- Kỷ Niệm Thời Học Sinh
- Nhớ Mùa Xuân Năm Xưa
- Những Dòng Lưu Bút Ngày Xanh
Kỷ Niệm Thời Học Sinh
Tôi được sinh ra và lớn lên ở Cù Lao Phố của quê hương xứ Bưởi, nơi có dòng sông Đồng Nai bao bọc xung quanh với ruộng lúa xanh tươi và cây ngọt trái lành. Đối với tôi, thời thơ dại là phần đời đẹp nhất trong nửa quãng đời sống ở quê nhà và lại càng có ý nghĩa hơn khi nửa quãng đời còn lại làm thân lưu lạc nơi xứ người.
Không biết Tổ Tiên tôi đã định cư ở đất Cù Lao từ lúc nào? Tôi chỉ biết rằng mảnh đất nầy đã ôm ấp hình hài của Ông Bà Cố, Ông Bà Nội và cả Cha Mẹ tôi nữa. Đó là lý do dù có sống nơi đất khách bao lâu chăng nữa thì con tim của tôi vẫn còn niềm thương nhớ khôn nguôi chốn quê nhà như một điều gì thiêng liêng không thể chối bỏ.
Thuở Ba tôi lớn lên, sau khi học xong trung học thì lại có việc làm ở Saigon nên phải chuyển về đó sinh sống. Hàng tuần vẫn về Biên Hòa thăm Cha Mẹ. Rồi Ba tôi lập gia đình và vẫn sống ở Saigon cho đến khi năm đứa con lần lượt ra đời, được dưỡng nuôi và lớn lên ở quê Nội. Ông Nội tôi mất khi anh Hai tôi mới vài tháng tuổi nên trong tôi hình ảnh của ông Nội rất mơ hồ. Tôi chỉ biết ông Nội là người có tấm hình mà gia đình đang thờ phượng, thế thôi!
Còn hình ảnh bà Nội tôi luôn khắc sâu trong trí nhớ vì Bà đã thay Cha Mẹ tôi chăm sóc cả một đàn cháu nhỏ từ lúc sinh ra cho đến khi học xong trung học. Bên cạnh bà Nội là cô Hai - chị cả của Ba tôi - mà anh em tôi gọi là má Hai để phân biệt với má ruột của tôi là má Sáu vì Ba tôi thứ sáu. Bà Nội và má Hai là hai người đàn bà thân thương và kính mến đã đi sâu vào tâm hồn tôi qua những kỷ niệm của thời thơ ấu. Còn má Sáu của tôi cũng là người tôi yêu kính lại gắn liền với phần đời của tôi lúc trưởng thành.
Khi tôi được sáu tuổi, vào học lớp Năm của ngôi trường làng Hiệp Hòa thì má Hai là người đưa tôi đến trường trong buổi học đầu tiên. Tôi cũng mang tâm trạng bỡ ngỡ trong ngày khai trường như tác giả Thanh Tịnh đã ghi lại trong tác phẩm “Tôi Đi Học”. Năm ấy, tôi được học cô Năm Châu, người chuyên dạy lớp Năm nhiều năm và rất nghiêm khắc với học trò nên đứa nào cũng sợ và răm rắp nghe theo lời Cô. Vì trường nhỏ, mỗi cấp lớp chỉ có một lớp nam và một lớp nữ nên hầu như học sinh nữ cả làng đều phải qua tay Cô dạy học ở lớp Năm. Cô tuy nghiêm khắc nhưng rất thương học trò và tận tâm dạy dỗ nên thuở ấy tuy không qua lớp mẫu giáo mà học trò lớp Năm nào cũng biết đọc và biết viết để chuẩn bị lên lớp Tư.
Khi ở nhà tôi sống bên cạnh bà Nội và má Hai, đến trường thì được cô giáo dạy dỗ nên tôi cảm thấy rất gần gũi với Cô trong suốt năm học đầu tiên của bậc tiểu học. Đến năm lớp Tư thì được học thầy giáo Ngàn cũng là vị Thầy đầu tiên của quãng đời học sinh. Tưởng đâu Thầy nghiêm khắc hơn cô Năm nhưng thực sự Thầy có phần dễ dãi hơn và thương yêu chúng tôi như con. Sẵn có nề nếp từ lớp Năm nên tôi chăm học và có kỷ luật, vì vậy tôi ít bị Thầy rầy la hay quở phạt.
Đến lớp Ba thì tôi học cô Năm Tích, cũng nghiêm khắc như cô Năm Châu và hay đánh đòn học trò những đứa ham chơi và lười học. Trái lại, những đứa giỏi ngoan thì Cô rất thương và khen ngợi trước lớp. Vì sợ đòn nên bọn con gái chúng tôi đều ráng học cho giỏi. Một điểm đặc biệt, khi lớp Cô có nhiều học sinh trùng tên thì Cô thường gọi tên và họ chung với nhau cho dễ nhớ. Vậy mà những cái tên đó theo chúng tôi cho đến khi lên bậc trung học lúc bạn bè cũ gặp lại nhau. Nào là Hoa Đỗ, Hoa Ngô, Hoa Phan, Hoa Dương, Hoa Đào… nào là Hạnh Phạm, Hạnh Nguyễn; Loan Đào, Loan Lê; Phụng Phạm, Phụng Lê; Gái Lôi, Gái Nguyễn…
Lên lớp Nhì thì tôi không nhớ tên thầy cô giáo, có lẽ không phải là người ở Cù Lao. Còn cô Năm Châu ở ấp Nhất Hòa, cô Năm Tích ở ấp Nhị Hòa nên tôi vẫn còn nhớ nhà của hai Cô. Nhà thầy Ngàn ở gần trường nên học sinh nào cũng biết nhà Thầy. Đặc biệt khi lên lớp Nhất thì tôi học cô Trần Thị Hai, Cô ở nơi khác và mới ra trường Sư Phạm Cộng Đồng Long An về dạy ở trường Hiệp Hòa. Cô còn rất trẻ, dáng người cao ráo và có mái tóc dài thật đẹp. Lúc nào Cô cũng nở nụ cười thân thiện khi tiếp xúc với mọi người. Cô dạy học rất nhiệt tình và thương yêu học trò như những đứa em trong gia đình nên chúng tôi rất quý mến Cô. Cuối năm lớp Nhất, Cô cho cả lớp chụp hình chung với Cô để làm kỷ niệm và tặng cho mỗi đứa một tấm. Cho đến bây giờ - 50 năm sau - tôi vẫn còn giữ tấm hình đó. Màu thời gian đã làm tấm ảnh vàng úa, nhạt nhòa nhưng hình ảnh của cô giáo và bạn bè thân thương năm ấy vẫn còn được lưu giữ ở một góc ký ức trong tôi. Dòng thời gian vẫn âm thầm trôi, những đứa bạn năm xưa tản mác khắp nơi, kẻ chân trời người góc biển và tất cả đã bước vào tuổi lục tuần - tuổi hoàng hôn của đời người - có lẽ đôi lúc thả hồn về dĩ vãng, nhớ lại một thời thơ dại đã qua mà chạnh lòng nuối tiếc...
Lớp Nhất A (1963 - 1964) Trường Tiểu Học Hiệp Hòa
Một kỷ niệm khó quên của năm học lớp Nhất là tôi được nhận giải Ba của cuộc thi Nữ Công trong dịp Lễ Hai Bà Trưng. Hàng năm, tỉnh Biên Hòa đều có tổ chức thi nhiều môn dành cho học sinh nữ toàn tỉnh nhân ngày Kỷ Niệm Hai Bà Trưng. Riêng môn Nữ Công, mỗi trường gửi một học sinh nữ lớp Nhất để dự thi ở trường Nguyễn Du và tôi hân hạnh được đại diện trường Tiểu Học Hiệp Hòa tham dự năm 1964. Nhận được giải Ba cũng là một vinh dự cho tôi và phần thưởng là một số tập vở cùng một chiếc hộp bằng sơn mài, phía ngoài có hình hai con cá vàng thật đẹp. Tôi nâng niu gìn giữ chiếc hộp thật cẩn thận suốt mấy chục năm dài và cuối cùng phải để lại Việt Nam khi lên đường sang Mỹ năm 1995. Có thể chiếc hộp đã bị thời gian làm tróc đi lớp sơn mài hay đã bị hư hỏng không sử dụng được nữa, nhưng hình ảnh cô bé nhà quê ngập ngừng bước lên trước khán đài nhận giải của ngày ấy và chiếc hộp bóng bẩy vẫn còn lưu lại trong vùng ký ức của riêng tôi.
Cũng năm học lớp Nhất, tôi được chọn vào đội múa của trường để dự thi văn nghệ của các trường toàn tỉnh Biên Hòa. Thế là sau giờ học và ngày cuối tuần, chúng tôi ráo riết tập dợt múa và hát bài “Rắc Cành Dinh”, một bài hát miền sơn cước. Tuy không giành được giải văn nghệ cho trường nhưng chúng tôi cũng được dịp thi thố tài năng với các trường làng bạn cùng với vài trường lớn của tỉnh. Đó cũng là những hoạt động nổi bật của học sinh qua sự tận tâm dìu dắt của quý Thầy Cô kính yêu.
Học xong lớp Năm trường làng, tôi chuẩn bị thi tuyển vào lớp đệ Thất trường Trung Học Ngô Quyền. Tuy đi làm ở Saigon nhưng đến ngày thi tuyển thì Ba tôi xin nghỉ làm để đưa tôi đi thi ở Biên Hòa. Rồi đến ngày xem kết quả, Ba tôi cũng về Biên Hòa để chở tôi đi. Ba tôi rất vui mừng khi tôi thi đậu và thưởng cho tôi một bữa ăn mì ở tiệm “Mì Chú Mừng”. Chính Ba tôi là người chở tôi đi học ngày đầu tiên ở trường Ngô Quyền cũng là lần đầu tiên tôi mặc chiếc áo dài vải trắng với quần satin đen, đội nón lá, mang chiếc cặp da và chân mang đôi guốc mới. Ôi, cái hình ảnh thơ ngây thật dễ thương đó làm sao tôi quên được!
Giã từ những trò chơi trẻ con của trường tiểu học: đánh đũa, búng hột me, búng thun, nhảy cò cò, nhảy dây… tôi trưởng thành và điềm đạm hơn một chút khi lên bậc trung học. Tôi có thêm nhiều bạn mới ở rải rác khắp các xã của tỉnh Biên Hòa như Tân Vạn, Chợ Đồn, Hãng Dầu, Tam Hiệp, Hố Nai, Tân Mai, Bửu Long, Hóa An… Chúng tôi chơi chung với nhau và hễ có cơ hội là rủ nhau đến nhà của một bạn nào đó chơi vài tiếng đồng hồ có khi kéo dài cả buổi. Những dịp Lễ Tết thì đi chơi xa có khi cả ngày và bao giờ cũng được ba mẹ của bạn mình tiếp đón và cho ăn no mới về. Đến nhà các bạn có vườn cây ăn trái thì tha hồ mà leo lên cây hái trái chin vừa ăn vừa nô giỡn ầm ĩ. Thật là một thời niên thiếu vô tư hoa mộng!
Với tôi, thời trung học đệ nhất cấp là phần đời đẹp nhất của tuổi học trò vì đó là cái gạch nối của tiểu học và trung học đệ nhị cấp. Chúng tôi đã giã từ tuổi thơ ngây và sắp bước chân vào tuổi trưởng thành với nhiều mơ ước cho tương lai. Khi bắt đầu lên đệ Tam của bậc trung học đệ nhị cấp thì cũng là lúc tình cảm phát triển, lại học chung với nam sinh nên không tránh khỏi những mối tình học trò vụng dại. Từ đó, tâm hồn của các nữ sinh không còn trong trắng thơ ngây mà đã biết mơ mộng một bóng hình nào đó để rồi thẫn thờ và mang những nỗi buồn không tên...
Bây giờ bước vào tuổi hoàng hôn ở xứ người, khi lần giở những trang lưu bút ngày xanh, hồi tưởng lại thời nữ sinh hoa mộng với tà áo dài tha thướt của những ngày xưa thân ái, tôi chợt thấy lòng bâng khuâng khi nhớ lại những kỷ niệm xưa cùng vài mảnh tình con lưu lại trong ký ức:
Nữ Sinh
Nhớ quá đi thôi, thời nữ sinh!
Một mình len lén đọc thư tình
Ai đó bỏ vào ngăn bàn học?
Kèm một món quà bé xinh xinh...
Còn đâu tà áo dài tha thướt
Trong trắng thơ ngây tuổi học sinh.
Hình như... còn sót trong trí nhớ
Vài kỷ niệm xưa, dăm mảnh tình!!!
(hbp)
Từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường, được biết bao Thầy Cô tận tâm dạy dỗ và không hiểu tự lúc nào trong tôi, hình ảnh Thầy Cô là thần tượng để tôi mơ làm cô giáo. Đẹp làm sao cái hình ảnh lớp học với cô giáo đứng trên bục giảng bài và phía dưới là những học sinh hồn nhiên như những trang giấy trắng! Giấc mơ đó đã trở thành hiện thực khi tôi được trúng tuyển vào trường Quốc Gia Sư Phạm Saigon. Cuối cùng sau hai năm học, tôi đã tốt nghiệp và trở thành cô giáo, tiếp bước quý Thầy Cô dấn thân vào nghề dạy học mà đối với tôi là một nghề tuy đạm bạc nhưng có tâm hồn cao quý.
Rời khỏi trường Sư Phạm, cầm sự vụ lệnh trong tay là tôi đã thực sự làm người trưởng thành để tự quyết định và có trách nhiệm với chính bản thân mình. Bây giờ Cha Mẹ sẽ là người cố vấn để truyền đạt những kinh nghiệm sống mà Người đã trải qua. Tôi thật sự bước vào đời với hành trang là những điều dạy dỗ của Cha Mẹ và những kiến thức Thầy Cô đã truyền đạt. Tôi mở cánh cửa tương lai, mang hành trang bước vào đời, bỏ lại sau lưng những kỷ niệm đẹp của thời thơ dại với gia đình, Thầy Cô và bè bạn…
Hát Bình Phương
Nhớ Mùa Xuân Năm Xưa
Sáng nay Phương thức dậy sớm, rón rén bước ra khỏi phòng trong lúc Bình còn đang say ngủ. Tối hôm qua là đêm 28 Tết, vợ chồng Phương vẫn đi làm đến gần nửa đêm mới về đến nhà. Đó là công việc làm hàng ngày của Bình và Phương từ mười mấy năm nay trên đất Mỹ. Đặc biệt Tết nầy - năm Quý Tỵ - rơi vào cuối tuần nên Bình và Phương được nghỉ ở nhà để đón giao thừa tối nay thứ bảy 29 Tết. Trong thời khắc giao mùa ở Việt Nam, mọi người rộn ràng đón mừng Tết Nguyên Đán thì ở đây, những người Việt tha hương hồi tưởng về những mùa xuân năm cũ ở quê nhà…
Cứ mỗi năm - vì nơi Phương ở cách Saigon 15 giờ trễ hơn - vào lúc 9 giờ sáng của ngày cuối năm Âm Lịch, Phương có thói quen ngồi lặng lẽ một mình để hình dung cảnh đón giao thừa ở Việt Nam, nơi mà đại gia đình của vợ chồng Phương đang sinh sống. Phương thấy lòng bâng khuâng khi nhớ lại thời thơ ấu của mình ở quê Nội Biên Hòa đón giao thừa trong khung cảnh thật trang nghiêm, bà Nội lâm râm khấn nguyện trước bàn thờ Ông Bà nghi ngút khói hương, mong một Năm Mới với nhiều phước lộc cho gia đình và các con cháu. Tiếng pháo Tết nổ đì đùng và xác pháo đỏ rơi khắp nơi như vẫn còn âm vang ở một vùng ký ức xa thăm thẳm...
Thấm thoát mà đã 18 năm kể từ ngày Bình và Phương cùng các con đến định cư ở thành phố Seattle nầy. Cũng như các năm trước, những ngày Tết đến rồi đi theo chu kỳ của thời gian, để lại trong lòng Phương niềm nhớ nhung và nuối tiếc! Dù rằng Phương đã cố gắng tạo cho gia đình một cái Tết với dưa hấu, bánh chưng, trái cây, thịt kho, dưa giá… cùng với cành mai hay cành đào. Có thể Phương đã tạo ra được hương vị ngày Tết nhưng thiếu hẳn cái không khí Tết của chốn quê nhà mỗi độ xuân về.
Năm nay Tết đến trễ vì năm ngoái là năm nhuần nên cây mai Mỹ ở trước sân nhà Phương bắt đầu nhú lên những nụ mai vàng e ấp. Giống mai Mỹ nầy không đẹp bằng mai vàng ở Việt Nam nhưng cũng có màu vàng rực rỡ và lâu tàn. Hoa mai Mỹ thường nở rộ vào cuối mùa đông, hôm qua Phương đã cẩn thận cắt mấy cành mai đem chưng trên bàn cạnh hai quả dưa hấu và đĩa trái cây cho ra vẻ Tết. Cành mai được đem vào nhà với nhiệt độ ấm hơn ngoài trời nên những nụ hoa bắt đầu nở to hơn, vàng óng ả.
Ở miền nam Cali và các thành phố có đông người Việt thì những ngày Tết rộn ràng với những sinh hoạt truyền thống như chợ hoa, hội chợ Tết, văn nghệ mừng Xuân… và những món ăn ngày Tết thì hầu như không thiếu thứ gì. Vì vậy người Việt ở những tiểu bang có ít đồng hương sinh sống, thường về Cali ăn Tết thay vì về Việt Nam vừa xa xôi lại mất nhiều thời gian, tiền bạc. Họ muốn tìm lại cái không khí Tết của chốn quê nhà cũng như tha thiết được sống lại những mùa xuân thanh bình ngày cũ.
Còn nơi Phương ở là một thành phố mưa nhiều nên cây cối xanh tươi, có nhiều đồi núi và rừng thông xanh với thời tiết giá lạnh giống như Đà Lạt nên được mệnh danh là “Cao Nguyên Tình Xanh” hay “Thành Phố Ngọc Bích”. Hàng năm, cứ đến cuối mùa đông thì hoa đào nở rộ sắc trắng sắc hồng khắp mọi nơi báo hiệu mùa xuân sắp về. Phương ngồi nhìn qua cửa sổ, bụi mai vàng sát hàng rào trước sân lấm tấm những nụ hoa. Phía vườn sau, cây đào trơ trụi lá cũng đang nhú lên những mầm xanh mơn mởn. Bên ngoài trời rất lạnh, những cành cây khẳng khiu từ mùa thu lá rụng trở nên vững vàng hơn sau những ngày tuyết phủ, chỉ có những cây thông xa xa vẫn giữ màu xanh mướt trải qua cả bốn mùa xuân hạ thu đông của vạn vật. Buổi sáng vắng hẳn những bóng chim và tiếng hót ríu rít đón bình minh, chúng đã di tản về phương Nam để tránh cái lạnh mùa đông vùng Bắc Mỹ.
Trong khi Phương co ro trong chiếc áo len dầy thả hồn về chốn quê nhà, nơi mà giờ nầy mọi người đang sửa soạn đón giao thừa giữa thời tiết se se lạnh của ngày giáp Tết. Cái giây phút giao mùa của năm cũ và năm mới thật thiêng liêng làm sao! Gần nửa đời người của Phương sống ở quê nhà là bấy nhiêu lần Phương được hưởng những giây phút thiêng liêng của đêm giao thừa, đánh dấu một phần đời của Phương gắn liền với quê hương xứ sở. Bất giác Phương chạnh lòng nhớ về mùa xuân của 39 năm về trước…
Đó là mùa xuân Giáp Dần 1974, cuộn phim dĩ vãng theo trí nhớ của Phương thoáng hiện về. Sau ngày đám hỏi của Bình và Phương năm trước, Bình trở lại đơn vị - Trung Đoàn 53, Sư Đoàn 23 bộ binh đang đóng ở Komtum - mới biết Đại Đội của Bình đang hành quân ở Quảng Đức. Bình phải trở lại với đồng đội ở nơi đó trong lúc chiến trường vẫn còn sôi động kể từ sau ngày Hiệp Định Paris được ký kết năm 1973. Mọi người dân Việt Nam mong mỏi và tưởng đâu hòa bình sẽ được lập lại, nào ngờ trận chiến càng ngày càng khốc liệt hơn và Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa lâm vào tình huống thiếu vũ khí và đạn dược vì bị cắt viện trợ bởi Quốc Hội Hoa Kỳ!
Năm ấy, ảnh hưởng đến tình hình chiến sự nên không khí Tết ở Saigon không rộn ràng như xưa vì mọi người - nhất là gia đình quân nhân - lo lắng đến người thân của mình đang chiến đấu trong một cuộc chiến không cân sức. Phương cũng lo lắng không yên khi nhớ đến Bình đang ở ngoài trận địa xa xôi mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc. Phương trông đợi tin tức của Bình và ngày đêm thầm cầu nguyện cho đất nước sớm bình yên và Bình được an lành trở về với gia đình. Một nỗi vui mừng khôn tả khi Phương nhận được tấm thiệp Xuân của Bình gửi về từ chiến trường sau ngày Tết. Trong thiệp có bốn câu thơ Bình gửi tặng, thật không còn niềm vui gì bằng khi biết được tin của Bình tuy vẫn còn xa gia đình.
Thiệp Xuân 1974
Cái thiệp Xuân đó Phương vẫn mang theo bên mình cho đến bây giờ dù đã 39 năm qua. Màu giấy đã vàng úa và mực đã nhạt nhòa theo năm tháng nhưng vẫn được Phương trân trọng giữ gìn như một báu vật, chứng tích của một thời chinh chiến đã đi qua cuộc đời của Bình và Phương. Trải qua bao năm tháng - cũng như biết bao gia đình - vợ chồng Phương lâm vào số phận nghiệt ngã, những nỗi gian khổ tưởng đâu bám lấy Bình và Phương mãi mãi. Nhưng thần may mắn đã mĩm cười với vợ chồng Phương khi được chấp thuận định cư ở Mỹ qua chương trình HO. Thật là một niềm hạnh phúc vô biên mà Thượng Đế đã ban tặng cho gia đình Phương.
Những mùa xuân năm xưa đã thành dấu ấn kỷ niệm trong cuộc đời của vợ chồng Phương. Từ mùa xuân đầu tiên quen biết nhau khi Phương đang học Sư Phạm Saigon và Bình là sinh viên sĩ quan của trường Võ Bị Đà Lạt cho tới vài mùa xuân sau đó khi cả hai đã ra trường. Phương và đám học trò nhỏ có được sự an bình ở hậu phương là nhờ những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa trong đó có Bình đã miệt mài chiến đấu nơi tiến tuyến. Và những lần về phép ngắn ngủi để lính trận và giáo viên tay trong tay là niềm hạnh phúc lớn lao mà Bình và Phương vô cùng trân quý.
Rồi vận nước đổi thay, cuộc đời của vợ chồng Phương cũng nổi trôi theo mệnh nước. Những mùa xuân cách biệt không biết bao giờ gặp lại, Phương mang nỗi buồn canh cánh bên lòng mỗi độ xuân về và Bình cảm thấy cô đơn mỗi mùa xuân đến nơi trại cải tạo mà ngày về vô định... Cuối cùng thì ngày đoàn viên cũng đến khi mọi người chuẩn bị đón xuân về, đó là mùa Xuân năm 1981 mà Phương nhớ mãi vì từ đây gian khó sẽ có nhau, cùng đồng cam cộng khổ trong bất cứ hoàn cảnh nghiệt ngã nào.
Những mùa xuân hạnh phúc cũng như gian khổ đã trải qua trong suốt cuộc đời của vợ chồng Phương, giờ đây nằm sâu trong ký ức để mỗi lần Phương nhớ đến thì kỷ niệm xưa lại hiện về từ cuộn phim dĩ vãng mà Phương tưởng chừng như mới hôm qua. Bình và Phương đã bao lần đón Tết ở quê nhà sau ngày đoàn tụ cùng với đại gia đình. Tuy thiếu thốn về vật chất nhưng vẫn vui vì gần gũi người thân và cùng hòa chung với mọi người trong cái không khí Tết của quê hương. Còn những mùa xuân tha hương thì ngược lại, vật chất đầy đủ, cuộc sống an bình nhưng nỗi nhớ quê hương thì ngút ngàn, da diết...
Sau những giây phút xúc động khi thả hồn về dĩ vãng để hồi tưởng lại những mùa xuân năm xưa, Phương cảm tác thành bài thơ:
Đón Xuân Nầy Nhớ Xuân Xưa
Mùa xuân năm ấy ta quen nhau
Tay nắm trong tay vui biết bao
Chúng mình thề nguyện lời hẹn ước
Sông cạn đá mòn vẫn bên nhau.
Mùa xuân năm ấy dệt mộng lành
Chợ hoa ngày Tết em bên anh
Lính trận, giáo viên cùng sánh bước
Như chim liền cánh, lá liền cành.
Mùa xuân năm ấy anh trên ngàn
Rừng thẵm hành quân thấy mai vàng
Năm mới sắp sang nào hay biết
Gửi cánh thiệp Xuân dẫu muộn màng!
Bao mùa xuân đến, nhớ xuân xưa
Đón Tết quê hương, Tết xứ người
Hạnh phúc, khổ đau ta nếm đủ
Dầu dãi gian nan vẫn mĩm cười.
Đất khách ta mừng xuân mới sang
Dưa hấu, bánh chưng, chậu mai vàng
Đôi mái đầu xanh nay điểm bạc
Gìn chữ thủy chung, tuổi đá vàng...
Những mùa xuân đã lần lượt đi qua cuộc đời của vợ chồng Bình và Phương để bây giờ khi bước vào tuổi hoàng hôn, cứ mỗi độ xuân về nơi đất khách, ngược dòng thời gian trở về quá khứ ôn lại những phần đời của mình đã trải qua. Dù vẫn còn đi làm nhưng Bình và Phương cảm thấy thanh thản trong tâm hồn. Gia đình nay đã ổn định nơi quê hương thứ hai nên vợ chồng Phương luôn bằng lòng với những gì mình đang có. Cuộc sống ở phía trước vẫn tươi đẹp và luôn mĩm cười với mọi người như mùa xuân bất tận dù ở bất cứ tuổi tác nào…
Hát Bình Phương
NHỮNG DÒNG LƯU BÚT NGÀY XANH
Quê tôi ở Cù Lao Phố, một địa danh của xứ bưởi Biên Hòa. Sau khi học hết bậc tiểu học ở ngôi trường làng Hiệp Hòa, tôi dự kỳ thi tuyển vào đệ thất của trường Ngô Quyền và may mắn được trúng tuyển vào lớp đệ Thất 1 niên khóa 1964 -1965. Tôi vẫn còn nhớ như in ngày đầu tiên nhập học được Ba chở đến trường trên chiếc xe Vespa cũ kỹ. Ba chạy chậm và chỉ tôi cách đón xe Lam để bắt đầu ngày mai tự đi học một mình vì Ba phải trở về Saigon để đi làm. Lần đầu tiên mặc chiếc áo dài vải trắng, quần satin đen bóng, đầu đội nón lá, chân mang guốc, hai tà áo dài tha thướt, tôi nghe trong lòng một niềm vui và hãnh diện thật khó tả! Đó cũng là ngày đầu tiên của thời nữ sinh trung học đầy thơ mộng.
Trong số các bạn nữ sinh cùng chọn sinh ngữ Pháp văn ở lớp đệ Thất 1 có vài bạn cùng học chung bậc tiểu học nên tôi cảm thấy đỡ đơn độc. Một số bạn từ Chợ Đồn,Tân Vạn, Bửu Long, Phúc Hải, Hố Nai, Tam Hiệp... cũng được học ở đây. Đa số các bạn trong lớp là người ở ngay thành phố Biên Hòa nên đi học vừa gần nhà lại không bỡ ngỡ như chúng tôi từ làng quê ra tỉnh. Nhờ có bản đồ lớp và tuổi trẻ dễ thân thiện nên chúng tôi sớm biết mặt biết tên trong một thời gian ngắn. Theo tháng năm, chúng tôi lần lượt bước qua lớp đệ Lục 1, Ngũ 1 rồi đến Tứ 1, lớp cuối cùng của bậc trung học đệ nhất cấp.
Mùa hè năm 1968, sau Tết Mậu Thân, tình hình đất nước có nhiều chuyển biến và thay đổi. Đó cũng là năm cuối ngồi chung lớp suốt bốn năm dài vì sang năm tới sẽ học theo phân ban A, B, C tùy môn học được lựa chọn nên có thể phân tán ra nhiều lớp khác nhau. Thêm nữa, một số bạn vì hoàn cảnh gia đình, phải nghỉ học ở nhà không còn tiếp tục đến trường. Thế là không ai bảo ai, một số bạn tự làm quyển Lưu Bút Lưu Ảnh cho riêng mình để làm kỷ niệm của thời học sinh đầy hoa mộng, tôi cũng thực hiện một quyển Lưu Bút như vậy. Nhờ đó mà đến hôm nay, sau hơn 40 năm dài, tôi vẫn còn trong tay quyển Lưu Bút ghi lại kỷ niệm của những ngày xa xưa ấy. Quyển Lưu Bút thân thương đã theo tôi từ Biên Hòa về Saigon rồi từ Việt Nam sang Mỹ để nhắc nhớ bao kỷ niệm của những ngày xưa thân ái cũ…
Quyển Lưu Bút Ngày Xanh của tôi bây giờ đã cũ, màu giấy trắng năm xưa chuyển sang vàng nhạt, nét mực tím, mực xanh cũng đã phai màu. Những tấm ảnh trắng đen không còn sắc nét mà cũng nhạt phai theo năm tháng. Nhìn những hình ảnh thơ ngây, những nét chữ thân thương mà bạn tôi ngày ấy đã nắn nót viết để dành tặng riêng tôi, lòng tôi bồi hồi xúc động, tôi mơ màng thấy mình trở về với lớp học năm xưa và ngôi trường cũ… Hình ảnh và nét chữ còn đây mà bạn bè tôi đã trôi giạt ở nơi nào? Thôi thì xin ghi lại những dòng lưu bút của các bạn đã viết cho tôi với những lời lẽ mộc mạc đơn sơ nhưng đầy chân tình của những nữ sinh đang ở tuổi mộng mơ của một thời áo trắng.
Trần Thị Dung, cô bạn có khuôn mặt tròn trĩnh, viết văn hay: “Kỷ niệm là cuốn phim dĩ vãng của từng khuôn mặt đó, từng lời nói đó. Sống là phải chấp nhận sự chia ly, dang dở để buồn tiếc và nhớ thương hay gì chăng nữa thì kiếp học trò đâu ở mãi trong mình…”
Lê Thị Tiết, cô bạn học chung bậc tiểu học trường làng: “Rồi một ngày kia, một ngày không xa lắm, mình sẽ xa nhau và chừng ấy tất cả những kỷ niệm lại hiện về đủ đầy trong ký ức và nó sẽ làm cho mình nhớ tiếc, thèm thuồng vì kỷ niệm bao giờ cũng đẹp…”
Trần Thị Hiếu, cô bé nghiêm nghị, ít nói và hay mắc cỡ: “Kỷ niệm phải chăng là tiếng vang của tâm hồn, là dư âm ngày cũ, nơi đó hội họp đầy đủ những người thân yêu, những gì đáng ghi nhớ, vui buồn lẫn lộn nhưng nó không ở mãi với thời gian mà sẽ dần phai theo năm tháng…”
Trần Thị Thúy Nga, cô bạn lớp trưởng, lúc nào cũng cười: “Biết viết gì đây, nói gì đây, chỉ có tình bạn chân thật là quý và lưu lại cho nhau những gì mà mình gọi là kỷ niệm…”
Trần Thị Lan, cô bạn ngồi cạnh năm đệ Thất, ít nói nhưng rất dễ thương: “Lan chỉ có những dòng chữ viết vào đây để nói lên tình bạn chân thành của chúng ta vì ngày mai đây khi chia tay nhau, mỗi người mỗi nơi, biết có còn gặp nhau nữa hay không?...”
Nguyễn Mỹ Châu, cô bạn ngồi cạnh năm đệ Tứ, thân hình mảnh mai và rất vui vẻ, cởi mở: “Chúng ta đã cùng học tập bên nhau qua bốn năm dài đăng đẳng. Tuy thế đối với chúng ta thật là ngắn ngủi vì ngày nay…ngày mai…biết chúng ta có còn trọn vẹn bám ghế nhà trường không hay là hoàn cảnh, cuộc sống, chiến tranh…sẽ lôi chúng ta ra khỏi cái khung cảnh êm đềm và đẹp nhất của thời học sinh…”
Lê Thị Hạnh, cô bé học rất chăm chỉ và giỏi toán: “Không phải chỉ riêng đời học sinh chúng ta mà cả những gì trên cõi đời nầy đều phải chấp nhận một sự chia ly để rồi gieo vào lòng người một nỗi tiếc thương…hay là gì chăng nữa thì chúng ta vẫn phải cam chịu vì cuộc đời vẫn còn thay đổi thì không có gì là ở mãi bên ta…”
Nguyễn Thị Út, cô bạn có nhiều ý tưởng hay và nét chữ rất bay bướm: “Ngày mai đây chúng ta sẽ xa nhau, mỗi đứa đi mỗi ngả theo chiều hướng đắng cay hơn thỏa thích của cuộc đời. Dù biết rằng đời lắm chông gai đau khổ, chúng ta vẫn bám víu dùi đầu trong sự cạnh tranh để sống và để là một con người đáng sống…”
Mai Thị Kim Hoa, cô bé lanh nhất lớp và luôn nở nụ cười trên môi: “Mình bỗng dưng có ý nghĩ là níu thời gian dừng lại để chúng mình đừng bao giờ chia cách, để những gương mặt học trò còn đượm nét thơ ngây, không bận vướng những ưu tư trong đời sống…”
Võ Thị Liên Hoa, cô bé tóc dài cũng là ca sĩ của lớp, hát rất hay: “ Ước mong Hạnh sẽ giữ mãi những hình ảnh, những kỷ niệm của tuổi học trò thần tiên hôm nay…”
Nguyễn Thị Tuyết Mai, cô bạn lúc nào cũng trông chững chạc như người lớn: “Bốn năm dài buồn vui đầy trang giấy, thế mà hôm nay, cầm trong tay quyển Lưu Bút nầy Mai không biết phải viết lên đây những gì để diễn tả cái tâm trang hiện tại của Mai. Sau nầy nếu có dịp lật đến trang giấy nầy, nhìn giòng chữ nầy Hạnh có nhớ đến người bạn cùng học chung suốt bốn năm dài không?...”
Đinh Thị Huệ, cô bé có đôi má lúc nào cũng ửng hồng duyên dáng: “Mình và Hạnh chỉ còn gần nhau từ bây giờ đến hè mà thôi. Sang năm học tới Hạnh đi ban B còn mình đi ban A, không còn ngồi chung lớp như từ trước đến giờ, buồn ghê Hạnh nhỉ?...”
Lê Diệp Liễu, cô bé dáng thấp và khuôn mặt bầu bĩnh dễ thương: “Nếu có xa nhau mà vẫn nhớ trong những nỗi buồn da diết thì những niềm thương còn lưu lại tận đáy lòng dù rằng hình ảnh đã nhòa trong ánh mắt…”
Vi Thị Bé, cô bạn ở Phúc Hải, có lối kể chuyện dí dỏm rất vui: “Chỉ còn đôi mươi ngày nữa là chúng ta xa nhau ba tháng hè dài đăng đẳng, ba tháng mái trường chìm trong im lặng, vắng vẻ bên những xác phượng tàn rơi và tiếng ve sầu não ruột. Không biết chúng ta có còn gặp nhau trên con đường học vấn nữa không hay là vì hoàn cảnh, cuộc sống hiện tại đầy chiến tranh khói lửa nầy, biết đâu nó sẽ gián đọan sự học hành của chúng ta, để rồi phải chập chững bước vào đời đầy cạm bẫy bằng đôi tay bé nhỏ…”
Nguyễn Thị Thu Cúc, cô bé biết làm thơ học trò: “Dù cho giông bão gió mưa. Cũng đừng quên bỏ bạn xưa năm nào. Đừng quên người bạn cố giao. Đã từng một thuở tranh nhau học hành...”
Lê Ngọc Mai, cô bé hay ngồi suy tư một mình: “Trời đã vào hạ từ lâu, nắng rực rỡ trên cây phượng mang đầy lá xanh nõn nà, hình như vòm trời cũng thay đổi với những đám mây trắng bồng bềnh. Tất cả đều thay đổi khi mùa hạ sang. Đó là hình ảnh quen thuộc của chúng ta với tuổi học trò đầy vô tư…”
Nguyễn Hưng Loan, cô bạn có vẻ trưởng thành và chính chắn nhất của lớp: “Trong một phút suy tư, hình ảnh của bốn năm về trước lại hiện đến. Thuở ấy , lần đầu tiên gặp nhau, chúng ta bỡ ngỡ vô cùng và ngơ ngác như những con chim lạc bầy, chỉ biết đưa mắt tìm kiếm những đứa bạn quen hầu đánh tan những nỗi lo sợ vô cớ của mình…”
Trần Thị Ngọc Yến, cô bạn vui vẻ và lúc nào cũng cười: “Nếu chúng ta có xa nhau thì Yến xin lưu lại những dòng lưu niệm nầy, tuy nó vô tri nhưng sẽ an ủi Hạnh phần nào trong những lúc buồn chán…”
Nguyễn Thị Huỳnh Hoa, cô bạn cao to mà nhỏ tuổi nhất, chữ viết rất đẹp: “Thấm thoát một năm qua mau, hồi nào mới bỡ ngỡ bước chân vào lớp, nay đã đến cuối năm, phượng đã nở, chúng ta lại sắp chia tay. Năm tới chúng ta sẽ không gặp mặt nhau đầy đủ như hiện tại. Một năm học ngắn ngủi nhưng cũng mang nhiều kỷ niệm khó quên…”
Lê Thị Kim Loan, cô bạn xứ Phan Thiết với mái tóc dài chấm ngang lưng: “ Trước lúc chia tay tạm biệt nhau, Loan mong rằng chúng ta sẽ còn gặp lại nhau trong năm học tới và sẽ dệt thêm nhiều kỷ niệm của đời học sinh đầy hoa mộng…”
Trần Thị Lan, cô bạn vui tính với nhiều câu chuyện vui thật hay: “ Gần gũi học tập suốt bốn niên học qua và chúng ta thân nhau nhất ở năm đệ Tứ nầy với nhiều kỷ niệm giữa Lan và Hạnh. Mong rằng những kỷ niệm ấy sẽ không bao giờ nhạt phai…”
Trần Thị Nguyên, cô bé hay cười và nhanh nhẩu của lớp: “Được Hạnh trao quyển Lưu Bút, mình rất vui nhưng lại thoáng buồn vì chúng ta sắp xa nhau mỗi năm khi hoa phượng nở trước sân trường báo hiệu mùa hè đến…”
Lê Thị Ngọc Châu, cô bạn rất hiền và ít nói, hay cười: “ Châu rất sung sướng khi được Hạnh trao quyển Lưu Bút nầy nhưng vì thời gian quá ngắn nên Châu không biết viết gì hơn là chúc Hạnh luôn vui vẻ và tiến mãi trên con đường học vấn…”
Mai Phương Mai, cô bạn đeo kính cận, học rất giỏi: “Mùa hè vẫn đến dù chúng ta không mong muốn. Cứ nghĩ đến những gì nối tiếp về sau khi buổi họp mặt cuối năm học đã tàn, khi những khuôn mặt tìm về với nhau hay những ánh mắt lẫn trốn để che giấu nỗi buồn thấm thía, Mai thấy nao nao trong lòng vì thời gian cứ cướp dần những ngày thân ái thơ dại của chúng ta để còn lại là niềm nhớ tiếc khôn nguôi…”
Ngô Thị Ngọc Hương, cô bạn thân nhất cùng chung bậc tiểu học ở trường làng: “Sau bao giây phút suy tư và đối diện vào trang giấy trắng tinh anh vẫn không sao nén được nỗi buồn ray rứt đang len lén đi nhẹ vào tâm hồn mình. Nhớ lại bao nhiêu là kỷ niệm vui buồn chia sớt cho nhau trong những ngày xa xưa thân ái trên con đường làng đầy quen thuộc dẫn đến trường mà hai đứa mình ngày hai lượt đều đi qua đó…”
Còn một vài bạn khác mà tôi vẫn còn nhớ tên: Hà Ngọc Lệ, Phạm Thị Thanh Thu, Huỳnh Thị Gấm, Nguyễn Thị Hưng, Trần Bích Liên, Lê Thị Lành, Huỳnh Lệ Chất…sao không thấy viết trong quyển lưu bút nầy? Hay là đã đến ngày cuối cùng của năm học nên tôi không đưa kịp đến các bạn ấy chăng? Dù thế nào đi nữa thì tên và hình ảnh của các bạn ngày ấy đã đi sâu vào ký ức tôi để tái hiện mỗi lần nhớ đến.
Những dòng lưu bút nầy được trích từ những trang Lưu Bút Ngày Xanh, có bạn viết 1, 2 trang giấy, có bạn viết 3, 4 trang giấy với đầy ắp những tâm tình mà giờ đây xem lại tôi thấy như mình đang cùng với các bạn ngồi học trong lớp hay vui đùa bên nhau ở sân trường. Mơ màng trong tâm trí tôi những tà áo dài trắng thướt tha bay trong gió như một đàn chim và trước mặt là bầu trời cao xanh rộng mở…
Bên cạnh đó tôi còn thấy thấp thoáng hình ảnh của các Thầy Cô kính mến, hàng ngày truyền đạt cho chúng tôi những kiến thức, hướng dẫn chúng tôi thành những con người đầy đủ trí đức cho cuộc sống tương lai. Sau nầy khi bước chân vào đời, qua những thăng trầm trong cuộc sống, tôi mới cảm nhận được công ơn của Thầy Cô, đã ban tặng cho chúng tôi những kiến thức hữu ích làm hành trang vào đời. Xin trân trọng gửi đến Thầy Cô lòng biết ơn sâu xa của chúng em, những học trò cũ dưới mái trường Ngô Quyền dấu yêu.
Đó là những dòng lưu bút của các bạn viết cho tôi hơn 40 năm về trước và chính tôi cũng đã viết đáp lại cho các bạn, có khi còn tặng kèm theo một tấm ảnh để bạn mình giữ làm kỷ niệm. Ước gì tôi được xem lại những dòng chữ năm xưa của mình trong quyển lưu bút nào đó mà bạn tôi còn giữ. Mong lắm thay!
Giờ đây các bạn của tôi mỗi người mỗi ngả của cuộc đời. Chắc hẳn có bạn đang sống trong cảnh giàu sang, gia đình yên ấm hạnh phúc và biết đâu cũng có bạn chịu một nỗi bất hạnh nào đó! Cầu mong cho tất cả chúng ta dù giàu hay nghèo, dù đang ở quê hương hay tản mác bốn phương trời, cũng có được một mái ấm gia đình để yêu thương và nương tựa trong tuổi hoàng hôn.
Ngày nay, với phương tiện thông tin hiện đại của thế kỷ 21, biết đâu các bạn sẽ đọc được bài viết nầy, nhớ lại năm xưa mình đã từng viết những lời lẽ như thế đó, dù đơn sơ nhưng chứa chan tình bạn. Và cũng biết đâu chúng ta liên lạc được hay có duyên hội ngộ mà gặp lại nhau sau mấy mươi năm dài dâu bể, người còn ở chốn quê nhà, kẻ sống tha phương nơi đất khách.
Tiếc thay tôi không còn giữ tấm hình nào có đủ mặt các bạn Tứ 1 chụp chung trước cồng trường Ngô Quyền làm kỷ niệm để có dịp nào đó chúng ta nhìn lại những khuôn mặt ngày xưa mà hồi tưởng lại đã có một thời cùng ngồi chung lớp, chung trường trong một khoảng đời học sinh hoa bướm đầy thơ mộng...Tôi có mấy dòng thơ tặng các cựu học sinh trường Ngô Quyền cùng tâm trạng tiếc nuối thời còn cắp sách dưới mái trường Ngô Quyền thân yêu và riêng tặng các bạn Tứ 1 của những ngày xa xưa thân ái để nhớ về một thời áo trắng.
Một Thời Áo Trắng
Nhớ quá đi thôi thời nữ sinh
Thấp thoáng đâu đây những ảnh hình
Thầy Cô, bạn hữu, ngôi trường cũ
Thân thương, nồng ấm biết bao tình.
Ra trường mỗi đứa một phương trời
Đàn chim tung cánh khắp muôn nơi
Tuổi trẻ, niềm tin, nhiều mơ ước
Cánh cửa tương lai mở rộng mời.
Lưu bút ngày xanh lật từng trang
Nét chữ thân quen dệt thành hàng
Kỷ niệm ngày xưa đầy lưu luyến
Một thời áo trắng nhớ mênh mang.
Bạn cũ giờ đây khắp muôn phương
Theo dấu thời gian tóc điểm sương
Ước gì gặp lại ôn chuyện cũ
Chia sẻ tâm tình còn vấn vương...
Hát Bình Phương