Chương bảy
CƠ ĐỐC NHÂN VÀ TIỀN BẠC CỦA MÌNH
Thiết tưởng cần nhìn tình hình theo bối cảnh đó chúng ta thảo luận đây về Cơ Đốc nhân và tiền bạc của người ấy. Về những dữ kiện trích dẫn trong phần đầu của bài thảo luận này, tôi mang ơn rất nhiều cuốn Cơ Đốc giáo và xã hội giàu sang (Christianity and the Affluent Society), của Reginald H.Fuller và Brian K.Rice (trang 63-149). Quyển sách ấy đã được xuất bản năm 1966, các số liệu thống kê trong đó tuy là về năm 1965, nhưng liên quan tới một tình hình không mấy thay đổi, ngoại trừ sự gia tăng cường độ. Vậy chúng ta hãy nhìn vào tình hình hiện nay.
1. Chúng ta đang sống trong tình hình được gọi là xã hội giàu sang. Trong quyển sách nhan đề Christian thics and Secular Society (Đạo Đức Cơ Đốc và Xã Hội Thế Tục), F.R.Barry không phủ nhận là sự nghèo khó vẫn tồn tại, nhưng bảo rằng đối với đại đa số các Cơ Đốc nhân bây giờ là lúc phải kêu gọi làm thánh hóa của cải.’ Brian K.Rice (sđd, tr.170) viết: Sự giàu sang trong tay những con người sa ngã là thanh gươm hai lưỡi gồm có phước hạnh và nguồn gốc của nhiều điều xấu xa gian ác.’ Giàu sang, của cải là những từ ngữ then chốt.
Uỷ ban Thương Mại soạn thảo bảng chỉ số giá sinh hoạt, và chỉ số này căn cứ trên giá cả của những thứ được cho là thuộc phần trang bị cho một gia đình thông thường. Năm 1900 thì cả bơ lẫn điện đều không có trong bảng liệt kê này. Năm 1962 có máy giặt và máy thu hình TV. Năm 1938 giá mua một chiếc xe hơi là tiền lương của sáu mươi lăm tuần lễ lao động; bây giờ thì giá của nó là ba mươi sáu tuần lễ rưỡi tiền lương. Trong năm gia đình thì có hai nhà có xe hơi và một trong số mười gia đình có nhiều hơn một chiếc. Số nợ mua chịu toàn quốc năm 1965 là l.378.000.000 Anh kim, nghĩa là 21,16 Anh kim cho mỗi đầu người nam, người nữ và trẻ con trong xứ. Có khoảng mười bốn triệu giấy phép sử dụng máy hỗn hợp vừa thu hình TV và thu thanh, và ba triệu giấy phép khác cho các máy thu thanh mà thôi. Trong mười năm trước 1965, các nhà có tủ lạnh từ 8,l đã tăng vọt lên tới 41 phần trăm. Năm 1965, có năm triệu người đi nghỉ hè ở ngoại quốc và chi phí lên đến 200.000.000 Anh kim, và khoảng một phần tư trong số đó còn nghỉ hè lên thứ hai nữa ở nhà. Chỉ riêng chi phí chụp ảnh khi đi nghĩ hè của họ cũng đã là 70.000.000 Anh kim! Cả nước tiêu khoảng l.330.000.000 Anh kim mỗi năm cho thuốc lá, trong đó 1.000.000.000 Anh kim là tiền thuế. Tám mươi sáu phần trăm tư gia trong nước có máy thâu hình TV (và có lẽ có đến hai triệu máy chẳng bao giờ nộp thuế để có giấy phép sử dụng). Mỗi năm, số chi cho đồ trang điểm và mỹ phẩm là 100.000.000 Anh kim, cho việc sửa soạn đầu tóc là 40.000.000 Anh kim, cho việc cắt uốn tóc là 70.000.000 Anh kim. Mỗi ngày chi phí cho quảng cáo là 2.000.000 Anh kim.
Đó là loại xã hội trong đó chúng ta đang sống; đó là ý nghĩa của xã hội giàu sang.
2. Nhưng xã hội này còn có một mặt khác nữa. Brian K. Rice nói, ‘Những điều đang nở rộ giữa sự thịnh vượng của chúng ta là bệnh phong tình, loạn trí, quịt nợ, thiếu niên phạm pháp, nghiện ma tuý, cướp bóc, phá sản và tội ác.’ Hãy nhìn vào một ít các sự kiện này.
Bất cứ lúc nào cũng có 200.000 bệnh nhân loạn trí nằm trong bệnh viện. Thật vậy, phân nửa số bệnh nhân nằm trong các bệnh viện đều mắc một hình thức này hoặc hình thức khác của bệnh tâm thần. Có 7.000 vụ tự tử trong một năm, và số người muốn tự tử gấp mười lần so đó mỗi năm.
Có lẽ đã có đến 500.000 người Anh từng ‘thử’ cất đi mạng sống của mình. Thế nhưng tỷ lệ tự tử tại Anh quốc là tương đối thấp. Bên Áo, tỷ lệ tự tử là 24,9 phần ngàn, ở Đan-mạch 23,5; ở Phần lan 22.9; ở Thụy sĩ 22,6; ở Thụy Điển 21,1; tại Anh quốc là 12,3. Các vụ tự tử bằng cách dùng ma túy quá liều tăng từ 787 lên l.038 vụ trong một năm. Trong mười lăm năm sau nầy, các vụ tự tử bằng cách dùng thuốc an thần đã tăng lên gấp mười, còn những trường hợp tìm cách tự tử bằng cách dùng thuốc an thần thì từ 8.000 đã lên đến 10.000 vụ một năm.
Bất kỳ lúc nào cũng có 30.000 người ở tù. Trước chiến tranh có 3.000 tội ác về hành hung cá nhân mỗi năm, hiện nay thì có hơn 20.000.
Bất chấp sự giàu sang của xã hội, có l.500.000 gia đình không có cầu vệ sinh trong nhà; 3.640.000 nhà không có phòng tắm có bồn; ba triệu không có vòi nước nóng; và 246.000 không có cả một vòi nước lạnh nữa. Hai ngàn người ngủ ngoài trời tại Luân đôn mỗi đêm.
Bên cạnh sự giàu sang là nhiều điều khủng khiếp, cảnh nghèo khổ, nhà ở tồi tàn, trông càng tệ hại khi so sánh với sự giàu sang chung.
3. Lại còn một nghịch lý khác nữa. Theo một phương diện đây là một tình hình tạo ra được rất nhiều cơ hội tốt. Có một chương trình y tế lưu ý kỹ nhất đến mọi người. Hiện nay chẳng còn lý do gì để bất kỳ một thanh niên nào có đầy đủ khả năng cần thiết lại không được vào đại học. Hầu như hiện có những khả năng vô giới hạn để tăng gia sản xuất, với tiền lương cao hơn, nhiều đồ vật hơn để mua sắm, thú giải trí tiêu khiển gia tăng. Theo một nghĩa thì nhìn về phía trước là một viễn ảnh gây chóng mặt.
4. Nhưng cũng có một mặt khác của việc này, mà Brian K. Rice đã cung cấp một số sự kiện từ Hoa-kỳ cho chúng ta đề tài nghiêm trọng để suy nghĩ.
Sự phát triển nổi bật tại Hoa-kỳ là sự ra đời của máy tính và các hệ thống điện tử. Tốc độ việc ấy xảy ra được chứng minh bằng sự kiện là năm 1958, tại Hoa Kỳ chỉ có 450 máy tính. Sau đây là một số những sự việc đã và đang xảy ra.
Tại Hoa-kỳ, máy vi tính và các hệ thống điện tử đang làm cho từ 40.000 đến 70.000 người bị mất việc làm mỗi tuần. Ngay tại xứ sở rất tiến bộ và rất giàu có này có khoảng từ ba mươi triệu đến bốn mươi triệu người đang sống trong cảnh nghèo khó và chen chúc nhau ‘trong những xóm nhà tồi tàn, các trại di dân lao động, các khu vực sa sút, những nơi dành cho người Da Đỏ.’ Ít nhất cũng có đến ba mươi triệu người đang thiếu ăn tại Hoa-kỳ. Tại sao vậy?
Một công ty ở Michigan cung cấp điện cho 50.000 gia đình đã cho thôi việc 300 người ghi đồng hồ điện và phân nửa số nhân viên văn phòng của mình, vì giờ đây các khách hàng được nối với một máy tính để ghi lượng điện tiêu thụ, tính toán lập hoá đơn, và ghi địa chỉ lên phong bì.
Trong một xưởng chế tạo xe hơi, có một máy vi tính có thể làm sổ lương cho 26.000 công nhân, phân biệt các bậc lương, giờ làm phụ trội và tất cả mọi việc khác, chỉ trong nửa tiếng đồng hồ.
Có một cỗ máy có thể in một quyển sách 300 trang trong ba giờ. Một cơ quan trong chính phủ phụ trách việc trợ cấp hưu bổng đã có thể giảm bớt số nhân viên từ 17.000 người xuống còn 3.000. Tại Chicago, có một xưởng chế tạo máy thu thanh có thể sản xuất l.000 máy thu thanh bán dẫn mỗi ngày bằng một dây chuyền điện tử, và cả dây chuyền này chỉ do hai người điều khiển - thay vì 200 người như trước kia. Có một xưởng vô chai có thể súc, đổ đầy, đóng nút và vô thùng 200.000 chai mỗi ngày, với toàn thể nhân viên chỉ gồm ba người. Tòa nhà giao lưu điện thoại ở Nữu ước cao đến 20 tầng và thực hiện nhiều triệu điện đàm một ngày; toàn thể nhân viên chỉ có năm người, hai người thi hành nhiêm vụ và ba người là nhân viên trực. Hãng buôn Macy's đã thí nghiệm một người máy có thể bán ba mươi loại y phục khác nhau, mỗi loại gồm mười kiểu và
kích cỡ, biết thâu và thối tiền, và sẽ kêu thét lên khi có người cố ý trả bằng tiền giả.
Điều đang xảy ra thật là hiển nhiên. Từ sau chiến tranh, đã có 400.000 thợ mỏ; 250.000 công nhân thép; 300.000 công nhân dệt bị mất việc; và cả tiến trình này đang chỉ mới ở giai đoạn bắt đầu.
Brian K.Rice viện dẫn một nhân vật quan trọng trong ngành lao động ‘Chẳng có yếu tố nào là phước hạnh trong việc tự động hoá cả. Nó đang nhanh chóng trở thành một sự nguyền rủa thật sự cho xã hội, và nó có thể đưa chúng ta đến một thảm họa toàn quốc.’ Câu hỏi mà ông Rice đặt ra là: Khi nào con người không còn cần thiết nữa? Đã có người gợi ý rằng rồi đây sẽ có ngày một người có vợ và một con sẽ được trả 100 Mỹ kim một ngày để nghỉ ở nhà. Cho nên có người nói ‘Xã hội phải chấp nhận sự kiện là lao động mà chúng ta biết cuối cùng sẽ phải biến mất đi. Con người với tư cách một công cụ lao động đang lao đầu vào chỗ bị phế thải.’ Và hậu quả đã thấy, ấy là sự nghèo đói và thất nghiệp đang hoành hành tại Hoa-kỳ trên một quy mô người ta chưa
từng thấy tại Anh quốc.
Đó là bối cảnh của tình hình hiện tại của chúng ta. Ngay trong xứ này, chúng ta vẫn chưa chạm mặt với toàn diện vấn đề. Nếu chúng ta có đủ khôn ngoan để làm việc đó, chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm của người khác về cách phải đối phó với nó. Nhưng đây là các nghịch lý của một xã hội giàu sang trong đó thiên hạ làm tiền, tiêu tiền, tặng tiền và để dành tiền bạc của họ.
Vậy chúng ta hãy đến với Kinh Thánh để xem sách ấy dạy gì về sự giàu có và của cải. Chúng ta bắt đầu với Cựu Ước và tìm thấy có rất nhiều chất liệu trong đó.
1. Đã có người nói - và cũng như phần lớn các bài thơ châm biếm đều có chỗ đúng cũng như chỗ sai của chúng - rằng sự thịnh vượng là phước hạnh của Cựu Ước và là điều bất hạnh của Tân Ước. Cựu Ước cho rằng người tốt lành thiện hảo thì được vinh hoa và hưng vượng; còn Tân Ước lại cho rằng cho người ấy sẽ gặp hoạn nạn và khó khăn.
Quả thật là trong Cựu Ước, đã có một dòng tư tưởng mạnh mẽ kết hợp sự tốt lành thiện hảo với sự thịnh vượng và sự gian ác với nghịch cảnh, như điều mà các bạn thân của Gióp đã bày tỏ.
Thật vậy sự việc có ý nghĩa vô cùng là sau khi Gióp trải qua tất cả hoạn nạn khó khăn ấy, cuối cùng ông lại được phục hồi địa vị và càng được thịnh vượng hơn (Gióp 42:l-17). ‘Trước tôi trẻ rày đã già, nhưng chẳng hề thấy người công bình bị bỏ, hay là dòng dõi người đi ăn mày’ (Thi 37:25). Phần thưởng cho lòng khiêm tốn và kính sợ Thượng Đế là của cải, sự tôn trọng và sự sống (Châm 10:22). Phước lành của Thượng Đế làm cho giàu có (Châm 10:22). Sự giàu có và của cải ở trong nhà người kính sợ Đức Giê-hô-va (Thi 112:3). Sự khôn ngoan cầm sự trường thọ trong tay hữu nó, và cầm sự giàu có và vinh hiển trong tay tả nó. Sự giàu có, sự tôn trọng, của cải bền lâu và sự công bình đều ở với sự khôn ngoan (Châm 3:16; 8:l8). Cựu Ước kết hợp sự tốt lành thiện hảo với sự thịnh vượng.
2. Trong Cựu Ước, có một dòng tư tưởng nhìn thấy con đường đẫn đến hạnh phúc là không có 90 quá nhiều, mà cũng không có quá ít. Người khôn ngoan cầu nguyện với Thượng Đế rằng ‘Chớ cho tôi nghèo khổ hoặc sự giàu sang; hãy nuôi con đủ vật thực cần dùng. E khi no đủ, con từ chối Chúa, mà rằng Đức Giê-hô-va là ai? Và lại kẻo e tôi bị nghèo khổ ăn trộm cắp, và làm ô danh của Đức Chúa Trời tôi chăng?’ (Châm 30:8, 9). Điều này hết sức phù hợp với đạo lý trung dung của người Hy-lạp.
3. Cựu Ước nói chắc chắn rằng sự thịnh vượng là một ơn phước Trời ban, và đừng có ai nên quên rằng sự việc vốn là như vậy. Nhà Truyền đạo nói về con người được Thượng Đế ban cho sự giàu có, của cải và quyền thế để hưởng thụ. ông bảo ‘Ấy là một sự ban cho của Đức Chúa Trời’
(Truyền 5:19). Mà nếu sự giàu có vốn là của Thượng Đế ban cho, thì con người ta phải sử dụng nó với tư cách người quản lý nó cho Ngài.
4. Sự giàu có không rơi vào lòng kẻ chẳng chịu cố gắng chi cả. Người khôn ngoan nói ‘tay biếng nhác làm cho nghèo hèn, còn tay kẻ siêng năng làm cho được giàu có’ (Châm 10:4). Như Hesiod là người Hy-lạp nói các thần đã đặt mồ hôi làm giá phải trả cho mọi việc tốt lành.
5. Sự giàu có có thể đem đến một thứ an ninh ‘Tài vật người giàu, ấy là cái thành kiên cố của người’ (Châm 18:11; 10:15). Trong nhiều việc, sự giàu có có thể che chở cho một người. Có một câu tục ngữ Tô-cách-lan nói rằng ‘Đau buồn không đến nỗi đau đớn lắm, khi còn có một ổ bánh mì.’ Bị bỏ mặc một mình bao giờ cũng là điều đau khổ, nhưng bị bỏ mặc trong cảnh bần cùng là điều còn tệ hại hơn.
6. Nhưng cả khi có một thứ an ninh nào đó trong sự giàu có thì trong nó cũng có một khiếm khuyết cơ bản nữa. ‘Kẻ nào tin cậy nơi của cải mình sẽ bị xiêu ngã; còn người công bình được xanh tươi như lá cây’ (Châm 11:28). Sự giàu có không hề thay thế cho phẩm cách và sự thiện hảo. Sự khôn ngoan ban cho người ta các của cải bền lâu (Châm 8:18). Khi đụng chạm đến vấn đề đối diện với sự phán xét của Thượng Đế, thì của cải chẳng có ích lợi gì; chính sự công chính mới giải cứu được cho người ta khỏi chết (Châm 11:4). Cả khi của cải người ta cứ gia tăng, người ta cũng không được đặt lòng tin cậy của mình vào đó (Thi 62:10). Chúng không tồn tại lâu dài; của cải không luôn còn mãi (Châm 27:24). Sự giàu có có thể là một ân tứ Trời ban, nhưng nó không phải là tất cả.
7. Trong điều kiện tốt nhất thì sự giàu có cũng chỉ là điều tốt lành thứ yếu. Thà chọn được danh tiếng, tốt còn hơn là có nhiều của cải và ân huệ (ơn nghĩa) vốn quý hơn vàng bạc (Châm 22:1). Của cải người công bình tuy ít, còn hơn sự dư dật của nhiều người ác (Thi 37:16). Người lao động ngủ ngon hơn kẻ giàu có (Truyền 5:12). Kẻ chuyên tâm tìm kiếm của cải chỉ là người cận thị (Châm 28:22). Khi người ta chết thì chẳng mang gì theo được (Thi 49:16). Con người ta trần truồng vào thế gian, thì sẽ trần truồng mà từ bỏ nó (Gióp 1:21). Một người ra khỏi lòng mẹ thế nào, thì cũng sẽ quay trở về đó y như thế. Công lao khó nhọc của người ấy không hề được người ấy mang theo trong tay mình. Người ấy chỉ lao khổ vô ích, theo luồng gió thổi mà thôi (Truyền 5:15, 16). Người khôn ngoan nên thôi phấn đấu để làm giàu. ‘Con chớ chịu vật vã đặng làm giàu... Con há liếc mắt vào sự giàu có sao?... Nó đã chẳng còn nữa rồi. Vì nó quả hẳn có mọc cánh và bay lên trời như chim ưng vậy’ (Châm 23:4, 5).
Kẻ nào phó cả cuộc đời mình cho điều mình không thể nào đem theo với mình và có thể bị mất đi bất cứ lúc nào thì thật là dại dột.
8. Có trường hợp của cải còn có thể ngăn trở chớ không giúp ích được cho người ta. Một người có thể cứ giàu chỉ để làm hại cho mình (Truyền 5:13). Làm giàu một cách sai trái thì chẳng được ích lợi gì, ‘đến nửa đời, nó phải mất hết, cuối cùng nó là ngu dại’ (Giê 17:11). Của cải có thể khiến một người chẳng quan tâm gì đến Thượng Đế và đồng bào mình nữa. Anh ta sẽ đặt câu hỏi: Làm thế nào Thượng Đế biết được? Kẻ ác cảm thấy thoải mái về sự vô tâm của mình, cho đến ngày phải tính sổ (Thi 73:12). Sẽ có ngày người công chính sẽ chê cười ‘kẻ nào không nhờ cậy Đức Chúa Trời làm sức lực mình, song nhờ cậy nơi sự giàu có hiếm hiệm của mình’ (Thi 52:7).
9. Không ai nghi ngờ là của cải của một người khiến anh ta có thế lực hơn đồng bào mình ‘Người giàu quản hạt kẻ nghèo, kẻ nào mượn là tôi tớ của kẻ cho mượn’ (Châm 22:7). Của cải khiến người ta được nổi tiếng một phần nào. ‘Người nghèo khó dầu láng giềng cũng ghét bỏ;
nhưng bằng hữu của người giàu thì nhiều thay’ (Châm 14:20). Của cải có thể cùng đem theo với nó sự kiêu ngạo và tự cao, và đó là những tội lỗi báo trước sự suy sụp. ‘Người nghèo có thể dùng đến các biện pháp thương lượng, nhưng kẻ giàu thì trả lời cộc lốc’ (Châm 28:11, theo bản Anh văn). Người khôn ngoan chẳng bao giờ khoe của hay khoe sự khôn ngoan của mình, cũng như người mạnh sức không hề nên khoe khoang về sức lực của mình (Giê 9:23). Kẻ giàu có khuynh hướng trở thành cuồng bạo (Mi chê 6:12). Của cải có thể khiến người ta trở thành một kẻ hết sức tồi tệ, mà có của cải không phải là tội, nhưng nó là mối đe dọa cho phẩm cách con người mà thôi.
10. Ít nhất là cũng có một lần trong Cựu Ước kẻ giàu đồng nghĩa với kẻ ác. Kinh Thánh chép về người đầy tớ thống khổ rằng người ta đặt mồ người chung với kẻ ác và với một kẻ giàu sau khi người chết đi (Êsai 53:9).
Các trước giả Cựu Ước vốn biết sự giàu có là một ân phúc Trời ban, nhưng các vị cũng biết rằng nó có thể ngăn cách người ta với Thượng Đế và với đồng bào mình. Các vị biết rằng của cải là điều tốt lành cho người ta thụ hưởng, nhưng cũng là một điều xấu xa để đặt lòng tin cậy vào đó, hay cống hiến cả cuộc đời cho nó.
Chúng ta sẽ càng được soi sáng nhiều hơn về vấn đề này, nếu xét xem Cựu Ước đã nói gì về kẻ nghèo.
Cựu Ước dùng ba từ ngữ để chỉ nghèo. Có từ ngữ dal nghĩa là nghèo nàn, yếu đuối và cả hốc hác tiều tụy nữa. Thí dụ từ ngữ ấy đã được dùng chỉ bầy thú gầy guộc trong giấc mơ của Pha-ra-ôn (Sáng 41:19). Bản RSV thường dịch từ ngữ này là nghèo (Châm 22:9, 16, 22; Amốt 4:l; 5:11; 8:6); nhưng thỉnh thoảng cũng dịch là nghèo thiếu (Thi 41:1; 82:3, 4). Rồi có chữ ebion mà bản RSV luôn luôn dịch là nghèo thiếu (needy) (Gióp 5:15; Thi 69:33; 142:12; Châm 14:31; Giê 20:13). Chữ này diễn tả tình trạng của một người không những nghèo mà sự nghèo khó của người ấy còn khiến người ấy bị người khác áp bức và lạm dụng nữa. Và còn có từ ngữ ani. Đây là từ ngữ mà chúng la có thể gọi là đã được phát huy nhất. Nó mô tả một người nghèo, chẳng có thế lực gì và bị hà hiếp, áp bức. Con người này chẳng được ai giúp đỡ, cũng chẳng nhờ cậy được ai; trong tình trạng đó, nguồn trợ giúp duy nhất của người ấy là Thượng Đế, Đấng mà người ấy đặt lòng tin cậy. Do đó mà lần lần từ ngữ ấy được dùng chỉ con người nghèo và khiêm tốn, biết đặt trọn vẹn lòng tin cậy vào chỉ một mình Thượng Đế mà thôi (Thi 34:6; 40:17; 68:10; 86:1; Châm 14:21; Êsai 66:2). Ở đây nổi bật một điểm chiếm phần ưu thế trong khuôn mẫu về kẻ nghèo - Đó là sự kiện kẻ nghèo được Thượng Đế đặc biệt quan tâm chú ý.
1. Loài người được giao cho một nhiệm vụ đặc biệt là phải nhớ đến và giúp kẻ nghèo. Cả người khôn ngoan lẫn tác giả Thi Thiên đều đề cập phước hạnh của người nhớ đến kẻ nghèo (Thi 41:1; Châm 14:21). Người ngay lành thiện hảo có một phần nhiệm vụ là phải bảo vệ quyền lợi cho kẻ nghèo khó, đói khổ (Châm 31:9). Con người tốt lành thiện hảo không coi kè giàu hơn người nghèo (Gióp 34:19). Mạng lịnh của Thượng Đế là ‘Hãy đoán xét (công bằng) cho kẻ khốn cùng và người mồ côi; hãy xử công bình cho người buồn rầu và kẻ túng ngặt, khá cứu vớt kẻ khốn cùng và người thiếu thốn, giải cứu họ khỏi tay kẻ ác’ (Thi 82:3,4). Chỉ cần cho một ông vua biết xét xử công bằng cho kẻ nghèo. thì ngôi của vua ấy sẽ được lập vững lập đời đời (Châm 29:14). Theo như Cựu Ước thấy, thì thành phần cốt yếu trong nhiệm vụ của một con người ngay lành là phải nhớ, phải giúp đỡ và bênh vực cho kẻ nghèo.
2. Trong Cựu Ước cũng luôn luôn có lời lên án những kẻ bỏ bê hay ngược đãi người nghèo.
Chính kẻ ác mới bắt bớ bách hại người nghèo (Thi 10:2). Có một phần trong lời Ê-sai kết án kẻ ác, ấy là chúng chứa trong nhà của cướp lột của người nghèo (Êsai 1:14, 15). ‘Khốn thay cho những kẻ lập luận không công bình, cho những kẻ chép lời trái lẽ, cất mất sự công bình đối với kẻ nghèo, cướp lẽ phải của kẻ khốn khó trong dân ta’ (Êsai 10:l, 2). Hành động của kẻ ác là ‘lấy sự nói dối đặng làm hại người nhu mì, dù cho lời kêu nài của kẻ nghèo là đúng kẻ nghèo’ (Êsai 32:7). Kẻ nào áp bức bóc lột người nghèo đặng thêm của cải cho riêng mình, thì sẽ đi đến chỗ cuối cùng là bị thiếu thốn (Châm 27:6) ‘Người công bình xét cho biết duyên cớ của kẻ nghèo khổ, còn kẻ ác không có trí hiểu để biết đến’ (Châm 29:7).
Có người đã bảo rằng tiếng nói của các nhà tiên tri chẳng gì khác hơn là tiếng kêu gào cho ‘công bằng xã hội.’ Chăm sóc người nghèo là nhiệm vụ thiết yếu đặt lên vai người nào muốn nhìn thấy thế gian này đúng theo điều mà Thượng Đế muốn cho nó phải trở thành.
3. Trong Cựu Ước, việc lo lắng chăm sóc cho người nghèo không những chỉ được quy định như bổn phận đối với con người, mà còn là một bổn phận đối với Thượng Đế nữa. Đó là một việc phải làm, chẳng những vì cớ người nghèo, mà còn vì cớ Thượng Đế. Giê-rê-mi ai về một minh quân rằng ‘Người đã làm ra lẽ thẳng cho kẻ nghèo và thiếu thốn, cho nên được phước. Đức Giê-hô-va phán: Như vậy há chẳng phải là biết ta sao?’ (Giê 22:16). Người khôn ngoan nói ‘Kẻ hà hiếp người nghèo khổ làm nhục Đấng Tạo Hóa mình; còn ai thương xót người bần cùng tôn trọng Ngài’ (Châm 14:31). ‘Ai thương xót kẻ nghèo, tức cho Đức Giê-hô-va vay mượn’ (Châm 19:17). ‘Ai bưng tai không khứng nghe tiếng kêu la của người nghèo khổ; người đó cũng sẽ kêu la mà sẽ chẳng có ai đáp lại’ (Châm 21:13). ‘Chớ bóc lột kẻ nghèo bởi vì họ nghèo, cũng đừng hà hiếp người khốn khổ nơi cửa thành. Vì Đức Giê-hô-va sẽ binh vực duyên cớ của họ, và đoạt lấy sự sống của kẻ có cướp lột họ’ (Châm 22:22, 23).
Giúp đỡ kẻ nghèo tức là giúp đỡ Thượng Đế, vô tâm đối với họ, là gợi cơn thạnh nộ của Ngài.
Làm thế nào có thể khác hơn thế cho được, bởi vì gây tổn thương cho đứa con thì bao giờ cũng khiến cho cha nó nổi giận, còn giúp đỡ nó thì bao giờ cũng khiến cho cha nó vui lòng.
4. Theo như tất cả những gì vừa nói, chúng ta có thể trông mong Cựu Ước bảo đảm việc Thượng Đế sẽ đặc biệt lo lắng chăm sóc cho kẻ nghèo, cứu vớt và giải thoát cho họ. Đây là một tư tưởng tâm đắc của các Thi thiên. ‘Đức Giê-hô-va nghe kẻ thiếu thốn’ (Thi 69:33); Ngài (Đức Giê-hô-va) đứng bên hữu người thiếu thốn’ (Thi l09:31). ‘Người thiếu thốn sẽ không bị bỏ quên luôn luôn, và kẻ khốn cùng, chẳng thất vọng mãi mãi’ (Thi 9:18). ‘Kẻ khốn cùng này có kêu cầu, Đức Giê-hô-va bèn nhậm lời người’ (Thi 44:6). ‘Lòng nhơn từ Chúa sắm sửa vật tốt cho kẻ khốn cùng’ (Thi 68:10). ‘Vì Ngài sẽ giải cứu kẻ thiếu thốn khi nó kêu cầu, và cứu người khốn cùng không có ai giúp đỡ’ (Thi 72:12). ‘Đức Giê-hô-va sẽ binh vực duyên cớ kẻ khốn nạn’ (Thi 140:12). ‘(Đức Giê-hô-va) đem kẻ khốn cùng ra khỏi bụi đất’ (I Sam 2:8). ‘Ngài (Đức Giê-hô-va) sẽ dùng sự công bình xét đoán kẻ nghèo" (Êsai 11:4).
Kẻ nghèo vốn ở dưới sự lo lắng chăm sóc của Thượng Đế. Cựu Ước không khinh dể sự giàu có; nó không phủ nhận việc sự giàu có có thể làm được nhiều việc. Nhưng nó chẳng bao giờ đưa sự giàu có lên hàng điều tốt lành thiện hảo chính yếu, và luôn luôn nhấn mạnh rằng làm giàu bất chính và sử dụng của cải một cách ích kỷ đều là phạm tội với Thượng Đế.
Bây giờ, chúng ta quay sang Tân Ước, đặc biệt là lời truyền dạy của Chúa Giê-xu.
1. Khi nghiên cứu lời truyền dạy của Chúa Giê-xu về tiền bạc, điều nổi bật đầu tiên là lời truyền dạy của Tân Ước quả quyết rằng Cơ Đốc nhân phải sống một cuộc đời bình dị, phù hợp với công việc làm và những bó buộc của đời sống. Tân Ước dạy rằng Cơ Đốc nhân phải có một việc làm, được hưởng tiền công, chi trả các phí tổn của chính mình và trợ cấp cho những người đang trông cậy nơi mình. Có những người rút lui khỏi thế gian, thề nguyện sống nghèo khó, trinh tiết và đầu phục. Thoạt nhìn thì dường như đó chính là tinh tuý của Cơ Đốc giáo. Nhưng một nghịch lý đã nảy sinh ở đây. Nếu có những người tự nguyện chịu sống nghèo thiếu, tự dứt mình ra khỏi công việc bình thường của thế gian để sống nhờ vào của bố thí mà họ nhận được; nếu họ từ bỏ mọi tài sản, thì điều đó chỉ đơn giản có nghĩa rằng số người còn lại của thế gian phải cứ
tiếp tục lao động để giúp cho số người ấy rút lui khỏi thế gian và để bố thí cho họ có mà sống.
Nếu tất cả mọi người đều rút lui như vậy, và nếu tất cả mọi người đều trút bỏ mọi của cải trần gian, thì toàn thể cơ cấu xã hội sẽ bị sụp đổ, và nếu chẳng có ai có được gì cả, thì cũng chẳng có ai có thể cho ai vật gì mà như thế thì mọi công việc bố thí đều nhất thiết phải chấm dứt. Như vậy, chúng ta sẽ lâm vào tình hình quái dị là các Cơ Đốc nhân ‘bình thường’ phải cứ lao động để các ‘siêu’ Cơ Đốc nhân có thể rút lui khỏi thế gian. Đó không phải là đường lối của Cơ Đốc giáo.
Tân Ước khẳng định rằng Cơ Đốc nhân phải sống một cuộc đời bình thường phải làm công việc của thế gian, và phải chấp nhận các bó buộc của trần gian.
Đó chính là điều Chúa Giê-xu đã làm. Ngài đã sống ba mươi năm đầu tiên của cuộc đời mình tại Na-xa-rét (Lu 3:23), nơi Ngài vốn được mọi người biết là bác thợ mộc trong làng (Mác 6:3)
Ngài chấp nhận nghĩa vụ bình thường là nộp các sắc thuế, cả cho chính quyền (Mathiơ 22:15-22) lẫn cho Đền thờ (Mathiơ 17:24-27). Ngài cùng các bạn thân đã phải có số tiền dự trữ riêng, mà nhiệm vụ của Giu-đa Ích-ca-ri-ốt là phải giữ tiền ấy. Khi có vấn đề phải lo cho cả đoàn dân có thức ăn, phản ứng đầu tiên của Phi-líp là muốn có lương thực thì phải trả tiền (Giăng 6:7). Tất cả những gì hàm ngụ trong đó, ấy là Chúa Giê-xu và các bạn Ngài đã chấp nhận, các bó buộc bình thường và phải chi phí sinh hoạt đời sống của mình.
2. Mọi việc cũng xảy ra đúng y như thế với Phao-lô. Ông vốn là một người thợ có tay nghề (Công 18:3) và ông luôn luôn tự nhận rằng dẫu lưu trú bất cứ ở đâu, ông không bao giờ thành gánh nặng cho ai cả, vì ông vốn tự lực cánh sinh (I Cô 4:12; I Tê 2:9; II Tê 3:7, 8; Công 20:34).
Ông đã tự làm ra tiền để mưu sinh, và lấy chính công sức lao động của mình để chi trả các món nợ của mình - và ông thật lòng muốn cho mọi việc phải là như vậy.
3. Tuy nhiên, Tân Ước đề cập rõ ràng sự nguy hiểm của của cải. Tân Ước chẳng bao giờ bảo rằng có tiền là tội, mà dạy rằng đó là một nguy cơ nghiêm trọng. Theo Lu ca, thì Chúa Giê-xu từng phán ‘Khốn thay cho người giàu có... khốn cho người đang no chán...’ (Lu 6:24, 25). Trong câu chuyện vị quan trẻ tuổi giàu có (Ma 19:16-30; Mác 10:17-31; Lu 18:18-30), câu chuyện mà chúng ta sẽ trở lại, Chúa Giê-xu cảnh cáo mọi người rằng một người giàu vào được nước Trời là chuyện vô cùng khó khăn, không phải là chính tiền bạc, nhưng lòng tham tiền mới là gốc rễ của mọi điều xấu xa gian ác (I Ti 6:10). Nguy cơ luôn luôn là ở đó.
4. Nguy cơ về một người trở thành quá ham tiền cũng có thể len lỏi cả vào trong Hội thánh nữa. Cả các giám mục lẫn các chấp sự đều được cảnh cáo là chớ có ham lợi (I Ti 3:3. 8; Tít 1:7).
Những người đang chăn bầy được cảnh cáo phải làm công tác ấy không phải là vì lợi lộc đáng xấu hổ (I Phi 5:2). Ngay trong cộng đồng của các Cơ Đốc nhân, cũng có mặt những kẻ khai thác, bóc lột các Cơ Đốc nhân bạn của mình (I Phi 2:3). Trước giả thư Hêbơrơ viết ‘Đừng tham tiền’ (Hê 13:5). Sức hấp đẫn của tiền bạc là điều mà xưa cũng như nay, một Cơ Đốc nhân vốn không hề được miễn nhiễm. Tội tham lam là điều mà Tân Ước ý thức hết sức rõ ràng (Mác 7:12; Lu 12:15; Rôm 1:29; II Cô 9:5; Êphêsô 5:3; Cô-lô-se 3:5; I Ti 2:5; II Phi 2:3). Từ ngữ Hy văn chỉ tánh tham lam là Pleonexia, có nghĩa là muốn có nhiều hơn, và đây là một ham muốn đã bắt rễ thật sâu trong bản tính con người.
5. Trong thái độ của Chúa Giê-xu chẳng có gì gọi là màu mè khách sáo đối với tiền bạc của cải. Ngài không hề đề cao sự nghèo thiếu. Ngài từng có những bạn thân thuộc mọi giai cấp trên đời. Gia-cơ và Giăng vốn xuất thân từ một gia đình đủ khá giả để tự mua sắm chiếc thuyền đánh cá riêng và thuê các bạn chài, (tôi tớ) (Mác 1:19,20). Ni-cô-đem thì đem hương liệu chắc phải tốn một số tiền lớn để ướp xác Chúa Giê-xu (Giăng 19:39). Xa-chê là một người giàu có, và ông không hề được kêu gọi phải tự trút bỏ hết mọi tài sản của mình (Lu 19:10-10). Có một số phụ nữ theo Chúa Giê-xu để chăm lo cho mọi nhu cầu của Ngài, trong số họ có Gian-nơ, vợ Chu-xa là quản lý hoàng cung Hêrốt, chắc chắn phải thuộc về giai cấp cao và giàu có (Lu 8:3). Cả khi chúng ta nhấn mạnh vào các nguy cơ của của cải chúng ta không thể nào nhảy sang đối cực kia để biến bản thân sự nghèo thiếu thành một đức hạnh.
6. Theo như Tân Ước thấy, thì một trong nhiều nguy cơ của cải, ấy là nó có thể làm nảy sinh tánh kiêu căng nơi kẻ có của, và dễ cám dỗ người tiếp xúc với anh ta trở thành kẻ màu mè khúm núm. Trong các thư tín mục vụ, Timôthê được chỉ giáo phải răn bảo kẻ giàu có về các tài vật đời này, chớ có kiêu ngạo (I Ti 6:17). Gia-cơ vẽ ra bức tranh về một người giàu vào hội chúng Cơ Đốc giáo và được đối xử cách cung kính dành cho người giàu sang, bất chấp sự thiệt thòi của kẻ nghèo (Gia-cơ 2:l-7). Rồi ông lên án kẻ giàu sống xa hoa phí phạm, nhưng lại không chịu trả tiền công sòng phẳng cho các tôi tớ mình (Gia 5:l-6). Tân Ước ý thức rất rõ điều mà của cải có thể gây ra cho não trạng (thái độ của tâm trí) người có của và cho cả trong tâm trí những người bị
tiếp xúc với họ.
7. Tân Ước chắc chắn rằng của cải là xấu nếu chúng ta đặt lòng tin cậy vào đó, chúng vốn là nền móng hết sức bấp bênh, chẳng có gì bảo đảm, cho cuộc đời.
a. Một người phải học biết rằng giá trị của cuộc đời mình không thể được đánh giá căn cứ vào số tiền mình có trong trương mục ngân hàng. Người giàu trong ẩn dụ của Lu ca 12:13-21, tưởng là mình đã có đủ nền móng vững chắc để hưởng thụ đời sống trong nhiều năm sắp tới, nhưng ngay trong đêm ấy trong khi ông ta đang đặt kế hoạch cho tương lai mình, Thượng Đế đã đòi linh hồn của ông ta lại, thế là mọi tài vật mà ông ta từng lấy làm hãnh diện đều trở thành vô ý nghĩa. Người ta không thể nào đem theo lên thiên đàng các của cải vật chất mình có.
b. Của cải là một báu vật cứ ngày càng bị mất giá. Sâu mối ten rét có thể phá hại chúng và kẻ trộm có thể lấy cấp chúng (Ma 6:19-21). Chúng chẳng tồn tại lâu dài gì hơn đoá hoa nở rồi tàn (Gia-cơ 1:10,11). Có người đã bảo rằng nhiều người biết rõ ‘giá cả của mọi vật mà chẳng biết giá trị thật sự của một vật nào cả.’ Chính lúc con người trực diện với cõi vĩnh hằng, thì mới thấy được giá trị đích thực của mọi vật, và kẻ nào chỉ đặt lòng tin cậy vào những vật rất dễ bị mất đi và rất mau mục nát, là kẻ dại dột.
c. Lòng tham muốn của cải có thể bịt mắt người ta lại đối với những điều cao trọng hơn. Sự ‘quá lo âu về đời này và ham mê phú quý’ giống như những hạt giống bị cỏ dại mọc lên khiến cho sự sống bị nghẹt ngòi (Ma 13:22; Mác 4:9; Lu 8:1). Như William Lillie viết trong quyển Studies in Christian Ethics của ông: ‘Việc theo đuổi tiền bạc lấn chỗ của sự thờ phượng.’ Chúa Giê-xu phán: Các ngươi không thể làm tôi hai chủ... Các con không thể phụng sự cả Thượng Đế lẫn thần tài’ (Ma 6:24). Vị thần mà người ta thờ lạy chính là vật mà người ấy hiến thân cho, hiến cả thì giờ, năng lực, tư tưởng, cuộc đời mình, là điều cai trị và chiếm lấy đời sống người ấy. Và nếu điều duy nhất mà một người quan tâm chú ý là sự giàu có, thì sự giàu có chính là vị thần của người ấy.
d. Dù sao đi nữa, con người cũng chẳng mang được của cải theo mình khi qua đời. Con người trần truồng vào đời, thì cũng sẽ trần truồng lúc lìa đời (Gióp 1:21; Truyền 5:15, 16; I Ti 6:7).Cho nên, cần khuyên bảo mọi người hãy tìm cầu những của cải chân chính, thâu chứa những báu vật đích thực, là điều tồn tại vượt thời gian vào tận đến cõi vĩnh hằng. Người ta phải làm lành, phải trở nên giàu có về việc lành, do đó, đặt nền móng cho đời sống tương lai, là đời sống đích thực (I Ti 6:17, 18).
Theo như Tân Ước thấy và như từng trải xác nhận, thì lòng tin đặt vào bất cứ một vật nào chỉ là vật chất, thì lòng tin cậy đó đã bị đặt sai chỗ, và ngay trong đời này, sự sai lầm ấy sẽ bị phơi bày. Chẳng nhìn thấy gì ngoài thế giới vật chất này, là con đường dẫn đến sự thất vọng trong thời gian và trong cõi vĩnh hằng.
Trước khi hình thành một mẫu mực tổng quát cho riêng mình, có vài tài liệu trong Tân Ước thiết tưởng chúng ta cần phải xét kỹ.
1. Trong Tân Ước, có một ẩn dụ ít ra cũng nói lên được phần nào về thái độ của Chúa Giê-xu đối với của cải - ẩn dụ về người nhà giàu và La-xa-rơ (Lu 16:19-31). Đây là câu chuyện về hai con người. Một người rất giàu. Ông ta mặc y phục bằng vải gai mịn và ăn uống sang trọng; chẳng có gì trên thế gian này mà ông ta không có. Người kia là La-xa-rơ, một người ăn mày mình đầy ghẻ chốc, bất năng bất lực đến nỗi chẳng xua được bầy chó vẫn vây quanh mình. Hằng ngày, anh ta được đặt trước cửa ông nhà giàu để ít ra cũng nhặt được những mẩu bánh vụn từ bàn ăn ông nhà giàu rơi xuống. Rồi khung cảnh được thay đổi; không còn là cảnh trên đời này nữa, mà là cảnh của đời hầu đến. Và trong đời sau đó, ông nhà giàu phải sống quằn quại trong cảnh hấp hối đau đớn và bị hành hạ, trong khi anh nhà nghèo thì được hưởng phước hạnh - và địa vị của họ không thể nào thay đổi được nữa.
Ẩn dụ này muốn nói gì? Ngay trong khúc sách đi trước, đã có một câu đề cập tới người Pha-ri-si (các thầy Biệt lập) ‘vốn tham tiền’ (Lu 16:4). Cho nên ẩn dụ này phải nói một điều gì đó liên hệ đến tiền bạc. Điều bị lên án không tiếc lời là lối sống vô trách nhiệm, thiếu ý thức, thiếu quan tâm, chú ý đến tha nhân. Chẳng có dấu chỉ nào cho thấy ông nhà giàu đã đối xử tàn ác với La-xa-rơ bằng hành động. Ông ta vẫn để mặc La-xa-rơ tại chỗ anh ta nằm; ông ta vẫn để mặc cho La-xa-rơ nhặt những mẩu bánh vụn từ trên bàn ăn của mình rơi xuống. Vấn đề là ông ta chẳng chút quan tâm để ý gì đến La-xa-rơ. Đối với ông nhà giàu, La-xa-rơ là một phần của môi trường của cảnh vật xung quanh. Ông ta chẳng bao giờ nhìn thấy La-xa-rơ, ông ta chẳng bao giờ lưu ý rằng La-xa-rơ có liên hệ gì với mình. Sự việc hết sức đơn giản là ông ta không ý thức được sự hiện diện của La-xa-rơ, hay nếu có ý thức, thì ông ta cũng chẳng cảm thấy mình có trách nhiệm gì.
Ẩn dụ này là một thí dụ minh họa sống động cho sự kiện một người rất có thể bị buộc tội không phải vì làm một việc gì đó, mà vì chẳng chịu làm gì cả. Như có người đã nói ‘Không phải vì những gì ông nhà giàu làm đã đưa ông ta vào tù; mà việc ông ta không chịu làm đã đưa ông ta xuống hỏa ngục.’
Khi viết về ẩn dụ này trong tắc phẩm Các Ẩn Dụ trong các sách Phúc âm, Hugh Martin bảo rằng Dale đã gọi ẩn dụ này là ‘Sự công phẫn cực độ của tình yêu vô hạn’ còn Alexander McLaren thì gọi nó là ‘Ẩn dụ nghiêm khắc nhất trong các ẩn dụ của Chúa Cứu Thế.’ Việc kết án dành cho kẻ có tiền mà chẳng ngó ngàng gì tới người không tiền, kẻ không có ý thức trách nhiệm đối với những người kém may mắn hơn mình. Có rất nhiều kẻ sẵn sàng tiêu phí cho một bữa tiệc trong một nhà hàng sang trọng mà chỉ tính tiền uống rượu thôi, đã vượt quá tiền trợ cấp hàng tuần cho một đôi vợ chồng già. Trong một năm, Anh quốc tiêu cho bộ quốc phòng bốn mươi lăm lần nhiều hơn là cho việc viện trợ khỏi hoàn lại cho các lãnh thổ lệ thuộc mình. Trong một năm
số tiền dành cho công việc ấy là khoảng 40.000.000 Anh kim, trong khi có khoảng 930.000.000
đã được tiêu vào việc đánh cá và cờ bạc.
Tân Ước kết án thái độ vô trách nhiệm không tiếc lời, cho dầu thái độ đó là của cá nhân hay của vực quốc gia. Sách ấy nhấn mạnh rằng không một cá nhân hoặc quốc gia nào có quyền sống trong xa hoa phung phí trong khi nhiều người khác đang lâm cảnh đói nghèo. Có thể lý luận rằng chúng ta đã bị bắt buộc giúp đỡ người khác bằng hệ thống thuế khóa thật nặng hiện hành. Điều đó hoàn toàn đúng. Nhưng một nghĩa vụ về thuế má không thể thay thế được cho ý thức cá nhân.
Có một sự kiện vô cùng đơn giản thoạt nghe có vẻ như hết sức tầm thường nữa, ấy là chẳng ai có quyền sống như ông nhà giàu, trong khi có một La-xa-rơ nằm trước cửa nhà mình.
2. Khúc sách thứ hai rất phù hợp với phần thảo luận này của chúng ta là đoạn ghi lại việc dọn sạch đền thờ của Chúa Giê-xu (Ma 21:12, 13; Mác 11:15, 16; Lu 19:45, 46, Giăng 2:13-17). Đây là biến cố duy nhất trong Tân Ước mà chúng ta thấy Chúa Giê-xu đã sử dụng vũ lực; do đó, nó phải là một biến cố có ý nghĩa đặc biệt.
Chúa Giê-xu đã đuổi ra khỏi các sân đền thờ những kẻ đổi bạc và buôn bán các con vật dùng cho việc tế lễ. Vào kỳ lễ Vượt Qua, người ta cũng nộp thuế cho đền thờ. Thuế nộp cho đền thờ vào khoảng nửa siếc lơ. Số tiền ấy thoạt nghe thì chẳng bao nhiêu, nhưng phải nhớ rằng tiền công trung bình tại xứ Palestine vào thời của Chúa Giê-xu chỉ vào khoảng bốn xu mới (tiền Anh), nghĩa là tiền thuế nộp cho đền thờ ngang với khoảng hai ngày công- đó là một số tiền khá lớn. Vì niềm kiêu hãnh của tất cả mọi người Do Thái là được giữ một ngày lễ Vượt Qua tại Giê-ru-sa-lem, cho nên thành phố ấy đông nghẹt người đến từ khắp nơi trên thế giới.’ Vì họ từ khắp nơi trên giới đến, họ mang theo đủ thứ tiền đang lưu hành - tiền La-mã, Hy-lạp, Ai cập, Ty-rơ, Phê-ni-xi... Đối với tất cả các dịch vụ thông thường thì mọi thứ tiền đều được thu nhận. Nhưng thuế nộp cho đền thờ thì hoặc là phải nộp bằng đồng siếc lơ của đền thờ, hoặc đồng nửa siếc lơ của xứ Ga-li-lê. Sở dĩ như vậy vì chỉ có hai đồng tiền ấy là không có hình đầu của một nhà vua nào trên chúng cả. Đối với người Do Thái, đồng tiền nào có hình đầu một ông vua, thì đó là một hình tượng, đặc biệt là nếu nhà vua ấy lại còn được thần thánh hóa nữa. Do đó, những người cai quản đền thờ đặt nhiều quầy đổi tiền trong đền thờ để đổi đúng loại tiền có thể dùng để nộp thuế.
Trước tình hình như vậy, đây là một cách thu xếp thỏa đáng, tuy nhiên đối với mỗi đồng tiền được đổi, những tay đổi bạc đã đòi trả họ một xu mới, và mỗi lần đổi có thối tiền lẻ, họ lại đòi trả thêm một xu mới nữa. Như vậy, một khách hành hương có thể sẽ phải bị trả thêm đến hai xu mới nữa thì người ấy mới có được đồng tiền thích hợp để nộp thuế - và chúng ta cần nhớ rằng hai xu mới đó là tiền công của khoảng nửa ngày lao động của một người. Đây là một cách làm tiền trắng trợn đối với những con người chất phác.
Đối với những kẻ buôn bán bồ câu, họ lại còn một mánh khóe khác ranh ma hơn. Một người có thể mang một cặp bồ câu đến đền thờ để dâng của lễ, là hai con bồ câu họ mua từ bên ngoài vào. Nhưng mỗi con vật đem dâng làm của lễ đều phải không có tì vết, do đó có những thanh tra của đền thờ thực hiện công tác ấy. Nếu con vật được mang từ ngoài vào, chắc chắn họ sẽ cố tìm ta một tì vết nào đó, và sẽ bảo người dâng lễ hãy đến các quầy hàng của đền thờ là nơi bán các con thú để dâng lễ đã được khám xét rồi. Một lần nữa, đây có vẻ như một cách thu xếp tiện lợi, nhưng nếu bên ngoài đền thờ một cặp bồ câu chỉ giá một xu mọi thôi, thì lên trong đền thờ, chúng có thể được bán với giá bảy mươi lăm xu mới. Một lần nữa, đây là một cách bóc lột hết sức vô lương tâm, một sự bóc lột được thực hiện nhân danh tôn giáo.
Chúa Giê-xu đã bị bắt buộc phải sử dụng vũ lực. Ngài đánh những kẻ buôn bán bằng roi, đuổi các con vật của họ ra khỏi đền thờ và lật đổ bàn của những kẻ đổi bạc. Điều khiến Ngài phải bạo động trong việc này, là vì thấy rõ sự bóc lột cố ý và rất có lợi đó. Việc làm tiền bằng cách bóc lột những người nhẹ dạ dễ tin, hay càng tệ bại hơn nữa là bóc lột quá nhu cầu của họ nữa đã khiến Chúa Giê-xu nổi cơn thạnh nộ - và việc ấy vẫn còn tiếp tục xảy ra ngày nay.
3. Còn có một ẩn dụ khác nữa của Chúa Giê-xu trong đó có nói nhiều về sự giàu có - một ẩn dụ lạ lùng nhất trong số các ẩn dụ của Chúa Giê-xu - là ẩn dụ trong đó tất cả các nhân vật đều là những tên vô lại, tức là ẩn dụ về người quản gia bất trung (Lu 16:l-3). Ẩn dụ này kể lại thế nào có một người quản gia bị chủ phát giác là bất lương nên sắp bị đuổi việc. Bên Đông phương, người quản gia vốn được quyền kiểm soát vô hạn trên tài sản của chủ mình. Do đó, trước viễn ảnh bị đuổi việc và sự kết thúc của cuộc đời thoải mái no đủ. Người quản gia này đến với từng người một trong số các con nợ của chủ mình. Ông ta vẫn chưa bị đuổi việc nên có quyền giải
quyết các số nợ ấy với các con nợ. Trong tất cả mọi trường hợp, ông ta đều thỏa thuận với các con nợ để làm những văn tự giả mạo. Trong mỗi trường hợp, số nợ đều được ghi lại ít hơn, người quản gia hy vọng có thể lui tới nhà của tất cả các con nợ kia trong thời gian sắp tới, một phần vì họ đều chịu ơn ông ta, một phần vì ông ta vốn là một tên vô lại khôn khéo, đã khiến tất cả bọn họ đều trở thành đồng lõa với mình, nên có thể cầm quyền trên họ, bảo gì họ cũng phải nghe. Rồi khi ông chủ khám phá ra mọi việc, thì thay vì nổi giận lại xem đó là một trò lưu manh khôn khéo, ông ta lại khen ngợi người quản gia nọ về việc đã biết lươn lẹo để tự tạo tương lai cho mình như vậy.
Đây là một ẩn dụ khác thường. Nó khác thường đến nỗi ngay lúùc Lu-ca ghi nó lại, bài học nguyên thủy của nó đã không được nhận ra, vì Lu-ca đã gán không dưới bốn bài học cho nó - và tất cả đều phù hợp với vấn đề Cơ Đốc nhân với tiền bạc của mình. Chúng ta hãy xét các bài học mà Lu-ca đã gán cho nó.
a. Ông bắt đầu với lời khen của ông chủ ‘Người thế gian vẫn xử sự khôn lanh hơn công dân Nước Trời’ (Lu 16:8). Khi nói câu ấy, Lu-ca ngụ ý bảo rằng các Cơ Đốc nhân sẽ trở thành những Cơ Đốc nhân tốt đẹp hơn nhiều nếu họ cũng là những Cơ Đốc nhân khôn lanh sắc sảo như người quản gia quỷ quyệt nọ đã biết bám chặt vào cuộc sống an nhàn và tiền bạc của mình. Điều này hoàn toàn đúng, thế giới này sẽ trở thành một thế giới khác, và Hội thánh cũng sẽ trở thành một Hội thánh rất khác, nếu những người mệnh danh là Cơ Đốc nhân dành nhiều thì giờ, tư tưởng và năng lực để sống như Cơ Đốc nhân cũng như họ đã dùng chúng để kiếm tiền, hoặc cả để thực hiện một trò tiêu khiển hoặc chơi một trò chơi thể thao nào đó. Nếu một Cơ Đốc nhân chịu nỗ lực nhiều để duy trì các tiêu chuẩn làm Cơ Đốc nhân của mình cũng như người thế gian dành công sức để duy trì các tiêu chuẩn về tiện nghi trần gian của họ, thì người ấy sẽ trở thành một Cơ Đốc nhân tốt hơn tình trạng hiện có. Có nhiều việc mà con cái đời này có thể nêu giương cho các con cái của sự sáng noi theo.
b. Lời khen ngợi thứ hai, của ông là: ‘Ta khuyên các con phải biết dùng của cải trần gian làm việc nghĩa, để khi tiền của hết, các con được tiếp vào nhà đời đời’ (Lu 16:9). Đây là một câu nói hết sức khó hiểu, nhưng William Lillie nắm ngay lấy một điểm không thể nhầm lẫn vào đâu được trong đó. Ông nói ‘Cho dầu câu này có ý gì khác nữa, nó vẫn dạy rằng tiền bạc phải được sử dụng như một phương tiện chớ không phải như cứu cánh cho chính nó’ (William Lillie, Studie in New Testament, Ethics, p. 97). Người quản gia đã không chú trọng vào chính tiền bạc; ông ta chú trọng vào số bạn bè mà ông ta có thể nhờ tiền bạc mà có được, và những tiện nghi mà nó có thể bảo đảm cho mình. Đây là một nhân sinh quan khá mỉa mai chua chát - bạn có thể mua được tình bạn là câu nguyên tắc ẩn đàng sau đó - nhưng toàn thể ẩn dụ đều nhằm mục đích
chứng minh rằng trên một vài phương diện nào đó, một gả vô liêm sĩ sống theo thế gian cũng có thể làm gương để Cơ Đốc nhân học hỏi theo. Cho nên ẩn dụ này dạy chúng ta rằng tiền bạc là phương tiện để đem ra sử dụng, chớ không phải là để bo bo giữ chặt, và đừng bao giờ nên xem nó như là cứu cánh, mà phải luôn luôn xem nó như là phương tiện cho một cứu cánh mà thôi - là một phương tiện cho một cứu cánh vô cùng quan trọng.
c. Bài học thứ ba là ‘Ai trung thành trong việc nhỏ cũng sẽ trung thành trong việc lớn, Ai bất chính trong việc nhỏ cũng sẽ bất chính trong việc lớn. Nếu các con không trung tín về của cải trần gian, còn ai đem của cải đời đời giao cho các con. Nếu các con gian lận của cải người khác, còn ai cho các con bảo vật làm của riêng? (Lu 16:10-12). Đây là một bài học đơn sơ hơn nhiều.
Đây là nguyên tắc cho thấy cách cư xử của một người trong vấn đề tiền bạc là một trắc nghiệm rất hay để biết rõ về con người ấy. Chúng ta hầu như có thể nói rằng nếu một người có thể tin cậy được trong vấn đề tiền bạc, thì cũng có thể tin cậy được ở bất kỳ một lãnh vực nào khác.
Nhân cách của một người, sự trung tín hay bất trung của người ấy, anh ta là người ngay thẳng hay gian manh, đều có thể thấy được - và chẳng có ở đâu con người có thể nhận thấy được rõ ràng hơn là - trong công việc làm ăn và cách đối xử về mặt tài chánh hằng ngày của người ấy.
Cách sinh hoạt của một người trong công cuộc làm ăn kinh doanh hằng ngày chính là cách chuẩn bị riêng của người ấy cho đời sống trong cõi vĩnh hằng.
d. Bài học thứ tư là ‘Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì sẽ ghét chủ này yêu chủ kia, trọng chủ này khinh chủ khác. Các con không thể phụng sự cả Thượng Đế lẫn Thần tài’ (Lu 16:13). Trong sách Ma-thi-ơ, câu này là một phần của Bài Giảng Trên Núi, và xuất hiện trong một mạch văn khác hẳn (Ma 6:24). Chúng ta có thể kết luận rằng Chúa Giê-xu đã dùng câu này nhiều hơn là một lần. Câu này ngụ ý hết sức dứt khoát rằng trong cuộc sống, một người chỉ có chỗ cho một đối tượng duy nhất để chúng ta giữ lòng trung thành tuyệt đối mà thôi, và sự trung thành tuyệt đối đó phải dành cho chính Thượng Đế. Nếu lòng trung thành tuyệt đối của một người đã được dâng cho Thượng Đế, thì không bao giờ có sự sai trật trong cách người ấy kiếm tiền hay sử dụng tiền bạc của mình.
4. Chỗ thứ tư chúng ta có thể tìm thấy phần hướng dẫn về Cơ Đốc nhân và tiền bạc của mình, là câu chuyện về công cuộc quyên trợ mà Phao-lô đã thực hiện giữa các Hội thánh người ngoại quốc cho Hội thánh tại Giê-ru-sa-lem. Toàn thể đề tài này đã được R.H.Fuller làm sáng tỏ trong tác phẩm Christianity and the Affluent Society) của ông (pp. 46-59). Cũng với Phao-lô, Cơ Đốc giáo đã được đến với người ngoại quốc. Đã đến lúc phải có sự đồng ý về một sự phân công lao động, để Phao-lô đi đến với người ngoại quốc, còn Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng phải hoạt động trong lãnh vực đặc biệt của mình là giữa dân Do Thái. Điều duy nhất mà các vị sứ đồ cao niên hơn đã truyền dặn Phao-lô, là phải nhớ đến người nghèo, và đó cũng chính là điều mà ông đã tự bắt buộc mình phải làm chẳng cần chi phải có ai nhắc nhở (Galati 2.9, 10). Chừng bốn hoặc năm
năm đã trôi qua, và Phao-lô đã trù liệu một kế hoạch. Giê-ru-sa-lem luôn luôn là một Hội thánh nghèo, và Phao-lô đã đi bước trước trong việc phát động một phong trào qua đó toàn thể các Hội thánh người ngoại quốc mà ông có thể liên lạc với sẽ hợp tác với nhau trong việc quyên trợ cho Hội thánh tại Giê-ru-sa-lem. Dầu sao thì Hội thánh Giê-ru-sa-lem cũng là Hội thánh mẹ. Chính từ Giê-ru-sa-lem mà Cơ Đốc giáo đã lan tràn ra, và các Hội thánh non trẻ đã nhận được nhiều phước hạnh thuộc linh từ Giê-ru-sa-lem phải dành cho Giê-ru-sa-lem mọi cứu trợ vật chất họ có thể làm được, đó chỉ là điều hết sức phải lẽ và thích hợp mà thôi (Câu chuyện có thể được góp nhặt từ I Cô 16:l-4; và Cô 8 và 9; Rô-ma 15:25, 26).
Đoạn sách đầu tiên tuy rất ngắn, nhưng có nhiều điều dạy dỗ cho việc Cơ Đốc nhân dâng hiến qua trung gian là Hội thánh ‘Anh em nên dành một phần lợi tức theo khả năng Chúa cho từng người, và quyên góp đều đặn mỗi chúa nhật, đừng đợi nước tới chân mới nhảy’ (I Cô 16:2).
Dâng hiến phải là một sự dâng hiến có hệ thống, sao cho việc ấy khỏi trở thành một bài giảng hay một lời kêu gọi thình lình và khẩn cấp. Tốt nhất là nên để dành riêng ra một cách đều đặn, hơn là đợi ‘nước tới chân mới nhảy’. Việc dâng hiến phải cân xứng. Một người nên dâng hiến tùy theo lợi tức của mình. Sự dâng hiến ‘ai nấy đều bằng nhau’ là hoàn toàn không thích hợp, vì điều gì có thể là quá nhiều cho người này có thể lại là không đáng kể đối với người khác. Việc dâng hiến phải phổ quát. Mỗi người đều phải đóng góp phần của mình. Thông thường thì sự sung túc về tài chánh của một hội chúng vốn là thuộc vào lòng hào hiệp của khoảng dưới phân nửa con số các thành viên của chi hội ấy. Đây đáng ra phải là một việc mà tất cả mọi người đều tham gia, nếu có khả năng.
Phao-lô vốn hết sức thiết tha với công cuộc quyên trợ cho Hội thánh Giê-ru-sa-lem này. Đây chẳng những chỉ là một sự trợ giúp thực tế tối quan trọng cho Hội thánh Giê-ru-sa-lem, mà nó còn có giá trị tượng trưng quan trọng cho toàn thể Hội thánh nói chung nữa. Nó nói lên ít nhất là ba điều:
a. Nó tượng trưng cho sự hiệp một của Hội thánh. Nó tránh được bầu không khí của hội chúng chủ nghĩa congregationalism). Cần phải có mối liên hệ giữa cá nhân với cá nhân thế nào, thì cũng cần phải có mối liên hệ giữa cộng đồng với cộng đồng, giữa hội chúng với hội chúng, giữa Hội thánh với Hội thánh thể ấy. Không một hội chúng nào nên chỉ nghĩa riêng về chính mình mà thôi, mỗi Hội thánh phải vì tất cả và tất cả phải vì từng Hội thánh một. Thí dụ, thật là đáng nghi ngờ nếu một Hội thánh giàu có hoạch định những công trình không thiết yếu - dầu chúng có giá trị nghệ thuật cao đến đâu đi chăng nữa - trong khi những Hội thánh khác gặp trở ngại trong công tác thiết yếu vì thiếu ngân quỹ. Cộng đồng nào mà viễn ảnh bị giới hạn trong vòng hội chúng của mình mà thôi, thì không phải là một Hội thánh.
b. Nó tiêu biểu cho điều: không một biểu hiện đặc biệt nào của các ân tứ thuộc linh lại có thể thay thế cho mối quan tâm đến người khác. Nói theo thuật ngữ thì chẳng hề có con số charismata - ân tứ thuộc linh - nào lại có thể thay thế được cho agapẽ - tình yêu thương trong Chúa Cứu Thế. Hội thánh Cô-rinh-tô bị cuốn hút trong những việc lôi cuốn sự chú ý của mọi người như nói các thứ tiếng lạ; và những việc như thế rất có thể dẫn tới sự kiêu ngạo thuộc linh thay vì tới mối bận tâm, lo nghĩ đến người khác vì tình yêu thương.
c. Điểm thứ ba đã được R.H.Fuller vạch rõ. Công cuộc quyên trợ này tiêu biểu cho sự kiện là sự thông công thuộc linh, nếu quả thật là chân chính, ‘sẽ luôn luôn được biểu hiện bằng quà tặng vật chất, bằng mỹ kim và bằng xu, bằng Anh kim và bằng tiền hào và xu lẻ’. Nếu chúng ta nói chuyện với người khác về tính cách cần thiết của sự thông công, thì sự thông công đó là hoàn toàn không có thật trừ phi nó dẫn tới kết quả là việc dâng hiến thực tế. Gia-cơ cho rằng không phải là Cơ Đốc giáo nếu những lời nói tử tế và tư tưởng nhơn từ không trở thành những việc làm cụ thể (Gia 2:14-17).
Chúng ta vừa xem qua phần tài liệu trong Kinh Thánh liên hệ đến tiền bạc, sự giàu có và của cải. Bây giờ, chúng ta hãy tiếp tục xét xem có thể nào rút tỉa ra một số nguyên tắc tổng quát, để có thể hướng dẫn chúng ta trong việc sử dụng chúng hay không.
1. Ngay ta ban đầu chúng ta phải xét đến câu nói thông thường của nhiều mục sư truyền đạo, bảo rằng tiền bạc không thành vấn đề, rằng nó chẳng có gì là quan trọng cả. Rất khó có ai từng trải qua kinh nghiệm không còn một xu dính túi, mà dám thốt lên một câu như vậy. Sau đây là một bức thư đã được đăng tải trước đây ít lâu trên mục thư trao đổi của một nhật báo:
‘Cứ thử hỏi một người lang thang ngoài đường phố, chỉ còn có mấy hào bạc trong túi và phải đếm từng xu trước khi tiêu pha, xem anh ta có hạnh phúc không, thì câu trả lời sẽ là không. Anh ta sẽ hạnh phúc hơn nhiều nếu có thể gọi một bữa ăn trưa tươm tất, mua một bộ quần áo đẹp, mà chỉ khi nào trong túi có tiền, thì anh ta mới có thể làm được như vậy.
Suốt cả đời mình, tôi chưa hề gặp một người thiếu thốn mà được hạnh phúc. ‘Thiếu tiền bạc cũng là nguồn gốc của phần lớn các vấn đề trong đời sống vợ chồng nữa.’
Rất có thể rằng bức thư này đã có hơi quá đáng; nhưng sự việc chẳng bao giờ vui vẻ cả nếu một người có quá ít tiền, không đủ mua sắm cho gia đình mình những vật dụng tối cần thiết, không đủ để thỉnh thoảng tổ chức một lễ kỷ niệm hay đi nghỉ hè, luôn luôn bị ám ảnh bởi nỗi bồn chồn bất an khi nghĩ đến tương lai. Ngay cả trong xã hội giàu có hiện nay, vẫn còn những người có đời sống giống như thế. Chẳng hề có một người thành thật nào lại dám bảo rằng tiền bạc chẳng có gì quan trọng.
2. Nếu chúng ta cho rằng tiền bạc, của cải phải có một tầm quan trọng nào đó trong đời sống, chúng ta có thể nói tiếp rằng phải có một nguyên tắc cơ bản chi phối mối liên hệ giữa chúng ta với chúng. Đây là một trắc nghiệm vốn đã có ngay từ thời các triết gia Hy-lạp xa xưa. Đó là câu hỏi: Tôi có làm chủ các tài sản của mình không, hay chính chúng đang làm chủ tôi? ‘Các con không thể phụng sự cả Thượng Đế lẫn Thần tài’ (Ma 6:24). Từ ngữ Hi văn chỉ phụng sự vốn có nghĩa mạnh; đó là chữ doulenein, do từ ngữ doulos mà ra, và doulos có nghĩa là nô lệ. Một người phải là nô lệ của Thượng Đế, theo nghĩa là đối với Thượng Đế, thì người ấy không thể có ý chí, ý muốn riêng; người ấy phải tự xem mình là tài sản của Thượng Đế, mà không bao giờ nên trở thành nô lệ cho các tài sản của mình. Nhưng đó lại là tình trạng của rất nhiều người. Tước đoạt
những cái xa hoa, tiện nghi của họ đi, tức là bạn đã cất đi cuộc sống của họ vậy. Cả cuộc đời họ chỉ dành để hoạch định xem làm sao để duy trì và tăng thêm các tiêu chuẩn về tiện nghi thoải mái cho mình.
Đây là chỗ để câu chuyện về vị quan trẻ tuổi giàu có chen vào (Ma 19:16-31, Mác 10:17-31; Lu 18:18-30). Cao điểm của câu chuyện này là lúc Chúa Giê-xu bảo với chàng thanh niên ấy rằng, nếu anh ta muốn thỏa mãn điều mà anh ta ao ước từ lâu, thì hãy bán hết tất cả những gì mình có để bố thí cho kẻ nghèo. Vừa nghe xong là anh chàng buồn bã bỏ đi, vì anh ta rất giàu đó.
Vấn đề tức khắc được đặt ra: Phải chăng lệnh truyền đó của Chúa Giê-xu cũng dành cho tất cả những ai muốn trở thành Cơ Đốc nhân? Phải chăng tất cả các Cơ Đốc nhân đều phải bố thí toàn thể tài sản mình cho người nghèo?
Có một sách phúc âm rất cổ, gọi là sách phúc âm theo người Hy bá lai. Sách Phúc âm ấy có thể cũng xưa bằng một vài sách Phúc âm của chúng ta. Nó không hề được liệt vào Tân Ước, phần lớn sách ấy đã bị thất lạc, chỉ còn lại một vài phân đoạn mà thôi. Một trong số các phân đoạn đó được tìm thấy trong sách chú giải sách Ma-thi-ơ của Origen, và là một bản viết khác về câu chuyện này. Trong câu chuyện đó có tới hai người giàu có đến với Chúa Giê-xu. Câu chuyện như sau:
‘Người nhà giàu thứ hai thưa với Chúa Giê-xu: Thưa thầy, tôi phải làm điều thiện gì để được sự sống? Chúa Giê-xu đáp: Hãy vâng giữ các điều răn trong Luật pháp và các sách Tiên tri.
Người nhà giàu thưa: Tôi đã vâng giữ những điều ấy. Chúa Giê-xu bảo anh ta: Hãy về bán hết tài sản, lấy tiền phân phát cho người nghèo, rồi hãy đến theo ta. Anh nhà giàu bắt đầu gãi đầu, vì anh ta không thích lời khuyên ấy chút nào. Chúa bảo anh ta: Thế sao anh bảo: Tôi đã vâng giữ Luật pháp và lời các lời tiên tri? Luật pháp chép rằng ngươi phải yêu người lân cận như bản thân.
Và thực tế là nhiều anh em của anh là con cháu Áp-ra-ham đang ăn mặc tồi tàn và sắp chết đói, còn nhà anh thì lại đầy dẫy những vật tốt, thế mà đã chẳng có vật gì được ban cho họ cả.’ Điều sai trái của chàng thanh niên không phải là của cải của anh ta, nhưng là thói bo bo giữ của của anh ta. Sự thật là anh ta vốn bị của cải mình làm chủ. Và thuốc chữa duy nhất dành cho anh ta là sự thay đổi tận gốc rễ phương cách giải quyết của anh ta đối với toàn bộ vấn đề của cải, đó là một cuộc giải phẫu vét sạch nỗi đam mê nắm giữ của cải khỏi cuộc đời anh ta đi. Anh ta khoe khoang là đã vâng giữ các điều răn, nhưng lời khoe khoang đó là dối trá, mà sự giàu có của anh ta chính là điều đã ngăn trở không cho anh ta vâng giữ chúng. Giá anh ta đã đem tài sản mình cứu trợ và an ủi người khác, thì lệnh truyền này đã chẳng hề được đưa ra cho anh ta, nhưng vì anh ta ham của cải, cho nên hoặc là anh ta phải từ bỏ của cải mình đi, hoặc phải từ bỏ việc theo đạo của Chúa Giê-xu.
Không phải của cải bị lên án, nhưng là một thái độ nào đó đối với của cải. Đó là thái độ qua đó một người đã bị của cải mình ám ảnh, chiếm hữu, đã bị cái tham vọng làm ra nhiều tiền, có nhiều tiền, nắm giữ nhiều tiền thống lĩnh mình đến nỗi người ấy không thể thực hiện việc sử dụng tài sản theo nguyên tắc của một người Cơ Đốc được nữa.
3. Trong khúc sách tiếp theo câu chuyện vị quan trẻ tuổi giàu có không nói rằng người giàu không thể nào vào Nước Trời được, nhưng nói rằng điều đó là hết sức khó khăn (Ma 19:23-26; Mác 10:23-27; Lu 18:24-27). Rõ ràng là tiền bạc, của cải, có thể trở thành nguy cơ đích thực cho đời sống một người.
Sự kiện hết sức rõ ràng là một người càng có nhiều tiền bao nhiêu thì càng gặp cám dỗ nhiều bấy nhiêu. Có rất nhiều điều không thể cám dỗ người nghèo được. Anh ta không hề bị cám dỗ theo lối sống xa hoa, phung phí vì đây là điều anh ta không thể có được; trứng cá muối và rượu sâm banh không thể cám dỗ được một anh chàng chỉ đủ tiền để mua bánh mì với bơ. Anh ta cũng không bị cám dỗ phải có đến hai ngôi nhà, khi anh ta phải sử dụng hết thì giờ để có được một ngôi nhà mà thôi. Một người cũng không bị cám đỗ ăn dưng ngồi rồi trong lúc không thể nghỉ việc mình dù chỉ một ngày. Kẻ có nhiều tiền trong túi càng dễ phạm nhiều tội hơn, đây là một sự kiện vô cùng đơn giản. Có nhiều tiền có thể là một trắc nghiệm thật sự đối với tinh thần đạo đức
của một người. Bảo rằng ‘chúng tôi chưa bao giờ có nhiều tiền đến thế’ cũng đồng nghĩa với bảo rằng ‘chúng tôi chưa bao giờ gặp nguy hiểm đến thế’. Một xã hội giàu sang cũng là một xã hội đang lâm nguy. Có một loạt những cám dỗ mới đang mở ra cho kẻ có đủ tiền để mua chúng. Sự cám dỗ uống rượu say rắc rối, phức tạp chỉ mở rộng cho kẻ nào có đủ tiền mua rượu để nhậu nhẹt. Hễ đời sống càng phức tạp và văn minh (sophiticated) bao nhiêu, thì các nền móng của nó cần phải được vững chắc hơn bấy nhiêu. Một người càng giàu có bao nhiêu, người ấy sẽ càng cần có Thượng Đế bấy nhiêu. Không phải việc chiến đấu gian khổ với những thời kỳ khó khăn đã làm băng hoại nhiều dân tộc, mà chính là việc họ không có đủ khả năng để đối phó với sự giàu có thịnh vượng và xa hoa phung phí. Sử ký La-mã kể lại câu chuyện của Hannibal, vị đại tướng của Carthage, và các đạo quân của ông ta. Ông ta và đạo quân của mình hầu như là bất khả chiến bại. Rồi họ đến nghỉ qua mùa đông tại Capua là nơi nổi danh về sự xa hoa và lộng lẫy. Thế là đạo quân của Carthage đã không còn được như trước nữa. Nguy cơ tột đỉnh xảy đến khi một cá nhân hay một dân tộc đạt được những điều mà về mặt đạo đức không thích hợp với mình. ‘Bạn chưa bao giờ đạt được một đỉnh cao đến như thế’ có thể là câu kết thúc không phải của lời khoe khoang cao ngạo của một chính trị gia nhưng của bản án tử hình cho một quốc gia, dân tộc.
4. Chúng ta hãy xem xét chi tiết hơn về các nguy hại của của cải.
a. Nó có thể sản sinh ra một ý thức độc lập giả tạo. Một người có thể cảm thấy mình có thể bỏ tiền ra để mua tất cả, để muốn làm gì tùy ý. Sir Robert Walpole từng bảo rằng mỗi một con người đều có một giá mà mình trả được và có những người hoặc có ý thức hoặc vô ý thức nghĩ rằng mọi hoàn cảnh, mọi tình huống đều có cái giá của nó. Quả thật là có rất nhiều cánh cửa mà tiền bạc có thể mở và có nhiều lối thoát mà tiền bạc có thể khai thông, nhưng chẳng ai đến với những ngày tàn của mình mà không khỏi âu sầu phát giác ra rằng có nhiều điều không được gắn một bảng giá nào - mà nhưng điều đó lại là quan trọng hơn tất cả.
b. Lắm lúc muốn được tiền bạc người ta đã phải trả một giá quá đắt. Không một người phản bội nào sẽ được hạnh phúc. Giu-đa Ích-ca-ri-ốt đã khám phá ra điều đó khi phát giác được rằng cái giá phải trả cho ba mươi miếng bạc là tự sát (Ma 27:3-5). Có cả một thị trường ma túy, một thị trường thói hư tật xấu một thị trường sách báo dâm ô, và tiền kiếm được trong các thị trường đó thì phải trả giá quá đắt. Đã có một đợt sóng ăn trộm vặt mà chỉ riêng ngành công kỹ nghệ mà thôi, đã phải thừa nhận là mình phải trả đến 70.000.000 Anh kim một năm. Có những trường học phải đóng học phí rất đắt, trong đó các thiếu nữ sẽ không được đánh giá là ‘quý phái’ nếu chưa ăn cắp được một vật gì đó trong một cửa hàng bách hoá. George Macdonald kể lại một
người buôn vải đã làm giàu nhờ đặt những ngón tay cái bên trong cây thước để đo sao cho mỗi yard vải (thước Anh) bị ngắn đi một hai inch (phân Anh). Và Macdonald nói ‘Anh ta đã lấy của là hồn mình để bỏ vào chiếc túi bạc’. Một gia tài bằng tiền bạc thật là quá nhỏ để thay thế cho một linh hồn của con người.
c. Một người càng có nhiều tài sản trong thế gian này bao nhiêu, thì người ấy sẽ càng khó từ bỏ nó bấy nhiêu. Chúa Giê-xu phán ‘Vì của cải các con để đâu, lòng các con sẽ bị thu hút vào đó’ (Ma 6:21). Có lần sau khi đến nhà và thấy cơ ngơi của một người giàu, Tiến sĩ Johnson quay sang người bạn cùng đi với mình và nói ‘Đây là những điều khiến người ta khó chết được lắm đây’ Một người có thể ‘quá vấn vương’ với thế gian này, đến nỗi quên lửng đi rằng hãy còn một thế giới khác nữa.
d. Một trong những hậu quả lạ lùng của sự giàu có, ấy là rất có thể nó sẽ tạo ra nơi một người không phải là cái cảm giác vững vàng rằng mình đã có vừa đủ rồi, nhưng là lòng tham muốn luôn luôn có thêm nhiều hơn. Có ai đó đã nói rằng ‘Vừa đủ bao giờ càng nhiều hơn điều mà người ta đang có một chút.’ Như một tục ngữ La-mã nói ‘Của cải cũng giống như nước muối. Càng uống nhiều càng muốn uống thêm nữa.’ Điều lạ lùng thường xảy ra, ấy là một người càng có nhiều bao nhiêu, thì lại càng muốn kiếm thêm nhiều hơn và càng muốn cho đi ít hơn.
5. Bây giờ còn lại năm nguyên tắc quan trọng cần ghi nhận, mà một khi được ghi khắc vào tâm trí, sẽ cứu được người ta khỏi sa vào các nguy cơ của sự giàu có:
a. Chúng ta kiếm tiền như thế nào? Chúng ta có làm ra tiền bằng cách chẳng gây thiệt gại, tổn thương cho ai cả, nhưng còn hỗ trợ và làm giàu thêm cho cộng đồng, hay không? Chúng ta có làm ra nó một cách hoàn toàn ngay thật, mọi chi tiết minh bạch dưới ánh sáng ban ngày không? Chúng ta có làm ra nó mà chẳng hề bóc lột ai cả, đem công sức và sự phục vụ ngay thật tạo nên giá trị cho nó hay không? Chúng ta có làm ra tiền luôn luôn vì sự an vui phúc lợi và chẳng bao giờ gây tổn hại cho cộng đồng hoặc bất cứ một cá nhân nào trong cộng đồng hay không? Ứng dụng các trắc nghiệm này, chúng ta sẽ chẳng bao giờ bị sai lạc trong việc làm ra tiền.
b. Chúng ta xem tiền bạc như thế nào? Chúng ta có coi nó là ông chủ mà mình phải phục vụ hay không? Chúng ta có xem nó theo như thái độ của một người theo khắc khổ chủ nghĩa, nghĩa là xem nó như một kẻ thù mà chúng ta chẳng có dính dáng gì tới, hay không? Hay chúng ta xem nó như một người bạn, mà việc sử dụng nó có thể khiến cho cuộc đời của chúng ta và của nhiều người khác càng được phong phú thêm? Có lần ông Okamura, thư ký của tổ chức Thanh Niên Cơ Đốc Kobe kể với ông Kagawa là một Cơ Đốc nhân rất nổi tiếng về những khó khăn của tổ chức của mình, về các món nợ chồng chất, về các kế hoạch đang gặp thất bại vì thiếu tiền. ông Kagawa cho tay vào túi, lấy ra một bức thư. Trong bức thư có một tấm ngân phiếu 1.000 Anh kim mà sáng hôm đó, ông ta đã nhận được của nhà xuất bản trả tiền cho quyển sách vừa mới được xuất bản của ông. Ông trao tấm ngân phiếu cho ông Okamura. Ông Okamura nói ‘Làm sao tôi có thể nhận có cho được.’. Ông Kagawa nói ‘Ông phải nhận’ và nhét vào túi ông Okamura. Ông Okamura về nhà, viết một bức thư cố gắng thuyết phục ông Kagawa hãy nhận lại tấm ngân phiếu. Ông viết ‘Ông không nên chi tiền như vậy.’ Ông Kagawa đã viết thư phúc đáp ‘Tại sao lại không? Khi bạn thân của ông sắp chết thì chỉ có một điều duy nhất phải làm - là sang máu của mình để cứu sống anh ta’. Nếu chúng ta xem tiền bạc như một vật cần phải đem san sẻ cho người khác, nó sẽ trở thành người đầy tớ trung thành của chúng ta. Nếu chúng ta xem nó như một vật phải khư khư giữ lấy nó sẽ trở thành chủ nhân ông của chúng ta. Nếu chúng ta xem nó như một vật để được sử dụng trong tình yêu thương nó sẽ trở thành một trong những thế lực mạnh mẽ trên thế giới.
c. Chúng ta phải sử dụng tiền bạc như thế nào? Những điều kể trên đưa chúng ta đến câu hỏi không tránh được là phải sử dụng tiền bạc như thế nào? Chúng ta có dùng nó cách ích kỷ không? Chúng ta có kiếm tiền để chi dụng cho riêng mình và gia đình mình mà thôi không?
Chúng ta có muốn dùng nó để khiến cho cuộc đời mình càng huy hoàng hơn không? Lúc John Wesley mới đến Oxford, lợi tức của ông là 30 Anh kim một năm. Ông tiêu 28 Anh kim và cho đi 2 Anh kim. Sau đó lợi tức của ông tăng lên 60, 90, rồi 120 Anh kim một năm. Ông vẫn tiếp tục tiêu 28 Anh kim và số còn lại thì cho hết. Quy luật của ông là ‘tiết kiệm tất cả những gì tôi có thể tiết kiệm để có thể dâng tất cả những gì tôi có thể dâng’. Nếu câu hỏi chính yếu của một người là tôi có thể dâng được bao nhiêu tiền? Thì người ấy sẽ chẳng bao giờ bị nhầm lẫn.
d. Có một nguyên tắc chẳng bao giờ được quên. Con người bao giờ cũng quan trọng hơn đồ vật; con người bao giờ cũng quan trọng hơn tiền bạc; công nhân bao giờ cũng quan trọng hơn máy móc. Đây chính là nguyên tắc mà người ta đã quên đi trong những ngày cách mạng công kỹ nghệ. Hồi đó, các điều kiện lao động, sinh hoạt, lương bổng đều đứng hàng thứ yếu sau sản xuất và tiền lời. Cũng có những người nhìn thấy sự việc đang xảy ra. Có lập luận đưa ra là các nhà máy kéo sợi sẽ không thể duy trì được nếu không sử dụng sức lao động của trẻ con. Thomas Carlyle đã gầm lên ‘Nếu ma quỉ len lỏi vào trong các nhà máy kéo sợi của các ông, hãy đóng cửa hết đi!’ Chính việc xem thường con người, những người nam và nữ, các quyền căn bản của con người khiến cho ngày nay chúng ta phải chịu hậu quả là sự ngờ vực và bất ổn trong nền công kỹ nghệ hiện đại. Chúng ta chẳng bao giờ bắt đầu có được một quan điểm đứng đắn về tiền bạc và tài sản cho đến khi nào chúng ta chịu chấp nhận nguyên tắc con người phải được ưu tiên. Và đó chẳng những là Cơ Đốc giáo thuần chánh, mà còn là làm kinh tế đứng đắn nữa, vì rốt cuộc thì chỉ có người công nhân có hạnh phúc mới là người công nhân giỏi mà thôi.
e. Hãy còn một nguyên tắc cuối cùng nữa. Lắm khi chỉ dâng tiền mà thôi thì vẫn chưa đủ.
Nhiều khi người ta chỉ chi tiền để trốn tránh một trách nhiệm còn nặng nề hơn. Tôi không thuộc hạng người xem thường sự hào hiệp của những cho tiền bằng cách nói: ‘Viết một chi phiếu ư?' Dể quá mà!’ Rất có thể là dể - nhưng có rất nhiều người có thể viết chi phiếu mà chẳng chịu viết. Tuy nhiên, phải nói là còn có một nhu cầu vượt hẳn việc cho tiền một cách lạnh lùng, dửng dưng. Có lời kể về một người rất hào hiệp trong việc chi tiêu, nhưng rồi cũng dừng ngay lại ở đó.
‘Ông ta đã cho rất nhiều, nhưng chẳng bao giờ chịu cho chính mình.’ Và có nhiều khi sự tự cống hiến chính mình mới là quà tặng quan trọng nhất vì đó chính là món quà mà Chúa Giê-xu đã tặng cho nhân loại.