Chương chín
NỀN ĐẠO ĐỨC GIỮA NGƯỜI VÀ NGƯỜI
Trong lịch sử, chưa hề có thời đại nào mà một người lại khó giữ mình cho thanh sạch, trinh trắng và tốt lành thiện hảo cho bằng thời đại hiện nay.
Đây là câu đầu tiên tôi đã viết ra để bắt đầu câu chuyện tối nay; nhưng ngay sau khi vừa viết nó xong, tôi bắt đầu nghi ngờ rất nhiều về việc chẳng hay sự việc có quả thật đúng như vậy không. Có một câu châm ngôn dạy rằng các sự vật trên đời càng thay đổi bao nhiêu, thì lại càng tồn tại y nguyên bấy nhiêu; và sự kiện hiển nhiên trong lịch sử, là chẳng bao giờ việc giữ mình cho thanh sạch, trinh trắng, tốt lành thiện hảo, mà lại là dễ dàng cả. Do đó, tôi muốn bắt đầu nhìn vào cái thế giới mà từ đó Cơ Đốc giáo đã ra đời, để xem trong đó nền đạo đức học giữa con người với con người đã như thế nào. Tôi chỉ xin rút ra một vài biến cố và câu nói điển hình từ thế giới cổ xưa đó, mà sở dĩ tôi nêu chúng ra là vì chúng vốn là tiêu biểu, chớ không phải vì chúng vốn bất thường.
Trước hết, xin chúng ta hãy nhìn vào xứ Hy-lạp. Trong một bài diễn thuyết của mình (Chống lại Naeaera 122), Demosthenes nêu rõ những điều ông đã đặt làm quy luật cho cách sống của mình. Demosthenes nói ra không vì ông lên án nó, hoặc vì nó có tính cách bất thường, nhưng vì ông muốn nhấn mạnh rằng đó là chuyện bình thường sinh hoạt hằng ngày.
‘Chúng ta giữ gái mãi dâm là vì lạc thú; chúng ta giữ vợ lẽ nàng hầu là vì nhu cầu hằng ngày của thân xác; chúng ta giữ vợ là để làm mẹ cho bầy con của chúng ta và để giữ nhà cho chúng ta.’
Tại Hy lạp, các mối liên hệ tiền hôn nhân và ngoại hôn là tập quán thông thường, là một thành phần được thừa nhận của đời sống. Chính tính cách hết sức thông thường của sự việc ấy đã khiến người ta phải bàng hoàng kinh ngạc về nó.
Thứ hai, chúng ta hãy quay sang La-mã. Hãy lấy trường hợp của Messalina ở Rô-ma theo như nhà văn châm biếm Juvenal kể lại cho chúng ta - và nên nhớ rằng đây không phải là một nhà đạo đức học Cơ Đốc, nhưng là một thi sĩ người La mã đang kể lại câu chuyện này. Messalina không phải ai khác hơn là hoàng hậu La-mã, vợ của hoàng đế Claudius. Juvenal nói rằng bà ta đợi đến lúc Claudius ngủ say cùng với một nàng hầu và chụp lên đầu chiếc mũ đội để đi đêm, bà lẻn ra căn phòng riêng đặc biệt dành mình ở nhà chứa gái rồi bà hành nghề như một gái điếm thông thường. Tôi xin trích dẫn ‘Tại đó, bà ta để ngực trần được trang điểm bằng vàng và đứng đấy...
Tại đó, bà ta niềm nở tiếp tất cả khách chơi, đòi tiền từng người một; và khi cuối cùng chủ chứa cho các cô gái điếm về nhà, bà ta vẫn là người cuối cùng còn ở lại trước khi đóng cửa phòng của mình, và với nỗi đam mê như vẫn còn rạo rực cuồng loạn trong lòng, bà ta ra về với vẻ mặt nuối tiếc. Rồi sau khi bị đám đàn ông làm cho kiệt sức nhưng vẫn chưa thỏa mãn, với đôi má dơ dáy bám đầy khói đèn, bà ta mang về cho chiếc gối nữ hoàng đủ thứ mùi ngột ngạt’ (Juvenal, Satires, 6.114.132). Một hoàng hậu La-mã, mà lại thích hành động như một gái điếm thông thường - và bấy giờ, chính là vào năm 50 SCN - là cái thế giới mà Cơ Đốc giáo đã xuất hiện.
Thứ ba, chúng ta hãy nhìn vào chuyện ly dị của thế giới cổ thời đó. Nói cho rộng ra, thì không hề có một quá trình được gọi là ly dị; tất cả những gì người đàn ông cần phải làm, ấy là đuổi vợ mình đi, vì trong thế giới đời xưa, phụ nữ là một đồ vật, chớ không phải là một con người, và chẳng hề có chút quyền lợi hợp pháp nào cả. Trong thế giới La-mã, chuyện ly dị phổ biến đến nỗi người ta phải choáng váng. Seneca bảo rằng phụ nữ được cưới để bị ly dị và bị ly dị để được cưới (De Beneficiis 3.16). Ông ta bảo rằng phụ nữ tính năm bằng tên của các ông chồng, chớ không phải bằng tên của các quan tổng đốc. Juvernal nêu tên một người có sắc nghiêng thành là Hiberina, bảo rằng hài lòng với một người chồng thì chẳng khác gì hài lòng với một con mắt
(Satires 6.53,54). Martial kể về một người đàn bà đang sống với người chồng thứ mười của mình (Marial, Epigraus 6.7). Juvenal đề cập tới phụ nữ có tới tám đời chồng trong vòng năm năm (Juvenal, Satires 6.30). Còn Jerome thì kể lại cho chúng ta về một kỷ lục khó có thể vượt nổi, là trường hợp một người đàn bà đã có đến người chồng thứ hai mươi ba, còn bà ta thì là vợ thứ hai mươi mốt của ông ta (Jerome, Letters 2).
Thứ tư, chúng ta quay sang thế giới Do Thái. Trong thế giới người Do Thái, không có lối sống dâm ô quá ôm đồm như vậy; nhưng tình trạng ly dị rất nghiêm trọng. Chúa Giê-xu đã cấm chuyện ly dị, ngoại trừ trường hợp ngoại tình (Ma-thi-ơ 5:32; 19:9; Mác 10:11,12; Lu-ca 16:18; I Cô 7:10, 11). Luật pháp Do Thái thật rõ ràng. Sách Phục 24:l-4 vạch rõ rằng một người chồng có thể viết cho vợ mình một tờ ly dị nếu nhận thấy nàng có điều bất khiết hay thiếu đoan trang. Tờ bỏ vợ vốn chẳng khác gì một câu đơn giản là đuổi vợ và cho vợ mình được tự do lấy bất cứ người nào muốn kết hôn với mình. Vậy lẽ dĩ nhiên là tất cả đều tùy thuộc vào cách lý giải câu một sự bất khiết nào. Về vấn đề này thì vào thời của Chúa Giê-xu trong Do Thái giáo đã có hai trường phái tư tưởng. Có trường phái của Shammai, chủ trương y như Chúa Giê-xu, rằng cơ sở duy nhất cho việc ly dị là tội ngoại tình. Nhưng hãy còn trường phái của Hillel nữa, chủ trương rằng vấn đề thiếu đoan trang có thể có nghĩa là đi ra đường mà xõa tóc đi la cà ngoài đường phố, trò chuyện với một người đàn ông khác, nấu ăn vụng về, hỗn hào với cha mẹ chồng trước mặt chồng, hay gắt gỏng (và một người đàn bà gắt gỏng được định nghĩa là người phụ nữ mà tiếng nói vang sang nhà bên cạnh có thể nghe thấy!) (Ketuboth 7.6; Gittin 9.10). Thật là dễ thấy trường phái nào đã được lòng dân chúng hơn, và trong xứ Palestine vào thời của Chúa Giê-xu, các thiếu nữ rất sợ lấy chồng vì đời sống vợ chồng chẳng có gì là an toàn cả.
Lẽ dĩ nhiên sự thật là vào mọi thời đại và mọi thế hệ cũng như trong mọi xã hội luôn luôn có những người có nếp sống khả kính trung thực, thanh sạch và trinh tiết; nhưng vào thời của các Cơ Đốc nhân nguyên thủy, bầu không khí vốn không phải là dễ gì tránh được việc bị ô nhiễm đạo đức đã thâm nhập xã hội.
Thiết tưởng cũng cần nói thêm là thế giới cổ thời vốn đầy dẫy chuyện đồng tính luyến ái. Thật khó kể được tên một vĩ nhân Hy-lạp nào mà không làm tình theo hướng đó - cả Plato, Aristole, Sophocles, và ngay đến Socrates vĩ đại nữa. Tại Hy-lạp tình hình đã đạt tới mức mà khi Plato đề cập tới tình yêu, thì loại tình yêu ông ngụ ý muốn nói chính là đồng tính luyến ái. Tình yêu bình thường đối với một phụ nữ bị xem là thấp kém và đáng xấu hổ, và với một người có văn hóa, thì chỉ có tình yêu dành cho một cậu bé trai mới được xem là xứng đáng. Có một sự kiện hết sức đơn giản, ấy là trong mười lăm vị Hoàng đế La-mã đầu tiên, đã có đến mười bốn vì thực hành đồng tính luyến ái. Cho nên không phải vô cớ khi Phao-lô cảnh cáo các tín đồ của mình phải chống lại chuyện đó (Rôma 1:26,227 I Cô 6:9; Ti 1:10). Thật là khó đối với một người vào thời của Tân Ước, phải xem là sai lầm những điều mà những con người vĩ đại nhất, khôn ngoan nhất vẫn thực thi.
Khi nhìn lui về những ngày đầu tiên đó, chúng ta có thể thấy là mình thật sự không hề bị kêu gọi phải đương đầu với một điều gì mà các thế hệ trước đã không phải đương đầu. Vậy chúng ta hãy nhìn sang vào lãnh vực của nền đạo đức học giữa người với người này.
1. Trước hết, chúng ta hãy nhìn vào phạm vi gia đình. Có người đã nói rằng điều mà đời sống làm cho tất cả mỗi người chúng ta là tương đương với việc thả chúng ta từ một chiếc ống khói lò sưởi nào đó xuống giữa một nhóm người rồi bảo ‘Hãy ráng ăn ở với nhóm người này càng được được tốt đẹp bao nhiêu càng hay bấy nhiêu.’ Vấn đề của gia đình đơn giản là vấn đề sống chung với nhau mà thôi.
Khi chúng ta nghiên cứu vấn đề đạo đức học trong gia đình của Tân Ước, điều đầu tiên đập vào mắt chúng ta là trong tất cả mọi trường hợp nó là điều mà chúng ta chỉ có thể gọi là nền đạo đức học hỗ tương. Điều này có nghĩa rằng không hề có một đặc quyền nào đã được ban ra, mà không có kèm theo một trách nhiệm tương ứng. Trong nền đạo đức học về gia đình của Tân Ước bổn phận vốn chẳng bao giờ quả thật là chẳng bao giờ - chỉ có ở một phía mà thôi. Cho nên, vợ phải thuận phục chồng, nhưng chồng thì bao giờ cũng phải đối xử với vợ bằng tình yêu và sự nể trọng. Con cái phải vâng lời cha mẹ, nhưng cha mẹ thì chẳng bao giờ nên đối xử vô lý với con cái đến mức chọc tức hoặc làm nản lòng chúng. Bao giờ cũng có một nghĩa vụ song phương; bổn phận chẳng bao giờ chỉ có ở một phía mà thôi (Êphêsô 5:21-6:9; Côlôse 3:18-4:1).
Trong gia đình thì có hai mối liên hệ chủ yếu. Trước hết, có mối liên hệ giữa cha mẹ với con cái. Về phía cha mẹ, có hai điều chính yếu cần nói. Điều thứ nhất hết sức đơn giản mà chúng ta là những bậc cha mẹ luôn luôn phải nhớ, ấy là thời buổi luôn luôn thay đổi. Một tác giả nổi tiếng từng nói có lần bà ta bảo với đứa con nhỏ của mình rằng ‘Hồi mẹ bằng tuổi con, mẹ chẳng bao giờ được phép làm một việc như thế’ Và đứa con trả lời ‘Nhưng thưa mẹ, mẹ phải nhớ rằng thời của mẹ là thời đó, còn thời của con là ngày nay mà!’ Có một thời đó và một thời nay, và chúng không hề giống nhau, hoặc không thể biến đổi thành giống nhau được. Người làm cha làm mẹ phải luôn luôn nhớ rằng mình không tài nào giữ nổi cho mọi sự cứ y nguyên mãi được.
Điều thứ hai, còn quan trọng hơn. Phao-lô viết thư cho người Cô-lô-se, lời ông khuyên những bậc làm cha làm mẹ, phải tránh cách đối xử gây nản lòng cho con cái mình (Cô-lô-se 3:21). Có thể đây chính là quy luật quan trọng nhất trong sinh hoạt gia đình. Đứa con có thể có cảm tưởng rằng cha mẹ nó bao giờ cũng ‘bắt lỗi’ nó - cảm tưởng này không sai lắm đâu. Điều mà tất cả mọi người - trẻ cũng như già - cần nhận được trên đời này hơn bất cứ điều gì khác, là sự khích lệ.
Benjamin West là một trong những họa sĩ vĩ đại của Anh quốc, và ông đã kể lại cho chúng ta làm thế nào ông trở nên được như vậy. Hồi còn nhỏ có lần mẹ ông đi ra ngoài có việc và giao cho ông trông chừng em bé gái của ông. Trong lúc mẹ đi vắng, cậu bé bắt gặp một số các chai mực màu với mấy cây cọ, nên quyết định thử vẽ một bức tranh em bé Sally. Hậu quả thì chắc ai cũng có thể tưởng tượng ra rồi; mực vấy chỗ này, chỗ nọ, đâu đâu cũng có vết mực. Rồi bà mẹ về, bà nhìn vào cảnh hỗn độn dơ bẩn, rồi nhìn vào bức tranh mà cậu bé đã thử vẽ. Bà reo lên ‘À, đúng là bé Sally rồi.’ Và bà ôm chầm lấy cậu bé Benjamin vào lòng và hôn cậu. Và như Benjamin West luôn luôn kể lại một cuộc đời sau này của mình. ‘Nụ hôn của mẹ tôi đã biến tôi trở thành họa sĩ.’ Nếu bà ta đã làm như nhiều người chúng ta bị cám dỗ làm trong hoàn cảnh đó, thì chắc đã không có một Benjamin. Sự chăm chú đầu tiên của chúng ta dành cho các em nhỏ và người trẻ, phải là việc khích lệ. Chúng ta khó mà hiểu nổi trẻ em và thanh thiếu niên lo âu xao xuyến tới mức nào đối với những mối căng thẳng trong nền giáo dục và trong đời sống hiện đại. Trong nhóm thanh thiếu niên từ 15 đến 19 tuổi, tự tử là nguyên nhân thông thường đứng hàng thứ ba gây tử vong. Và một trong những cách khích lệ quan trọng nhất, chỉ đơn giản là đối xử với trẻ con như một con người có lý trí, biết phải trái. Thời kỳ mà con cái chúng ta phải làm một việc gì đó bởi vì cha (mẹ) bảo con phải làm như vậy đã qua đi ta lâu rồi. Bất cứ một con người nào cũng vâng lời mau mắn và hành động kiến hiệu hơn, nếu làm việc ấy một cách thông minh và biết rõ, hiểu rõ tại sao mệnh lệnh ấy đã được ban ra.
Trong lãnh vực cha mẹ và con cái, đứa trẻ phải nhớ bổn phận biết ơn. Có một sự kiện hết sức hiển nhiên trong thiên nhiên, ấy là trong toàn thể các loài thọ tạo, con người phải dành ra một thời gian lâu dài nhất trước khi có thể tự lực mưu sinh, và qua nhiều năm dài, không phải chỉ một thương tổn trầm trọng, mà chỉ cần một chút lơ là chểnh mảng cũng đã có thể giết chết chúng ta.
Chỉ có tình thương mới đền đáp được cho tình thương mà thôi, thế nhưng sự việc vẫn cứ xảy ra lặp đi lặp lại nhiều lần trong gia đình, ấy là chúng ta lại gây tổn hại nhiều nhất cho những người mà đáng lẽ chúng ta phải thương yêu trìu mến nhất. Lúc James Barrie nhìn lui xuyên suốt những năm liên hệ giữa ông và mẹ ông là Margaret Ogilvie, ông nói ‘Khi tôi nhìn lại, tôi không thể thấy được có một việc nhỏ mọn nào là chưa hoàn tất.’ Tôi nghĩ là tôi chưa từng gặp được một người nào lại dám nói như thế - nhưng đó là mục tiêu cần nêu ra. Đối với một người, thì điều đau buồn nhất trong đời là mỗi khi nhìn lại quá khứ, đã phải nói rằng ‘Phải chi tôi đã làm thế này, thế nọ...’
Còn một điểm cuối cùng trong mối liên hệ cha-mẹ-con-cái và con-cái-cha-mẹ: Gia đình phải là nơi để đứa con được trang bị đầy đủ hầu bước ra ngoài đời, mà cũng là nơi để đứa con bao giờ cũng có thể quay trở về. Nhiều bậc làm cha mẹ lại cảm thấy khó chấp nhận nổi cái sự kiện rằng nhiệm vụ căn bản của họ là giúp cho đứa con xa lìa mình để sống cuộc đời riêng của nó. Tình thương bao che và tình mẫu tử rất dễ lẫn lộn với nhau. Nếu chúng ta trưởng dưỡng con cái sao cho chúng phấn khởi ra đời và vui vẻ trở về với mình là chúng ta đã hoàn tất tốt đẹp nghĩa vụ của mình rồi vậy.
2. Lãnh vực thứ hai của sinh hoạt gia đình là hôn nhân. Chẳng có gì để nghi ngờ là trong hình thức lý tưởng của đạo đức Cơ Đốc giáo, hôn nhân là để sống với nhau suốt đời. Như Mác ghi lại câu nói của Chúa Giê-xu (Mác 10:1-12), không hề có ngoại lệ nào cho cái định luật này. Trong phần ký thuật song hành trong Mathiơ (Mathiơ 5:32), ngoại lệ duy nhất cho ly dị là sự không chung thủy.
Ở đây, có một số điểm chúng ta cần thận trọng. Thứ nhất, chúng ta phải trực diện với sự kiện là không chung thủy về phương diện tình dục chẳng phải là điều duy nhất có thể làm tan vỡ hôn nhân. Có điều lạ là trong ngôn ngữ phương tây ngày nay, chữ vô đạo đức gần như lúc nào cũng được hiểu là một điều dâm ô, nghịch với luân lý đạo đức về khía cạnh tình dục. Có nhiều người đã nên vợ nên chồng không thể chê trách gì được theo quan điểm pháp lý về phương diện tình dục, nhưng lại thành công không kém thua ai trong việc biến hôn nhân thành một hỏa ngục cho người bạn đời của mình. Fletcher có trích dẫn một đoạn của Dorothy Sayers:
‘Một người chồng có thể tham lam, ích kỷ, hằn học, tàn bạo, ghen tị, bất công, vũ phu, ác độc, vơ vét, vô liêm sỉ; nói dối, ngoan cố, khoe khoang, ngu xuẩn, khinh khỉnh, chẳng còn một bản năng cao quý nào cả; thế nhưng nếu người ấy phạm các tội lỗi đó trong vòng ràng buộc của hôn nhân, thì có một số Cơ Đốc nhân không cho là người ấy sống phi luân vô đạo’ (Fletcher, Moral Responsibility phương pháp. 133,134). Có nhiều điều khác hơn là tội ngoại tình có thể giết chết hôn nhân và tình yêu trong hôn nhân.
Điều thứ hai chúng ta cần thận trọng trong vấn đề này là chúng ta đừng nên biến lời nói của Chúa Giê-xu thành một định luật quên rằng điều quan trọng hơn hết chính là tình yêu thương.
Chúng ta phải luôn nhớ rằng phải ứng dụng vào bất kỳ một hoàn cảnh nào trọn vẹn sứ điệp của Chúa Giê-xu chớ không phải chỉ một câu duy nhất nào đó mà thôi. Tôi không nói đến loại hoàn cảnh trong đó hai người đã kết hôn với nhau mà không suy nghĩ hoặc không chịu đối diện với thực tế, tôi cũng không nghĩ đến loại hoàn cảnh trong đó cả hai vợ chồng đều muốn phá vỡ hôn nhân chỉ vì cái lãng mạn và vẻ huy hoàng ban đầu của nó đã phai lạt, và họ không còn có đủ nghị lực để đối phó với nếp sống quen thuộc, máy móc, buồn tẻ hằng ngày nữa. Tôi không nghĩ đến loại hoàn cảnh trong đó người ta tưởng rằng việc chung sống với nhau có đầy ánh sáng dịu dàng, âm nhạc du dương mà chẳng hề nhận thức được trước khi đã quá muộn rằng hãy còn rất nhiều điều khác chẳng hạn như chuyện rửa chén cọ nồi, chuyện trẻ con la khóc và chuyện giặt tã. Tôi lại càng ít nghĩ hơn đến loại tình hình trong đó có một người trong hai vợ chồng để cho mối liên hệ nào đó phát triển, có thể dẫn tới việc thiếu chung thủy với nhau.
Nhưng nếu có chuyện xảy ra là hai vợ chồng nhận thấy việc chung sống với nhau là không thể nào có thể còn duy trì được nữa; nếu họ đã đi hỏi ý kiến vị bác sĩ và vị mục sư hoặc linh mục và nhà tâm lý học cũng như vị bác sĩ tâm thần; nếu họ đã làm theo mọi chỉ dẫn cần phải làm, và nếu tình hình đã đến chỗ vô phương hàn gắn, thì tôi không nghĩ là giữ cho hai người cứ bị trói buộc vào nhau trong một cuộc đời mà hai người cứ làm khổ nhau, hành hạ tra tấn nhau như vậy, là một hành động của tình yêu thương Cơ Đốc; tôi cũng không nghĩ rằng chỉ cho phép họ ly thân mà chẳng bao giờ cho phép họ thử làm lại cuộc đời một lần nữa, là điều phải lẽ. Trong những hoàn cảnh như vậy, thì tôi tin rằng ly dị là hành động của tình yêu thương Cơ Đốc giáo, vì tôi
không nghĩ rằng Chúa Giê-xu lại khăng khăng đòi cho hai con người hoàn toàn xung khắc phải bị kết án tự xâu xé nhau trong một cuộc sống không có tình yêu, tự gây đau lòng cho nhau và gây tàn hại cho con cái họ. Tôi cũng không nghĩ là họ phải bị cấm tái hôn và cấm tái hôn với lời chúc phước của Hội thánh Tôi cũng không nghĩ là mình muốn nói nhiều thêm về việc ai vô tội và ai có tội trong hai phe, vì một khi một cuộc hôn nhân đã tan vỡ, thì tôi tin rằng không có chuyện một người là hoàn toàn vô tội, còn người kia là hoàn toàn có lỗi.
3. Nhưng giờ đây, chúng ta phải đến với lãnh vực khó khăn nhất của toàn thể vấn đề này, Đạo đức học Cơ Đốc có gì để nói về vấn đề liên hệ tình dục trước và ngoài hôn nhân? Tôi nghĩ là tình hình liên hệ tình dục tiền hôn nhân ngày nay là gay go hơn bất kỳ một tình hình nào khác từng có trong lịch sử. Có một số lý do khiến cho việc này khó khăn.
a. Trước hết, có một sự kiện hết sức đơn giản là tiếng nói biện hộ cho việc giữ trinh tiết đã không còn cất lên nữa. Joseph Fletcher, một Cơ Đốc nhân được một ghế giáo sư về Đạo đức học Cơ Đốc tại Hoa kỳ viết: ‘Việc tôn sùng trinh tiết, theo thiển ý, dường như đang đưa ra lập trường cuối cùng của mình chống lại quyền tự do luyến ái mà hiện nay y học đã giúp để có thể thực hiện’ (Dialogues in Medicine and Theology, ed.Dale White, p.141). Ông nói: ‘Mỗi ngày càng nhiều người trong Hội thánh đang thách thức các nguyên tắc luân lý đạo đức cố định hay các luật lệ liên hệ đến tình dục hay bất cứ điều gì khác.’ Như thế, trinh tiết chỉ đơn giản là một điều được thiên hạ tôn sùng (a cult), và bây giờ đang bị sụp đổ và những người như Fletcher chấp nhận đó là một điều không thể tránh khỏi. Năm 1959 Hội Y học Anh quốc cho xuất bản một tập sách chỉ nam nhan đề Cưới vợ Lấy chồng, do Eustace Chesser và Winifred de Kok viết, trong đó có câu sau đây ‘Giữ trinh tiết đã lỗi thời rồi, và không còn nên dạy cho giới thanh niên nữa.’ Quả thật là hồi năm 1959, đã có rất nhiều đã phản đối, khiến phải thu hồi quyển sách ấy, nhưng điều có ý nghĩa là vấn đề đã đi đến chỗ, quyển sách ấy đã được ấn hành. Ngày nay có một điều rất có ý nghĩa là các chiến lũy đã bị phá thủng từ bên trong.
b. Có một số sự kiện thuộc thể liên hệ với tình hình này. Có hai sự kiện đã câu kết lại với nhau để hợp thành một chất nổ hỗn hợp. Ngày nay con người đang trưởng thành quá nhanh chóng. Năm mươi năm trước đây tuổi trung bình con gái bắt đầu có kinh nguyệt là mười bảy, bây giờ là mười ba. Hơn nữa, ngày nay, trong nhiều trường hợp hôn nhân bị hoãn lại, như khi một người đã đạt đến mức năng động cao nhất về tình dục thì anh ta có thể đang là một sinh viên đang theo đuổi một chương trình học dài hạn khiến cho việc kết hôn dù sao cũng là một việc làm thiếu thận trọng. Nói như thế có nghĩa là tình hình hiện rất nguy hiểm, vì sự trưởng thành về tình dục đã đến sớm hơn, còn hôn nhân lại tới muộn hơn.
c. Thứ ba, đã có nhiều thay đổi lớn lao trong các phương pháp ngừa thai và sự kiến hiệu của các phương pháp ấy. Tại xứ này, mãi cho đến năm 1877, điều này vẫn không hề trở thành một vấn đề. Vào năm ấy, Charles Bradlaugh và bà Annie Besant cho xuất bản một sách chỉ nam sơ đẳng về hạn chế sanh đẻ, thì lập tức bị đưa ra tòa và xử là có tội, tuy bản án đã được lật ngược dựa trên một lý do kỹ thuật về pháp lý. Mãi đến năm 1921, một bệnh viện hạn chế sinh đẻ đầu tiên mới được mở tại Walworth và mãi đến tận năm 1930 bệnh viện đầu tiên của Bộ Y tế mới được mở, rồi đến năm 1934 các thông tin mới được quảng bá, mà chỉ được quảng bá cho các phụ nữ gặp các điều kiện bất bình thường mà thôi. Như thế có nghĩa là mãi đến tận năm 1934 - một năm sau khi tôi bắt đầu chức vụ, các phương pháp kiểm soát sinh đẻ mới được công khai hóa và chỉ ở một mức rất giới hạn mà thôi.
Việc ngừa thai đạt đỉnh cao trong việc dùng thuốc viên rất dễ uống, bình thường thì an toàn khi sử dụng mà kết quả thì hầu như không bao giờ thất bại. Các phương pháp ngừa thai đã được tinh vi hóa và trở thành kiến hiệu đến nỗi ngày nay không một ai nhất thiết phải có con nếu bản thân người ấy không muốn.
d. Có vấn đề phá thai tăng vọt một cách đáng kinh ngạc. Khắp thế giới, đã có con số khó tin nổi là 30.000.000 vụ phá thai một năm. Ngay trong xứ này, có lẽ đã có đến khoảng 160.000 vụ. Có một sự kiện gây choáng váng, ấy là tại các nước như Bỉ và Tây Đức, vốn có luật phá thai tự do, thì tỉ lệ phá thai gấp đôi số trẻ con được cho ra đời. Fletcher đã đi xa tới mức tuyên bố rằng ông mong sẽ thấy cái ngày không còn một đứa bé nào được sinh ra mà không do ước muốn và ý định của bố mẹ nó (J. Fletcher, Situation Ethics, p. 39).
e. Có việc ban hành ngày càng nhiều thêm các văn kiện pháp lý khuyến khích nếp sống phóng túng. Chẳng hạn có sắc luật cho phép thực hành đồng tình luyến ái giữa những người trưởng thành nếu họ thuận tình. Có việc giản dị hóa chuyện ly dị; và có luật mở rộng việc trợ cấp gia đình cho các sinh viên chung sống với nhau mà không cần phải là vợ chồng. Đã có việc ban hành các sắc luật khiến người ta dễ dàng làm điều sai quấy hơn - mà như thế thì bao giờ cũng là nguy hiểm.
Như Fletcher đã vạch rõ, ngày xưa có ba nỗi lo sợ khiến người ta tránh xa móng vuốt của việc liên hệ tình dục tiền hôn nhân và ngoài hôn nhân - nỗi lo sợ bị phát giác, nỗi lo sợ bị nhiễm bệnh và nỗi lo sợ mang thai (J. Fletcher, Moral Responsibilily, p.88,89). Nỗi sợ mang thai đã bị các phương pháp ngừa thai mới cất đi rồi, lỗi sợ bị nhiễm bệnh - theo như người ta tin - thì đã bị các loại thuốc kháng sinh mới triệt tiêu; còn nỗi lo sợ bị phát giác thì sẽ ngày càng giảm bớt một khi các hậu quả của nó ngày càng bớt nghiêm trọng đi. Vậy đã rõ là đối với thanh niên hiện đại, việc giữ trinh tiết theo Cơ Đốc giáo cứ ngày càng trở thành khó khăn hơn trước. Điều càng khiến cho tình hình rắc rối hơn là Hội thánh đã không có một tiếng nói thống nhất về vấn đề này. Fletcher trích dẫn trường hợp của Giáo sư Leo Kock của Đại học đường Illinois. Ông Kock là một nhà sinh vật học, đã phải từ chức năm 1960 vì tuyên bố rằng liên hệ tình dục tiền hôn nhân có thể được biện minh về mặt đạo đức. Câu ông Kock nói như thế này ‘Với các phương pháp ngừa thai hiện đại và lời chỉ dẫn y học sẵn sàng được cung cấp ngay lại tiệm bán thuốc tây gần nhất hay ít ra là từ ông bác sĩ của gia đình, không còn lý do có chính đáng nào cho việc không chịu chấp nhận các liên hệ tình dục giữa những người đã đủ trưởng thành để dấn thân vào đó mà không tạo ra hậu quả xã hội, và không vi phạm các qui tắc luân lý và đạo đức của riêng bản thân họ’ (J. Fletcher, Moral Responsibility, pp. 128, 129).
Mà đó cũng chính là quan điểm của Fletcher - quan điểm của một vị giáo sư đạo đức học Cơ Đốc. Rất dễ yêu cầu ông Fletcher rõ ràng và chính xác hơn một chút. Ông có ý muốn nói gì với chữ trưởng thành? Rõ ràng là người ta không thể nào đo đạc được sự trưởng thành bằng tuổi tác.
Có rất nhiều người mà theo giấy khai sinh đáng là phải trưởng thành rồi, nhưng thật ra lại bất ổn định, bốc đồng, thiếu tự tin và dở dở ương ương. Thiết tưởng mọi người đều muốn ông Fletcher nên định nghĩa chính xác hơn một chút ông ngụ ý muốn nói gì trong mấy chữ thuận tình (consent), vì có một điều rõ ràng nhất ở trên đời này là muốn mua sự thuận tình thì chẳng có gì khó khăn cả. Điều thoạt nghe dường như thật tình và hiển nhiên như vậy té ra lại đầy khó khăn, gút mắc.
Vậy chúng ta phải nói gì về tất cả mọi điều trên đây:
1. Trước hết, việc phóng túng tình dục như vậy thật ra chứa đầy nguy cơ hết sức trầm trọng.
Các sự kiện đáng phải được báo động. Mỗi năm đã có thêm hơn 150.000 trường hợp bị bệnh hoa liễu mới. Trong một năm đã có 37 thiếu niên dưới mười bốn tuổi bị bệnh hoa liễu, cũng như có 235 cô cậu ở tuổi mười lăm, và l.357 cô cậu ở tuổi mười sáu. Cần lưu ý thêm là nỗi sợ bị nhiễm bệnh đã quay trở lại, vì các loại thuốc kháng sinh được sử dụng trước đây bây giờ đã không còn hiệu nghiệm nữa, vì đã xuất hiện những dòng vi trùng bệnh tỏ ra kháng thuốc.
Người ta còn ước lượng thêm rằng các thanh thiếu niên ở tuổi mười bảy thì có một người trên 4 người đã từng trải chuyện tình dục, còn các thiếu nữ cùng tuổi thì có 1 trên 8; các thanh thiếu niên mười chín tuổi, thì 1 trên ba, và các thiếu nữ cùng tuổi, thì 1 trên 4 người. Có hai trên ba trẻ sơ sinh do những cô gái dưới hai mươi thọ thai khi chưa kết hôn. Cứ mỗi 13 trẻ sơ sinh, thì có một em bé là con bất hợp pháp. Tại một số các khu vực người ta tính ra rằng hai trên ba cô gái đạt đến tuổi hai mươi lăm đã không còn trinh nữa. Người ta cũng ước lượng là có từ 4 đến 6 phần trăm đàn ông đang thực hành đồng tính luyến ái, và trong giới phụ nữ thì cũng có một tỷ lệ như vậy. Tỷ lệ ly dị đang lên tới trên 40.000 vụ một năm, còn bên Hoa-kỳ thì 1 trên 4 cặp kết hôn, đã kết thúc bằng ly dị.
Đó là những con số đáng báo động. Phóng túng có thể đúng hoặc có thể sai, nhưng đều chắn chắn là nó rất nguy hiểm - và đó là sự kiện căn bản mà chúng ta không nên quên.
2. Chẳng có ai nghiên cứu lời truyền dạy của Chúa Giê-xu và của Tân Ước mà không thấy lập trường của các lời truyền dạy ấy là phải giữ mình trong sạch và trinh khiết. Tội tà dâm, tức là liên hệ tình dục ngoài hôn nhân, đã bị lên án ít nhất cũng mười tám lần. Đó là một trong những yêu cầu căn bản đòi hỏi người dân ngoại tin Chúa không được làm (Công 15:20). Cơ Đốc nhân thì không nên nghĩ đến hoặc cả nói đến nữa (I Cô 6:18; Êphêsô 6:3). Còn tội ngoại tình, tức là liên hệ tình dục với một người khác đã có vợ có chồng ngoài người vợ người chồng của chính mình, thì bị kết tội ít nhất cũng mười lăm lần. Theo lời Chúa Giê-xu dạy, thì đó là một trong những tội xuất phát từ tấm lòng xấu xa gian ác của người ta (Mathiơ 15:14).
Câu chuyện về người đàn bà ngoại tình bị bắt quả tang (Giăng 8:1-11) thường được kể lại như một tấm gương về lòng nhân từ của Chúa Giê-xu và theo một quan điểm, thì quả đúng như vậy.
Nhưng nó đã kết thúc như thế nào? Nó kết thúc bằng lời phán của Chúa ‘Chị về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!’ Không có chuyện Chúa Giê-xu dạy rằng ‘Làm như vậy là được lắm. Chớ có lo.’
Không hề có chuyện người phụ nữ ấy có cái cảm tưởng rằng mọi chuyện đều chẳng mấy quan trọng, rằng nó sẽ được tha thứ dễ dàng thôi, và bà ta có thể cứ tiếp tục làm như thế. Lời đòi hỏi là ‘đừng phạm tội nữa’. Chẳng có gì để nghi ngờ là Ngài lưu lại cho chúng ta cái ý nghĩ rằng Ngài tin là bà ta đã phạm tội. Tuy bà ta đã được tha tội, nhưng cũng được truyền dạy thật cương quyết là đừng bao giờ lại tái phạm nữa.
Chẳng có cách nào để cho rằng Chúa Giê-xu ủng hộ cho một xã hội phóng túng. Nếu chúng ta hậu thuẫn cho việc liên hệ tình dục tiền hôn nhân hoặc ngoại hôn, thì tôi không thấy làm sao chúng lại có thể tự tưng là Cơ Đốc nhân được, vì một người không thể là Cơ Đốc nhân mà đồng thời lại mâu thuẫn trắng trợn với lời truyền dạy của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Nói một cách thành thật rằng mình sẽ chối bỏ các đòi hỏi của luân lý Cơ Đốc giáo là một chuyện; còn vừa chối bỏ chúng mà tự dối mình bằng cách tưởng rằng mình vẫn còn vâng giữ chúng, lại là một chuyện khác.
3. Chính vì lý do đó mà đồng thời với việc nhấn mạnh các cơ nguy của một xã hội phóng túng là phải, thì luận cứ rút ra từ nguy cơ ấy tự nó không phải là một luận cứ vững vàng, vì dường như nó hàm ý rằng nếu nguy cơ có thể cất đi được, nếu không có mối nguy có con, lối nguy mắc bệnh, thì sự phản đối cũng được cất bỏ. Nó có khuynh hướng hàm ý rằng sự phản đối đã căn cứ vào các nguy cơ trước mắt, chớ không nhằm vào chính sự việc. Nhưng, nếu liên hệ tình dục tiền hôn nhân và ngoại hôn vốn chống lại lời truyền dạy của Chúa Giê-xu, thì sự việc ấy chẳng những là nguy hiểm, mà chính nó còn là sai quấy nữa - và đó chính là luận cứ của chúng tôi.
4. Chúng ta hãy tiếp tục với luận cứ ấy. Những người ủng hộ cho một nền luân lý mới rất chú trọng đến sự kiện là - theo cách nói của họ - thì việc liên hệ tình dục có hai chức năng - sanh con đẻ cái, và ‘làm tình’ để chứng tỏ tình yêu. Rồi họ lý luận rằng vì các phương pháp ngừa thai hiện đại, nhất là các viên thuốc, sau đây sẽ hoàn toàn loại trừ việc sanh con đẻ cái, thì chẳng có lý do gì để người ta không lợi dụng chuyện liên hệ tình dục để bày tỏ tình yêu giữa hai người chưa kết hôn với nhau.
5. Chúng tôi sẽ đưa vào đây một việc khác mà chắc có ít người sẽ bất đồng ý kiến. Chẳng có gì phải bàn cãi, là đạo đức học Cơ Đốc dạy rằng lợi dụng một con người chỉ như một đồ vật, bao giờ cũng là sai quấy; lợi dụng một người chỉ như một phương tiện đơn giản nhằm làm thỏa mãn hoặc tạo khoái lạc cho chính mình, luôn luôn là sai quấy. Do đó, một hành động làm tình chẳng nhằm gì khác hơn là làm thoả mãn dục tính, thì nhất định là sai quấy. Chính vì lý do ấy mà một cuộc hôn nhân chỉ căn cứ vào dục vọng chớ ngoài ra chẳng còn chi khác nữa, thì nhất định phải gặp thất bại vì cả hai bên cốt yếu đều muốn lợi dụng lẫn nhau như những món đồ vật, chớ không phải với tư cách là những con người.
6. Bây giờ, chúng ta đến chỗ gần như là bước cuối cùng của luận cứ này. Theo nghĩa đen thì hành động làm tình là đặc biệt (unique). Nó vốn độc nhất vô nhị vì hai lý do. Thứ nhất, nó có một tiềm năng có một không hai, vì bởi đó mà một đứa con, một sự sống mới, có thể được cho ra đời. Thứ hai, nó đặc biệt vì trên phương diện vật lý nó đã thực hiện trên người phụ nữ điều không thể xoá bỏ được, và điều đó có nghĩa là người phụ nữ sẽ chẳng bao giờ còn y nguyên như trước kia nữa. Việc phá vỡ màng trinh là một sự kiện không thể đảo ngược được. Điều này có nghĩa là người ta chẳng bao giờ có thể đem so sánh sự giao cấu với một nụ hôn chẳng hạn. Nó là việc liên hệ tình dục thuộc một loại khác hẳn; việc làm là có tiềm năng độc nhất vô nhị, và đưa đến một kết quả có một không hai.
Có thể nói đó là tuyệt đỉnh của việc làm tình. Mà một việc làm tình như vậy thì chỉ nên được thực hiện khi nào người ta đã hoàn toàn, trọn vẹn và triệt để hiến thân cho nhau. Nó chỉ xảy ra một cách phải lẽ, đứng đắn khi hai người đã hoàn toàn cống hiến cho nhau để cùng trở thành một con người mới (Sáng 2:24; Mathiơ 19:5). Cựu Ước dùng động từ biết (to know, bản Việt văn dịch là ăn ở) để chỉ hành động liên hệ tình dục. A-đam biết Ê-va (Sáng 4:1). Nó là một hành động dẫn đến việc hiểu biết nhau đầy đủ, hoàn toàn chỉ xảy ra khi có việc tự cống hiến đầy đủ và trọn vẹn. Nếu kém hơn thế, thì không hẳn là chỉ sai lầm, nhưng còn là ít ỏi một cách thảm bại so với sự việc đáng lẽ phải xảy ra. Đây không phải là việc bộc lộ một đam mê trong khoảnh khắc, cho dầu có tha thiết đến đâu; nó là một sự bộc lộ của việc dấn thân vĩnh viễn, và chỉ có những người tự ý tự nguyện bước vào sự cống hiến đó mới được quyền đi vào hành động độc nhất vô nhị ấy.
Có thể nói một cách khác. Cho dầu chúng ta có nói gì đi nữa về hai chức năng của việc liên hệ tình dục - chuyện làm tình và chuyện sanh ra - điều vẫn đúng ấy là lý do sinh học của bản năng tình dục là để sanh con. Chính vì đó mà nó đã được Thượng Đế ban cho chúng ta. Đó chính là định chế, là sự sắp xếp của thiên nhiên. Do đó mà cả khi nó là một hành động chứng tỏ tình yêu, nó chỉ có thể được thực hiện một cách thích hợp giữa hai người vui vẻ và tự nguyện dấn thân vào đó để sử dụng nó nhằm mục đích sanh một đứa con, tuy vào đúng khoảnh khắc đó, họ có thể không có ý định ấy. Đó sự thể hiện của việc dấn thân trao hiến cho nhau mà đứa con là biểu tượng và là bằng chứng.
Như vậy, rõ ràng là lầm lỗi quan trọng của việc liên hệ tình dục tiền hôn nhân chỉ đơn giản là đòi hỏi đặc quyền mà không kèm theo trách nhiệm; nó đòi hỏi quyền lợi mà không chịu dấn thân cống hiến. Chính vì thế mà liên hệ tình dục cũng sai quấy ngay cả giữa những người bảo rằng họ rất yêu nhau và nhất định sẽ thành hôn với nhau, và họ chỉ thực hiện sớm điều mà dầu sao đi chăng nữa cũng nhất định sẽ xảy ra. Chúng ta vốn biết quá rõ tính chất bấp bênh của đời sống cả một mối tình như vậy cũng có thể bị gián đoạn, và cả một cuộc hôn nhân được dự định trước như vậy cũng có thể chẳng bao giờ xảy ra. Vẫn chưa có sự giao phó trọn vẹn cho nhau do đó hành động độc nhất vô nhị đó (làm tình trước) là sai quấy. Việc tối hậu phải xảy ra trước đã rồi đặc quyền tối hậu một được ban phát và tiếp nhận. Dầu một quan điểm như vậy đòi hỏi đức tự chủ, cuối cùng nó đem đến được sự thoả mãn sâu đậm. Có một cái gì hết sức bi thảm khi người ta biến một điều thiêng liêng thành một điều tầm thường, biến một việc độc đáo có một không hai thành một điều hết sức thông thường. Có nhiều điều - và là những điều lớn lao nhất - mà giá trị đầy đủ chỉ có được khi nào chúng ta thực hiện chúng thật đúng lúc.
Hãy còn một vài điều nữa cần nói. Ngày nay, có rất ít người ngoại trừ trong giáo hội Công giáo La-mã, còn thắc mắc đối với việc sử dụng các phương pháp kiểm soát sinh đẻ trong hôn nhân. Chẳng có ai lại muốn quay trở về với thế kỷ thứ mười chín, khi vợ của Charles Dickens, trước khi bị ông bỏ, đã có đến một chục đứa con với năm lần sẩy thai trong vòng chưa đầy hai mươi năm. Nhưng vấn đề mà chúng ta đang phải đối diện hiện nay, là chẳng hay các phương pháp kiểm soát sanh đẻ, nhất là các viên thuốc ngừa thai, có nên được cung cấp cho những người chưa kết hôn, hay không. Chúng tôi đã làm sáng tỏ điều chúng tôi tin rằng đối với một Cơ Đốc nhân sẵn sàng chấp nhận nền đạo đức học Cơ Đốc, thì liên hệ tình dục tiền hôn nhân và ngoại hôn là sai quấy. Do đó mà đối với Cơ Đốc nhân, vấn đề ấy không hề được đặt ra. Một thiếu nữ Cơ Đốc chẳng bao giờ cần uống thuốc ngừa thai trước khi có chồng. Nhưng nếu có một thiếu nữ đến với tôi, và nếu cô ta tự ý chối bỏ nền đạo đức Cơ Đốc về tình dục, nếu cô ta bảo rằng mình có ý định được liên hệ tình đục trước khi có chồng, thì tôi sẽ tranh luận với cô ta, tôi sẽ khẩn khoản van nài cô ta, tôi sẽ cầu nguyện với cô ta, tôi sẽ làm tất cả những gì mình có thể làm được để thuyết phục cô ta tin nhận đường lối của Chúa. Nhưng nếu từ sáng sớm cho đến chiều tối, mà cô ta vẫn không chịu nghe, nếu bất chấp tất cả những gì tôi hoặc bất cứ một ai khác có thể nói mà cô ta vẫn nằng nặc đòi làm theo ý riêng, thì chừng đó, tôi sẽ để cho cô ta sử dụng thuốc, vì tôi nghĩ là lúc đó thì làm bất cứ việc gì cũng tốt hơn là để cho ra đời một đứa con ngoài ý muốn của mọi người. Tôi nghĩ rằng những ai chống lại việc sử dụng thuốc đều thường hành động cách bất hợp lý, vì số người đó thường không đòi hỏi rằng các dụng cụ xưa cũ, lỗi thời, để kiểm soát sanh đẻ phải không cho những người chưa có vợ có chồng sử dụng. Theo nguyên tắc, thì chẳng có gì khác nhau cả. Nếu đã giấu biệt cho một người, thì cũng phải giấu biệt không cho tất cả. Nhưng nếu tôi lo lắng sâu xa cho một ai đó, và nếu bất chấp tất cả những gì tôi có thể nói ra mà một ai đó vẫn khước từ quan điểm của Cơ Đốc giáo về tình dục mà cứ khăng khăng dấn thân vào đó trước khi kết hôn, thì tôi sẽ sẵn sàng làm tất cả những gì mình có thể làm để cứu cô ta và cứu đứa bé có thể ra đời khỏi các hậu quả bi thảm có thể xảy ra, và vì lý do ấy, tôi phải cung cấp các phương pháp ngừa thai tốt nhất sẵn có cho cô ta.
Thật là khó lìa bỏ đề tài này mà chẳng nói lời nào cả về vấn đề giáo dục giới tính. Chính tại đây, Cơ Đốc giáo đã đi bước đầu không được tốt lắm. Chúng ta đã có cơ hội đề cập đến Khả-tri-phái (Gnosticism), là một đường lối tư tưởng đã ăn sâu vào tinh thần Hy-lạp. Nó xuất phát từ việc nghi ngờ sâu sắc thân xác con người, và từ cái ý niệm rằng chỉ cần được giải thoát khỏi thể xác, là có thể giải quyết tất cả các vấn đề của đời sống. Nó vẽ ra một bức tranh về một thế giới mà ngay từ đầu đã nảy sinh từ một chất liệu xấu. Nó không chủ trương một thế giới được tạo nên từ hư vô, mà là một thế giới được tạo ra từ một chất liệu mà chính yếu tính của nó đã là xấu xa hư hoại rồi. Về một thế giới như vậy, thì Thượng Đế không thể là Đấng Tạo Hóa, cho nên Khả-tri-phái tin rằng thế gian vốn được một vị thần hạ cấp tạo ra, hoàn toàn không biết và còn thù địch với Thượng Đế chân chính nữa. Một khi đã tin như vậy, thì cả thế gian này lẫn tất cả những gì ở trong đó đều trở thành xấu xa, gian ác. Một khi vật chất đã xấu xa như vậy, thì thân xác cũng phải xấu xa như vậy. Mà nếu thân xác đã xấu xa như vậy, thì tất cả các bản năng của thân xác, nhất là bản năng tình dục, cũng xấu xa. Đây là một tà giáo, nhưng nó đã để lại dấu vết của nó trong Hội thánh Cơ Đốc. Hội thánh luôn luôn nghi ngờ thân thể, và do đó, tình dục bao giờ cũng bị xem là một thứ điều xấu, điều ác. Điều đó có nghĩa là người ta chẳng bao giờ bàn tán về nó; nó là một sự cần thiết bất hạnh. Chẳng hề có lời truyền dạy nào liên quan tới tình dục, vì tình dục quá lắm chỉ là một cái gì để thì thầm nơi xó xỉnh, hoặc để làm đề tài cho chuyện tiếu lâm tục tĩu.
Cái thái độ ấy vẫn còn lảng vảng theo chúng ta.
Cái thái độ ấy luôn luôn là sai lầm, và ngày nay, không những nó chỉ sai lầm, mà còn hết sức nguy hiểm nữa. Bản năng tình dục là một bản năng do Thượng Đế ban cho, được Đấng Tạo Hóa đặt sâu vào bên trong con người chúng ta. Nó là một cái gì hoàn toàn tự nhiên, là một thành phần chính thức của đời sống con người.
Cần phải truyền dạy kiến thức liên hệ đến tình dục. Nó phải được truyền dạy một cách hoàn toàn khách quan. Phần cơ chế của nó cần phải được truyền dạy, vì chỉ làm như vậy thì người ta mới nhận thức được cả những nguy cơ lẫn những vinh quang của nó. Đã đến lúc thanh niên nam nữ phải chấm dứt học biết về tình dục qua nhưng câu chuyện thì thầm lén lút và qua những câu chuyện tiếu lâm, tục tĩu.
Tôi tin rằng nó sẽ được truyền dạy tốt nhất là trên hai bình diện. Trên bình diện sinh lý, nó sẽ được truyền dạy tốt nhất là trong trường học, vì thường thường thì người giáo viên có thể dễ đàng nói ra những điều mà các bậc làm cha làm mẹ cảm thấy lúng túng, và cũng có một số điều có thể được truyền dạy dễ dàng hơn theo từng nhóm. Học đường là nơi thích hợp cho việc cung cấp những sự kiện trong giáo dục giới tính. Nhưng gia đình là nơi duy nhất để tính cách cao trọng của trong trắng, trinh khiết và thủy chung có thể được truyền dạy. Hãy để cho học đường dạy các sự kiện còn gia đình thì dạy các lý tưởng. Nhưng không nhất thiết phải có sự phân công độc quyền như vậy. Thông thường thì người giáo viên giỏi sẽ truyền dạy phần lý tưởng, còn bậc làm cha mẹ biết lo lắng cho con cái thì đã từng trò chuyện với chúng rồi. Nhưng đây là nơi mà học đường và bậc làm cha mẹ có thể thật sự cộng tác.
Người ta vẫn thường phản đối rằng trẻ con sẽ thử đem ra thí nghiệm phần kiến thức mới mà nó đã nhận được. Từ vài năm trước đây, sự việc có thể là như vậy, vì bấy giờ chúng ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trong đó một việc vốn bị giữ kín từ lâu bị tiết lộ. Nhưng với thời gian - mà không cần phải một thời gian lâu - việc dạy dỗ như vậy sẽ trở thành bình thường trong đời sống đứa trẻ, trong đó phần kiến thức lành mạnh sẽ chiếm chỗ của sự tò mò không lành mạnh, và sẽ có một cơ sở tốt hơn để xây dựng lên trên, một nền móng trên đó các nguy cơ được nhận biết, các sự kiện được lãnh hội, và nếu chúng ta dạy đúng, thì các lý tưởng sẽ được nhận thấy.
Nếu có một thời nào đó cần đề cao các chuẩn mực của nền đạo đức học giữa người với người của Cơ Đốc giáo, thì chính là lúc này đây. Chính giờ đây, ánh sáng của Cơ Đốc giáo phải được chiếu ra như một tia sáng trong nơi tối tăm. Sự kiện hết sức rõ ràng là Hội thánh đã đánh mất lẽ sống (reason for its existence) của mình nếu cứ theo đuổi chính sách sống rập khuôn theo thế gian. Thế gian muốn cho Hội thánh phải là chính Hội thánh. Mấy năm trước đây, tờ Punch có một bức hí họa. Bức tranh vẽ một mục sư (linh mục) tuyên úy từ một câu lạc bộ sĩ quan Không Lực hoàng gia đi ra, để lại hai sĩ quan. Vị sĩ quan này nói với vị sĩ quan kia ‘Tao không chịu nổi cái thái độ cho mình thánh thiện hơn của ông ta!’ Thế gian chẳng bao giờ đồng ý với một Hội thánh nhấn mạnh vào sự khác biệt, nhưng sẽ tôn trọng Hội thánh ấy. Nhưng thế gian sẽ chẳng kính nể, cũng chẳng cần đến một Hội thánh mà bao giờ cũng theo đuôi thế gian B.K. Rice viết ‘Giáo hội Lutheran Thụy điển đang triệu tập một ủy ban đặc biệt nhằm xét lại bản công bố năm 1959 đã gọi các mối liên hệ tình dục tiền hôn nhân là tội. Một người phát ngôn tuyên bố uỷ ban sẽ nghiên cứu xem thử bản công bố ấy có nên được sửa đổi lại hay không, do đòi hỏi của dư luận rộng rãi bàn tán việc giáo hội cần tiến gần hơn đến với thực tại!’ (RH. Fuller and B.F. Rice, Christianity and the Affluent Society, p. 116). Hai ông Fuller và Rice đã viết quyển sách ấy năm 1966 và tôi không được biết kết quả và lời phán quyết của ủy ban kia; nhưng đưa Hội thánh tiến gần với thế gian hơn nhân danh việc cần thiết phải theo sát thực tại, là con đường ngắn nhất, phương pháp nhanh nhất Hội thánh đến chỗ tự sát.
Có một bức thư của C.S. Lewis gởi cho người anh (em) của ông (Letters of C. S. Lewis ed. W. H. Lewis, p. 11) trong đó ông kể lại chuyến viếng thăm Oxford của Charles Williams.
Williams là bạn thân của Lewis và Williams là người cuồng nhiệt yêu mến và tôn thờ sự trinh trắng. Lewis viết như sau:
‘Ngày thứ hai, Charles Williams thuyết trình đề tài có tên là Comus, nhưng thật ra là về sự trinh khiết. Chỉ riêng về mặt phê bình mà thôi thì đây là một loài thuyết trình tuyệt diệu - vì đây là một nhân vật thật sự quan tâm tới từng đường gân thớ thịt của ‘giáo lý khôn ngoan và nghiêm chỉnh về sự trinh trắng’ của mình, là điều mà chẳng hề có nhà phê bình hiện đại tầm thường nào lại xem xét mình cách nghiêm chỉnh. Nhưng với tư cách là một bài giảng, nó còn quan trọng hơn nhiều. Thật là một quang cảnh đẹp đẽ khi nhìn thấy cả một phòng đầy các thanh niên nam nữ hiện đại tuyệt đối im lặng mà người ta không thể nào làm giả như thế được, và đều bàng hoàng nhưng bị thu hút... Thật là một quyền phép kỳ diệu trực tiếp kêu gọi mọi người bất chấp bầu không khí tạm thời của nó. Tôi tự hỏi phải chăng đây là trường hợp của một người đã có đủ can đảm đứng lên giữa bất kỳ một xã hội băng hoại nào và thẳng thắn truyền giảng rằng công lý hoặc lòng dũng cảm hay một điều giống như vậy, bao giờ cũng thắng?’
Có lẽ việc Hội thánh cần làm để kéo mọi người trở lại không phải là thỏa hiệp, nhưng là một bức thông điệp thuần khiết không có tính cách thỏa hiệp chút nào.