến đến sự thành công toàn phần.
8. Chi tiết hóa chương trình dài hạn bằng các chương trình ngắn hạn.
Dù chương trình đã nghiên cứu kỹ, Trưởng vẫn không thể hoàn toàn chủ động kiểm soát được những thay đổi, những sự cố bên ngoài ảnh hưởng đến việc thực hiện chương trình và cũng không thể sắp sẵn mọi chuyện cho một thời gian dài. Do đó cần chia chương trình tổng quát thành các chương trình ngắn hạn, chi tiết hóa, cụ thể hoá các sinh hoạt của từng chương trình ngắn hạn.
Chương trình ngắn hạn chi tiết không phải là chương độc lập khác, nhưng là một phần của chương trình dài hạn được tách ra và chi tiết hóa. Có thể hình dung chương trình dài hạn tổng quát và các chương trình ngắn hạn như những vòng trong đồng tâm, những mảng sơn tạo nên bức tranh hoàn hảo.
9. Những việc trợ giúp thực hiện chương trình dài hạn.
Dù đoàn trưởng có thể có cái nhìn bao quát và thực hiện trọn vẹn chương trình, vẫn cần đến sự cộng tác của các trưởng trong phân đoàn, chi đoàn, cũng như sự chỉ đạo của cha tuyên úy, Hội đồng mục vụ, và phụ huynh…
10. Tiên liệu những bất trắc và lập kế hoạch dự phòng.
Ít khi chương trình đưa ra được thực hiện thông suốt từ A tới Z, đôi khi xảy đến những trục trặc khách quan, ảnh hưởng tới Chương trình của Đoàn. Vì vậy cần có những kế hoạch dự phòng nhằm đáp ứng tức thời những sự cố bất ngờ.
III.- KẾT LUẬN
- Chương trình dài hạn cho Đoàn là cần thiết.
- Muốn lập Chương Trình năm cho đoàn, cần có:
. Nhân sự.
. Phương tiện.
. Hoàn cảnh thuận tiện.
. Sự chấp thuận của cấp trên.
. Sự cộng tác tích cực của các thành phần trong đoàn.
. Tầm nhìn sâu xa và xuyên suốt của Đoàn Trưởng.
. Có Chương trình dài hạn tổng quát, cần có Chương trình ngắn hạn để chi tiết hóa công việc.
. “Đoàn ta” không phải là một hòn đảo. Nhưng có liên hệ và ảnh hưởng qua lại với cấp trên, với giáo xứ, hiệp đoàn, liên đoàn. Do đó, chương trình của đoàn phải: phù hợp với chương trình của cha Tuyên úy giáo xứ, hiệp đoàn, liên đoàn để tránh trùng hợp, dẫn đến tình trạng bị động hoặc “vỡ kế hoạch”.