Chương sáu
QUAN ĐIỂM CƠ ĐỐC VỀ LẠC THÚ
Có rất ít điều khó định nghĩa hơn lạc thú. Vì cùng một việc có thể là điều thích thú cho người này, nhưng lại là hình phạt cho kẻ khác. Trong lạc thú, có một yếu tố hoàn toàn chủ quan. Đối với người này một thức ăn ngon nào đó có thể rất khoái khẩu và được ưa thích, nhưng với một người khác, thì chính món ăn ấy lại gây buồn nôn. Có một loại âm nhạc khiến cho người này phấn chấn, nhưng đối với kẻ khác thì chỉ là tiếng ồn ào điếc tai. Người này thì thích những cuộc tranh tài thể thao, người khác lại cho đó chỉ là trò chơi trẻ con phí thì giờ. Một người có thể đọc ngấu nghiến một loại sách nào đó, trong khi một người khác thì bảo loại sách ấy hầu như không tài nào đọc nổi. Người này có thể thích đi đây đi đó; người khác lại bảo rằng công việc ấy chỉ tổ gây mệt mỏi kiệt quệ. Các thú vui thường khác nhau tùy từng người nhưng đằng sau tất cả những dị biệt đó, phải có một thứ nguyên tắc nào đó.
Điều đơn giản nhất có thể nói ngay là lạc thú đối lập với lao động, nhưng nói như vậy không đúng hẳn. Vì thứ nhất có nhiều người chẳng bao giờ vui vẻ thích thú hơn là khi được làm việc.
Lao động là niềm vui của họ. Hãy thử cất nó khỏi họ mà xem thì bạn sẽ cất mất điều mà hầu như họ thích thú nhất đời này. Và thứ hai, có nhiều thú vui, đòi hỏi người ta phải đầu tư vào đó rất nhiều công khó. Có nhiều người phải tập dượt hết sức gian khổ cho một trò chơi nào đó, mà họ muốn kiện toàn hơn là tốn công sức vào công việc hàng ngày của mình. Nhiều người đầu tư thật nhiều tư tưởng thì giờ và nỗ lực cho một thú tiêu khiển nào đó. Đối với một số người thì lúc họ chơi đùa, ta thấy dường như họ đang lao động khổ sai vậy.
Chúng ta có thể tiến thêm một bước nữa. Chúng ta có thể nói rằng nỗ lực đầu tư vào một thú vui là tự ý tự nguyện, là mục đích của nó không phải nhằm giật được một phần thưởng vật chất.
Chẳng hạn một người có thể bỏ ra rất nhiều thì giờ, tư tưởng nỗ lực và tiền bạc để có một bộ sưu tập tem mà mình thích; đó có thể là một thú vui. Nhưng nếu người ấy thôi sưu tập tem và bắt đầu mua bán tem anh ta vẫn làm cùng những công việc y như vậy, nhưng giờ đây, nó lại là một công việc làm. Một người có thể tiêu phí rất nhiều thì giờ và tiền bạc vào một trò chơi, và bao lâu nó còn là một trò chơi thì nó còn là một thú vui. Nhưng rồi người ấy có thể quyết định xem nó như một nghề nghiệp; người ấy có thể lấy trò chơi ấy để làm kế mưu sinh. Trong trường hợp này, người ấy vẫn làm rất nhiều cùng một công việc ấy, nhưng bây giờ nó đã thành một việc làm có tính cách lao động rồi. Như vậy, quả thật bản tính tự ý tự nguyện tuyệt đối của mọi hoạt động là một phần thiết yếu của lạc thú.
Nhưng chúng ta lại phải tiến thêm một bước nữa. Một người có thể dành rất nhiều thì giờ, tư tưởng và tiền bạc vào một hoạt động nào đó; việc ấy có thể do tự ý tự nguyện; nó có thể chẳng có phần thưởng vật chất nào cả. Nhưng nó không có ý nghĩa của từ ngữ thú vui bình thường.
Thí dụ: một người có thể dành rất nhiều thì giờ để làm việc cho Hội thánh, cho công tác thanh thiếu niên, công tác xã hội. Người ấy tự ý tự nguyện làm việc đó; người ấy không hề trông mong được ban thưởng bằng vật chất, nhưng việc đó không phải là thú vui theo nghĩa bình thường.
Vậy chúng ta phải trở lại với nghĩa chủ yếu của từ ngữ ấy. Lạc thú là cái gì thích thú; và cái gây thích thú là cái lý thú, cái mà mình thích và cho là lý thú. Lạc thú là cái mà một người làm chỉ nhằm tạo thích thú cho chính mình mà thôi. Lạc thú là điều mà một người làm khi người ấy làm điều mình thích. Người ấy không làm vì mình bị bắt buộc phải làm; người ấy không làm để có tiền nuôi gia đình; người ấy không làm nhằm giúp đỡ, phục vụ tha nhân; người ấy không làm vì bất cứ một lý do nào khác hơn là vì mình thích.
Chúng ta vừa nghĩ về lạc thú là chúng ta nhớ ngay là thường có nhiều Cơ Đốc nhân cho rằng lạc thú là một từ ngữ có nghĩa xấu. Từ rất lâu trước khi Cơ Đốc giáo ra đời cũng có nhiều người nghĩ như vậy. Triết gia hay châm biếm cay cú là Antisthenes có lần bảo rằng ông ta thà bị điên loạn còn hơn là được hưởng lạc thú; rằng ông thích bị khùng điên hơn là được hưởng thú vui.
Cũng có nhiều người từng bảo rằng chẳng hề có một thú vui nào là tốt cả, nếu lạc thú ấy được dùng để đề cập bất luận một điều gì trên thế gian này.
Các tu sĩ và nhà ẩn tu vào các thế kỷ thứ tư và thứ năm là những con người như thế. H.B. Workman đã tả họ trong quyển sách của ông nhan đề The Evolution of the Monastic Ideal. Họ tôn sùng lối sống thiếu tiện nghi. Họ tập luyện nhịn ăn. Một tu sĩ người Si-li-si tên Conin sống được ba mươi năm mà chỉ ăn mỗi tuẫn một bữa mà thôi. Họ tập kiêng ngủ. Adolus chỉ ngủ ba tiếng đồng hồ trước hừng đông. Sisoes qua đêm trên một ghềnh đá nhô ra từ một dốc núi hiểm trở, để nếu ông ta ngủ thiếp đi thì sẽ rơi xuống mà chết. Pachomius thì chẳng bao giờ nằm xuống, mà cứ ngủ đứng trong căn phòng nhỏ của mình. Có người sống trên cỏ khô, có người sống trong một căn phòng hẹp đến nỗi không thể đứng dậy hoặc nằm duỗi dài ra được. Một số nổi tiếng về cách sống ‘không theo xác thịt’ của họ. Có người kể rằng Macarius ‘bảy năm liền không ăn vật gì được nấu bằng lửa’ khiến ‘các xương mặt của ông ta nhô lên như trần trụi khác xa với người thường.’
Họ tôn sùng lối sống bẩn thỉu, dơ dáy. Càng bẩn thỉu dơ dáy bao nhiêu, họ càng thánh khiết bấy nhiêu. Người ta kể về Simeon Stylites rằng dấu hiệu của sự thánh khiết vĩ đại của ông, là thân thể ông ta ‘có chí rận rớt xuống khi ông ta di chuyển.’ Jerôme thì viết cho Paula rằng ‘Tại sao Paula lại tắm rửa, làm như vậy khác nào đổ thêm dầu vào một bếp lửa sắp tắt?’ Và Paula trả lời ‘Một thân thể và một chiếc áo sạch sẽ, có nghĩa là một tâm hồn bị ô uế’. Anthony chẳng bao giờ thay áo hoặc rửa chân: Bà mệnh phụ người Rô-ma nổi tiếng là Melania khoe rằng từ sau ngày bà ta ăn năn quy dạo, thì đã không hề để cho nước chạm được vào người mình, ngoại trừ các đầu ngón tay, bất chấp lời khuyên của viên y sĩ của bà.
Họ tôn sùng việc giết chết mọi cảm xúc của con người, dẹp bỏ mối liên hệ giữa người và người, dẹp bỏ có gì quái gở hơn là quan điểm của họ về mối liên hệ giữa người nam với người nữ. Augustine chẳng bao giờ gặp một phụ nữ, trừ phi có sự hiện diện của một người thứ ba. Một tu sĩ Ai-cập tên Pior được lệnh của thượng cấp đi thăm chị mình. Ông ta vâng lời, nhưng khi đến trước mặt người ấy, ông ta nhắm nghiền đôi mắt lại. Một nữ tu sĩ đang hấp hối từ chối không chịu nhìn mặt anh mình. Mệnh phụ Melania mà chúng ta đã đề cập bị mất chồng và hai trong số ba người con trai trong vòng một tuần lễ. Phản ứng của bà ta là cảm tạ Thượng Đế ‘Lạy Chúa, con càng có thể phục vụ Ngài dễ dàng hơn, vì Ngài đã cất khỏi con một gánh nặng to lớn dường ấy’. Lúc Paula sắp vào tu viện, các con của bà khóc lóc van xin bà đừng bỏ chúng. ‘Bà ta ngước mắt lên trời, và dùng tình yêu thương đối với Thượng Đế để chiến thắng tình mẫu tử. Bà biết rằng bà không còn là một người mẹ nữa.’ Một người tên là Mucius vào tu viện với đứa con trai lên tám. Hai cha con bị cách ly với nhau. Để thử thách Mucius, người ta cố ý đánh đập cậu bé. ‘Tình yêu thương của Chúa Cứu Thế chiến thắng, ông ta cũng chẳng hề đau buồn về những vết thương của thằng bé’. Ngày nọ, lúc đứa bé đang khóc, Mucius được lệnh phải quăng nó xuống sông. Và ông Áp-ra-ham mới này chắc đã làm theo nếu các vị tu sĩ không ngăn ông ta lại.
Thật là dễ thấy những người như thế đã nghĩ thế nào về lạc thú. Và các truyền thống ấy cũng chẳng bao giờ chết đi hoàn toàn.
Anh quốc đã phải qua một thời gian dài mới thoát được truyền thống Thanh giáo (Puritan).
Câu chuyện kể hay nhất về người Anh theo Thanh giáo vẫn có thể được tìm thấy ở chương 8 quyển sách của John Richard Green nhan đề A short History of the English People, và trong chương thứ hai sách The History of England from the Accession of James the Second của Babington Macaulay.
Việc xuất bản Kinh Thánh Authorized Version đã làm được một điều hay cho Anh quốc.
Grotius từng nói ‘Thần học cai trị tại đó. Tại Anh quốc, đã có rất nhiều thần học gia’ Casaubon thì nói với một người bạn ‘Mọi điểm nghiên cứu của họ đều là về hướng đó’ Như J.R.Green viết ‘Thật vậy, toàn quốc đã trở thành một Hội thánh.’ Nhưng thoạt tiên, có thể đã có vẻ nghiêm khắc, trang trọng và đứng đắn, nhưng không có vẻ u buồn. Đại tá Hutchinson là một trong sốngười đã ký lịnh xử tử Charles đệ nhất; ông là một người theo Cromwell và Thanh giáo. Vợ ông còn để lại một tiểu sử đẹp đẽ nhất về ông đã được xuất bản hồi đầu thế kỷ thứ mười chín.
Hutchinson là người khá đứng đắn, nhưng ông vốn là một chuyên gia về săn bắn chim ưng, đánh kiếm và khiêu vũ. Ông mê ‘chạm khắc, tạc tượng và tất cả các nghệ thuật tự do.’ ‘Ông rất mê âm nhạc, thường tự giải trí bằng đàn vĩ cầm, mà ông chơi rất điêu luyện.’ John Milton và cha ông đều là người Thanh giáo. Nhưng cha của John Milton đã soạn những bài thơ ngắn cho Oriana.
Ông lo sao cho con mình phải biết tiếng Pháp và tiếng Ý cũng giỏi như tiếng La-tinh, tiếng Hy-lạp và tiếng Hy-bá-lai. John Milton chơi đàn lute và đại phong cầm, và ông từng thú nhận là mình mê kịch của Shakespeare và Ben Jonson.
Thanh giáo ngày nay không còn giống Thanh giáo nguyên thủy. Tính cách đứng đắn và trang trọng đã bị biến thành u buồn. Kẻ được chọn cứ ngày càng chú trọng và cảm thấy mình khác với thế gian. Như J.R.Green đã viết ‘Sự trào lộng, là tính năng sửa sai việc phóng đại và phô trương quá lố, đã bị mai một trước sự căng thẳng mới của cuộc sống.’ Một duy luật pháp u buồn đã giáng xuống trên đời sống. ‘Con người tin kính học tập tránh né chiếc áo lễ ngắn hoặc miếng bánh thịt băm vào ngày lễ Giáng Sinh như tránh né một điều ô uế hay một lời nói dối vậy.’
Macaulay đã kể thế nào quyển sách Cầu nguyện Chung đã bị loại khỏi sự sử dụng công cộng và riêng tư như thế nào. ‘Trẻ con mà đọc một trong những bài cầu nguyện đẹp đẽ từng xoa dịu được nỗi buồn của hàng bốn chục thế hệ các Cơ Đốc nhân, bên giường bệnh của một người thân của mình, là phạm một tội ác’. Bất cứ một hình ảnh nào của Chúa Giê-xu và của bà Ma-ri cũng đều bị thiêu hủy. Các công trình nghệ thuật các nhà thờ hết sức đẹp đẽ đều bị bôi xoá một cách tàn bạo. Mọi trò vui chơi công cộng đều bị cấm và có một sắc lệnh được ban hành là tất cả những cây nêu cho ngày lễ mừng tháng Năm (Maypole) tại Anh quốc đều phải bị triệt hạ. Mọi buổi trình diễn kịch tuồng đều bị cấm. Các hí viện bị phá hủy, khán giả bị phạt vạ, còn các diễn viên thì bị đè xuống phía sau xe ngựa để đánh đòn. Các trò biểu diễn trên dây, trình diễn kịch rối, ném trái lăn, đua ngựa, đấu vật, các cuộc thi tài thể thao tại sân làng đều bị cấm. Quốc hội năm 1644 chấm dứt ngày lễ Giáng sinh và ban hành sắc luật rằng ngày 25 tháng 12 phải được coi là một ngày kiêng ăn toàn quốc, hôm đó mọi người sẽ than khóc về các tội lỗi của tổ tiên mình đã phạm trước đây vào ngày ấy khi họ chơi ‘rượt đuổi nhau dưới những khóm cây chùm gởi, ăn đầu heo nọc, và uống rượu bia ủ bằng trái táo nướng.’ Những người chơi vĩ cầm bị tra chân vào cùm; khiêu vũ và chơi khúc côn cầu trên sân cỏ trong làng trong xóm cũng bị cấm tiệt. Chính lúc ông đang chơi trò đánh khăng (tổng) mà ông gọi là một ‘việc làm vô đạo’ mà Bunyan đã nghe tiếng phán ‘Ngươi có bằng lòng từ bỏ các tội lỗi mình để lên thiên đàng hay cứ miệt mài trong tội để rồi sẽ phải xuống Hỏa ngục?’ Đánh chuông và đánh khăng (trổng) đều đã trở thành tội ác nặng nề hàng đầu.
Quyển Social Life of Scotland in the Eighteenth Century của Henry Graham cung cấp một bức tranh ít ra cũng u ám tương đương, nhất là trong chương về tôn giáo và sinh hoạt đạo giáo.
Năm 1715, một Hội đồng Trưởng lão ở Dumfriesshire đã dành nhiều tháng để điều tra một vị mục sư bị tố cáo là sử dụng một cỗ máy in mà ông ta có trong tư thất để in nhiều bản một bài ca ‘phạm thánh’ gọi là ‘Maggie Lauder’. Hội đồng Trưởng lão tại Edinburgh thì tố cáo những người ngay trước buổi nhóm thờ phượng chung và ngay sau khi chấm dứt đã đi bách bộ để giải trí trong các cánh đồng, trong các bồn cỏ và nhiều nơi khác, và đã la cà vào các quán rượu, quán bia, quán bán sữa, đã uống rượu hoặc phí thì giờ ở nhiều nơi khác nữa, hoặc đã xem thường hay phàm tục hóa ngày Sa-bát bằng cách đi thăm viếng hoặc tiếp khách xã giao, hoặc đã ngồi nhìn qua cửa sổ để ngắm những cảnh hư không ở ngoài xa’. Chỉ trò chuyện ngoài đường phố, đi bách bộ dạo
mát, đi thăm viếng một ai đó, hay cả khi nhìn qua cửa sổ, cũng đã là phạm tội rồi.
Tại Tô-cách-lan hồi thế kỷ thứ mười tám đã có các luật lệ phổ biến về ‘tiệc cưới bằng đồng xu’. Dân chúng vốn rất nghèo, nên nhân địp có lễ cưới, tất cả mọi người đều đóng góp một số tiền rất nhỏ để tổ chức một cuộc tiêu khiển nhất là vui chơi có khiêu vũ. Năm 1715 hội đồng giáo hội tại Morton ở Dumfriesshire lên án ‘tiệc cưới bằng đồng xu’. Hội đồng nói về sự lạm dụng lớn lao nhân dịp những bữa tiệc cưới, và nhất là việc các nam nữ thanh niên khiêu vũ với nhau, điều vốn là ghê tởm hơn hết không nên làm trong một xứ của ánh sáng, và từng bị Hội đồng trưởng lão kết án trước đây là không cần thiết mà lại gợi dục, chỉ làm tăng thêm tham dục và khiêu khích điều ô uế qua sự băng hoại của những người nam người nữ trong thời đại buông thả và suy thoái này, trong đó ma quỉ dường như đang lộng hành bằng một tinh thần ô uế và phàm tục, biến những việc làm như thế thành cơ hội tốt cho xác thịt, và do đó, lôi kéo những người nam người nữ làm ô danh Thượng Đế, tự hủy hoại linh hồn mình, khiến thiên hạ cười chê đạo thánh.’ Ai tham dự một ‘bữa tiệc cưới bằng đồng xu’ như vậy sẽ bị Hội thánh phạt và bị khiển trách công khai trong giờ nhóm lại thờ phượng của Hội thánh. Đối với những người suy nghĩ như vậy thì bất kỳ một trò tiêu khiển nào trong đó nam nữ cùng tham dự thì đó là một việc xấu.
Có một ông tên John Willison vốn là một nhà giảng dạo và là nhà văn nổi tiếng lúc ấy. Ông đã khuyên các tín đồ của mình về cách họ phải sống để khỏi quên mất Thượng Đế. Khi nào họ mặc quần áo vào, thì phải nhớ sự trần truồng của linh hồn mình, và sự cần thiết của những chiếc áo công chính được gán cho họ. Khi họ chải đầu, họ phải nhớ đến các tội lỗi mình, vốn nhiều hơn cả tóc trên đầu họ nữa. Khi nào họ ngồi xuống để dùng bữa tối, họ phải nghĩ đến niềm vui là có ngày họ sẽ được cùng ngồi lại dể dùng bữa tối với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Khi họ cởi quần áo ra để sửa soạn đi ngủ, họ phải nhớ là mình đã trần truồng vào trong thế gian này, và rồi họ cũng sẽ trần truồng mà lìa bỏ nó. Và khi họ đắp mền lên người, họ phải nghĩ đến việc rồi đây họ sẽ phải nằm trong phần mộ lạnh lẽo và bị đắp lên bằng đất.
Thật là còn ít chỗ nào cho lạc thú trong một ngày dành cho những ý nghĩ như vậy.
Làm một đứa trẻ sống nhằm những ngày đó chắc phải vô cùng vất vả. John Wesley kê ra các luật lệ của ngôi trường nổi tiếng của ông ở Kingswood, gần Bristol. Không có trò chơi nào được cho phép trong nhà trường cả. ‘Kẻ nào chơi đùa hồi còn nhỏ thì khi lớn lên sẽ trở thành kẻ chơi bời’ - cho nên đừng bao giờ nên nghĩ đến chuyện đó. Chẳng hề có ngày lễ nào cả. Từ ngày vào trường cho đến ngày ra trường đứa bé chẳng bao giờ có được một ngày nghỉ lễ. Mọi người trong trường, người lớn cũng như trẻ con đều như nhau, phải thức dậy lúc bốn giờ sáng. Giờ đầu tiên được dành cho việc đọc Kinh Thánh và suy gẫm, hát thánh ca và cầu nguyện. Ngày thứ sáu, họ phải kiêng ăn cho đến ba giờ chiều. Sau ba mươi lăm năm sống như vậy, Wesley đã viết trong nhật ký của mình ‘trẻ con không được phép chơi đùa, nhưng chúng vẫn chơi đùa mỗi ngày, và ngay trong trường học. Chúng chạy quanh trong rừng, trà trộn và còn đánh lộn với con cái các thợ mỏ than nữa... Chúng không phải là những người ngoan đạo, chúng không có quyền năng và cũng chẳng giữ dược hình thức của đạo giáo’. Khi kể lại chuyện ấy trong tác phẩm của mình nhan đề The Making of a Preacher, W.M. Macgregor ngạc nhiên tự hỏi tại sao có người cố gắng đưa đồng bào mình đến với Thượng Đế mà lại ít thông cảm với họ đến thế!
Trong nhật ký của mình, George Whitefield kể lại một biến cố đã xảy ra trên chiếc tàu đưa ông sang Hoa-kỳ:
‘Được một cơ hội tốt về cái lợi đập tan ý chí của trẻ con kịp thời. Đêm qua khi đi tới đi lui trên tàu (như tôi vẫn làm như thế mỗi đêm) để thăm viếng người đau và theo dõi các tín đồ của mình, tôi nhắc một phụ nữ hãy bảo cậu con trai nhỏ của bà ta cầu nguyện. Bà ta bảo rằng người chị cả của bà ta mới có thể làm được việc ấy, chớ bà ta thì không. Nghe như vậy, tôi bảo thằng bé hãy quỳ ngay xuống trước mặt tôi nhưng nó không chịu, cho đến khi tôi nắm chặt hai chân nó và bắt nó phải quỳ xuống. Rồi tôi bảo nó đọc bài Cầu Nguyện Chung (vì được mẹ nó cho biết là nó có thể đọc dược bài ấy), nhưng nó ngoan cố từ chối, cho đến khi cuối cùng, sau khi tôi đánh nó mấy cái nó mới chịu đọc bài cầu nguyện của nó thật rành rọt như điều người ta trông đợi, nên tôi thưởng cho nó mấy trái vả’.
Susannah Wesley thì nói về việc trưởng dưỡng con cái ‘Điều đầu tiên phải làm là chế phục ý chí của chúng...Tôi nhấn mạnh là phải chế phục ngay ý chí của trẻ con.’
Khi nhớ lại loại thái độ ấy, chúng ta có thể thấy cách rất dễ dàng thế nào ít nhất là một phần nào Hội thánh đã thừa hưởng cái di sản, là nghi ngờ thú vui, và thế nào lạc thú bị xem như một cái gì tự nó vốn là xấu. Và mãi đến tận ngày nay, vẫn còn có những tàn dư của thái độ ấy.
Quả thật bảo rằng người ta có thể biết rõ một người căn cứ vào các thú vui của người ấy, và đối với một xã hội cũng vậy. Những gì một người thích thú là dấu chỉ rõ ràng về phẩm cách của anh ta, và những điều mà một quốc gia gọi là thể thao, sẽ cho thấy phẩm cách của quốc gia dân tộc ấy. Như vậy, nhìn vào các thú vui của xã hội La-mã mà đạo đức học Cơ Đốc đã được truyền giảng tới trước tiên, là điều rất quan trọng.
Sự kiện căn bản trong toàn thể tình hình ở đây, ấy là lúc Cơ Đốc giáo bước vào thế giới, thì thành phố La-mã là bà chúa của cả thế giới, cho nên người công dân La-mã tin quyết rằng lao động là một điều hèn hạ đê tiện, chẳng xứng đáng với mình. Công việc của thế gian - theo như họ nghĩ - là để cho bọn nô lệ làm. Điều đó có nghĩa rằng tại La-mã, có đến 150.000 người hoàn toàn chẳng có việc gì để làm cả, và có 100.000 người nữa, thì công tác của họ chỉ đến giữa trưa là hoàn tất. Cần phải có lối xả hơi cho khối dân chúng ấy; dầu sao thì cũng phải nuôi ăn và có trò vui cho họ tiêu khiển. Do đó mới có câu tục ngữ mà mọi người bấy giờ đều thích ‘Bánh mì và các xiếc (Juvenal, Satires 10:77.81).’Fronto đã bảo rằng dân chúng La-mã bị thu hút bởi hai điều: thực phẩm và các màn trình diễn.
Cũng có người vạch rõ rằng La-mã có nhiều lễ hội công cộng hơn bất kỳ một xã hội nào trong lịch sử. Vào những ngày lễ hội công cộng đó, thì mọi việc đều bị đình chỉ, là dân chúng đổ xô nhau lao vào các trò chơi mà nhà nước cung ứng cho, Dưới thời trị vì của Augustus, mỗi năm có ngày lễ công cộng, dưới thời Tiberius là 87; dưới thời Marcus Aurelius là 135; đến thế kỷ thứ tư là 175. Lúc vận động trường Colosseum được khánh thành dưới thời Titus, đã có 100 ngày liên tục dành cho những cuộc trình diễn và lễ lạc. Lúc Trajan ăn mừng chiến thắng vương quốc Dacia đã có 123 ngày nghỉ lễ công cộng và vui chơi liên tục. Công việc khổ nhọc nhất mà người La-mã phải làm, là theo đuổi thú vui của mình. Vậy chúng ta hãy tìm xem các thú vui ấy là gì.
Ít có giai đoạn nào trong lịch sử, mà việc cờ bạc lại được đam mê đến thế. Juvenal bảo rằng người ta mang đến bàn cờ bạc không phải là một túi bạc, nhưng là cả thùng lớn đựng cả gia tài của mình. Suetonius cho chúng ta biết là Nero đặt vào mỗi lần sóc dĩa một số tiền tương đương với 4.000 Anh kim, vì sóc dĩa là môn cờ bạc rất được ưa chuộng. Khi có tiệc tùng, Augustus thường tặng cho mỗi khách được mời 10 Anh kim để họ có thể cờ bạc cho qua thời gian nếu họ muốn.
Cũng vậy, rất ít có thời đại nào trong lịch sử mà người ta lại chuyên tâm vào việc háu ăn như vậy. Bấy giờ người La-mã đã có thói quen gây nôn trước bữa ăn, vã ngay cả giữa bữa ăn nữa, để có thể ăn ngon miệng hơn. Vitellius chỉ cầm quyền được mấy tháng trong thời gian hỗn loạn tiếp theo sau cái chết của Nero. Hoàng đế dọn một món ăn trong một cái đĩa gọi là Cái khiên của nữ thần inerva. Suetonius nói ‘Đó là sự pha lẫn gan cá đạo (pike) với óc chim trĩ và con công, lưỡi chim hồng hạc với tinh dịch cá chình’ Lúc Vitellius vào thành phố La-mã và nắm quyền làm hoàng đế trong giai đoạn ngắn ngủi ấy, người em của hoàng đế đã đãi một bữa tiệc dọn lên hai ngàn con cá và bảy ngàn con chim. Seneca (Moral Letters, 95.15-29) thì so sánh sự xa hoa thời đó với sự kham khổ của người Spartan đời xưa. Ông nói, ngày nay vấn đề không phải là tìm các thức ăn để thỏa mãn cơn đói, mà là để gợi thèm thuồng. Vô số các loại nước ‘xốt’ đã được nghĩ ra để kích thích tánh tham ăn của người ta. Ngày xưa, thực phẩm dùng để nuôi sống người ta, bây giờ nó là một gánh nặng thêm cho cái dạ dày đã chất chứa quá nặng, quá nhiều rồi. Do đó mà có sắc da xanh xao đặc biệt, sự run rẩy của các bắp thịt đã ngấm rượu, sự gầy ốm đáng ghê tởm do bệnh khó tiêu hóa chớ không phải vì bị đói; do đó mà có chứng mập nước; do đó mà cái bụng chương lên như bụng bò bởi cứ thường ăn nhiều hơn lượng mà nó có thể chứa đựng, do dó mà có bệnh hoàng đản; thân xác bị mục nát từ bên trong; có các chứng bệnh sưng và cứng các khớp xương... Phòng ăn của vị giáo sư, của nhà học giả thì trống rỗng, nhưng các nhà hàng thì bị các đám đông vây kín. Các thợ làm bánh mì thì chộn rộn, những người hầu bàn thì lăng xăng.
‘Biết bao kẻ cứ phải luôn luôn bận rộn để chiều chuộng một cái dạ dày duy nhất mà thôi!’ Và
cần lưu ý rằng không phải là một nhà truyền đạo Cơ Đốc giáo, nhưng là một triết gia khắc kỷ
chịu trách nhiệm đưa ra lời buộc tội này. Đã có một sự giống nhau lạ lùng giữa cái thế giới ấy
với cái thế giới của hậu bán thế kỷ thứ hai mươi đầy dẫy các sòng bạc, các nhà hàng sang trọng,
một thế giới trong đó cái nghèo xác xơ và sự giàu sang phè phỡn tồn tại bên cạnh nhau.
Bấy giờ là thời đại suy thoái của kịch nghệ. Kịch nghệ đã trở thành dâm ô, tục tĩu và đồi trụy.
Nhưng nó còn trở thành một cái gì tồi tệ hơn thế nữa. Nó đã trở thành tàn bạo. Nhiều vở kịch chỉ
nói về một nhân vật tội phạm là sự nghiệp của hắn ta. Trong nhiều trường hợp, một tên tội phạm
thật đóng vai tên tội phạm trong vở kịch. Rồi vở kịch kết thúc bằng màn kẻ phạm tội bị đóng
đinh vào thập tự giá hoặc bị phanh thây trước sự chứng kiến trọn vẹn của khán giả.
Đó là kỷ nguyên vĩ đại của trò đua xe ngựa. Diễn trường lớn nhất là diễn trường Circus
Maximus, dài khoảng hai trăm mét và rộng khoảng sáu chục mét; nó có đủ chỗ cho 385.000 khán
giả. Cuộc đua thường gồm bảy đoạn (vòng). Các xe có thể có đến tám hoặc mười con ngựa kéo.
Điều này có nghĩa là các xe đua phải chạy mười bốn lần quanh những trụ ở khúc quanh, và chính
nơi đó điều mà một nhà văn từng gọi là ‘cuộc đắm tàu đẫm máu’ có thể xảy ra, vì những người
đánh xe đứng trên xe đua để điều khiển chiếc xe với các dây cương buộc quanh thân thể, còn các
bánh xe chạy như bay và những vó ngựa có thể giày xéo lên người tại các khúc quanh đã gây ra
biết bao tai nạn tàn khốc. Công chúng và cả các hoàng đế đều là những cổ động viên cuồng nhiệt
cho những cỗ xe ngựa bạch, ngựa xanh, ngựa xám hay ngựa hồng. Người điều khiển xe đua có
thể kết thúc cuộc đua và trở thành triệu phú. Diocles đã tham dự 4.257 cuộc đua và thắng 1.462
trận để về hưu với 375.000 Anh kim. Chẳng những chỉ có viễn ảnh ảnh một tai họa mới hấp dẫn
được các đám đông; mà đó còn là việc nhà triệu phú đem bạc ngàn ra để đánh cá, còn những
người sống bằng sự bố thí của người khác cũng đánh cuộc đến đồng xu cuối cùng của mình.
Cũng có cả một hệ thống chuyển hoán khiến các tay điều khiển xe lừng danh bị lôi kéo để từ phe
này chạy theo một phe khác. Đua xe ngựa tại La-mã và các cuộc thi tài thể thao vĩ đại ngày nay 73
rất giống nhau không ít ở điểm là các giải thưởng khổng lồ cho bằng tiền thể thao làm cho các
giá trị đích thực hoàn toàn vô nghĩa.
Bấy giờ, như cả thế giới đều biết, là kỷ nguyên của các trò giác đấu. Chính trong những cuộc
đấu này mà thiên hạ có được những cảm giác rộn ràng vui sướng nhất. Con người rách rưới trong
câu chuyện của Petronius chờ đợi những cuộc đấu mà Titus sắp tổ chức. ‘Hoàng đế sắp ban cho
chúng ta chất thép lạnh mà cấm chúng ta chùn bước, một trò chơi đâm chém như tại lò sát sinh
được phơi bày trọn vẹn trong đấu trường’. Cuộc ‘lễ hội máu’ này có sức hấp dẫn lạ lùng.
Alypius, bạn thân của Augustine khi trở thành Cơ-dốc nhân, đã từ bỏ các trò chơi này, nhưng có
lần các bạn bè đã lôi ông ta đến đấu trường với họ. Thoạt tiên, ông ta lấy tay che mặt lại mà
không chịu nhìn, nhưng rồi bầu không khí đã lôi cuốn ông ta và chẳng bao lâu, ông ta cũng hò
hét, hoa tay múa chân và gầm rú như số khán giả kia. Có những người Samnites chiến đấu với
một chiếc khiên to và một thanh gươm ngắn; có những người Thracians chiến đấu với một chiếc
khiên nhỏ và một thanh gươm dài mà cong; có những ‘người cá’ mang khí giới nặng nề, sở dĩ
gọi như vậy vì dấu hiệu con cá trên mũ sắt của họ; có người retiaii là người cầm lưới, vì họ chiến
đấu bằng lưới và chĩa bạ; có những kỵ sĩ cầm những cây giáo dài và những người đánh xe ngựa,
với các bánh xe được thiết kế với những cái giống như lưỡi hái.
Con số các chiến sĩ giác đấu cứ ngày càng tăng. Julius Caesar có 320 cặp giác đấu; Augustus
rêu rao là đưa tới 10.000 người vào trong đấu trường. Trong các trận đấu Dacian của Trajan, có
đến 4.941 cặp giác đấu đánh nhau suốt 120 ngày. Có khi họ đánh tay đôi với nhau. Có khi họ
đánh với thú dữ. Lúc Titus khánh thành đại hí trường của mình vào năm 80 SCN, có 5.000 thú
vật được đem triển lãm và hơn 9.000 con bị giết. Và nhân dịp chiến thắng Dacian của Trajan
năm 107 SCN, có 11.000 con thú đã bị giết.
Nhiều khi các chiến sĩ giác đấu là nô lệ; có khi là các tội phạm; lắm khi là những tù binh và có
khi là những người thích chiến đấu như thế. Đôi khi một chiến sĩ giác đấu đánh nhau nhiều năm
như vậy và khi về hưu được giàu có và danh vọng. Tham vọng lớn lao của một chiến sĩ giác đấu
là có ngày được ban thưởng thanh gươm bằng gỗ, có nghĩa là được nghỉ hưu thật vẻ vang. Lúc
đó người ấy sẽ treo toàn bộ binh giáp của mình tại đền thờ Hercules, và có lẽ được về hưu ở một
thôn ấp để sống và thấy con trai mình trở thành công dân - là có khi người ấy lại trở ra đấu
trường, vì có nhiều chiến sĩ giác đấu có máu chiến đấu trong huyết quản của họ.
Cũng có những trận hải chiến nhân tạo nữa. Có những cái hồ nhân tạo, lắm khi dài tới 600
mét, rộng 700 mét, được đào và làm cho ngập nước, rồi có những trận hải chiến trong đó có đến
19.000 thủy quân tham dự.
Đạo đức học Cơ Đốc thoạt tiên, đã đến với một xã hội háo hức giết người nhân danh thể thao.
Và dấu hiệu quyền năng của đạo đức học Cơ Đốc, ấy là trong lúc nạn cờ bạc, tham ăn và dâm
dục cứ tiếp tục thì sự tàn bạo khát máu đã cáo chung.
Bây giờ, đã đến lúc chúng ta thử quy định vài nguyên tắc để theo dó mà phê phán các lạc thú.
Chúng ta có thể tiếp cận việc này từ hai góc độ khác nhau. Chúng ta có thể tiếp cận nó từ góc độ
tiêu cực để quy định một số nguyên tắc hầu căn cứ vào đó để chối bỏ một vài điều và chúng ta có
thể tiếp cận nó từ góc độ tích cực, để có thể quy định một số trắc nghiệm mà một lạc thú chân
chính cần phải thỏa mãn.
1. Chẳng có một thú vui nào có thể gọi được là đúng, nếu tác động của nó có hại trên kẻ dung
dưỡng nó. Có những thú vui có thể làm hại thân thể người ta và cuối cùng có thể có hậu quả xấu
vĩnh viễn cho sức khỏe của người ấy những thú vui có thể làm cằn cỗi tư chất luân lý của con 74
người. Có những thú vui có thể làm yếu mòn phẩm cách con người và hạ thấp năng lực đề kháng
của người ấy chống lại điều sai quấy. Bất cứ thú vui nào đưa người ta đến chỗ kém thích ứng
hơn về mặt thể chất, kém nhanh nhẹn hơn về mặt tinh thần, kém nhạy bén hơn về mặt luân lý đạo
đức, đều là sai lầm.
Có rất nhiều thí dụ rõ ràng cho điều này. Dùng rượu quá mức hạ thấp khả năng tự chủ của con
người khiến con người dễ làm những việc mà người ấy sẽ không làm khi tỉnh táo tiết độ, tự làm
chủ bản thân. Việc dùng các chất ma túy và các chất kích thích, có thể đưa đến kết thúc là hủy
hoại con người hoàn toàn cả về thể chất lẫn tinh thần. Quá buông thả trong việc ăn nhậu có thể
tạo ra một gánh nặng cho bản thân một người, khi khả năng của cơ thể bị tổn hại. Liên hệ tính
dục bừa bãi có thể đưa người ta đến chỗ mắc nhiều chứng bệnh thảm khốc, chẳng những làm tàn
hại đời sống người ấy, mà còn truyền lại cho những con cái mà người ấy sanh ra.
Có một trong những trắc nghiệm đơn giản nhất cho một thú vui là: Nó đem gì đến cho người
dấn thân vào đó? Nếu nó thật sự có hại, hoặc có cơ nguy gây tai hại, thì nó không thể là đúng
được.
2. Chẳng có thú vui nào có thể là đúng nếu nó gây hậu quả tai hại cho tha nhân. Có những thú
vui gây hậu quả tai hại cho người khác, làm băng hoại tha nhân hoặc về mặt thể chất hoặc về mặt
tinh thần. Dạy người khác làm sai quấy hay mời gọi họ làm như vậy, hoặc làm cho sự việc dễ
dàng hơn để họ có thể làm như vậy, đều không thể là đúng. Dạy kẻ khác phạm tội thì không phải
là một tội nhỏ. Lúc Burns đến Irvine để học cách chải sợi gai, ông gặp một người mà ảnh hưởng
là hoàn toàn xấu. Về sau, ông nói về anh ta ‘Tôi kết bạn với anh ấy là hại cho tôi’. Chính là về
điểm đó mà Chúa Giê-xu đã không tiếc lời để lên án ‘Nhưng nếu ai làm cho một em bé đã theo
ta mất đức tin, thì thà buộc cối đá vào cổ người ấy ném xuống biển còn hơn! Khốn cho thế giới
vì đầy dẫy cạm bẫy tội lỗi! Cạm bẫy tất nhiên phải có nhưng khốn cho ai gài bẫy để người khác
phạm tội!’ (Ma-thi-ơ 18:6,7). Nếu Chúa Giê-xu nói đúng, thì một người được tha tội của chính
mình, còn dễ hơn được tha những tội lỗi mà người ấy đã dạy người khác làm. Một người vốn có
một số quyền hạn nào đó để làm hư hỏng chính cuộc đời mình, nhưng không hề có quyền gì để
tàn phá cuộc đời của bất cứ một ai khác.
Một người luôn luôn cần đến sức thúc đẩy đầu tiên để phạm tội. Thật vậy, sức thúc đẩy ấy
thường xuất phát ngay từ trong lòng chính người ấy. Nhưng hầu như nó luôn luôn cần một ai đó
thúc đẩy, để biến cái ham muốn bên trong đó trở thành một hành động bên ngoài, Và tai hại thay,
điều sai lầm lại thường được ban cho một vẻ hấp dẫn giả tạo. Sử dụng ma túy có thể được tô vẻ
như một cuộc phiêu lưu đầy tự do. Một mối liên hệ bất chính có thể được trình bày như một tình
bạn đẹp đẽ. Thí nghiệm với những điều kinh nghiệm đã chứng minh là nguy hại lại được xem là
sự khẳng định quyền tự do. Hướng dẫn, thuyết phục hay quyến rũ một ai đó làm bất luận một
việc gây tổn thương và tai hại nào, đều phải chịu một trách nhiệm nghiêm trọng và ghê gớm.
3. Một thú vui dẫn tới sự nghiện ngập chẳng bao giờ có thể là điều đúng được. Việc tập thành
một thói quen xấu là một trong những điều khủng khiếp nhất trên đời. Lần đầu tiên một người
làm điều sai quấy, thì người ấy làm mà ngần ngại phân vân và thật khó khăn. Có nhiều hình thức
chìu theo bản thân thật sự khiến ta khó chịu khi mới thử lần đầu nhưng cuối cùng có thể trở
thành sự áp chế mà chúng ta không thoát ra được. Làm lần thứ hai, sự việc sẽ được thi hành dễ
dàng hơn, và cứ thế mà tiếp tục. Sự khó chịu ban đầu sẽ nhường chỗ cho một sự vui thú rồi sẽ có
ngày, người ấy khám phá ra rằng mình không thể bỏ việc ấy. Nó đã trở thành sự nghiện ngập. Có
một người Hy-lạp xưa bảo rằng chỉ có hai câu nói để đặt ra cho bất kỳ một thú vui nào ‘Tôi đang
làm chủ nó?’ hay ‘Tôi bị nó làm chủ?’ ‘Tôi đang cai trị, kiểm soát nó?’ hay ‘nó đang cai trị kiểm 75
soát tôi?’ Giây phút mà một người cảm thấy, có một cái gì đó đang nắm chặt mình đến độ mình
không thể thiếu nó, là lúc người ấy cần được chỉ dạy để bẻ gãy nó trước khi nó bẻ gãy chính
mình. Sự nghiện ngập có thể xảy ra với những thứ hết sức tầm thường như thuốc lá, nó có thể
xảy ra với những thứ nghiêm trọng hơn như rượu; nó có thể xảy ra với các chất ma túy, khiến
người ta bị ‘móc’ mào một loại ma túy nào đó để làm nô lệ cho một điều xấu, điều ác. Thà chẳng
dính dáng chút gì cả với một thú vui, còn hơn có nguy cơ trở thành nghiện ngập. Điều thiết yếu
là ngay chính lúc chúng ta ý thức rằng sự nghiện ngập đang phát triển, thì phải lập tức ngưng
ngay.
4. Một thú vui là sai quấy nếu khi hưởng thụ nó người ta phải xem nhẹ những điều thiết yếu
của dời sống. Một thú vui có thể quá tốn kém, cả khi tự nó vốn là một điều tốt. Một người có thể
phung phí thời gian và tiền bạc cho một trò chơi mà đáng lẽ người ấy phải dành cho gia đình, vợ
con mình. Một người có thể tỏ ra hào hiệp công khai, để chỉ còn lại quá ít cho chính gia đình vợ
con mình. Một người có thể quá tích cực phục vụ cộng đồng, các thanh thiếu niên, hoặc cả Hội
thánh nữa, đến nỗi chỉ còn quá ít thì giờ dành cho chính vợ con mình. ở trên đời, bất cứ điều gì
vượt quá tỷ lệ hợp lý, đều là sai lầm. Hễ khi nào có một thú vui nào lấn chiếm số thì giờ và tiền
bạc đáng lẽ phải dành cho những việc, những người có tầm quan trọng lớn hơn nó trong cuộc
sống, thì dầu tự nó có hay đẹp đến đâu, cũng là sai lầm.
5. Bất cứ một thú vui nào có thể là nguồn gây nguy hiểm cho người khác, đều phải được suy
nghĩ thận trọng. Đến đây, chúng ta cần quay lại với điều mà Phao-lô đã nhấn mạnh là ông sẽ
không ăn uống bất cứ vật gì có thể khiến cho anh em mình vấp phạm (Ro 14:21; 1 Cô 8:13). Ông
sẽ chẳng bao giờ đặt một chướng ngại vật trên lối đi của ai cả (II Cô 6:3). Về những điều này,
chúng ta không thể quy định những luật lệ và quy tắc dứt khoát. Đây là trường hợp mà chính
lương tâm một người phải quyết định trong bối cảnh mình sống. Nhưng người ta sẽ là kẻ ích kỷ
nếu cứ nằng nặc đòi cho chính mình được vui thỏa bất chấp điều đó có thể gây nguy hại cho anh
em mình.
6. Chúng ta có thể kết thúc hàng loạt các nguyên tắc này bằng trắc nghiệm bao quát nhất. Trắc
nghiệm tối hậu đối với bất luận một thú vui nào, là nó có hay không có kèm theo sự hối tiếc về
sau, và thú vui nào sẽ đem đến hối tiếc là sai quấy. Epicurus là một trong số ít các triết gia chủ
trương rằng lạc thú là điều tốt lành, thiện hảo tối cao cho đời sống. Và chúng ta thường dùng từ
ngữ epicurean (người theo thuyết hưởng lạc của Epicurus) để mô tả con người theo đuổi lạc thú.
Nhưng khi làm như vậy là chúng ta đã tỏ ra bất công trầm trọng với Epicurus. Vì Epicurus luôn
nhấn mạnh rằng điều cốt yếu là phải có một quan điểm nhìn lạc thú về lâu về dài, nghĩa là điều
cốt yếu không phải là tìm hiểu ngay bây giờ đây, lạc thú được cảm thấy như thế nào? Nhưng là
trong thời gian sắp tới, ta sẽ cảm thấy nó như thế nào? Do đó mà Epicurus lại là người ít theo
thuyết hưởng lạc nhất. Ông tin tưởng nên ăn bánh mì lạt và uống nước lã, vì một bữa ăn như vậy
sẽ chẳng đưa đến những hậu quả xấu nào cả. Ông tin tưởng vào công lý danh dự, đức chân thành,
trinh khiết, và thành tín, vì chỉ khi nào người ta sống theo các đức hạnh ấy, người ta mới khỏi
phải hối tiếc. Epicurus tin tưởng rằng nếu bạn muốn biến lạc thú thành điều tốt lành thiện hảo tối
cao trong đời sống, thì bạn phải có một cái nhìn về lâu về dài đối với lạc thú đó.
Đây là điều hướng dẫn cuối cùng. Chúng ta phải luôn luôn đặt câu hỏi, không phải chỉ đơn
giản là: Tôi có nên hưởng thụ điều đó ngay bây giờ không. Mà còn cần phải đặt câu hỏi: Tôi sẽ
cảm thấy thế nào về sau? Đây là điều mà ngay một người thận trọng của thế gian cũng biết tự
hỏi, nhưng một Cơ Đốc nhân thì chẳng những phải đặt vấn đề mình sẽ cảm thấy thế nào sau này,
nếu làm một việc nào đó, mà còn phải tự hỏi chẳng hay mình sẽ cảm thấy thế nào trong cõi vĩnh 76
hằng nữa. Nếu quả đúng như thế, thì trắc nghiệm tối cao cho lạc thú, ấy là nó có thể chịu nổi cái
nhìn thử nghiệm của Thượng Đế hay không?
Bây giờ, chúng ta hãy chuyển sang khía cạnh tích cực của vấn dề và chúng ta sẽ cố gắng đề ra
một vài nguyên tắc liên hệ đến quan điểm của Cơ Đốc giáo về lạc thú.
1. Lạc thú là một yếu tố cần thiết cho đời sống, vì nếu không có lạc thú, thì có một phần thiết
yếu của nhân cách toàn diện của con người đã không được đáp ứng trong đời sống con người
điều chắc chắn có nhu cầu căn bản là lao động; nhưng điều chắc chắn tương đương, là còn có
nhu cầu căn bản là vui chơi nữa. Ước muốn vui chơi là do bản năng. Chẳng ai cần phải dạy cho
loài thú vui chơi. Cũng chẳng cần ai phải dạy cho trẻ con vui chơi. Từ rất lâu trước khi trẻ con
đến với các trò chơi có các quy luật đặc biệt mà phải dạy chúng, thì chúng đã biết bày đặt ra các
trò chơi riêng để tự chơi một mình. Tục ngữ có câu ‘Chỉ làm việc mà không chơi đùa sẽ khiến
đứa bé đờ dẫn người đi.’ Không những chỉ khiến nó mụ người đi, mà còn biến nó thành một đứa
bé bất thường nữa.
Sống thì phải lao động, mà sống cũng còn phải giải trí tiêu khiển nữa. Lắm khi giải trí nghĩa là
chẳng làm gì cả, nhưng thông thường hơn thì giải trí có nghĩa là làm điều này điều nọ. Con người
ta vốn có hai bản năng. Một là bản năng tập thể; Con người cần cùng làm việc gì chung với
người khác, con người cần hoạt động trong tình bạn; từ đó mà quan niệm về trò chơi tập thể, theo
đội ngũ, ra đời. Nhưng con người còn có bản năng tranh đua nữa, và trong trò chơi tập thể, bản
năng đua tranh được thỏa mãn một cách vô hại và lành mạnh. Như vậy, thú vui lắp đầy một
khoảng trống thiết yếu trong đời sống con người ta. Không có nó, nhân cách toàn diện của một
người không thể nào phát triển đầy đủ được.
2. Trong bối cảnh tổng quát này, ít nhất lạc thú có hai mục đích và công dụng. Thú vui làm
thư dãn tâm trí. Tâm trí con người cũng có thể mệt mỏi như thân xác vậy. Đến một giai đoạn nào
đó, nó sẽ làm việc chậm chạp, uể oải như một cỗ máy muốn hư vậy. Có những lúc nó làm việc
kém hiệu năng, phạm nhiều sai lầm. Bất cứ ai có sử dụng máy đánh chữ đều biết rằng hễ mình
càng mỏi mệt bao nhiêu, thì sẽ càng đánh sai bấy nhiêu, cho đến một lúc nào đó, việc làm khôn
ngoan hơn hết là phải dừng ngay lại. Trong công kỹ nghệ khi công việc thật sự khổ nhọc thường
có khuynh hướng hiệu năng bị suy giảm dần từ thứ Hai đến thứ Sáu. Cho tâm trí nghỉ ngơi, thư
dãn là điều thiết yếu.
John Cassian kể lại một câu chuyện thật hay về sứ đồ Giăng. Ngày nọ Giăng đang vuốt ve
một con chim đa đa mà ông nuôi. Đúng lúc ấy một triết gia nổi tiếng đến thăm ông, và triết gia
này mặc y phục thợ săn, vì ông ta định sau khi đến thăm Giăng, ông ta sẽ đi săn. Ông ta rất kinh
ngạc khi thấy một người nổi tiếng như Giăng mà lại chơi với một con chim nuôi, nên nói ra ý
nghĩ của mình. Ông bảo rằng ông ta không hề ngờ lại gặp Giăng làm một việc như vậy. Giăng
hỏi ‘Thế ông đang cầm vật gì trên tay đó? Vị triết gia đáp ‘Một cánh cung.’ Giăng hỏi ‘Có phải
ông luôn luôn đem nó đi khắp nơi mà giương lên không?’ Vị triết gia đáp ‘Tất nhiên là không,
nếu tôi cứ giữ nó luôn luôn giương lên chẳng bao lâu nó sẽ mất sức đàn hồi đi, và các mũi tên sẽ
không bay nhanh và trúng đích được.’ Giăng nói điều đó cũng nghiệm đúng đối với tâm trí con
người. Nếu không có những lúc nghỉ ngơi, thư dãn, tâm trí sẽ không thể theo đuổi việc truy tầm
chân lý như nó đáng phải làm. ‘Cánh cung luôn luôn giương lên, chẳng bao lâu sẽ không còn bắn
chuẩn nữa.’ Và tâm trí luôn luôn căng thẳng chẳng bao lâu sẽ không còn làm việc kiến hiệu nữa.
Tất cả mọi người đều cần ít nhiều thư dãn. Có thể người ấy tìm được thư dãn trong sự chẳng
làm gì cả, hoặc để tiêu khiển, người ấy sẽ có một thú vui hoặc một trò chơi; có thể người ấy chơi 77
hoặc nghe nhạc; có thể người ấy đọc một tiểu thuyết trinh thám; có thể người ấy đi câu cá hay để
một giờ xem bộ sưu tập tem của mình hoặc với bộ đồ chơi xe lửa và đường sắt. Khi một tham gia
vào những công việc như vậy vào đúng lúc, thì người ấy không hề phung phí thì giờ của mình.
Người ấy đang tái nạp năng lượng cho tâm trí mình vậy.
3. Lạc thú bồi bổ sức lực cho thân thể. Có hai bậc thầy vĩ đại của đời sống thuộc linh đã vạch
ra rằng nhiều khi một người cảm thấy sinh hoạt thuộc linh của mình như có điều gì trục trặc, bất
ổn thì vấn đề gây rắc rối lại có tính cách thuộc thể chớ không hề thuộc lãnh vực thuộc linh.
Philip Doddridge có một bài giảng về ‘Sự khô hạn thuộc linh’ trong đó ông viết:
‘Xin để tôi đưa ra cho bạn vài lời khuyên rõ ràng liên hệ đến vấn đề đó...Và ở đây, điều đầu
tiên tôi khuyên bạn là nên hết sức thận trọng tra xét xem có phải quả thật sự bối rối hiện tại của
bạn nảy sinh từ các nguyên nhân thuộc linh thật sự không? Hay phải chăng nó có nguồn gốc từ
một rối loạn cơ thể nào đó hoặc trong các hoàn cảnh của đời sống mà quyền năng thần hựu đã
đặt để bạn vào, khiến cho tinh thần bạn suy sụp và tâm trí bạn chán nản?... Tình trạng máu huyết
thường nhất thiết gợi lên những ý tưởng đen tối ngay cả trong những giấc mơ, và không cho tâm
hồn bạn vui thích về bất cứ một điều gì cả; và một khi đã là như vậy tại sao bạn lại tưởng tượng
ra rằng nó xuất phát từ sự không hài lòng nào đó của Thượng Đế, nếu không cảm thấy thích thú
như thường lệ trong đạo giáo?... Trong trường hợp này, bạn nên tìm sự trợ giúp của một bác sĩ,
thay vì tìm cầu sự giúp đỡ của Thượng Đế, hay ít nhất là dùng mọi phương tiện đồng thời với
nhau; và thuốc men, kiêng ăn, tập thể dục và không khí trong lành có thể sẽ có tác dụng ngay chỉ
sau vài tuần lễ, hơn là những lý luận đanh thép nhất, những lời khuyến giục an ủi cảm động nhất
đã thất bại nhiều tháng trời.’
Lời khuyên của Doddridge thật là rõ ràng nếu bạn cảm thấy có gì bất ổn cho trí óc và tâm hồn
mình, trước hết hãy tìm nó thân thân thể của bạn đã. Richard Baxter có một bài giảng có đề mục
là ‘Sự ngợi khen và suy gẫm’ trong đó ông viết:
"Để giúp thêm cho đời sống của thiên đàng này, tôi khuyên bạn chớ chểnh mảng việc chăm
sóc cho sức khỏe của thân thể mình. Thân xác bạn là một tên đầy tớ hữu dụng. Nếu bạn quan tâm
tới nó đúng mức và không quá mức; nhưng nó cũng là một tên bạo chúa tàn ác nhất, nếu bạn
chiều theo các ham muốn vô lý của nó, và nó là một lưỡi dao cùn, nếu bạn bất công từ chối nó
điều vốn là sức tiếp trợ cần thiết cho nó... Có một số người đã hạn chế nhiều niềm vui thiên đàng
của họ bằng cách từ chối thân xác những điều cần thiết cho nó, và như thế là khiến nó không thể
phục vụ họ được; nếu làm như vậy chỉ làm tổn hại tới xác thịt họ thôi thì chẳng có gì quan trọng
lắm; nhưng còn làm tổn hại tới cả linh hồn họ nữa, như kẻ cướp phá một ngôi nhà thì cũng gây
thiệt hại cho những người ở trong nhà vậy. Khi thân thể đau yếu và tâm linh mòn mỏi, thì chúng
ta khó mà thong dong trong những tư tưởng và niềm vui thiên đàng được!’
Như vậy, hai bậc thầy vĩ đại của đời sống thuộc linh đă quy định rằng đường lối dễ gây tổn
hại cho đời sống thuộc linh nhất là bỏ bê thân thể. Sự thật là có nhiều người có thể lao động được
tốt hơn nếu được vui chơi nhiều hơn. Lạc thú là điều làm thư dãn tâm trí và làm tươi mát thân
thể, và nếu một người bảo rằng mình không có thì giờ cho công việc đó thì chẳng hay ho gì mà
chỉ là một dấu hiệu của sự thiếu khôn ngoan nghiêm trọng mà thôi.
Trong bản tuyên ngôn năm 1520 có đề mục là Về Quyền tự do của Cơ Đốc nhân, Luther viết:
‘Có một phần vụ của Cơ Đốc nhân là phải chăm sóc chính thân thể mình nhằm một mục đích là,
nhờ sự lành mạnh và an vui của nó, người ấy có thể lao động, tích lũy và giữ gìn tài sản hầu trợ
giúp những người đói khổ, và như vậy, một thành viên mạnh mẽ hơn có thể phục vụ một thành 78
viên yếu đuối hơn, để chúng ta có thể là những con cái của Thượng Đế biết lo nghĩ đến nhau và
bận rộn cho nhau, gánh nặng lẫn cho nhau và như thế là làm trọn luật pháp của Chúa Cứu Thế.’
Dường như Luther muốn nói rằng, nếu không phải là vì bản thân, thì cũng vì tha nhân và vì phải
phục vụ họ với tư cách một Cơ Đốc nhân, mà Cơ Đốc nhân cần phải chăm sóc thân thể mình.
Nhưng các nguyên tắc tổng quát luôn luôn phải được trắc nghiệm bằng những ứng dụng riêng
biệt. Do đó, có một số thú vui mà chúng ta phải nhìn vào bằng ánh sáng của đạo đức Cơ Đốc.
Chúng tôi xin chọn ra ba, bởi vì chúng nằm trong cấu trúc của xã hội hiện đại.
I. Trước hết là việc cờ bạc. Chưa hề có một thời đại nào mà không có chuyện cờ bạc, vì cờ
bạc được xem chẳng khác gì một bản năng của con người. Những số liệu của thời hiện đại sẽ làm
cho chúng ta choáng váng. Có khoảng 1.000.000.000 Anh kim bị đổi chủ hằng năm trong việc
đánh cuộc. Năm 1965, các số liệu như sau: Số tiền đánh cá các cuộc đua chó (greyhound) lên
đến 110.000.000 Anh kim; đánh cá về túc cầu là 73.000.000 Anh kim; cá ngựa 615.000.000
Anh kim, đánh cá lẻ tẻ về túc cầu 65.000.000 Anh kim về đánh lô tô 35.000.000 Anh kim. Năm
ấy, đã có 15.500 điểm để đánh cá. Có 12.000.000 người tham dự đánh cá túc cầu mỗi tuần (Điều
thú vị đáng lưu ý là sau khi chính phú đã đánh thuế, và sau khi đã tính xong mọi chi phí, chỉ còn
khoảng 0,8 trên một Anh kim để chia cho những người thắng cuộc). Có 12.363 nhà đánh lô tô,
và thành viên các câu lạc bộ lô tô tổng cộng trên 14.250.000 người. Tiền do tham gia chơi lô tô
ngoài tiền đánh cá và niên liểm thành viên câu lạc bộ, lên tới 11.700.000 Anh kim. Đây quả thật
là những con số khiến người ta phải choáng váng (TC R.H.Fuller and B.K.Rice, pp. 80,81). Khi
chúng ta xét toàn diện vấn đề này, có hai sự kiện thuộc về bối cảnh tổng quát cần phải chú ý.
a. Hình thức cờ bạc phổ quát nhất là đánh cá về túc cầu. Những cuộc đánh cá này đã bắt
đầu từ ba hoặc bốn mươi năm trước. Nghĩa là chúng đã bắt đầu vào lúc nạn thất nghiệp luôn luôn
đe dọa và khi mà đời sống của người công nhân thường xuyên không được bảo đảm. Trong
những năm đầu và giữa những thập niên ba mươi, việc đánh cá như vậy không nảy sinh từ một
cái gì giống như một cơn sốt cờ bạc. Nó nảy sinh từ một giấc mơ đơn giản và đáng thương tìm
sự an toàn cho người lao dộng. Phải chi anh ta có tiền vừa dủ để đương đầu với sự đe dọa bị mất
việc mà không khiếp sợ. Anh ta luôn luôn sống trên bờ vực thẳm của việc có thể bị thất nghiệp,
cho nên thấy đó chính là lối thoát cho mình. Nhưng ngày nay thì không phải như vậy nữa. Trong
thời đại của xã hội giàu sang, ước muốn của người ta không phải chi là để tồn tại cho qua ngày;
nó là ước muốn sống xa hoa - là một việc khác hẳn. Yếu tố đáng thương hại đã không còn ở đó
nữa.
b. Trong cơ cấu xã hội hiện nay, có một yếu tố khác. Sự kiện đơn giản là khó có một con
đường nào khác đưa người ta đến chỗ thật sự được giàu có ngoài những số trúng thưởng lớn đă
được công bố. Theo cơ cấu thu thuế hiện nay, nếu một người có lợi tức là 24.000 Anh kim một
năm, thì phải nộp Anh kim thuế lợi tức 18.000; nếu người ấy có lợi tức là 100.000 Anh kim một
năm, thì 83.000 Anh kim trong số đó phải đem nộp thuế. Phương cách nhanh chóng, để có tiền
và giữ được tiền là thắng một cuộc đánh cá lớn.
Các yếu tố trên đang tiếp tay củng cố nạn cờ bạc và đưa nó trong bối cảnh xã hội đương thời.
Trong Kinh Thánh, không thấy có câu định nghĩa dứt khoát nào về cờ bạc; chúng ta không thể
viện dẫn văn bản này hoặc bản văn nọ; chúng ta phải tiếp cận vấn đề bằng các nguyên tắc đầu
tiên.
1. Tốt nhất là người cờ bạc nên bắt đầu đối diện với sự kiện là mọi cơ may đều chống lại
mình. Các hi vọng thua cuộc vốn có nhiều hơn, so với hy vọng thắng cuộc, và các hi vọng được 79
trúng lớn tất nhiên là hết sức mong manh.
2. Ít có những hoạt động nào lại chi phối con người như cờ bạc . Các bà vợ thường bảo với
nhau rằng thà chồng họ say còn hơn là chồng họ cờ bạc. Cờ bạc có thể là một cơn sốt đẩy người
ta đến chỗ chẳng còn một xu dính túi. Vào một sòng bạc để theo dõi những con bạc chuyên
nghiệp trổ tài, là một kinh nghiệm sầu thảm. Có một sự im lặng ảm đạm, lạnh lùng và chết người
và gương mặt của họ vô cùng xa vời với điều mà bình thường mà chúng ta vẫn gọi là một thú
vui.
3. Thiết tưởng nhắc đến hậu quả của việc đem cờ bạc vào trong thể thao cũng không phải là
bất hợp thời. Người ta có thể tiêm các chất kích thích cho ngựa và cho chó; hiếm hoi hơn nữa, là
các tay chơi cũng có thể bị mua chuộc để ăn hối lộ mà bán độ. Cờ bạc thường là đồng minh của
tội ác.
4. Theo quan điểm đạo đức học của Cơ Đốc giáo, việc chống cờ bạc có thể được đặt cơ sở
trên hai điều:
a. Về căn bản, cờ bạc là một nỗ lực để có dược nhiều tiền mà khỏi phải lao động. Nó là nỗ
lực muốn trở thành giàu có mà khỏi phải đóng góp gì cho công ích cả. Kẻ cờ bạc chẳng sản xuất
gì cả, nhưng lại hy vọng được thâu lợi nhiều. Cờ bạc là một nỗ lực cố tình qua mặt nguyên tắc xã
hội cốt yếu là phần thưởng phải dành cho người lao động sản xuất. Nói trắng ra, cờ bạc lại là nỗ
lực muốn được tiền mà khỏi phải làm gì cả.
Trong cờ bạc, tất cả những gì một người thâu được vốn đặt cơ sở trên việc có một ai đó bị mất
bị thua. Muốn có một kẻ thắng thì phải có một người thua. Vận may của người này vốn có cơ sở
là vận rủi của người kia. Những gì mà người thắng có được, là những mất mát của kẻ bị thua,
những mất mát mà kẻ thua cuộc thường rất khó có thể chịu đựng nổi.
Có người lý luận rằng người ta có thể chơi xổ số, vì nó vô hại. Đó chính là điều có thể bắt đầu
kích thích lòng tham của con người mà rốt cuộc sẽ gây hậu quả vô cùng trầm trọng. Thật là điều
rất tốt, nếu Cơ Đốc nhân và Hội thánh đừng dính dáng chi tới chuyện cờ bạc vốn đã đạt đến tầm
vóc một tệ nạn đe doạ xã hội ngày nay rồi.
II. Còn việc sử dụng ma tuý nữa. Sử dụng ma tuý có thể sẽ là vấn đề rắc rối nhất cho thế hệ
ngày nay.
1. Chúng ta đang sống trong một xã hội biết rõ công dụng của các dược liệu và các chất
ma tuý. Chúng ta đang sống một cuộc đời bị những viên thuốc khống chế. Thiên hạ trông mong
được cung cấp chất thuốc an thần để trấn an mình, hoặc một thứ thuốc kích thích để giục lòng
phấn khởi của họ; và chúng ta còn lâm cả vào tình trạng kỳ cục của một người vừa muốn có một
viên thuốc an thần để ve vuốt vỗ về mình, đồng thời với một viên thuốc kích thích để cất đi phần
tinh thần bị suy sụp do chất thuốc an thần tạo ra. Chẳng có ai còn nghi ngờ gì về việc các chất ấy
đều vốn có công dụng hợp lý và hữu ích. Nhưng vấn đề rắc rối căn bản liên hệ đến chúng, ấy là
từ nguồn gốc, chúng là sự cố tình muốn vượt thoát. Chúng ít khi chữa lành được cho ai; tất cả
những gì chúng làm được chỉ là che giấu hoặc đeo mặt nạ cho các triệu chứng bằng chiếc áo
choàng của sự êm lặng giả tạo. Về căn bản và nguồn gốc thì dó là một nỗ lực muốn trốn khỏi
thực tại - mà vấn đề rắc rối là thực tại lại có cách riêng của nó để bắt lấy chúng ta. Chẳng hề có
một dược chất nào trên đời lại có thể vĩnh viễn trấn an người ta đem họ vào sự an bình, hoặc kích
thích đưa dẫn người ta vào hành động. Hiệu lực của chúng chỉ là tạm thời, khi hết tác dụng
chúng bỏ lại người dùng thuốc chẳng có gì thay đổi - và đó chính là vấn đề. Chúng chỉ là một nỗ80
lực giải quyết một vấn đề bằng cách chạy trốn nó.
2. Tuy vấn đề này quan trọng như vậy, nó vẫn chưa nghiêm trọng bằng vấn đề của các chất
ma túy nguy hiểm. Cơ nguy của các chất ma túy, ấy là chúng tạo ra một cảm giác mà tự nó có
thể là một sự khoái cảm trong những giai đoạn đầu. Các thanh thiếu niên vẫn tưởng rằng cứ thử
cho biết thì mình sẽ khôn ra. Có những kẻ bán dạo ma tuý lợi dụng ngay cơ hội ấy, và chắc chắn
chẳng có cảnh hỏa ngục nào ghê rợn bằng cảnh dành cho kẻ làm giàu bằng việc tàn hại cả thể
xác lẫn tâm hồn người khác. Xin chúng ta đừng bao giờ lầm lẫn trong vấn đề này. Con đường
dẫn tới các chất ma túy nặng và chết người, là qua các chất ma túy tưởng chừng đã được làm
giảm bớt sự độc hại của chúng. Lúc tôi viết mấy dòng này, có một bài báo trên tờ Scotsman hôm
nay, kể lại câu chuyện của một người. Anh ta đã bắt đầu với chất cần sa mà người ta đãi mình
trong một quán rượu, rồi anh ta tiếp tục với các dược chất amphetamines và methadrine; anh ta
tiến tới việc dùng bạch phiến và tiêm vào tĩnh mạch các chất thuốc ngủ; và anh ta kết thúc bằng
sự nghiện ngập chất morphine. Người bạn thân nhất của anh ấy là một nạn nhân của ma túy -
chắc chắn sẽ chết vì ‘tự sát từ từ bằng những chất ma túy nặng’ và chắc chắn là anh ta sẽ chẳng
bao giờ bị rơi vào giai đoạn tự hủy hoại cả thân xác lẫn tâm hồn mình này nếu không bắt đầu
bằng việc ‘thử’ chất cần sa. Chẳng một người có ý thức nào lại chịu thử tìm một chút khoái cảm
có thể kết thúc bằng việc giết người một cách khủng khiếp như vậy.
Đạo đức học Cơ Đốc phải chống lại việc ấy. Tự do tất nhiên là quan trọng, nhưng tự do không
hề ban cho con người ta quyền tự do tự phá huỷ và quyền tự do đem cái chết đi bán dạo.
III. Bây giờ chúng ta đến với đặc điểm thứ ba của các lạc thú của xã hội hiện nay, là lạc thú
nhậu nhẹt, uống rượu. Đây là một thú vui phổ biến nhất, và cũng là thú vui được đem ra bàn cãi
tranh luận nhiều nhất. Chỉ lấy một hình thức uống rượu mà thôi, thì số lượng bia sản xuất hằng
năm là 29.500.000 thùng, và con số được sử dụng là 5.800.000.000 lít (1.032.000.00O gallons).
Trong mười năm giữa 1955 và 1965, số người bị tòa án hình sự buộc tội say sưa đã tăng trưởng
khoảng 60 phần trăm. Tại Anh quốc có ít nhất là 400.000 người nghiện rượu, trong số đó cứ năm
người thì có một phụ nữ. Về trường hợp cờ bạc và sử dụng ma túy, chứng cớ hiển nhiên trong
Kinh Thánh vốn ít ỏi và có phần thì hiếm hoi nữa; về trường hợp uống rượu thì khá đầy đủ
nhưng không thuần nhất. Chúng tôi xin bắt đầu nêu ra phần chứng cứ trong Kinh Thánh, trước
hết là từ Cựu Ước:
1. Đối với những người trong Cựu Ước, thì các thức ăn uống chính là lúa mì, rượu là dầu.
Với họ thì nói đến lúa mì, rượu và dầu thì chẳng khác gì chúng ta ngày nay nói về bánh mì và bơ
vậy. Không có vấn đề kiêng cữ rượu. Cả trong khi gặp nạn đói, trẻ con cũng bảo với mẹ chúng
‘Tìm thóc và rượu ở đâu?’ (Nhã 2:12). Bất cứ lúc nào dân Palestine muốn đề cập lương thực căn
bản, họ đều nói đến bánh mì và rượu (Sáng 27:37; I Sa 16:20; 25:18; II Sa 16:1, l Sử 12:40; II Sử
2:10, 15; Nêhêmi 5:l l, 18; 10:37, 39; 13:5, 12; Gióp 1:13; Giê 40:10,12). Điều nên nhớ là họ
uống rượu nho theo tỷ lệ là hai phần rượu với ba phần nước lã.
2. Khi bị thiếu bánh mì và rượu, thì dó là dấu hiệu có sự hình phạt của Thượng Đế. Việc ấy
xảy ra khi dân chúng không vâng lời Thượng Đế và đi theo đường lối riêng (Phục 28:39; .Êsai
16:10; 24:9). Trong ngày đoán phạt khi niềm vui tan biến và sự hoan lạc bị cất đi, thì ‘người ta
kêu la trong đường phố vì cớ rượu’ (Êsai 24:7,11). Trong những ngày phước hạnh, thì lời mời
gọi là hãy đến mua sữa và rượu (Êsai 55:1). Chính Thượng Đế là Đấng ban thóc lúa, rượu và
dầu, mà cũng chính Ngài là Đấng có quyền giữ chúng lại (Phục 28:51, Ôsê 2:9; Aghê 1:11).
3. Thảm kịch xảy ra là khi một người lao động khổ nhọc mà chẳng bao giờ được hưởng 81
rượu và dầu của mình (Ôsê 9:2; Giôên 1:10). Hòa bình và thịnh vượng được định nghĩa là khi
một người được lao động ngay trong vườn nho của riêng mình và được hưởng các hoa lợi của nó
(Amốt 5:1l; Michê 6:15; Sô 1:13).
4. Lúa mì, rượu và dầu là ân huệ của Thượng Đế. Lời chúc phước của Y-sác là ‘Cầu xin
Đức Chúa Trời cho con... được ...dư dật lúa mì cùng rượu’ (Sáng 27:28). Đất hứa là nơi của ngũ
cốc và rượu (Phục 33:28;. Êsai 36:17). ‘Hãy tôn vinh Đức Giê-hô-va, thì các thùng lớn của con
sẽ đầy rượu’ (Châm 5:10, Phục 7:13). Lầm lỗi của dân Y-sơ-ra-ên là đã không thấy rằng chính
Thượng Đế đã ban cho họ lúa mì, rượu và dầu’ (Êsai 65:8).
Rõ ràng theo Cựu Ước thì ngũ cốc, rượu và dầu là các ân huệ của Thượng Đế. Điều chắc chắn
là họ đã phạm tội lạm dụng chúng; chắc chắn là họ đã gặp những điều nguy hiểm; nhưng họ vốn
được quyền tự do hưởng thụ.
Còn một mặt khác nữa của bức tranh. Tội say sưa đã bị quở trách vì cớ sự sỉ nhục của Nô-ê
(Sáng 9:21-24); tội loạn luân của Lót (Sáng 19:20-38); nó dự phần trong vụ sát hại U-ri (II Sa l
l:13) và Am-môn (II Sa 13:23-29). Có một điều luật dành cho các thầy tế lễ: ‘Khi nào vào hội
mạc, ngươi và các con trai ngươi chớ nên uống rượu’ (Lêvi 10:9; Êxê 44:21). Đứa con phản loạn
tham ăn và say sưa thì có thể bị xử tử vì tội đó (Phục 21:20). Một phần của lời thề nguyện của
người Na-xi-rê là phải tạm thời kiêng cữ rượu (Dân 6:3; Amốt 2:12). Giêrêmi đã nói về người
người Rê-cáp là những người vĩnh viễn kiêng cữ rượu (Giê 35. Chính cái quan điểm nước đôi
này đã tạo vấn đề cho chúng ta.
1. Trong Cựu Ước, có nhiều khúc sách ca ngợi vị ngon của rượu và khuyên người ta nên dùng
nó. Nó là một phần trong thiết bị thường xuyên có trong đến thờ, tuy không dành cho các thầy tế
lễ đang thi hành nhiệm vụ (I Sử 9:29). Nó là một phần các hoa quả đầu mùa mà những người Lê-
vi được hưởng (Phục 18:4). Nó thuộc về một phần mười phải được ‘ăn trước mặt Đức Giê-hô-
va’ (Phục 14:22-27). ‘Tại trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi... người phải ăn mọi thức
chi mình ước ao’. Rượu là một phần thường xuyên phải có trong của lễ hằng ngày (Xuất 29:40).
Rượu là một phần có tính cách tiêu chuẩn trong hệ thống dâng tế lễ (Dân 15:5-10; 28:7-14).
Rượu tiêu biểu cho cái gì tốt nhất và vui vẻ nhất. Chỉ có tình yêu thương mới hơn được rượu
mà thôi (Nhã 1:2, 4; 4:10, 7:9). Rượu là một phần trong bữa tiệc khôn ngoan (Châm 9:2,5). Rượu
khiến cho các thần và loài người vui vẻ, phấn khởi (Quan-xét 9:13), Thượng Đế ban nó là để làm
cho lòng người ta vui vẻ (Thi l04:15). Nó phải được cấp cho những người bị kiệt sức trong đồng
vắng (II Sa 16:2). Rượu dư thừa là bức tranh của thời đại hoàng kim hầu đến. ‘Chúng sẽ trồng
vườn nho và uống rượu nó’ (Amốt 9:14; Giô-ên 2:24; 3:18; Êsai 25: 6; 62:8). ‘Họ sẽ đến và hát
về nơi cao của Si-ôn... về lúa mì, rượu mới, dầu...’ (Giê 31:12). Nhà Truyền đạo nói ‘Hãy đi, ăn
bánh cách vui mừng, và uống rượu cách hớn hở, vì Đức Chúa Trời đã nhận các công việc
ngươi.’. "Người ta bày tiệc đặng vui chơi; rượu khiến cho đời vui; có tiền bạc thì ứng cho mọi
sự’(một cảm nghĩ kỳ dị được tìm thấy trong Kinh Thánh!) (Truyền 9:7, 10:19).
Cựu Ước nói rất nhiều về niềm vui và sự thích thú đến từ rượu mà Thượng Đế đã ban cho loài
người.
2. Nhưng cũng còn một phương diện khác nữa trong Cựu Ước, Cựu Ước ý thức rất rõ sự nguy
hiểm của rượu. Văn phẩm thận trọng về sự Khôn ngoan đã nhấn mạnh hết sức tự nhiên điều đó
‘Rượu khiến người ta nhạo báng, đồ uống say làm cho hỗn hào; phàm ai dùng nó quá độ, chẳng
phải là khôn ngoan’ (Châm 20:1) ‘Ai ưa rượu với dầu sẽ chẳng hề làm giàu’ (Châm 21:17).
‘Bợm nhậu và kẻ láu ăn sẽ trở nên nghèo’ (Châm 21 :17; 23:21). Có hai đoạn dài trong sách 82
Châm ngôn cần phải được trích dẫn đầy đủ:
Ai bị sự hoạn nạn? Ai phải buồn thảm?
Ai có sự tranh cạnh? Ai than xiết?
Ai bị thương tích vô cớ? Ai có con mắt đỏ?
Tất cả những kẻ nán trễ bên rượu
Đi nếm thứ rượu pha.
Chớ xem ngó rượu khi nó đỏ hồng,
Lúc nó chiếu sao trong ly
Và tuôn chảy dễ dàng;
Rốt lại, nó cắn như rắn,
Chích như rắn lục;
Hai mắt nó sẽ nhìn người dâm phụ,
Và lòng con sẽ nói điều gian tà.
Thật, con sẽ như người nằm giữa đáy biển
Khác nào kẻ nằm trên chót cột buồm vậy.
Con sẽ nói rằng: người ta đập tôi, nhưng tôi không đau;
Người ta đánh tôi, song tôi không nghe biết;
Khi tôi tỉnh dậy, tôi sẽ trở lại tìm uống nó nữa (Châm 23:29-35)
Hỡi Lê-mu-ên, chẳng xứng hiệp cho các vua
Chẳng xứng hiệp cho các vua uống rượu,
Hay là cho các quan trưởng nói rằng: Vật uống say ở đâu?
E chúng uống, quên luật pháp,
Và làm hư sự xét đoán của người khốn khổ chăng.
Hãy ban vật uống say cho người gần chết
Và rượu cho người có lòng bị cay đắng;
Họ hãy uống và quên nỗi nghèo khổ mình,
Chẳng nhớ đến đều cực nhọc của mình nữa (Châm 31:4-7)
Người ta phải chờ cho đến các nhà tiên tri với khuynh hướng đạo đức học mạnh mẽ của họ,
mới ý thức nhiều đến các cơ nguy của rượu. Ô-sê nói ‘Rượu cũ và rượu mới cất lấy hết trí khôn
chúng nó’ (Ôsê 4:11l). ‘Các quan trưởng vì sự nóng của rượu mà đau ốm’ (Ôsê 7:5). ‘Nó nghiện
rượu, làm sự dối trá’ (Ha. 2:5)
Các nhà tiên tri không hề xót thương tội nghiện rượu. Êsai nói ‘Khốn thay cho mão triều thiên
kiêu ngạo của những bợm rượu Ép-ra-im (Êsai 28:1). ‘Những kẻ ấy cũng choáng váng vì rượu,
xiêu tó vì các thứ rượu mạnh, bị rượu nuốt đi, nhơn các thứ rượu mạnh mà xoàng ba (choáng
váng); xem sự hiện thấy thì cắt nghĩa sai, xử kiện thì vấp ngã; mửa ra ô uế đầy bàn tiệc, chẳng có
chỗ nào sạch" (Êsai 28:7,8). ‘Khốn thay cho kẻ dậy sớm đặng tìm kiếm rượu, chầy đến ban đêm,
phát nóng vì rượu’ (Êsai..5:4) ‘Khốn thay cho kẻ mạnh uống rượu, có sức lực đặng pha các thức
uống hay say; vì hối lộ mà xưng kẻ có tội là công bình, và cướp lấy sự công bình của người
nghĩa’ (Êsai 5:22). Ê-sai quở trách những kẻ bảo rằng ‘Hãy ăn uống đi, vì ngày mai chúng ta sẽ
chết.’ ‘Hãy đến, ta sẽ lấy rượu, chúng ta say vì rượu mạnh, ngày mai sẽ như ngày nay, trọng thể
quá bội’ (Êsai 22:13; 56:12).
Trên đây là chứng cứ của Cựu Ước. Để tóm tắt, Cựu Ước nhìn rượu như một trong những ân
huệ tốt lành mà Thượng Đế ban cho; đã không có chỗ nào đòi hỏi phải hoàn toàn kiêng cữ rượu;
nhưng đã không hề có quyển sách nào lại ý thức rõ ràng hơn về các nguy cơ của nó, và không 83
tiếc lời lên án việc lạm dụng nó.
Sau cùng, chúng ta quay sang phần chứng cứ của Tân Ước. Trong Tân Ước, số tài liệu không
nhiều đến như vậy, nhưng chúng ta cũng gặp cùng một thái độ như thế nói chung. Chính Chúa
Giê-xu cũng không hoàn toàn kiêng cữ rượu, thiên hạ còn có thể gièm pha Ngài, gọi Ngài và kẻ
ham ăn mê uống (Ma l l:19; Lu-ca 7:34). Phép lạ tại Ca-na trong xứ Ga-li-lê cho thấy Chúa Giê-
xu sẵn sàng chia xẻ các niềm vui đơn sơ với mọi người nhân một tiệc cưới (Giăng .2:l-l l). Phao-
lô có thể viết thư khuyên Ti-mô-thê ‘Vì dạ dày yếu và hay đau ốm, con nên uống tí rượu nho,
chứ đừng uống nước lạnh mãi’ (ITi 5:23).
Nhưng trong Tân Ước cũng có lời cảnh cáo nữa. Người quản gia bất trung trong ẩn dụ thì ăn
uống say sưa (Ma 24:49). Phao-lô bảo ‘Đừng say rượu, vì say sưa là phóng đãng’ (Êphêsô 5:8}.
Khi Tân Ước liệt kê tội lỗi, thì các tội lỗi mà Cơ Đốc nhân không nên dự phần vào như ăn chơi,
say sưa, chè chén thường xuất hiện trong số những điều bị cấm đoán (Rôm 13:13, I Cô 6:10;
Galati 5:21). Có nhiều lần nạn say sưa chè chén xâm nhập cả vào Hội thánh và những Bữa Ăn
Yêu Thương của Hội thánh nữa (I Cô 11:21; II Phi 2:13) và có nhiều kẻ bị cảnh cáo là đã say sưa
về đêm (I Tê 5:7). Riêng những người có chức vị trong Hội Thánh được cảnh cáo không nên quá
độ bất cứ về phương diện nào. Không nên giao du với kẻ say sưa (I Cô 5:ll). Các bà lớn tuổi
không nên nghiện rượu (Tít 2:3). Các chấp sự không được làm nô lệ cho rượu, còn các giám mục
thì không được say rượu (I Ti 3:8; 3:3; Tít l:7).
Có một khúc sách cần được khảo xét đặc biệt. Câu nói trong Côlôse 2:24 thường được dùng
làm chứng cứ cho việc phải hoàn toàn kiêng cữ ‘Không ăn, không nếm, không đụng chạm’.
Đúng ra thì sự việc phải là trái hẳn lại. Trong khúc sách ấy, Phao-lô đang đề cập số người truyền
giảng một thứ khắc khổ chủ nghĩa giả tạo; họ cố đưa vào nhiều luật lệ mới liên hệ đến các thức
ăn mà họ cấm người ta ăn vật này, vật nọ v.v... Câu nói ấy là câu nói của bọn tà giáo, đang cố
dẫn dắt người ta đi sai chánh đạo. Chính bọn tà giáo và đám giáo sư lầm lạc và muốn dẫn người
ta đi sai lạc, mới nói ‘Không ăn, không nếm, không đụng chạm’ và bản dịch diễn ý Tân Ước đã
làm sáng tỏ sự việc bằng cách đặt câu ấy trong hai dấu ngoặc kép, cho thấy câu ấy đã được trích
dẫn từ các giáo sư giả theo tà giáo. Trong câu ấy không bảo chúng ta điều phải làm, nhưng là
điều không nên theo.
Vậy, trên đây là chứng cứ trong Tân tước. Một lần nữa, không có câu nào đòi hỏi phải hoàn
toàn kiêng cữ trong những lời nói lẫn trong gương mẫu của Chúa Giê-xu hoặc của những người
theo Ngài, nhưng có một lời cảnh cáo mạnh mẽ chống lại việc lạm dụng và nguy cơ của việc
uống rượu. Trong trường hợp này, chúng ta không có luật lệ hay quy tắc nào để dựa vào cả.
Chúng ta phải tự đi tìm kết luận lấy.
Trước khi chúng ta bắt đầu dưa ra một quan điểm liên hệ đến vấn đế phải kiêng cữ hoàn toàn,
hay thái độ của Cơ Đốc nhân đối với việc uống rượu, chúng ta cần lưu ý rằng đây là một vấn đề
tương đối mới mẻ. Chúng ta đã thấy cả Cựu Ước lẫn Tân Ước đều không nêu lên vấn đề ấy. Cả
đến các nhà cải chánh cũng không chống lại việc uống rượu. Luther vẫn uống rượu (wine: rượu
chát, rượu nho), uống bia. Lúc ông ẩn mình trong lâu đài Wartburg, ông đã viết thư cho Spalatin
rằng ‘về phần tôi, tôi cứ ngồi đây suốt ngày, tha hồ nhấm nháp ly rượu của tôi. Tôi đang đọc
Kinh Thánh Hy văn và Hy-bá-lai văn’. John Kessler thì kể lại thế nào ông và một sinh viên khác
đã gặp Luther trong một quán trọ, và thoạt tiên đã không nhận ra đó là Luther. Luther đang trả
tiền bữa ăn chính trong ngày của mình. Kessler kể lại câu chuyện đáng yêu ấy như sau ‘Rồi ông
ta (Luther) nâng một cốc bia và nói theo kiểu người dân xứ ấy: ‘Nào hai anh bạn người Thụy sĩ
kia, chúng ta hãy cùng nhau nốc cạn cốc bia thân hữu này. Cầu Chúa ban ân huệ buổi tối cho các
bạn!’ Nhưng khi tôi đến nhận cốc bia từ tay ông ta, thì ông ta đổi ý và nói ‘Chắc các bạn không 84
quen dùng loại bia kỳ quái này của chúng tôi đâu; vậy thay vào đó, chúng ta hãy uống rượu vang
đi!.’ Trong bài giảng của ông năm 1522 tại Wittenberg, Luther bảo rằng công việc đang tiến triển
không phải là do ông làm đâu; đó là công việc của Lời Thượng Đế. ‘Tôi chỉ giảng dạy và viết lời
Thượng Đế; ngoài ra tôi chẳng có làm gì khác. Và trong lúc tôi ngủ (TC Mác 4:26-29) hoặc cùng
uống bia Wittenberg với các bạn Philip (Melanchthon) và (Nicholasvon), Amsdorf của tôi, thì
Lời Chúa đã làm suy yếu Ngôi giáo hoàng rất nhiều đến nỗi không có một vị vua hay hoàng đế
nào đã từng gây nổi những tổn thất như thế. Tôi đã chẳng làm được gì cả; chính Lời Chúa đã làm
tất cả’. Luther đã không hề nghĩ tới kiêng cữ rượu. Những người theo giáo hội Giám lý nguyên
thủy. Charles Wesley viết cho vợ mình là Sally rằng ‘một ly rượu vang giúp cho chứng khó ở
của ông. Và ông luôn luôn mang theo rượu nho Madeira trong các chuyến du hành của ông’
(Frederick C.Gill. Charles Wesley, the first Methodist, p. 174). Lúc Geogre Whitefield chuẩn bị
đi Hoa-kỳ, trong số nhiều vật khác mà ông dự trữ, ông mang theo mình ‘một thùng (nhỏ) bơ, phó
mát Cheshire, phó mát Gloucesterchire, một trăm trái chanh, hai thùng rượu vang trắng ngon, ba
thùng nho khô’ (Arnold Dallimore, George Whitefield, p.l44). Thói quen của Thomas Chalmers
nổi tiếng về cuốn disruption, khá lý thú. Quyết định của ông là mỗi lần ngồi xuống thì ‘không
uống quá ba ly rượu vang’. Tiến sĩ Mc Donald of Fertntish là một nhà truyền đạo lừng danh đến
nỗi người ta gọi ông là vị sứ đồ cho miền Bắc. Sử gia Cunningham kể lại cho chúng ta về ông
rằng ‘Hai mươi hoặc mười lăm ly rượu whisky mỗi ngày khiến lòng ông vui vẻ và chỉ tạo ra một
vầng hào quang đẹp đẽ trên gương mặt ông mà thôi’ (Ian Henderson, Scotland: King and People,
pp.100, 101). Căn cứ vào một nguồn tin khác chúng tôi được biết là hồi tháng chín 1824 tại
Glasgow, trong hầm rượu của Thomas Chalmers có: 71 chai Madeira; 41 chai rượu ngọt (port);
14 chai Sherry; 22 chai rượu Teneriffe; 10 chai rượu chát đỏ, và 44 chai whisky.
Mặt khác, William Booth rất cương quyết chống uống rượu. Trong tình trạng của thời đại
mình, ông không thể nào dùng rượu. Richard Collier mô tả khung cảnh tại Luân đôn ‘100.000
quán rượu đặt sát cạnh nhau kéo dài trọn 30 dặm. Chỉ tại phía Đông của Luân đôn mà thôi, tức là
trung tâm của lãnh thổ của Booth, cứ năm tiệm thì có một hàng bán rượu mạnh (gin); phần lớn
đều xây những tam cấp đặc biệt để cả đến những em nhỏ cũng có thể đến dược quầy trả tiền. Các
quán rượu có những ly rượu mạnh giá một xu cho trẻ con; trẻ con nghiện rượu cần được bơm dạ
dày là điều quá thường. Trẻ con dưới năm tuổi đã biết những cơn hấp hối như diên như dại gây
nói sảng hoặc đã chết vì chứng xơ gan. Nhiều đứa khác uể oải, lê gót suốt ngày Chúa nhật ngoài
phố để mang thêm rượu mạnh về cho cha mẹ chúng đang nằm say khướt trên giường với nguyên
cả quần áo vừa nôn mửa ra sàn nhà. Đó là các phó phẩm của việc mua bán rượu trị giá 100 triệu
Anh kim mỗi năm mà các nạn nhân của nó thì nằm ngủ trên những đống bồ hóng dưới các gầm
cầu Blackfriars, chỉ sống để uống ly rượu tiếp theo (The General next to God, p:53). Đứng trên
lập trường thực tiễn, Booth kiên quyết chống lại việc uống rượu, còn đạo quân Cứu Thế của ông
thì đã và vẫn thề nguyện hoàn toàn kiêng cữ rượu.
1. Việc uống rượu thịnh hành trong mọi giai tầng xã hội chứng minh rõ ràng tính cách hấp
dẫn của nó. Nó khiến người ta dễ khuây khỏa, làm thư dãn các căng thẳng và khiến bầu không
khí xã giao được dễ dàng. Đôi khi nó được sử dụng làm thuốc, như điều Phao-lô đã khuyên Ti-
mô-thê là một thí dụ. Thiết tưởng chúng ta chẳng cần bàn cãi gì về tính cách hấp dẫn của nó; nó
đã có ngay đó rồi.
2. Nhưng thêm vào tính cách hấp dẫn còn có những nguy hiểm rõ rệt.
a. Có một sự kiện là tác dụng của rượu trên một con người là hoàn toàn không thể tiên
đoán. Một người có thể uống rất nhiều rượu mà không có hậu quả xấu nào thấy được; người khác
chỉ cần uống tí chút, là đã say rồi; một người khác nữa hầu như có thể tạng khiến anh ta thành kẻ
nghiện rượu, nên có thể bất kỳ uống một chút rượu nào vào cũng sẽ gây ra những hậu quả tàn hại 85
nhất. Tất cả các hậu quả ấy đều không thể tiên liệu được. Chỉ có việc thí nghiệm mới cho biết
một người sẽ phản ứng như thế nào, và có thể nói rằng chính việc thí nghiệm đã mang theo nó
một cơ nguy khiến cho việc thử làm thành ra một điều thiếu khôn ngoan.
b. Có nguy cơ uống quá độ. Thật ra thì sự quá độ nảy sinh với bất cứ một lạc thú nào, và
Kinh Thánh vốn cảnh cáo về tật ham ăn cũng mạnh mẽ như cảnh cáo chống việc say sưa; nhưng
say rượu là một điều đặc biệt xấu xa cho kẻ say và là điều đặc biệt bất hạnh đối với những ai
sống chung với người ấy và cùng chung đụng với người ấy trong một gia đình.
c. Cùng với rượu cũng nảy sinh vấn đề nghiện rượu. Một trong những đặc điểm của rượu
ấy là với thời gian, nó cứ đòi hỏi một số lượng ngày càng tăng mới có thể tạo ra được cùng một
tác dụng. Điều mà thoạt đầu là một thú vui, cuối cùng sẽ trở thành một thèm muốn có sức áp
đảo. Một khi tập quán đã thành hình, thì dứt bỏ nó là điều vô cùng khó khăn. Một người nên suy
nghĩ kỹ trước khi bắt đầu làm một việc gì mà cuối cùng có thể biến mình thành nô lệ cho nó.
d. Rồi còn vấn đề tiêu phí. Ngày nay, nhậu nhẹt là một trong những thú vui đắt tiền nhất;
và người ta có thể tiêu hoang một cách xa xỉ điều mà đáng lẽ ra phải sử dụng cho các nhu cầu
thiết yếu.
e. Và các tác dụng tổng quát của rượu. Nó có thể làm sút kém hiệu năng và khiến cho trí óc
mụ mẫm. Nó có thể làm chậm lại các phản xạ và phản ứng của người ấy do đó mà luật pháp đã
tỏ ra nghiêm khắc đối với những người đã uống rượu mà còn lái xe. Nó có thể khiến người ta nói
năng không rõ ràng. Nhưng nó còn có một tác dụng tự nó vốn nghiêm trọng hơn bất kỳ một tác
dụng nào khác. Rượu không những làm thư dãn các căng thẳng mà nó còn khiến người ta lơi
lỏng việc tự kìm chế để có thể làm và nói những điều mà khi tỉnh táo, đương sự chẳng bao giờ
làm hoặc nói. Đặc biệt là nó khiến người ta chểnh mảng việc tự kiểm soát về phương diện luân lý
đạo đức, cho nên tội tà dâm và rượu rất thường có liên hệ chặt chẽ với nhau. Nhất là nếu uống
quá chén, rượu khiến người ta có những cách đối đãi ứng xử mà bình thường đương sự chẳng
bao giờ có. Như vậy, rượu đã chứa sẵn sự nguy hiểm ngay trong chính nó rồi.
Tất cả những điều trên đều đúng, nhưng tất cả những điều đó vẫn không giải quyết được vấn
đề. Tất cả những điều vừa kể trên đều có thể đúng với hầu hết các thú vui quá độ. Có nhiều chất
ma túy có thể đồng thời vừa nguy hiểm, vừa hữu ích. Có nhiều tập quán khi làm vừa phải thì hữu
ích, nhưng khi đi quá mức, thì có hại. Nếu người uống rượu có thể làm hại cho dạ dày và lá gan
của mình, thì người hút thuốc lá tạo nguy hiểm cho hai lá phổi, còn người thường xuyên ăn quá
nhiều và vận động quá ít có nguy cơ bị loét dạ dày và bị nghẽn động mạch. Luận cứ về sự nguy
hiểm đối với thể xác vẫn không phải là một luận cứ dễ thuyết phục được người ta, bởi vì họ có
thể trả lời hết sức đơn giản rằng họ biết rõ các cơ nguy đó, nhưng đã tự chọn việc phải đương
đầu với chúng.
Rốt lại, luận cứ duy nhất nhằm chống lại việc lạm dụng rượu, là luận cứ về trách nhiệm đối
với người anh em của chúng ta. Ở đây, chúng ta gặp mối căng thẳng lâu đời giữa tự do và trách
nhiệm. Phao-lô từng vạch ra hết sức rõ ràng rằng chẳng có ai được quyền quy định cho người
khác phải ăn gì, uống gì (Côlôse 2:21). Khúc sách cổ điển là trong Rôma 14:l-8. Ở đây, Phao-lô
không chịu đứng ra làm trọng tài giữa những người chủ trương nhiều ý kiến khác nhau về những
việc làm nào là phải là đúng. Nếu một người cho rằng theo lương tâm của người thì việc mình
đang làm là đúng dưới mắt Thượng Đế, thì chẳng ai có thể phê bình người ấy được. Mặt khác về
phía trách nhiệm chúng ta cũng chẳng bao giờ được gây cớ vấp phạm cho anh em mình qua
những gì mình ăn hoặc uống (I Cô 8:13; Rôm 14:20, 21). Tự do của người mạnh chẳng bao giờ
nên biến thành tảng đá vấp chân cho người yếu (I Cô 8:9). Chắc chắn là mọi việc đều hợp pháp
cả nhưng không phải tất cả mọi việc đều giúp ích, và chúng ta không nên để cho bất cứ việc gì 86
làm chủ cai trị mình (I Cô 6:12).
Nhưng ngay đến điều đó cũng không giải thoát chúng ta khỏi việc phải tự chọn cho mình. Các
trước giả Kinh Thánh, Phao-lô, cũng như chính Chúa Giê-xu đều biết rõ các nguy cơ của việc
uống rượu như mỗi chúng ta, vì mỗi một thế hệ đều biết rõ nghiện rượu có nghĩa là gì, thế
nhưng, tuy các vị đều lên án việc uống rượu quá độ không chút phân vân, chẳng có ai đòi hỏi
phải hoàn toàn kiêng cử. Quyền quyết định dược dành cho chúng ta, và chúng ta phải làm công
việc ấy bằng cả tâm hồn, lẫn lương tâm của mình, và có người sẽ quyết định thế này, người khác
sẽ quyết đinh thế khác - mà mọi người đều được tự do làm như vậy.
Có một đều phải tránh, là việc căn cứ vào sự công chính riêng của mình để cấm đoán người
khác. Trong quyển The Making of a Preacher, W.M. Macgregor nói ‘Gần sáu năm trước đây, tôi
biết một phụ nữ cộc cằn, khó tính, sống một mình trong một căn phòng buồn tẻ, rõ ràng là chẳng
được ai trợ cấp gì ngoài số trợ cấp của Hội thánh và của bố thí họa hoằn mới có. Những người
hàng xóm vốn ghét giọng lưỡi chua ngoa của bà ta, cho nên bà ta ít khi thoát được cảnh cô đơn,
nhưng thỉnh thoảng bà ta lại bắt đầu một chuyến ‘hành hương’, đi một vòng đến với những người
quen biết mà ít nhất mọi người cũng cho bà ta được một xu, cho nên mỗi lần đánh một vòng như
vậy là bà ta có đủ tiền để tha hồ nhậu nhẹt. Việc bà ta cố tình làm đó từng bị mọi người lên án,
và bà ta cũng từng bị gọi đến và tố cáo là một tội nhân đặc biệt, nhưng chỉ có một lần, tôi nghe
nói, bà ta đã trả lời rằng ‘Phải chăng các ông cũng không cho tôi được cơ hội duy nhất để quét
sạch bầy quỉ dữ bằng một cốc whisky?’ Cơ may độc nhất của bà ta để thoát khỏi bầy quỉ dữ, căn
nhà tồi tàn mà bà ta đang sống, là thỉnh thoảng được uống rượu.
Cho dầu chúng ta có nói gì khác, và cho dầu chúng ta có đứng trên lập trường nào đi chăng
nữa, những ai trong chúng ta có mái gia đình êm ấm, hạnh phúc, đều không nên quá khe khắt với
một người mà câu lạc bộ duy nhất họ có thể tui tới là quán rượu; những ai trong chúng ta có
đông đảo bạn bè, không nên quá khe khắt với một con người cô độc phải đến với quán rượu để
tìm bạn; những ai trong chúng ta chẳng có nỗi lo sợ căng thẳng nào cả, thì không nên quá khe
khắt với người đang phải đi tìm sự nghỉ ngơi thư dãn bằng cách uống rượu.
Chúng ta chẳng có thể làm gì hơn là thả nổi để mỗi người tự quyết định lấy cho mình. Chúng
ta không phải là người canh giữ lương tâm cho bất cứ ai cả. Nhưng người đã bị kết án về một tội
này, thì không nên kết án một người khác vì một tội khác.
Sống trên đời phải có lạc thú, mà lạc thú lý tưởng nhất là thú vui không làm phương hại cho
người thụ hưởng, và cho tất cả mọi người khác, đem đến lợi ích cho người thực thi nó và hạnh
phúc cho nhiều người khác nữa. 87