Ngày đăng: Oct 14, 2016 1:48:45 AM
Bài 11: Để điều khiển một buổi họp
Trong chương trình huấn luyện Huynh trưởng Cấp I, các Trưởng đã tìm hiểu về chương trình của buổi họp Đội và họp Chi đoàn. Trong chương trình này, bài khóa gợi ý một số cách thức điều khiển buổi họp sao cho có hiệu quả
I. SƠ LƯỢC VỀ HỘI HỌP TRONG ĐOÀN:
Là Huynh trưởng lớn, bạn sẽ có thể tham dự hoặc chủ trì các cuộc họp sau:
a) Họp Đội do Đội trưởng chủ trì
b) Họp các em đoàn sinh trong Chi đoàn / Phân đoàn
c) Họp các đội trưởng trong Chi đoàn / Phân đoàn
d) Họp Huynh trưởng Chi đoàn / Phân đoàn / Xứ đoàn
Có những cuộc họp định kỳ (diễn ra hàng tuần, hàng tháng…) để học tập, sinh hoạt theo chương trình vạch sẵn. Có những cuộc họp bất thường, được triệu tập theo nhu cầu, để bàn bạc, thảo luận, thông báo những vấn đề đột xuất.
Các cuộc họp cấp Chi đoàn / Phân đoàn do Chi đoàn trưởng / Phân đoàn trưởng chủ trì. Đối với các cuộc họp thường kỳ, nên có sự phân công phân nhiệm để các Trưởng trong Chi đoàn / Phân đoàn tham gia vào chương trình cuộc họp. (bài khóa Cấp I: Họp Đội, họp Chi đoàn)
Các cuộc họp Đội do Đội trưởng chủ trì. Đội phó và các em giữ các chức vụ khác trong Đội như Thư ký, Thủ quỹ, Quản trò, Quản ca… tham gia vào chương trình cuộc họp trong vai trò của mình và theo sự phân công của Đội trưởng. (bài khóa Cấp I: Họp Đội, họp Chi đoàn)
II. Những điều cần lưu ý khi tổ chức buổi họp
1) Chuẩn bị:
a. Mục tiêu:
Việc xác định mục tiêu buổi họp sẽ giúp Trưởng xây dựng chương trình và nội dung phù hợp, hiệu quả. Để xác định mục tiêu, Trưởng có thể đặt câu hỏi: Cuộc họp nhằm mục đích gì? Học hỏi? Sinh hoạt? Giải quyết vấn đề gì? Bàn bạc kế hoạch, chương trình gì?...
Đối với các buổi họp – học hỏi của các em thiếu nhi, mục tiêu học hỏi được xác định bằng chính nội dung bài học Giáo lý cần truyền đạt.
b. Chương trình / Nội dung:
Bất kỳ cuộc họp lớn nhỏ nào, nếu muốn có hiệu quả, phải có sự chuẩn bị chu đáo về mặt chương trình và nội dung. Để lên chương trình cuộc họp, Trưởng liệt kê những việc cần làm để đạt được mục tiêu đã đề ra, sắp xếp những việc cần làm theo trình tự tốt nhất và phân bổ thời gian hợp lý.
Nội dung của từng phần, từng đề mục trong chương trình phải được soạn thảo, chuẩn bị chu đáo. Người có trách nhiệm chủ tọa buổi họp (Phân đoàn trưởng, Chi đoàn trưởng, Đội trưởng) phân công các Trưởng, các bạn liên quan chuẩn bị nội dung các đề mục của chương trình.
Đối với các buổi học hỏi, các Trưởng được phân công phải suy nghĩ và chuẩn bị các hình thức chuyển tải nội dung có hiệu quả nhất và phù hợp với các em.
Ví dụ: Mục đích buổi họp là học hỏi bài Giáo lý “Nghi thức Bí tích Thánh Tẩy”, Trưởng có thể chọn hình thức chuyển tải là thực hiện cho các em xem và cho các em thực hành nghi thức Bí tích Thánh Tẩy.
2) Điều khiển buổi họp:
a. Quản lý tiến trình:
Người chủ trì cuộc họp có trách nhiệm lo sao cho chương trình đề ra được thực hiện đầy đủ, xuyên suốt, nhằm đạt được mục tiêu đã xác định.
Trong cuộc họp bàn bạc, thảo luận một vấn đề, nếu vì lý do nào đó mà cuộc thảo luận có chiều hướng lạc đề, lan man, người chủ tọa phải khéo léo đưa về cho đúng hướng để không làm mất thời giờ.
Khi thấy vấn đề đang bàn bạc đã có thể đi đến thống nhất, người chủ tọa có thể gút vấn đề bằng cách tóm lượt những ý đã bàn, những điểm nhất trí, đúc kết vấn đề, ra quyết định và yêu cầu thư ký ghi vào biên bản.
b. Quản lý thời gian
Việc bảo đảm đúng thời gian là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của buổi họp. Người chủ tọa hoặc Trưởng trực thường là người giữ giờ.
Buổi họp phải được bắt đầu đúng giờ đã định. Các trường hợp đi trễ nên được khéo léo nhắc nhở.
Thời lượng cho từng phần phải được xác định trước, được ghi vào chương trình, và phải được tôn trọng. Thời lượng này được phân chia dựa trên tầm quan trọng của từng nội dung. Ví dụ: Trong buổi họp để học hỏi Giáo lý, phần Giáo lý phải được chia nhiều thời gian hơn các phần sinh hoạt, ca hát, trò chơi, bàn bạc …
Có những trường hợp, thời lượng đã quy định trong chương trình có thể bị thay đổi, ví dụ vì cần thảo luận một vấn đề cho thấu đáo, hoặc vì vấn đề đột xuất. Tuy nhiên, nên hạn chế các ngoại lệ này, và người chủ tọa phải liệu sao cho tổng thời gian cuộc họp không kéo dài quá nhiều so với dự kiến.
Vì vậy, người chủ tọa phải xác định và thông báo trước thời điểm kết thúc phiên họp và phải kiên quyết giữ cho đúng. Trong các buổi họp với các em, việc kết thúc đúng giờ sẽ tăng thêm uy tín của trưởng đối với phụ huynh các em.
c. Quản lý con người:
Người chủ tọa và những người có trách nhiệm phải lo liệu sao cho những người tham dự cuộc họp tham gia cách tích cực vào cuộc họp, tạo tình đoàn kết, thân ái.
Đối với các em thiếu nhi, Trưởng phải chú trọng xây dựng nội dung cuộc họp sống động, thú vị, hấp dẫn để các em tham gia cách hào hứng, sôi nổi. Không nên để các em thụ động, ngồi im lặng hằng giờ để nghe những lời giáo huấn khô khan. Để không nhàm chán, Trưởng cần thay đổi bầu khí luôn bằng cách xen kẽ học hỏi, sinh hoạt, ca hát, trò chơi,… Cần chú ý tâm lý lứa tuổi để chọn cách thức truyền đạt phù hợp. Các em thường hiếu động, thích vận động, phát biểu. Trưởng không nên độc thoại quá 10-20 phút (tùy lứa tuổi). Nên truyền đạt bằng nhiều hình thức khác nhau.
Tuy nhiên, cũng không nên quá chú trọng các sinh hoạt bên ngoài mà xem nhẹ hoặc bỏ quên tinh thần của buổi họp. Các buổi họp trong Phong trào Thiếu nhi Thánh Thể đều không thể bỏ qua tinh thần học hỏi nơi Chúa Giêsu và yêu mến Ngài. Mục đích của mọi buổi họp, học hỏi là huấn luyện Thiếu nhi thành những Kitô hữu nhiệt thành, sốt sắng… Những sinh hoạt như ca hát, vui chơi, chuyên môn… chỉ là những phương tiện cần thiết để đạt đến mục đích vui mà học, học mà vui.
Cũng nên lưu ý đến tính giáo dục của các sinh hoạt hỗ trợ, để các sinh hoạt này thực sự hữu ích, đi đúng tôn chỉ và mục đích của Phong trào.
Ngoài ra, người chủ tọa cần lưu ý đến việc giữ trật tự, kỷ luật, nhất là đối với cuộc họp của các em. Nếu thiếu trật tự, buổi họp sẽ thành phiên chợ, không đem lại lợi ích gì cho các em và làm giảm uy tín của Trưởng. Trưởng phải có khả năng duy trì bầu khí yên lặng, trật tự mỗi khi cần. Trưởng không nên dùng võ lực (đập bàn, đập ghế, la hét, hình phạt…) để trấn áp, bắt các em im lặng, nhưng nên dùng chính tài lãnh đạo và uy tín của mình để các em tuân phục.
Viêc giữ trật tự và yên lặng trong những giờ cần thiết không làm mất đi bầu khí sinh động, thân thiệt của buổi họp. Để tạo bầu khí vui tươi, tích cực, Trưởng nên để tâm suy nghĩ, đầu tư cho buổi họp bằng tất cả lòng yêu mến và tinh thần trách nhiệm với các em. Đặc biệt là Trưởng hãy cầu xin Chúa ban cho mình niềm vui tràn ngập tâm hồn trước khi đến với các em. Có niềm vui từ Thiên Chúa, Trưởng mới có thể chia sẻ niềm vui với các em, mới gây được bầu khí vui tươi, sinh động trong buổi họp bằng những hình thức thích hợp.
3) Đúc kết kinh nghiệm:
Sau mỗi buổi họp, các Trưởng nên đúc kết kinh nghiệm để làm tốt hơn ở buổi họp sau. Nếu là buổi họp bàn bạc vấn đề của đoàn, các nội dung, quyết định của cuộc họp nên đúc kết thành biên bản để lưu hồ sơ, để dễ phổ biến, và theo dõi việc thực hiện.
Tóm lại, muốn điều khiển một buổi họp thành công, Trưởng phải chuẩn bị nội dung thật kỹ lưỡng, điều hành buổi họp có phương pháp, và nhất là phù hợp tâm lý người tham dự.
--- oOo ---
Bài 12: Cách làm trưởng trực
I. Khái niệm về Trưởng trực.
Trưởng trực là người thay mặt ban điều hành để tiến hành công việc trong sa mạc. Do đó, Trưởng trực phải hiểu thật rõ và phản ánh đúng ý Ban điều hành.
Mọi sinh hoạt đều do Trưởng trực điều động, do đó, Trưởng trực phải hết sức thận trọng: vừa nghiêm túc vừa nhẹ nhàng. Tinh thần của sa mạc sẽ được củng cố trong những nghi thức của sa mạc, như khai mạc, chào cờ, bế mạc… nên trưởng trực phải có khả năng nhất định để đảm nhận công việc này.
Bên cạnh đó, người Trưởng trực còn là bạn của sa mạc sinh, Sa mạc là trại huấn luyện chứ không phải nhà tù, Trưởng trực phải đủ thân thiện để có thể hiểu những nhu cầu của sa mạc sinh, tạo bầu khí cảm thông, vui vẻ.
II. Những yêu cầu nơi người trưởng trực PT.TNTT
1. Kiến thức.
- Hiểu biết và thuần thục về các nghi thức phong trào
- Hiểu biết về sa mạc sinh để có cách xưng hô và ứng xử thích hợp.
- Hiểu biết về tập tục hay nếp sống sinh hoạt của địa phương nơi tổ chức sa mạc.
- Biết các nguyên tắc về kỷ luật và khen thưởng: tôn trọng sa mạc sinh, khích lệ, Khen đúng lúc và đúng chỗ. Khen chỗ đông người nhưng nhắc nhở thì nhắc cá nhân, nếu phạt phải mang tính giáo dục, không mạt sát, khinh dể sa mạc sinh.
2. Khả năng.
Tự tin trước đám đông, kiên định, nghiêm túc mà vui tươi, nhanh nhẹn, hoạt bát, công minh, có sức khỏe tốt ăn nói lưu loát, rõ ràng và dứt khoát.
III. Những phận vụ của người trưởng trực.
1. Chuẩn bị sa mạc.
- Nhận chương trình từ Sa mạc Phó, lưu ý rằng các Huấn luyện viên đã biết và nộp bài khóa. Dựa theo đó để “soạn” 1 diễn tiến chương trình dành cho Trưởng trực, trong quyển sổ tay trưởng trực ghi đầy đủ: Chương trình sa mạc, Ban điều hành, Huấn luyện viên, Luật sa mạc, danh sách chia đội sa mạc sinh, cách chấm điểm thi đua, các nghi thức, những công việc và những điều cần lưu ý trong sa mạc, băng reo, trò chơi (ứng phó), những người và những thứ có liên quan đến trưởng trực.
- Công việc rất quan trọng, nên đòi hỏi người trưởng trực phải chuẩn bị và kiểm tra thật kỹ những việc của mình, nhắm trước các tình huống có thể xảy ra và cách giải quyết. Dù Trưởng trực có giỏi đến đâu cũng không được phép xem nhẹ việc chuẩn bị này.
- Những dụng cụ cần chuẩn bị và những người hỗ trợ cho các nghi lễ trong sa mạc. Ôn lại những nghi thức và những tư thế của Trưởng trực.
- Cầu nguyện cùng Chúa Thánh thần.
2. Diễn tiến sa mạc.
- Khi mọi việc đã chuẩn bị và tiến hành thì Trưởng trực phải trung thành với chương trình. Trưởng trực không được tùy tiện thay đổi chương trình mà chưa có sự tham khảo với Ban điều hành sa mạc. Lúc này Trưởng trực chỉ là người giữ giờ và thúc đẩy cho mọi việc hoàn thành.
- Ban trực phải đồng lòng, hợp tác trong vui tươi và phối hợp nhịp nhàng với các ban khác.
- Mọi thông tin hay mệnh lệnh đến với sa mạc sinh phải thông qua trưởng trực, đôi khi cũng có những ngoại lệ. Ban điều hành không nên đến thẳng sa mạc sinh mà ra lệnh.
a. Đối với sa mạc sinh.
+ Trưởng trực nhắc nhở với thái độ hòa nhã, khoan dung nhưng phải dứt khoát và cụ thể. Động viên, khuyến khích Đội trưởng để họ làm tốt công việc của mình.
+ Không đùa giỡn và gần gũi quá mức cần thiết đối với các sa mạc sinh. Luôn có thái độ vui tươi, chân thành nhưng nghiêm túc.
+ Nên nhẹ nhàng với vấn đề tế nhị của bạn nữ.
+ Quan tâm đến sức khỏe và tinh thần của từng sa mạc sinh, để Trưởng trực có những ứng xử thích hợp trong khi điều khiển.
+ Có thể gặp riêng, chuẩn bị cho các đội để thực hiện những nhiệm vụ như: lãnh cờ, trực cờ, làm vệ sinh v.v… giúp các sa mạc sinh tự tin hơn và làm tốt hơn.
+ Để ý những tình huống xấu có thể xảy ra và hội ý để có cách giải quyết tốt nhất. Tình cảm nam nữ trong sa mạc nếu có bộc lộ rõ và gần gũi thì nên nhắc nhở, góp ý tế nhị và tôn trọng.
+ Trưởng trực điều khiển sa mạc không phải bằng quyền mà bằng sự tự giác của từng sa mạc sinh, kêu gọi và khuyến khích dũng khí của sa mạc sinh, để họ tăng triển năng lực thực sự của họ.
+ Khi khen thì nêu Tên đội, nhưng khi cần nhắc nhở thì nên nêu số thứ tự của đội.
+ Đồng hành với các sa mạc sinh. Quan tâm, hỏi thăm sức khỏe, tinh thần và cảm nghĩ của sa mạc sinh trong những giờ giải lao, nhàn rỗi để có cái nhìn chính xác và thực tế hơn so với buổi họp Đội trưởng mỗi tối.
+ Để ý và quan tâm tới những bạn yếu kém và chậm chạp, để họ không có cảm tưởng bị bỏ rơi, và lưu ý mọi người biết quan tâm đến người khác hơn.
b. Đối với các Trưởng khác.
+ Để giữ cho sa mạc nghiêm túc, Trưởng trực phải nhẹ nhàng nhắc nhở những ai không tuân theo nội quy sa mạc hay có lời nói, thái độ giỡn cợt với sa mạc sinh.
+ Không so bì, ganh nạnh và phải có tinh thần chung.
+ Thể hiện sự khiêm tốn và tôn trọng mọi người.
IV. Những vấn đề cần quan tâm
1. Phổ biết kỷ luật sa mạc.
+ Lưu ý tinh thần tự giác. Kỷ luật sa mạc có tốt hay không là do ý thức chấp hành của mỗi sa mạc sinh “Luật vì con người”. Kỷ luật thì vô hình, nó chỉ được thực hiện nghiêm túc khi từng người ý thức gìn giữ kỷ luật. Trưởng trực sẽ kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kỷ luật:“Giờ nào việc đó”
+ Nhanh nhẹn trong mọi lúc, nghiêm chỉnh trong tác phong, đầy đủ trong bổn phận
+ Bầu khí lúc này rất quan trọng: Phải nghiêm túc; Lời nói của trưởng trực phải đủ lớn, chậm rãi, rõ ràng, ngắn gọn và dứt khoát;
+ Trưởng trực phải biết khiêu khích sự cộng tác, khiêu khích lý tưởng, khiêu khích năng lực của từng người, khiêu khích cái hùng, cái dũng bên trong mỗi sa mạc sinh để họ có sức chiến đấu vì lý tưởng, chiến đấu vì Đức Kitô, phải có thái độ tích cực trong mọi việc và học tập năng động. Phải cho sa mạc sinh biết rằng thành công của sa mạc là do mỗi sa mạc sinh góp phần.
+ Sa mạc Huấn luyện là nơi đào tạo Huynh trưởng về đạo đức, kỷ luật, tư cách, tác phong, tinh thần đồng đội, kỹ năng, kiến thức v.v...do đó mọi thứ trong sa mạc phải mẫu mực. Mọi việc đều có giờ của nó, mỗi sa mạc sinh phải trong tư thế sẵn sàng. Vì lý do đó mà các sa mạc sinh không được thông báo chương trình của sa mạc.
+ Mọi việc phải được thực hiện đúng với tinh thần của nó: Ví dụ tập họp phải “Nhanh nhẹn, trật tự và im lặng”. Học tập phải hăng say và vui tươi. Giờ chầu phải sốt sắng. Lửa thiêng phải vui và có ý nghĩa đúng tinh thần lửa thiêng chứ không phải lửa trại. Tuân hành kỷ luật với tinh thần tự giác.
+ Tránh thái độ “Bằng mặt mà không bằng lòng”. Đừng ra lệnh như “tát vào mặt người khác” sẽ gây phản cảm và mệnh lệnh sẽ mất hiệu lực thật sự của nó. Không bao giờ phạt Đội trưởng trước mặt đội viên.
V. Chia sẻ kinh nghiệm.
- Trước giờ lửa thiêng Thánh thể, Trưởng trực có thể cùng các đội cầu nguyện để đêm lửa thiêng được tốt đẹp; khi có tiếng còi, các đội Trưởng lần lượt hô tên đội và chạy vào khu vực lửa trại. Nhắc nhở đội trưởng và trao trọng trách cho họ, họ sẽ làm việc rất tốt đôi khi vượt ra sự mong đợi của Trưởng trực.
- Chuẩn bị lửa thiêng, Trưởng trực có thể mời một số bạn nam tự nguyện, giao lại cho Trưởng Sinh hoạt chuẩn bị lửa thiêng. Vấn đề trực đêm cũng có thể đề nghị sự tự nguyện.
--- oOo ---
Bài 13: Tâm lý Ngành Thiếu
1./ Tâm lý là gì?
2./ Những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến tâm lý.
3./ Những diễn biến tâm lý ngành Thiếu.
4./ Một số sinh hoạt giáo lý phù hợp với lứa tuổi.
Là Huynh trưởng-Giáo lý viên, đang phụ trách 1 lớp học gồm những em thiếu nhi khoảng độ tuổi 10-13. Bạn muốn truyền đạt cho các em về Chúa Giêsu, về anh cả GIÊSU gương mẫu, thánh thiện…Bạn tha thiết muốn các em tiếp nhận những lời bạn cắt nghĩa và đem ra thực hành trong đời sống của các em. Phải làm cách nào để những gì bạn truyền đạt được các em vui vẻ tiếp nhận, hiểu và đem ra thực hành nhằm thăng tiến cuộc sống đó.
Để các em hiểu được những gì bạn nói, bạn cần hiểu các em trước đã: hiểu tình cảm, suy nghĩ, phản ứng, hành động, cách ứng xử, đam mê, óc tưởng tượng…của các em thế nào, đó là tâm lý. Bạn cần nắm bắt chính xác tâm lý của các em để có thể vận dụng mà hướng dẫn và dạy đỗ các em cách hiệu quả nhất. Phải có mồi đúng và ngon mới câu được loại cá mà mình muốn.
I. TÂM LÝ LÀ GÌ?
Là những sự kiện vô chất thể nơi con người: buồn, vui, giận, ghét... Ta không thể nhìn thấy hay mô tả các sự kiện tâm lý như mô tả một sự vật cụ thể, không thể định hình hay định vị. Nhưng phải nhìn nhận rằng tâm lý là sự kiện có thật được nhận thấy qua thái độ, ngôn ngữ, phản ứng, và hành vi (nhìn nét mặt một em thiếu nhi cười rạng rỡ bên nhóm bạn, ta biết là em đang rất vui. Có hẳn 1 chuyên ngành để nghiên cứu về vấn đề này gọi là ngành tâm lý. Tuy nhiên, trong phạm vi bài này, không đi sâu vào nghiên cứu nhưng chỉ vận dụng những kết quả của môn tâm lý này để áp dụng vào việc dẫn dắt các em thiếu nhi được trao cho chúng ta.
II. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG,
ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÂM LÝ:
Biến chuyển tâm lý của mỗi em mỗi khác, và ở vào mỗi thời kỳ cũng có nhiều thay đổi khác nhau. Tuổi tâm lý không có 1 ranh giới rõ ràng để xác định như ranh giới vật chất. Các biến chuyển tâm lý tuy được nghiên cứu, phân tích theo từng lứa tuổi nhưng cũng chỉ là chung chung, tương đối. Tâm lý phụ thuộc vào nhiều yếu tố tác động khác nhau:
- Do thể lý di truyền: từ khi sinh ra.
- Do khả năng trí tuệ và sự học hỏi: khả năng tiếp thu và những kiến thức được cung cấp trong nền giáo dục tại trường, tại gia đình cũng như do nỗ lực nghiên cứu.
- Hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, giáo dục.
- Sự cố gắng, quyết tâm của bản thân.
III. NHỮNG DIỄN BIẾN TÂM LÝ NGÀNH THIẾU
A. Phát triển thân xác:
Thân xác của trẻ khoảng độ 10-13 tuổi phát triển khá mạnh, xương mau to, cứng hơn và khỏe hơn. Tay chân như dư thừa, quờ quạng. Một số em dậy thì sớm, bể tiếng, mặt sùi lên... Óc não phát triển nên bắt đầu biết nhận xét, lý sự về mọi điều xung quanh. Nhu cầu về ăn, uống, ngủ nghỉ rất cao.
B. Phát triển về tâm lý:
1. Thích hoạt động và hướng ngoại:
Trẻ dễ bị thế giới bên ngoài lôi cuốn và dễ bị ảnh hưởng, tác động bởi thế giới ấy. Những gì nghe, sờ thấy được … có sức lôi cuốn mãnh liệt, tạo sự thích thú với trẻ mà không sao kiềm lại được. Khi tò mò muốn biết thì trẻ tìm mọi cách để tiếp cận, xem nó là gì …. Vì thế đây còn gọi là tuổi thực nghiệm.
Phim ảnh, sách báo, truyện , diễn viên điện ảnh, ca sĩ… dễ trở thành thần tượng. Trẻ có thể nói liên miên, say xưa và khá chi tiết về những cuốn phim, câu chuyện hay tiểu sử của một ca sĩ, thần tượng mà mình yêu thích. Trẻ có thể dồn hết thời giờ, tiền bạc để có thể thỏa mãn những gì em thích như: dành thời gian cho việc chơi game, xem phim, đọc truyện, tìm hiểu hay sưu tầm hình ảnh hoặc bất kỳ những gì có in hình ảnh của thần tượng mình yêu thích, dán đầy phòng hay góc học tập, bắt chước những sở thích, thói quen của thần tượng thực hiện một cách thích thú...
- Ở lứa tuổi này nên sử dụng phương pháp dạy mới lạ, phong phú, bài học phải hấp dẫn, cách trình bày phải lôi cuốn để thu hút các em, đồng thời đừng áp dụng mãi 1 phương pháp mà cần thay đổi để các em không cảm thấy nhàm chán: sử dụng nhiều hình ảnh minh hoạ, dùng 1 trò chơi hay bài hát để bắt đầu bài học, thay đổi chỗ học như cho các em học ngoài trời…
- Cố lắng nghe các em nói, dù có thể những điều ấy không có ý nghĩa, vớ vẩn, không quan trọng… qua đó có thể gợi mở cho các em 1 cách tự nhận xét, đánh giá về sự kiện, nhân vật, hành động đúng hay sai, đẹp hay xấu, nên làm hay không; khuyến khích các em hãy bắt chước những điều tốt và loại bỏ những điều xấu.
2. Trẻ rất hiếu động, thích làm hơn suy nghĩ:
Trẻ ưa quan sát người khác làm việc, thích khám phá để sử dụng, chế tạo máy móc, đồ vật. Thích các hoạt động thi đua và luôn cố gắng giành phần thắng. Thích trò chơi vận động hơn là ngồi yên 1 chỗ, do sự phát triển mạnh về thể chất sức sống tràn đầy.
Kiến thức và kinh nghiệm của các em không phải do sự suy tư hay do nhồi nhét lý thuyết nhưng được các em tích lũy thông qua hành động. Chơi hăng và làm việc cũng hăng.
Hiểu được tâm lý này của trẻ ta nên tổ chức thường xuyên các cuộc thi đua, trò chơi sôi nổi, rộn ràng. Tập cho các em làm những công việc phục vụ như: chuẩn bị nơi họp, dọn dẹp vệ sinh
3. Khuynh hướng độc lập, tư hữu phát triển :mạnh
Ở tuổi này, mặc dù tự bản thân chưa thể quyết định việc gì nhưng vẫn muốn được tự lập như người lớn: muốn tự mình đi học, đi lễ, thích được vui chơi ở bên ngoài hơn là ở nhà với bố mẹ… không còn muốn bám áo mẹ như trước đây. Muốn có tiền riêng, chỗ học riêng, xe đạp riêng mặc dù có thể chưa có. Cái gì thuộc của mình thì không muốn cho ai đụng vào. Luôn muốn chứng tỏ rằng mình đã lớn và có quyền tự do. Điều này có thể dẫn tới sự chống đối nơi trẻ nhỏ, khi thấy điều gì đó không được thực hiện theo ý muốn hoặc để tự bảo vệ, bào chữa cho hành động chống đối của mình. Một mặt muốn sống tự do nhưng mặt khác thấy mình yếu đuối, bất lực, không thể làm được gì nên trẻ hay gây chuyện. Có khi chống đối có hệ thống.
- Người giáo dục phải tỏ ra hiểu biết, đừng tìm cách bẻ gẫy những chống đối nhưng hướng sức mạnh của trẻ vào những mục tiêu tốt.
- Hãy tôn trọng và tạo điều kiện cho khuynh hướng này phát triển đúng hướng, nhằm giúp các em biết suy nghĩ, tự đưa ra ý kiến giải quyết những vấn đề bản thân. Tuy nhiên cần luôn bên cạnh quan sát trẻ và can thiệp đúng lúc để tránh việc các em quá tự do, không theo 1 khuôn khổ nhất định, muốn làm gì thì làm, bất chấp hậu quả… trong khi đó vẫn khuyến khích tinh thần cộng đồng nơi các em.
- Đây cũng là giai đoạn thuận tiện để giới thiệu cho các em phương pháp hàng đội tự trị. Giao nhiệm vụ cho các em để các em cảm thấy đây là công việc của mình và mình phải thực hiện tốt nhiệm vụ này. Trẻ sẽ biết tôn trọng những tài sản riêng của bản thân và của người khác, biết gìn giữ tài sản của chi đoàn, gia đình. Đây cũng là 1 phương thức chuẩn bị cho các em hội nhập vào cuộc sống cộng đồng sau này.
4. Khuynh hướng xã hội phát triển:
Có nhu cầu tự nhiên: muốn được kết bạn, lập nhóm, trẻ thích hoạt động theo đội nhóm. Trẻ coi trọng ý kiến, quan điểm của bạn bè cùng trang lứa hơn là của cha mẹ, thầy cô. Trẻ bắt đầu xem nhẹ những lời khuyên, dạy bảo của người lớn, nghe lời bạn bè nhiều hơn. Vẫn cần sự quan tâm yêu thương của người lớn nhưng lại không muốn biểu lộ ra.
Trong phong trào, phương pháp hàng đội là cách tốt nhất để đáp ứng nhu cầu xã hội này. Hoạt động cộng đồng, sinh hoạt theo đội sẽ giúp các em tự khẳng định, từng bước điều chỉnh bản thân, từ đó góp phần xây dựng cộng đồng.
- Cha mẹ, anh chị cần theo dõi khuyến khích, hướng dẫn các em để kịp thời tránh việc các em bị dụ dỗ, sa vào những hoạt động xã hội không lành mạnh. Cần tìm hiểu xem con em mình chơi với ai, thuộc thành phần nào, đồng thời phải biết hoạt động của nhóm bạn mà con em mình tham gia.
a. Trẻ biết thắc mắc
Trí óc trẻ phát triển mạnh, trẻ biết suy luận đơn giản và trẻ biết thắc mắc. Nhưng thắc mắc của trẻ thường là thắc mắc tại sao khi các em:
* Nhận thấy có sự khác biệt giữa những gì các em đã được dạy bảo trước đây với những gì đang học, hoặc với những gì đang nghe thấy, nhìn thấy. Ví dụ: Cha mẹ và các anh chị HT, GLV nói Chúa ở trên trời nhưng các nhà khoa học du hành trên ấy nói là không có Chúa.
* Nhận thấy những sự việc diễn ra thực tế không giống như những gì mà từ trước đến giờ em vẫn nghĩ. Ví dụ: bố mẹ và thầy cô đều dạy nói dối là điều xấu, không được nói dối nhưng khi trẻ thấy bố, mẹ nói dối, do vô tình hay cố ý, trẻ sẽ hỏi tại sao như vậy.
- Muốn các em chấp nhận, điều ấy phải có tính hợp lý, và phải tiên liệu được những thắc mắc của trẻ để chuẩn bị câu trả lời. Câu trả lời cần: đơn giản để các em dễ hiểu, lấy ví dụ gần gũi để các em dễ hình dung.
- Đôi khi chúng ta nghĩ rằng các em không có thắc mắc gì sau bài học là các em đã hiểu bài hết, song không hẳn như vậy. Có thể các em chưa có đủ ngôn từ cần thiết để diễn đạt ý muốn nói, hoặc các em e thẹn, không dám hỏi, hoặc có thể các em chưa hiểu nên không biết hỏi gì? Nhìn vào ánh mắt, vẻ mặt, cử chỉ lúng túng hay ngồi im lặng 1 chỗ của các em mới có thể biết các em có hiểu và chấp nhận điều ta truyền dạy hay không, để rồi khéo léo đặt câu hỏi giúp các em giải đáp thắc mắc.
b. Nam nữ không thích chơi chung vói nhau:
Do có sự thay đổi nhanh về thể chất dẫn tới tâm lý đa cảm, các em bắt đầu biết e lệ với nhau, không còn tự nhiên như tuổi ấu. Nam nữ có sự phân biệt rõ rệt: ngại khi ngồi gần nhau, ngại không chịu nắm tay nhau … Nam chỉ chơi những trò chơi mang tính chất mạnh mẽ: rượt bắt, kéo co, bắn bi, đua xe… và không chịu chơi chung với nữ. Nữ thì thích những trò chơi nhẹ nhàng, khéo léo: nhảy dây, chơi banh đũa...
Do có sự phân biệt như vậy nên dễ dẫn đến việc các em bất đồng ý kiến, sinh sự cãi nhau.
Dùng những trò chơi tập thể cho cả nam và nữ cùng tham gia thi đua. Từ từ khích lệ, xoá đi sự phân biệt giữa các em, phải là cầu nối giản hoà và tạo điều kiện cho các em nam nữ giao tiếp, để hiểu nhau . Vì tự trọng và ganh đua chúng sẽ cố gắng không còn phân biệt nữa.
c. Hành động theo qui luật:
Vì thích hoạt động nên chú trọng đến qui luật hành động. Khi chơi thì bắt người khác phải giữ đúng qui luật. Sự quan tâm đến các qui luật dẫn tới chỗ hành động theo tập quán, nên ưa thích những gì đều đặn, làm cùng 1 cách, 1 kiểu. Thích những công việc có sẵn, cố định.
Lợi dụng khuynh hướng này để giới thiệu với chúng về luật Thiên Chúa, luật Phong trào. Tuy nhiên, cần cho chúng thấy luật Thiên Chúa là luật tình yêu. Giữ luật hình thức không ích gì. Giữ luật là minh chứng lòng mến đối với Thiên Chúa. Luật Phong trào giúp các em sống tốt hơn, trưởng thành hơn và có thể giúp ích cho mọi người xung quanh tốt hơn.
IV. MỘT SỐ SINH HOẠT GIÁO LÝ PHÙ HỢP VỚI TUỔI THIẾU, GIÚP LÀM SINH ĐỘNG BUỔI HỌP, THU HÚT CÁC EM:
* Hát: chọn những bài hùng mạnh, phấn khởi có tính cộng đồng làm những bài hát chung với nhau.
* Sinh hoạt tập thể: nhóm làm tập hình, ghép hình.
* Sưu tầm, tra cứu 1 đề tài (câu chuyện về tình yêu thương của Thiên Chúa, những việc Chúa làm cho dân Israel khi dân bị lưu đày tại Ai Cập…): dùng Kinh thánh hay sách đạo đức để sưu tầm.
* Ghi chép lại những câu kinh thánh, những điều hay vào 1 cuốn sổ nhỏ.
*Khuyến khích, tạo điều kiện cho các em tham dự các buổi phụng vụ (lồng ghép thêm những cử chỉ)
Tóm lại, những diễn biến tâm lý của thiếu nhi nêu trên được tiến hành, phân tích trên phương diện rộng, không tập trung, chủ đích vào 1 cá nhân hay 1 nhóm tập thể nhất định nào, nên không thể đồng loạt áp dụng cho mọi tình huống. Nhưng cần dựa vào những nguyên tắc chung ấy, kết hợp quan sát, theo dõi biến chuyển tâm lý của từng em để đưa ra giải pháp phù hợp, nhất là đối với Thiếu nhi. Khi chọn giải pháp ứng xử cho cả tập thể phải có giải pháp cho từng em, nhất là những em cá biệt.
Các em trong độ tuổi 10-13 nói riêng hay các em thiếu nhi nói chung là những mầm non tương lai của Giáo Hội. Những mầm non này hiện chưa có đủ kinh nghiệm lại không đủ khả năng để tự định hướng cho sự phát triển của bản thân, rất cần sự hướng dẫn chia sẻ, hiểu và giúp đỡ của các bậc bề trên và của các anh chị.
--- oOo ---
Bài 14 : Tìm hiểu tâm lý ngành nghĩa
Dẫn nhập:
Gọi tuổi thanh thiếu niên bao hàm cả thanh niên và thiếu niên.
Độ tuổi từ 18–25 tuổi cũng thường gọi là thanh niên, nhưng thường được hiểu là các thanh niên trẻ.
Tuổi vị thành niên là độ tuổi từ 11-17 tuổi. Đây là tuổi mà chúng ta gặp các em trong các lớp Thêm sức và Bao đồng và Vào đời. Tuổi này có những đặc điểm gì nổi bật.?
Các em tuổi này có tâm lý không ổn định, tính tình có khi dũng cảm, gan dạ nhưng có khi lại hèn nhát, có lúc tự tin đến mức tự phụ nhưng có lúc lại rất do dự, không dám dấn thân.
Ở tuổi này cách cư xử của các em rất rối ren phức tạp, ngay cả bản thân các em đôi khi cũng khổ sở, không hiểu mình; thường làm cho người lớn khó chịu đến mức chịu không nổi. Đây là tuổi các em ở giai đoạn chuyển tiếp giữa hai trạng thái trẻ em và người lớn.
Thường các em ở lứa tuổi này, ông bà, cha mẹ… những người có khoảng cách xa về tuổi tác khó chấp nhận, khó thông cảm và hay bực bội với các em. Những giáo lý viên, do tuổi tác không xa cách nên dễ thông cảm, gần gũi với các em hơn, chúng ta cần hiểu biết về những lý do khiến tâm lý các em rối ren, phức tạp, làm chúng trở nên “kỳ quặc” để giúp các em vượt qua những bất ổn tâm lý, khẳng định được mình và có cách cư xử đúng đắn phù hợp với nhân phẩm, với luân lý xã hội để phát triển nhân cách trong quá trình trưởng thành của các em.
Chúng ta sẽ đề cập đến một vài lý do làm cho tâm lý các em rối ren, phức tạp.
I. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÂM LÝ
TUỔI VỊ THÀNH NIÊN.
1. Hiện tượng dậy thì:
Ở tuổi vị thành niên, sự phát triển cơ thể các em diễn ra ở tốc độ nhanh. Trọng lượng, chiều cao tăng nhanh khiến các em cảm thấy như chân tay dư thừa, các tuyến nội tiết rối loạn, đặc biệt các bộ phận thể hiện giới tính nảy nở.
Điều đó khiến các em chú ý đến cơ thể, đến các đặc điểm của bản thân, tạo ra nơi các em những băn khoăn thắc mắc và càng băn khoăn thắc mắc hơn khi các em phát hiện ra những đặc điểm trên cơ thể các em không giống người này hay người khác. Thế là các em tìm cách giải đáp thắc mắc, có thể nơi bạn bè, qua sách báo hoặc có thể nơi những người lớn mà các em tin tưởng.
Thăm dò cách đây khoảng 10 năm cho thấy các em giải đáp thắc mắc nơi bạn bè 55%, sách báo 10%, người lớn 35%. Và mới đây trong phạm vi nhỏ hơn một thăm dò cho thấy bạn bè 70%, sách báo 20%, người lớn 10%.
Tìm hiểu nguyên nhân người ta thấy tuổi vị thành niên tìm đến bạn bè nhiều là do những lý do sau:
· Nơi bạn bè các em tìm thấy sự đồng cảm
· Sự phát triển xã hội hiện nay làm cho cuộc sống gia đình lỏng lẻo: cha mẹ, người lớn ít quan tâm đến con cái, thậm chí nhiều bậc cha mẹ chẳng hề dành thời giờ cho con cái.
· Người lớn sống xa rời trẻ em, ít tỏ ra gần gũi, đôi khi lại tỏ ra dị ứng với những thắc mắc của các em, nhiều cha mẹ do thiếu hiểu biết nên giải thích theo kiểu lấp lửng, không thỏa đáng, làm cho các em, nhất là những em trưởng thành sớm cảm thấy không thỏa mãn, có em cho rằng người lớn nói dối. Điều này càng khiến các em tìm đến bạn bè nhiều hơn.
Nhưng nơi bạn bè, đa số các em không tìm được câu trả lời chính xác, chúng lại tìm đến sách báo, nhưng đâu phải sách báo nào cũng tốt, nhất là hiện nay việc quản lý văn hóa phẩm không chặt chẽ. Khả năng các em lại chưa đủ để hiểu rõ, hiểu hết những gì nói trong sách báo.
Vai trò của người Huynh Trưởng-Giáo Lý Viên ở đây rất quan trọng: như 1 người bạn, người Huynh Trưởng-Giáo Lý Viên cần biết đồng cảm với các em để các em có thể tâm sự. Như 1 người anh, người chị, người Huynh Trưởng-Giáo Lý Viên cần gần gũi, thân mật với các em, tạo cho các em tâm lý dễ dàng trao đổi, gởi gắm những thắc mắc của chúng, chú ý hướng dẫn giúp các em có thể chọn lọc được những sách báo có giá trị, hiểu đúng. Cũng cần lưu ý rằng đây là vấn đề rất tế nhị, đòi hỏi người Huynh Trưởng-Giáo Lý Viên phải thật tinh tế và có một tâm hồn rộng mở yêu thương.
Tóm lại, do hiện tượng dậy thì, trẻ vị thành niên có nhiều thắc mắc, chúng có nhu cầu phải được giải đáp. Nhưng tự chúng, loay hoay nơi này hay nơi kia, trong thực tế chúng vẫn chưa trấn an được mình, chúng còn gặp nhiều khó khăn trong vấn đề này. Người Huynh Trưởng-Giáo Lý Viên khi làm việc với trẻ cần hiểu biết về mọi mặt, người Huynh Trưởng-Giáo Lý Viên “không được dốt về bất cứ chuyện gì, không chỉ hiểu biết cách chung chung, nhưng phải nắm vấn đề một cách sâu rộng và chi tiết” và cần có tâm hồn cởi mở yêu thương, một thái độ gắn bó thân mật đối với các em, chúng ta mới có thể giúp các em cở mở cõi lòng, hiểu các vấn đề theo trình độ của các em, giúp các em giảm thiểu tình trạng bất an về tâm lý.
2. Môi trường:
Môi trường tác động lên tâm lý tuổi vị thành niên là gia đình, nhà trường và cộng đồng(Bạn bè, khu phố, điểm vui chơi, phương tiện truyền thông…).
Trong 3 phạm vi ấy, đa số các em cảm thấy dễ chịu, tự do nhất khi các em ở ngoài cộng đồng. Chỉ có những gia đình nào thực sự đầm ấm, trường học nào thực sự tận tâm, yêu mến học sinh, cơ cấu nhà trường ý thức đến việc tổ chức các sinh hoạt học đường, mới có những người con, những học sinh thực sự yêu thích nhà mình, trường học của mình. Những con số này còn ít. Đại đa số hướng về cộng đồng xã hội, bởi ngoài cộng đồng có nhiều đổi mới và đổi mới nhanh chóng hơn, hấp dẫn hơn. Nơi đây, các em dễ sa vào con đường hư hỏng.
Không thể qui trách nhiệm về tình trạng hư hỏng của trẻ em hiện nay cho cộng đồng, mà chúng ta phải xét lại sự giáo dục ở nhà trường và gia đình. Nếu ở gia đình và nhà trường thực hiện tốt việc giáo dục các em, là nơi các em cảm thấy an toàn, thích thú thì các em sẽ ít ra ngoài cộng đồng, tình trạng hư hỏng ở tuổi vị thành niên theo đó cũng ít đi.
Chúng ta thử xem các yếu tố môi trường (Gia đình, nhà trường, cộng đồng) hiện nay ra sao, có ảnh hưởng gì đến việc giáo dục các em tuổi vị thành niên.
Gia đình hiện nay bị chao đảo vì lo chạy theo kinh tế, tình cảm giữa cha mẹ và con cái trở nên lỏng lẻo, bởi chú tâm và dành quá nhiều thời giờ cho việc làm ăn, cha mẹ đã xem nhẹ việc giáo dục con cái.
Nhà trường bị khủng hoảng bởi sự bùng nổ thông tin, làm cho chương trình học nặng và dầy ra nhiều, thầy cô do phải nặng nề với khối lượng kiến thức nên ít quan tâm hoặc bỏ quên việc giáo dục, uốn nắn tư cách đạo đức tác phong cho học sinh.
Ngoài cộng đồng, ý thức trách nhiệm bị mọi người coi nhẹ, khuynh hướng đặt nặng vật chất, lợi nhuận làm con người ta coi thường luân lý đạo đức. Người lớn dửng dưng với những hư hỏng của các em, đôi khi vì một vài lợi nhuận riêng đã tiếp tay đưa các em đến con đường hư hỏng.
Giữa môi trường xã hội hôm nay, người Huynh Trưởng GLV “Được Thiên Chúa mời gọi để cùng cha mẹ trẻ», góp phần cộng tác với xã hội mà dạy dỗ trẻ”, đặt vào tim chúng nền tảng nhân bản và Kitô”. Người Huynh Trưởng GLV phải là những con người nhân bản, có đủ kiến thức giáo lý, am hiểu các phương pháp giáo dục, có một tinh thần cầu nguyện và lòng nhiệt thành hăng say dựa vào ân sủng được trao ban cho chúng ta mà chuyên tâm, cẩn trọng dẫn dắt trẻ» về đức tin và nhân bản bằng chính gương đời sống và qua việc dạy dỗ của chúng ta.
II. CÁC ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ TUỔI VỊ THÀNH NIÊN.
1. Nhận thức:
Ở tuổi vị thành niên khả năng tư duy của các em đã tốt hơn nhiều, nhất là từ 13 tuổi trở lên (Tuổi các em lớp Bao Đồng và Vào đời). Các em biết suy nghĩ cách trừu tượng và biết áp dụng những tư duy vào lý luận.
Độ tuổi này các em ham hiểu biết, tìm tòi, thích khám phá, thể nghiệm. Đặc điểm này làm cho các em phát triển khả năng sáng tạo.
Các em cũng thích tranh luận, lý sự (Người lớn cho là hay cãi) và thường biện minh cho các hành vi của các em, cả khi chúng biết là chúng sai.
Để giúp các em phát triển tư duy, nhận thức đúng đắn, người Huynh Trưởng GLV cần phải tạo điều kiện để các em có thể trình bày ý kiến của mình trong giờ giáo lý (Có thể dùng phương pháp chủ động), trong khi hướng dẫn các em cần chú ý lắng nghe, tôn trọng ý kiến của các em, biết khích lệ, khen thưởng các ý kiến hay, đúng, cách nhẹ nhàng và tế nhị. Nên uốn nắn và sửa chữa những phát biểu của các em để diễn đạt rõ hơn, chính xác hơn. Nhưng cũng có khi phải biết im lặng trước những lập luận một chiều của các em nếu thấy rằng việc giải thích của chúng ta chưa thuyết phục được. Chờ dịp khác.
2. Tình cảm:
Tuổi vị thành niên các em có cảm xúc rất mạnh, khó kiềm chế, đôi khi hay cường điệu cảm xúc của mình. Trước một sự kiện, các em thường có những thể hiện tình cảm quá đáng, vui thì vui quá mà buồn thì cũng quá buồn, nhiều khi đưa đến những hành vi đáng tiếc.
Các em thường tuyệt đối hóa tình cảm nên thường có những đòi hỏi cao: cách quá đáng, tuyệt đối. Khi thương thì thương quá đến mức thần tượng hóa, và đối tượng được coi là tốt thì bất kỳ cái gì cũng phải tốt, nhất là những thần tượng của các em; còn nếu đã ghét thì điều gì cũng đáng ghét. Bởi thế, ở tuổi này các em thường bị rơi vào tâm trạng hụt hẫng, thất vọng, đôi khi tuyệt vọng. Thường có xao xuyến, bồi hồi, băn khoăn, khó nghĩ.
Muốn làm cho các em thích thú học giáo lý và có thể đồng hành cùng các em trong đời sống, người Huynh Trưởng GLV phải tạo được tình cảm và uy tín đối với các em, các em sẽ không thể mến chúng ta khi thấy rằng ta không yêu mến chúng; không thể nghe lời chúng ta nếu đối với chúng, ta không có chút uy tín nào. Bởi thế, người Huynh Trưởng GLV phải đến với các em bằng một tình yêu của Chúa Kitô, yêu thương các em như Chúa Kitô yêu chúng. Và bản thân người Huynh Trưởng GLV phải là một con người phải có đức tính nhân bản và có năng lực thực sự.
III. NHU CẦU TÂM LÝ CỦA TUỔI VỊ THÀNH NIÊN.
1. Khuynh hướng làm người lớn (Nhu cầu hàng đầu):
Như đã nêu, tuổi vị thành niên có sự chuyển tiếp từ giai đoạn trẻ em lên người lớn. Cơ thể các em phát triển nên các em có thể làm được một số công việc của người lớn; ngay cả người lớn cũng cung cấp cho các em ý tưởng làm người lớn qua các công việc giao cho các em, qua cách nói năng, đối xử đối với các em …
Ở tuổi này, các em muốn được tự do, được quyết định qua các biểu hiện như thích chứng tỏ mình (Đôi khi không biết cũng làm ra vẻ ta đây), thích tìm hiểu, thích xen vào chuyện người lớn, đòi hỏi người lớn phải tôn trọng, thích được công nhận khả năng làm người lớn của các em.
Nơi các em vị thành niên khuynh hướng muốn làm người lớn được thể hiện qua một số hành vi:
- Các em thường soi gương để nhận xét nét mặt của mình, cười thế nào, nháy mắt ra sao … và chọn cho chúng một kiểu nét mặt.
- Sau nét mặt, các em tìm cho mình một dáng đi, dáng đứng. Thường các em bắt chước theo một thần tượng nào đó của các em.
- Các em tìm cho mình một chữ ký, trong khi tập chữ ký các em tự tích lũy cho mình những hiểu biết. Ví dụ chữ ký không nên có số 13 vì sẽ xui xẻo, đừng có lăng nhăng như hàng rào để cuộc sống suông sẻ… những hiểu biết đó cũng ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách của các em. Ở gia đình các em khó để được thỏa mãn nhu cầu này, người lớn thường gây cho các em những phiền toái và bất mãn.
Khi làm việc với các em, người Huynh Trưởng GLV cần tôn trọng, biết lắng nghe, tạo điều kiện để các em chứng tỏ khả năng của mình, bên cạnh đó phải luôn theo dõi để uốn nắn những cách ứng xử của các em “chưa thật người lớn”.
2. Thích giao lưu với bạn bè:
Giao lưu với bạn bè các em dễ thỏa mản nhu cầu làm người lớn của mình. Nơi bạn bè các em tìm thấy sự đồng cảm, sự chấp nhận của bạn trong quá trình phát triển của mình hơn là nơi người lớn. Bởi muốn được bạn bè công nhận khả năng của mình nên các em rất tôn trọng bạn bè, thậm chí coi ý kiến bạn bè hơn ý kiến cha mẹ, người lớn, sẵn sàng đối kháng với người lớn, chịu sự trừng phạt của người lớn để trung thành với bạn bè.
Khi kết bạn, các em kết thành nhóm và có những biểu hiện giống nhau, hình thành nên các “kiểu văn hóa” như có một kiểu tóc, cùng mặc một loại áo, dùng một loại tiếng lóng, thích một loại hình giải trí…
Ở độ tuổi này nếu các em giao lưu với bạn bè tốt thì nên người tốt, với bạn bè xấu sẽ thành người xấu và các “kiểu văn hóa” các em lập có thể phù hợp hoặc không phù hợp với luân lý đạo đức xã hội cũng sẽ biến các em nên người tốt hay thành kẻ xấu.
Với tuổi đời không xa cách các em, người Huynh Trưởng GLV có thể gần gũi, trở thành “bạn” của các em, giúp các em thiết lập quan hệ tốt với những bạn bè trong lớp giáo lý, biết “chọn bạn mà chơi” ở ngoài xã hội. Tạo điều kiện cho các em giao lưu với các nhóm bạn khác bằng các hình thức sinh hoạt, kết thân …, hướng dẫn các em hình thành các “kiểu văn hóa” phù hợp với đạo đức con người và khơi dậy lòng hào hiệp nơi các em, biết chia sẻ với bạn bè và những người thiếu may mắn.
3. Nhu cầu tự khẳng định mình (Xác định bản sắc riêng):
Tuổi vị thành niên các em bắt đầu xác định “cái tôi” của mình. Khi xây dựng “cái tôi”, tuổi vị thành niên tự xây dựng cho chúng những “cái tôi” khác nhau.
- “Cái tôi hiện thực” các em nhìn lại bản thân mình, tự xác định mình là ai, như thế nào. Nơi con người các em có những điểm mạnh, điểm yếu nào và tìm cách phát huy những ưu điểm đó. Không phải em nào cũng nhận diện được mình.
- “Cái tôi lý tưởng” các em chọn một mẫu người lý tưởng là người cha, người mẹ, hay thày cô, hay anh chị Huynh Trưởng GLV hoặc một diễn viên điện ảnh, một danh thủ… và bắt chước từ cử chỉ, dáng đi, cách ăn mặc, nói năng, hành động… sao cho giống.
- “Cái tôi ảo tưởng” (Người trong mơ): Các em mơ mình trở thành nhà bác học, phi hành gia, nhà khoa học… điều này thường không phù hợp với con người thực của các em. Để giúp các em, người Huynh Trưởng GLV phải xác định rõ cho các em hai nguyên tắc:
+ Phải thực tế, nghĩa là phải nhìn vào con người thực, hoàn cảnh, điều kiện thực… của chính các em.
+ Phải sống có lý tưởng, nghĩa là phải biết vươn lên, khắc phục khó khăn…, không tự mãn với những gì mình có, và không sống trong ảo tưởng hay duy ý chí.
Và phải biết phối hợp hai điều:
- Phải tìm hiểu xem các em đang trục trặc ở nhu cầu nào. Tại sao bị tổn thương như thế. Tìm ra mặt mạnh, ưu điểm nơi các em và tạo điều kiện cho các em phát huy các ưu điểm đó.
- Giúp các em xác định bản sắc riêng của chúng. Muốn thế, người Huynh Trưởng-Giáo Lý Viên phải tôn trọng bản sắc riêng của các em, tránh xúc phạm, trêu ghẹo khi các em có những biểu hiện bản sắc riêng mà nhiều khi thật khó coi. Giúp các em nhận thức rõ về con người các em: Tôi là ai? Có những tính tốt, tính xấu nào? Có những khả năng nào? Giới hạn của tôi ở chỗ nào?... và dần dần hướng dẫn để bản sắc riêng của các em không quá thô kệch mà phù hợp với cộng đồng và đòi hỏi của luân lý đạo đức xã hội, chứ không mơ hồ, ảo vọng. Giúp các em gắn mình với trách nhiệm với bản thân, với gia đình và với xã hội, mà cụ thể là tập thể các em đang tham gia. Nếu không sau này các em sẽ gặp khó khăn trên đường đời và trong cuộc sống.
Trên đây chỉ là những cố gắng để làm cho “món ăn” hợp “khẩu vị” của người Huynh Trưởng-Giáo Lý Viên giúp các bạn dễ “tiêu hóa” và tạo ra “năng lượng” để hoạt động. Xin Chúa Kitô là vị Thầy có sức hấp dẫn và hoán cải lòng người giúp chúng ta hướng dẫn các em mà Thiên Chúa yêu thương trao phó cho chúng ta phục vụ.
--- oOo ---
Bài 15 : Lửa thiêng Thánh Thể
Lửa với bản chất nóng, sáng, ấm … đã là biểu trưng cho sự sống, sức mạnh, tình yêu con người và cả sự hiện diện của thần linh.
Từ khi tìm ra lửa, con người đã triệt để khai thác các hiệu năng của lửa mà ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày. Lửa là nhân tố không thể thiếu trong đời sống.
Lửa không chỉ phục vụ các nhu cầu thiết yếu của đời sống vật chất con người mà lửa còn phục vụ mục đích giáo dục. Kết thúc một ngày vất vả, dân du mục hoặc các mục đồng quây quần bên đống lửa ăn uống, vui chơi, ca hát, nhảy múa, rũ bỏ mọi mệt nhọc trong ngày rồi khi ánh lửa tàn, họ chìm vào giấc ngủ thanh bình, êm ả. Ngày nay, trong các buổi dã ngoại, tham quan, hội trại… của các thành phần xã hội người ta không thể bỏ qua đêm lửa trại. Trong đêm tối giữa cảnh thiên nhiên, bên ánh lửa bập bùng, con người thấy tâm hồn ấm áp hơn, gần nhau hơn, dạt dào sự cảm thông và yêu thương. Đến khi ngọn lửa tàn trong yên lặng, họ vẫn nghe được tiếng lòng ấm áp của nhau và để tâm hồn hướng thượng về cõi thiêng liêng.
Trong các Sa mạc của phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể, hình ảnh cột lửa soi đường cho dân Chúa trong hoang địa được tái hiện trong đêm lửa trại với tên gọi là Lửa Thiêng Thánh Thể. Vậy chúng ta cùng tìm hiểu vấn đề này .
I. NGUỒN GỐC :
1. Trong lịch sử nhân loại:
Ở thời nguyên thuỷ xa xưa, con người thấy những tia chớp sáng loé trên bầu trời đen tối và làm cháy cả khu rừng to lớn. Nhìn những hiện tượng thiên nhiên đó, con người sợ hãi, kinh hoàng, nhưng sau đó, khu rừng còn lại những cột than nghi ngút khói và xác thú vật bị đốt lại toả hương vị ngào ngạt. Thịt chín ngon và dễ dùng hơn thịt sống.
Bản năng của con người bị kích động. Dần dần họ khám phá ra lửa, cách giữ lửa và công dụng của lửa: để nấu ăn, chiếu sáng, sưởi ấm rồi tiến tới tôn thờ lửa như một vị thần .
2. Đặc tính của lửa tự nhiên:
- Lửa đốt cháy:
Lửa được sử dụng trong việc nấu ăn: thui, nướng, nấu...; thiêu huỷ các đồ vật thừa thãi.
- Lửa cháy sáng:
Nhờ việc đốt cháy, lửa cũng mang lại nguồn sáng cho con người trong các màn đêm tăm tối để thấy đường di chuyển và con người biết chế tạo các loại đèn để sử dụng: đuốc, đèn cầy, đèn dầu, đèn măng-sông đến những loại đèn tối tân hơn: đèn pile, đèn điện, đèn LASER…
- Lửa đốt nóng :
Lửa còn có đặc tính sưởi ấm con người khi lạnh lẽo. Đêm đông lạnh buốt mọi người quây quần bên ánh lửa hồng để sưởi ấm thân thể và hun nóng tâm hồn.
Tuy nhiên nếu không khéo sử dụng lửa sẽ trở nên tai họa, chết chóc đau thương và tàn phá kinh khủng: cháy nhà, cháy rừng …
Chính vì những đặc tính trên mà từ xa xưa lửa còn được dùng để xua đuổi tà ma, quỷ quái, thú dữ; để tạo khung cảnh ấm cúng, thoải mái. Là bàn ăn của gia đình.
II. Ý NGHĨA CỦA LỬA TRONG THÁNH KINH:
Ngoài các đặc tính tự nhiên, lửa còn mang ý nghĩa đặc biệt trong Kinh Thánh
1. Trong Cựu ước :
Thiên Chúa kết ước với Abraham: cột lửa đi ngang qua các lễ vật đã được chuẩn bị (St 15, 17). Lửa nổi bật trong tương quan giữa Thiên chúa và dân Ngài.
a. Lửa gợi lên sự hiện diện của Thiên Chúa:
- Diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa, vừa hấp dẫn, vừa đáng sợ qua việc Môisê nhìn thấy “… bụi gai bốc cháy…” khi ông chăn chiên trên núi Horép (Xh 3, 1-3)
- Đức Giavê dùng cột mây, cột lửa dẫn đường phù trợ dân Ngài và dẫn họ về Đất Hứa (Xh 13, 21)
- Elia được cất lên trời trên xe lửa (2 V 2,11)
- Trình bày Thiên Chúa giáng lâm, tác giả Thánh Kinh dùng hình ảnh bão lửa (Tv 18,8-15; 7,3-4)
b. Lửa gợi hình ảnh Thiên Chúa thanh luyện:
- Thanh tẩy Isaia để chọn ông làm tiên tri (Is 6, 6-7)
- Thiên Chúa như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt (Mi 3, 2)
- Thiên Chúa tẩy sạch mọi tì ố “Dỉ sét của ngươi, Ta sẽ tẩy sạch, như người ta lấy muối luyện kim. Mọi cặn bã của ngươi, Ta sẽ loại bỏ” (Is 1,25)
- Thiên Chúa dùng lửa để thử thách “Xin dò xét và thử thách con, tâm can này xin đem thử lửa” (Tv 26, 2)
c. Lửa chỉ quyền năng của Thiên Chúa:
- Ngọn lửa thiêu đốt lễ vật của Abel, của Noê, của Êlia,.. cho thấy Thiên Chúa nhận lễ vật dâng hiến.
- Thiên sứ khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt thành Sodoma tội lỗi, cứu thoát gia đình ông Lot.
2. Trong Tân ước:
+ Lửa chỉ lòng mến của Thiên Chúa “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12,49)
+ Lửa chỉ sự hiện diện của Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ tuần “Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một và ai nấy tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 2,3-4)
+ Lửa thiêu đốt trong ngày xét xử của Thiên Chúa “Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân, thóc mẩy thì thu vào kho lẫm còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”(Mt 3,12)
3. Trong Phụng vụ
Ngày nay trong đêm vọng Phục sinh, với nghi thức làm phép lửa và kiệu nến Phục sinh, Giáo hội nguyện xin ánh sáng Chúa Kitô Phục sinh chiếu soi trần gian tăm tối, xua đuổi tà thần, ma quỷ, đánh tan sự u mê của lòng trí chúng ta. “Ánh sáng Chúa Kitô - Ngợi khen Chúa” (lời xướng đáp trong Phụng vụ đêm vọng Phục sinh).
“Chúa là ánh sáng tôi sợ chi ai” (Tv 26,1)
Như vậy lửa không phải là “thần” để rồi xu phụng nó, vì: “…nhờ Ngôi lời, vạn vật được tạo thành và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở mỗi người là sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1, 3 -5), “Ngôi lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9)
III. LỬA THIÊNG THÁNH THỂ
Nếu như các đoàn thể sinh hoạt khác gọi việc đốt lửa sinh hoạt trong đêm là lửa trại thì Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể cũng tổ chức đêm đốt lửa nhưng được gọi là Lửa Thiêng Thánh Thể, vì:
1. Mục đích:
Lửa Thiêng Thánh Thể là thực hành giáo dục của Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể về cả hai phương diện tự nhiên và siêu nhiên.
a. Giáo dục siêu nhiên:
- Trình bày Kinh thánh qua các tiết mục
- Hiểu biết và cảm nghiệm về Chúa nhiều hơn với khung cảnh sống động của Thánh Kinh.
b. Giáo dục tự nhiên:
Đây là loại hình sinh hoạt vui tươi, hấp dẫn, giúp những người tham dự
- Sống tự nhiên trong sinh hoạt tập thể
- Trở nên hoạt bát, tháo vát, nhập cuộc
- Giúp phát triển khả năng ca vũ, nhạc kịch,…
2. Ý nghĩa
+ Chúa Giêsu là lý tưởng của Thiếu Nhi Thánh Thể nên ngọn lửa trong đêm nhắc mọi người sự hiện diện sống động của Thiên Chúa, Đấng là Chân Thiện Mĩ, là Ánh sáng, là Nguồn sống cho muôn người. Ở đây mọi người sum họp quanh lửa gặp gỡ nhau, thể hiện tính Hiệp nhất yêu thương và hướng thượng mỗi Thiếu Nhi Thánh Thể về lý tưởng của mình.
+ Lời Chúa trong Thánh kinh là nền tảng và là chất liệu trong các hoạt động Tông đồ cũng như xã hội, vì thế đêm Lửa Thiêng, Thánh kinh được cụ thể hoá, hình tượng hóa.. qua các tiết mục văn nghệ.
+ Kết thúc Ngày sống Thánh Thể, mọi người đặt trên lửa những hy sinh, vui buồn trong ngày, xin Chúa chấp nhận như lễ toàn thiêu, xin ban niềm vui và một đêm an bình trong ân nghĩa Chúa.
+ Trong mỗi Sa mạc huấn luyện hoặc các Sa mạc vui chơi có ngủ qua đêm đều có các ý lực sống cho từng ngày hay từng buổi thì đêm Lửa Thiêng Thánh Thể là hoạt động cao điểm của ý lực sống: Thánh Thể. Chính vì vậy, Phong trào gọi là Lửa Thiêng Thánh Thể.
IV. CÁCH TỔ CHỨC LỬA THIÊNG THÁNH THỂ
1. Tổng quát:
+ Tổ chức Lửa Thiêng Thánh Thể phải để lại những kỷ niệm (êm dịu, vui vẻ), phải dành cho các Sa mạc sinh, quan khách những ấn tượng quý giá nhất, đẹp đẽ nhất và êm đềm nhất của Lửa Thiêng Thánh Thể.
+ Tổ chức Lửa Thiêng Thánh Thể phải luôn cố gắng không quá dễ dãi và hạ thấp năng lực giáo dục của nghệ thuật. Do đó, mọi người tham dự Lửa Thiêng Thánh Thể phải được: Tự do và thong thả. Chỗ ngồi không bị nóng quá, lạnh quá hay bị ẩm ướt. Trông rõ, nghe rõ trong suốt buổi Lửa Thiêng Thánh Thể. Quan khách phải được tiếp rước và dành chỗ ngồi
2. Chuẩn bị
a. Chọn chủ đề:
- Có mục đích chứ không phải là cuộc họp bất thường trong đó các “trò khỉ” được sáng tác bừa bãi để chọc cười một cách thô lỗ, vô duyên.
- Mỗi buổi Lửa Thiêng Thánh Thể phải có một chủ đề trực tiếp trong Kinh thánh mang giá trị Kinh thánh hay mang ý lực sống, có giá trị thực hiện nhân bản và đạo đức, được thực tại hoá trong cuộc sống xã hội đời thường. Nhưng tất cả phải lành mạnh, không bóp méo, sửa chữa lời, xuyên tạc ý nghĩa Thánh kinh. Các chủ đề phải mang giá trị giáo dục, nhất là giáo dục đức tin.
Ví dụ: “Vượt biển Đỏ, cuộc thương khó của Chúa Giêsu, hành trình truyền giáo của thánh Phaolô, vầng trăng Chúa yêu, yêu thương gia đình,…”
- Mọi tiết mục đều xoay quanh cùng chủ đề đó. Các tiết mục được diễn tả bằng hành động, cử chỉ, lời nói, trang phục hoá trang phù hợp với ý nghĩa của tiết mục và có thể dùng mọi hình thức ca, vũ, nhạc, kịch,… để chuyển tải nội dung.
b. Làm chương trình lửa thiêng
- Chọn người chịu trách nhiệm tổ chức buổi Lửa Thiêng Thánh Thể. Người này có nhiệm vụ soạn thảo chương trình một cách chặt chẽ, chi tiết từ A-Z (nên có đóng góp ý kiến của nhiều người)
- Trước khi làm chương trình phải biết phân loại các loại Lửa Thiêng dành cho Ấu nhi, Thiếu nhi, Nghĩa sĩ, Huynh trưởng vì mỗi Ngành, mỗi lứa tuổi có những hình thức, nội dung sinh hoạt và tâm lý khác nhau.
- Cũng cần lưu ý các loại hình Sa mạc: Sa mạc huấn luyện, Sa mạc vui chơi, Sa mạc giao lưu, họp bạn, Sa mạc của Hiệp đoàn, Sa mạc liên hạt, Sa mạc của Giáo phận.
- Lên chương trình phải nắm rõ thời gian tối đa cho một buổi Lửa Thiêng: Ấu nhi là 1 tiếng, Thiếu nhi là 1 tiếng rưỡi, Nghĩa sĩ và Huynh trưởng là 1 tiếng rưỡi đến 2 tiếng.
- Sau khi có chương trình là phân công các tiết mục cho các đội (nếu đông có thể ghép 2 đội/ tiết mục). Báo trước chủ đề, phân công đề tài cụ thể để các đội có thời gian chuẩn bị nội dung, trang phục. Quy định thời gian cho mỗi tiết mục (5-10 phút), nội dung các tiết mục phải nộp cho Ban tổ chức để được kiểm duyệt và xếp thứ tự diễn. Các tiết mục hài cần được chọn lọc để vẫn mang tính “giáo dục” và đạt được “nhu cầu thư giãn”
c. Nhân sự: Người chịu trách nhiệm tổ chức
- Quản trò:
· Nhân vật chính trong đêm lửa, là linh hồn của buổi Lửa Thiêng.
· Người nắm và phối trí chương trình chi tiết.
· Phối hợp đồng bộ nhịp nhàng với những người cộng tác trong buổi Lửa Thiêng (quản ca, quản lửa,…) và những người phụ trách tiết mục của các đội.
· Linh hoạt, tháo vát, ứng biến kịp thời khi các tiết mục chưa kịp chuẩn bị xong, các đội diễn dài, diễn thay đổi nội dung đã đăng kí, làm đêm sinh hoạt sống động, vui tươi, hợp với chủ đề, mục đích giáo dục. Xen giữa các tiết mục bằng các bài hát, băng reo, trò chơi, câu đố, bài múa, kể chuyện, ảo thuật, ngâm thơ, làm xiếc …
· Quản trò không quá nhố nhăng, lố bịch, ăn nói sai phép như một tên hề rẻ tiền, như diễn hài cương quá, lạm dụng tiếng cười.
- Quản ca:
· Phụ trách bắt giọng các bài ca nghi thức: Gọi lửa thiêng, chào lửa thiêng, mang lửa về tim.
. Phụ trách phần ca múa tập thể, băng reo làm phong phú thêm ấn tượng cho đêm lửa. Phối hợp nhịp nhàng với quản trò xen kẽ giữa các tiết mục văn nghệ
- Quản lửa:
· Phụ trách củi lửa, vật dụng lửa (củi, đuốc, đồ mồi, dầu hôi, muối hạt, nước, gậy cơi lửa…)
· Phụ trách việc chuẩn bị đống lửa
· Điều khiển ngọn lửa, tạo nên cảm xúc cho ngọn lửa bằng những kĩ xảo điều khiển cường độ ngọn lửa …
- Nhân sự phụ trách âm thanh, tiếng động … (thường là nhờ ban kĩ thuật của sa mạc)
- Nhân sự phụ trách trật tự vòng ngoài (thường là nhờ ban trực)
- Phân nhiệm các nhân vật lửa: Thông thường, trước khi ngọn lửa được châm đều có phần dẫn nhập bằng một đoạn Lời Chúa rồi có thể minh hoạ bằng hoạt cảnh nói lên ý nghĩa của đêm lửa bằng các nhân vật:
· Bóng đêm, quỷ, ma quái (màu đen )…
· Ánh sáng, Thiên Thần, Thần Mặt Trời, Giavê Thiên Chúa, Người tiền sử … (màu trắng)
- Phân công đội chuẩn bị mang củi, xếp củi, mang vật dụng kĩ thuật lửa (cát, tole, đuốc, dầu hôi, muối, giẻ mồi, cây gạt củi, con bọ, dây kẽm…)
- Phải sắp đặt sẵn sàng các dụng cụ cần thiết khác cho buổi lửa thiêng gần ngay địa điểm đốt lửa: Micro, loa, ánh sáng (đèn điện, đèn pile, hộp quẹt, nến nhỏ …), dụng cụ âm nhạc (đàn guitare, bộ gõ, cassette, trống, kèn, chiêng), nhớ có cả phần thưởng lửa thiêng cho buổi tổng kết (cần thiết liên hệ với ban quản lý sa mạc)
- Phân công ban giám khảo chấm điểm thi đua với các tiêu chuẩn: Nội dung, ý nghĩa, hóa trang, diễn xuất. Thang điểm mỗi tiêu chuẩn là 10 (nhớ có bảng chấm điểm cho Ban giám khảo )
- Phân công đội trực phục vụ vệ sinh vị trí đốt lửa và cả xung quanh sau khi kết thúc đêm lửa thiêng.
d. Địa điểm:
- Khu vực đốt lửa:
· Địa điểm an toàn, rộng rãi, phù hợp với số người tham dự
· Khu vực riêng biệt, tạo không gian và khung cảnh ấm cúng, bầu khí linh thiêng, tránh xa khu dân cư để tránh sự phá rối dòm ngó ồn ào của dân địa phương làm loãng ý nghĩa của đêm lửa vì đây không phải là đêm trình diễn văn nghệ thuần tuý.
· Tránh những khu vực nhạy lửa như: kho hàng, khu xăng dầu, rừng cỏ khô, khu nhà lá… Để ý tránh hỏa hoạn do tàn lửa bay ra.
· Xếp chỗ ngồi của quan khách sạch sẽ, cao ráo, ở phía đầu gió để tránh bị khói và nóng.
e. Kỹ năng chất củi, đốt lửa đêm Lửa thiêng:
- Nguyên tắc:
· Mọi việc đã sẵn sằng để tất cả quây quần bên đống củi đã chuẩn bị sẵn .
· Khi đuốc được châm vào đống củi, ngọn lửa phải bùng lên mạnh mẽ cùng với tiếng hò reo
· Ngọn lửa phải cháy xuyên xuốt, liên tục soi sáng cho các tiết mục văn nghệ cho đến khi kết thúc… Đó là một đêm lửa thiêng thành công
· Ngược lại, ngọn lửa cháy yếu ớt và chỉ bùng lên khi một vài túi dầu hôi được quăng vào, lửa leo lét tăm tối đó là một đêm lửa thất bại dù quản trò, quản lửa hay các đội đã cố gắng diễn xuất các tiết mục cách hoàn chỉnh .
- Kỹ thuật :
· Chất lượng củi:
+ Củi thường được chọn là củi khúc, chắc nặng và khô. Củi càng nặng (chắc) cháy lâu có than, củi nhẹ cháy mau tàn. Lưu ý các loại củi xốp không nên sử dụng vì cháy yếu và khói nhiều
+ Củi xếp lý tưởng khoảng 50cm - 70cm
· Cách xếp củi:
+ Kiểu hình nón: kiểu sắp xếp củi chụm trên đầu chụm lại và dưới chân loe ra, củi nhỏ và khô ở trong nón, củi lớn ở ngoài.
+ Hình tứ diện: kiểu xếp hình nón ở trong, giữa bằng củi nhỏ và khô, bên ngoài xếp thành hình vuông hai củi ngang, hai củi dọc, cứ thế mà chồng lên nhau, bọc lấy nhau, cao dần lên cho khuất chỏm hình nón
+ Hình lục lăng: Xếp hình nón trong giữa như trên và bên ngoài bao bọc bằng củi lớn xếp hình tam giác xéo nhau cao dần lên
+ Hình bát giác: Như kiểu tứ diện song các hình vuông xéo nhau chia thành tám cạnh.
+ Cây đình liệu: Là hình thức các tổ chức lửa thiêng lớn, ở thành phố thì có thể là cây pháo bông, toàn pháo xì hoa từ thân đến đầu (cao tới 3-4m trở lên) cho cháy lâu hàng giờ để vừa xem vừa ăn uống chơi vui trò chuyện với nhau. Ở ngoài thiên nhiên ta có thể làm cây đình liệu bằng cách xếp đống lửa trước bằng cả thân cây (không chặt nhỏ) cao từ 2 -5m. Kiểu này hay xếp theo hình nón và cần đến các cây đều nhau, cây cần khô và có nhựa như cây thông hoặc thuộc loại dễ cháy, muốn cho cây cháy ngay và sáng rực rỡ từ đầu đến chân, ta có thể phết nhựa thông, nhựa trai vào quanh thân cây, nhớ đừng quên xếp củi hình tứ diện, lục lăng hay bát giác ở dưới cùng để nuôi lửa, các trường Đại học, Trung học lớn hay làm lối này khi mãn khóa hay khai khóa vì quá đông.
+ Cho cát vàng khô (hoặc giẻ rách vụn) vào một chậu hoặc lon (lớn nhỏ tùy thích) rồi đổ dầu hôi vào lúc châm lửa là cháy liền, để chậu hoặc lon vào trong lòng đống củi để khi chủ tọa châm lửa là châm vào chậu hoặc lon này cho lửa cháy bắt lên củi bên ngoài .
· Hướng gió:
Lửa cháy được là nhờ thông thoáng, nếu như ta chất củi kín mít không thông thoáng lửa sẽ không cháy được, hoặc cháy sẽ yếu ớt vô cùng. Do đó, ta phải tìm và xác định hướng gió để “mở miệng củi”. Có nhiều cách để xác định hướng gió :
+ Nhìn ngọn cây, khói, tung lá khô …
+ Thực tiễn nhất, ta dùng nước bôi lên lưng bàn tay, sau đó ta xoay bàn tay, hướng nào mà ta cảm thấy lưng bàn tay mát nhất chính là hướng gió.
Sau khi xác định được hướng gió, ta xếp củi sao cho có một lỗ lớn xoay ra hướng gió (họng củi, miệng củi) để khi cháy sự thay đổi áp suất không khí sẽ hút gió vào đống củi, lửa có không khí sẽ bùng cháy. Nhưng cần lưu ý phải là gió vừa, chứ nếu gió quá mạnh lại phải đổi lỗ hang châm lửa về phía ngược lại
· Mồi lửa: Không thể đốt ngay một đống củi lớn bằng một ngọn đuốc, vì thế, chúng ta cần chuẩn bị mồi lửa cho thật tốt. Thông thường, dùng: giẻ tẩm dầu, vỏ dừa khô, vụn gỗ bào (dăm bào) hoặc những cành củi nhỏ (không nên dùng vỏ xe vì khi cháy tạo ra khói độc)
· Búi nhùi: Làm bằng cách lấy một que củi khô, tước ra hoặc chẻ ra thành nhiều xớ. Sau đó nhét giẻ vụn tẩm dần vào chỗ đã tước ra, rồi chuốt dần nhọn cây củi và đóng xuống đất, giữa đống củi.
· Ống dầu: Đặt một cây tre cắt đầu vào giữa đống củi, đầu ống tre chứa dầu, miệng ống tre móc với vài cọng kẽm đã được xe vải vụn thả xuống đất
· Củi phải chuẩn bị đủ cho thời gian sinh hoạt, tuỳ theo chất lượng, loại củi mà dự trữ. Thông thường để lửa chiếu sáng trong một tiếng cần 0.5 m3 củi.
· Khi đốt lửa trên nền xi măng, cần phải trải cát dày bên dưới, đặt lên trên một tấm tole, trải thêm lớp cát sau đó mới chất củi lên trên (tránh làm hư nền xi măng) còn trên nền đất thì chọn chỗ đất khô, có thể lót nền bằng ít tro khô, cát khô nếu không có thì một ít mồi lửa đã nói ở trên rồi bắt đầu xếp củi
· Cách tô màu cho lửa:
Nhằm mục đích thẩm mỹ và tăng phần hào hứng cho buổi Lửa thiêng.
+ Làm khói: Ném vào đống lửa đang cháy rực một ít cỏ tươi hay lá cây tươi (nhớ tránh khói quá nhiều làm cay mắt sa mạc sinh và quan khách)
+ Làm sáng rực: Ném vào lửa từng nắm rơm khô hoặc giấy cắt nhỏ hay các cây pháo bông nhỏ
+ Làm lửa đỏ: Ném vào lửa một nắm bột màu đen
+ Làm lửa vàng: Ném vào lửa nắm muối hay hạt nhựa
+ Làm lửa xanh lục : Ném vào lửa một nắm bột sulfate de cuivre, giấy bạc
+ Làm lửa xanh lơ: Ném vào lửa một nắm bột Zinc (vẫn đánh giày mũi trắng )
Dùng loại bột thật khô, không pha trộn các loại bột lại với nhau gây nổ và không để các loại bột gần lửa.
f. Các chuẩn bị khác:
- Để bắt đầu buổi Lửa Thiêng Thánh Thể tất cả đều phải chuẩn bị trước tới giờ khai mạc là phải sẵn sàng.
- Các sa mạc sinh phải rành rẽ về mọi nghi thức của đêm Lửa Thiêng (tập họp, Khai mạc, Gọi lửa, Múa Chào lửa thiêng, Bế mạc …) (Trước đó nên có giờ ôn lại)
- Các nội dụng văn nghệ của đêm Lửa Thiêng được các đội chuẩn bị trong lúc họp đội ở Sa mạc
- Chuẩn bị dụng cụ để hoá trang thật tốt, sẵn sàng cho buổi diễn. Nên hoá trang theo chủ đề của đêm Lửa Thiêng hay nội dung tiết mục đội mình diễn. Về hoá trang cá nhân, các sa mạc sinh không được ăn mặc lôi thôi, bẩn thỉu, lố lăng, lập dị. Có thể chít khăn lên đầu, khoác một áo choàng gọn nhẹ, cũng có thể hoá trang thành nhân vật nổi bật nào đó, có thể làm mặt nạnhưng làm sao cho tiện, giản dị, tránh luộm thuộm, cầu kỳ, cồng kềnh, cản trở các sinh hoạt trong Đêm Lửa Thiêng.
V. DIỄN TIẾN CỦA ĐÊM LỬA THIÊNG THÁNH THỂ:
1. Sửa soạn:
- Trời tối (thường tiến hành lúc 19h30), đống ủi đã được xếp sẵn, trưởng Trực cho các đơn vị im lặng lần lượt đến vị trí quanh đống củi (thường là hình tròn, nếu số lượng đông có thể hai, ba vòng tròn) với y phục hoá trang
- Đại diện mời các trưởng và quan khách
- Trưởng Trực hô “Chào” các Trưởng và quan khách
- Sau đó, trưởng Trực bàn giao lại nhiệm vụ cho Trưởng Tổ chức Đêm Lửa Thiêng.
2. Nghi Thức Khai Mạc:
- Mọi người đứng nghe đọc một đoạn lời Chúa về đề tài lửa, ánh sáng hay tối tăm: St 1,1-5; Tv 18,8-15; Xh 3,1-3; Ga 1,1-9; Cv 2,1-4;….
- Người hướng dẫn hay Cha Tuyên uý hoặc Đoàn trưởng sẽ nói qua về ý nghĩa của Lửa hoặc về sự tối tăm, ánh sáng (Có thể diễn hoạt cảnh tăm tối và ánh sáng để gọi lửa cũng như hát múa các bản nhạc về gọi lửa nhưng đây không phải là bài hát chính thức)
- Tiếp theo là hát bài ca “Gọi Lửa Thiêng”. Mọi người hát gọi lửa mỗi lúc một nhanh và dồn dập như mong đợi (hát 3 lần hoặc hơn cho tới khi ánh lửa được châm) (phụ họa thêm bằng tiếng trống, tiếng chiêng)
- Trong khi đó, Đoàn trưởng, Cha Tuyên uý hay vị quan khách cao cấp nhất được mời châm lửa thiêng (cũng có thể dùng các hình thức khác cho việc châm lửa thiêng như dùng con bọ phóng lửa xuống, rước lửa từ nơi đền thờ hay nhà thờ ra, rước kiệu lửa từ ngoài vào, châm lửa. Tất cả vũ bài “Chào Lửa Thiêng”
3. Nội dung:
Nói lên được tinh thần ý nghĩa của mỗi ngành: Ấu- yêu thương, Thiếu-Thân hữu, Nghĩa-Đại nghĩa … qua các chủ đề rút ra từ Kinh Thánh hay cuộc sống gia đình, học đường, xã hội. Các tiết mục này cần liên tục mang ý nghĩa giáo dục và xây dựng cao đẹp.
*Lưu ý: Để nội dung buổi lửa thiêng Thánh Thể thành công ta phải :
- Chuẩn bị kĩ lưỡng nghĩa là tập dợt, xếp đặt, so sánh, lo liệu cẩn thận.
- Phải uyển chuyển, nhịp nhàng, thay đổi sao cho mới lạ, vui vẻ, linh hoạt từ đầu đến cuối mà vẫn có liên hệ mạch lạc. Đừng hấp tấp vội vàng mà cũng không chậm chạp lờ đờ.
- Gây hào hứng, hấp dẫn nhưng làm cho nội tâm các Sa mạc sinh hướng thượng về Thiên Chúa tình yêu
- Cố gắng hoàn thiện, hoàn mỹ tất cả các tiết mục của Lửa Thiêng Thánh Thể về cả phẩm lẫn lượng nghĩa là hết sức hoàn hảo.
4. Bế Mạc:
- Lửa tàn, cuộc vui chấm dứt, mọi người đứng lên, tiến sát quanh đống lửa (nhớ chỉnh lại vòng tròn)
- Trưởng Tổ chức nói vài lời cám ơn quan khách
- Mời Cha Tuyên uý (hay vị cao cấp nhất) nói đôi lời về ý nghĩa “Mang Lửa Về Tim”, đoạn ban phép lành, đọc kinh tối. (lấy lửa từ đống lửa) Đốt nến cho từng người (chuẩn bị nến)
- Hát bài “Mang Lửa Về Tim” (hát 3 lần), các đội tuần tự rời vòng tròn, tay cầm nến cháy trở về lều. Tiếp tục vừa đi vừa hát nhỏ dần, yên lặng, nghỉ đêm, cần giữ một khoảng không gian thật lắng đọng.
- Ban điều hành Sa mạc và quan khách tách khỏi hàng đứng tiễn sa mạc sinh cho đến khi người cuối cùng đi khỏi .
*Lưu ý: Có chương trình dự trù đề phòng trời mưa.
VI. MỘT SỐ LƯU Ý :
- Quản trò cần có một cuốn sổ tay ghi chép rõ ràng, rành mạch mọi chi tiết của tổ chức Lửa Thiêng Thánh Thể: các tiết mục xen kẽ trong buổi Lửa Thiêng Thánh Thể, các bài hát, các bài múa, các trò chơi, các truyện ngắn, các vở kịch, các băng reo, tiếng động, các bài thơ, câu đố và các kiểu y phục hoá trang, mặt nạ, bài trí cây cối, thú vật… Sổ tay cũng ghi lại các kỷ niệm, các ngày tháng đặc biệt đáng nhớ, lý do của mổi Lửa Thiêng Thánh Thể và tất cả mọi ý kiến cải tổ, xây dựng, phê bình, rút kinh nghiệm, nhận xét về Lửa Thiêng Thánh Thể.
- Về thứ tự các tiết mục văn nghệ và các cuộc chơi, nên để dành các tiết mục, các cuộc chơi lại phần cuối chương trình
- Tránh quan niệm lửa thiêng là một buổi vui chơi, pha trò hay một buổi trình diễn văn nghệ thuần tuý. Mọi sinh hoạt cần hướng về chủ đề hoặc là những sinh hoạt lành mạnh, tránh những hoạt náo giễu cợt, rẻ tiền.
- Mọi sự hoá trang chuẩn bị của các Đội phải được lo liệu từ trước khi buổi Lửa Thiêng diễn ra. Tránh tình trạng cả Đội bỏ vòng tròn đi chuẩn bị cho tiết mục
- Lửa Thiêng Thánh Thể là một sinh hoạt giữa các sa mạc sinh và ban điều hành cùng một lý tưởng, vì thế tất cả mọi người phải tham dự nhiệt tình. Tất cả luôn duy trì vòng tròn khép kín quanh đống lửa, trừ trường hợp phải di chuyển làm nhiệm vụ
- Quản trò là linh hồn của buổi Lửa thiêng đóng vai trò người trưởng điều khiển: vừa là một nhạc trưởng biết điều khiển chương trình, người chỉ huy làm sống động buổi Lửa Thiêng. Quản trò cần được trang bị nhiều tài mọn, có óc hài hước, linh hoạt, cần sắp xếp các tiết mục cho phù hợp, lúc cao điểm thì không khí phải thật sôi động, hào hứng và giảm dần cường độ khi gần kết thúc, tránh kết thúc quá đột ngột.
Việc dẫn chuyển tiếp giữa các tiết mục phải thật khéo léo, có duyên, đừng lố bịch, tránh thời gian chết giữa các tiết mục. Muốn như thế quản trò cần điều phối thật kĩ chương trình (kịch bản), kể cả các tiết mục xen kẽ sao cho vui tươi sinh động nhưng không làm phá vỡ sự liền mạch của chương trình, làm lạc hướng chủ đề đêm Lửa Thiêng. Quản trò có thể mời thêm các trưởng khác tiếp tay để tránh đơn điệu, độc diễn ..
- Quản trò, quản ca là những người được phép xuất hiện trong vòng lửa, để tiếp nguyên liệu cho ngọn lửa nhưng cần hạn chế đi lại khi các tiết mục đang trình diễn. Quản lửa cũng cần nắm vững nội dung các tiết mục để tạo kĩ xảo cho lửa khi cần thiết. Tất cả những ai muốn tham gia hoạt náo đều phải được sự cho phép và sắp xếp của quản trò, tránh thời gian chết giữa các tiết mục.
- Một đêm lửa thiêng không nên quá kéo dài. Cả chương trình cũng thế, nên đúng giờ vì lâu quá sẽ làm mất hay, thêm nhàm chán.
- Diễn viên các tiết mục có thể diễn quanh đống lửa và nên diễn ở phía trên gió (không có khói), đối diện với quan khách, cũng là phía dành cho quan khách
- Người lên chương trình phải dự kiến cả tình huống xấu như hoả hoạn, mưa gió mạnh, phá hoại,… để đối phó, cứu chữa, sơ tán, cấp cứu, ổn định tình hình kịp thời.
- Sau khi kết thúc buổi Lửa thiêng phải thu nhặt dụng cụ, tắt lửa trong im lặng.
- Rút ưu khuyết điểm đêm Lửa thiêng Thánh Thể trong cuộc họp Đội trưởng với ban điều hành ngay trong cuộc họp đánh giá hoạt động ở sa mạc (cùng lắm qua ngày hôm sau khi sa mạc chưa kết thúc)
VII. KẾT LUẬN
Lửa thiêng Thánh Thể là một sinh hoạt vui tươi, có mục đích giáo dục, đòi hỏi mọi sa mạc sinh phải cố gắng cộng tác. Qua sinh hoạt này các sa mạc sinh thể hiện tình đoàn kết thân hữu, niềm vui, liên kết mọi người trong tình thương vô bờ bến của tình yêu Thiên Chúa.
--- oOo ---
Bài 16: Chương trình sinh hoạt dài hạn cho đoàn
I.- DẪN NHẬP.
Bất cứ tổ chức, đoàn thể nào đều có chương trình làm việc dài hạn. Chương trình sinh hoạt dài hạn là bảng liệt kê những việc cần làm của một người, một đoàn thể, thậm chí, của cả một quốc gia. Chương trình dài hạn có thể là một, hai hoặc năm năm tuỳ theo tầm cỡ của đoàn thể, tổ chức và mục đích họ muốn đạt được.
Đối với đoàn TNTT, chương trình dài hạn là bảng liệt kê những việc đoàn sẽ thực hiện trong thời gian nhất định sắp tới, thường là một năm, để qua đó, đoàn xác định con đường phải đi và mục đích mình mong muốn đạt được trong thời gian nhất định. Qua chương trình dài hạn, mọi thành viên biết đoàn mình sẽ làm gì trong thời gian tới, trong năm tới hay những năm tới để có hướng hoạt động cho phân đòan, chi đoàn của mình, cũng để sắp xếp thời gian cá nhân hầu tham gia việc chung, và có mục tiêu để nhắm tới.
Đề ra chương trình làm việc dài hạn là nhiệm vụ của người đứng đầu tổ chức, của nhà lãnh đạo, đoàn trưởng.
II.- SOẠN CHƯƠNG TRÌNH DÀI HẠN
Muốn đề ra chương trình dài hạn đoàn trưởng cần:
- Nhớ mục đích chính của đoàn TNTT là giáo dục thiếu nhi về hai phương diện siêu nhiên và tự nhiên, để các em trở nên những Kitô hữu hoàn hảo và những con người kiện toàn, đồng thời đoàn ngũ hoá và hướng dẫn các em truyền thông Tin Mừng và góp phần xây dựng xã hội. Mọi hoạt động trong chương trình đều phải nhắm góp phần từng bước đạt được mục đích nêu trên.
- Khách quan nhận định xem, đoàn đang ở vị trí nào trên đường đạt tới mục đích, để từ đó hình dung viễn ảnh và đưa ra chương trình làm việc nhằm làm hiện thực viễn ảnh đó.
* Về thể lệ, đoàn trưởng cần lần lượt làm những việc chính yếu sau:
. Trình bày ý hướng về đoàn trong thời gian tới với cha tuyên uý và xin ý kiến chỉ đạo;
. Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của cha Tuyên uý, đoàn trưởng phác thảo ít nét về chương trình dài hạn với các huynh trưởng trong ban điều hành và hội đồng huynh trưởng để xin các trưởng góp ý. Rồi tổng hợp ý kiến để dự thảo một chương trình dài hạn.
. Trình bày chương trình dự thảo tương đối chặt chẽ trước các huynh trưởng để xin bổ xung và hoàn chỉnh bản dự thảo.
. Khi tạm hoàn chỉnh, đoàn trưởng nộp bản dự thảo, xin cha tuyên uý duyệt, sửa chữa, cho đến khi cha Tuyên uý chấp thuận cho phổ biến, chương trình mới được kể là chính thức của đoàn và mới được đưa ra thực hiện.
* Về phương pháp, theo kinh nghiệm chung, để lên chương trình dài hạn cho đoàn, đoàn trưởng cần căn cứ vào những vấn đề sau đây:
1. Tình hình hiện thời của đoàn:
Nhận định tình hình hiện tại của đoàn để thấy những điểm mạnh, điểm yếu, điểm thiếu, điểm thừa, điểm cần đạt đến. Từ đó vạch ra chương trình gồm những việc cần làm và ấn định thời gian thực hiện những việc làm đó.
2. Khả năng hiện tại của đoàn hiện nay đối với việc thực hiện chương trình dài hạn:
“Liệu cơm gắp mắm”, chương trình dài hạn không phải là bức tranh được vẽ từ sự tưởng tượng, nhưng phải bắt đầu từ tình hình cụ thể và nhu cầu thực tế, phải có tính khả thi, nghĩa là chương trình nhằm đáp ứng những vấn đề và nhu cầu có thực của đoàn. Kế hoạch thực hiện phải phù hợp khả năng hiện có và dự kiến có của đoàn về nhân sự, phương tiện, tài chánh v.v… Như thế mới mong gặt hái được kết quả.
3. Nội dung chương trình dài hạn của đoàn:
Chương trình dài hạn bao giờ cũng ưu tiên thực hiện Chương Trình Thăng Tiến và sinh hoạt thường xuyên của đoàn như: giáo lý, phong trào, kỹ năng chuyên môn và các sinh hoạt thường xuyên như hội họp, huấn luyện bồi dưỡng huynh trưởng và tông đồ đội trưởng, lễ tuyên hứa, thăng cấp đoàn sinh và đội trưởng, những ngày lễ quanh năm trong giáo xứ mà đoàn có bổn phận tham gia như lễ quan thày cha xứ, cha tuyên uý.
Kế đến là các chương trình không thường xuyên như các chiến dịch thi đua, công tác từ thiện dự trù sẽ thực hiện.
Cuối cùng là thời gian phòng hờ những sự cố đột xuất. Nếu vào thời điểm phòng hờ không có sự cố, có thể dùng thời gian phòng hờ đó vào việc ôn tập hoặc những sinh hoạt khác.
Lưu ý:
- Chương trình thăng tiến của Liên đoàn gồm Giáo lý, Phong trào, kỹ năng chuyên môn đã được soạn và phân chia sẵn trong tài liệu của Ban Mục Vụ Thiếu Nhi Giáo Phận. Đoàn trưởng dựa vào đó và căn cứ vào tình hình thực tế của đoàn mình mà linh động sắp xếp, phân phối sao cho thích hợp.
- Đoàn trưởng cũng nên tham khảo lịch phụng vụ, chương trình sinh hoạt của giáo xứ, hiệp đoàn và liên đoàn, để những sinh hoạt của đoàn mình không gặp khó khăn vì sự trùng lắp về thời gian.
- Chương trình dài hạn thường được tính theo năm phụng vụ nên các kế hoạch cũng được lần lượt sắp xếp theo lịch phụng vụ. Phải lưu ý những ngày lễ nghỉ trong đạo cũng như ngoài đời ngày thi, mùa thi ở trường phổ thông hoặc đại hoạc để tránh bị ảnh hưởng.
4. Khởi Đầu, Thực Hiện, Kết Thúc:
- Khởi động chương trình nên tổ chức khai mạc trang trọng nhằm tạo cho đoàn sinh vui vẻ hăng hái tham gia chương trình và gây ấn tượng nơi các em.
- Suốt thời gian thực hiện chương trình, mọi hoạt động của đoàn phải được tiến hành nhịp nhàng đều đặn, nhưng không “đều đều”: Cần có điểm dừng để thư giãn (dã ngoại, trại hè, tham quan…), có điểm nóng để đẩy mạnh (chiến dịch thi đua, công tác từ thiện…)
- Kết thúc chương trình, nên có lễ tổng kết. Khen thưởng và kỷ luật, tổ chức sao cho gây được ấn tượng và tạo sự phấn khởi làm đà cho chương trình sau.
Sắp xếp chương trình để các việc làm có mối liên hệ qua lại: việc trước chuẩn bị cho việc sau; việc sau hoàn thiện việc trước. (Td: huấn luyện huynh trưởng trước để huynh trưởng có khả năng huấn luyện đội trưởng; Trong quá trình huấn luyện đội trưởng, huynh trưởng sẽ tự học và thăng tiến khả năng).
5. Phân Công, Phân Nhiệm Thực Hiện Chương Trình:
Đoàn trưởng là người điều phối việc thực hiện chương trình. Đoàn trưởng phải thấy rõ khả năng về nhân sự nói chung. Trước khi soạn chương trình, phải thấy khả năng chuyên môn của từng người để giao công tác. Nghĩa là công việc phải tương hợp với lượng nhân sự của đoàn, tính chất công việc phải phù hợp với khả năng người được giao. Có chương trình, kế hoạch mà không có người làm việc, chương trình sẽ không thực hiện được.
Mỗi phần việc được phân công rõ rệt cho từng người, còn phải xác định tương quan công việc để có thể phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau. Việc phân chia công tác cho từng người chỉ nhằm đạt hiệu quả tối đa, chứ không nhằm tạo ra những khối công việc và khối người biệt lập.
“Nhân vô thập toàn” khó có thể có một chương trình hoàn hảo 100%. Trong thời gian thực hiện chương trình, Ban chấp hành theo dõi để thấy chỗ thiếu mà bổ sung, chỗ không hợp lý mà điều chỉnh.
6. Những Phương Tiện Cần Để Thực hiện Chương Trình:
Mỗi việc làm đều đòi hỏi một số phương tiện nhất định để hoàn thành. (Thi đua cần có phần thưởng, phần thưởng cần có tiền; cắm trại cần có lều bạt, xe di chuyển; công tác từ thiện cần có người, và tiền để giúp đỡ…) Khi lập chương trình dài hạn, đoàn trưởng cần biết trong tay mình có phương tiện tới đâu. Nếu không, phải vận động thế nào, ở đâu ra… để thực hiện chương trình. Có chương trình mà không có phương tiện là không có gì cả.
7. Tiên Liệu Những Trở Ngại Phải Vượt Qua:
Khi soạn chương trình, đoàn trưởng phải thấy trước những trở ngại về nhân sự hay phương tiện, để chuẩn bị sẵn chương trình thay thế hoặc điền khuyết.
Với những sự cố có thể thấy trước, nhưng chưa xẩy ra (có huynh trưởng sẽ đi tu, lập gia đình hoặc du học v.v…), đoàn trưởng có kế hoạch chuẩn bị người thay thế hoặc điền khuyết.
Đối với những biến cố không thể thấy trước (thuyên chuyển cha Tuyên uý, trường hợp ma chay, bệnh hoạn …) đoàn trưởng không thể chuẩn bị trước, nhưng cần có sáng kiến, bình tĩnh và linh hoạt để đối phó khi sự việc bất ngờ xẩy đến
8. Những Yếu Tố Khác:
Sinh hoạt của đoàn không thể hoàn toàn biệt lập, nhưng còn có liên quan và tuỳ thuộc vào người và môi trường xung quanh như cha Xứ, cha Tuyên uý, Hội đồng mục vụ giáo xứ, phụ huynh, chính quyền địa phương.v.v…
Vì thế chương trình dài hạn của đoàn phải:
- Phù hợp với chủ trương, kế hoạch mục vụ của cha xứ và cha Tuyên uý.
- Phù hợp với chương trình tổ chức của Hội đồng mục vụ giáo xứ
- Đáp ứng được mong đợi chính đáng của phụ huynh là những người mà chương trình dài hạn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến con em họ.
- Không gây trở ngại cho trật tự công cộng
Thiếu một trong bốn yếu tố này, chương trình dài hạn của đoàn sẽ gặp không ít khó khăn.
- Đoàn trưởng cũng cần biết chương trình tổng quát của Liên đoàn và Hiệp đoàn nhằm tránh những sinh hoạt trùng lắp.
9. Các Giai Đoạn Thực Hiện:
Vì là chương trình dài hạn, không nên chỉ đưa ra kế hoạch cách tổng quát, mà chi tiết bao nhiêu có thể. Chương trình dài hạn sẽ bao gồm nhiều chương trình ngắn hạn, với chi tiết và mục tiêu cụ thể hơn. Có thể chọn những mốc điểm quan trọng trong Năm Phụng Vụ như mùa Vọng, mùa Chay, mùa Phục Sinh v.v….. Như vậy, mỗi chương trình ngắn hạn là một bước tiến trong toàn bộ chương trình dài hạn. Chương trình càng ngắn càng chi tiết
Sau mỗi giai đoạn nên có sơ kết, và rút kinh nghiệm, nhằm xác định kết quả đạt được, cũng như nhận ra những gì chưa làm được để có kế hoạch bổ sung ở giai đoạn sau.
10. Tổng Kết Chương Trình Dài Hạn:
Là ghi nhận lại mức độ kết quả của từng giai đoạn thực hiện với những ưu, khuyết điểm trong việc thực hiện, về nhân sự cũng như về phương tiện.
Cần tuyên dương những người đã hoàn thành nhiệm vụ tốt; Thông cảm, khích lệ và nâng đỡ những người chưa làm tốt vì nhiều nguyên nhân; Tìm nguyên nhân của sự thiếu sót nhằm đưa ra phương cách cải tiến cho chương trình sau.
Cần nhìn thẳng vào sự thật, khiêm tốn ghi nhận ưu điểm; chân thành nhận khuyết điểm cũng như những yếu kém của mình và cố gắng tốt hơn trong thời gian tới.
Tuyệt đối tránh bệnh “tôn thờ thành tích”, “giả hình” và “tự dối mình”. Sau khi tổng kết, mọi người phải hiểu rằng kết quả là của chung, mọi người có quyền vui chung với thành công; Thiếu sót cần được tha thứ, mọi người đều có trách nhiệm, phải cùng nhau cố gắng hoàn thiện. Không tự mãn cá nhân, cũng không đùn đẩy trách nhiệm.
Kiểm điểm phải là cách giúp nhau thăng tiến, không bao giờ để việc kiểm điểm thành cái cớ làm mất mặt, gây chia rẽ, bè phái và phản giáo dục.
Cần lưu lại chương trình dài hạn của từng năm, ghi chú thành quả và thiếu sót để làm tài liệu tham khảo, và đối chiếu sau này.
III- LỢI ÍCH CỦA CHƯƠNG TRÌNH DÀI HẠN
Ngoài hiệu quả về công việc, làm việc có chương trình còn có ý nghĩa giáo dục là:
- Giúp phát triển phương pháp làm việc có thứ tự, có tính toán, có tổ chức.
- Giúp phát triển kỹ năng giao tế, tinh thần hợp tác.
- Giúp phát triển tinh thần kỷ luật và trách nhiệm
- Giúp mỗi người thấy mình trong tập thể và thấy tập thể chung quanh mình.
- Giúp đoàn trưởng tập nhìn xa trông rộng và phát triển kỹ năng điều hành sự và óc tổ chức.
--- oOo ---
Bài 17: Tổ chức và điều hành đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể
I.- TỔ CHỨC ĐOÀN
Đoàn là đơn vị quan trọng trong hệ thống tổ chức của Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể, là nơi thể hiện bản chất của Phong trào cả về cơ cấu nhân sự, nội dung giáo dục lẫn các hoạt động chuyên môn. Tại đoàn có mọi thành phần: Đoàn sinh; đội trưởng, đội phó; huynh trưởng các cấp, Trợ úy, Tuyên úy. Đoàn ở các nơi được tổ chức hoàn chỉnh, giáo dục đúng hướng sẽ góp phần tạo nên phong trào TNTT vững mạnh.
Vì Đoàn quan trọng nên cần được tổ chức có hệ thống và quy mô:
- Tất cả các thiếu nhi trong độ tuổi từ 6 đến 16 tuổi trong giáo xứ được đoàn ngũ hoá thành một tổ chức chuyên biệt nhằm mục đích giáo dục thiếu nhi gọi là Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể.
- Thiếu nhi là tuổi đang lớn, đang tiến đến trưởng thành. Các em thay đổi và phát triển từng ngày. Mỗi giai đoạn phát triển các em cần được giáo dục bằng nội dung và phương cách thích hợp. Do đó, tuỳ theo lứa tuổi, đoàn sinh TNTT được chia thành các ngành:
. Ngành Au: các em nam nữ từ 7-9 tuổi. Cứ 8-10 em cùng phái, cùng lứa tuổi thành mộtĐỘI. Cứ 3 hoặc 4 đội cùng phái hợp thành một CHI ĐOÀN. Các chi đoàn hợp thành PHÂN ĐOÀN. Giáo xứ có nhiều đoàn sinh, có thể có 2 hoặc 3 phân đoàn cùng ngành.
. Ngành Thiếu: các em nam nữ từ 10-12 tuổi. Từ 8-10 em cùng phái, được tổ chức thành một ĐỘI. Cứ 3 hoặc 4 đội cùng phái hợp thành một CHI ĐOÀN. Các chi đoàn hợp thành PHÂN ĐOÀN. Giáo xứ có nhiều đoàn sinh, có thể có 2 hoặc 3 phân đoàn cùng ngành.
. Ngành Nghĩa: các em nam nữ từ 13-15 tuổi. Từ 8 đến 10 em cùng phái thành một ĐỘI.Cứ 3 hoặc 4 đội cùng phái hợp thành một CHI ĐOÀN. Các chi đoàn nam và nữ cùng ngành hợp thành PHÂN ĐOÀN.
. Ngành Hiệp sĩ: các em nam nữ từ 16-17 tuổi. Từ 6-8 em cùng phái thành một ĐỘI. Cứ 3 hoặc 4 đội cùng phái hợp thành một CHI ĐOÀN. Các chi đoàn nam và nữ cùng ngành hợp thành PHÂN ĐOÀN.
Các Phân đoàn trong một xứ họp thành ĐOÀN hay còn gọi là XỨ ĐOÀN.
Hiện nay để chuẩn bị cho các em được học giáo lý sớm hơn, nhiều nơi đã thành lập một ngành cho các em dưới tuổi ấu, gọi là ngành Chiên Con, và đang gặt hái nhiều thành công.
II.- SINH HOẠT ĐOÀN
· Sinh hoạt hàng tuần:
- Họp chi đoàn: Do Chi đoàn trưởng chủ toạ và các trưởng trong chi đoàn cộng tác. Chương trình họp chi đoàn đã được hướng dẫn trong Tài Liệu Huấn Luyện Huynh Trưởng Cấp I. Nội dung chính yếu của một buổi họp chi đoàn là:
. Học Giáo lý, Phong trào, kỹ năng chuyên môn. Chi đoàn trưởng và các trưởng chi đoàn đảm trách việc dạy đoàn sinh. Có thể có các trợ uý hỗ trợ.
. Phổ biến thông tin và thi hành những quyết định do cấp trên phân công, hoặc bàn về sinh hoạt riêng của chi đoàn.
- Họp đội: Do đội trưởng chủ toạ. Nội dung chính yếu của một buổi họp đội là: Ôn tập, nhắc nhở những điều đã học trong buổi họp chi đoàn. Bàn việc thi hành các công tác do cấp trên trao cho và các việc của đội.
- Huấn luyện Tông đồ đội trưởng: Đây là công tác không thể thiếu trong sinh hoạt đoàn. Các Tông đồ đội trưởng phải được huấn luyện thường xuyên và nâng cao không ngừng: về giáo lý, phong trào và kỹ năng chuyên môn trước khi cùng học với đoàn sinh, giúp Tông đồ đội trưởng hiểu biết trước và hiểu nhiều hơn để có thể ôn tập cho đội viên của mình.
. Đoàn phó nội vụ và các trưởng, có nhiệm vụ huấn luyện Tông đồ đội trưởng. Cha Tuyên úy cùng với các Trợ úy và Ban điều hành lo công tác thường huấn cho các Trưởng.
- Giờ Thánh Thể:
. Thường được tổ chức vào một tối trong tuần tuỳ hoàn cảnh của đoàn. Đoàn trưởng, đoàn phó nội vụ và trưởng phụ trách phụng vụ soạn và tổ chức, có sự giúp đỡ của các trợ uý.
. Trong giờ Thánh Thể hàng tuần, nên giúp các em xét mình, sám hối và xưng tội, mỗi ngành xưng tội một tuần để tránh tình trạng quá đông.
- Thực hiện hoa thiêng:
. Đoàn sinh thực hiện hoa thiêng cá nhân hàng ngày, Chúa Nhật góp lại cho đội trưởng. Hoa Thiêng được tổng kết theo hệ thống Chi đoàn, Phân đoàn, Đoàn và dâng trong Thánh lễ Chúa Nhật.
- Tuần liễm đoàn sinh: Tuần liễm là tiền quỹ do đoàn sinh góp hàng tuần. Mức góp tuần liễm do ban Quản trị ấn định tuỳ hoàn cảnh của đoàn.
Việc thu tuần liễm hay nguyệt liễm chỉ nhắm vào mục đích giáo dục ý thức trách nhiệm xây dựng đoàn là chính; tuần liễm hay nguyệt liễm không phải là nguồn chi phí chính của đoàn. Số tiền này nên tích góp và xử dụng vào những phúc lợi trực tiếp cho các em (thăm đoàn sinh, đội trưởng, huynh trưởng hoặc phụ huynh đau yếu; Xuất du; Liên hoan…)
· Sinh hoạt hàng tháng:
- Chào cờ đầu tháng.
. Chào cờ đầu tháng thường được cử hành trước giờ học giáo lý hay lễ Chúa Nhật, do cha Tuyên uý chủ toạ.
. Câu chuyện dưới cờ của cha Tuyên uý nhắm: Công bố ý cầu nguyện trong tháng và hướng dẫn thực hành ý cầu nguyện; Nhận xét ưu khuyết điểm tháng vừa qua và định hướng cho tháng tới; Khen thưởng, khích lệ.
. Trường hợp cha Tuyên uý vắng thì các trợ uý, hoặc chính đoàn trưởng nói câu chuyện dưới cờ.
- Họp Hội Đồng Huynh Trưởng Đoàn:
. Hội đồng huynh trưởng gồm tất cả các huynh trưởng sinh hoạt trong đoàn, do Cha Tuyên uý hay trợ úy chủ toạ; Đoàn trưởng hoặc đoàn phó dẫn chương trình; thư ký lập biên bản
. Duyệt xét tình hình các phân đoàn, đưa ra những chỉ đạo cần thiết; Triển khai công tác do Ban Quản Trị và Cha Tuyên Uý đã quyết định; Thông báo chương trình, kế hoạch của đoàn và phân chia công tác.
. Tham khảo ý kiến các huynh trưởng về những vấn đề của đoàn, làm tiền đề thảo luận và hoạch định chương trình trong buổi họp của ban quản trị vào tháng sau.
- Họp Ban Quản Trị.
. Ngày giờ họp nên cố định để các trưởng dễ sắp xếp công việc riêng, trừ khi có vấn đề nghiêm trọng.
. Cha Tuyên uý chủ toạ, đoàn trưởng điều hành chương trình. Sau khi thảo luận, quyết định cuối cùng là của cha Tuyên úy. Trước giờ họp, đoàn trưởng phải tổng hợp tình hình tổng quát của tất cả các phần vụ như huấn luyện, giao dịch, tài chánh, học tập đoàn sinh v.v…do các phân đoàn trưởng và các trưởng chuyên môn báo cáo.
. Đoàn trưởng báo cáo tình hình chung của đoàn trong tháng. Các trưởng phụ trách giải trình chi tiết nếu cần. Xét duyệt tình hình thực hiện công tác trong tháng.
. Thảo luận chương trình tháng tới;
. Khi cha tuyên uý không thể chủ toạ, Trợ uý hay đoàn trưởng chủ toạ buổi họp. Đoàn trưởng phải xin ý kiến chỉ đạo của ngài trước, và sau đó phải trình kết quả buổi họp lên cha Tuyên Uý xin duyệt và chấp thuận mới có giá trị thi hành.
- Sinh hoạt Huynh trưởng Phân đoàn:
. Do Phân đoàn trưởng chủ toạ: Duyệt xét tình hình các chi đoàn. Bàn định cách thực hiện công tác được cấp trên trao; Bồi dưỡng trưởng phân đoàn về những vấn đề chuyên môn của ngành;
. Mọi vấn đề của phân đoàn được phân đoàn trưởng và các chi đoàn trưởng bàn định trước khi phân công đến các trưởng trong phân đoàn.
- Bồi dưỡng huynh trưởng đoàn:
. Bồi dưỡng các huynh trưởng về các giáo lý, phong trào và các kỹ năng chung của nghề trưởng.
. Đoàn trưởng và ban quản trị đoàn bàn bạc nhằm đưa ra chương trình và nội dung bồi dưỡng phù hợp. Có thể mời thêm huấn luyện viên hoặc những nhà chuyên môn giúp huấn luyện.
- Nguyệt liễm huynh trưởng:
. Chỉ nhắm vào mục đích giáo dục ý thức trách nhiệm xây dựng đoàn; nguyệt liễm không phải là nguồn chi phí chính của đoàn. Số tiền này nên xử dụng vào những phúc lợi trực tiếp của các em (thăm huynh trưởng hoặc phụ huynh đau yếu; Xuất du; Liên hoan…)
. Mức độ đóng nguyệt liễm tuỳ thuộc hoàn cảnh địa phương và quyết định chung của đoàn; Thời điểm đóng nguyệt liễm tuỳ quyết định chung của đoàn.
· Sinh hoạt hàng năm:
- Các lễ lớn: Bổn Mạng đoàn, Giáng Sinh, Phục Sinh, Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu, bổn mạng cha xứ, cha tuyên uý….(Đoàn trưởng cần nghiên cứu kỹ bài khoá “Cách Tổ Chức Một Buổi Lễ” trong Tập tài liệu này)
- Chiến dịch thi đua (Tham khảo “tổ chức chiến dịch thi đua” trong sổ tay Huấn Luyện Huynh Trưởng cấp II) Tham gia sinh hoạt Hiệp đoàn, Liên đoàn, Giáo xứ
- Công tác từ thiện, Công tác giáo xứ, Hiếu hỷ...
III- ĐIỀU HÀNH ĐOÀN
1. NGUYÊN TẮC ĐIỀU HÀNH.
Nội Quy Tổng Liên Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam xác định: trực tiếp và toàn quyền điều hành đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể tại giáo xứ cũng như ở các cấp cao hơn là thuộc quyền các linh mục tuyên úy.
Trong thực tế, quyền này được các linh mục chia sẻ cho các trưởng tuỳ theo khả năng và đạo đức của họ trong việc trực tiếp điều hành đoàn.
Tất cả huynh trưởng trong đoàn họp thành Hội Đồng Huynh Trưởng Đoàn. Nhưng việc trực tiếp điều hành đoàn được trao cho một số huynh trưởng có khả năng, đạo đức trổi vượt, gọi là Ban quản trị đoàn.
Ban Quản trị gồm Đoàn trưởng, đoàn phó nội vụ, đoàn phó ngoại vụ, thư ký, thủ quỹ và các uỷ viên tuỳ theo nhu cầu của đoàn. Đoàn trưởng và đoàn phó do hội đồng huynh trưởng bầu lên; thư ký, thủ quỹ và các uỷ viên chuyên môn do đoàn trưởng, đoàn phó hội ý với cha tuyên uý chọn.
Nhiệm kỳ Ban Quản Trị Đoàn là 2 năm, được quyền tái ứng cử hoặc có thể được cha tuyên uý và hội đồng huynh trưởng đoàn quyết định lưu nhiệm toàn ban quản trị hoặc từng thành viên. Thời gian lưu nhiệm tuỳ quyết định của cha tuyên uý và hội đồng huynh trưởng. Trong trường hợp đặc biệt, cha tuyên uý sẽ chỉ định ban quản trị. Cha tuyên úy cũng có thể bãi nhiệm toàn bộ hoặc từng chức vụ trong Ban Quản Trị.
Điều kiện để tham gia ban quản trị đoàn là: Huynh trưởng cấp II trở lên. Tối thiểu 21 tuổi cho đoàn trưởng và 19 tuổi cho các chức vụ khác.
* Đoàn trưởng: là người trực tiếp điều khiển và chịu trách nhiệm về các sinh hoạt của đoàn dưới sự hướng dẫn của cha Tuyên Uý đoàn và sự cộng tác của các trợ úy
* Nhiệm vụ của đoàn trưởng
. Triệu tập, tổ chức, điều hành các buổi họp thường kỳ của đoàn. Khi tình hình đòi hỏi hoặc do cha Tuyên Uý chỉ thị, đoàn trưởng tổ chức, triệu tập và điều hành các buổi họp bất thường của đoàn.
. Soạn chương trình tổng quát cho đoàn. Lên kế hoạch chi tiết nhằm thực hiện chương trình tổng quát của đoàn. Điều phối chương trình sinh hoạt thường kỳ của đoàn. Lo công tác huấn luyện và bồi dưỡng cho huynh trưởng, dự trưởng và đội trưởng trong đoàn.
. Liên hệ công tác và ngoại giao với HĐMV, phụ huynh, các đoàn thể bạn trong và ngoài xứ. Theo dõi, nhận định, đánh giá, tổng kết sinh hoạt đoàn và báo cáo lên cha Tuyên Uý hàng tháng, hàng qúy hoặc hàng năm tuỳ tập tục của từng đoàn.
* Đoàn Phó Nội Vụ: Chia sẻ nhiệm vụ và trách nhiệm với đoàn trưởng về mọi sinh hoạt của đoàn. Thay thế khi đoàn trưởng vắng mặt. Điều phối các sinh hoạt thường kỳ của đoàn như hội họp, học tập, khảo sát định kỳ. Tổ chức các lễ nghi thường kỳ. Trực tiếp điều hành việc thực hiện Chương trình thăng tiến trong đoàn.
* Đoàn phó ngoại vụ: Chia sẻ nhiệm vụ và trách nhiệm với đoàn trưởng về mọi sinh hoạt của đoàn. Giao tiếp với các đoàn bạn, với phụ huynh,...
* Thư ký đoàn: Chia sẻ nhiệm vụ và trách nhiệm với đoàn trưởng về mọi sinh hoạt của đoàn. Cập nhật và lưu giữ hồ sơ hành chánh của đoàn. Ghi biên bản các buổi họp đoàn. Soạn và gửi các thông báo. Theo sát chương trình sinh hoạt để nhắc nhở ban quản trị.
* Thủ quỹ đoàn: Quản lý tài sản của đoàn, gồm tiền mặt và vật dụng. Lập, giữ hồ sơ thu chi, vật dụng của đoàn. Lập và đề nghị kế hoạch gây quỹ đoàn đề nghị lên ban quản trị và cha Tuyên Uý để được chấp thuận trước khi thi hành.
2. KỸ THUẬT ĐIỀU HÀNH ĐOÀN
Điều hành đoàn không phải chỉ dựa vào nguyên tắc, nhưng đoàn trưởng còn phải biết linh động như thế nào tùy nơi, tùy lúc, tùy đối tượng,… đó là vấn đề “kỹ năng” hay “nghệ thuật” điều hành.
1. Tổ chức:
- Hệ thống tổ chức đã được quy định cách tổng quát bởi Nội Quy Tổng Liên Đoàn. Đoàn trưởng nắm vững nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt, để giữ cho đoàn đi đúng đường lối và phương pháp tổ chức của Phong trào. Tuy nhiên không cứng nhắc và máy móc. Phải biết uyển chuyển, linh động theo hoàn cảnh riêng của đoàn.
2. Điều hành
Cha Tuyên Uý và ban quản trị phải luôn thống nhất về đường lối và phương pháp. Trong trường hợp có khác biệt và dẫn đến mâu thuẫn, việc đầu tiên là ban quản trị phải nhượng bộ rồi tìm cơ hội giải trình và thuyết phục.
Đoàn trưởng và ban quản trị như bóng với hình, do đó đoàn trưởng cần thường xuyên gặp gỡ, trao đổi với các thành viên ban quản trị nhằm tháo gỡ các khúc mắc vì lỗ nhỏ có thể làm đắm tàu. Ban quản trị phải nhất trí trước khi đưa vấn đề ra trước hội đồng huynh trưởng.
Ban quản trị không nói xấu nhau nhằm tạo thanh thế cho riêng mình. Trái lại hãy biết nhìn những ưu điểm của nhau, khéo léo và thành thực tạo uy tín cho nhau.
Phân công phân nhiệm để mỗi người góp phần tích cực hơn, chứ không nhằm tạo ra sự biệt lập, cục bộ. Đoàn trưởng phải nối kết các mảng chuyên biệt thành một thể toàn diện thống nhất. Ngoài khả năng chuyên môn, Đoàn trưởng cần có khả năng càng đa dạng càng tốt, để có thể “biết tất cả, nhưng không phải làm tất cả”, để là chỗ dựa, là gương mẫu cho mọi người noi theo.
Ban quản trị hiểu rõ quyền hạn và trách nhiệm của mình cũng như các chức vụ khác trong đoàn để tôn trọng nhau và duy trì sự hài hoà trong công việc chung. Tạo cơ hội thăng tiến cho các cộng sự viên. Phân công hoặc tiến cử đúng người, đúng việc. Công bằng, vô tư trong việc phân chia công tác và quyền lợi, để mọi người đều nhận thấy mình hữu dụng cho tập thể.
Ban quản trị là mối dây liên kết tương thân tương ái, là trung tâm đoàn kết, hợp tác giữa mọi thành phần trong đoàn. Ban quản trị luôn áp dụng phương pháp hàng đội trong điều hành và huấn luyện nhằm phát huy tinh thần trách nhiệm, phát triển và cống hiến khả năng cá nhân cho việc chung của đoàn.
3. Huấn luyện:
Huấn luyện và tổ chức huấn luyện cho đoàn là nhiệm vụ của Ban quản trị nhất là đoàn trưởng. Nhưng không ai có thể cho kẻ khác điều gì mình không có, để hoàn thành niệm vụ này, ban quản trị phải được học tập trước về những điều sẽ huấn luyện cho người khác:
Ban quản trị phải cứng cáp về giáo lý, ít là đủ tiêu chuẩn của giáo lý viên cấp III; Trưởng thành về nhân bản; thông hiểu kiến thức Phong trào, kỹ năng chuyên môn; nắm vững nghi thức tổ chức, nghiêm tập; lịch duyệt trong giao tế để có thể dạy lại cho cấp dưới.
Ban quản trị phải quan tâm không ngừng đào tạo, huấn luyện và bồi dưỡng huynh trưởng, những người cộng tác sát cánh với mình. Người cộng tác càng giỏi, công việc của đoàn càng được chi sẻ và thành công dễ dàng.
4. Giao tế:
Ban quản trị vừa là những người cộng tác vừa là người thừa hành của cha Tuyên úy. Do đó phải hết lòng cộng tác và tuân hành các chỉ thị của ngài; cũng như chân thành trao đổi, góp ý với ngài.
Ban quản trị luôn quan hệ tốt và chân thành cộng tác với Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ, vì Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xư là chỗ dựa cho đoàn trong mọi sinh hoạt. Khi không thể đạt được sự thoả thuận hoặc thuyết phục, hãy vâng phục trước đã.
Sự đồng tình và đồng cảm của phụ huynh là động lực lớn giúp cho đoàn tiến. Ban quản trị cần có những cơ hội giao tiếp với phụ huynh cách tập thể hoặc cá nhân để trao đổi thông tin về từng em trong đoàn để việc giáo dục các em hiệu quả hơn: Xin phụ huynh cộng tác bằng cách cho biết thông tin về em (thói quen, sở thích, nhược điểm của em) Nói về ưu điểm của các em trước, có thể phát huy hơn nữa những ưu điểm này. Nói về khuyết điểm của các em và coi đó chỉ là thiếu sót, các em có thể sửa chữa nếu được nhắc nhở, lưu ý.
Dù cuộc gặp gỡ không thành công như ý muốn, trưởng vẫn vui vẻ cám ơn vì phụ huynh đã dành thời gian lắng nghe, “hẹn gặp lại” để chuẩn bị cho cuộc gặp lần sau.
Tìm nguồn hỗ trợ tinh thần và vật chất qua lực lượng phụ huynh. Đây là vấn đề tế nhị, trưởng cần có những chuẩn bị xa, cần có sự hỗ trợ của cha Tuyên Uý hoặc Hội đồng Mục vụ giáo xứ.
Lời hứa của huynh trưởng TNTT là công tác rộng rãi với mọi người trong công tác tông đồ. Các đoàn thể trong giáo xứ là những tác nhân tích cực và bạn đồng chí hướng. Ban quản trị biết giao lưu và cộng tác trong tinh thần xây dựng giáo xứ để có cơ hội học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm và nâng đỡ nhau trong công việc tông đồ.
KẾT LUẬN:
Điều hành đoàn là công việc khó khăn, nặng nhọc, đòi hỏi nhiều cố gắng và hy sinh. Cần làm đúng nguyên tắc, mà cũng cần uyển chuyển, linh hoạt. Ban quản trị trước hết phải cố gắng học tập, nâng cao từng ngày đạo đức và khả năng, cũng tha thiết tranh thủ sự quan tâm, chỉ đạo đầy đủ của cha tuyên uý, sự cố vấn, hỗ trợ của quý vị trợ uý, sự giúp đỡ của phụ huynh, nhất là sự cộng tác chặt chẽ của các huynh trưởng, đội trưởng trong đoàn.
Trên tất cả, huynh trưởng cần làm việc với tinh thần nhiệt thành, khiêm tốn như người đầy tớ vô dụng chỉ biết làm hết bổn phận và khả năng của mình và tin rằng những yếu đuối, thiếu sót của mình, Chúa sẽ bù đắp cho.
CÂU HỎI THẢO LUẬN XÂY DỰNG BÀI
1. Theo Nội Quy Tổng Liên Đoàn TNTT Việt nam, xứ đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể được tổ chức như thế nào?
2. Trong bối cảnh hiện tại, việc tổ chức đoàn TNTT có những thuận lợi và khó khăn nào? Có thể khắc phục thế nào ?
3. “Điều hành đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể vừa cần kỹ thuật vừa cần nghệ thuật” bạn hiểu điều này thế nào?
--- oOo ---
Bài 18: Tọa đàm
1- Mục Đích Tọa Đàm.
Cần làm sáng tỏ một vấn đề, một chương trình, một kế hoạch xem ra còn xa lạ hoặc dị ứng đối với quần chúng, người ta thường dùng hình thức toạ đàm.
Vấn đề sẽ được làm sáng tỏ nhờ ý kiến thức, kinh nghiệm của những nhà chuyên môn, của những người có uy tín về vấn đề đó. Thí dụ: Có người cho rằng tượng Đức Mẹ tại công viên Nhà Thờ Chính Tòa Sài Gòn khóc. Để giải thích và hướng dẫn dư luận hiểu cho đúng vấn đề, người ta mời Đức Hồng y là vị lãnh đạo giáo hội tại thành phố lên tiếng để dân chúng trong đạo cũng như ngoài đời hiểu rõ, tránh những dư luận sai lầm hoặc cố ý xuyên tạc và làm phương hại niềm tin của tín hữu…
Dân chúng lo ngại, hoang mang vì dịch cúm gia cầm đang hoành hành; Người ta đã mời các nhà chuyên môn về y tế đến trong chương trình tọa đàm nhằm giúp dân hiểu về tầm mức nguy hiểm của dịch, cách đề phòng, đồng thời sẵn sàng chấp hành các biện pháp y tế.
Muốn mọi người “vui vẻ” đội mũ bảo hiểm, chính quyền đã tổ chức nhiều buổi toạ đàm nêu rõ nguy hiểm của việc không đội mũ bảo hiểm, những biện pháp chế tài do chính quyền áp dụng đối với những người không đội mũ bảo hiểm. Qua đó cổ vũ người dân đội mũ bảo hiểm.
II.- Tổ chức Một Buổi Tọa Đàm.
1. Nội Dung Tọa Đàm.
- Là vấn đề thời sự, ảnh hưởng thiết thân tới đời sống quần chúng hay là một vấn đề gây thắc mắc, gây ngộ nhận, một vấn đề lẽ ra mọi người phải biết vì lợi ích của họ hay của xã hội, là vấn đề nhạy cảm, cần có tiếng nói của những người uy tín.
2. Cách Tổ Chức Tọa Đàm.
a. Chuẩn Bị:
. Mời người có chuyên môn, thẩm quyền và uy tín về vấn đề dự định. Ba hoặc bốn người, để đa dạng hoá kiến thức và kinh nghiệm hoặc thẩm quyền.
. Thông báo hoặc mời khán giả đến dự.
. Có thể chuẩn bị khán phòng hoặc sân khấu ngoài trời hoặc trên TV…
. Trao đổi trước với người trình bảy về hệ thống câu hỏi sẽ được nêu lên.
b. Diễn Tiến:
. Ổn đình chỗ ngồi cho khán giả. Giới thiệu trước với khán giả về đề tài sẽ tọa đàm hôm nay.
. Giới thiệu khách mời về thân thế, chuyên môn… và mời lên sân khấu.
. Đặt câu hỏi để các vị khách mời trả lời (có thể mời lần lượt, cũng có thể để tự các vị khách mời trao đổi). Và cứ tiếp tục cho đến khi vấn đề đã được sáng tỏ.
. Nếu thuận tiện, có thể mời khán giả nêu câu hỏi.
c. Kết :
Buổi toạ đàm thành công khi: Thu hút được khán giả. Khán giả hiểu và đồng tình với ý kiến của các chuyên viên và chỉ thị của chính quyền.Giải tỏa được thắc mắc của quần chúng. Quảng bá được vấn đề mình muốn quảng bá. Uốn nắn được dư luận, để quần chúng hiểu đúng thực chất của vấn đề.
3. Những Điều Kiện Cho MC.
- MC phải thảo luận với các chuyên gia về đề tài trước khi tiến hành, hiểu mục tiêu mình muốn đạt được qua buổi toạ đàm này.
- MC phải có kiến thức về đề tài, có khả năng nghe, hiểu và tóm kết vấn đề cách chính xác và có thể trình bày lại vấn đề. Đôi khi khách mời hứng khởi, đi xa, MC phải biết lèo lái, tổng hợp các ý kiến của khách mời, để đưa về nội dung chính cũng như tóm tắt các ý kiến cho khán giả dễ nắm, trước khi bước sang câu hỏi khác.
- MC phải hiểu những thắc mắc, khao khát hiện tại của khán giả, để đặt những câu hỏi đúng chỗ.
- Các câu hỏi của MC đưa ra phải là một hệ thống câu hỏi có liên kết và được chuẩn bị sẵn sau khi trao đổi và nhất trí với khách mời, nhằm đạt được mục đích mong muốn ngang qua các trình bày của các vị khách mời.
- MC cần có khả năng linh hoạt khi có những câu trả lời hoặc vấn đề phát sinh không nằm trong hệ thống nội dung soạn trước, cần có chút hài hước giúp thoải mái mỗi khi bầu không khí trở nên căng thẳng hoặc đơn điệu.
- Khi khách mời “méo mó nghề nghiêp” quá say sưa với đề tài, đi quá xa, ngoài mục đích mong muốn của mình, MC phải khéo léo cắt và “dẫn” khách mời về đúng vấn đề.
- Không nhất thiết phải “đi đêm” với khách mời để rập khuôn ý tưởng. Cả MC lẫn khách mời đều phải tôn trọng khán giả bằng cách tôn trọng sự thật. Lợi dụng toạ đàm để mị dân hoặc lừa khán giả là đi sai mục tiêu lành mạnh của toạ đàm. Những ý kiến khác nhau, hoặc cách trình bày khác nhau sẽ làm phong phú vấn đề, giúp khán giả có được cái nhìn đa diện và hiểu biết rộng hơn. Khán giả có thể chọn lựa, đồng tình với ý kiến của vị này mà không đồng tình với ý kiến của vị kia khi ý kiến của họ không giống nhau.
- Tuy nhiên có những vấn đề tế nhị, vấn đề còn đang tranh cãi, nhà tổ chức phải hiểu khả năng chuyên môn, trường phái và nhất là lập trường của các vị khách mời đối với đề tài trước khi mời họ để tránh tác dụng ngược.
III.- Ap dụng phương pháp Tọa Đàm vào việc huấn luyện huynh trưởng.
Trong Sa mạc huấn luyện HT cấp III, Tọa Đàm được áp dụng nhằm chuyển tải kiến thức và kinh nghiệm cho các sa mạc sinh để trong cùng một giờ khoá, sa mạc sinh có thể tiếp thu kiến thức và kinh nghiệm của nhiều huấn luyện viên. Huấn luyện viên chính khoá sẽ đóng vai trò MC. Khách mời là các huấn luyện viên khác có cùng chuyên môn, hoặc có thể là những nhà chuyên môn khác mà không nhất thiết là HLV của Phong trào. (Trường hợp khách mời không phải là HLV Liên Đoàn, MC phải được sự đồng ý của Ban Nghiên Huấn Liên Đoàn và chịu trách nhiệm về tính chính xác và tính truyền thống của Phong trào khi mời các vị này).
Tại Sa mạc huấn luyện HT cấp III, DẤN THÂN III, ĐỢT 1 tại Giáo xứ Thánh Cẩm đã thực hành toạ đàm 2 đề tài dưới đây và thu được kết quả khả quan.
1. Đề tài: THÀNH LẬP ĐOÀN:
- MC: FX. Trần Ngọc Lợi, huấn luyện viên TNTT, Liên đoàn trưởng, trải qua các cấp từ đội trưởng đến liên đoàn trưởng, có kinh nghiệm thành lập đoàn, hơn 40 năm trong Phong trào TNTT.
- Khách mời:
. Micae Ngô Quỳnh Lưu, huấn luyện viên TNTT, có kinh nghiệm thành lập đoàn
. Giuse Nguyễn Văn Sinh, huấn luyện viên TNTT, nhiều năm làm đoàn trưởng, có kinh nghiệm thành lập đoàn, trải hơn 50 năm trong Phong trào TNTT.
2. Đề tài: ÁP DỤNG KỸ NĂNG QUẢN TRỊ NHÂN SỰ VÀO VIỆC ĐIỀU HÀNH ĐOÀN:
- MC: FX. Trần Ngọc Lợi, Liên đoàn trưởng, huấn luyện viên TNTT. Trải nghiệm quản trị trong giáo dục.
- Khách mời:
. Gierado Nguyễn Bình, thư ký Liên đoàn, huấn luyện viên TNTT, trải nghiệm quản trị trong doanh nghiệp quốc doanh.
. Micae Ninh Đức Thành, Trưởng cấp III.TNTT, nhiều năm trải nghiệm quản trị doanh nghiệp tư nhân.
. Anê Nghê Thị Tuyết Trang, phó chủ tịch Liên đoàn, huấn luyện viên TNTT, thạc sĩ về quản trị nhân sự, trải nghiệm quản trị trong doanh nghiệp ngoại quốc.
IV.- Kết Luận:
Qua phản hồi từ sa mạc sinh, áp dụng bài khoá bằng phương pháp toạ đàm, sa mạc sinh:
- Tiếp thu được nhiều kiến thức và kinh nghiệm, tư tưởng không bị gò bó, máy móc, giáo điều.
- Cảm thấy thời gian 90 phút học tập như bị thu ngắn lại, bầu khi học tập sinh động.
- Chính MC và khách mời cũng cảm thấy kiến thức và kinh nghiệm được giao lưu, loại bỏ tư tưởng độc tôn.
- Khoảng cách giữa huấn luyện viên và sa mạc sinh được thu hẹp lại.
--- oOo ---
Bài 19: Giải quyết xung đột trong đoàn
Xung đột là tình trạng thái gãy đổ trong tương quan, là tình trạng đối kháng giữa con người với nhau. “Bá nhân bá tánh” Con người đã xung đột từ khi có mặt trên thế gian (Adam Eva, Cain Abel,..). Lịch sử đã cho thấy xung đột đã không ngừng diễn ra giữa con người với con người và sẽ còn mãi mãi, không chỉ vì quyền lợi. Xung đột được diễn ra dưới nhiều tên gọi khác nhau: địa vị, quyền lực, lý tưởng, vinh dự, tiền của, đất đai, tài nguyên, tình yêu… Xung đột hiển hiện khắp nơi, chỗ nào có con người là có xung đột, bao lâu còn xung đột! thì còn phải giải quyết xung đột.
Xung đột có thể diễn ra giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với gia đình, gia đình với gia đình, gia đình với tổ chức, tổ chức với tổ chức, quốc gia với quốc gia, và từng nhóm nhỏ ngay trong nội bộ các cộng đồng dưới nhiều hình thức:
- “Chiến tranh lạnh”: không ồn ào nhưng không kém phần nguy hiểm, khó chịu, nó làm cho bầu khí gia đình, đoàn thể, tổ chức trở nên ảm đạm, bất hợp tác, tiêu cực, đề phòng nhau, bắt lỗi nhau và bùng nổ bất cứ lúc nào khi một bên mất kềm chế.
- “Bút chiến”: dùng thư từ, báo chí, sách vở, làm phương tiện tranh cãi, tấn công, bôi nhọ nhau: Lời nói trực tiếp còn không thể diễn tả hết ý tưởng, chữ viết càng nghèo nàn. Thế mà trong bút chiến người ta dùng phương tiện này để trình bày. Vì thế càng bút chiến, mâu thuẫn càng gia tăng, xung đột càng trầm trọng hơn.
- “Chiến tranh nóng”: trực tiếp tranh cãi, chống đối, tẩy chay, dùng vũ lực, trách móc, bới lá tìm sâu, phá đám…khiến cho bầu khí gia đình, đoàn thể, tổ chức rối loạn, mọi người nhìn nhau với “đôi mắt mang hình viên đạn” còn tâm trí và thời gian đâu để xây dựng!
Với bất cứ lý do nào, dưới bất kỳ hình thức nào, xung đột là điều xấu cần loại trừ. Ở đây, chúng ta chỉ bàn tới những xung đột thường xẩy ra trong Đoàn, nhận diện nguyên nhân, đối tượng, hình thức, hậu quả và cách giải quyết những xung đột đó. Xung đột thường xảy ra giữa:
- Các thành viên trong Ban Quản Trị.
- Ban Quản Trị với các huynh trưởng.
- Các cá nhân huynh trưởng với nhau.
- Huynh trưởng với các đội trưởng
- Huynh trưởng với Ban Phụ Huynh
- Huynh trưởng với Ban Trợ Tá
- Cha Tuyên uý với ban quản trị, với các huynh trưởng
- Trợ uý với huynh trưởng
Để giải quyết xung đột trong Đoàn, Trưởng cần đặt ra cho mình những câu hỏi và tự trả lời những câu hỏi này trước khi đưa ra giải pháp:
· Những ai đang tham dự vào cuộc xung đột: Họ là những ai? Cấp trên với cấp dưới, giữa các trưởng với nhau, giữa các trưởng với Ban quản trị hay với chính Đoàn Trưởng. Ai là nhân vật chính của mỗi bên.
· Tại sao họ xung đột: Khi phát hiện có xung đột hoặc “dấu chỉ” xung đột, Đoàn Trưởng phải tìm hiểu để biết nguyên nhân chính của xung đột. Từ đó xác định bản chất của cuộc xung đột: xung đột vì quyền lợi, vì chức vụ, vì tình cảm, vì danh dự,…
· Xung đột bắt nguồn từ đâu. Giải quyết xung đột phải giải quyết ngay từ nguyên nhân ban đầu. Xung đột thường bắt đầu từ những chuyện nhỏ, nhưng do để lâu hoặc do cách giải quyết không đúng, mà sinh ra trầm trọng. “chuyện bé xé ra to”
· Tầm mức của cuộc xung đột: Sau khi biết nguyên nhân và đối tượng của xung đột, phải lượng giá được mức độ trầm trọng của vấn đề mới có thể đưa ra phương án giải quyết. Đừng phóng đại chuyện nhỏ, cũng đừng đơn giản hoá chuyện lớn.
. Ai có trách nhiệm giải quyết: Tuỳ vào bản chất, tầm mức và hậu quả của cuộc xung đột, đoàn trưởng cần biết vấn đề thuộc thẩm quyền và khả năng giải quyết của ai: không nhất thiết việc gì cũng cậy đến cha Tuyên uý hoặc đoàn trưởng mà có thể nhờ một trưởng nào đó nhưng phải tham khảo ý kiến cha Tuyên uý hoặc đoàn trưởng đồng thời có giảipháp phù hợp.
. Giải quyết cách nào: Giải quyết xung đột là lập lại quan hệ bình thường vốn đã có giữa người với người, giữa tập thể với tập thể; Giải quyết xung đột là nối lại tình đoàn kết, sự cộng tác chân thành, bầu khí vui vẻ yêu thương đã tạm bị đình trệ do xung đột gây ra.
Tuỳ theo bản chất xung đột, người giải quyết có chức năng, có khả năng và có phương cách thích hợp có thể giải quyết rốt ráo mọi sự. Theo kinh nghiệm của những người từng “trận mạc” và dày kinh nghiệm, xung đột trong đoàn thường xoay quanh một số trường hợp tương đối phổ biến, và cách giải quyết như sau:
- Đối với những người có cá tính đặc biệt không vừa lòng với bất kỳ ai, việc gì không phải là tác phẩm hay “công lao” của họ; là họ chống đối cho thoả lòng mà chẳng cần biết hậu quả sẽ ra sao. Hãy tìm hiểu xem:
. Không vừa lòng với ai, yêu cầu nêu lý do và đưa ra đề nghị cụ thể. Nếu lý do và đề nghị đúng, Đoàn trưởng phải nhìn nhận, chỉnh sửa. Ngược lại, hãy giải thích cho họ thấy chỗ sai của họ và dẫn họ đến sự phục thiện.
. Không đồng ý về điều gì? Yêu cầu nêu lý do và đưa ra đề nghị cụ thể. Nếu đó là nhận xét đúng và là đề nghị hay, đoàn trưởng phải tiếp thu và đề nghị họ cộng tác. Ngược lại, hãy giải thích cho họ thấy chỗ sai và đề nghị họ hãy phục thiện.
- Người thực sự có khả năng nhưng không được trọng dụng vì nguyên nhân nào đó. Do đó bất mãn, bất hợp tác và chống đối. Đây là loại người tích cực bị lãng quên. Đoàn trường cần tỉnh táo để phân công, phân nhiệm đúng khả năng của họ. Hoặc nếu thấy họ còn mặt hạn chế nào, hãy giúp họ kiện toàn để có thể đảm nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Người không có khả năng, nhưng ảo tưởng về chính mình và không bằng lòng với vị trí hiện tại của mình, muốn mọi sự theo ý mình; muốn làm những việc mà cấp trên nhận thấy họ không có khả năng. Do đó nghĩ mình bị trù dập, bị bỏ quên, sinh ra bất mãn, tranh chấp dưới nhiều hình thức. Hỏi họ xem trong những công tác hiện nay, anh hay chị thích công việc nào. nghiên cứu, nếu có thể hãy giao việc ấy cho họ, hãy cử người hoặc chính đoàn trưởng giúp đỡ họ hoàn thành nhiệm vụ, chứ không phải gài bẫy để họ không làm được. Sau khi kết thúc công việc, họ sẽ nhận ra khả năng thực sự của họ và sẽ trở nên quân bình hơn.
- Người ở cấp trên sợ mất quyền, sợ người khác chiếm vị trí lãnh đạo hiện tại của mình; không dám cất nhắc hoặc tiến cử nhân tài vào công việc xứng đáng với họ. Do đó trở thành độc đoán và đương nhiên bị chống đối: xung đột. Nếu dưới quyền của họ, bạn đừng chống đối hay đòi hỏi họ tiến cử nhưng hãy làm thật tốt bất cứ việc nào họ trao phó. Nếu họ không nhận ra khả năng của bạn, họ là người chỉ huy tồi, và cấp chỉ huy cao nữa sẽ nhận ra và dùng bạn đúng chỗ. Nếu chính bạn là loại người này, bạn cần xét lại bản thân, phải khách quan nhìn vào mình và người khác, sẵn sàng cất nhắc, tiến cử người đạo đức tài ba vào việc tương xứng tài đức của họ, thậm chí rút lui và nhường chỗ cho người tài đức hơn.
- Người hay phân bì, đố kị về vị trí, công lao với kẻ khác, hay khiếu nại, kiện cáo. Hãy đề nghị họ liệt kê những việc trong nhiệm vụ của họ và nêu rõ những gì họ đã hoàn thành, những gì chưa; Với thành tích đó anh hay chị muốn được đáp trả như thế nào. Còn việc của người khác anh hay chị không nên so sánh.
- Người thẳng thắn nhưng nóng nảy, nói năng thiếu chọn lựa, nhất thời thì gây mất lòng, lâu dài biến thành xung đột. Chính bạn phải là người điềm tĩnh và nhẫn nại trước, để giảm bớt “nhiệt độ” nơi họ, rồi hãy nói “chuyện phải trái”.
- Xung đột xẩy ra giữa hai nhóm về chủ trương, đường lối tuy không ồn ào nhưng sâu sắc và dễ gây đổ vỡ. Đây là vấn đề lớn. Đừng vội đưa vấn đề ra buổi họp khi chưa có sự chuẩn bị kỹ: Trước hết hãy gặp từng bên, tìm ra điểm đúng, điểm sai của mỗi bên; tìm ra những điểm chung cũng như những điểm xung khắc giữa hai bên;
. Trình bày chính xác sự việc với cha Tuyên uý, cùng ngài phân tích, chọn lựa phương hướng giải quyết. Gặp người có liên quan chính của hai nhóm để trao đổi, hoà giải. Nếu cần, mới đưa vấn đề ra giải quyết tại buổi họp hội đồng huynh trưởng, có cha Tuyên uý chủ toạ, nhằm công nhận những điểm đúng của hai bên; hoá giải những khác biệt giữa hai bên theo hướng đã chọn lựa.
. Nếu “bất phân thắng bại”, trước mắt, ý kiến của cha Tuyên úy là quyết định, nhưng cần quyết định kèm sự thuyết phục hơn là quyết định một chiều bằng quyền.
Dù xung đột xẩy ra dưới hình thức nào, cũng phải: Giải quyết với tinh thần khách quan, công bằng. Giải quyết trên nền tảng của tình huynh đệ với lòng bao dung, tha thứ và yêu thương. Chỉ đưa vấn đề ra hội đồng huynh trưởng sau khi mọi người đã hiểu rõ cách khách quan và có thời gian để suy nghĩ. “không lấy thịt đè người”.
- Tôn trọng nhau trong mọi tình huống, nhất là khi tranh luận căng thẳng. Tuyệt đối không hạ nhục nhau.
- Dù giải quyết cách nào, cũng phải nhắm mục đích: Tái lập và củng cố sự đoàn kết, yêu thương trong đoàn. Không loại trừ nhau. Giúp mọi người nhận ra cái đúng cái sai của mình hầu chấp nhận sự thật.
- Giải quyết xung đột là vấn đề quan trọng, nhưng hậu quả của việc giải quyết cũng quan trọng không kém. Sau khi giải quyết, thường có bên đúng nhiều, bên đúng ít hoặc sai. Phải giữ sao cho “bên thắng” không kiêu, “bên thua” không mặc cảm để cùng tồn tại trong sự hài hoà, thông cảm, cùng nhau làm lại từ đầu. Biện pháp loại trừ không phải là giải pháp tối ưu.
Giải quyết xung đột dựa trên những biện pháp, tính toán của loài người vẫn chỉ có giá trị tạm bợ và hạn chế. Là huynh trưởng Thiếu nhi Thánh Thể vốn nhận Lời Chúa là nền tảng và là chất liệu đặc biệt để giáo dục thiếu nhi, ngoài những phương thế chân chính của loài người như tâm lý, nghệ thuật lãnh đạo và giao tế, còn phải dựa trên nền tảng là Lời Chúa để nhận ra rằng xung đột giữa chúng ta còn có nguyên nhân sâu xa và căn bản hơn: Chúng ta xung đột vì chúng ta đang làm việc cho Chúa mà không cần tới Chúa. Kinh nghiệm từ cuộc xung đột khởi nguyên và những đổ vỡ tiếp theo của nhân loại cho thấy khi người ta từ chối Chúa, từ chối sự can thiệp của Chúa trong đời mình hoặc trong cộng đoàn của mình thì người ta khó có thể ngồi chung và dễ dàng từ chối, loại trừ nhau.
Tóm lại, khi giải quyết xung đột, ngoài những biện pháp tự nhiên, trưởng cần phải: Nhìn thấy Chúa trong anh em, trong công việc và tìm ý Chúa trong sự kiện. Tranh luận, bàn cãi với sự hiện diện của Chúa
Nhận xét về nhau trong tình yêu thương, công bằng, bác ái. Nhận định, phán xét khách quan, kể cả khi chính mình là đối tượng của xung đột, để nhận ra cái sai của mình, cái đúng của anh em. Đừng quên bàn hỏi với người khôn ngoan, kinh nghiệm, nhất là khi chính Đoàn Trưởng là đối tượng xung đột.
Khích lệ người làm đúng. Không thành kiến, nhưng thông cảm, tha thứ, chân thành an ủi, nâng đỡ người sai lầm. Nếu chính Đoàn Trưởng ở trong cuộc xung đột, hãy tự nhìn lại mình trước khi nghĩ đến việc giải quyết.
Hãy nhớ: PHÒNG BỆNH HƠN CHỮA BỆNH.
Muốn đề phòng xung đột, đoàn trưởng cần: Xác tín rằng làm việc, là làm việc của Chúa và với Chúa. Lãnh đạo là phục vụ chứ không phải cai trị.
Nhớ rằng trưởng là người của mọi người trong đoàn, chứ không của riêng ai. Nghĩ đến ích lợi chung trước, rồi mới nghĩ đến quyền lợi chính đáng của mình.
Không ngừng học hỏi, sẵn sàng sửa sai. Luôn đối xử công bằng và trong sáng trong mọi việc. Làm gương trong sự hy sinh, hòa hợp, tha thứ. Là chất kết dính của sự đoàn kết anh chị em. Nhớ rằng “thượng bất chính, hạ tắc loạn” : Trên không nghiêm, dưới nổi loạn
Thành tâm+Khiêm tốn+Công bình+bao dung = Giải Pháp
Mánh lới+Kiêu căng+Thiên vị+bất khoan dung = Đổ Vỡ
--- oOo ---
Bài 20: Huấn luyện Huynh Trưởng
Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể vốn là tổ chức thống nhất từ địa phương đến trung ương về điều hành cũng như về huấn luyện.
Phương pháp huấn luyện của Thiếu Nhi Thánh Thể là Vào Sa Mạc. Nơi để huấn luyện huynh trưởng được gọi là Sa Mạc Huấn Luyện Huynh Trưởng. Để tổ chức Sa Mạc Huấn Luyện Huynh Trưởng, Liên đoàn Giáo phận dựa vào đường lối huấn luyện chung của Tổng Liên đoàn.
I.- TỔ CHỨC:
Trước khi tổ chức Huấn Luyện, Liên Đoàn sẽ Thông báo về sa mạc, đồng thời bổ nhiệm linh mục Tuyên Úy Sa mạc; linh mục Sa mạc Trưởng và huynh trưởng làm Sa mạc Phó.
- Linh mục Tuyên Úy Sa Mạc, Sa Mạc Trưởng và Sa Mạc Phó hội ý để: Ra Thông Báo gửi đến các đoàn trong Giáo phận về các chi tiết Sa mạc như: Thời gian và địa điểm tổ chức đợt 1, đợt 2, đợt 3…; Điều kiện tham dự; Hành trang sa mạc; Sa mạc phí; Thời gian và địa điểm tập trung Tiền Sa Mạc; Hồ sơ sa mạc sinh (Thời hạn và nơi nộp hồ sơ). Các ngoại lệ của từng sa mạc v.v…
- Thành Lập Ban Điều Hành Sa Mạc: Ban điều Hành Sa Mạc, được tổ chức như sau:
+ Tuyên Úy Sa Mạc, Sa Mạc Trưởng, Sa Mạc Phó: Do Cha Tuyên Úy Liên Đoàn bổ nhiệm. (Khi huấn luyện nhiều Ngành trong cùng một Sa Mạc, mỗi Ngành có một Sa Mạc Phó)
+ Tiểu Ban Trực: Phụ trách kỷ luật và thi đua.
+ Trưởng Tiểu Ban Hành Chánh: Phụ trách hồ sơ sa mạc, hồ sơ sa mạc sinh.
+ Trưởng Tiểu Ban Phụng Vụ.
+ Trưởng Tiểu Ban Y Tế, Vệ Sinh.
+ Trưởng Tiểu Ban Sinh Hoạt: lo các hoạt động thư giãn, Lửa thiêng Thánh Thể và Hành trình sa mạc.
+ Trưởng Quản Lý: lo ẩm thực, vật dụng sa mạc
+ Trưởng Kỹ Thuật: Phụ trách kỹ thuật: âm thanh, ánh sáng, cổng
2. Sa Mạc Trưởng hoặc Phó: Liên hệ địa điểm và xin phép. Mời Huấn Luyện Viên. Xác định ngày giờ dạy khóa. Xin Bài Khóa của các Huấn Luyện viên.
3. Một tuần trước mỗi đợt huấn luyện, gửi hồ sơ Sa Mạc về Ban Nghiên Huấn Liên Đoàn,(Hồ sơ gồm: các Thông Báo; Mẫu Đơn Tham Dự; Đề Bài Tiền Sa Mạc; Chương Trình Sa Mạc; Danh Sách Ban Điều Hành, Huấn Luyện Viên; Lịch Giảng Khóa). Đồng thời tổ chức họp Ban Điều Hành Sa Mạc với sự hiện diện của Lm. Tuyên uý Liên đoàn hoặc Liên đoàn trưởng hoặc Liên đoàn phó Nghiên huấn.
4. Liên Đoàn Phó Nghiên Huấn chịu trách nhiệm về tính nghiêm túc của Các Sa mạc Huấn Luyện.
5. Sau khi có kết quả Sa mạc, gửi Báo Cáo Tổng Kết về Ban Nghiên Huấn Liên Đoàn. Gồm: Bản Phúc Trình: Tên Sa Mạc, Địa điểm, Thời gian, Ban Điều Hành, Số Sa Mạc Sinh thực sự tham dự, Tình hình chung Sa mạc (ưu, khuyết điểm, đề nghị).
Một Bảng Tổng Kết Điểm có phân hạng.
Một Danh Sách Đề Nghị Công Nhận Trúng Tuyển do Sa Mạc Trưởng Ký (đề: Kính gửi cha Tuyên Úy Liên Đoàn).
II.- TỔ CHỨC VÀ ĐIỀU HÀNH
1.- Linh mục tuyên úy:
Hướng dẫn tinh thần sa mạc ngang qua các sinh hoạt thiêng liêng, đạo đức trong Sa mạc như: Chủ sự các Thánh Lễ, Chủ sự giờ Thánh Thể, Giải tội, và mời các Linh mục giải tội khi có đông sa mạc sinh
2.- Sa mạc trưởng:
Tổ chức và điều hành tổng quát Sa mạc: Soạn, sắp xếp chương trình sinh hoạt và huấn luyện. Mời và xếp giờ cho các HLV. Bổ nhiệm các Tiểu Ban trong Sa Mạc
Chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi việc điều hành và huấn luyện. Chủ tọa các buổi họp của Sa mạc, là người quyết định các vấn đề của sa mạc.
Ra đề và chấm bài tiền Sa mạc, Bài Thu Hoạch, Bài Hậu Sa Mạc. Trình kết quả Sa Mạc lên Ban Nghiên Huấn Liên Đoàn.
3.- Sa mạc phó:
Trực tiếp điều động, chi tiết và cụ thể các Tiểu Ban thông qua các Trưởng Tiểu Ban. Sắp xếp chương trình, thời khoá biểu, giải quyết các tình huống trong sa mạc. Hỗ trợ việc dậy khóa khi cần
Cùng với Sa mạc trưởng phụ trách Bài Tiền và Hậu Sa mạc. Thay thế khi Sa mạc trưởng vắng mặt
4.- Tiểu ban trực nhật, kỷ luật, thi đua
Giữ giờ, điều khiển các nghi thức: Nghiêm tập; chào Cờ, khai mạc, bế mạc. Phối hợp với các tiểu ban khác trong các công tác có liên quan. Kiểm soát và đưa ra các giải pháp về kỷ luật, vệ sinh, tinh thần học tập
Thực hiện và thu Bảng Lượng giá đội, báo điểm thi đua hàng ngày cho Sa mạc phó kịp tổng kết truớc giờ Họp Đội Trưởng mỗi tối. Chia phiên đội trực điều hành, cung cấp đội trực quản lý cho Tiểu Ban Quản Lý.
5.- Tiểu ban hành chánh:
Sát cánh với sa mạc phó, lập thủ thục Sa mạc (Phát, thu đơn ghi danh vào sa mạc. Lập danh sách, bảng tên, sổ khóa. Chuyển Sa Mạc Phí cho Ban Quản Lý
Tiếp Huấn luyện viên và khách của Sa mạc. Chuẩn bị huấn cụ nếu có yêu và có thời gian
Phối kiểm, tổng hợp các sự kiện trong sa mạc do các tiểu ban chuyển. Hoàn tất và chuyển giao hồ sơ cho sa mạc phó chậm nhất là 1 tuần sau Sa mạc.
6.- Tiểu ban phụng vụ:
Tổ chức và điều hành các giờ phụng vụ với sự chỉ đạo của Linh mục Tuyên Úy. Gồm: Thánh lễ, giờ Thánh Thể, Lãnh nhận Lời Chúa. Soạn, in các tài liệu liên quan phụng vụ.
7.- Tiểu ban quản lý:
Cung ứng dụng cụ Sa Mạc: trang thiết bị điều hành, lều, cổng, củi, dầu, nến…. Chăm lo đời sống cho Sa mạc: cơm, nước và theo dõi tình hình ẩm thực từng bữa nhằm cải thiện hoặc góp ý với nhà bếp nếu xét thấy cần
Chuẩn bị nước tiếp khách, ban điều hành, tổng kết tài chánh và vật tư báo cáo cho sa mạc phó.
8.- Tiểu ban y tế:
Chuẩn bị thuốc và dụng cụ cứu thương cơ bản để chữa hoặc cấp cứu khi cần. Nắm vững số điện thoại gọi khẩn cấp, địa chỉ bệnh viện gần nhất.
Chăm sóc sức khỏe Sa mạc Sinh: Quan sát tình hinh vệ sinh chung, ẩm thực, chỗ ăn, ngủ của sa mạc sinh để có giải pháp thich ứng
9.- Tiểu ban sinh hoạt:
Phối hợp với ban Trực Nhật lo sinh hoạt giữa giờ, sinh hoạt chung, tổ chức Lửa Thiêng Thánh Thể, Hành Trình Sa Mạc
10.- Tiểu ban kỹ thuật:
Thực hiện các công tác kỹ thuật như: Cổng, lều Thánh Thể, hàng rào, lều điều hành… Hướng dẫn kỹ thuật lều trại cho sa mạc sinh
Chuẩn bị âm thanh, ánh sáng phục vụ các sinh hoạt như Thánh Lễ, Giờ Thánh Thể, Lửa Thiêng, giảng khóa, sinh hoạt…
III.- NHỮNG LƯU Ý CẦN THIẾT KHI TỔ CHỨC VÀ ĐIỀU HÀNH SA MẠC HUẤN LUYỆN.
1. Nghiêm, nhưng không gắt gỏng. Tránh xúc phạm sa mạc sinh. Thân ái, nhưng không lơi lỏng kỷ luật. Không đùa cợt và đối xử riêng với Sa mạc sinh (quen biết, khác phái,...).
2. Điều hành sa mạc sinh thông qua Trưởng trực và Đội trưởng. Các Trưởng không có nhiệm vụ, không tự tiện vào khu vực ăn, ở, ngủ nghỉ của sa mạc sinh
3. Trưởng trực sắp xếp chương trình sẵn trước, tránh tập họp Đội Trưởng nhiều lần lặt vặt, trừ trường hợp đặc biệt hoặc khẩn cấp.
4. Ban Điều Hành luôn vui tươi, nhưng không quá lố không tỏ ra uể oải, nằm ngả nghiêng nơi làm việc. Giữ gọn gàng, ngăn nắp, vệ sinh nơi làm việc. Lịch sự, thân ái trong ngôn ngữ khi giao tiếp hoặc thảo luận với nhau.
5. Các trưởng không tranh luận khi có mặt sa mạc sinh, không phê bình Huấn luyện viên với sa mạc sinh.
6. Ban Điều Hành và Huấn Luyện Viên cần được bồi dưỡng để duy trì hiệu năng làm việc, nhưng cần vừa đủ và tiết kiệm. Không xử dụng quỹ chung vào những sở thích cá nhân (Thuốc lá, bia,..)
7. Hành Chánh của Sa Mạc là cần thiết, nhưng đừng quá rườm rà, lãng phí.
IV.- VỀ HUẤN LUYỆN và HUẤN LUYỆN VIÊN:
1. Chương Trình Sa mạc không quá lỏng, cũng đừng quá chặt chẽ, vì Sa Mạc huấn luyện là nơi rèn luyện và giáo dục chứ không phải trại du ngoạn, càng không phải trại cải tạo.
2. Nội Dung Huấn Luyện: có Cẩm Nang Huấn Luyện Huynh Trưởng. Không ai được tự ý thay đổi hay thêm bớt theo ý riêng. Khi cần thì trao đổi với Linh Mục Tuyên Úy Liên Đoàn. Vì tự trọng và tôn trọng Sa mạc sinh, Huấn Luyện Viên chỉ lên bài khi đã soạn bài kỹ lưỡng.
3. Ban Điều Hành và Huấn Luyện Viên cố gắng hiện diện với Sa Mạc Sinh trong các giờ thiêng liêng: Giờ Thánh Thể, Thánh Lễ, Lãnh Nhận Lời Chúa,...
V.- VỀ NGHI THỨC
1. Sa Mạc Huấn Luyện là mẫu mực cho các sinh hoạt nhất là trong các nghi thức: Chào cờ, khai mạc, bế mạc, nghiêm tập, Lửa thiêng… xin theo đúng Nghi Thức Phong trào.
2. Mọi nghi vấn hoặc thích nghi về nghi thức trong Sa mạc do Sa mạc trưởng hoặc Sa mạc phó giải quyết, nhưng chỉ có hiệu lực trong Sa mạc đó mà thôi và không được kể là tập tục nếu không được Ban Nghiên Huấn Liên Đoàn chấp thuận. Nếu có ý kiến: thêm, bớt, thay đổi, xin ghi nhận và đề nghị sau. Không tự ý thay đổi.
4. Không sáng tác các nghi thức mới hoặc thay thế nghi thức truyền thống khi không cần thiết, nhất là khi nghi thức đó đã được quy định rõ ràng trong Nghi Thức của Liên Đoàn.
5. Trưởng Trực xem lại nghi thức cách kỹ lưỡng trước khi thực hiện.
VI.- HUẤN LUYỆN THƯỜNG XUYÊN
VÀ BỔ TÚC CHO HUYNH TRƯỞNG ĐOÀN
Vào sa mạc là phương pháp huấn luyện đặc biệt của Phong Trào TNTT, Sa mạc Huấn Luyện là thời gian tập trung cao điểm của việc huấn luyện trong thời gian nhất định là:
- Cấp I: Ba ngày hai đêm tại sa mạc
- Cấp II: Hai đợt, mỗi đợt ba ngày hai đêm tại sa mạc
- Cấp III: Ba đợt. Đợt 1: ba ngày hai đêm; đợt hai và ba: hai ngày một đêm tại sa mạc.
Với nội dung và thời gian có hạn, do đó, việc huấn luyện tại sa mạc chỉ có thể đáp ứng nhu cầu kiểm tra, thực hành kiến thức cũ và học thêm những kiến thức và kỹ năng mới nhất định. Chủ yếu là thời gian Linh thao để gắn bó với Chúa Giêsu Thánh Thể và gắn bó với nhau, những người cùng lý tưởng; đồng thời xác tín sứ mệnh giáo dục của mình cho các em Thiếu nhi.
Các đợt sa mạc, không đủ để biến chúng ta thành những huynh trưởng lành nghề. Muốn lành nghề, trưởng cần phải kiên trì học tập, “hành nghề” lâu dài và thường xuyên. Do đó, đoàn trưởng có nhiệm vụ tổ chức huấn luyên bồi dưỡng thường xuyên cho các huynh trưởng của đoàn mình.
Để huấn luyện bồi dưỡng cho huynh trưởng trong đoàn, không buộc phải theo nội dung cố định, cũng không cần tổ chức quy mô như sa mạc huấn luyện, nhưng đoàn trưởng phải xem xét và bàn với cha Tuyên úy để biết nhu cầu thực tế của các trưởng, của đoàn đề xác định nội dung cần huấn luyện. Thiếu mặt nào dạy thêm mặt đó. Thông thường xứ đoàn không đủ người để huấn luyện các môn theo yêu cầu, đoàn trưởng có thể “cầu cứu” Hiệp đoàn, Liên đoàn, hoặc nhờ các đoàn bạn trợ giúp. Đây cũng là cách giao lưu và trao đổi tài năng.
THẢO LUẬN XÂY DỰNG BÀI
Giả thiết bạn là Sa mạc phó, hãy lập chương trình huấn luyện, thực hiện thủ tục xin mở sa mạc huấn luyện cấp I cho hiệp đoàn: lên kế hoạch tổ chức, điều hành, Soạn chương trình, nội dung huấn luyện, phân công huấn luyện và mời huấn luyện viên, kết thúc sa mạc huấn luyện, báo cáo kết quả.
--- oOo ---