ÂM NHẠC TRONG THỜ PHƯỢNG


   Trong nhiều nhà thờ ngày nay, bạn sẽ tìm thấy những phong cách âm nhạc hấp dẫn thế hệ ngày nay theo cách mà họ hát những lời trong cuộc sống hàng ngày và là phương tiện biến đổi theo ý Chúa; đây chính xác là chiến lược của các Giáo phụ, Ephraim và Hilary, và của Luther, và những người theo ông nhiều thế kỷ sau đó. Chắc chắn có những tác giả thánh ca đương đại như Stuart Townend đã đưa những lời trong Kinh thánh vào giai điệu đương đại với hiệu ứng tuyệt vời. Những người khác, chẳng hạn như Hillsong và Matt Redman, tìm cách truyền đạt những lẽ thật trong Kinh thánh bằng những giai điệu và phong cách phổ biến, và họ đã có ảnh hưởng rất lớn đến nhiều thế hệ không thường xuyên đến nhà thờ. Tất nhiên, trong mọi thế hệ, luôn có trấu trong gạo như cỏ lùng trong lúa mì và chúng ta nên thử nghiệm mọi thứ và giữ lại những gì tốt đẹp.

   Đồng thời, chúng ta đã gần như thấy việc hát thánh ca trở nên lỗi thời, ngoại trừ Giáo hội Tự do Scotland và một số hệ phái. Thật tuyệt vời khi thấy thánh ca trở lại. Chúng ta vẫn có thể nghe lời cầu xin của John Chrysostom từ thế kỷ thứ tư: Ngày nay, con cái của bạn học những bài hát và điệu nhảy của quỷ Satan theo kiểu thời trang… nhưng không ai biết một Thi thiên nào. Giống như thể chúng xấu hổ (khi biết một Thi thiên), chúng cười nhạo và chế giễu nó. (Bài giảng về Cô-lô-se, 9:2)

   Hơn nữa, thế hệ ngày nay có nhiều ban nhạc Cơ-đốc giáo tìm cách tiếp cận thông qua mọi phong cách mà họ có, từ nhạc rock đến nhạc soul, nhạc reggae, nhạc ráp, nhạc dân ca và nhạc blues. Cũng như các thế hệ trước chúng ta, một số người trong nhà thờ phản đối họ, giống như họ đã làm với Luther, Wesley và những người khác. Để nghiên cứu sâu hơn về chủ đề cụ thể này, tôi xin giới thiệu cuốn sách của Steve Miller, Cuộc tranh luận về âm nhạc Cơ-đốc đương đại: Thỏa hiệp thế gian hay tác nhân đổi mới? (The Contemporary Christian Music Debate, Tyndale House Publishers, Inc. Wheaton, Illinois, 1993).

   Chúng ta cần biết rằng; Nhà thờ sơ khai là Do-thái và do đó ảnh hưởng âm nhạc của họ đến từ Cựu Ước. Vào thời Vua Đa-vít, âm nhạc như một phần của sự thờ phượng rất phong phú và đôi khi xa hoa vì mọi người tìm cách thờ phượng Chúa bằng những kỹ năng tốt nhất của họ. Mọi điều đó được diễn ra ngoài của hành lang của đền thờ, chúng ta đọc (1 Sử ký 23:5) có 4.000 người Lê-vi được chỉ định để ngợi khen Chúa bằng các nhạc cụ, và 288 ca sĩ được đào tạo để ngợi khen Chúa bằng giọng hát của họ (1 Sử ký 25:7). Chắc hẳn đó là một cảnh tượng hoành tráng.

   Người Do Thái thờ phượng Đức Chúa Trời bằng đàn hạc (Khải Huyền 5:8), nhạc cụ dây (Ha-ba-cúc 3:19), kèn trumpet, chập chỏa, đàn lia (1Sử-ký 15: 28-29), trống cơm và trống nhỏ (Xuất Ê-díp-tô ký 15:20), đàn ghi-tít (một nhạc cụ dây) (Thi thiên 8), nhạc cụ mười dây (Thi thiên 92:3), sáo (Thi thiên 150:4), và chũm chọe vang dội (Thi thiên 150:5).

Hội Thánh Đầu Tiên

   Trong Tân Ước, người ta ít đề cập đến âm nhạc, mặc dù ca hát được thực hành rộng rãi và có hình thức là các thánh vịnh, thánh ca và bài hát tâm linh. Có hai đoạn văn nêu:

   “Đừng say rượu, vì rượu xui cho luông tuồng; nhưng phải đầy dẫy Đức Thánh Linh. Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh, và bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết lòng hát mừng ngợi khen Chúa. Hãy thường thường nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, vì mọi sự tạ ơn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta.” (Ê-phê-sô 5:18-20).

   “Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh, bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau, vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời.”

(Cô-lô-se 3:16)

   Ngoại trừ việc đề cập đến đàn hạc và kèn trumpet trên thiên đàng trong sách Khải Huyền, chúng ta không tìm thấy nhiều về âm nhạc. Điều này có phải là nhà thờ nên tránh âm nhạc và chỉ sử dụng giọng nói của chúng ta như một số Cơ-đốc nhân đã nói không? Chúng ta phải nhớ rằng nhà thờ ban đầu là người Do-thái và các nhạc cụ được vang lên nơi hành lang đền thờ chứ không phải trong các giáo nhà hội địa phương. Khi đền thờ bị người La-mã phá hủy vào năm 70 sau Công nguyên, việc sử dụng nhạc cụ đã bị các nhà lãnh đạo Do-thái cấm như một hành động tang lễ. Có lẽ vì hai lý do nêu trên, âm nhạc, ngoài ca hát, không đóng vai trò lớn trong việc thờ phượng của nhà thờ ban đầu.

   Một số Giáo phụ cho rằng khi đền thờ bị phá hủy thì điều này cũng báo hiệu sự kết thúc của nhạc cụ. Ví dụ, Nicetas của Remesiana (AD 337 – 414) đã viết: “Các thể chế thể xác đã bị từ chối, như cắt bì, ngày Sa-bát, tế lễ, phân biệt đối xử trong thực phẩm. Cũng vậy, kèn, đàn hạc, chập chỏa và trống cơm. Đối với âm thanh của những thứ này, giờ đây chúng ta có một sự thay thế tốt hơn trong âm nhạc từ miệng của con người.” (On the Benefit of Psalmody). Vì vậy, việc sử dụng nhạc cụ để hát không được chấp nhận trong các nhà thờ ban đầu, nhưng chỉ được chấp nhận bằng những bài hát thông thường (mang tính chất ca ngâm).

Nhạc Cụ Vào Thời Các Giáo Phụ

   Phần lớn các Giáo phụ từ năm 100 đến năm 500 sau Công nguyên không chấp nhận việc sử dụng nhạc cụ trong nhà thờ và những người theo đạo Thiên chúa tôn thờ Chúa bằng các thánh vịnh, thánh ca và bài hát tâm linh theo kiểu ca ngâm. Giáo hội Chính thống giáo ngày nay tuyên bố tuân theo mô hình này dựa trên Tân Ước và truyền thống của nhà thờ sơ khai. Ngoài việc từ chối nhạc đệm trong khi thờ phượng vì họ coi đó là từ Giao ước cũ, họ cũng phòng thủ trước những ảnh hưởng có thể có của âm nhạc ngoại giáo đang xâm nhập vào Giáo hội và dẫn dắt Giáo hội đi sai đường.

   Trong Đế chế La-mã ngoại giáo có bốn phong cách âm nhạc: sử dụng sáo và trống một cách kỳ diệu để tạo ra điềm lành (euphemia); tiếng cồng và trống để xua đuổi tà ma (apotropaic); âm nhạc được sử dụng để triệu hồi các vị thần ngoại giáo (epiclesis), và giải trí chung trong các bữa tiệc và đám cưới thường dẫn đến say xỉn và tiệc tùng vô độ. Nó tệ đến mức ngay cả Hoàng đế Julian the Apostate (331-363 sau Công nguyên), người ủng hộ ngoại giáo, đã bảo các giáo sĩ ngoại giáo của mình rời đi trước khi các nhạc sĩ đến. Không có gì ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo nhà thờ đưa ra lời khuyên tương tự cho các thánh đồ của mình đối với các nhạc cụ.

Quan Điểm Từ Chối:

   Clement of Alexandria (165-215 sau Công nguyên) đã bày tỏ mối quan tâm này: “Những người theo đạo Thiên Chúa đã tỏ lòng tôn kính cuộc thảo luận về Chúa, họ để lại trong nhà thờ những gì họ đã nghe, và bên ngoài họ ngu ngốc giải trí bằng trò chơi vô đạo đức, và sự run rẩy tình ái, bận rộn với trò thổi sáo, khiêu vũ, say sưa và đủ thứ rác rưởi.” (Bringham’s Antiquities, Vol. II, p-483, London Edition, quoted by C. Kurtees, Instrumental Music in the Worship, 1911; 1950 reprint, p.176)

   Ngay cả các triết gia Hy-lạp ngoại giáo như Plato và Aristotle, những người có ảnh hưởng lớn đến Đế chế La-mã, cũng phản đối một số loại nhạc. Theo Plato, Socrates đã nói: “[Nơi nào có] những người đàn ông có giá trị và văn hóa, bạn sẽ không thấy những cô gái thổi sáo, nhảy múa hay chơi đàn hạc. (Protagoras, 347)

   Aristotle (384 -322 TCN) phản đối việc chơi sáo và viết rằng: “Không phải là một nhạc cụ có tác dụng đạo đức tốt…do đó, người xưa đã đúng khi cấm thanh niên và người tự do chơi sáo.” (Politics, 8:6:9-10)

   Một số Giáo phụ như Basil, cho rằng những người chơi đàn cithara (giống như đàn ghi-ta) nên bị khai trừ khỏi nhà thờ, và Ambrose lo ngại rằng nếu những người theo đạo Thiên chúa chuyển từ hát thánh ca sang chơi nhạc cụ, họ có thể mất sự cứu rỗi, vì họ quá lo lắng về ảnh hưởng của ngoại giáo. Basil đã viết: “Trong số các nghệ thuật vô ích có chơi đàn hạc, khiêu vũ, thổi sáo, khi hoạt động này dừng lại, kết quả cũng biến mất theo. Và, thực sự, theo lời của sứ đồ, kết quả của những điều này là sự hủy diệt.” (Commentary on Ê-sai 5)

Quan Điểm Tán Đồng:

   Một số Giáo phụ có xu hướng ngụ ý việc sử dụng các nhạc cụ từ Cựu Ước, chẳng hạn như sau: “Các nhạc cụ trong Cựu Ước không phải là không phù hợp với chúng ta nếu hiểu theo nghĩa tâm linh.” (Pseudo-Origen, Tuyển tập Thi Thiên 32)

   Clement xứ Alexandria đã nỗ lực hết sức để tâm linh hóa các nhạc cụ: “Thánh Linh, phân biệt với sự vui chơi như vậy là buổi lễ thiêng liêng, hát, Hãy ngợi khen Ngài bằng tiếng kèn; vì Ngài sẽ khiến người chết sống lại bằng tiếng kèn. Hãy ngợi khen Ngài bằng đàn hạc; vì lưỡi là đàn hạc của Chúa. Và hãy ngợi khen Ngài bằng đàn lia. Đàn lia có nghĩa là miệng được Thánh Linh đánh, giống như bằng một miếng gảy đàn. Ngợi khen bằng trống cơm và điệu nhảy, ám chỉ Hội thánh đang suy ngẫm về sự phục sinh của người chết trong làn da vang dội. Ngợi khen Ngài bằng các hợp âm và đàn organ. Thân thể chúng ta, Ngài gọi là đàn organ, và các dây thần kinh của nó là những sợi dây, qua đó nó đã nhận được sự căng thẳng hài hòa, và khi được Thánh Linh cảm thúc, nó phát ra giọng nói của con người. Ngợi khen Ngài bằng những chập chỏa va chạm. Ngài gọi lưỡi là chập chỏa của miệng, vang lên cùng với nhịp đập của đôi môi.” (Instructor 2:4)

   Một số Cơ-đốc nhân thời đầu trở nên khổ hạnh trong cách tiếp cận âm nhạc đến mức họ thậm chí từ chối hát lớn và tin rằng hình thức thờ phượng tinh khiết nhất chỉ ở trong trái tim - đây là cách giải thích ngụ ngôn từ Trường phái Alexandria tệ nhất. Khi Công đồng Lao-đi-xê họp vào năm 363 sau Công nguyên, các nhà lãnh đạo ở đó đã quyết định thậm chí cấm cả việc hát thánh ca trong cộng đồng, điều này có nghĩa là khoảng cách giữa các giám mục, trưởng lão và các tín hữu trong nhà thờ ngày càng lớn, và các cộng đồng trở thành những người đứng xem, thay vì là người tham gia.

   Trải qua những thế kỷ đầu nhiều thăng trầm với âm nhạc trong giáo hội, việc sử dụng nhạc cụ trong thờ phượng là điều bất thường và hầu hết các nhà thờ vào thời điểm đó đều lên án. Phải đến thế kỷ thứ sáu, nhạc cụ mới bắt đầu được sử dụng công khai hơn. Boethius (khoảng năm 480-525 sau Công nguyên) là một học giả Cơ-đốc giáo đến từ Rô-ma, người đã viết các nguyên lý của âm nhạc (De Institutione Musica) dựa trên ký hiệu Hy-lạp trước thời của ông. Trong một trong những phần có tên là Musica Instrumentalis, ông phác thảo cách sử dụng giọng nói và nhạc cụ. Các học giả coi tác phẩm của ông là nền tảng cho sự phát triển của âm nhạc trong thời Trung cổ và Phục hưng, và sau đó dẫn đến sự ra đời của nhạc cổ điển.

 

Thế kỷ 18: Sự Phục Hưng Nhạc Thánh

   Trong thời kỳ này, nhiều vùng đất có sự quay trở lại với Chúa rất lớn khi nhiều người hưởng ứng lời rao giảng của những người như John Wesley và George Whitefield, và họ đã có tác động lớn đến Edinburgh. Người ta thấy rằng phong cách âm nhạc cũ trong nhà thờ không liên quan đến người dân thời đó, vì vậy một số nhà soạn nhạc Cơ-đốc đã bắt đầu viết những bài thánh ca tuyệt vời thể hiện những lẽ thật trong Kinh thánh theo phong cách đương đại. Ngày nay, những người nổi tiếng như Isaac Watts, người đã viết bài thánh ca tuyệt đẹp: (When I Survey the Wondrous Cross / Giờ Được Chiêm Ngưỡng Thập Giá 95). John Newton, người đã viết: (Amazing Grace / Ân Điển Lạ Lùng) và Charles Wesley, người đã viết: (Hark the Herald Angels Sing/ Kìa Thiên Binh Cùng Nhau Trỗi Hát 53) và Love Divine, All Loves Excelling, đã đi đầu trong phong trào này. Và một lần nữa, nhiều nhà lãnh đạo nhà thờ phản đối những bài thánh ca và âm nhạc “thế tục” như vậy và từ chối hát chúng. Ngày nay ở Edinburgh và Scotland, xem bản nhạc Amazing Grace là một báu vật quốc gia, ngay cả khi nó được viết bởi một người Anh.

 

Thế kỷ 19: Sự Phát Triển

   Phong trào Đại Tỉnh thức của thế kỷ 19 đã đưa hàng triệu người đến với Chúa Giê-xu và thúc đẩy sứ mệnh toàn cầu tác động đến cuộc sống của hàng triệu người khác vì Chúa Giê-xu. Giống như Luther, Watts, Newton và Wesley, trước họ, những người viết thánh ca trong thời kỳ này đã tìm cách tiếp cận quần chúng bằng những lời Kinh thánh với giai điệu phổ biến. Những nhà truyền giáo đi đầu trong phong trào này, chẳng hạn như Charles Finney (1792-1875), DL Moody (1837-1899) và William Booth (1829-1912), người sáng lập ra Cứu Thế Quân (Salvation Army), đã có những người viết thánh ca làm việc với họ để sản xuất những lời Kinh thánh với giai điệu đương đại. Moody tuyên bố:

   “Nếu bạn có tiếng hát chạm đến trái tim, nó sẽ lấp đầy nhà thờ mọi lúc… Âm nhạc và bài hát không chỉ đồng hành cùng mọi cuộc phục hưng Kinh thánh, mà còn thiết yếu trong việc đào sâu đời sống tâm linh. Ca hát ít nhất cũng có tác dụng như rao giảng để khắc ghi Lời Chúa vào tâm trí mọi người. Kể từ khi Chúa lần đầu gọi tôi, tầm quan trọng của lời ngợi khen được thể hiện trong bài hát đã lớn dần trong tôi.” (Biography of Gospel Song and Hymn Writers, T.H. Hall, pp 198-199, New York: AMS Press, 1971)

   Mục sư Horatius Bonar, một mục sư trong Giáo hội Scotland ở Edinburgh, đã trở nên nổi tiếng với tư cách là một người viết thánh ca nhưng các trưởng lão của giáo hội đã từ chối các bài thánh ca của ông vì cho rằng chúng là thế tục, thay vào đó họ chỉ thích truyền thống hát thánh ca. Như Mục sư Henry Davenport Northrop đã viết vào năm 1899:

   “Việc đưa thánh ca vào nghi lễ tôn giáo của người Scotland đã bị phản đối quyết liệt, như thể chúng là sản phẩm của ma quỷ và sẽ lật đổ mọi tôn giáo truyền bá Tin Lành.” (Life and Labors of Dwight L. Moody, Henry Davenport Northrop, p. 94, Philadelphia, National, 1899)

   Công trình của William Booth tại Salvation Army đã tạo nên bước đột phá lớn trong tầng lớp lao động chưa bao giờ đến nhà thờ và không thể liên hệ với phong cách thờ phượng ở đó. Booth đã viết:

   Âm nhạc có tác động thiêng liêng lên những tâm hồn được Chúa hướng dẫn và ảnh hưởng. Âm nhạc đối với tâm hồn cũng giống như gió đối với con tàu, thổi con tàu tiến về phía trước theo hướng mà nó được lái… Vậy, chúng ta có được phép hát giai điệu đó hay giai điệu này sao? Chúng ta có nói rằng âm nhạc thế tục không được thờ phượng và có thuộc về ma quỷ phải không? Vâng, nếu là vậy, tôi sẽ loại nó khỏi việc thờ phượng, vì nó không có quyền đối với một nốt nhạc nào trong toàn bộ gam nhạc. Nó là một tên trộm!… Mọi nốt nhạc, mọi giai điệu và mọi sự hòa âm đều thiêng liêng và thuộc về chúng ta… Vì vậy, bây giờ và mãi mãi hãy thánh hiến giọng hát và nhạc cụ của bạn. Hãy mang đàn hạc, đàn organ, sáo, vĩ cầm, piano, trống và mọi thứ khác có thể tạo nên giai điệu ra! Hãy dâng chúng cho Chúa và sử dụng chúng để làm cho mọi trái tim xung quanh bạn vui vẻ trước Chúa! (The History of the Salvation Army, Robert Sandall, vol. II, p.112, Nashville, Thomas Nelson, 1950)

   Sự bùng nổ của các tác phẩm âm nhạc ở châu Âu vào thế kỷ thứ mười tám cũng tác động đến Edinburgh. Các phòng cho thuê và nhà riêng của những người giàu có trở thành nơi gặp gỡ của những nhạc sĩ muốn biểu diễn các tác phẩm cổ điển. Năm 1728, Hội âm nhạc Edinburgh được thành lập và năm 1763, một trong những hội trường âm nhạc lâu đời nhất châu Âu (St Cecilia's) được xây dựng tại phố Niddry, ngay gần Royal Mile.

   Năm 1753, Hội Âm nhạc Edinburgh đã liên lạc với nhà soạn nhạc Cơ đốc giáo nổi tiếng Handel, yêu cầu họ có thể biểu diễn một số tác phẩm oratorio và hợp xướng của ông tại đây. Sau đó, George Thomson từ cùng hội đã có một khoảnh khắc thiên tài và yêu cầu các nhà soạn nhạc Công giáo La Mã Haydn và Beethoven sáng tác nhạc cho một số bài thơ dân gian Scotland mà ông đã sưu tầm được. Mặc dù có một sự nở rộ ngắn ngủi các sáng tác địa phương trong giai đoạn này từ Bá tước Kellie, Schetky, Oswald, McGibbon và những người khác, hầu hết các tác phẩm đều lấy cảm hứng từ sự lãng mạn hoặc từ các chủ đề ngoại giáo, ngoại trừ một số tác phẩm về Kinh thánh của Sir John Clerk xứ Penicuik.

   Năm 1829, một người Do-thái theo đạo Thiên chúa, Felix Mendelssohn, đã đến thăm tàn tích của Tu viện Holyrood trên Royal Mile trước chuyến đi đến Hebrides. Ông đã gửi những lời này trong một lá thư gửi cho gia đình mình ở Đức: “Tôi tin rằng hôm nay tôi đã tìm thấy bản giao hưởng Scotland đầu tiên của mình trong nhà nguyện cũ đó.”

   Tuy nhiên, Giáo hội Trưởng lão ở Scotland đã cấm âm nhạc trong thời kỳ Cải cách, và trong một thời gian dài, chỉ có mười hai giai điệu được hát theo Thánh ca. Ngay cả lời khuyến khích trong Kinh thánh là 'hát thánh ca, thánh ca và bài hát tâm linh' cũng bị từ chối. Các nhạc cụ chỉ được đưa trở lại Giáo hội Scotland vào năm 1875. Kết quả là, không giống như các nhà lãnh đạo Tin lành Đức ủng hộ âm nhạc và thấy một phong trào phi thường tác động đến thế giới, các nhà lãnh đạo Scotland đã từ chối nó và thay vào đó, Hội Tam Điểm đã phát triển nó. Điểm phi thường về điều này là Columbia, tín đồ của Scotland, đã ủng hộ âm nhạc trong những ngày đầu của công tác truyền giáo ở đây.

 

Nhận Định Của Martin Luther Về Âm Nhạc

   Luther được coi là Cha đẻ của Phong trào Cải cách và mặc dù ông rao giảng về sự cần thiết phải quay trở lại đức tin Cơ-đốc giáo theo Kinh thánh, ông cũng ủng hộ âm nhạc. Bản thân ông đã chơi đàn luýt (giống như Mandolin) và sáo. Ông đã viết trong một lá thư năm 1530: “Tôi thực sự tin, và không ngại khẳng định, rằng bên cạnh thần học, không có nghệ thuật nào sánh bằng âm nhạc.” (The Life and Letters of Martin Luther, Preserved Smith, pp 346-347, New York: Barnes and Noble, Inc. 1911, 1968)

   Ông thấy được tầm quan trọng của âm nhạc trong giáo dục và mục vụ đến mức ông cũng đã nói: “Một giáo viên phải có khả năng ca hát, nếu không tôi sẽ không nhìn đến anh ta; cũng không nên nhận những thanh niên vào chức thánh nếu họ không từng luyện tập và học nhạc ở trường.” (Luther and Music, Paul Nettl, translated by Frida Best and Ralph Wood, p. 34, Philadelphia: The Muhlenberg Press, 1948).

   Luther đã đào tạo các nhà truyền giáo sử dụng năng khiếu âm nhạc của họ để truyền bá phúc âm thông qua các giai điệu đương thời của ông. Nhiều nhà lãnh đạo nhà thờ thời ông đã thấy được giá trị của điều này, và ở Bohemia, một số anh em đã viết một lá thư cho Frederick III của Saxony vào năm 1574, nói rằng: “Những giai điệu của chúng tôi được chuyển thể từ những bài hát thế tục, và đôi khi người nước ngoài phản đối. Nhưng các ca sĩ của chúng tôi đã cân nhắc đến thực tế là mọi người dễ dàng chấp nhận sự thật hơn bằng những bài hát có giai điệu mà họ biết rõ.” (Luther and Music, Nettl, p. 29).

   Không có gì ngạc nhiên khi điều này khiến nhiều người trong Giáo hội Công giáo La-mã tức giận vì họ coi đây là sự thế tục xâm chiếm nhà thờ. Ví dụ, học giả vĩ đại, Erasmus, đã lo lắng về số lượng lớn người đổ xô đến nhà thờ vì họ muốn được giải trí thay vì theo Chúa Giê-xu: “Chúng ta đã mang vào nhà thờ của chúng ta một số loại nhạc kịch và nhạc kịch; một số từ ngữ hỗn loạn, lộn xộn, mà tôi nghĩ là chưa từng được nghe thấy trong bất kỳ nhà hát Hy Lạp hay La Mã nào. Nhà thờ vang lên tiếng kèn trumpet, sáo và đàn dulcimer; và giọng nói của con người cố gắng gánh vác phần của mình cùng với chúng… Đàn ông chạy đến nhà thờ như đến nhà hát, để được vuốt ve đôi tai.” (C. Kurtees, Nhạc cụ trong Thờ phượng, trang 190, 1911; tái bản năm 1950).

   Tuy nhiên, cần nhớ rằng Luther chỉ làm những gì các Giáo phụ đã làm trước đây khi Ephraim, nhà lãnh đạo vĩ đại của Syria (năm 303-373 sau Công nguyên), sao chép cấu trúc âm nhạc cho thánh ca nhà thờ từ những người theo thuyết Gnostics, những người có phong cách âm nhạc có tác động lớn đến dân chúng nói chung, hoặc Hilary xứ Poitiers (năm 300-368 sau Công nguyên), người đã viết thánh ca Cơ-đốc theo phong cách của người theo thuyết Arius để truyền bá phúc âm.

   Nền tảng của Luther trong cuộc Cải cách ở Đức là yếu tố quan trọng để khuyến khích các nhà soạn nhạc Tin lành vĩ đại như Bach, Handel, Mendelssohn và Brahms trong những thế kỷ tiếp theo. Ở Đức và Áo, Giáo hội Công giáo La-mã cũng ủng hộ các nhà soạn nhạc như Beethoven và Mozart. Sự nở rộ của âm nhạc tuyệt đẹp như vậy đến với sự hỗ trợ của cả hai giáo phái và trở thành một phước lành cho thế giới.

 

Lần Đầu Sử Dụng Đàn Organ Trong Nhà Thờ

   Vào thế kỷ thứ 7 (670 SCN), Giáo hoàng Vitalian đã giới thiệu chiếc đàn Organum (là loại đàn dùng bàn đạp hơi qua nhiều ống sáo) đầu tiên, trong lịch sử nhà thờ tại Tây âu sau đó những nhà thờ lớn ở Rô-ma. nhưng đàn Organum không được khởi xướng rộng rãi trong các nhà thờ cho đến thế kỷ thứ mười tám. Trên thực tế, chúng thường bị nghi ngờ và thậm chí là tức giận. Đàn Organum dần dần được sử dụng rộng rãi trong Giáo hội Công giáo vào thế kỷ thứ mười ba nhưng một số Nhà cải cách, đặc biệt là John Calvin (1509-1564), coi đó là nhạc cụ của thế gian và ma quỷ. John Knox ở Scotland là người lãnh đạo cuộc Cải cách, và chịu ảnh hưởng của Calvin, ông đã bắt đầu loại bỏ nhạc cụ gây khó chịu này. Đến năm 1727, chỉ có một chiếc đàn Organum có thể được tìm thấy trong tất cả các nhà thờ ở Scotland. Tất nhiên, ngày nay, trong nhiều giáo phái Tin lành và Công giáo, đàn Organum được coi là một nhạc cụ lỗi thời.

        

NHẬN ĐỊNH

   Khi xem xét âm nhạc và nhà thờ ngày nay, sẽ tốt hơn nếu xem xét ví dụ về bức tượng của Nê-bu-cát-nết-sa. Vua Nê-bu-cát-nết-sa đã cho dựng một bức tượng khổng lồ của chính mình để vào những thời điểm nhất định trong ngày, mọi người sẽ tôn thờ ông thông qua bức tượng của ông. Mọi loại nhạc cụ đã được sử dụng cho mục đích này. Đa-ni-ên liệt kê các loại kèn, sáo, đàn hạc (đàn cầm), đàn lia và đàn tam thập lục trong bản giao hưởng với đủ loại nhạc (Đa-ni-ên 3:5,7,15).

   Có phải các nhạc cụ là xấu xa không? Hay các phong cách âm nhạc khác nhau? Hay là Chúa không thích các bản giao hưởng? Chắc chắn là không! Chính đối tượng thờ phượng, tượng của Nê-bu-cát-nết-sa là nguyên nhân khiến Chúa tức giận, chứ không phải âm nhạc. Vì vậy, ngày nay đối với dân sự của Chúa khi Ngài bảo chúng ta hãy chạy trốn khỏi tội lỗi và sự thờ hình tượng.

   Có những bản nhạc đưa chúng ta vào sự tỉnh lặng để giao thông với Chúa, có những bài đem chúng ta vào sự chữa lành, có bản nhạc bày tỏ tấm lòng mừng rỡ hân hoan…; Rốt lại, hãy khôn khéo mà sử dụng các nhạc khí cho từng chủ đề phù hợp với từng phạm vi của không gian, khi phối âm các Ca từ và Giai điệu phải phù hợp với sự thờ phượng để tôn cao Danh của Đấng Hằng Sống. Đừng để tấm lòng của chúng ta nối gót với kẻ phản loạn (là kẻ ngày đêm từng hầu việc Chúa đã dấy nghịch) hoặc thờ phượng mà không biết điều gì (Giăng 4:22). Hãy niếm biết âm nhạc trong sự khai phóng từ Chúa Thánh Linh! Chúng ta kết thúc bằng một câu Kinh thánh của Phao-lô đã nhắc chúng ta: “Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều chi chân thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thanh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen, thì anh em phải nghĩ đến.” (Phi-líp 4:8)



David T. Nguyen