Chương bốn
ĐẠO ĐỨC TÙY THỜI
Khi chúng ta nói về đạo đức học phần lớn chúng ta ngụ ý muốn nói về một loạt các luật lệ,
quy luật và nguyên tắc mà chúng ta theo đó để hành động và đạo đức ấy bảo chúng ta điều phải
làm. Phần lớn chúng ta cho rằng đạo đức học phân loại những từ ngữ và hành động thành những
điều tốt điều thiện, những việc xấu việc ác, và chúng ta cho rằng cái thiện cái ác vốn ở ngay
trong các sự việc như thế rồi. Nói chung thì tất cả những điều đó đều nhằm đơn giản hóa sự việc
và khiến cho sinh hoạt được dễ dàng. Do đó mà chúng ta tưởng rằng mình đã có được một loạt
các luật lệ quy luật và nguyên tắc có sẵn, để chúng ta chấp nhận và đem ta áp dụng. Nó giúp
chúng ta khỏi gặp nhiệm vụ khó khăn và thường thường cũng nguy hiểm là phải tự mình phán
đoán và quyết định lấy mọi việc.
Nhưng năm 1966, một giáo sư người Mỹ là Joseph Fletcher có viết một quyển sách nhan đề
Đạo đức học tình huống (Situation Ethics), và quyển sách ấy đã được coi là một trong số những
quyển sách gây được ảnh hưởng lớn lao nhất của thế kỷ này. Nguyên tắc cơ bản của Fletcher là
chẳng có gì đúng cũng chẳng có gì sai phổ quát cả; chẳng có gì tự nó vốn là đúng hay sai cả. Tốt,
thiện, xấu, ác, không phải là những phẩm chất nội tại, thiết yếu, bất biến của bất kỳ một cái gì.
Chúng chỉ là những sự việc tình cờ được bộc lộ qua hành động trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.
Chúng chỉ là cách mô tả các sự việc trong những tình hình khác nhau; chúng không phải là đặc
tính (properties), mà chỉ là những thuộc tính (attributes). Theo thuyết về đạo đức này, thì chẳng
có gì có thể được định nghĩa trước là tốt xấu, thiện ác. Điều chúng ta làm trong một hoàn cảnh
nào đó không phải là một quyết định tiền chế, nhưng là một hành động phê phán. Xuyên suốt
chương sách này, các luận cứ và thí dụ, minh họa phần lớn đều được rút ra từ hai tác phẩm của
Fletcher, là Đạo đức học tùy Hoàn cảnh (Situation Ethics) và Trách nhiệm đạo đức (moral
Responsibility). .
Cần lưu ý rằng con người sống theo đạo đức học tình huống không phải bắt đầu từ hư vô.
Người ấy biết rõ mọi luật lệ và nguyên tắc, người ấy biết hết mọi kinh nghiệm, từng trải mà loài
người đã phát giác được. Người ấy biết rõ là có các luật lệ và nguyên tắc; nhưng người ấy không
nhìn nhận có nguyên tắc nào tự nó lại có tính cách bó buộc tuyệt đối và luôn luôn có giá trị, là
đúng hay sai. Bonhoeffer từng nói ‘Các nguyên tắc chỉ là các công cụ trong tay Thượng Đế,
chẳng bao lâu sẽ bị vứt bỏ vì không còn sử dụng được nữa’. Con người tình huống không phủ
nhận là có các nguyên tắc; người ấy không hề phủ nhận dù chỉ trong phút chốc việc phân loại các
sự việc mà kinh nghiệm đã tạo nên; nhưng người ấy hoàn toàn không chịu, để cho bất cứ điều gì
kìm chế hoặc trói buộc mình. 42
Chúng ta phải minh định cho tất cả những điều đó; đối với người theo đạo đức học tình
huống, thì có một điều và một điều luôn luôn tốt cách tuyệt đối và phổ quát - và điều duy nhất đó
là tình yêu thương Vậy hai mệnh đề đầu tiên của Fletcher là:
Chỉ có một điều tự nó là tốt, là thiện, tức là tình yêu thương; ngoài ra chẳng còn có điều nào
khác nữa. Định chuẩn tối hậu cho các quyết định của Cơ Đốc nhân là tình yêu thương; ngoài ra
chẳng có điều gì khác.
Rõ ràng là chúng ta phải biết chắc tình yêu thương đúng ra là gì. Người theo đạo đức học tình
huống không hề muốn đề cập về điều mà chúng ta vẫn gọi bằng tình yêu lãng mạn. Trong Hy
văn có đến bốn từ ngữ để chỉ tình yêu thương. Có từ ngữ erõs có nghĩa là say đắm, đam mê,
trong tình dục bao giờ cũng có erõs. Có từ ngữ philia, là tình cảm bạn bè; trong philia có tình yêu
thương thuộc thể của thân xác nhưng cũng có sự trung thực và tình bạn nữa. Có từ ngữ storgẽ, là
tình yêu thương trong phạm vi gia đình; không hề có tình dục trong đó; đó là tình yêu thương của
cha đối với con gái, của đứa con trai đối với mẹ của anh em chị em đối với nhau. Và có từ ngữ
agapẽ, là từ ngữ được đề cập ở đây. agaph là thiện chí không có gì chế phục được; nó là quyết
tâm luôn luôn tìm cầu điều tốt lành thiện hảo cao nhất cho người khác, bất chấp người ấy có làm
gì cho bạn đi chăng nữa. Nhục mạ, gây tổn thương, dửng dưng - tất cả đều chẳng có gì quan
trọng; điều quan trọng duy nhất là thiện chí. Nó đã được định nghĩa là chủ đích, chớ không phải
là đam mê. Nó là một thái độ đối với người khác.
Điều này là tối quan trọng vì nếu chúng ta đề cập đến loại tình yêu này, thì điều đó có nghĩa là
chúng ta có thể yêu người mà mình không thích. Đây không phải là vấn đề phản ứng của trái tim,
nó là một thái độ của ý chí và con người toàn diện tự ý tự nguyện hướng về người kia. Bạn
không thể ra lịnh cho một người ‘phải lòng’ một người khác theo nghĩa của tình yêu lãng mạn.
‘Phải lòng’ cũng giống như giẫm phải vỏ chuối vậy; nó xảy ra thình lình và người ta đành phải
nhận chịu mọi hậu quả của nó. Nhưng bạn có thể bảo một người rằng “Thái độ của bạn đối với
tha nhân phải là chẳng bao giờ, chẳng bao giờ, chẳng bao giờ muốn điều gì khác hơn là sự tốt
lành, thiện hảo cao cả nhất cho họ”.
Hiển nhiên, một khi chúng ta đã định nghĩa tình yêu như vậy, tình yêu là một điều vô cùng
thông minh. Như người Mỹ nói, phải tiên liệu, phải hình dung ra mọi góc độ. Dù gặp hoàn cảnh
nào chúng ta cũng phải thực hiện tình yêu thương. Vậy tình yêu thương đòi hỏi gì?
Chẳng hạn giả sử có một ngôi nhà phát hỏa và trong đó một em bé và nguyên tác bức danh
họa MonaLia; thế bạn sẽ cứu ai - em bé hay bức tranh vô giá và chẳng có bức tranh nào khác
thay thế được kia? Thật ra ở đây chẳng có gì để thắc mắc cả; bạn sẽ cứu em bé, bởi vì sinh mạng
một con người bao giờ cũng có giá trị hơn là một bức tranh.
Nhưng hãy suy nghĩ trường hợp này - giả sử trong ngôi nhà đang cháy kia có người cha đã
cao tuổi của bạn, một ông cụ già mà những ngày tàn chẳng còn làm được gì ích lợi cho ai nữa cả,
với một vị bác sĩ vừa tìm được thuốc chữa một căn bệnh đã giết rất nhiều người trên thế giới và
ông ta đang mang cái công thức ấy trong đầu mình, còn bạn thì chỉ có thể cứu được một người
mà thôi - thế bạn sẽ cứu ai?
Người cha thân yêu của bạn, hay vị bác sĩ đang nắm trong tay sinh mạng của nhiều ngàn
người? Làm việc nào là do tình yêu thương?
Trong chuyến đi theo đường mòn xuyên vùng đất hoang dã, Daniel Boone đi theo hướng Tây
từ Cumberland Gap đến Kentucky, có nhiều gia đình trong đoàn xe đã bị mất mạng về tay dân 43
Da Đỏ. Một phụ nữ Tô Cách Lan ôm một hài thi trong lòng. Đứa bé bị bệnh và khóc, tiếng khóc
của em bé chỉ điểm cho dân Da Đỏ biết ba đứa con khác của bà nọ và cả đoàn người còn lại nữa;
rõ ràng đoàn người sẽ không trốn tránh vào đâu được khi em bé kia cứ tiếp tục khóc; vị trí của họ
sẽ bị chỉ ra. Tuy vậy, người mẹ vẫn ôm chặt con mình; tiếng khóc của đứa bé khiến bọn Da Đỏ
tìm ra chỗ trú ẩn của họ; cả đoàn người bị phát giác và bị tàn sát. Rồi cũng có một hoàn cảnh
khác giống như vậy. Lần này trong đoàn người có một phụ nữ Da Đen. Con của bà ta cũng khóc
và có nguy cơ làm lộ ra chỗ trốn của cả đoàn người. Bà mẹ này đã dùng chính đôi tay của mình
bóp chết đứa bé để cho nó ngừng khóc - và cả đoàn người được thoát nạn. Thế hành động nào là
do tình yêu thương? Hành động của người mẹ đã giữ chặt con mình để đem cái chết đến cho nó,
cho chính bà ta và cho ta cả đoàn người, hay hành động của người mẹ đã giết con mình để cứu
mạng cho cả đoàn người? Đây là loại quyết định mà người theo đạo đức tình huống đặt ra trước
mặt chúng ta; hành động nào là do tình yêu thương? Nhà đạo đức tình huống luôn luôn đặt chúng
ta đối đầu với những quyết định. Không có cái đúng cái sai tuyệt đối. Chúng ta phải tùy từng
trường hợp mà hành động. Lẽ dĩ nhiên là có những nguyên tắc, nhưng chúng chỉ góp ý cho
chúng ta mà thôi; chúng không có quyền phủ quyết. Bất kỳ một nguyên tắc nào cũùng phải bị
vứt đi, bị để lại, bị bỏ qua nếu khi làm như vậy mệnh lệnh phải yêu thương người lân cận có thể
được áp dụng tốt đẹp hơn.
Nhà đạo đức tình huống tin chắc rằng cứ khăng khăng dựa vào các luật lệ một cách cứng nhắc
là hoàn toàn sai lầm. Nó có thể tạo ra điều mà có người từng gọi là “tính cách vô luân của luân
lý.” Nó có thể tạo ra điều mà Mark Twain gọi là “con người tốt theo nghĩa tệ hại nhất của từ ngữ
ấy.” Một linh mục người Pháp từng bảo rằng tình yêu đức hạnh một cách cuồng tín gây tai hại
nhiều hơn là tất cả các thói xấu nhập chung lại. Chỉ có hoàn cảnh là đáng kể. Lắm lúc công lý có
thể trở thành bất công. Cho nên Fletcher kể hai câu chuyện, chuyện thứ nhất từ đời sống thực tế,
chuyện thứ hai là từ một vở kịch.
Một người bạn của ông Fletcher đến St Louis đúng lúc chiến dịch cổ động cho việc bầu cử
tổng thống kết thúc. Ông lên một chiếc tắc-xi, và người lái tắc-xi tự nguyện làm người thông báo
tin tức. Anh ta nói ‘Tôi, cha tôi và các ông tôi cũng như tổ tiên chúng tôi đều là những người
trung thành thuộc đảng cộng hòa’ Người bạn của Fletcher cũng là một người thuộc cộng hòa reo
lên: ‘À vậy thì theo tôi hiểu, anh sẽ bỏ phiếu cho thượng nghị sĩ gì gì đó, phải không?’ Người lái
tắc-xi đáp ‘Không đâu, có lắm khi người ta phải xếp nguyên tắc của mình qua một bên để làm
một việc cho đúng’. Nhiều khi các nguyên tắc lại trở thành sai lầm - cả khi chính chúng vốn
đúng.
Câu chuyện thứ lai được rút ra từ vở kịch ‘Kẻ làm mưa’ của Nash. ‘Kẻ làm mưa’ làm tình với
một cô gái ế chồng trong một vựa lúa lúc nửa đêm. Anh ta không thật lòng yêu nàng, nhưng nhất
định cứu nàng khỏi tình trạng ế chồng của nàng; anh ta muốn trả lại phần nữ tính cho nàng và
nhen nhúm lại các hy vọng rồi đây nàng cũng sẽ có chồng có con. Người anh rất mực đạo đức
của cô ta tức giận, đe dọa sẽ bắn anh ta. Nhưng cha của cô ta, một trại chủ cao tuổi, khôn ngoan,
đã bảo con trai mình ‘Lòng con vốn đầy dẫy điều phải, đến đỗi con lại không nhìn thấy điều tốt’.
Với người đạo đức tình huống một việc thường bị gán cho cái nhãn hiệu sai lầm, trong một số
hoàn cảnh, lại có thể là việc đúng, điều phải duy nhất.
Điều này dẫn chúng ta tới các nguyên tắc căn bản thứ hai của Fletcher. Fletcher đã nêu nó ra
như sau: Tình yêu thương và công lý chỉ là một, vì công lý là tình thương được ban phát ra, chớ
chẳng phải là điều gì khác.
Chúng ta có thể kết hiệp tình yêu thương với công lý theo nhiều cách khác nhau. Nhiều khi 44
người ta tưởng rằng tình thương chống lại công lý, dường như tình yêu thương và công lý vốn
xung khắc với nhau vậy; nếu cần phải chọn, thì bạn phải chọn hoặc là tình yêu thương, hoặc là
công lý, chứ không thể chọn cả hai đồng thời; hoặc là bạn có thể chọn tình yêu thương và công
lý, dường như hai điều này vốn bổ sung cho nhau. Nhưng với Fletcher, thì tình yêu thương là
công lý; tình yêu thương với công lý chỉ là một và là giống nhau. Đây là một ý niệm mới.
Niehbur một vị giáo sư người Mỹ lừng danh thường nói rằng chỗ khác nhau ấy là tình yêu
thương vốn siêu việt và tình yêu thương là điều (mà chúng ta) không tài nào làm nổi; trong khi
công lý là điều mà nhờ nó chúng ta có thể sống trong xã hội hiện nay. Brunner thì chủ trương
rằng chỗ khác nhau ấy là tình yêu thương phải là giữa hai người; trong khi công lý chỉ có giữa
các nhóm người với nhau. Nhưng Fletcher lại bảo rằng tình yêu thương chính là công lý - hai
điều này chỉ là một và là giống nhau. Ông đã làm sáng tỏ việc này như thế nào?
Hãy chấp nhận, sự kiện tình yêu thương là điều duy nhất có tính cách tuyệt đối. Thế thì, tình
yêu thương phải được thể hiện trong hoàn cảnh sống - mà điều được thể hiện ra đó, chính là công
lý. Công lý như vẫn được nói, là việc trả cho mỗi người những gì người ấy có quyền hưởng;
nhưng điều mà một người có quyền hưởng chính là tình yêu thương, do đó tình yêu thương với
công lý chỉ là một điều giống nhau. Fletcher nói công lý là tình yêu thương được ban phát ra. Khi
chúng ta đứng trước những đòi hỏi của nhiều người, của ba hoặc bốn người, thì chúng ta phải
ban cho họ tình yêu thương, và chính công lý sẽ thu xếp để tình yêu thương được áp dụng như
thế nào cho từng người trong số đó. Công lý là tình yêu thương giải quyết các vấn đề của nó
(justice is love working out its problems).
Thế thì, trừ phi tình yêu thương chỉ là một tình cảm mơ hồ được phổ quát hóa, thì phải có
công lý, vì công lý là tình yêu thương được ứng dụng vào những trường hợp riêng biệt. Đây
chính là vấn đề vẫn thường xảy ra liên hệ đến tình yêu thương, là sự kiện nó chẳng bao giờ được
bộc lộ và chẳng bao giờ vượt quá một cảm giác và một cảm xúc. Fletcher kể lại trường hợp trước
đây ít lâu, Sammy Davis Jr. một hoạt náo viên lừng danh đã theo Do Thái giáo, và đo đó đã chối
bỏ Cơ Đốc giáo. Ông ta nói ‘Theo tôi thấy thì điểm khác nhau là Cơ Đốc giáo truyền giảng: Hãy
yêu thương người lân cận ngươi, còn Do Thái giáo thì truyền giảng công lý, và tôi nghĩ rằng
công lý là điều quan trọng mà chúng tôi cần’. Sammy Davis Jr. là người da đen, và ông đã biết rõ
tất cả những gì được thiên hạ gọi là tình yêu thương Cơ Đốc. Nhưng Fletcher nói, có nhiều người
rêu rao rằng họ yêu thương người da đen, nhưng đồng thời lại phủ nhận sự công bằng đơn giản
nhất. Fletcher nói tiếp ‘'Để diễn rộng câu nói phản đối cổ điển chúng ta có thể nói: Hãy quẳng
tình yêu thương của các ông xuống địa ngục đi, chúng tôi chỉ cần có công lý.’ Đây chính là việc
xảy ra khi công lý và tình yêu thương không cân xứng với nhau.
Điều này có nghĩa là tình yêu thương luôn luôn phải suy nghĩ; tình yêu thương luôn luôn phải
tính toán. Nếu không thì tình yêu thương cũng giống như bà vợ kia muốn bỏ qua hết mọi phương
thức dạy nấu nướng và chỉ để cho tình yêu của mình dành cho chồng hướng dẫn mình trong việc
làm một cái bánh ngọt cho ông ta. Tình yêu thương phải biết toán, khôn ngoan, sâu sắc, và thông
minh. Fletcher tiếp tục minh họa loại vấn đề mà tình yêu thương phải đương đầu để giải quyết.
Hãy lấy trường hợp của một nữ y tá trong một vở kịch truyền hình nhan đề Sự lựa chọn đắng
cay. Cô ta phụ trách một trại thương binh tại một quân y viện và hành động rất nghiêm khắc cố ý
và có tính toán, có thể nói là cộc cằn nữa khiến các thương binh rất thù ghét cô đến độ điều duy
nhất họ mong muốn là đứng dậy để ra khỏi bệnh viện. Đây là sự tàn ác hay một tình yêu thương
thiết thực hơn là thứ tình yêu thương vẫn vỗ về an ủi đến độ các thương binh chẳng còn muốn rời
khỏi bệnh viện nữa? 45
Hãy lấy trường hợp một bác sĩ. Một bác sĩ bị buộc không tiết lộ bệnh trạng của các con bệnh
của mình. Ông ta từng hứa theo lời thề của Hippocrate rằng:
“Trong khi thi hành phận sự chuyên môn của tôi - hay cả trong những gì không liên quan - bất
cứ điều gì tôi nhìn thấy hoặc nghe thấy trong đời sống của người ta mà không được nói ra, thì tôi
sẽ không tiết lộ vì biết rằng trong những vấn đề như vậy chúng ta phải im lặng”.
Ông bác sĩ ấy biết rằng sắp có một đám cưới diễn ra. Ông ta vốn biết rõ cả cô dâu lẫn chú rễ;
ông ta biết rằng cô gái là một trinh nữ trong trắng; nhưng tình cờ ông ta biết rằng chàng trai là
một tay chơi bời và mắc bệnh giang mai. Thế thì bổn phận của tình yêu thương là gì? Vị bác sĩ
có phải giữ lời thề của mình không? Nếu ông ta nói ra điều đó sẽ gây đổ vỡ tất cả. Hay là ông sẽ
bảo cho cô gái biết? Đâu là tình yêu thương?
Giả sử một công sở, một trưởng phòng nhân viên có trong văn phòng của mình một người thư
ký kém sức khỏe, vì bệnh tật nên làm việc không đúng mức, thì đâu là agapé, đâu là tình yêu
thương, đâu là sự quan tâm? Ông ta có nên cứ giữ người thư ký ấy lại không? Hay ông ta phải
nghĩ đến số công nhân khác đang cật lực lo sản xuất mà tốc độ của họ có thể giảm đi hay gián
đoạn do sự chậm trễ mà người thư ký yếu kém kia gây ra vì tình trạng sức khỏe của anh ta? Đâu
là tình yêu thương? Một Cơ Đốc nhân phải hành động như thế nào đây?
Trong một quyển tiểu thuyết của Sinclair Lewis, có một nhà bác học là bác sĩ Arrowsmith.
ông này khám phá được một huyết thanh mà ông biết chắc chắn là có công hiệu đối với một bệnh
dịch thường gây tai họa tại quần đảo Ca-ri-bê. Ông ta không thể thuyết phục được chính phủ và
các nhà cầm quyền công nhận sự sáng chế của mình. Nạn dịch tấn công quần đảo ấy,
Arrowsmith chỉ tiên thuốc được cho phân nửa dân cư; và cố ý từ chối việc tiêm thuốc cho phân
nửa số cư dân kia. Ông ta biết rằng số người được tiêm thuốc sẽ bình phục, còn những người
không được tiêm sẽ chết. Ông đã cố ý hi sinh họ để thuyết phục chính phủ về hiệu năng của chất
huyết thanh của mình, do đó, sẽ cứu được nhiều ngàn sinh mạng trong tương lai. Vậy, đó có phải
là tình yêu thương không? Đó có phải là mối quan tâm đích thực không?
Fletcher kể lại một biến cố bất ngờ đã xảy ra trong chiến tranh tại nước Ý. Một linh mục trong
phong trào bí mật đã gài bom và phá hủy một chuyến xe lửa chở hàng của bọn Quốc xã. Quân
đội Đức đang chiếm đóng bắt đầu giết hai mươi tù binh mỗi ngày, và tuyên bố chúng sẽ cứ tiếp
tục làm như vậy cho đến khi nào kẻ phá hoại bị đem ra nộp hoặc ra đầu bàng. Vị linh mục không
chịu ra tự thú, không phải vì ông đang nghĩ sẽ thực hiện nhiều cuộc phá hoại khác nữa, mà vì
theo lời ông ta, ông khu vực ấy chẳng còn một vị linh mục nào khác nữa, mà dân chúng thì rất
cần đến ông ta để làm phép xá tội cho linh hồn họ. Ba ngày sau, một chiến sĩ kháng chiến đã cố ý
phản nộp vị linh mục để ngưng việc tàn sát các tù binh. Anh ta làm như thế thì có đúng không?
Phải chăng điều được xem như một hành động phản bội thật ra lại là một hành động do tình yêu
thương?
Tình yêu thương cần phải tính toán. Và rất có thể rằng tình yêu thương phải sử dụng những
phương pháp mà trong những trường hợp khác vốn là những việc vô cùng khủng khiếp. Lý luận
của người đạo đức tùy theo hoàn cảnh là chẳng có gì tốt xấu, thiện, ác tuyệt đối cả, tất cả đều tùy
thuộc hoàn cảnh, mà trong một số hoàn cảnh, thì ngay đến hành động phản bội cũng có thể là
một hành động yêu thương.
Chúng ta hãy quay trở lại với mười điều răn. Người theo đạo đức học tùy hoàn cảnh vốn biết
rõ mười điều răn; anh ta rất tôn trọng chúng; anh ta không hề gạt chúng qua một bên; nhưng anh
ta sẵn sàng bảo rằng nhiều khi có một điều răn nào đó trong số mười điều răn ấy có thể trở thành 46
một điều xấu, điều ác mà có lẽ bổn phận của một Cơ Đốc nhân là phải vi phạm một điều răn nào
đó hoặc tất cả.
Chúng ta hãy xét đến một vài thí dụ mà Fletcher đưa ra:
Về điều răn: Ngươi chớ trộm cắp, thì thế nào?
Nếu một kẻ điên loạn giết người không gớm tay mà có một khẩu súng, thì chắc chắn là mọi
người đều có bổn phận phải ăn cắp khẩu súng của hắn ta. Giả sử có một kẻ muốn giết người là
hắn ta lại là một thằng điên. Giả sử hắn đến với bạn và hỏi bạn người mà hắn muốn giết đang ở
đâu, và giả sử bạn biết rõ nạn nhân đang ở đâu, thì chắn chắn bổn phận của bạn là phải lừa dối
hắn ta thay vì chỉ cho hắn người mà hắn đang tìm; chắn chắn một lời nói dối trong trường hợp
này là một hành động đúng. Điều khá kỳ lạ, là một số giáo sư đạo đức học không chịu nghĩ như
vậy. Họ nghĩ rằng bạn phải nói cho người ấy biết sự thật. Họ lý luận rằng nếu bạn làm như vậy,
thì chỉ có một tội mà thôi - tức là tội sát nhân; trong khi nếu bạn nói dối mà sau đó kẻ sát nhân
vẫn tìm ra và giết được nạn nhân bất chấp lời nói dối của bạn, thì sẽ có đến hai tội - nói dối và
giết người.
Còn về điều răn ngươi chớ giết người thì sao? Lúc T.E.Lawrence lãnh đạo người Ả-rập, có
hai thuộc hạ của ông gây lộn nhau và trong khi cải vã, Hamed đã giết Salem. Lawrence biết rằng
dòng họ của Salem nhất định sẽ báo thù và một cuộc báo thù huyết sẽ xảy ra giữa hai dòng họ,
mà dòng họ này sẽ tàn sát cả dòng họ kia. Thế Lawrence đã làm gì? Ông đã nghĩ ra và sau đó, đã
tự tay mình giết Hamed và nhờ đó, ngăn chận được cuộc báo thù huyết. Làm như vậy có đúng
không? Phải chăng hành động đã ngăn chậân được một cuộc báo thù huyết và có thể đã ngăn
ngừa được mấy chục người bị tàn sát, là một hành động giết người hay là một hành động yêu
thương?
Hãy xét trường hợp của điều răn cấm ngoại tình. Ở đây Fletcher kể lại câu chuyện cả hai đều
là chuyện phim. Câu chuyện đầu tiên ở trong cuốn phim Chẳng bao giờ vào Chủ nhật. Cuốn
phim nguyên được H.A.Williams trích dẫn trong tác phẩm nhan đề Những âm vang (Soundings).
Vấn đề ông muốn nói là điều quan trọng nhất trong đời sống, là tự hiến thân thật hào phóng,
cống hiến như chính Thượng Để cống hiến vậy. Và ông đề cập rất nhiều cái mà chúng ta gọi là
đức hạnh Cơ Đốc vốn chỉ đặt trên cơ sở là sự sợ hãi và trên việc hoàn toàn từ chối tận hiến cho
người khác. Ông ứng dụng việc ấy vào các mối liên hệ tính dục. Các mối liên hệ tính dục bao giờ
cũng sai khi chúng chỉ nhằm lợi dụng người kia. Nhưng ngay cả trong các mối liên hệ ngoài hôn
nhân cũng có thể có việc tự tận hiến. Cho nên ông kể lại một truyện phim của Hy lạp. Một gái
điếm ở Piraeus tiếp một chàng thủy thủ. Lúc đến phòng cô ta, anh chàng có vẻ bồn chồn lúng
túng và không tự nhiên chút nào. Cô ta thấy ngay rằng anh chàng không phải bối rối vì ý niệm là
mình đang làm điều sai quấy nhưng vì nghi ngờ nam tính của mình cũng như khả năng làm tình
của mình. Anh ta đang là mồi ngon của sự nghi ngờ có tính cách huỷ diệt, chớ không phải vì
những sự ngại ngùng về luân lý đạo đức. Cô ta đã tự hiến thân cho anh chàng theo một cung cách
đã khiến cho anh chàng tìm thấy tự tin và tự trọng. Tôi xin trích dẫn lời của Williams ‘Anh
chàng ra đi và trở thành một con người sâu sắc, đầy đủ hơn lúc đến. Điều có thể thấy rõ ở đây là
một hành động do từ tâm có tác dụng rao truyền sự vinh hiển của Thượng Đế. Anh chàng đã
được trang bị đầy đủ cho cuộc sống như anh ta chưa hề được trang bị trước đó.’ Đây là tội tà
dâm hay một trường hợp chữa trị lạ lùng cho nhân cách của một con người đã lệch lạc về phương
diện tâm lý; là việc vi phạm một điều răn của Thượng Đế hay làm trọn ý chỉ Ngài; là tội lỗi hay
tình yêu thương? 47
Thí dụ minh họa thứ hai được rút ra từ một cuốn phim của Anh quốc nhan đề là Vết Hằn (The
Mark). Có một người bất bình thường, vốn rất nguy hiểm cho các em bé gái. Sự bất bình thường
đó nảy sinh từ sự kiện anh ta sợ việc liên hệ với các phụ nữ trưởng thành. Thời gian trôi qua, và
anh ta gặp một phụ nữ tạo được cho anh ta có đủ tự tin để cùng đi nghỉ cuối tuần với cô ta. Họ
thuê hai phòng riêng biệt trong khách sạn; nhưng rõ ràng cho đến khi nào anh ta cảm thấy đủ tự
tin để ngủ với nàng, anh ta sẽ chẳng bao giờ được giải thoát khỏi tình trạng bất bình thường đáng
sợ đang dần dà hủy hoại anh ta và hủy diệt cả người khác nữa. Cuối cùng - tôi xin trích dẫn của
tác giả - họ đã ngủ với nhau và anh chàng được chữa lành. Williams kể tiếp: ‘Bất chấp Hội thánh
có nói gì về tội tà dâm, thì ở đâu có phép lạ chữa bệnh là ở đó có Chúa Cứu Thế, và câu trả lời
thích đáng là: Vinh danh Thượng Đế trên trời!.’ Đây là Thượng Đế hay ma quỷ? Là tình yêu hay
sự tham dục? Là tội lỗi hay tình yêu thương? (Nhiều chuyên gia trong lãnh vực này đã vạch rõ
với tôi rằng dầu sao thì một hành động như thế không nhất thiết sẽ có kết quả là một chữa lành
được bệnh).
Chúng ta có bị đẩy đến chỗ phải kết luận rằng chẳng có gì là phải, là đúng tuyệt đối cả và
dường như càng có ít điều gì tuyệt đối là sai, mà tất cả đều tùy thuộc hoàn cảnh phải không? Phải
chăng những điều tốt, xấu, thiện, ác không phải là những phẩm chất ở trong các hành động, mà
những điều xảy đến cho một hành động trong một hoàn cảnh, không phải là những thuộc tính,
mà chỉ là những là phẩm chất được gán cho?
Chúng ta hãy lấy một thí dụ cuối cùng của Fletcher! Ông ta đặt cho nó cái nhan đề là Ngoại
tình hy sinh. Lúc các đạo quân Nga tiến lên để gặp các đạo quân Anh và Mỹ, bà Bergmeier đang
đi lục lạo tìm thức ăn cho con cái và cho chính bà, thì bị họ bắt đi. Bà chẳng kịp nhắn lời nào cho
các con cả và bị đưa vào một trại lao động tập trung ở Ukraine. Trong khi đó, chồng bà cũng bị
bắt và đưa đến trại tù binh ở xứ Wales. Cuối cùng, người chồng được thả ra. Ông ta trở về Đức
và sau nhiều tuần lễ tìm kiếm, ông gặp được các con, hai đứa nhỏ nhất thì ở trong một trường cải
tạo của người Nga, còn đứa lớn nhất thì trốn trên trần nhà. Chúng chẳng biết gì về mẹ chúng cả.
Họ vẫn không ngừng việc tìm kiếm bà. Họ cũng biết rằng chỉ có việc bà trở về mới có thể khiến
cho gia đình họ được đoàn tụ, và hàn gắn lại tất cả những gì đã xảy ra cho họ. Trong khi đó, tại
xứ Ukraine xa xôi, một ông trưởng trại tập trung tốt bụng đã báo cho bà Bergmeier biết rằng gia
đình bà đã được đoàn tụ và đang cố công ra sức tìm kiếm bà. Nhưng ông ta không thể thả bà ra
được, vì chỉ có hai lý do cho phép một tù binh được phóng thích. Thứ nhất, một tù binh (nam hay
nữ) chỉ được thả ra nếu đang mắc một chứng bệnh mà trại tập trung không chữa trị được, và
trong trường hợp ấy, sẽ được chuyển đến một bệnh viện Nga. Thứ hai, một phụ nữ chỉ được thả
ra nếu đang mang thai. Trong trường hợp này, các phụ nữ được trả về Đức vì đã trở thành một
gánh nặng và vì không thể làm việc được. Bà Bergmeier đã suy tính kỹ, và cuối cùng yêu cầu
một lính gác tù binh người gốc Đức ở vùng Volga hay tỏ ra thân thiện với mình làm cho bà có
mang. Và anh ta làm theo. Tình trạng của bà đã được kiểm chứng y khoa. Bà được gởi trả về
Đức và được cả gia đình mở rộng vòng tay tiếp rước, Bà ta kể cho họ nghe việc bà đã làm và họ
hoàn toàn chấp nhận. Đến kỳ bạn, đứa bé ra đời. Họ đặt tên cho nó là Dietrich và yêu nó hơn vì
cảm thấy nó đã giúp đỡ họ nhiều hơn là bất kỳ ai khác. Còn về người lính gác Đức kia, thì họ chỉ
biết ghi ơn và yêu mến bằng ký ức mà thôi. Vậy thì thế nào? Phải hay quấy? Ngoại tình hay yêu
thương?
Fletcher chủ trương rằng khi một hành động làm tình mà trong đó không có tình yêu thì dầu là
ở bên trong hay bên ngoài hôn nhân, nó đều là sai, là quấy. Khi không có sự quan tâm, lo nghĩ,
không có tình yêu, không có sự dấn thân mà chỉ có việc thỏa mãn lòng dục mà thôi - dầu là trong
hay ngoài hôn nhân - thì điều đó là sai, là quấy. Fletcher còn trích dẫn một bức hí họa của một 48
trong số những tạp chí bênh vực cho chuyện tình dục. Một thanh niên đầu bù tóc rối ôm trong tay
mình một thiếu nữ cũng đầu tóc rối bù cùng ló đầu ra khỏi chiếc mềm và nói ‘Tại sao lại nói đến
tình yêu vào một lúc như thế này?’ và Fletcher giải thích: Thà chung sống chẳng cần cưới hỏi gì
cả mà tận hiến cho nhau, chung thủy với nhau và biết trách nhiệm, còn hơn là sống trong hôn
nhân mà chẳng có tình yêu.
Thế thì, chúng ta sẽ nói sao về tất cả mọi điều đó? nguờl theo đạo đức học tùy hoàn cảnh
tuyên bố chẳng có gì là tuyệt đối đúng, cũng chẳng có gì tuyệt đối sai; tất cả chỉ tùy theo hoàn
cảnh. Thiện ác, xấu tốt không ở trong một điều gì cả, mà chỉ là những điều xảy đến cho các hành
động đang được thực hiện. Chúng ta phải nói sao đây?
Trước hết, chúng ta có thể bắt đầu với sự phê bình không phải nhằm nền đạo đức học tùy
hoàn cảnh mà nhằm vào cách mà Fletcher trình bày thuyết ấy. Vấn đề là phần lớn các thí dụ
minh họa của Fletcher đều được rút ra từ cái bất bình thường, cái thất thường và cái khác thường.
Rất khó có khả năng chính tôi lại phải đối diện với một cuộc báo thù huyết của người Ả-rập, hay
tình bình chiến tranh bên Đông Đức. Chúng ta dễ đồng ý với nhau rằng những hoàn cảnh khác
thường cần đến những biện pháp khác thường, hơn là nghĩ rằng chẳng hề có luật lệ gì cho sinh
hoạt bình thường hằng ngày.
Thứ hai - và vấn đề này vốn nghiêm trọng hơn nhiều - thuyết đạo đức tùy hoàn cảnh đưa ra
cho chúng ta một mức độ tự do đến khủng khiếp. Chúng ta ta đang đối diện với hoàn cảnh của
mình; chúng ta không hề có một phán đoán sẵn nào; chỉ có bạn, chính bạn, phải đưa ra quyết
định đúng. Brunner từng nói rằng bạn chẳng hề có thể dựa vào đâu được cả - ngay cả đi đến Bài
Giảng Trên Núi - để có thể nói rằng ‘Bây giờ thì tôi biết việc phải làm’. Chẳng có điều gì có thể
được gọi là một quyết định đã có sẵn. Dĩ nhiên chúng ta biết rõ những gì mà kinh nghiệm đã
khám phá được và chỉ dạy mình, nhưng chúng ta luôn luôn bị để lại một mình trong tự do hoàn
toàn để ứng dụng chúng.
Fletcher hoàn toàn có lý khi bảo rằng về cơ bản mà nói, thì loài người vốn không muốn được
tự do. Ông trích dẫn truyền thuyết về vị Quan tòa Vĩ đại trong tác phẩm Anh em nhà Karamazov
của Dostoievsky, là một ẩn dụ về gánh nặng khủng khiếp của tự do. Chúa Giê-xu trở lại đất này.
Vị Quan Tòa nhận ra Ngài trong đám đông.
Ngài đang theo dõi một cuộc diễn hành có tính cách tôn giáo, và lập tức hạ lệnh bắt Ngài.
Đêm đến, vị Quan Tòa bí mật đến với Chúa Giê-xu. Ông ta cố gắng giải thích với Ngài rằng dân
chúng chẳng muốn được tự do. Họ muốn được yên ổn. Ông ta lý luận, nếu Ngài quả thật yêu
thương người ta, thì Ngài cần khiến cho họ được hạnh phúc chớ không cần cho họ được tự do.
Tự do là nguy hiểm, là mở rộng. Họ cần luật pháp mà không muốn phải chịu trách nhiệm; họ
muốn được các luật lệ an ủi thần kinh của họ, chớ không phải những nơi phóng khoáng tâm linh
đòi hỏi họ phải quyết định. Ông nói Chúa Cứu Thế không nên lại bắt đầu tất cả những việc cổ
xưa về tự do, ân điển và hiến thân với trách nhiệm nữa. Cứ để mặc cho mọi việc xảy ra; hãy để
cho Hội thánh lấy luật pháp giải quyết chúng. Xin Chúa Giê-xu hãy đi chỗ khác.
Chẳng còn nghi ngờ gì là phần đông người ta không muốn phải liên tục đối đầu với sự cần
thiết phải đưa ra những quyết định. Đúng hơn họ muốn có ai đó quyết định thay cho họ; đúng
hơn họ muốn áp dụng các luật lệ và nguyên tắc vào cho hoàn cảnh. Và rất có thể là họ cũng có
lý.
Cách sử dụng đúng quyền tự do của chúng ta trong các mối liên hệ với tha nhân vốn tùy thuộc
vào tình yêu thương. Nếu tình yêu thương là trọn vẹn, thì tự do là điều tốt. Nhưng nếu không có 49
tình yêu thương, thì tự do có thể trở thành phóng túng, tự do có trở thành vị kỷ và cả tàn ác nữa.
Nếu bạn bỏ mặc cho một kẻ chẳng hề có tình yêu thương muốn làm gì tùy thích, thì những tai hại
mà kẻ ấy có thể tạo ra sẽ không thể nào đếm nỗi. Rất có thể rằng cả tôi lẫn bất luận một người
nào khác đều chẳng hề có ai đạt tới cái trình độ sẵn sàng đối với quyền tự do cô đơn mà nhà đạo
đức học tình huống dành cho chúng ta. Các nhà chủ trương đạo đức học tình huống vốn có một
thứ sợ hãi đối với luật pháp, nhưng bài học của kinh nghiệm dạy rằng là con người chúng ta cần
đến một số luật lệ nào đó.
Aristotle có giáo lý của ông và tập quán. Ông lý luận rằng có một giai đoạn không thể cho
một đứa trẻ được tự do. Không phải vì đứa trẻ vốn xấu. Mà vì trong giai đoạn thơ ấu, trẻ con vốn
chưa có khôn ngoan và kinh nghiệm, chưa có khả năng nhìn xa trông rộng để tính toán mọi hậu
quả, điều mà tự do đòi hỏi. Do đó, trong giai đoạn ấy, chúng ta phải đặt trẻ con dưới kỷ luật,
dưới luật pháp, sự kiểm soát, để nó phát triển thói quen làm đúng việc phải làm. Bạn chỉ có thể
học thổi sáo bằng cách rèn luyện việc thổi sáo theo đúng luật thổi sáo. Bạn chỉ có thể học tập làm
người tốt bằng cách thực thi điều tốt việc thiện trong kỷ luật - và lắm khi còn cần cả sự trừng
phạt nữa - của các quy Luật về điều tốt điều thiện. Có một giai đoạn trong đó đứa trẻ, phải tập
cho quen, và cả đến phải được thúc đẩy, giục giã, để sống ngay lành thiện hảo nữa. Chỉ sau khi
nó đạt được trình độ quen thuộc rồi, thì ta mới có thể giao cho nó quyền tự do.
Hãy lấy trường hợp các trò chơi thể thao. Một trận túc cầu sẽ trở thành hỗn loạn nếu không có
luật chơi. Người ta có thể tưởng tượng ra là đến một tương lai nào đó, có thể có hai đội túc cầu
đá với nhau mà không có trọng tài. Nhưng giai đoạn ấy vẫn chưa đến! Thời trị vì của luật lệ vẫn
còn là cần thiết.
Nếu tất cả mọi người đều đã là những ông thánh, thì đạo đức học tình huống sẽ là một nền đạo
đức học hoàn toàn. John A.T.Robinson đã gọi đạo đức học tùy hoàn cảnh là ‘nền đạo đức học
duy nhất của con người đã trưởng thành’. Điều đó có thể đúng, nhưng con người vẫn chưa
trưởng thành. Do đó, con người vẫn cần phải chống nạng và luật pháp bảo vệ. Nếu chúng ta nằng
nặc đòi rằng trong mỗi hoàn cảnh, mỗi con người đều phải tự quyết định lấy, thì trước hết, chúng
ta phải khiến cho con người có đầy đủ khả năng về phương diện đạo đức và có tình yêu thương
để đưa ra một quyết định như vậy; nếu không, chúng ta phải cần sức thúc đẩy của luật pháp để
khiến nó quyết định. Mà sự kiện là có ít người trong chúng ta đã đạt được trình độ ấy; chúng ta
vẫn cần luật pháp và vẫn cần được bảo cho biết mình phải làm gì, và lắm khi còn cần cả phải
được hối thúc thì mới chịu làm nữa.
Thứ ba, nhà đạo đức tùy theo hoàn cảnh luôn luôn nhắc đi nhắc lại rằng theo quan điểm của
mình thì chẳng có gì tự nó là tốt xấu thiện ác cả. Ông ta bảo rằng tốt xấu thiện ác không phải là
các đặc tính, mà chỉ là các phẩm chất được gán cho. Chúng không phải là các đức hạnh bẩm
sinh; chúng chỉ là việc tình cờ nảy sinh vào một hoàn cảnh nhất định nào đó. Tôi rất nghi ngờ
việc phân biệt tốt xấu lại có thể giải thích như vậy.
Chúng ta có thể đồng ý là Fletcher đã chứng minh rằng có thể có những hoàn cảnh trong đó
một việc nói chung thường bị xem là sai quấy, có thể trở thành điều đúng, việc phải. Nhưng điều
đó không chứng minh được rằng việc làm ấy là tốt, là thiện. Sự việc ở đây rất giống với các dược
liệu nguy hiểm mà một bác sĩ có thể kê toa. Lúc ông ta kê toa các dược hiệu ấy, ông ta không hề
bảo rằng chúng không phải là thuốc độc. Chúng vốn là thuốc độc, và chúng vẫn còn là thuốc độc.
Chúng phải được giữ trong một ngăn tủ đặc biệt và những chai lọ đặc biệt. Chúng chỉ được sử'
dụng dưới chế độ an toàn triệt để. Lẽ tất nhiên là có những trường hợp vị bác sĩ sẽ chẳng bao giờ
kê nó vào toa thuốc vì không biết chắc con bệnh có đủ trí lực để khỏi sử dụng nó một cách sai 50
lầm không. Dường như đã có sẵn một loại đèn đỏ báo hiệu, và đèn đỏ đó vẫn không bị tắt đi, vì
dược liệu nguy hiểm ấy sẽ chẳng bao giờ được gọi bằng một cái tên nào khác hơn là thuốc độc.
Cũng vậy, có một số điều mà nhân một số cơ hội hiếm hoi, người ta có thể sử dụng để phục vụ
cho một cứu cánh tốt đẹp.Nhưng chẳng bao giờ cái đèn đỏ của chúng có thể bị xóa đi, khiến
chúng được gọi là những điều tốt lành. Chúng vẫn rất nguy hiểm và chẳng bao giờ nên được gọi,
hay được xem, khác hơn thế.
Tôi phải tùy tiện đi xa hơn một chút. Tôi cho rằng có những điều mà bất luận gặp hoàn cảnh
nào, người ta cũng có thể báo chúng là đúng cả. Chỉ cần đưa ra hai thí dụ mà thôi, bắt đầu là một
thanh niên nhân danh thử nghiệm và thí nghiệm để đi đến chỗ bị nghiện ma túy, là điều chẳng
bao giờ có thể gọi là đúng được. Nhân danh cái gọi là tình yêu thương để cắt đứt mối liên hệ gia
đình cũng chẳng bao giờ có thể là đúng. Điều phải và điều trái chẳng có thể dễ dàng bị loại trừ
như thế được.
Thứ tư , nhà đạo đức tình huống có thể quên mất hai điều:
a. Ông ta có thể quên lửng đi rằng các trợ giúp về mặt tâm lý có thể được thực hiện khi có
những điều kiện bất bình thường. Fletcher đã đưa ra những thí dụ về phép lạ chữa bệnh chỉ được
thực thi bằng điều mà một Cơ Đốc nhân sẽ đơn giản gọi là tội tà dâm. Ông kể trường hợp người
đàn ông rất nguy hiểm cho các em bé gái được chữa lành nhờ làm tình với một phụ nữ đã trưởng
thành. Cần lưu ý rằng một hành động như vậy không hề bảo đảm sẽ chữa lành được cho một
người trong hoàn cảnh như vậy. Ông trích dẫn vỡ kịch Kẻ làm mưa trong đó Kẻ làm mưa cố tình
dụ dỗ con gái ông trại chủ để cứu vớt cô ta khỏi điều mà ông ta gọi là bị ‘ế chồng’. Điều này
hoàn toàn gạt ra ngoài khả năng thật sự đưa tới ‘cao thượng hóa’ (sublimation). Tiến sĩ Hadfield
nói ‘Cao thượng hóa là tiến trình bởi đó các cảm xúc của bản năng được tách rời khỏi các cứu
cánh nguyên thủy của chúng và tái định hướng nhằm các chủ đích làm thỏa mãn cá nhân ấy và
tạo ích lợi cho cộng đồng’ . Không cần phải có ức chế với đủ thứ cái xấu cái ác liên hệ với nó.
Sức lực, năng lực, và sự tuôn trào ra từ một bản năng có thể được cao thượng hóa để phục vụ tha
nhân là một điều hoàn toàn tự nhiên. Một người nam hoặc nữ có thể không có một lối thoả mãn
bản năng tính dục, nhưng đã có bao trường hợp, cái sức mạnh của tình dục đó có thể được hướng
dẫn vào nhiều lãnh vực khác và được cao thượng hóa để phục vụ cho nhiều việc khác. Có rất
nhiều phụ nữ không lập gia đình đã không hề trở thành người ‘ế chồng bị ức chế’ vì đã tìm được
một nếp sống đầy trọn trong một hướng đi khác. Có nhiều đàn ông phải sống độc thân đã cao
thượng hóa sức thúc đẩy của tình dục bằng cách đưa nó vào những công trình khác, những công
tác phục vụ khác. Một người có thể suy luận là chẳng biết John Wesley đã có thể trở thành một
nhà sáng lập thật năng động một Hội thánh mới như vậy hay không, nếu ông đã có một đời sống
gia đình hạnh phúc. Ông đã đổ vào cho Hội thánh tất cả những gì mà đáng lẽ ra ông phải giữ lại
trong các giới hạn của một gia đình. Có những trường hợp được chữa bệnh và bù trừ cho những
điều kiện bất bình thường không hề đòøi hỏi người ta phải đạp đổ điều mà chúng ta đã từng học
biết dưới cái tên là luật lệ luân lý đạo đức - và sự kiện hết sức hiển nhiên là nhưng ‘phép lạ’ chữa
bệnh đó đều công hiệu hơn nhiều.
b. Và trên hết mọi sự, người chủ trương đạo đức học tình huống có thể dễ dàng quên lửng đi
ân điển của Thượng Đế. Nếu Cơ Đốc giáo không hề lừa dối người ta, thì nó phải thực hiện lời
công bố của mình là có thể khiến kẻ ác thành người tốt lành. Khích lệ người ta hướng về lối sống
phóng túng, không phải là sự chữa lành thật mà phải hướng dẫn người ta đến với ân phúc của
Thượng Đế thì mới thật sự là chữa lành. Khi bắt đầu việc truyền giảng lộ thiên và John Wesley
được thấy những gì mà ân phúc Thượng Đế có thể làm, ông đã viết thư cho anh mình là Samuel: 51
‘Em sẽ chỉ cho anh thấy một người từ trước đến giờ vốn là một con sư tử, nhưng bây giờ lại là
một chiên con; người vốn nghiện rượu, bây giờ lại là người tiết độ gương mẫu; người trước kia
vốn là một tú bà, bây giờ lại ghê tởm cả đến chiếc áo bị xác thịt làm vấy bẩn’.
Wesley bảo rằng đó chính là những lý lẽ và là những bằng cớ chứng minh cho quyền phép
của ân điển Thượng Đế - và quyền phép ấy vẫn hằng mạnh mẽ như xưa nay.
Người theo đạo đức học tình huống dạy rằng chúng ta thật sự phải mềm dẻo, rằng chúng ta
phải nhìn vào các vấn đề của tha nhân không phải bằng sự công chính của riêng mình, nhưng
bằng thái độ cảm thông; rằng chúng ta không nên khư khư làm theo luật pháp; nhưng dầu vậy,
chúng ta cũng nên nhớ rằng có những luật lệ mà nếu chúng ta không tuân thủ thì sẽ chuốc lấy tai
họa cho mình.
Bối cảnh cuộc thảo luận của chúng ta về đạo đức học tình huống , thật luôn luôn có ý niệm về
luật pháp. Thật ra, nhiều khi hai ý niệm về luật pháp và đạo đức học tình huống hầu như đã tạo
thành một sự tương phản hoặc là một phản đề nữa. Đã có lần tôi bảo rằng những người theo
thuyết đạo đức tình huống dường như rất ghê sợ luật pháp. Do đó trước khi chúng ta rời khỏi chủ
đề này, thiết tưởng rất nên nhìn vào ý niệm về luật pháp nói chung, để một khi, nếu chúng ta xếp
luật pháp qua một bên, chúng ta có thể thấy rõ mình đang loại bỏ cái gì. Thế thì luật pháp là gì,
luật pháp có nhiệm vụ gì, và luật pháp nhằm làm gì cho xã hội?
1. Để bắt đầu, có thể nói rằng luật pháp là việc chắt lọc kinh nghiệm. Luật pháp tìm cách bảo
đảm rằng những việc làm mà kinh nghiệm đã chứng minh là có lợi thì phải được noi theo, là phải
loại trừ những việc làm mà kinh nghiệm đã chứng minh là có hại, gây tổn thương cho xã hội và
các thành viên của nó. Như vậy, luật pháp là sự đúc kết kinh nghiệm đã chứng minh là có hại,
gây tổn thương cho xã hội và cắc thành viên của nó. Như vậy, luật pháp là sự đúc kết kinh
nghiệm sống và sinh hoạt của xã hội. Do đó, xếp luật pháp qua một bên, có nghĩa là gạt bỏ kinh
nghiệm. Đây không phải là cách mô tả luật pháp thật đầy đủ, vì luật pháp rõ ràng sẽ tạo sự phân
biệt lớn lao về những hành động nào mà một xã hội nhất định nào đó quyết định là thiện hoặc ác.
2. Ta có thể nói theo một cách khác. Có người từng bảo rằng ‘luật pháp là quy luật của lẽ phải
được ứng dụng vào các hoàn cảnh hiện có.’ Fletcher đã nói rằng luật pháp là tìm cách bảo đảm
rằng mọi người phải sống một cuộc đời hợp lý, phải lẽ, như một con người đáng phải sống. Rồi
cũng có người bảo ‘luật pháp phiên dịch luân lý đạo đức (phán đoán về giá trị) thành ra những kỷ
luật của xã hội’ (J.Fletcher, Moral Responsibility, p.94). Một xã hội đưa ra lời kết luận thế nào là
một nếp sống hợp lý phải lẽ. Nó đưa ra lời kết luận về những giá trị được chấp nhận và những gì
là nguy hiểm cho các giá trị ấy. Sau đó, nó hình thành một bộ luật nhằm bảo đảm cho lối sống đã
được chuẩn nhận đó, và các giá trị đã được chọn lựa đó có thể được noi theo.
3. Một trong nhiều chức năng chính của luật pháp là định nghĩa. Nó định nghĩa cái gì phải bị
trừng phạt và cái gì thì được hoan nghênh tán thưởng. Nó định nghĩa tội ác là gì và quy định một
điểm giới hạn để thi hành sự ngăn chăn đối với kẻ không chịu làm theo. Trong một phương diện,
luật pháp không những định nghĩa, mà còn tạo ra một tội ác. Thí dụ, từ xa xưa tục lệ đa thê vốn
hoàn toàn hợp pháp, chẳng hạn như vào thời của các vị tộc trưởng trong Cựu Ước; sau này, một
chồng một vợ lại trở thành luật; thế là điều vốn hợp pháp trước đây, bỗng nhiên trở thành bất hợp
pháp. Chức năng của luật pháp là định nghĩa điều mà xã hội nghiêm cấm vào một thời nào đó.
4. Luật pháp tạo ra - hoặc ít nhất có thể tạo ra - hai hậu quả trái ngược nhau. Thứ nhất, khi
định nghĩa những điều sai quấy, thì ý hướng của luật pháp là nhằm thuyết phục người ta đừng
làm những việc sai quấy đó Hoặc nó ngăn chận người ta bằng cách khiến họ sợ các hậu quả do 52
làm những việc sai trái, hoặc bằng cách tạo ra trong chúng một ý thức trách nhiệm hầu duy trì
các xã hội mà mình vốn là một thành viên.
Nhưng điểm thứ hai, là luật pháp có thể tạo ra một hậu quả xấu. Chính việc ngăn cấm một
hành động có thể tạo ra một sự ước muốn, thèm khát hành động đó, như Phao-lô từng chứng
minh một cách sống động trong Rôma 7 ‘Luật pháp ... dạy tôi biết điều gì là tội! Tôi không biết
tham muốn là tội, nếu luật pháp không dạy: con đừng tham muốn!’ Ngay khi một việc nào đó bị
cấm, thì nó trở thành hấp dẫn. Chính đây là điều mà cậu bé Augustine phát giác ra khi ăn trộm
những trái lê:
Gần vườn nho của chúng tôi, có một cây lê trĩu quả. Vào một đêm dông gió, bọn trẻ ranh ma
chúng tôi tìm cách hái trộm lê và mang chúng đi. Chúng tôi mang cả một bao trái lê to và mang
chúng đi. Chúng tôi mang cả một bao trái lê to và nặng - không phải là để dọn tiệc cho mình,
nhưng là để quăng cho heo ăn, tuy chúng tôi cũng ăn vừa đủ để lấy làm khoái lạc về trái cây cấm
đó. Chúng quả là những trái lê ngon, nhưng không phải là những trái lê mà tâm hồn hư xấu của
tôi tham muốn, vì tôi vốn có rất nhiều trái lê ngon hơn ở nhà mình. Tôi hái chúng chỉ nhằm để
trở thành một tên trộm. Bữa tiệc duy nhất mà tôi được hưởng là bữa tiệc của tội lỗi, mà tôi tận
hưởng đến chán chê. Điều tôi lấy làm yêu thích trong việc trộm cắp này là gì? Phải chăng đó là
nỗi thích thú dám hành động chống lại luật pháp, để bản thân tôi một kẻ bị các luật lệ cầm tù, có
thể có một chút quyền tự do giả tạo bằng cách làm điều đã bị cấm đoán?... Lòng ham muốn trộm
cắp đã được đánh thức đơn giản chỉ là vì việc trộm cắp bị cấm đoán.
Vị ngon ngọt của quả lê vốn nằm trong sự kiện chúng là những trái lê bị hái trộm. Trong
những ngày trước khi việc đồng tính luyến ái được cho là hợp pháp, Westermarck có trích dẫn
lời của một người đồng tính luyến ái bảo rằng ‘anh ta rất buồn thấy luật pháp Anh quốc bị thay
đổi, vì việc làm ấy là sẽ bị mất vẻ quyến rũ của nó đi’ (E.Westermarck, Christiamty and Morals,
p.34; do J.Fletcher trích dẫn trong Moral Responsability, p.103).
Luật pháp là thanh gươm hai lưỡi. Những điều nó cấm đoán có thể khiến thiên bạ nản chí,
nhưng chúng có thể lại khuyến khích người ta.
5. Luật pháp nhằm bảo vệ xã hội. Luật pháp được ban bố là nhằm mục đích kiểm soát, ngăn
chận kẻ muốn làm hại xã hội. Luật pháp là những người bình thường, đoàn kết, tổ chức lại với
nhau thành những đoàn thể, nhằm kiểm soát, ngăn chận kẻ xấu nhưng mạnh bạo. Một số đông
các bé trai có thể cùng có một chính nghĩa chung để chống lại một tên ác ôn hay bắt nạt con nít,
vì nếu chỉ riêng rẽ từng em một, các em sẽ chẳng làm gì nổi hắn, nhưng nếu biết đoàn kết lại, các
em sẽ có thể thắng hơn hắn. Cũng vậy, luật pháp là một liên minh phòng thủ tự vệ qui tụ những
người bình thường để kiểm soát, kìm chế kẻ muốn làm hại hoặc lợi dụng hay thống trị xã hội. Sỡ
dĩ luật pháp hiện hữu, là để bảo vệ người công dân bình thường.
6. Chúng tôi dành lại cho phần cuối một quan điểm tối quan trọng về luật pháp. Đây là một
quan điểm được chấp nhận hết sức rộng rãi, nhưng không phải là phổ quát. Đó là quan điểm cho
rằng luật pháp luôn luôn quan tâm đến luân lý công cộng chớ không hề bận tâm đến các luân lý
riêng tư, trừ phi khi các luân lý riêng tư ấy xúc phạm đến nếp sống tốt đẹp công cộng hay đe dọa
sự an vui phúc lợi công cộng. Nói cách khác, có nhiều điều trái đạo đức nhưng không bị coi là
bất hợp pháp. Hay nói cách khác nữa, là có một sự khác biệt rộng lớn giữa tội lỗi mà luật pháp
chẳng bận tâm tới, với tội ác mà luật pháp đặc biệt quan tâm. Hãy lấy trường hợp đạo đức tình
dục, khi nào việc làm tình được hai người trưởng thành đồng ý với nhau, khi nào nó được cho là
chẳng làm thiệt hại tổn thương cho ai cả, và khi nào nó được thực hiện theo một cung cách chẳng 53
xúc phạm gì đến nếp sống tốt đẹp hoặc trật tự công cộng cả, thì luật pháp không hề bận tâm đến.
Đó luôn luôn là luật đối với nạn mãi dâm trong xứ (Anh) này. Giao cấu với một gái giang hồ thì
chẳng bao giờ là bất hợp pháp cả. Điều bất hợp pháp là mời mọc, gạ gẫm bán dâm, vốn vi phạm
trật tự công cộng. Gần đây, tình hình càng trở thành tương tự đối với việc đồng tình luyến ái,
trước đây, vốn bị coi là bất hợp pháp.
Vấn đề đã được Hội đồng Phúc lợi về Luân lý của Giáo hội Anh quốc vạch rõ như sau:
Chức năng của Nhà nước và luật pháp không nhằm bảo vệ luân lý của đời tư vì nó thuộc
phạm vi của Giáo Hội, do đó việc đối phó với tội lỗi là chức năng của Giáo Hội. Mặt khác,
nhiệm vụ của Nhà nước là phải trừng phạt các tội ác, nhìn nhận và định danh là tội ác, những tội
lỗi nào xúc phạm tới luân lý công cộng.
Tương tự như vậy, Bản Phúc trình Wolfenden bảo:
Nhiệm vụ của luật pháp không phải là bận tâm đến vấn đề phi luân vô đạo... Nó phải tự giới
hạn vào các hoạt động xâm phạm trật tự và nếp sống tốt đẹp công cộng, hay phơi bày ra trước
các công dân bình thường những điều gây xúc phạm và thiệt hại.
Theo quan điểm này, thì luật pháp chẳng có liên hệ gì tới đời sống luân lý đạo đức riêng của
cá nhân, mà tất cả đều liên hệ đến cách ăn ở cư xử giữa công cộng. Quan điểm này không phải
chỉ được quan tâm bởi điều chúng ta gọi là những thông báo công cộng mà thôi. Có một bức thư
của C.S.Lewis gởi cho bà Edward A.Allen, viết năm 1958, cũng có cùng một quan điểm y như
thế:
Tôi toàn đồng ý với ông Tổng giám mục rằng không phải tội lỗi nào (sin) cũng bị coi là tội ác
(crime). Có ông thần ông thánh nào trong số các nhà cầm quyền của chúng ta lại dám áp đặt ý
kiến của họ về tội lỗi lên chúng ta? - hàng lô các chính trị gia chuyên nghiệp, thường là những kẻ
xu thời dễ bị mua chuộc, mà cả đến ý kiến liên hệ đến vấn đề luân lý đạo đức ngay trong chính
đời tư của họ cũng chỉ được chúng ta đánh giá rất thấp mà thôi. Lẽ tất nhiên, nhiều hành động tội
lỗi chống lại Thượng Đế cũng làm tổn hại cho các công dân đồng bào ta, và do đó, và chỉ về
phương diện đó mà thôi, là phải được kể là tội ác. Nhưng trong tất cả các tội lỗi trên đời mà tôi
từng nghĩ đến, thì đồng tính luyến ái là tội ít có liên quan tới Nhà nước hơn hết. Chúng ta đã
được nghe quá nhiều về Nhà nước. Chính phủ dù có tốt tới đâu đi nữa cũng chỉ là một điều xấu
tất yếu. Hãy cứ để cho nó ở yên vị của nó (letters of C.S.Lewis ed W.H.Lewis, p.281).
Như thế, cả quan điểm chính thức lẫn riêng tư đều kết hợp nhau lại để chủ trương rằng đạo
đức cá nhân không phải là công việc của nhà nước và của luật pháp, trừ phi khi nó có những hệ
quả công cộng Tạm thời, chúng ta hãy gác qua vấn đề ấy, và sẽ sớm quay trở lại với nó.
Điều rắc rối của toàn thể vấn đề này, ấy là nó đưa ra cho chúng ta hàng loạt những căng thẳng
nằm trong vấn đề liên hệ giữa đạo đức và luật pháp.
1. Có sự căng thẳng giữa quyền tự do và luật pháp. Ở điểm này, người theo đạo đức học tình
huống rất dứt khoát. Fletcher viết ‘Chẳng có gì chúng ta làm là thật sự đạo đức cả, trừ phi chúng
ta được tự do để làm khác đi. Chúng ta phải được tự do quyết định làm gì trước khi bất kỳ một
hành động nào của chúng ta bắt đầu có tính chất đạo đức. Chẳng có kỷ luật nào ngoài kỷ luật tự
khép mình vào (kỷ luật cá nhân) có ý nghĩa đạo đức. Điều này ứng dụng vào tình dục, chính trị
và bất luận điều gì khác. Một hành động đạo đức là một hành động tự do, tôi làm là vì tôi
muốn....Nếu không có tự do thì luân lý đạo đức là vô nghĩa’ (J.Fletcher, Molal Responsability,
p.136). 54
Trên bề mặt, thì điều đó là đúng. Nhưng - và đây là một chữ nhưng vô cùng quan trọng - thật
ra thì có ai trong chúng ta là được tự do? Những gì chúng thụ hưởng do di truyền, môi trường
sống của chúng ta, quá trình chúng ta được trưởng dưỡng các truyền thống mà chúng ta thừa
hưởng, tính khí của chúng ta, hậu quả dồn dập của những quyết định trước đây của chúng ta, tất
cả đều tạo ảnh hưởng trên chúng ta. Rồi còn điều quan trọng đứng hàng đầu nữa, là tự do không
phải chỉ có nghĩa là một người được tự do làm một việc; mà nó còn có nghĩa là người ấy cũng
được tự do để không làm việc ấy nữa - và đúng tại điểm này mà quá khứ của chúng ta chen vào.
Phần đông chúng ta đều đã tự làm cho mình không được tự do. Tất cả vấn đề rắc rối liên hệ đến
tự do, ấy là đối với phần đông chúng ta điều đó chỉ là một ảo tưởng.
Nếu một người thật sự tự do, thì chúng ta phải đồng ý rằng người ấy phải được ban cho quyền
chọn lựa vô giới hạn; nhưng trong hoàn cảnh làm người, ở cương vị con người, người ấy không
thể hành động mà không có luật pháp để thuyết phục mình, có khi còn ép buộc mình làm điều
phải nữa. Đây không phải là lời bào chữa cho một chế độ pháp trị, cũng không phải là việc chối
bỏ một chế độ tự do, vì ở đây chắc chắn là chúng ta đã không bị đặt đối diện với sự lựa chọn
không phải giữa cái này hoặc cái kia (either/ or), nhưng là với việc phải chọn cả cái này lẫn cái
kia nữa. Tự do với luật pháp đi song song với nhau, và có lẽ cách nói đúng nhất về mọi việc đó,
ấy là nhờ ảnh hưởng của luật pháp mà cuối cùng người ta được thật sự tự do. Và nói cho đúng ra,
thì chính đây là điểm mà Fletcher bị vấp, vì cuối cùng, ông viết ‘Theo ngôn ngữ của nền thần
học cổ điển theo Kinh Thánh Tây phương, thì ân điển tăng thêm sức mạnh cho luật pháp và thỉnh
thoảng còn vượt quá luật pháp nữa, nhưng vẫn không hủy bỏ nó hoặc có thể thay thế cho nó, cho
đến khi nào chính tội lỗi cũng không còn nữa’ (J.Flecher, Moral Responsibility, p. 9).
2. Có sự căng thẳng giữa phi luân vô đạo với bất hợp pháp. Chúng ta đã khẳng định là có
nhiều điều vốn trái với đạo đức, nhưng lại không phải là phi pháp. Hãy lấy một thí dụ, nạn mãi
dâm là nghịch với luân lý đạo đức nhưng không phi pháp. Chúng ta đã thấy quan điểm phổ
thông, có thể nói là quan điểm chính thống nữa, là luật pháp chẳng dính dáng gì với luân lý đạo
đức riêng tư mà chỉ liên quan với luân lý đạo đức công cộng mà thôi. Không phải là tất cả mọi
người đều nhất trí vậy. Một vị thẩm phán nổi tiếng như Lard Devlin đã không nhất trí với Bản
Phúc trình của Wolfenden. Ông bảo rằng nói đến ‘luân lý đạo đức riêng tư’ là nói hoàn toàn sai.
Ông chủ trương rằng ‘tiêu diệt thói xấu cũng là công việc của luật pháp y như phải tiêu diệt các
hoạt động nhằm lật đổ chính quyền vậy’ Chẳng có gì để nghi ngờ rằng đây quả là một học thuyết
hết sức khó không ngoài lý do nào khác là thật rất khó để người ta đồng ý với nhau thói xấu
(vice) là gì. Fletcher trích dẫn một đoạn của Bản Phúc trình Sycamore bên Mỹ ‘Các Cơ Đốc
nhân phải thẳng thắn đối diện với sự kiện là mớ tư tưởng có thẩm quyền mà Cơ Đốc giáo cho là
chân lý mặc khải của Thượng Đế thật ra chỉ là điều sai lầm của loài người có hương vị của Phao-
lô mà thôi. Chúng ta phải nhớ kỹ điều này mỗi lần nghe một câu khẳng định trang trọng rằng thế
này hoặc việc kia là ý chỉ Thượng Đế hoặc là đạo đức Cơ Đốc’. Điểm khó khăn là việc định
nghĩa thói hư tật xấu (vice).
Nhưng giả sử chúng ta chấp nhận nền đạo đúc học Cơ Đốc giáo như vốn có trong lời truyền
dạy của Chúa Giê-xu; giả sử chúng ta chỉ chấp nhận nó cho riêng mình mà thôi và tin quyết rằng
đó là đơn thuốc kiến hiệu nhất cho sinh hoạt của xã hội Thế sau đó, chúng ta có hoàn toàn hài
lòng nếu luật pháp cứ ngày càng khiến cho những gì chúng ta nghĩ là sai lầm trở thành dễ dàng
hơn không? Chúng ta có hoàn toàn hài lòng khi việc đồng tình luyến ái có thỏa thuận được cho là
hợp pháp không? Chúng ta có hoàn toàn hài lòng với việc các quy tắc về ly dị cứ ngày càng được
giản dị hóa đi không? Chúng ta sã hoàn toàn hài lòng không khi chính phủ thừa nhận các sinh
viên chưa kết hôn chung sống với nhau có con, cũng được hưởng trợ cấp như những cặp vợ55
chồng đã kết hôn không? Vấn đề rắc rối là khi một việc không bị cấm đoán, thì lại được người ta
cảm thấy chẳng những là được phép làm, mà còn được khuyến khích nữa. Người ta có thể lý
luận rằng hễ cái gì mà luật pháp cho phép, thì nó cũng tán thành nữa. Hãy lấy trường hợp các
mối liên hệ giữa các sinh viên đại học với nhau. Trường đại học không còn đóng vai trò của cha
mẹ nữa; Chủ nghĩa gia trưởng đã hết thời. Nhưng đặc biệt hãy lấy trường hợp các trường đại học
nội trú. Người ta lý luận rằng khi ở trong phòng riêng của mình người sinh viên có quyền làm gì
tùy thích, có quyền sống cuộc đời của riêng mình, và trường đại học chẳng có quyền gì can thiệp
vào đời tư của họ. Nhưng làm thế nào nếu họ biến các phòng của họ thành một trung tâm mà một
số người vẫn còn gọi là để quyến rũ phái nữ? Nếu như một chàng sinh viên đưa gái về phòng để
ngủ suốt đêm thì sao? Nếu như anh ta biến phòng ngủ của mình thành phòng thử nghiệm dùng
các chất ma túy thì sao? Gặp trường hợp như vậy, phải chăng trường đại học vẫn triệt để đứng
trung lập? Phải chăng trường đại học, chỉ nên đứng ngoài mà nhìn vào để ít ra cũng thấy được
một số sinh viên ngày càng có đời sống tri thức khôn ngoan hơn, và luân lý đạo đức thì ngày
càng tồi tệ thêm? Lẽ tất nhiên, nếu chúng ta bảo rằng mình không còn chấp nhận một tiêu chuẩn
Cơ Đốc giáo nào nữa cả, thì vấn đề đã không nảy sinh. Nhưng chúng ta vẫn chưa nói như vậy, và
khi nào các định chuẩn đó còn được thừa nhận, thì không thể có chuyện buông thả, phóng túng
tuyệt đối. Thật vậy, chính ở đây, phương diện công khai của luân lý đạo đức riêng tư đã nhập
cuộc. Một người có thể sống đời tư của mình, nhưng khi người ấy bắt đầu cố tình làm thay đổi
các nếp sống của những người khác thì có vấn đề thực sự nảy sinh, mà đối với nó, chúng ta
không thể quay lưng lại, và trong đó, còn có vai trò của luật pháp như là người khuyến khích cho
luân lý đạo đức.
3. Có sự căng thẳng giữa cá nhân và cộng đồng. Đây là mối căng thẳng giữa cá nhân chủ
nghĩa và tinh thần đoàn kết, tương thân tương trợ. Vào những ngày đầu tiên của Do Thái giáo, có
sự đoàn kết tương thân tương trợ, đến nỗi một cá nhân với tư cách cá nhân rất khó có một đời
sống độc lập. Khi tội lỗi của A-can bị phát giác, cả nhà ông đã cũng bị ném đá chung với ông ta
(Giô-suê 7). Người ta bảo rằng mãi đến ngày nay nếu bạn hỏi một người vẫn còn sống trong một
xã hội bán khai tên anh ta là gì, anh ta sẽ bắt đầu nói với bạn không phải là tên anh ta, nhưng là
tên bộ lạc của anh ta. Nhưng vào thời đại của chúng ta ngày nay, thì cá nhân được chú trọng. Tự
phát triển, tự biểu lộ, tự thực hiện chính mình là những mật khẩu của xã hội hiện đại. Có quá
nhiều luật lệ thì cá nhân bị bóp chẹt; còn quá thiên về cá nhân chủ nghĩa thì luật pháp bị suy yếu
đi. Ngày nay chúng ta đang sống trong thời đại của cá nhân chủ nghĩa, nhưng tốt nhất là người ta
phải nhớ rằng tự phát triển, tự bành trướng bất chấp tha nhân, là điều chẳng bao giờ là đúng cả.
Thiết tưởng chúng ta cần kết luận rằng có một trong những vấn đề lớn của tình hình hiện nay,
là phải đều chỉnh sự quân bình tế nhị giữa tự do và luật pháp, giữa cá nhân và xã hội. Mà giải
pháp duy nhất, ấy là con người phải khám phá ra việc yêu thương người lân cận như bản thân có
nghĩa là gì. 56