Chương năm
SỰ DẠY DỖ CỦA TÂN ƯỚC VỀ LAO ĐỘNG
Lao động là một sự rủa sả hay một phước hạnh? Dưới đây là hai bài thơ mà ý niệm hoàn toàn đối lập nhau liên hệ đến lao động. Bài thứ nhất là bốn dòng thơ ‘con cóc’ do một phụ nữ làm nghề đốt than đang mỏi mòn chờ chết, sáng tác :
Đừng có thương hại tôi bây giờ;
Đừng bao giờ thương hại tôi cả;
Tôi sẽ chẳng còn làm gì nữa cả
Mãi mãi và mãi mãi.
Điều bà ta mong muốn nhất trên đời này là được vĩnh viễn nghỉ lao động. Tiến sĩ Johnson vốn là người chỉ biết nói ra với lòng thành thật mà thôi; cũng có lần bảo ‘Nếu có thể được, tất cả mọi người chúng ta đều muốn ở dưng’.
Lúc bức tranh cuối cùng và đất này được vẽ, và các ống màu bị bóp sạch hết, Khi các màu sắc xưa cũ nhất đều phai cả, và nhà phê bình trẻ tuổi nhất cũng chết rồi, Chúng ta sẽ được nghl ngơi và sẽ cần đến đức tin - để được nằm xuống một hoặc hai kỷ nguyên.
Cho đến chừng Chủ nhân của mọi công nhân giỏi sẽ lại giao cũng tác mới cho chúng ta.
Và những ai vốn tốt lành sẽ được hạnh phúc: họ được ngự trên một chiếc ngai vàng,
Họ sẽ múa cọ vẽ trên một khung vải rộng lớn ba mươi dặm. Với những bút vẽ bằng đuôi sao chổi.
Họ sẽ tìm được các thánh đồ chân chính để dùng làm người mẫu,
Ma-đơ-len, Phê-rơ và Phao-lô.
Họ sẽ ngồi vẽ một lần lâu đến cả một kỷ nguyên Và chẳng bao giờ biết mỏi mệt là gì. Và chỉ có chủ nhân sẽ ca ngợi
Và chỉ có chủ nhân sẽ khiển trách;
Và sẽ chẳng còn ai lao động là vì tiền nữa,
cũng chúng còn ai lao động vì danh vọng.
Nhưng mọi người đều vì niềm vui lao động và mỗi người ở riêng biệt trên một ngôi sao. Sẽ vẽ lại sự việc theo đúng như mình thấy cho Thượng Đế của những sự việc y như chúng vốn có. 57
Trên đây là hai quan điểm đối lập nhau. Trong một trường hợp, khi cuộc đời chấm dứt thì công tác cũng kết thúc - và thế là tạ ơn Thượng Đế. Trong trường hợp hai, khi cuộc đời này chấm dứt, thì đó lại là cơ hội để lại được lao động như chưa bao giờ có trước đây - và cũng tạ ơn Thượng Đế! Có thể rằng cả hai quan điểm trên đây đều được tìm thấy trong Kinh Thánh, tuy không phải nhấn mạnh ngang nhau. Kết thúc của câu chuyện trong Sáng thế ký, là A-đam và Ê-va bị đuổi khỏi vườn, và bản án là ‘Ngươi phải làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn' (Sáng 3: 7-19).
Ý niệm ở đây là, giả sử loài người không phạm tội, họ sẽ được sống vĩnh viễn trong một cõi thiên đàng đầy ánh nắng mặt trời mà chẳng cần phải làm gì cả ngoài ra việc hưởng thụ các phước hạnh trong vườn Ê-đen mà thôi.
Mặt khác, hầu như toàn bộ Kinh Thánh, ngoài câu chuyện vừa kể trên ra, đều được căn cứ trọn vẹn trên tư tưởng của lời truyền dạy và khẳng định rằng con người được dựng nên vốn là để lao động và lao động cách giỏi giang, và đáng tôn trọng. Nhà Truyền đạo nói ‘Ta chẳng thấy chi tốt cho loài người hơn là vui hưởng với công việc mình’ (Truyền 3:22). Trong lời truyền dạy của Chúa Giê-xu thì ẩn dụ này tiếp sau ẩn dụ khác đều được căn cứ trên sự kiện là một đầy tớ tốt lành luôn luôn phải là một công nhân giỏi giang.
Phao-lô vạch ra hết sức rõ ràng rằng nếu một người không chịu làm việc thì cũng không nên ăn nữa (II Tê 3:10) và chính ông cũng công bố cũng khoe rằng ông đã tự dùng đôi bàn tay lao động của mình để mưu sinh, chớ không hề nhờ vả ai bất cứ điều gì (I Tê 2:9; II Tê 3:8). Rồi lại có trường hợp lạ lùng của Chúa Giê-xu nữa. Lúc Chúa Giê-xu xuất hiện trong đời sống hoạt động công khai, Ngài đã ba mươi tuổi (Lu 3:23). Bấy giờ, người ta đã biết Ngài là bác thợ mộc ở Na-xa-rét (Mác 6:2). Suốt ba mươi năm trong ba mươi ba năm sống tại thế, Ngài là một công nhân ở làng quê. Truyền thuyết kể rằng Ngài có biệt tài chế tạo ra những chiếc ách cho bò tốt nhất xứ Ga-li-lê, đến nỗi thiên hạ phải xếp hàng trước xưởng mộc của Ngài để mua. Vào thời đó các cửa tiệm cũng có treo bảng hiệu, và có người gợi ý rằng trên bảng hiệu treo trước cửa xưởng thợ mộc của Chúa G-xu có vẽ dấu hiệu chiếc ách bò và câu viết rằng ‘Ách ta vừa vặn’, "Ách ta dễ chịu’ (Ma-thi-ơ 11:30) - không theo nghĩa là nó chẳng gây bất tiện gì cả, nhưng theo nghĩa rằng nó rất thoải mái, vừa vặn. Chắc chắn là nếu Chúa Giê-xu đã không hành nghề giỏi giang tốt đẹp trong xưởng thợ mộc của Ngài tại Na-xa-rét, thì Thượng Đế cũng chẳng bao giờ giao công tác cứu rỗi thế gian cho Ngài. Chúa Giê-xu đã vào đời với tư cách một công nhân.
Đây là một trong số nhiều điểm dị biệt giữa thế giới người Do Thái với các thế giới Hy-lạp La-mã. Với một người Do Thái thì lao động là điều thiết yếu; lao động chính là yếu tính của đời sống. Người Do Thái có câu tục ngữ rằng ai không dạy cho con trai mình một nghề, tức là dạy nó đi ăn trộm. Một ra-bi Do Thái giáo ngang hàng với một giảng viên hay giáo sư trường đại học nhưng theo luật Do Thái vị ấy không dược lấy một xu thù lao nào do việc giảng dạy; người ấy phải có một nghề và phải tự tay mình làm việc để mưu sinh. Cho nên có nhiều ra-bi làm thợ may, thợ giày, thợ cạo, thợ làm bánh mì và cả thợ pha chế hương liệu nữa. Với một người Do Thái thì lao động chính là sự sống.
Nhưng các nền văn minh Hy-lạp và La-mã lại đặt cơ sở trên chế độ nô lệ. Theo Plato, không hề có một thợ thủ công nào lại có thể trở thành công dân của quốc gia lý tưởng. Aristotle cho chúng ta biết rằng tại Thebes, không ai có thể trở thành công dân nếu chưa có hành nghề gì đó được mười năm rồi. Cicero thì quy định rằng không một nhân vật khả kính (gentleman) nào lại đi làm việc vì tiền lương, không một nhân vật khả kính nào có thể hành nghề thương mại, dầu là buôn bán sỉ hay lẻ. ‘Một xưởng thợ là nơi không thể có chút văn hóa nào’.
Chẳng có gì để thắc mắc trong vấn đề truyền thống Cơ Đốc giáo vốn từ truyền thống Do Thái giáo mà ra. Đối với cả người Do Thái lẫn Cơ Đốc nhân, thì lao động làm nên cuộc đời. Lao động 58 và sự sống cũng là một điều. Chúng ta có thể bắt đầu nói đến một số điều hết sức tổng quát liên hệ đến lao động.
1. Thứ nhất, công việc của chúng ta là bản thân chúng ta, và xác định nơi chúng ta ở. Chẳng có gì phổ biến hơn là việc một người thường ước muốn có được một việc làm, một công tác khác. Một công nhân thuộc một ngành kỹ thuật hoặc làm trong một hãng xưởng nào đó có thể ước muốn mình làm mục sư hay bác sĩ, và nhiều khi ông mục sư, hay vị bác sĩ lại ước ao khao khát một việc làm bắt đầu lúc 9 giờ sáng và kết thúc vào 5:30 chiều, thay vì một công việc cứ phải tiếp tục suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày. Carlyle là một nhà tư tưởng và một nhà văn lớn của Tô-cách-lan; cha ông là thợ xây đá và là một thợ xây cầu lừng danh; và Thomas Carlyle thường bảo rằng thà ông xây được một trong những cây cầu của cha mình, còn hơn là
viết được toàn bộ tác phẩm của mình.
Có một ra-bi Do Thái giáo lừng danh tên là Zusya. Nhiều lúc ông ta ước ao phải chi mình là một người khác. Và sau đó, ông nói thật khôn ngoan ‘Trong đời sau, thiên hạ sẽ chẳng ai hỏi tôi:
Tại sao ông lại không phải là Môi-se? Mà họ sẽ hói: Tại sao ông đã không phải là Zusya?’
Nhiệm vụ của một người, chính là sống theo đúng con người mình.
Rita Snowden có trích dẫn một bài thơ trong một tác phẩm của bà; bà bảo nó vốn được sáng tác bởi một cô gái mười chín tuổi, nhưng không nêu tên tác giả.
Lạy Chúa của mọi chiếc nồi chiếc soong và mọi sự
Vì con không có thì giờ để trở thành
Một thánh đồ nhờ làm những việc đáng yêu
Hoặc thức canh muộn với Ngài
Hoặc mơ mộng vào lúc hừng dông,
Hoặc lay động các cánh cửa thiên đàng,
Xin khiến con thành một thánh đồ nhờ nấu ăn và rửa đĩa.
Ngài là Đấng thích ban thức ăn cho người ta
Trong phòng hay bên bờ biển,
Xin tiếp nhận công việc mà con làm này
Con làm việc ấy là cho Ngài.
Vậy, trước hết và trên hết, công việc của chúng ta ấy là con người chúng ta và ngay tại nơi chúng ta đang ở. Điều này không có nghĩa là bảo rằng chẳng ai nên thay đổi công ăn việc làm, hay ao ước một công việc làm khác cả, nhưng chỉ có nghĩa rằng cách tốt nhất để được làm một công tác quan trọng, lớn lao hơn, là hãy thực hiện một cách hoàn hảo công việc ta đang làm.
Thật là một nghịch lý lạ lùng là người ta nhận được một việc làm lớn lao trọng đại hơn khi người ta từng thiết tha quan tâm nhiều nhất đến công việc mà mình đang làm, và không hề nghĩ gì đến một công tác nào khác.
2. Tân Ước quả quyết rằng chẳng hề có cách nào thử nghiệm tốt hơn là nhìn cách làm việc của người ấy. Đó là điểm then chốt trong các ẩn dụ của Chúa Giê-xu. Tất cả những gì một người có thể trình lên cho Thượng Đế, là việc làm của người ấy - và điều có ý nghĩa nhất không phải là người ấy đã làm được gì, nhưng là người đó đã làm việc ấy như thế nào.
L.P.Jacks thích kể lại câu chuyện về một người công nhân đào đất Ái-nhĩ-lan già làm việc trong ngành đường sắt từ rất lâu trước khi có những máy xúc, máy kéo và máy ủi đất; vào những ngày mà họ đều chỉ có một chiếc xuổng và xe cút-kít. Chiếc xuổng của người công nhân đào đất già được sử dụng thật tốt đến nổi nó bóng láng như thép không rỉ lúc tối đến, khi ông ta rửa sạch 59 hết bùn đất cho nó. Có lần có người hỏi đùa ông ta ‘Ông Paddy này, thế ông sẽ làm gì khi ông qua đời và khi Thượng Đế hỏi thì ông sẽ nói gì về bản thân ông’ Ông Paddy đáp: ‘Tôi nghĩ là tôi chỉ cần đưa cho Ngài xem cái xuổng của tôi mà thôi’. L.P.Jacks là tác giả của nhiều quyển sách, và ông đều viết các bản thảo của mình bằng tay. Lúc viết, ông luôn luôn mặc một chiếc áo khoác bằng nỉ, và ống tay phải của chiếc áo ấy đã sờn vì bị mài mòn do cọ xát với mặt bàn khi ông viết.
Jacks thường nói ‘Nếu đến lượt tôi, tôi nghĩ là tôi sẽ chỉ cho Thượng Đế chỗ sờn rách nơi tay chiếc áo khoác của tôi’.
Lao động là cách trắc nghiệm - không phải căn cứ vào tầm quan trọng của công tác theo quan điểm uy tín của nó, nhưng căn cứ vào lòng trung thành mà công tác ấy đã được thực hiện. Có người đã nói rất đúng rằng Thượng Đế không cần người ta làm những việc phi thường cho bằng cần người ta làm những công việc tầm thường, nhưng làm thật tốt, thật phi thường.
3. Trắc nghiệm đối với một người là việc làm của người ấy, và chúng ta còn có thể nói khác đi một chút, là trắc nghiệm đối với một công nhân là: người ấy có xứng đáng với đồng lương của mình không? Hay người ấy cố cố gắng để làm việc cho xứng đáng với số tiền lương của mình không? Trong những ngày này, chúng ta đang đến rất gần với một tình hình vô cùng nguy hiểm, trong đó người ta không phải là đang nghĩ đến việc được hưởng đồng lương xứng đáng với công sức lao động của mình, nhưng là phải làm thế nào để càng được hưởng lương cao hơn; mà chỉ làm việc ngày càng ít hơn, kém hơn, Nếu đây quả thật là một thế giới lý tưởng, thì chúng ta phải càng chú ý nhiều đến phẩm chất của công việc mình hơn là tiền lương lãnh được từ công tác ấy.
Thật là khó đạt được cái đỉnh cao này, trừ phi đối với nhà nghệ sĩ sáng tạo mà công tác vốn là một điều thuộc tâm linh. Nhưng hiện chúng ta đang đi tới giai đoạn mà người ta đòi hỏi quyền được hưởng lương, quyền được phép mặc cả để đòi nhiều hơn quyền đấu tranh bằng hành động để được hưởng lương cao nhất, trong khi dó nghĩa vụ phải làm việc cho xứng với đồng lương rất ít khi được chấp nhận. Từ rất lâu rồi Rudyard Kipling từng viết một bài thơ có câu này trong đó:
Từ lò rèn, nông trại, hầm mỏ, bàn của thợ,
Trên tàu, nơi bàn thờ, nơi tiền đồn xa xôi
Nhà máy xay, trường học, tiểu đoàn, quầy thu ngân, hầm chiến đấu,
Đường sắt, thượng nghị viện, chuồng chiên, ngai vàng
Lời kêu la của tạo vật dâng lên cao
Từ thời gian giảo này tới thời gian giảo khác =
‘Xin sai đến với chúng tôi những người làm việc.
Xứng đáng với đồng lương’
4. Có một điều có thể giúp đẩy mạnh công tác theo đúng như cách nó phải được thực hiện, khiến nó được thực hiện theo đúng như tinh thần mà nó phải được thực hiện, ấy là chúng ta phải xem công việc mình làm như là một sự đóng góp cho cộng đồng.
Có một nguyên tắc lừng danh nhất trong mọi nguyên tắc về kinh tế được gắn chặt vào cái tên A-dam Smith - tức nguyên tắc phân công lao động. Theo nguyên tắc này, thì đừng nên có ai nỗ lực làm tất cả mọi việc một mình, mà mỗi người phải làm công việc riêng của mình. Bác thợ làm bánh chớ nên cố gắng may quần áo, còn bác thợ may thì chớ nên thử làm bánh mì. Anh thợ giày chớ nên mổ cá, còn người bán cá thì đừng khổ công làm công việc vá giày. Mỗi người hãy hoàn thành phần việc của mình, thì tất cả họp lại sẽ tạo thành một xã hội thành công. Đây là trường hợp mỗi người vì mọi người và mọi người vì mỗi người. Đây không những là một nguyên tắc làm kinh tế kiến hiệu mà cũng là nguyên tắc của Cơ Đốc giáo thành công nữa. Vì đây là nguyên tắc của một cộng đồng hoạt động như một thân thể trong đó mỗi chi thể tự thủ đúng vai trò của 60
mình:
Nhưng vấn đề rắc rối hiện nay là còn rất ít hay chẳng còn tinh thần cộng đồng trong đời sống cả. Mỗi thành phần của cộng đồng đều tách riêng ra để tìm cầu những lợi lộc mình, đôi khi còn bất chấp luôn cả quyền lợi của cộng đồng nói chung nữa. Nếu những người nam người nữ đều lao động để đóng góp cho cộng đồng thay vì mọi người đều khai thác, lợi dụng cộng đồng thì cộng đồng chắc phải có tình trạng lành mạnh hơn ngày nay nhiều.
Thật là dễ - và thật là bất công - để đỗ lỗi và tạo ấn tượng rằng mọi nhiệm vụ đều thuộc về một phía mà thôi. Cũng như một người có những nghĩa vụ mà mình phải chu toàn và có những trách nhiệm mà mình phải hoàn tất, thì cộng đồng cũng phải mắc nợ người ấy một số điều; và nếu những điều đó không được trả cho người ấy, thì nhất định sẽ có rắc rối - và rắc rối ấy sẽ vượt xa thế hệ của chính người đó rất nhiều, vì có một điều đã được người ta gọi là ký ức về chủng tộc. Chúng ta thấy ký ức về chủng loại tác động nơi các loài thú. Chẳng hạn con chó cứ loanh quanh nhiều vòng trước khi nằm xuống để ngủ, vì đã có một thời, các tổ tiên nó từng nằm ngủ giữa đám cỏ cao, do đó phải dẫm cỏ để tạo thành một cái ổ êm ái trước khi nằm ngủ. Cho nên
trong xã hội ngày nay, sở dĩ chúng ta cảm thấy không hài lòng và sợ hãi, oán thù, là những điều vốn không phải là kết quả của tình hình hiện tại, mà vì đó là hậu quả của những bất công và vô nhân đạo từng xảy ra trước đây hai ba thế hệ. Vấn đề trong xã hội là nếu chúng ta gieo gió thì chúng ta phải gặt bão. Điều rất thường xảy ra, ấy là có nhiều người vẫn chiến đấu - trong tiềm thức - những trận chiến mà cha ông họ đã từng chiến đấu - mà trong tình hình hiện tại thì đó là một việc chẳng cần thiết nữa. Vậy thì, như có một số sự việc mà một người bắt buộc làm, thì cũng có một số sự việc mà xã hội phải làm cho một người.
Lời truyền dạy của Chúa Giê-xu có một số hàm ý; chúng đặc biệt nổi bật trong ẩn dụ về các công nhân trong vườn nho (Ma-thi-ơ 20:1-16).
1. Trước hết là một người có quyền được lao động. Thật là điều đáng kinh ngạc khi đến mấy lúc rất gần đây mà con người lao động vẫn chẳng có được một quyền lợi nào cả. Mãi đến tận những năm 1890 vẫn chẳng hề có phụ cấp thất nghiệp mà cũng chẳng hề có lương hưu trí. Có hàng mấy trăm ngàn thợ thủ công thất nghiệp. Họ cứ sáu người nằm ngủ chung trên một chiếc ghế đá tại bờ sông giữa khoảng Temple và Blackfriars; họ chen chúc vào nhau để tìm hơi ấm dưới các gầm cầu Blackfriars; có đến mấy chục người ngủ trong nghĩa địa Spitalfields và trước cửa các tiệm buôn của phố Liverpool. Frank Collier kể lại Đạo Cứu Thế Quân đã bắt đầu điều tra vấn đề này như thế nào. Và chỉ trong một tối tháng sáu 1890 lúc nửa đêm, đã có tới 366 người nằm ngủ chỉ trên một dặm đường giữa Westminster và Blackfriars, sống trong hỏa ngục của những ngày thiếu thốn nhờ một mẩu bánh mì giá một xu và một chén xúp cũng giá một xu mỗi ngày.
Vào những năm đầu thập niên ba mươi, khi tôi đến giáo phận đầu tiên và duy nhất tại Renfrew, chúng tôi hầu như bị đắm vào cơn suy thoái khủng khiếp đã đánh vào thế giới vào những năm giữa thập niên ba mươi, và trong số hai mươi bảy trưởng lão của tôi, có đến mười chín vị đang thất nghiệp. Chính lúc đó, tôi đã thấy tài năng của con người mục rữa trong cảnh ăn không ngồi rồi. Chính lúc đó tôi mới biết ý nghĩa của câu nói của triết gia Sir Henry Arthur Jones khi ông bảo rằng những lời lẽ sầu thảm nhất của Shakespeare là trong câu ‘Othello đã bị thất nghiệp’. Đây là điều không thể nào tái diễn trong một nước theo Cơ Đốc giáo. Chính ký ức chủng tộc của những ngày ấy đã tạo ra và còn tạo ra những điều như những thói quen làm việc hạn chế và không chịu làm một lúc cho xong việc. Đã có một ký ức trong tiềm thức và một nỗi lo
sợ trong tiềm thức rằng những ngày không có việc làm đó có thể sẽ quay trở lại. 61
2. Tiếp theo, là con người phải được quyền hưởng một số lương cho đủ sống. Cũng trong năm 1890 - xin lưu ý là năm ấy vẫn còn trong giới hạn cuộc đời những người hãy còn sống - Richard Collier trích dẫn một trường hợp của một bà mẹ và hai đứa con dưới chín tuổi phải làm việc mười sáu giờ một ngày để sản xuất 1.000 bao diêm quẹt với số lương là 0,1.5 3/4 Anh kim. Vâng - điều đó không thể xảy ra như hiện nay - nhưng nó đã từng xảy ra - và cần phải hơn một thế hệ, người ta mới có thể xóa được nó khỏi ký ức.
3. Con người có quyền được lao động trong những điều kiện hợp lý. Đây là điều mà trước đây 80 năm chủ nhân không hề nghĩ tới khi tính tiền mướn một công nhân. Richard Collier kể lại phải sản xuất bao nhiêu cây diêm quẹt lúc ấy, để bán một lố (12 bao diêm) là một xu. Với giá ấy, chúng phải được chế tạo bằng lân tinh màu vàng mà chỉ gần 0.2 gram là có thể làm chết người.
Các công nhân nhúng cây diêm vào lân tinh, và động tác ấy gây cho họ nguy cơ có thể mất mạng. Họ sờ lên mặt. Họ tưởng là mình bị nhức răng. Đó chính là chất lân tinh đang làm đau quai hàm. ‘Chẳng bao lâu cả một bên mặt biến thành màu xanh, rồi đen, toát ra mủ hôi thối. Đó là chứng thối quai hàm - xương bị hoại tử - mà một trong những hậu quả là cái chết’. Trong một xưởng có dùng lân tinh, nếu tắt đèn đi - tôi xin trích dẫn - ‘trong bóng tối mờ ảo, quai hàm của nạn nhân, và cả đôi tay nữa, ánh lên màu xanh - trắng như của một bóng ma vậy vì lân tinh đang ăn mòn ngay lúc người ấy hãy còn sống’ - và thiên hạ được đưa đến xem, như xem một chuyện lạ vậy. Bạn không thể làm như thế cho người ta mà không để lại cái ký ức chủng tộc đòi hỏi phải qua nhiều thế hệ mới xoá đi được. Khi nhớ lại thế kỷ thứ mười chín, điều chúng ta lấy làm kinh
ngạc không phải là vì các mối liên hệ về công kỹ nghệ gặp khó khăn mà vì chúng còn tốt đẹp được như đã có. Khi số người bị đối xử như thế nhận thấy mình đang ở trong một vị trí phải tự vệ và phải đòi hỏi các nguyện vọng của mình, thì không ai có thể phiền trách họ là dám làm liều.
Sự kiện đơn giản là người ta không thể nào xây dựng một cộng đồng công kỹ nghệ trên một đạo đức kỹ nghệ phi Cơ Đốc giáo. Tổ tiên chúng ta đã làm chính điều đó, cho nên nhiệm vụ của chúng ta là phải hàn gắn lại tình hình - nhưng trước hết, chúng ta cần phải hiểu điều đó đã.
Nhưng bây giờ, chúng ta phải đi thẳng vào vấn đề. Đối với tôi thì lao động là gì? Nó có vai trò gì trong đời sống của tôi? Đối với tôi lao động phải là gì? Đúng ra thì nó phải có vai trò gì trong đời sống tôi?
Rất có thể công việc làm của tôi là tất cả, và tôi vì nó mà sống. Carlyle từng nói ‘Người nào đã tìm được đúng công việc cho mình là người có phước; người ấy không nên đòi hỏi một phước hạnh nào khác nữa’ Nhạc sĩ Henry Coward đến khi kết thúc sự nghiệp của mình đã bảo rằng chẳng có lý do gì để thiên hạ phải cám ơn hay khen ngợi việc làm của ông bởi vì suốt đời mình, ông đã được trả lương để làm công việc mà chính ông còn vui lòng trả tiền để được phép làm. Vị bác sĩ lừng danh Paul Tournier, bảo rằng mỗi vị bác sĩ phải nhận biết rằng mình vốn là một cộng tác viên của Thượng Đế. Một người có thể tìm thấy Thượng Đế và sự sống trong việc làm của mình. Chắc bạn còn nhớ nhân vật M’ Andrew của Kipling, viên kỹ sư người Tô-cách-lan nằm dưới lòng tàu vừa coi sóc máy vừa nghĩ về Thượng Đế:
‘Hỡi Thượng Đế, con nhìn thấy bàn tay Ngài từ bánh xe của bộ phận nối đến cây trục của tay lái, thấy sự tiền định trong sự chuyển động của thanh truyền lực’.
Những con người ấy và những con người giống như thế tìm thấy sự sống thật trong công việc làm của họ. Nhưng điều đó không phải nghiệm đúng cho tất cả mọi người. Chắc bạn còn nhớ Robert Louis Stevenson, trong tác phẩm Inland Voyage của mình, đã nói như thế nào về người lái xe buýt của khách sạn tại Maubeuge, anh ta bảo ‘Chính tôi đây, vâng tôi lái xe đến bến, rồi lại lái nó trở về khách sạn; và cứ như vậy từ ngày này qua này khác, từ tuần này sang tuần khác. 62
Trời ạ, phải chăng sống là như vậy?’ Hoặc chắc bạn còn nhớ Charles Lamb, người suốt ba mươi chín năm dài đã làm thư ký văn phòng cho công ty Đông Ân, khi ông ta kể lại về Nỗi khổ nhọc của những mảnh gỗ chết của cái bàn viết.
Từ rất lâu rồi, đạo đức Cơ Đốc đã truyền dạy chúng ta phải tìm thấy niềm vui, niềm tự hào, sự tự hài lòng và sự mãn nguyện trong công việc làm hàng ngày của chúng ta. Chúng ta đã từng trích dẫn John Keble:
Công việc lặp đi lặp lại tầm thường, cái nhiệm vụ thông thường.,
Sẽ cung cấp cho chúng ta tất cả những gì chúng ta ta cầu xin;
Đó là cơ hội để chúng ta từ chối chính mình; là con đường
Hàng ngày dẫn chúng ta đến gần hơn với Thượng Đế.
Đã đến lúc, chúng ta phải thôi đề cập những chuyện tin kính, ngoan đạo tầm thường để nhìn một cách mới mẻ vào triết lý làm việc của chúng ta. Lẽ dĩ nhiên, một người vẫn còn có thể tìm thấy lẽ sống của mình trong lao động. Một vị mục sư giảng Phúc âm có thể làm như vậy. Như Peter Green thường nói ‘Giá mà tôi có được đến chín đời sống như một con mèo, tôi vẫn sống tất cả để làm một cha xứ’. Đối với một bác sĩ, một giáo sư, một nghệ sĩ, một thợ thủ công, một người thợ máy lòng rộn ràng vì vui sướng khi nhìn thấy một ổ máy trục trặc được hồi sinh - điều đó là đúng. Nhưng như thế vẫn chưa phải là tất cả. Trước hết, tôi nghi ngờ rằng chưa tới 10 phần trăm thiên hạ đã thật sự được lựa chọn công việc mà họ sẽ làm. Họ rời ghế nhà trường và nhận ngay cái công việc đến dưới tầm tay mình - không phải vì họ muốn như vậy, mà vì họ cần phải làm như vậy. Thứ hai, công kỹ nghệ càng phát triển, thì sự tự động hóa càng chiếm ưu thế, chúng ta càng tinh khôn hơn, thì càng có nhiều hơn những công việc mà trong đó con người chỉ là một người trông coi máy, một người nhấn nút, điều khiển các nút vặn, làm một động tác luôn luôn lặp đi lặp lại trong lúc sản phẩm đang thành hình cứ lướt nhanh qua trước mắt mình trên dây chuyền của guồng máy. Điều hết sức rõ ràng là chúng ta không tài nào tìm được sự sống trong cách sống như thế. Và sự việc ấy thì cứ ngày càng trở thành phổ biến, thông thường hơn. Máy móc thay thế cho người thợ thủ công; một tiến trình tự động thay thế cho sự khéo tay của con người; và con người bị đẩy vào những công việc mà mình không thể nào hãnh diện về nó được.
Chúng ta phải thành thật thừa nhận rằng trong các điều kiện hiện đại công việc làm của một người rất có thể chỉ là một tiến trình nhờ đó người ấy có thể tìm được sinh kế cho bản thân và cho gia đình mình mà thôi - ngoài ra thì chẳng còn có gì khác nữa cả. Và hậu quả là hiện nay, có một số người ngày càng tăng, phải tìm kiếm sự sống đích thực bên ngoài việc làm của họ. Đã có khá đông người giải quyết vấn đề này rồi. Có nhiều người ban ngày thì tìm kế mưu sinh, và được sống lại khi buổi tối, họ đi hát trong một ban hợp xướng hay gia nhập một hiệp hội kịch nghệ. Có những người ban ngày kiếm được rất nhiều tiền và trở về nhà, đi tìm sự sống trong một Đội quân thiếu nhi hay một Hội hướng đạo sinh, phục vụ cho những người bại liệt tàn tật hoặc những kẻ già cả không nhà. Có những người có một thú tiêu khiển riêng mà đó là sự sống của họ.
Có một số người khác thì có thể nói là có đến hai đời sống. Charles Lamb vốn là một tên nô lệ cho chiếc bàn viết trong văn phòng của mình, nhưng ông đã vượt thoát bằng cách viết những bài khảo luận mà hiện nay người ta vẫn còn đọc trên khắp thế giới. C.L.Dodgson thì vừa dạy Toán học vừa viết các sách giáo khoa như An Elementary Treatise on Determinants, hoặc Curiosa Mathenatica, nhưng đồng thời ông cũng viết tác phẩm Alice trong xứ thần tiên. Có những người có một lãnh vực phục vụ hoặc một phạm vi hoạt động hợp sở thích hoặc một ngành nghệ thuật, 63 để họ làm lối thoát mà sống.
Nhưng có một số khác lại không có. Họ không thể nhìn xa hơn là rạp hát, chiếc máy thu hình, trò chơi lô tô, những trận đấu túc cầu - toàn là những điều tốt đẹp, nhưng người ta không thể đầu tư cuộc đời vào đó. Cho nên cần phải có một số việc khác.
1. Điều mà chúng ta thật sự muốn nói, là một tình hình nảy sinh khi người ta cần được giáo dục trong việc giải trí cũng như cần dược giáo dục để lao động. Điều này có nghĩa là phải hồi sinh công tác giáo dục sao cho công việc giáo dục không phải chỉ là truyền dạy những điều cần thiết để mưu sinh mà thôi, nhưng còn là truyền dạy những điều sẽ khiến người ta có thể ‘sống’ được. Theo một ý nghĩa thì đã có sự suy thoái trong giáo dục. Có nhiều lãnh vực mà một khi rời ghế nhà trường, một đứa trẻ chẳng viết được một chữ nào để trả lời cho một câu hỏi, không viết ra giấy được một đoạn văn nào cả. Có những trình độ giáo dục mà một khi từ đó ra, một đứa trẻ chẳng hề thấy ham thích đọc sách đọc báo gì cả, ngoại trừ xem một bức hí họa hay truyện vẽ
bằng tranh.
Hồi G.K. Chesterton còn nhỏ, ông có một rạp hát đồ chơi bằng bìa cứng, trong đó có những nhân vật được cắt ra từ giấy. Có một nhân vật là một người cầm chiếc chìa khóa bằng vàng; ông chẳng còn nhớ được nhân vật cầm chiếc chìa khóa bằng vàng đó là ai, nhưng nhân vật ấy luôn luôn được tâm trí ông đồng nhất hóa với cha mình, mà ông nhìn thấy là một người có chiếc chìa khóa vàng để mở đủ thứ cửa dẫn tới đủ thứ điều kỳ diệu. Giấc mơ đối với ngành giáo dục là làm thế nào ngành giáo dục phải là chiếc chìa khóa vàng để mở toang nhiều cánh cửa, chẳng những chỉ đơn giản cho các tài năng cần thiết cho việc mưu sinh, mà còn cho những điều dành cho tinh thần con người người nữa, như nghệ thuật, âm nhạc, hoặc kịch nghệ, nhờ đó mà những người ta tìm thấy sự sống.
2. Con người vốn có một thân thể cũng như một tâm trí; và phần lớn nạn thiếu niên phạm pháp là do người ta quên mất sự kiện ấy. Thật là khó tin được rằng nhiều thành phố mới đã được thiết kế, trong đó thật sự người ta chẳng có việc gì để làm cả; trong đó nếu có chút cỏ xanh nào thì điều duy nhất được phép dựng lên là một tấm bảng cấm bạn không được dẫm chân lên đó.
Nhà tâm lý học Eric Fromm đã nói rất đúng rằng tất cả mọi người - nhất là ra con trẻ - vốn có một năng động lực bẩm sinh, một sức sống hầu như là còn thô thiển, và nếu nguồn sinh lực, nguồn năng lực ấy không được hướng vào sự sống, thì chắc chắn nó sẽ bị hướng vào việc phá hoại. Sự phá hoại là hậu quả của sự sống không được sống. Chúng ta không thể đặt một thanh niên vào một sa mạc bê-tông mà chẳng có việc gì để làm cả, vì nếu như vậy thì rốt cuộc cậu ta sẽ lấy gạch ném vào cửa sổ hoặc bắt đầu đánh lộn với người khác chỉ vì buồn chán. Trong xã hội hiện đại cần phải có nhiều điều để làm sau khi ngày công chấm dứt.
3. Trong thế giới mới mà thì giờ rỗi rảnh sau khi đã làm việc xong xuôi là rất quan trọng, Hội thánh phải trở thành trung tâm của cộng đồng. Lẽ dĩ nhiên, nhà thờ phải là nơi để mọi người ca ngợi tán tụng Thượng Đế nhưng cần phải vượt hơn điều đó nữa; Hội thánh phải là nơi để người ta tìm đến hầu thỏa mãn mọi nhu cầu chân thật của đời sống. Có một trong những chân lý quan trọng, ấy là càng biết rõ về một người bao nhiêu, thì chúng ta càng có thể cũng thờ phượng càng sâu sắc và thật sự với người ấy bấy nhiêu. Chúng ta có thể cầu nguyện có hiệu quả hơn với một người chơi thân với mình. Người ngồi bên cạnh ta trong nhà thờ không thể là một người xa lạ thánh khiết nào đó, nhưng là một bạn thân sống động với mình.
Cách đây đã lâu, George Bernard Shaw có viết về Hội thánh. Hiển nhiên là những điều ông viết đã xưa lắm rồi, nhưng trên nguyên tắc, chúng vẫn y như nhau: 64 ‘Nếu một vài hàng giáo phẩm có thuốc chữa lành cho các linh hồn đang trầm luân, lại có sáng kiến là treo lên cửa nhà thở của mình tấm bảng ghi như sau: Đây là nơi mà những người nam người nữ sau những giờ làm việc có thể đến khiêu vũ mà không say sưa vào những ngày thứ Sáu; nghe nhạc hay vào những ngày thứ Bảy; cầu nguyện vào những ngày Chúa nhật; thảo luận công việc chung mà không bị cảnh sát đàn áp vào những ngày thứ Hai; dùng nhà thờ vào một việc chân chính nào đó vào những ngày thứ Ba; đưa trẻ con đến vui chơi giải trí, tập dợt, đuổi bắt nhau những ngày thứ Tư, và tình nguyện lau rửa sạch sẽ nơi này vào những ngày thứ Năm - thì vị ấy sẽ có thể cải tạo toàn thể khu vực.’ Nhà thờ mở cửa đủ cả bảy ngày trong tuần, phải là một phần công tác của thời đại mới.
4. Còn một việc sau cùng - chúng ta đã thấy lao động có thể là điều quan trọng nhất trong đời sống, nhưng với nhiều người thì việc ‘sống’ sẽ cần phải bắt đầu sau khi xong ngày lao động.
Chúng tôi đã gợi ý các phương pháp theo đó thời giờ rảnh rỗi có thể và phải được sử dụng; nhưng chúng tôi vẫn chưa có thể bỏ lửng ở dó. Từ trước cho đến đây, các gợi ý của chúng tôi về căn bản đều có tính cách vị kỷ. Điều duy nhất có thể mang ý nghĩa đến cho đời sống là phục vụ - phục vụ cộng đồng. Nếu người trưởng thành nhớ được họ có thể làm gì cho bọn trẻ, từ việc dạy nhu dạo cho đến việc dạy Kinh Thánh cho chúng; nếu bọn trẻ nhớ được điều mà những bàn tay trẻ trung có thể làm được cho những người cô độc, già cả và bất năng bất lực không được ai giúp đỡ; nếu người mạnh nhớ đến dược những người yếu người, nếu người có quá nhiều nhớ đến những người chỉ có rất ít; nếu có được ý thức về bổn phận phục vụ ngay từ bên trong - thì sẽ chẳng còn có vấn đề gì nữa cả, vì chính bằng việc sống cho người khác mà một người nhận thấy
là mình đang sống cho chính mình vậy.
Bài thuyết trình này nguyên được kết thúc tại đây. Nhưng chẳng bao lâu sau khi nó được phát trên truyền hình, có một bạn đồng liêu của tôi ở trường đại học mà tôi rất tôn trọng các quan điểm của ông, và là người đang hướng dẫn một nhóm thảo luận, vạch rõ cho tôi thấy nó có một thiếu sót căn bản. Xuyên suốt bài thuyết trình này, tôi đã khẳng định rằng nguyên tắc đầu tiên ấy là lao động là một thành phần thiết yếu của đời sống, rằng đạo đức Cơ Đốc giả định trước sự kiện một người cần phải lao động. Nhưng tôi bị chất vấn về trường hợp của người bỏ việc, hay muốn bỏ việc, đối với họ thì sao? Tôi không có ý muốn đề cập những người bỏ việc do lười biếng, hoặc cố ý không chịu lao động hoặc mất khả năøng làm việc. Tôi không nghĩ đến kẻ có
thể mạn phép được gọi một kẻ vô công rỗi nghề chuyên nghiệp. Tôi chỉ nghĩ đến con người dựa trên nền tảng ý thức rằng mình đang ở trong một hoàn cảnh phải thôi việc, quyết định thôi việc của người đó là một quyết định tôn giáo.
Dĩ nhiên có những thanh niên không chỉ bực tức xã hội. Họ cảm thấy xã hội là cái gì mà họ không thể tham gia vào. Họ cảm thấy xã hội đã bị ô nhiễm thật sự về mặt tinh thần. Xã hội đã hoàn toàn bị vật chất hóa. Mô tả bằng một câu thông thường thì xã hội là một cuộc chạy đua của loài chuột. Xã hội ngày càng giàu có nhờ các xưởng chế tạo vũ khí và những hàng hóa giống như vậy. Xã hội là cuộc chiến tranh giữa những kẻ có với những kẻ không có, kẻ có không muốn san sẻ và cố bám víu vào các tài sản của họ và duy trì bằng bất cứ giá nào vào các nguồn lợi lộc của họ. Có những người thành thật cảm thấy họ bị bắt buộc phải từ bỏ một xã hội như vậy. Sở dĩ họ lựa chọn rời bỏ xã hội không phải vì họ là những kẻ lười biếng, chỉ biết ăn hại mà thôi, mà vì họ cảm thấy hết sức rõ ràng rằng mình không muốn dính dáng gì với điều mà một xã hội đã trở thành và sẽ trở thành. Chúng ta sẽ nói sao với những người như thế?
1. Cần phải nói rằng việc hoàn toàn chối bỏ và sống ngoài vòng xã hội, thật ra là một điều không thể nào có được. Cho dầu xã hội có tốt hay xấu, một người cũng không thể làm gì được 65 nếu không có nó. Người ấy vẫn phải sử dụng những dịch vụ mà xã hội cung cấp cho mình. Dầu gì đi chăng nữa, người ấy vẫn phải ăn, phải sống, phải lệ thuộc vào cái xã hội đang giúp họ làm công việc đó. Theo lẽ tự nhiên, chúng ta phải sử dụng những gì mà xã hội cung cấp, kể cả việc tiếp nhận phần trợ giúp của một xã hội mà chúng ta từ chối làm việc cho nó. Hoàn toàn rời bỏ xã hội là điều không thể nào làm được. Chúng ta có thể bất mãn đối với xã hội nhưng chúng ta không thể hoàn toàn tự cách ly khỏi nó.
2. Một trong những vấn đề lớn liên quan đến việc này, là đã rời bỏ xã hội thì chúng ta sẽ đi đâu. Phải chăng chuyện rời bỏ chỉ là xa lánh để đi vào một đời sống hoàn toàn phi sản xuất, hoàn toàn tiêu cực, nơi mà dùng lời nói bất tận thay thế cho hành động ư? Rất có ít người bỏ rơi được xã hội, để chẳng hạn gia nhập một dòng tu kín, nơi mà một người rút lui khỏi xã hội nhờ kỷ luật và sự hiến thân khiến người đó có thể cầu nguyện cho xã hội đã bỏ lại sau. Phải chăng đó là sự từ bỏ cái mà thế giới gọi là sự nghiệp để chuyển sang một hình thức phục vụ nào đó mà phần thưởng của nó là những điều kiện không đáng kể về phương diện vật chất, nhưng tác động của nó là nhằm làm suy giảm, trong phạm vi chúng ta có thể làm suy giảm được cái đói, cái đau khổ và hoạn nạn của thế giới? Phải chăng một người đã rời bỏ đời sống để bằng cách nào đó cống
hiến đời sống mình giúp chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc, chiến tranh hay sự đói nghèo? Đây là cách thử nghiệm gắt gao nhất. Tự buông xuôi để hoàn toàn chẳng hoạt động gì cả, là thiếu sót trong nghĩa vụ của con người đối với tha nhân; Phản kháng thường có thể hợp lý nhưng loại từ bỏ này rất khó có thể đúng. Người ta không thể trút bỏ trách nhiệm của mình bằng cách lờ chúng đi. Một người có thể phủ nhận nghĩa vụ gì ràng buộc mình đối với một xã hội xấu xa băng hoại, nhưng không thể phủ nhận các nghĩa vụ của mình đối với nhân loại.
3. Điều tôi vừa nói kéo theo và bao hàm một điều khác nữa. Một người thật sự có lương tâm phải quyết định xem mình có thể làm gì và không thể làm gì. Người ấy có thể đi đến kết luận rằng cái xã hội mà trong đó mình đang sống là một xã hội đã thối nát từ đầu tới cuối. Nhưng điều đó không có nghĩa là không còn có nhiều điều khác trong cái xã hội ấy mà người đó có thể làm mà không bị xã hội đó làm ô nhiễm, và khi làm như vậy, người ấy có thể trở thành một phương tiện thanh lọc, thanh tẩy - hoặc có thể là tiêu diệt - cái xã hội ấy nữa. Vị bác sĩ, người làm công tác xã hội, người lãnh tụ thanh niên, đôi khi vị giáo sư, vị lãnh đạo tôn giáo thường chính là những người cũng nổi giận với xã hội như những người đã cương quyết rút lui khỏi xã hội vậy.
Người tự rút lui cần phải tự vấn phải chăng cách tốt nhất để người ta ghi nhận sự phản đối của mình, là chẳng làm gì cả? Có thể nào bạn gây dựng sự sống trên cái tiêu cực không? Phải chăng rút lui là phương pháp duy nhất? Phải chăng quả thật là trong xã hội, đã không còn một chỗ nào nữa cho mình giữ được trái tim mình trong trắng và đôi tay mình thanh sạch? Phải chăng chẳng còn một chỗ nào nữa cho mình tranh đấu cho các lý tưởng mà mình vẫn thiết tha tin tưởng?
Giả sử có người nhận thấy rằng xã hội đang băng hoại, đang bị vật chất hóa, đang trở thành vô nhân đạo; giả sử người ấy cảm thấy mình phải rút lui khỏi một xã hội đã bị kỹ nghệ hóa, phải chăng người ấy đã vơ đũa cả nắm khi kết án cả người chăn lẫn bầy chiên, người cày ruộng với cái cày, cô y tá với con bệnh, nhà phẫu thuật đưa người ta từ chỗ chết đến chỗ được sống lại, vị linh mục hiến thân cho một họ đạo nơi nghèo khổ nào đó? Tôi không thể nào tin rằng chẳng hề có việc nào để cho một con người có lý tưởng có thể tìm ra để làm. Tôi tin quyết rằng người ấy luôn luôn có thể tìm được một việc gì đó để làm, mà không hề gây tổn thương cho lương tâm hay làm phương hại cho các nguyên tắc của mình.
4. Tôi sẽ hoàn toàn sai lầm khi lên án tất cả những người bỏ cuộc, nhưng thật ra, có nhiều người đã bỏ cuộc đang dấn thân vào những công việc còn đáng nghi ngờ hơn nữa. Một người có 66 thể hết sức chán chường, thất vọng về những điều xấu xa gian ác trong xã hội, và rút khỏi nó, có thể lại đồng thời dấn thân vào những thử nghiệm tàn hại như sử dụng ma túy. Rất có thể là người ấy đang mong muốn kết thúc chiến tranh và đang hăng hái tham gia những cuộc biểu tình mà tự chúng cũng là những trận chiến tranh nho nhỏ. Có thể người ấy đang nóí về tình yêu thương đồng thời có lẽ lại là nguyên nhân gây lo âu nghiêm trọng cho những người đang yêu thương người ấy nhất, và cho số người mà người ấy đang mắc một món nợ lớn nhất về tình yêu thương.
Thật là khó thấy được làm thế nào những lý tưởng cao siêu đến độ thúc đẩy người ấy từ bỏ xã hội, lại có thể đưa người ấy tới lối sống mà một số người như thể đã chọn để sống.
Hơn nữa, còn một sự kiện đáng lo ngại, ấy là trong mọi việc ấy đều có một yếu tố phung phí.
Việc rất thường xảy ra ấy là những người từ bỏ xã hội lại là những người có rất nhiều tài năng trí thức. Họ thường là những thanh niên có rất nhiều tài năng thiên phú và tiềm năng cao. Chắc chắn là những con người như thế thực sự thất vọng về cái xã hội đang vây quanh họ. Nếu đúng như vậy, thì điều mà người ta trông mong nơi họ, là trước hết, ước vọng của họ phải là thay đổi nó di.
Mà phương pháp duy nhất để thay đổi một xã hội ấy là thay đổi nó từ bên trong. Người ta rất dễ thông cảm với những con người cải cách, nổi loạn, làm cách mạng và cả phá hoại nữa. Nhưng người ta sẽ khó hiểu hơn một con người mà cách phản đối là chẳng chịu làm gì cả. Lẽ tất nhiên một người đình công là nhằm đòi hỏi các điều kiện lao động của mình phải được cải cách và cải thiện, nếu không phải là cho chính mình, thì chắc chắn cũng là cho những người đi sau mình.
5. Hãy còn một điều đơn giản nữa cần phải nói. Nếu một người rút lui khỏi sinh hoạt xã hội, thì rất có thể cuối cùng anh ta sẽ phải chiến đấu với một trong những kẻ tử thù quan trọng nhất của đời sống con người là sự chán chường. Trong đời sống con người, có nhiều lúc lao động trở thành một nhu cầu cần thiết. Có nhiều cách để định nghĩa con người, và cuối cùng điều có thể rất đúng là coi con người như một động vật tự nhiên biết lao động. Trong đời sống của tất cả mọi người đều có những lúc mà người ta chẳng làm gì cả. Có thể thỉnh thoảng trong đời sống một người có một giai đoạn như thế là điều rất hay; nhưng từ năm này qua năm khác thì một người phải có một việc gì đó để làm; và cuối cùng người ấy chỉ có thể cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc, nếu
làm tốt công việc nào đó.
Người ta không thể thắc mắc về lý tưởng và sự chân thành của những người đang rời bỏ xã hội. Nhưng theo thiển ý, thì họ đã không chọn đúng đường đi, bởi vì tôi không nghĩ rằng cuộc đời lại có thể dược xây dựng trên cái tiệu cực, và tôi không nghĩ rằng một sự phản đối trường kỳ lại có thể đặt cơ sở trên việc chẳng làm gì cả, và tôi tin rằng thà một người làm kẻ thù tích cực của xã hội còn hơn làm kẻ thụ động từ bỏ xã hội. 67