- CÁNH THIỆP CỦA CÔ TÔI
-THẦY NGUYỄN VĂN PHỐ
- HÈ 68
- THẦY TÔI
- GỬI NGƯỜI EM GÁI
CÁNH THIỆP CỦA CÔ TÔI
THẦY NGUYỄN VĂN PHỐ
Được sự đồng ý của tác giả – CHS NQ Nguyễn Ngọc Xuân - một bức thư rất cảm động gởi cho Thầy giáo cũ (Thầy Nguyễn Văn Phố) , “Một góc Thầy Trò” xin mời bạn cùng đọc lời tâm tình của một học sinh rất giỏi với Thầy giáo dạy Toán thời anh Xuân còn ngồi ghế NQ.
Bao nhiêu năm trôi qua, vật đổi sao dời, nhiều thứ đã thay đổi, nhưng tấm lòng của anh Nguyễn Ngọc Xuân với Thầy giáo cũ vẫn còn nguyên vẹn như xưa, thời anh còn ngồi ở lớp đệ tứ (lớp chín) Trung học Ngô Quyền.
Ước mong trong tương lai, “Một góc Thầy Trò” sẽ nhận được nhiều đóng góp qúy báu của tất cả các CHS NQ ở khắp nơi trên thế giới, để củng cố niềm tin “nhất tự vi sư bán tự vi sư” và “trọng Thầy mới được làm Thầy”
E mail liên lạc : banbaochinq@yahoo.com ; Ntdhnt@aol.com ; tdung18@yahoo.com.
Kính mời quý Thầy Cô, mời anh, mời chị, mời bạn đọc lời tâm tình từ trái tim của một CHS NQ gởi cho Thầy giáo cũ gần nửa thế kỷ qua.
Thầy Nguyễn Văn Phố
Kính thưa Thày,
Thắm thoát mà đã hơn ba mươi năm qua, em chưa được gặp lại Thày. Cuộc đời qua nhanh như giấc mộng. Và đối với em, đó lại chẳng phải là một giấc mộng bìnhthường,Thày ạ! Khi giấc mộng tan, thì thấy cuộc đời mình không còn trẻ nữa! Và mọi giá trị hình như đã bị xóa nhòa, thay đổi. Nhưng mặc dầu vậy, mặc dầu cách xa, em luôn luôn nhớ, nghĩ đến Thày,và lúc nào cũng cầu mong Thày được vạn sự lành, may mắn và hạnh phúc trong cuộc sống. Những tháng năm ở bên Thày dưới mái trường Ngô Quyền, được Thày thương yêu chăm sóc dạy dỗ, đối với em mãi mãi là những tháng ngày đẹp đẽ, những kỷ niệm giá trị vô cùng và vĩnh cữu...
Về phần em, em không còn ở Sài Gòn nữa, và đã đến cư ngụ ở thành phố Đà Nẵng kể từ tháng 06/2006 đến nay. Cuộc sống ở thành phố biển Miền Trung Việt Nam, bước đầu cũng gặp nhiều khó khăn do mưa bão, lũ lụt triền miên, nhưng dần dần em cũng đã thích nghi với biển xanh, với núi xanh, với thành phố nhỏ bên bờ sông Hàn yên tĩnh, sạch sẽ và đang được từng bước dựng xây...
Thày ơi, ngày xưa, Thày đã dạy em, làm người phải có lý tưởng và sự nghiệp để đời. Chắc là em đã không hoàn thành lý tưởng và sự nghiệp ấy rồi, xin Thày tha lỗi cho em, vì lý tưởng đời em đã có nhiều , mà sự nghiệp khi em tóc đã bạc đầu không có gì đáng kể!
Giờ đây, em như con chim giang hồ tạm bằng lòng khép lại đôi cánh tha phương nơi chân trời xa lạ... Những mong Thày đừng trách, xin Thày đừng trách tiếng thổn thức của con tim người học trò mang nhiều hoài bão, nhưng không làm được gì nhiều cho cuộc sống...
Quỹ thời gian cuộc đời của Thày, của em, chẳng còn nhiều. Mỗi một ngày qua, là một lời tạm biệt đầy nhung nhớ tình Thày, tình trò.
Thày ơi, Em mãi mãi kính yêu Thày như ngày xưa đã từng, như những tháng ngày qua đã từng...
Em mong làm sao Ơn Trên giúp cho em cơ hội được gặp lại Thày lần nữa...
Kính chúc Thày Cô cùng Quý quyến dồi dào sức khỏe, may mắn và an vui .
Kính thăm Thày.
LÁ THƯ GỬI MUỘN
Thư Nhà (3): Lá Thư gửi muộn
(Phúc đáp Thư bạn VÕ THỊ NGỌC DUNG - CHS-NQ @ USA)
Lời Giới Thiệu:
Thư Nhà (3): Lá Thư Gửi Muộn hay “Hè 68” là lá thư thứ 3 sau Thư Nhà (1) gửi cho Nguyễn Trần Diệu Hương và Thư Nhà (2) gửi cho Nguyễn Hữu Hạnh của anh Nguyễn Ngọc Xuân đã đăng trên trang nhà trong thời gian qua. Thư nhà (3) là một lá thư dài 12 trang chứa chan tình cảm, đầy ắp những kỷ niệm thương yêu về một khoảng đời đã xa, đã khuất dưới mái ấm Ngô Quyền nơi có Thầy Cô, bạn bè yêu dấu cũ đã được anh Nguyễn Ngọc Xuân viết đặc biệt dành cho Tuyển Tập Ngô Quyền 2011 “Một Thời Để Thương Để Nhớ”. Đọc hết Thư Nhà lần này, chúng ta như được trở về thăm lại mái trường xưa với những khuôn mặt thân thương của bạn bè, Thầy Cô cũ, những vui buồn của một thời cắp sách hay bắt gặp chính mình đâu đó trong một góc nhỏ ở sân trường hay trong lớp học.
Rất tiếc, vì khuôn khổ giới hạn của một quyển đặc san và quá nhiều bài vở, nên cũng như một vài bài khác, BBT đã xin phép các tác giả chỉ trích đăng một phần của bài viết trong Tuyển Tập Ngô Quyền 2011 “Một Thời Để Thương Để Nhớ” và sẽ lần lượt đăng tất cả các nguyên bản trên trang nhà. Vì vậy, Thư Nhà (3) đã đăng trong TTNQ 2011 ngắn hơn với tựa đề là “Ngày Ấy, Ngô Quyền”.
Bây giờ, xin mời quý Thầy Cô và anh chị cùng nghe anh NNX chia sẻ những kỷ niệm về “Trường Cũ Tình Xưa” của anh trọn vẹn hơn trong Thư Nhà (3): Lá Thư Gửi Muộn hay “Hè 68” sau đây để rồi cũng sẽ như anh cảm nhận rằng: “Ngô Quyền nay không chỉ còn là một danh từ riêng rất trân trọng, mà đã trở thành một danh từ chung, một danh dự chung và là niềm thương nhớ đời đời của tất cả chúng ta.”
BBT
HÈ 68
Bạn thân mến,
Mùa Hè năm Mậu Thân 1968, 13 anh em bạn chúng tôi – một nhóm nam sinh cùng học lớp Đệ Nhị B Pháp Văn, trường Ngô Quyền - đèo nhau trên chiếc Traction Quinze hiệu Citroen mầu đen 9 seats, bóng loáng, do anh Phạm Sơn D. lái, đi từ Biên Hòa về Sài Gòn để xem kết quả kỳ thi Tú Tài I. Vào thời ấy, xe nhà (auto riêng - sau 1975 thường gọi là xe con) hãy còn ít lắm và chọn lọc lắm, chứ không phải nhiều và lộn xộn như bây giờ. Phong cách người sở hữu và đi xe cũng đường hoàng lịch lãm, chứ không tỏ vẻ khoe khoang, vênh váo, se sua như bọn cơ hội làm giầu bất chính trong xã hội Việt nam hiện nay...
Năm 1968, nhờ trong giấy khai sanh ghi năm sinh là 1950 nên anh D. vừa đủ 18 tuổi để lấy bằng lái auto theo luật định, thế nhưng trước đó anh đã biết lái xe nhà rất rành. Hơn nữa do Ba Má của D. biết rất rõ tính nết và gia đình của nhóm 13 bạn chúng tôi, nhất là biết trong sinh hoạt học tập chúng tôi chơi thân với nhau lắm, nên mới tin tưởng và cho phép D. dùng auto nhà để chở chúng tôi đi.
Không tin tưởng làm sao được nhỉ, khi đi xem kết quả thi về, mười ba đứa chúng tôi đều đỗ cả! Lại còn có bạn đỗ cao nữa, với những hạng ƯU (mention tres bien), hạng BÌNH (Mention Bien) và thấp nhất chỉ là BÌNH THỨ (assez bien) mà thôi!
Đỗ Tú Tài I rồi, đối với gia đình, trong thời chiến tranh, niềm vui trước nhất là Ba Mẹ yên tâm con mình chưa phải đi quân dịch, chưa phải ra chiến trường đối diện với cái chết thường rất bất chợt và vô tình, để có thể ở lại hậu phương tiếp tục con đường học vấn. Còn nếu chọn binh nghiệp, thì con mình sẽ là sĩ quan, chí ít cũng là sĩ quan trừ bị Thủ Đức! Mười ba đứa chúng tôi cũng cảm thấy vui một niềm vui chung, nhưng rất nhẹ nhàng. Liên hoan thi đậu, chỉ là một chầu cà phê ở Quán Cafe “TUYỆT”, đối diện Rạp Hát KHÁNH HƯNG (mới). Vào quán uống cà phê lắng nghe nhạc Trinh Công Sơn, bản gốc, phát ra từ cái máy AKAI kềnh càng, âm thanh được gọi là Stereo Hi-Fi, loa Pioner, với những cuộn băng thu to đùng, do KHÁNH LY hát và do chính Trịnh Công Sơn đệm guitare thùng. Những Tình Khúc, Ca Khúc Da Vàng ..., những “ Diễm Xưa “, “Mưa Hồng “, “Hạ Trắng “..., những “Gia Tài Của Mẹ “, những “ Ru Ta Ngậm Ngùi “..., với tiếng hát KHÁNH LY thời còn trẻ khỏe, với tiếng đệm đàn guitare mộc mạc (đôi khi bị lỗi kỹ thuật) của người nhạc sỹ sáng tác, phần phối âm, phối khí thật đơn giản, máy móc thiết bị thu và phát chưa hiện đại như bây giờ, nhưng đối với chúng tôi và các bạn trẻ đồng thời, nghe rất sâu lắng, thấm thía và mãi mãi là dấu ấn một giai đoạn đáng nhớ của lịch sử... Những cái chết của những chú bộ đội Cụ Hồ tuổi hãy còn trẻ măng, ngay trên đường phố Sàigòn hồi đầu mùa Xuân trong chiến dịch Mậu Thân, đã để lại ám ảnh trong nghĩ suy của những cậu “Tân Tú Tài“ về một cuộc “nồi da xáo thịt“ đang vào giai đoạn dầu sôi lửa bỏng... Nghĩ gì nhỉ? 13 đứa chúng tôi vui mừng còn cùng ngồi bên nhau, hạnh phúc trong không gian ấm cúng của một quán cà phê thanh lịch, nói với nhau về con đường phía trước, nhưng không thể không nhớ đến những người bạn cùng lớp đã thi rớt trong kỳ thi vừa qua, rồi đây sẽ thế nào, giữa thời binh lửa? Cũng không thể quên những bạn học đã rời lớp rất sớm, như bạn Chu M. đang học chung với chúng tôi thì, vì tuổi lớn, phải “thi nhảy “(bỏ một lớp) đỗ Tú Tài I trước chúng tôi một năm, vào làm tại Đài Truyền Hình Việt Nam ngay từ những ngày đầu thành lập, rồi làm phóng viên chiến trường, viết báo “SỐNG” của Chu Tử. Như bạn Nguyễn văn T. có gương mặt hiền khô, rất thân thiện với bạn bè (nhà ở cùng ngõ với nhà của một người Cô giáo rất hiền dịu, là Cô Bạch Thị Bê dạy chúng tôi Quốc văn), ai ngờ lại là người rải truyền đơn trong trường Ngô Quyền, bị lộ, phải bỏ trường bỏ lớp, bỏ bạn bè, thoát vào bưng biền đi theo Cộng Sản từ lúc tuổi 15... Bạn thân, trong lúc tuổi hãy còn thanh xuân cắp sách đến trường, đã chia tay nhau, mỗi người một ngã, mỗi người một hướng đi, mai này đến lượt 13 đứa chúng tôi, rồi sẽ ra sao, ai còn cùng nhau, ai sẽ chia tay? Thôi thì, trước mắt, hãy bằng lòng và cùng vui lên, vì 13 đứa sẽ còn cùng nắm tay vào trường Ngô Quyền học thêm một năm nữa ở lớp Đệ Nhất. Thế là , buổi chiều, vô tư cùng đi ăn Mì Hoành Thánh ở quán Chú Mừng, uống Sâm Bổ Lượng trong Chợ Biên Hòa... Ôi ! Những sợi mì vàng óng vừa dai vừa dòn, qua bàn tay chế biến tinh xảo của Chú MỪNG, bên thùng nước lèo nóng hổi bốc khói, sao mà ngon lắm vậy? Những tiếng cười dòn tan, những câu chuyện nói hoài không dứt, ngọt lịm như ly sâm bổ lượng thắm tình bằng hữu, biết đến bao giờ mới tìm lại được, bạn ơi? Rồi cùng nhau đi về làng quê Tân Ba, qua Bến Đò Trạm, sang sông nhìn thấy mây trời bay ngang ngọn núi BỬU LONG mà cao hứng làm thơ... thẩn thẩn thơ, hay về Cù Lao Phố, cùng đắm mình dưới dòng nước mát sông Đồng Nai giữa buổi trưa Hè, đàn địch, ca hát vang trời...
Miền Nam mưa nắng hai mùa, mùa nắng từ tháng 11 đến hết tháng 4, mùa mưa từ tháng 5 đến hết tháng 10. Miền Bắc 4 mùa rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Vì vậy, đối với miền Nam, gọi là mùa Hè nhưng đó thường là để chỉ khoảng thời gian 3 tháng mà học trò được nghỉ sau một niên học, thường là từ tháng 6 đến hết tháng 8, là thời gian “nghỉ Hè“ .Cho nên, vào “mùa Hè“ ở miền Nam, trời vẫn còn mưa. Sáng nắng, chiều mưa.
Sau cơn mưa, tôi thường ra sau vườn nhà, nhìn cây trái hoa lá còn đọng nước mưa, cảm nhận sự đổi thay của đất vườn đang khô vì nắng, vừa hấp thu đầy nước trời mưa đổ xuống. Đất quê nhà, sau cơn mưa, nghe rõ rệt một mùi hương, mùi hương thân thuộc, gần gũi làm sao!
Mùa Hè năm1968 ấy, khi ra vườn nhà sau cơn mưa, tôi nghe mùi hương của đất thấm đẫm hơn bao giờ hết. Trong cơ thể tráng kiện và trong tinh thần minh mẫn của một chàng thanh niên mới lớn 17 tuổi tràn đầy sức trẻ, cùng với những biến đổi của thời cuộc, tôi nghe trong tôi hình như có một sự chuyển động nào đấy, rất lạ lùng. (Khóa 7 chúng tôi đến năm ấy đã chứng kiến 2 biến cố chính tri lớn: cái chết cùng sự sụp đổ của Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM năm 1963 và cuộc tổng tấn công hồi đầu mùa Xuân Mậu Thân 1968 của quân Bắc Việt). Tôi thơ thẩn nhìn mây trắng bay trên bầu trời xanh cao vút của đồng quê, suy nghĩ miên man... Thầy Hiệu Trưởng vừa trao vào tay tôi hai phong thư, một của trường Pétrus Ký và một của trường Chu Văn An (Sài Gòn), nội dung cả hai phong thư đều cho biết là các trường này có chủ trương thu nhận các học sinh trên toàn quốc vừa đỗ Tú Tài I thứ hạng cao (ưu và tối ưu) vào trường để học năm Đệ Nhất. Cho phép tôi mở phong thư ra đọc xong, Thầy Hiệu Trưởng chỉ nói vỏn vẹn hai từ:
“Tùy anh!“, sau khi cho biết sẵn sàng cho tôi rút hồ sơ học bạ để chuyển trường, nếu tôi muốn. Tôi biết, Thầy vốn rất ít lời, rất nghiêm nghị trước học sinh, nhưng ngay khi chỉ có hai Thầy trò trong Văn Phòng Hiệu Trưởng (một điều mà mọi học sinh đều rất ngán ngại khi được mời lên Phòng Hiệu Trưởng), tôi biết thực sự Thầy thương mến tôi nhiều lắm, vì sau khi từ Nguyễn Du đỗ đầu kỳ thi tuyển vào Ngô Quyền, trong suốt 6 năm học sau đó, từ Đệ Thất đến Đệ Nhị, tôi đều là học sinh giỏi và ngoan, tham gia tích cực và hiệu quả trong nhiều sinh hoạt của Ban Chấp Hành đại diện học sinh NQ qua nhiều niên khóa.
Khi về nhà đưa hai phong thơ ấy cho gia đình xem, Ba Má tôi cũng nói: “Tùy con!“. Anh trai và chị gái cũng chỉ bảo: “Tùy em !“. Lúc ấy tôi tự hỏi, vì sao, Thầy Hiệu trưởng, Ba Má, anh chị, lại trao cho tôi cái quyền hạn to lớn nặng nề đến thế, để quyết đinh việc đi hay ở? Sau này, khi lớn lên, phải đi xa, tôi mới dần hiểu ra, ai cũng biết rõ tâm lý cậu học trò mới lớn đã có một quá khứ đẹp đẽ gắn chặt với sông núi Đồng Nai, thì ai nỡ nói dứt khoát làm chi, việc bảo tôi nên quyết định rời cái tỉnh nhỏ êm đềm đầy kỷ niệm để về Sài Thành phồn hoa, rộng lớn và lạ lẫm? Dẫu việc ấy là việc để tiến thân trên đường học vấn? Đến bây giờ, trong cuộc sống tha hương, tôi càng cảm nhận sâu sắc bài học vỡ lòng từ thời đồng ấu trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư: ”Ôi! Quê hương là nơi đẹp hơn cả!“. Làm sao tôi có thể nhanh chóng rứt bỏ tình thân của nhóm bạn 13 đứa, xa con dốc Ngô Quyền quen thuộc những sớm mai đến trường đầy tiếng reo cười rộn rã? Về Sài Gòn là tôi phải tìm bạn mới, phải đi trên những đường phố lạ không quen... Làm sao tôi có thể xa những người Thầy, người Cô đã dạy cho tôi nhũng bài học đầu tiên khi tôi vừa chân ướt chân ráo bước vào ngưỡng cửa trường trung học Ngô Quyền? Nhớ Thày ĐINH VĂN SÁI, thày NGUYỄN VĂN THẠI, thày ĐỖ TRỌNG THẠC, tuổi già sức yếu vẫn bền bĩ ngày ngày rèn luyện những đứa học sinh tuổi hãy còn nhỏ như con của Quý Thầy, uốn lưỡi cong miệng, phát âm cho đúng prononciation những bài học vỡ lòng Francais elementaire. Nhớ Thày ĐINH HỮU QUYẾN trẻ khỏe, đưa chúng tôi vào vùng trời mới lạ, bao la, phong phú của ngôn ngữ và văn minh Pháp trong Cours de Langue et de Civilisation francaises...
Nhớ Cô ĐẶNG THỊ TRÍ bình dị, nhớ cô BẠCH THỊ BÊ dịu hiền, nhớ Cô PHẠM THỊ NHÃ Ý xinh đẹp (thường make-up rất kỹ trước khi đi dạy bằng auto do chính Thầy BS. Vương Tú Toàn lái), với những bài giảng Kim Văn và Cổ Văn, bằng giọng nói êm ái như tiếng ru của Mẹ, của Chị, gieo vào trí óc và tâm hồn những cô cậu bé học sinh NQ lòng yêu mến vô bờ văn học Việt Nam. Nhớ bàn tay Cô dịu dàng cầm lấy tay Trò, sửa lại cho đúng cách cầm cây bút lông thẳng đứng, chấm mực Tàu, để viết cho chính xác nét dọc nét ngang những chữ Hoa lạ lẫm và ngộ nghĩnh, vào quyển vở kẽ ô vuông, trong những giờ đầu tiên học Hán văn. Những câu Hán văn do Cô dạy, đâu có nhiều và cũng chỉ ngắn gọn thôi, nhưng xúc tích biết bao và đã trở thành phương ngôn của sự sống mà tôi nhớ mãi không quên trong những năm tháng dài của cuộc đời... Có gì là dài dòng khó hiểu để mà không nhớ nhỉ? Cũng chỉ là “Nhân chi sơ tính bổn thiện“, là “Nhân vô thập toàn“, là “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân“, là “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” , là “Nhân bất học bất tri lý“ trong bài học chữ “NHÂN“, hoặc dài hơn một tý như trong bài học chữ TÂM, cũng chỉ là :"Nhân sinh nhất mộng, bất luận kiến tâm, Tâm vô sở cầu thị Phật" hay là trích dẫn thơ của Nguyễn Công Trứ cho dễ nhớ :“Mạo ngoại bất cầu như mỹ ngọc, Tâm trung thường thủ tự kiên kim”... Vậy mà, lời Cô dạy như mới hôm qua, cuộc đời sao vẫn còn có đầy dẫy những kẻ sống BẤT NHÂN, những người sống rất VÔ TÂM trước nỗi đau khổ của đồng bào đồng loại?!!
Rồi còn mảnh vườn sau nhà, nơi tôi thường nô đùa cùng các em tôi, với mùi thơm ngai ngái của đất sau những cơn mưa, mùi hoa bưởi, hoa chanh... đã trở thành mùi hương không bao giờ quên được. Tình bạn, tình gia đình, tình thương mảnh đất con sông quê nhà... Và còn biết bao thứ tình nữa, ray rứt lòng tôi, không cho trí óc tôi có đủ sáng suốt để quyết đoán trong một sớm một chiều... Cái mảnh bằng Tú Tài I ban B hạng ƯU là thành quả đâu phải chỉ của riêng tôi? Đó là thành quả tốt đẹp của nhiều người:
Mang ơn Thày TRẦN VĂN KỶ, Giáo Sư Toán dạy tôi năm Đệ Nhị, giảng bài (kể cả đọc đề Bài tập Toán) mà không cần nhìn giáo án xuyên suốt hai tiết dạy trong suốt năm học, viết và vẽ bằng phấn trắng trên bảng đen mà chữ - số - hình đều đẹp như trong sách in. Số điểm tuyệt đối 20/20 được chấm cho bài thi Toán của tôi trong kỳ thi Tú Tài I tại Hội Đồng Thi Sài Gòn, đâu phải là kết quả của riêng tôi, mà đó là kết quả công lao rèn luyện dạy dỗ của Thầy KỶ, với câu nói mà Thầy thường truyền đạt cho chúng tôi:
“Làm toán không chỉ cần nhanh, mà phải còn cần chính xác và đầy đủ“. Câu nói này của Thầy, về sau, tôi đã ứng dụng không chỉ trong việc làm Toán không thôi, mà còn thực hành trong mọi việc làm khác của cuộc sống, và nghiệm thấy không bao giờ sai!
(Cây bút máy hiệu Pilot mầu xanh cẩm thạch, xài mực bơm Waterman mầu blue-black, có khắc dòng chữ “NHANH-ĐÚNG-ĐỦ “ trên thân cây bút do Thầy KỶ tặng cho tôi trước khi đi thi thay cho lời nhắc nhở của Thày, tôi vẫn còn lưu giữ mãi đến bây giờ, cất kỹ trong cái tủ thờ Tổ Tiên bằng gỗ cẩm, đặt ở chính giữa gian phòng chính của ngôi nhà thờ tộc họ, do Ba Má tôi đã xây dựng tại quê nhà từ năm 1960.)
Nhớ thương Thầy DƯƠNG HÒA HUÂN những giờ Sử Địa được mọi học sinh mong chờ, giống như hồi nhỏ hàng đêm mong đến giờ Bà kể chuyện. Bởi vì Thầy giảng Lịch Sử y như Thày kể chuyện, những câu chuyện hấp dẫn lôi cuốn, bằng giọng nói lưu loát trôi chảy, lâu lâu Thầy lại pha một chút hài hước rất có duyên. Những cặp mắt đau đáu chăm chú nhìn từng động tác của Thầy, những đôi tai vểnh lên lắng nghe lời Thầy, còn tiếc ngẩn ngơ khi tiếng chuông mãn giờ học vang lên. Thày đã chỉ cho chúng tôi phương pháp vẽ bản đồ địa lý một cách dễ nhớ và nhanh nhất. Thầy đã đưa chúng tôi đến những chân trời, những vùng đất mới lạ trên toàn thế giới cũng bằng một một phương pháp giảng giải tài hoa, đặc sắc. Hồi ấy, tôi thường nghĩ Thầy còn hơn cả một Sử Gia, vì phải có một trí nhớ tuyệt vời, siêu việt, mới có thể, không cần nhìn sách, thao thao bất tuyệt về những câu chuyện lịch sử từ ngàn xưa và về những vùng địa lý xa xôi ngàn dặm...Thầy nghiêm, nhưng lại thường rất khôi hài, dí dỏm, tôi yêu Thày nhất ở điểm ấy.
Rồi còn những người Thầy, người Cô mà tôi chưa bao giờ được học, nhưng đã trở thành một hình bóng quen thuộc hàng ngày, không thể thiếu, giống như một người thân trong gia đình mà mình không thể nào quên:
Nhớ Thầy Giám Học PHAN THANH HOÀI, tác phong nghiêm chỉnh đến độ nếu Thày đi trên phố, người xa lạ gặp Thày, không cần hỏi nghề nghiệp, cũng biết Thày làm nghề dạy học. Làm sao tôi quên được dáng người dong dỏng cao, y phục luôn luôn thẳng nếp lịch sự, nước da trắng hồng, giọng nói sang sảng của Thầy? Nhìn thầy là thấy ngay một gương mẫu, một chuẩn mực cần có trong đời sống nhà trường.
Nhớ Cô HOÀNG HƯƠNG TRANG với giọng ngâm thơ và những bài thơ tuyệt diệu, đã gieo vào hồn tôi biết bao cảm xúc, rung động với thi ca...
Nhớ Thầy NGUYỄN XUÂN HOÀNG dạy Triết cho các anh chị lớn ở lớp trên khi tôi còn là cậu bé ngồi ở các lớp Đệ Nhất Cấp. Đứng nhìn qua cửa số lớp học trên lầu, vào những buổi học sáng cuối tháng Chạp, trời lạnh, sương mù và mưa bay lất phất, thấy dáng đi của một người Thầy mặc pardessus từ Phòng Giáo Sư, ở dãy lớp phía trước, đi ngang qua cột cờ sân trường vào dãy lớp phía sau, thì biết ngay đấy là thầy HOÀNG .
Anh ruột tôi, lớn hơn tôi 4 tuổi, được học với Thầy HOÀNG, còn tôi thì không được cái may mắn ấy. Hôm nào có giờ học với Thầy, về nhà thế nào anh tôi cũng kéo tôi ra ngồi dưới gốc cây vú sữa sau vườn nhà, say sưa kể tôi nghe hàng giờ, chuyện về Thầy ở lớp. Thương kính anh, nên thấy anh kính mến Thầy, đâm ra tôi cũng mến và nghĩ về Thầy luôn, mặc dù còn ở lớp nhỏ chưa được học Thầy, thậm chí còn chưa lần nào được thưa chuyện với Thầy nữa .
Phải chăng là “thần giao cách cảm “giữa Thầy và tôi – khi ấy hãy còn là một cậu bé học lớp Đệ Ngũ -, khi mà Thầy chưa hề biết mặt mũi tôi thế nào, Thầy đã chấp bút sửa cho tôi một bài thơ do tôi viết gửi cho Đặc San Ngô Quyền Mùa Xuân, năm ấy do chính Thầy phụ trách cố vấn việc thực hiện? Quyển Đặc San NQ ấy là một trong những quyển đặc san mà tôi nhớ nhất, không chỉ vì tên tôi được đặt dưới một sáng tác được Thầy biên tập lại, mà vì quyển đặc san ấy rất hay và đẹp, từ hình thức đến nội dung. Mãi đến bây giờ, tôi hãy còn nhớ những tựa bài hay, như: “Tôi nhìn tôi trên vách “, “Tôi nhìn Thầy tôi”, cách trình bày, in ấn quyển đặc san cũng rất tao nhã, mang phong cách mới ... Bài thơ mà Thầy đã chấp bút cho tôi, được dành hẳn một trang lớn để đăng, có hình minh hoạ, với những câu mà tôi còn nhớ như vầy:
(Kính thưa Thầy, em xin Thầy cho phép em – NNX)
13 tuổi
Xuân này tuổi đã mười ba,
Buồn như nắng đổ xiêu qua sân trường
Xuân này tuổi đã đầy thương
Con chim câu nhỏ dọc đường xót xa
Ngẫng nhìn lên, tuổi mười ba
Mắt hoa còn thắm nụ hoa ai cười
Ngẫng lên ai dại một thời
Xuân này tôi đã trả đời mười hai
........
Thôi mai dù có ra gì,
Bàn chân thon nhỏ xin ghi dấu đời
Năm tôi lên lớp Đệ Nhất, thì Thầy HOÀNG đã rời trường Ngô Quyền, chắc là Thầy chuyển về dạy ở Sài Gòn cho tiện công việc phụ trách ở Tạp Chí VĂN, một tạp chí mà anh em tôi mua đủ không sót một số nào, đọc xong còn dành cất để đọc lại về sau, cùng với các tạp chí những năm trước đó như: “PHỔ THÔNG “, “BÁCH KHOA,” THỜI NAY”, ”GIÓ MỚI “...
Khi tôi về Sài Gòn học Đại Học và làm việc, những chiều Thứ Bảy Chủ Nhật thường ra phố dạo chơi, hoặc để tìm mua sách báo, xem phim hoặc uống cà phê, thường là ở Quán BRODARD (ngồi trên cái phòng nhỏ giống như cái “chuồng cu” nhìn người nhạc công violon chơi đàn), hay ở LA PAGODE (bỏ từng đồng jeton vào khe của cái máy to để chọn nhạc). Có lần vào khoảng cuối năm 1974, tôi đang ngồi với bạn ở GIVRAL, nhìn qua cửa kính tôi thấy Thầy đang tản bộ trên đường Tự Do về phía Hạ Nghị Viện, dáng đi có vẻ gấp rút lắm… Sau đó xảy ra ngày 30 /4 /1975, từ ấy tôi không còn được gặp Thầy nữa.
Mấy năm gần đây, nhờ trang web Ngô Quyền, tôi mới biết Thầy đang sinh sống ở Hoa Kỳ và vẫn hằng quan tâm đến sinh hoạt của Cựu học sinh Ngô Quyền ở hải ngoại.
Vừa qua, Cô DIỆU HƯƠNG có forward cho tôi xem bài nhận xét phê bình của Thầy HOÀNG về bài thơ “NHỮNG CHIẾC GHẾ CÒN BỎ TRỐNG “của thi sĩ TRẦN KIÊU BẠC, đăng trên Blog “NGUYỄN XUÂN HOÀNG VÀ BẠN HỮU“ của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA). Người đọc bài thơ đã cảm thấy xúc động, mà lời đề bạt, giới thiệu bài thơ của người Thầy cũ còn gây nhiều cảm xúc hơn. Một điều thú vị là anh TRẦN KIÊU BẠC và tôi, đều là cựu hoc sinh Ngô Quyền, Biên Hòa. Ngày xưa Thầy HOÀNG giúp tôi làm thơ ở trường Ngô Quyền-Biên Hòa, và gần nửa thế kỷ sau, trên làn sóng VOA của nước Mỹ xa xôi, Thầy giới thiệu thơ của anh TRẦN KIÊU BẠC, một cựu học sinh Ngô Quyền khác. Phải chăng, đấy là sự kỳ ngộ của cái “duyên văn nghệ”, hay là cái duyên “Thày Trò“, đã vượt lên trên cả không gian và thời gian để gặp nhau, tôi cũng không biết nữa?
Nhắc đến đây, tôi lại chạnh lòng nhớ Cô Tư GIÀU, người nữ giám thị kỳ cựu của Ngô Quyền, xem học sinh như chính con em mình, chăm sóc lo lắng như một người mẹ người Chị trong gia đình. Cô Tư đã giúp đỡ, chỉ bảo biết bao lớp, bao thế hệ học sinh Ngô Quyền trong suốt sự trường tồn của nhà trường...
Mang ơn bè bạn 13 đứa (con số này, trong mùa Hè Mậu Thân 1968, chúng tôi đã kết hợp thêm, và nâng từ số 13 lên thành 24), đã cùng tôi tay nắm tay, như một thứ “hợp đồng tác chiến “, cùng tiến lên trên con đường học vấn không phải là không có chông gai và khó khăn thử thách. Mang ơn bạn những sớm mai thức dậy, đã thấy nụ cười nở trên môi bạn lúc gặp nhau, vì một bài học khó đã có được đáp án đêm qua, do chúng ta đã cùng nhau thảo luận trao đổi tìm lời giải... Những cuộc tranh luận tới nơi tới chốn về một đề tài nào đó, tưởng chừng như là một vấn đề lớn lao ghê gớm lắm, khó có lối ra, thế mà cũng chỉ cần những tràng cười rộn rã, tiếng cười rơi xuống từng trang sách cùng chụm đầu để xem, thế là rất hoan hỷ chợt thấy vấn đề đã được giải quyết, thoả thuê vì cùng tìm thấy lối thoát chung... Cảm ơn bạn đã cho tôi tình thân mến để thấy việc học dễ dàng hơn, học không còn là nghĩa vụ khó khăn ràng buộc, mà đã trở thành một việc làm tự nhiên, tự nhiên như ăn uống đi đứng hít thở... Học, để sáng mai gặp nhau, còn được thấy nụ cười dễ thương nở trên môi bạn, trên môi những người thân mến.
Trong mùa Hè 1968, ngoài 13 bạn toàn là “đực rựa“ đã có từ trước, nhóm chúng tôi còn tiếp đón thêm nhiều bạn nữ, đều là những đấng anh thư, như các Chị Phạm thị Kim Ch., chị Võ thi Kim Kh. nhà ở Khu Cư Xá Dưỡng Trí Viện, hai chị em chị Thanh L. và Thanh Ph. nhà ở gần Ty Công Chánh, Chị Yến N., chị Nguyễn thị Nh. nhà ở đầu dốc Ngã Ba Thành...Cũng có thêm các bạn nam, như các anh Ngô Đình D., anh Trần Phụng T. từ trường Khiết Tâm chuyển sang... Các bạn tôi, ngoài việc hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập, mỗi người đều có tài riêng... Như anh Trầm Vĩnh Ch. có tài vẽ tranh lập thể (sau này, anh Ch. vào ĐH Kiến Trúc và trở thành Kiến trúc sư), anh Phạm Sơn D. ngoài tài nhiếp ảnh, còn cùng với các anh Nguyễn L. và anh Ngô Đình D., có tài làm hoạt náo viên, kể chuyện tiếu lâm cười “pể pụng”, hát tân nhạc rất hay mà ca vọng cổ cũng rất “mùi”, nhất là bài “Dạ cổ hoài lang“ của Thầy Sáu Cao Văn Lầu, hay là bài “Tình anh bán chiếu” của soạn giả Viễn Châu do nghệ sĩ Út Trà Ôn thường hát. Anh Mai Quỳnh L., ngoài thiên khiếu chơi guitare moderne (anh Quỳnh L. chỉ cần nghe ban nhạc Ventures chơi qua một lần là anh có thể đàn lại y hệt), còn có tài viết và vẽ truyện tranh Lucky Luke không khác bản gốc chút nào... Chị Yến N. có mái tóc dài đen mượt, tha thướt trong chiếc áo dài Việt Nam, có giọng ngâm thơ rất đặc biệt, cùng với giọng ca truyền cảm của chị em chị Thanh P. Thanh L., luôn luôn được mời có mặt trong các sinh hoạt văn nghệ. Còn nếu bạn một lần gặp Chị Nguyễn thị Nh., được nghe Chị hát tình ca Trịnh Công Sơn, thì tôi chắc chắn bạn không thể nào rời đi được. Trên gương mặt xinh xắn (và... ”liêu trai” – xin lỗi Chi Nh.-NNX ), cặp kính cận thị gọng đen, Chị Nh. đắm đuối (và khiến thính giả cũng đắm đuối) trong lời ca tiếng hát và khi Chị kết thúc bài hát, mọi người đều ngẫn ngơ, vừa tiếc nuối vừa như lạc từ cõi xa về... Anh Trần Phụng T. mà chúng tôi thường ví von gọi là Lã Phụng Tiên (La Fontaine – nhà văn hào Pháp), vẻ mặt lúc nào cũng giống như một nhà hiền triết, có lẽ vì anh đọc rất nhiều, đi đứng nằm ngồi gì cũng thấy quyển sách trên tay anh. Nhớ anh Võ Ngọc B., thường cùng tôi viết bài gửi báo “Tuổi Hoa “, rất có tài hội họa, âm nhạc và giọng hát trầm ấm không hề kém nam danh ca SỸ PHÚ... Và có một người bạn mà tôi quý mến ngay từ những ngày mới vào Đệ Thất đến suốt 7 năm chung học ở NQ, không chỉ vì “nụ cười có chiếc răng khểnh” của bạn, mà vì ở bạn còn có nhiều đức tính tốt. Thoạt nhìn dáng vẻ bề ngoài giản dị, xệch xạc, dễ nhầm bạn không có gì đặc biệt, nhưng thực sự bạn giỏi lắm! Hồi ấy, đồng phục nam sinh là quần xanh, áo trắng “đóng thùng“ (áo bỏ vào trong quần), nhưng thường thấy áo bạn không được bỏ vô “thùng“, mà là… thùng bỏ vô áo, rồi bạn dùng hai ngón tay liên tục nhét nhét áo sau lưng. Bạn sống rất chân tình, đối với bản thân thì xuề xòa, không thích làm đẹp cho chính mình nhưng lại thích làm đẹp cho người khác, một cách toàn tâm toàn ý. Khi ai yêu cầu bạn làm điều gì, nếu bạn không đồng ý thì bạn trả lời ngay, nhưng nếu bạn nhận lời thì bạn tận tâm tận tình làm chí cốt cho đến nơi đến chốn, dẫu việc ấy khiến bạn hao tâm tốn sức đến đâu đi nữa. Vào những năm cuối thập kỷ 80, khi mà cả thế giới đều đã biết từ lâu cái ứng dụng tuyệt vời của hai con số 0 và số 1, thì môn informatics mới được giảng dạy ở các trường học Việt Nam. Lúc ấy, do có chuyện buồn riêng, sau khi may mắn được gặp gỡ Quý Thầy tại Thiền Viện Pháp Bảo, tôi lánh về tu tập ở Rừng Trúc Viên Thủ Đức, không liên lạc với Sài Gòn và bạn bè nữa. Không hiểu do nhân duyên thế nào, người bạn ấy lại liên lạc được với tôi. Hai đứa chúng tôi về lại con dốc Ngô Quyền ngày xưa, ngồi uống cà phê ở quán cóc, hàn huyên tâm sự về những ngày đã qua không gặp. Bạn kể, sau mấy năm gian khổ trong trại cải tạo, tiếp theo là những năm tháng cũng gian khổ không kém, bạn đi khai thác và trồng vườn cây cà phê ở Xuân Lộc, bây giờ về thành phố Biên Hoà, với mong muốn được cùng các bạn trong nhóm 13 đứa ngày xưa, thành lập trường dạy tin học. Để ghi nhớ tình thân hữu, Trường lấy tên là “AMI“. Đó là sự đóng góp vô điều kiện của tất cả 13 bạn học cùng lớp ngày xưa ở NQ. Có anh KTS.Trầm Vĩnh Ch. từ Sài Gòn về giúp vẽ thiết kế, có anh Mai Quỳnh L. giúp xem phong thủy. Các bạn ở hải ngoại như Nguyễn L., Trần Phụng T., Trần Minh T. cũng nhiệt tình cổ vũ, đóng góp tài vật, ý kiến. Anh Chị Diệp Cẩm Th., có bằng Cao Học Toán Tin, đứng tên Chủ Cơ Sở, và phụ trách giảng dạy. Nhưng nếu công việc dạy và học của “AMI” đạt được kết quả tốt đẹp và việc điều hành trôi chảy thì, cùng với các anh Lê Thành T, Nguyễn Thanh T., Ngô Đình D., công đầu phải kể đến người bạn ấy, vô cùng vất vả trong công tác “hậu cần”. Tôi đã nhìn thấy bạn, bằng chiếc xe gắn máy Honda 78 cà tàng, mỗi ngày chạy đi chạy về Biên Hòa – Sàigòn rất nhiều lần, để tìm mua từng thiết bị máy móc phục vụ cho công việc dạy và học, vừa xử dụng tốt lại vừa có giá cả phù hợp với ngân quỹ eo hẹp lúc ban đầu của Trường AMI. Đủ thấy nhiệt tình và công sức của bạn dành cho “ AMI” là rất lớn. Cơ sở dạy Tin Học “AMI”, với ý tưởng khai sáng, lòng quyết tâm và sự kiên trì của bạn tôi, ngoài thành công nhất định là đã kịp thời phổ biến và truyền đạt một môn học rất cần thiết cho xã hội, còn một thành công nữa mà tôi nghĩ rất đáng trân trọng, là: Sau nhiều năm rời ghế nhà trường NQ, sau những biến cố khốc liệt của đất nước, những người thành lập AMI vẫn giữ nguyên tình bạn thắm thiết ngày xưa ở Ngô Quyền, đồng lòng và cùng một ý chí chung, đem hết tâm sức làm việc hữu ích cho đời…
Chu Mai, Quý Hương, Nguyễn Liễu, Phạm Sơn Danh, Tô Anh Tuấn
Mùa Hè 68 rồi cũng sắp trôi qua, ngày tựu trường đã gần kề, mà tôi vẫn còn phân vân bất quyết việc có về Sài Gòn đi học hay không?... Cùng lúc ấy, Chị Cả tôi đang làm việc tại một Chi Nhánh Ngân Hàng ở Biên Hòa, được chuyển về Ngân Hàng Hội Sở ở phố Hàm Nghi Sài Gòn. Anh trai tôi khuyên : “Chỉ còn một năm nữa là em cũng phải về Sài Gòn học Đại Học, vậy nhân dịp có Chị Hai chuyển nhiệm sở, em nên về Sài gòn học năm Đệ Nhất đi, làm quen trước với không khí Thủ Đô, để khi vào Đại Học khỏi bỡ ngỡ. Việc ăn ở, đã có Chị lo“. Lời khuyên của anh trai cũng là lời quyết định. Thế là, tôi khăn gói theo Chị về Sài Gòn vào những ngày đầu năm Đệ Nhất, bùi ngùi ngoảnh lại nhìn dòng nước sông Đồng lặng lờ trôi dưới bốn nhịp Cầu Gành. Hai chị em cùng ở trên một căn gác trọ, phố Nguyễn Hoàng, đối diện với Nhà Máy Thuốc Lá MIC, gần Quán Phở “NGUYỄN HOÀNG“. Nhà nằm ở khoảng giữa hai trường Pétrus KÝ và CHU VĂN AN, đi đến trường nào cũng đều gần và thuận tiện như nhau. Ngày khai giảng, tôi vào trường Chu Văn An trước. Ở đó, học sinh đa phần là người Bắc. Tôi đến trường này được hơn một tuần, mới học Thầy Đinh Đức Mậu, thày Đàm Quang Hưng, mỗi Thày chỉ đúng được hai tiết đầu tiên. Sau, tôi chọn học ở trường Pétrus Ký, học sinh toàn là người Nam như tôi. Đúng là một ngôi trường có truyền thống tốt đẹp lâu đời, mọi việc dạy và học đều rất quy củ, tiện nghi. Ở đây, tôi được học môn Toán với Thày Giám Học CAM DUY LỄ. Buổi tối, tôi đi học thêm Pháp Văn ở Centre Culturel Francais trên đường Đồn Đất, gần Bệnh Viện GRALL.
Thế nhưng, bạn ơi, tôi nhớ Ngô Quyền quá! Nhớ Biên Hòa vô hạn! Vì vậy, chỉ sau hơn một tháng học ở Pétrus, tôi phải năn nỉ Chị Cả và anh trai về xin cùng Ba Má cho phép tôi được trở về học lại ở Ngô Quyền. Thầy Hiệu Trưởng trường Ngô Quyền (Thầy PHẠM ĐỨC BẢO) không hề trách móc tôi điều gì, rất vui vẻ chấp thuận cho tôi trở về Trường. Mãi mãi tôi ghi nhớ lòng khoan dung độ lượng của Thầy. Sau này, được biết Thầy cũng mở rộng vòng tay tiếp nhận anh Diệp Cẩm Th. về dạy Ngô Quyền khi anh Th. đã hết thời hạn quyền ưu tiên chọn nhiệm sở, tôi lại càng thấu hiểu tấm lòng cao cả của Thầy PHẠM ĐỨC BẢO, một nhà giáo luôn luôn chú trọng việc xử dụng và “trồng người” có tài năng.
Tôi trở lại trường, nhìn mặt điểm danh từng người bạn thân mến, mà trong lòng cảm động muốn khóc. Như trên tôi đã nói, trong mùa Hè qua, chúng tôi đã có thêm nhiều bạn mới trong nhóm. Thế nhưng, có bạn vừa đến, lại cũng có bạn đã rời đi .Tôi nhìn quanh quất các bạn trong lớp, trong trường mà nhớ nghĩ đến các bạn vắng mặt. Có bạn vào quân ngũ. Lại nghe có người đã đi theo “bên kia“! Một nỗi buồn sâu thẳm dấy lên trong hồn tôi, nhất là khi trong số các bạn vắng mặt ấy, có một người bạn khác phái, khác lớp, vì bạn học ở ban A, mà tôi đã quen biết và thương mến từ năm đầu học Đệ Nhị Cấp. Sau mùa Hè 1968, bạn đã giã từ bút nghiên, khoác chiến y, trở thành một trong những nữ quân nhân thông dịch viên trẻ tuổi và đầu tiên cho quân đội Mỹ tại Biên Hòa thời ấy. Khi tôi tìm đến gia đình để thăm bạn, gặp người mẹ hiền mặc chiếc áo túi bà ba trắng đang ngồi lặng lẽ ở thềm nhà. Gặp tôi, bà chỉ ngồi yên không nói, đôi mắt u buồn chỉ tay về phía chiếc tủ thờ đặt ngay chính giữa nhà. Sau cái bình hương đầy những cây chân nhang mầu đỏ, lờ mờ một khung hình lộng tấm ảnh người thiếu nữ mặc áo dài trắng, xiên xiên dọc theo đường khuy áo trên ngực là chiếc phù hiệu NGÔ QUYỀN! Tôi lặng người đứng chết điếng, cảm thấy cả bầu trời như sụp đổ… Bạn tôi đã ra đi vĩnh viễn trong một lần hành quân bằng trực thăng trên bầu trời mặt trận Chiến Khu D.
Bạn thân mến,
Thư bạn gửi cho tôi, hỏi về câu chuyện nhỏ của tôi ở Ngô Quyền ngày xưa trong bài thơ tôi viết. Thư bạn gửi đã lâu, đến nay tôi mới có dịp hồi đáp. Xin thành thật mong bạn thông cảm cho sự muộn màng của bức thư này.
Phải chăng cũng là một sự muộn màng, khi tôi trả lời bạn về một người bạn học cũ ở Ngô Quyền đã đi qua cuộc đời gần nửa thế kỷ? Và có muộn màng chăng, khi thư này dông dài kể lại những hồi tưởng, nghĩ suy từ trái tim tôi về một thời dấu yêu, đã xưa xa, dưới mái ấm ngôi trường của chúng ta? Nghĩ về nơi ấy, là nghĩ về những con người nơi ấy, có Thầy, có bạn, có những tà áo dài trắng Việt Nam tung bay trong nắng sớm hay gió chiều, đẹp tuyệt vời và vĩnh cữu, không bao giờ phôi pha theo thời gian... Có lẽ trong những năm tháng dài đã qua, có đôi khi, bạn cũng thoáng nhìn thấy hình bóng mình qua tà áo ấy? Vậy xin hãy cho phép tôi được cùng bạn, cùng tất cả bè bạn NQ trên toàn thế giới, chúng ta sẽ mãi mãi nhớ, mãi thương về một thời thanh xuân đi học dưới cùng một mái trường... Người bạn NQ trong bài thơ là ai ư? Tôi tin rằng bạn hỏi, tức là đã trả lời rồi vậy.
Thư viết không hết lời, cũng không bao giờ hết tình ý về Ngô Quyền của chúng ta. Câu trả lời không dành riêng tôi, vì Ngô Quyền nay không chỉ còn là một danh từ riêng rất trân trọng, mà đã trở thành một danh từ chung, một danh dự chung và là niềm thương nhớ đời đời của tất cả chúng ta.
Xin tạm biệt bạn và xin hẹn thư sau.
Thân mến,
NGUYỄN NGỌC XUÂN
Việt Nam – Tháng 4/2011
THẦY TÔI
Thư Nhà (2)
(Phúc đáp thư bạn Nguyễn Hữu Hạnh CHS-NQ @ USA)
Bạn thân mến ,
Từ quê nhà Việt Nam, ở Miền Trung giữa mùa mưa bão lạnh lùng, tôi rất vui và cảm thấy rất ấm lòng khi nhận được email thăm hỏi của bạn gửi cho tôi từ nước Mỹ xa xôi. Kính thăm bạn cùng quý quyến an khang.
Cảm ơn bạn đã cho biết Đặc San Biên Hòa Cali 2011 có bài viết đề cập đến tôi và trường NGUYỄN DU. Tôi chưa hân hạnh được đọc bài viết ấy, nhưng xin thưa với bạn, tôi rất vinh dự đã từng là cựu học sinh trường Tiểu Học NGUYỄN DU, Biên Hòa, có truyền thống tốt đẹp lâu đời và là một trong những ngôi trường đầu tiên của quê hương chúng ta, có lịch sử gắn bó với trường Trung Học NGÔ QUYỀN.
Theo Địa chí Đồng Nai, năm 1897, có một ngôi trường đặt ở làng Bình Trước, tổng Phước Vĩnh Trung và sau trở thành trường tiểu học tỉnh lỵ đầu tiên mang tên École primaire complémentaire de Bien Hoa
Đến năm 1954, trường được đổi tên thành Trường Nguyễn Du theo chương trình Việt hóa tên trường. Mãi đến năm 1956,Trường trung học Ngô Quyền mới được thành lập và là một trong số rất ít trường trung học của cả vùng Nam bộ lúc bấy giờ. Trường Ngô Quyền ban đầu chỉ có 4 lớp đệ thất, gồm 150 học sinh. Do chưa có cơ sở riêng nên trường Ngô Quyền đóng tại Trường tiểu học Nguyễn Du.
( Nguồn : VÕ AN NINH - Những ngôi trường đầu tiên ở Biên Hòa )
Trường tiểu học đầu tiên của tỉnh lỵ Biên Hòa có tên là
École primaire complémentaire ( 1897 ) ,
tiền thân của trường NGUYỄN DU ngày nay
Ở NGUYỄN DU, tôi học lớp NHÌ với Cô HUỲNH THANH LOAN niên khóa 1960 – 1961, và học lớp NHỨT D với Thầy HUỲNH NGỌC CHẤN niên khóa 1961 – 1962.
Cô HUỲNH THANH LOAN là người Sài Gòn, là dâu của Thầy Giáo TIẾNG - cùng với quý Thầy Phan Văn Nga, Thầy Hồ Văn Tam, là nhà sư phạm tiếng tăm ở Biên Hòa - có căn nhà xây theo kiến trúc mới rất xinh ở Đường Đắp Mới. (Tôi không biết bây giờ gọi tên con đường này là gì? Đó là con đường từ Cầu Rạch Cát, đi qua Kho Xăng chạy đến Biên Hùng). Cha ruột của Cô THANH LOAN là Giảng Viên Trường Sư Phạm Thực Hành ở Sài Gòn (lúc ấy còn chừa thêm phía dưới tên trường là École Normale de Pédagogie), tác giả của bộ sách giáo khoa tiếng Việt tiểu học “VIỆT VĂN ĐỘC BẢN”, được Bộ Quốc Gia Giáo Dục cho phép xử dụng chính thức song song với “TIỂU HỌC NGUYỆT SAN” (là tài liệu giảng dạy của giáo viên tiểu học, do Bộ QGGD xuất bản định kỳ mỗi tháng một lần).
Cô THANH LOAN tốt nghiệp thứ hạng cao từ trường Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn, nên được bổ nhiệm, theo yêu cầu của chính Cô, về trường NGUYỄN DU Biên Hòa, một ngôi trường với thành phần giáo viên ưu tú được tuyển lọc nghiêm khắc.
Cô tôi có dáng người thanh mãnh, tha thướt trong chiếc áo dài Việt Nam, nói giọng Sài Gòn thanh thoát nghe rất lạ và thích. Biết tôi là cậu bé từ nhà quê (Tân Ba) mỗi ngày phải vượt đoạn đường 11 cây số ra tỉnh học - gương mặt và cử chỉ của cậu chắc không giấu được vẻ hiền lành chất phác - nên Cô yêu tôi lắm. Cô cho tôi làm Trưởng lớp, coi sóc những việc cần thiết trong lớp như: lên văn phòng lấy Sổ Đầu Bài, Sổ ghi điểm, điểm danh, phân công lấy phấn, lau bảng, giữ gìn vệ sinh trật tự, chỉ bài cho bạn học kém, và nhiều việc lặt vặt khác mà Cô nhờ giúp... Tôi rất thích và vui mừng trong những lần được Cô kêu giao việc, vì trong những lần như vậy, tôi lại được đứng gần Cô, được lắng nghe cái giọng nói Sài Gòn nhỏ nhẹ dịu dàng của Cô phả vào sát tai tôi, được nghe mùi hương thơm thoang thoảng của nước hoa toát ra từ người Cô... Có một lần, Cô nhờ tôi làm một việc mà mãi đến bây giờ, đã nửa thế kỷ qua, mỗi lần nhớ lại, tôi vẫn còn ôm bụng cười lăn lóc và không sao quên được:
Hôm ấy, vào giờ ra chơi, Cô kêu riêng tôi ra, đưa cho tôi một phong thư, đã dán kín và đã ghi địa chỉ người nhận là Cha Cô ở Sài Gòn, cùng với tờ giấy bạc 20 đồng, bảo tôi ra Bưu Điện (phía sau trường Nguyễn Du) mua tem dán vào phong thư và gửi đi gíúp Cô. Giá mỗi con tem in hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm để gửi 1 bức thư đi trong nước lúc bấy giờ là 1 đồng. Tôi ra Bưu Điện, mua được 20 con tem, rồi ngồi tại bàn, hì hục dán cả 20 con tem vào phong thư! May sao, khi dán đến con tem thứ 15, thì có một người khách nhìn thấy, ghé mắt hỏi tôi: “Sao cháu dán nhiều tem vậy?” và giải thích cho tôi biết chỉ cần dán 1 con tem là đủ! Trời ạ, tôi hồn vía lên mây, cặp mắt đẫm lệ, lòng rối như tơ vò, vừa sợ Cô la, vừa không biết làm sao bây giờ? Tôi ngồi xuống bậc thềm tam cấp của Bưu Điện, mếu máo khó khăn gỡ từng con tem đã dán ra khỏi bì thư. Gió từ Sông Đồng Nai phía Tòa Hành Chánh tỉnh cạnh đấy, như vô tình trêu chọc tôi, cứ thổi bay từng con tem tôi gỡ... Khi cái phong thư chỉ còn lại 1 con tem, thì dẫu không rách nát, nhưng nó không còn phẳng phiu sạch sẽ như trước nữa! Tôi trở về lớp, rụt rè đưa lại cho Cô tờ giấy có 19 con tem, trong đó có 14 con tem nhăn nhó... Bận dạy học, Cô chẳng để ý hỏi tôi điều gì... Khoảng một tuần sau, chắc là khi ấy Cha Cô đã nhận được thư rồi và hỏi Cô vì sao phong thư nhăn nhó như vậy, nên Cô mới kêu tôi để hỏi. Tôi thiệt tình kể lại đầu đuôi câu chuyện. Chắc là Cô tức cười lắm, nhưng Cô chỉ mỉm cười xoa đầu tôi, hiền từ bảo: “Không sao, thư đã đến tay người nhận rồi!”
(Cô ơi! Ở nơi nào đó bây giờ, đọc được những dòng này, Cô có còn cười con không? - NNX )
Cuối năm lớp Nhì, khi những cây phượng trong sân trường NGUYỄN DU nở đỏ thắm, và mặc dầu trên tay trĩu nặng phần thưởng của một học sinh được xếp hạng Nhất, nhưng trong lòng tôi, một cậu học trò nhỏ nhà quê, cũng nặng trĩu và bỗng dưng muốn khóc khi đến chào từ biệt Cô giáo THANH LOAN vô vàn kính yêu của tôi, để rồi trong mùa Hè, Cô về Sài Gòn phồn hoa đầy ánh sáng, còn tôi về với đồng ruộng làng quê xa vắng, lúc ấy hãy còn chưa có một ánh đèn điện...
Thầy và Cô TIẾNG (cha mẹ chồng của Cô THANH LOAN) đều là những Vị Thầy khả kính, đức hạnh, dạy giỏi, có công lớn trong sự nghiệp giáo dục nói chung của Biên Hòa thời ấy và nói riêng là đối với trường NGÔ QUYỀN trong buổi đầu sơ khai, chắc là bạn cũng có biết? Cô TIẾNG phụ trách giảng dạy trường NỮ CÔNG GIA CHÁNH, rất nổi tiếng, lúc trường NGÔ QUYỀN mới thành lập, nhà trường còn nằm ở phía đối diện với Nhà Thương PHẠM HỮU CHÍ (hồi ấy thường gọi là “Nhà Thương Thí” vì chữa trị cho bệnh nhân không lấy tiền, ngày nay là Bệnh Viện tỉnh Đồng Nai).
Thầy HUỲNH NGỌC CHẤN có gia đình và nhà riêng ở Đường Đắp Mới Biên Hòa, nhưng quê Thầy ở Tân Ba.
Thầy CHẤN là một trong những giáo viên dạy lớp NHỨT rất giỏi của trường tiểu học NGUYỄN DU, dưới thời Hiệu Trưởng là Thầy NGUYỄN QUANG TRÌNH. Tỷ lệ học sinh lớp NHỨT của Thầy CHẤN đậu vô trường NGÔ QUYỀN (là trường trung học công lập duy nhất của tỉnh Biên Hòa lúc bấy giờ) rất cao. Dáng người Thầy CHẤN cao gầy, đi dứng nhanh nhẹn,Thầy thường chải tóc tém ngược lên phía trên (giống như nghệ sỹ ÚT TRÀ ÔN), hồi ấy chưa có các loại gel hoặc spray như bây giờ nên chắc là Thầy có xài brillantine (?!). Thầy rất mực thương yêu hết thảy học trò của Thầy trong lớp, không phân biệt là học sinh giỏi hay kém, hoặc xuất thân gia đình là con cái nhà ai... Tiếng giảng bài của Thầy, giọng nói của Thầy rất rõ ràng, ngọt ngào, dễ nghe. Thầy rất hiền lành, nhưng cũng rất nghiêm, tận tụy siêng năng, chăm chút theo dõi việc học tập của từng người học trò một, không bỏ sót một ai... Thầy rất tình cảm, có lần tôi nhìn thấy Thầy khóc, vì một bạn trong lớp vi phạm kỷ luật và bị điểm kém... Vì là lớp cuối cấp tiểu học, học sinh lại sắp phải qua một kỳ thi tuyển gay go mới được trúng tuyển vô Ngô Quyền, nên Thầy soạn giáo án rất kỹ lưỡng, dạy dỗ chúng tôi rất nghiêm ngặt, kỷ luật, sâu sát từng ly từng tý... Như bạn cũng biết, thời ấy số học sinh tiểu học cả tỉnh Biên Hòa dự thi tuyển vô Ngô Quyền rất đông, nhưng sỉ số được chọn vào Ngô Quyền rất ít, vì Ngô Quyền chỉ mới có vài lớp Đệ Thất... Thầy rất chân tình chăm lo cho tất cả chúng tôi, khiến cho chúng tôi ai nấy đều kính quý Thầy, cảm thấy thân yêu Thầy như người Cha trong gia đình, mọi người không ai bảo ai đều ra sức học tập chuyên cần để Thầy vừa lòng.
Riêng đối với tôi, vì Thầy vừa là đồng hương, vừa là đồng nghiệp với Ba tôi (Ba tôi cũng là giáo viên thuộc Ty Tiểu Học Biên Hòa – Văn phòng Ty đặt ngay phía sau trường NGUYỄN DU), nên tôi lại càng cố gắng học tập nhiều lắm. Và chẳng bõ công, cuối năm học ấy, tôi được lãnh phần thưởng Danh Dự của Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM, do chính Ông HOÀNG MẠNH THƯỜNG, Tỉnh Trưởng tỉnh Biên Hòa lúc ấy, trao tặng. Dạo ấy, phần thưởng to và nhiều lắm, phải chở về nhà bằng xe cyclo, đa phần là Tự Điển loại lớn nhất (như La Rousse, hoặc từ điển của các tác giả NGUYỄN VĂN KHÔN, LÊ BÁ KÔNG, ĐÀO DUY ANH, ĐÀO VĂN TẬP, ĐÀO ĐĂNG VỸ...), sách văn học lịch sử của Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm... và các tác giả nổi tiếng khác, cùng rất nhiều dụng cụ học tập...
Mùa Hè năm lớp NHỨT, vừa tan trường xong, Thầy CHẤN mở lớp luyện thi vào Đệ Thất Ngô Quyền, lớp mở ngay tại nhà Thầy ở Đường Đắp Mới. Tôi từ Tân Ba (cách xa Biên Hòa 11 km), đi xe đạp, qua sông bằng chuyến đò ngang ở Bến Đò Trạm, cũng đến nhà Thầy học luyện thi với các bạn, không bỏ sót buổi nào... Cours luyện thi Đệ Thất của Thầy CHẤN rất đặc sắc, được tuyển lọc từ nhiều đề thi tuyển các năm trước vào các trường lycée nổi tiếng ở Sài Gòn như: Pétrus KÝ, Chu văn An, Marie Curie, Trưng Vương, Gia Long, các trường La-san như Taberd, Chasseloup Laubat… Lại được Thầy tận tình giảng dạy, phân tích cặn kẽ khúc chiết từng đề bài một, nên xong lớp luyện thi của Thầy rồi, chỉ còn vài ngày nữa đi thi, chúng tôi rất vững tin sẽ giành được một chỗ ngồi trong lớp Đệ Thất của trường trung học NQ danh giá nhất tỉnh lỵ...
Ngày đi thi, từ gia đình ở Tân Ba, cha con tôi thức dậy rất sớm (Hôm ấy Ba tôi xin nghỉ dạy một ngày để đưa tôi đi thi). Ngày thường đi học, Má tôi làm điểm tâm ở nhà cho tất cả anh em tôi. Sáng hôm ấy, riêng tôi đuợc Ba tôi dẫn ra Chợ Đồng Ván, vào tiệm cà phê của Chú Chệt, cho tôi ăn bánh bao xíu mại, uống cà fê sữa nóng, là những món ăn Tàu mà tôi rất thích, nhưng với đồng lương ít ỏi của một giáo viên tiểu học có 9 người con, Cha tôi chỉ có thể thỉnh thoảng “chiêu đãi” anh em tôi vào những dịp đặc biệt. Vào quán, tôi thích nhìn những chú người Hoa (mà người dân ở quê tôi thường gọi là “Ba Tàu” hay là “Cắc Chú” – tiếng nói trại của từ “Khách Trú”- ), không uống cà phê bằng ly mà đổ cả ly cà phê nóng ra đĩa rồi mới húp rột rột bằng đĩa... Cà phê nóng lúc sáng sớm ở chợ quê trong quán Chú Chệt có một mùi thơm rất lạ...
Thường ngày đi học, từ Tân Ba xuống trường NGUYỄN DU, tôi đi theo xe lam 3 bánh chở bạn hàng đem rau quả cá tôm từ trong sông ruộng quê nhà ra chợ tỉnh bán, hoặc đi bằng xe đạp qua ngã Bến Đò Trạm, nhưng hôm ấy Ba tôi canh giờ, đón chuyến xe đò sớm nhất, chạy tuyến Thủ Dầu Một–Biên Hòa, chạy ngang chợ Tân Ba, đậu trước nhà tôi. Hồi đó, có 2 hãng xe đò: xe đò “LIÊN HIỆP” (màu xanh - trắng) chạy Biên Hòa – Sài Gòn, và hãng xe đò “ĐỒNG HIỆP”(màu vàng - đỏ), chạy tuyến Thủ Dầu Một – Biên Hòa. Cả 2 hãng xe đò này đều có vé giảm giá cho học sinh. Người lớn 1 đồng/vé, trẻ em và học sinh là 5 cắc/vé.
Xong buổi thi trưa, Ba tôi đón tôi tận cổng trường thi, dắt tôi đi ăn cơm bình dân ở “Quán Cơm Xã Hội”, đối diện với Tiệm chụp hình PHẠM LUNG. Cơm trưa xong, Ba tôi cầm tay tôi dắt đi vòng vòng trong Chợ Biên Hòa, tranh thủ chỉ cho tôi những nơi có quen biết với Ba tôi và là đồng hương ở Tân Ba, như: Chú Ba PHẠM LUNG (Ba của anh Phạm Sơn Danh), Bác Út chủ tiệm hớt tóc trong chợ (Ba của Thầy giáo Nguyễn Tấn Nghiệm – đã mất ).v.v... Xem ra, Ba tôi trân trọng những người này lắm, và dặn dò tôi luôn luôn phải biết tôn kính những người ấy...
Thi xong rồi, trong tuổi thơ hồn nhiên, tôi vô tư về gia đình hưởng mùa Hè vui thú ở quê nhà, hầu như không hề mảy may nhớ đến những lo toan bận bịu về việc học, về kỳ thi đầy khó nhọc vừa qua.
Cho đến một hôm, trong lúc tôi đang nô giỡn với các em tôi sau vườn nhà ở Tân ba, thì Ba tôi đi Biên Hòa về, báo tin mừng: Tôi đã đậu Thủ Khoa kỳ thi tuyển học sinh vào Đệ Thất Ngô Quyền!
Đúng như niềm tin tưởng của Thầy trò tôi, mùa Hè năm ấy là một mùa Hè đáng ghi nhớ trong đời học sinh của tôi. Cha tôi, Thầy tôi và tôi đã sung sướng ôm chặt lấy nhau trong vòng tay thân ái, vỡ òa trong những giọt nước mắt vui mừng hạnh phúc.
Bạn thân mến,
Tục ngữ Pháp có câu: “Cái tôi là cái xấu nhất”.
Thư này viết cho bạn, chính là để trả lời câu hỏi của bạn về trường tiểu học NGUYỄN DU - mái trường chung của bao lớp anh tài quê hương Xứ Bưởi -, vô tình tôi lại nói nhiều điều rất riêng tư về tôi trong thời gian còn là người học trò bé nhỏ ở ngôi trường thân yêu ấy ...
Thế nhưng, bạn có biết không, mỗi khi nhắc đến tên trường NGUYỄN DU và NGÔ QUYỀN - cái nôi đầu đời đi học của tôi - tôi lại không cầm được niềm xúc động, và như lạc vào một trời quê hương đầy kỷ niệm thân thương, gợi cho tôi biết bao cảm hứng dâng trào... Vậy nên, nếu có phải chịu xấu một tý, tôi cũng mạn phép xin bạn đừng cho tôi là hợm mình, để cho tôi được dông dài kể lại cho bạn nghe một ít sự thật về thời đi học của tôi ở Biên Hòa, những sự thật mà tôi đã dè dặt gìn giữ trong lòng từ lâu lắm trên vạn nẻo đường đời, như một vốn quý để sống làm người... Tôi luôn luôn nhớ và biết rằng có nhiều thế hệ đàn anh đàn chị, các bạn học khác của tôi là cựu học sinh NGUYỄN DU, học rất giỏi và đã trở thành nhân tài xuất chúng của đất nước Việt Nam và thế giới. Dù có đi khắp bốn phương trời, mãi mãi hình ảnh Thầy Cô, bè bạn dưới mái trường NGÔ QUYỀN và NGUYỄN DU luôn ở trong trái tim tôi.
Vậy thì dẫu có đi đâu về đâu, dẫu trăm năm nữa, chúng ta luôn luôn vẫn có thể tự hào và vinh dự là con cháu của đại thi hào NGUYỄN DU và là hậu duệ của vua NGÔ QUYỀN, phải không bạn?
Cuối thư, xin một lần nữa cảm ơn bạn đã thăm hỏi, đã cho tôi cơ hội bày tỏ chơn tình của một tấm lòng thành thật, chân quê, về những ngôi trường, những người Thầy muôn thuở của tôi trên quê hương sông PHỐ.
Chúc bạn an vui, thành công và phát đạt trong cuộc sống nơi quê người.
Xin tạm biệt và hẹn thư sau.
Thân ái,
NGUYỄN NGỌC XUÂN
Đà Năng Việt Nam – Tháng 10 / 2010
Ghi thêm: Với tất cả sự dè dặt, qua một thời gian rất lâu xa cách quê hương Biên Hòa, kính xin Quý Thày Cô, quý vị tiền bối, quý Anh Chị thuộc lớp thế hệ huynh trưởng và các bạn đồng học của tôi, vui lòng thứ lỗi và sửa chữa những khiếm khuyết nếu có, trong bài viết trên đây. - NNX
GỬI NGƯỜI EM GÁI
Thư Nhà (1)
Vào hạ tuần tháng 5/2010, từ Cali em đã gửi email báo trước cho tôi biết tin em sẽ về thăm quê nhà ở Nha Trang khoảng hai tuần lễ kể từ ngày 23/05/2010, nhưng trong email em đã kín đáo không cho tôi biết là thân phụ em vừa mất và mục đích chuyến về Việt Nam lần này của em là để lo tang Cha.
Mười ngày sau khi em đã về Việt Nam, từ Đà Nẵng tôi nhận được điện thoại của em gọi từ Nha Trang. Đó là lần đầu tiên tôi được trò chuyện cùng em, dù mới chỉ là qua điện thoại. Giọng em trong sáng, bình tĩnh, tự tin, lại có pha chút dí dỏm nữa... Em không có lời nào cho biết rằng em vừa lo xong việc an táng phụ thân và đang cư tang tại gia đình cha mẹ em ở Nha Trang. Trong giọng nói của em qua điện thoại, tôi không nhận ra mảy may nào sự phiền muộn buồn rầu của một người con gái vừa mất Cha, đã bằng mọi giá vượt ngàn dặm xa xôi, gấp rút vội vã trở về quê hương để kịp lo tang sự cho phụ thân.
Đến bây giờ, tôi còn được biết thêm rằng, nếu tôi không nhầm thì ngay khi còn ở Cali trước khi về Việt Nam lần này, em cũng không thông báo cho một thân hữu nào ở Mỹ biết tin Ba em mất (?). Chỉ đến khi từ Nha Trang trở lại Mỹ, sau khi đã chu toàn việc an táng phụ thân tại quê nhà, bằng một bức thư và một bài viết thay lời cáo phó, em đã làm mọi người xúc động gấp bội phần, khi hay tin người Cha kính yêu của em vừa tạ thế.
Tôi chưa được hân hạnh gặp em lần nào, và chỉ mới biết em trên trang web Ngô Quyền hơn một năm qua. Nhưng tôi rất cảm kích và trân quý những bài văn do em viết. Em viết nhiều và viết khỏe. Và bài viết nào của em cũng đều có giá trị, không chỉ về mặt văn chương mà còn có giá trị lịch sử nữa. Những bài viết ấy thật hữu ích không những cho mọi người hiện nay mà còn cho thế hệ mai sau, vì đã ghi lại rõ nét và trung thực sự khác biệt của tình trạng đất nước và con người Việt Nam trước và sau năm 1975, bằng ngòi bút của chính người đương thời trong cuộc - một phụ nữ dũng cảm, trí tuệ và nhân ái...
Sẽ là ấn tượng mãi mãi, hình ảnh người con gái nhỏ Việt Nam can trường vượt khó tại trại tỵ nạn Pulau Galang trong thập niên 80:
Những điều em viết phải đâu chỉ là hư cấu? Đó là sự thật không thể chối cãi hay phản biện. Gần đây, một Trường Đại Học Nhà Nước ở thành phố Hồ Chí Minh Việt Nam đã đăng lại sự thật ấy, mà không hề cắt xén hay bôi xóa một dòng chữ nào của em:
http://www. daihocsuphamkythuat-thuduc. com/khidatchuyenminh.html
Nhẹ nhàng, thấm thía ,chân thành, cảm động, "MƯA LÂU THẤM ĐẤT " luôn luôn là món quà thắm thiết tình Mẹ cho mọi người Việt nam vào Vu Lan hàng năm.
Giờ đây, sau hành trình thiên lý về đất Mẹ, khi cất bước trở về Mỹ, em đã tròn vẹn lòng hiếu thảo của người con gái, mang theo hình ảnh cây cao bóng cả của người hiền phụ vừa nằm xuống dưới bờ cát trắng Nha Trang:
http://ngo-quyen.org/D_1-2_2-148_4-1149/Nguyen-Tran-Dieu-Huong---DOAN-CUOI-HOI-KY-CUA-BA.html
........
Khi em mới về Nha Trang, do không biết nhà em có đại tang, vô tình tôi vui mừng welcome em "đã về đến nhà " bằng 1 email gửi kèm bài hát "Nha Trang ngày về":
http://www.youtube.com/watch? v=U7p57NSvc6o
Không biết khi nhận được email ấy, em có giận tôi không? Nếu có, xin em thứ lỗi... Nha Trang và bài hát Nha Trang từ lâu là khúc hát muôn thuở yêu thích của tôi. Quê hương mình nói chung và Nha Trang nói riêng, rất đẹp, phải không em? Tôi đã đến Nha Trang nhiều lần, mỗi lần với mỗi xúc cảm khác biệt về đất nước quê hương: lần đầu tiên vui mừng hớn hở biết bao nhiêu, lúc về thăm quê hương rực rỡ nắng vàng cát trắng khi vừa tốt nghiệp HVQGHC năm 1973, để rồi buồn bã bấy nhiêu lúc trở lại đấy năm 1976, khi nhìn thấy cảnh tiêu điều của bãi biển và thành phố Nha Trang, mặc dầu bên cạnh tôi lúc ấy có người vợ hiền vừa mới cưới... May sao nhà tôi lúc ấy, bằng tâm hồn của một văn nghệ sỹ Sài Gòn, giữa tuổi thanh xuân của đôi lứa, đã cùng tôi chia sẻ vui buồn về những sự mất còn của đất nước, của Nha Trang (và đã hát cho tôi nghe "Nha Trang ngày về " bằng chính trái tim mình )... Gần đây, tôi cũng có đến Nha Trang. Nha Trang ngày nay "hoành tráng ", không chỉ là VinPearl, mà còn là Hòn Ngọc của Viễn Đông.. .Nhưng " hòn ngọc của riêng tôi "đã mất rồi, em ạ !! Mới hay, cuộc sống vô thường... Cảnh cũ người xưa đâu tá? Chỉ nghe tiếng sóng vỗ rì rầm trên bãi khuya , như lời thì thầm muôn đời kể lại những kỷ niệm êm đềm của một thời quá vãng vàng son... Vậy nếu em đã có hoặc không nghe "Nha Trang ngày về" cũng xin em đừng trách nhé? Xin hãy cho tôi nợ em một lần đến Nha Trang, một lần đến để thăm lại mảnh đất và con người mà mình hằng yêu dấu, để nhớ mãi những tâm tình đã chia xa...
Một trùng hợp ngẫu nhiên là năm nay ngày Lễ Cha (Father's Day) lại nhằm vào những ngày em chịu tang thân phụ. Kể từ khi Ba tôi mất (1981, hàng năm vào dịp Lễ Ch , tôi thường nghe lại PAUL ANKA hát bài Papa:
http://www.youtube. com/watch? v=QZ6LwbmlZ- E&feature=related
Một buổi sáng trong thời gian em đang ở Nha Trang, vừa mở máy nghe bài hát trên, tôi nhận được email của anh T. A.T. - một người bạn học cùng lớp với tôi trong suốt 7 năm ở Ngô Quyền - forward "cho anh em bạn AMI Biên Hòa" bài viết của anh Nguyễn Hữu Hạnh, thay lời báo tin mừng con gái của T.A.T, vừa đỗ Tân Khoa Bác Sỹ tại Mỹ. Tôi chưa vội reply cho T.A.T để chúc mừng vì sợ niềm vui bay đi xa mất, một mình tôi ngồi bên máy tính lặng lẽ lắng nghe niềm vui ngấm sâu tận tâm hồn... Tôi thầm nói "Cha nào con nấy" , xưa T.A.T học giỏi thì bây giờ con cái cũng đỗ đạt vậy... Lúc còn học chung ở NQ, vào năm Đệ Tam, có lần T.A.T khuyên tôi "Sống ở đời phải để dành, mày ạ! Kể cả tình cảm cũng phải để dành". Lúc ấy nghe T. nói , tôi chỉ thầm mỉm cười thằng bạn "già bày đặt lớn tuổi "! (T. lớn hơn tôi 1 tuổi ) Có lẽ ngày đó T. nghiêm túc trong tình cảm hơn tôi , còn tôi trong lúc tuổi dậy thì đã vội vàng để "hồn lỡ sa vào đôi mắt em", đem lòng thương thầm nhớ trộm một cô bạn gái học khác lớp ở ban A… Tất nhiên, những tình cảm ấy chẳng đi đến đâu và chỉ là mối tình vụng dại của tuổi học trò... Nhưng mấy mươi năm về sau này, nhớ lại câu nói ngây ngô của thằng bạn cũ ngày nào, tôi thấy đúng làm sao! Đọc bài "Một bông hồng cho Cha" của nhà văn VÕ HỒNG , tôi lại nghiệm ra lời T.A.T. đã nói trong thời thơ ấu là không sai:
http://vietmessenger.com/books/?title=motbonghongchocha&page=1
Không bộc bạch dễ gần như Mẹ, cha thương con nhưng không thố lộ bày tỏ rõ ràng, công khai, lúc nào Cha cũng ẩn giấu tình cảm yêu thương con trong bộ mặt nghiêm trang, trong tác phong ngôn phong cứng cỏi, kín đáo... Đó chẳng phải là một cách "để dành tình cảm" cho con hay sao? Để dành mãi từ khi con còn bé thơ cho đến ngày con khôn lớn, học hành đỗ đạt thành danh. Như vậy là Cha phải chắt chiu nhiều lắm, phải tốn công nhiều lắm, bằng tất cả mồ hôi tâm trí của trọn cuộc đời Cha... Cái bằng-cấp-cuộc-đời mà con cầm được trên tay hôm nay là cả một kho-tàng-để-dành của Cha...
Sau khi Ba tôi mất (1981), tôi thường tìm gặp bạn bè tâm tình cho vơi bớt nỗi buồn. Nhưng dạo ấy còn khó khăn quá, bạn thân đứa thì còn dập vùi trong trại tù cải tạo, đứa đã đi xa, đứa nào còn ở nhà thì tứ tán khắp nơi tìm kế mưu sinh... Chỉ có mình tôi với nỗi cô đơn buồn chất ngất... Thư này viết cho em, thật dài dòng, nhưng tôi không ngại làm mất thời giờ của em đã đọc , vì hy vọng những dòng thư sẽ như là những lời tâm tình chân thật của một người bạn trong lúc em còn tang chế, để em không bao giờ cảm thấy cô đơn như tôi ngày trước... Bên em bây giờ luôn có rất nhiều bạn, trong đó có cả một người bạn lớn hết sức thiết thân là trang web Ngô Quyền, một trang web mà theo như anh TRẦN NGỌC DANH đã nói, là một trang web tràn đầy tình người...
Đầu thư, tôi có nói không nhận ra chút buồn nào trong giọng nói của em qua điện thoại, nhưng thực sự tôi biết nỗi buồn to lớn ấy đã được giữ kín trong tâm hồn của một phụ nữ đầy nghị lực, ý chí và can đảm, luôn luôn bình tĩnh bước đi và vượt qua mọi khó khăn...
Giờ đây, thắp nén tâm hương kính tưởng niệm người đã khuất, tôi cầu mong Người gia hộ cho em luôn luôn cảm thấy lòng thư thái, tâm an và dồi dào sức khỏe, may mắn, thành công trong cuộc sống.
Bên thềm Đại Hội Họp Mặt Truyền Thống Cựu Học Sinh Ngô Quyền, tôi chúc em tìm thấy niềm vui là thành viên của một đại gia đình đầy tình thương yêu đoàn kết. Chúc Đại Hội thành công viên mãn.
Xin tạm biệt và hẹn em thư sau.
Thăm em:
NGUYỄN NGỌC XUÂN
Việt Nam - Tháng 6 / 2010