Chương tám
CƠ ĐỐC NHÂN VÀ CỘNG ĐỒNG
Mọi người đều nhất thiết phải sống trong hai thế giới. Người ta sống bên trong bốn bức tường tại nơi mình gọi là nhà riêng, nơi sống chung với chính những người trong gia đình mình. Đó là thế giới riêng tư của người ấy. Nhưng rồi rồi người ta cũng phải ra khỏi nhà riêng, khỏi gia đình mình để sống trong một thế giới công cộng. Người ấy không phải chỉ là thành viên của một gia đình mà thôi; người ấy còn là một thành viên của một cộng đồng, một quốc gia, một thế giới nữa. Con người không phải chỉ là một con người riêng tư, mà còn là một công dân nữa. Thái độ của một con người đối với thế giới có thể có nhiều hình thức:
1. Người ấy có thể bị chìm ngập hoàn toàn trong thế giới. Anh ta có thể đắm mình vào đó và sống dường như chẳng còn một thế giới nào khác nữa. Thái độ của người ấy có thể là ‘Hãy ăn, uống, và hưởng thụ, vì ngày mai chúng ta sẽ chết’, như Herrick nói ‘Hãy thu thập cho mình những nụ hồng trong khi bạn còn có thể làm được.’ Và như Catullus cũng nói là hãy chồng chất những nụ hôn lên cho cao, vì một khi cuộc đời này qua đi rồi, sẽ chẳng còn lại gì cả ngoài một đêm tối vô bờ và một giấc ngủ chẳng bao giờ thức dậy nữa.
Nhưng cũng có một cách khác để tự đắm mình vào thế giới, một phương pháp thông thường hơn cách vừa kể trên. Tự đắm mình vào thế giới không nhất thiết chỉ có nghĩa là đắm mình vào các lạc thú của thế gian; không nhất thiết chỉ có nghĩa là ăn, uống và hưởng thụ, vui chơi. Có nhiều người đang đắm mình trong thế giới này theo nghĩa là họ không hề ý thức rằng hãy còn có một thế giới khác nữa. Họ không hề sống phi luân vô đạo; họ không hề lao đầu vào lạc thú. Họ chỉ đi ra đi vào, sống một cuộc đời đứng đắn khả kính, và chẳng bao giờ nghĩ đến một thế giới hay một đời sống nào khác. Họ hầu như chẳng hề hay biết có điều gọi là tôn giáo, có một nơi được gọi là nhà thờ, Hội thánh. Họ không hề đố kỵ, thù ghét gì tôn giáo cả. Và nếu họ có nghĩ đến nó đi chăng nữa, họ chỉ xem nó như một cái gì hoàn toàn không phù hợp, một cái gì mà họ chẳng hề cần đến. A.J. Gossip thường nói ‘Bạn đã thấy một nhà giảng Tin Lành nhỏ trong một ngỏ cụt của một đường phố, trong khi dòng người qua lại trên vỉa hè của con đường mà chẳng hề nhìn vào, nhìn lui hay nghĩ gì đến.’ Đó là Hội thánh đối với rất đông người - ngày nay đối với đại đa số có lẽ là như vậy. Đắm mình vào thế gian không nhất thiết có nghĩa là một người thích hưởng lạc; nó chỉ đơn giản là chẳng hay biết gì cả về những chân trời vượt khỏi cuộc đời này.
2. Một người có thể chọn một cuộc sống đối lập và hoàn toàn chối bỏ cuộc đời này. Luôn luôn có một khuynh hướng mệnh danh là tư tưởng Cơ Đốc giáo mà lại không hề có ích gì cho đời này cả; và bao giờ cũng có những người tự ý tự nguyện tự tách riêng ra khỏi cuộc đời này được bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Thomas à Kempis bảo rằng các vị thánh vĩ đại nhất đều tự ý trốn tránh xã hội loài người để cố sống cho Thượng Đế và với một mình Thượng Đế mà thôi. Các thế kỷ thứ ba và thứ tư là thời kỳ huy hoàng của các tu sĩ và các nhà ẩn tu, khi họ tự ý quay lưng lại với cuộc đời và loài người để đi sống trong sa mạc, và nếu có thể được thì ở nơi đó không nhìn thấy cả một nhà ẩn tu nào khác nữa.
Đã có một nhà ẩn tu từng sống năm mươi năm trên đỉnh núi Si-na-i. Ông ta chẳng màng nhìn cả các du khách và khách hành hương đã đến để đặc biệt thăm viếng ông ta. Ông ta nói ‘Người nào thường được những con người trần thăm viếng, thì không thể được các thiên sứ viếng thăm’.
Có một người tên là St Simeon Stylites rất nổi tiếng, được biết dưới cái tên là người trụ. Ông ta thử sống trong một hang đá; ông đã từng đào một lỗ huyệt và sống dưới đó, chỉ ló cái đầu lên mà thôi. Cuối cùng, vào năm 423 SCN ông ta tự xây cho mình một cây trụ cao hai mét và bắt đầu sống trên chóp cây trụ ấy. Ông ta chẳng bao giờ xuống đất nữa. Ông ta đã sống trên chóp cây trụ của mình như vậy không dưới ba mươi bảy năm, và cây trụ cứ ngày càng dược xây cao thêm cho đến khi nó cao đến 20 mét. Ông ta là người đầu tiên trong số nhiều vị thánh sống-trên-chóp-trụ, đã chọn lối sống ấy để tự cách ly khỏi thế gian. Có những người gọi là tự nhốt mình (inclusi). Họ chọn một góc cao nhỏ hẹp nào đó của một tu viện và thật sự xây gạch để nhốt mình vào đó, chỉ chừa lại một khe hẹp để có thể chuyển một số thức ăn thức uống tối thiểu vào cho họ. Người chiếm kỷ lục về cách sống này đã sống như thế suốt hai mươi lăm năm. Có người hỏi qua chiếc lỗ nhỏ ‘Anh còn sống không?’ Và ông ta trả lời ‘Tôi tin là mình đã chết đối với thế gian rồi!’ Những người như vậy cố gắng sống dường như thế gian này không còn nữa. Theo nhiều phương diện, thì đây là những cách sống vị kỷ nhất, vì họ chỉ lo cứu chính linh hồn họ bằng cách hết sức đơn giản là tự cách ly khỏi mọi người khác. Như đã nói, họ vốn lưu tâm chú ý đến thiên đàng đến nỗi chẳng có ích lợi gì cho trần gian nữa. Họ hoàn toàn chối bỏ thế gian - và đó là một bức biếm họa, một cách bắt chước lệch lạc Cơ Đốc giáo.
3. Vậy nên đã có một số người tự đắm mình vào thế gian này, mà cũng có một số người đã nhân danh Cơ Đốc giáo để từ chối thế gian này và tự cách ly càng xa càng tốt để khỏi có liên hệ gì với thế giới này cả. Theo quan điểm của Đạo đức học Cơ Đốc, thì cả việc đắm mình vào thế gian, lẫn tự cách ly với thế gian đều không thể nào đúng được, Chúa Giê-xu nói rõ rằng những người theo Ngài không còn thuộc về thế gian này nữa (Giăng 17:14, 16). Họ không còn thuộc về thế gian này đến nỗi thế gian này sẽ thù ghét họ y như thế gian từng thù ghét chính Ngài vậy (Giăng 15:18, 19; 17:14). Cho nên, rõ ràng chẳng hề có ai đã theo Chúa Giê-xu mà lại còn đắm mình trong thế gian. Mặt khác, Chúa Giê-xu cũng vạch rõ rằng Thượng Đế yêu thương thế gian (Giăng 3:16). Ngài đã không cầu nguyện cho các môn đệ Ngài được cất khỏi thế gian, mà cầu xin để họ được bảo vệ khỏi điều xấu xa gian ác của thế gian (Giăng 17:15). Và cuối cùng, Ngài đã cố ý và đặt kế hoạch để sai phái họ đi vào trong thế gian (Giăng 17:18).
Thái độ của Cơ Đốc nhân đối với thế gian phải là thái độ kết hợp cả vừa dấn thân mà cũng vừa tách biệt. Điều này nghe thì kỳ dị nhưng không hẳn vậy đâu. Tôi nghĩ có thể nói rất đúng rằng việc kết hợp cả sự dấn thân và tách rời này là đặc điểm của công tác của rất nhiều người, chẳng hạn như của vị mục sư và vị bác sĩ. Lẽ dĩ nhiên là vị mục sư và vị bác sĩ phải dấn thân hết mình, phải tự hòa mình sâu đậm với những người mà họ muốn giúp đỡ. Nhưng đồng thời, các vị cũng phải có khả năng lùi lại để nhìn vào các sự kiện sao cho việc phán đoán của các vị không bị quá nhiều tình cảm, bị quá nhiều sự dịu dàng mềm yếu che mờ đi. Nhiều khi các vị nhất thiết phải tỏ ra nghiêm khắc trong tình thương, và cứng rắn trong sự tử tế, dịu dàng.
Sự dấn thân và tách tời này là đặc điểm thái độ của Cơ Đốc nhân đối với thế gian. Người ấy phải dấn thân vào thế gian này và sinh hoạt của nó như của nó như chính Chúa Giê-xu vậy; nhưng đồng thời đối với người ấy thế gian không phải là tất cả. Nó chỉ là ngưỡng cửa để người ấy bước vào một đời sống rộng lớn hơn khi cuộc đời này kết thúc. Người ấy sống và sống hết mình trong thế gian này, nhưng luôn luôn với niềm tin quyết rằng hãy còn một cái gì đó ngoài cái thế gian này điều đó cuối cùng sẽ ban cho thế gian này một giá trị và một ý nghĩa.
Bây giờ, chúng ta trực tiếp quay sang Tân Ước, và chúng ta phải đối diện với sự kiện Tân Ước trông đợi và tất nhiên đòi hỏi một người phải là một công dân tốt. Chúa Giê-xu từng sẵn sàng và tự nguyện nộp thuế cho đền thờ mà bất cứ người Do Thái nào cũng phải nộp (Ma 17:24-27). Ngài không hề thắc mắc về điều một người phải có nghĩa vụ đối với Hoàng đế cũng như phải có nghĩa vụ đối với Thượng Đế, và cả hai đều phải được chu toàn (Ma 22:15-22).
Phao-lô tự hào là một công dân La-mã, và không ngần ngại đòi hỏi các quyền lợi công dân của mình (Công 21:39; 22:25). Ông viết cho người La-mã về mối liên hệ giữa Cơ Đốc nhân với nhà nước, và ông vạch rõ rằng nhà nước là một định chế do Thượng Đế thiết lập, cho nên Cơ Đốc nhân có bổn phận phải thuận phục nhà nước. Các quan tòa là đầy tớ của Thượng Đế, và nếu người nào làm điều phải, thì chẳng hề phải sợ hãi gì; chỉ có kẻ phạm tội ác và làm điều sai trái thì mới có lý do để sợ hãi mà thôi. Phải nộp các sắc thuế nhà nước, và các nhà cầm quyền phải được tôn trọng theo quan điểm của Phao-lô (Rôm 13:l-7). Cơ Đốc nhân có bổn phận nhớ cầu nguyện cho những ngừời đang phụ trách các công tác công cộng từ Hoàng đế trở xuống (I Ti 2.2). Phi-e-rơ cũng tin chắc là kẻ làm công dân phải có nghĩa vụ đối với các nhà cầm quyền. Ông nói ‘Hãy
kính sợ Thượng Đế và tôn trọng vua’ (I Phi-e-rơ 2:17).
Rồi bỗng nhiên trong sách Khải thị, chúng ta chợt bị xoay ngược nửa vòng, vì trong sách ấy, Rô-ma là con đại dâm phụ uống huyết các thánh đồ và những người tử đạo (Khải 17:l-7). Với Giăng của sách Khải thị thì Đế quốc La-mã đã trở thành chính bản thể và là sự nhập thể của quyền lực gian ác của Sa-tan. Đã có gì xảy ra? Tại sao lại có sự khác nhau như vậy.
Trong những ngày hưng thịnh của mình, công lý và sự vô tư của La-mã được mọi người biết đến. Các dân tộc bị La-mã chinh phục không hề thù ghét, mà còn biết ơn họ nữa. Bọn hải tặc bị quét sạch khỏi vùng biển, còn bọn cướp bóc thì bị tiêu trừ trên các trục lộ. Mọi người có thể du hành an toàn và sống trong cảnh thái bình, nhờ nền hòa bình La-mã (the pax Romana). Lẽ tự nhiên là thiên hạ bắt đầu nói về Rô-ma, là tinh thần của Đế quốc La-mã như là một cái gì thiêng liêng thần thánh và ngay từ hồi thế kỷ thứ hai TCN, thiên hạ đã xây nhiều đền thờ để thờ lạy thành phố Rô-ma thần thánh. Nếu mọi sự việc chỉ dừng lại ở đó, thì đã chẳng có rắc rối lớn xảy ra. Nhưng chính bước kế tiếp theo đó đã gây ra niềm dị biệt. Thờ lạy tà thần của La-mã Đế quốc thì cũng được thôi, nhưng dầu sao thì tinh thần của Đế quốc La-mã cũng chỉ là một cái gì trừu tượng; và cái trừu tượng ấy đã nhập thể nơi Hoàng đế. Cho nên lần lần việc thờ lạy được chuyển sang Hoàng đế là sự thể hiện của La-mã Đế quốc. Vào những ngày đầu tiên của kỷ nguyên Cơ Đốc, các đền thờ dựng nên để thờ Hoàng đế Sê-sa vốn rất phổ biến.
Thoạt tiên, quả thật là các Hoàng đế không hề muốn thế. Họ rất lúng túng xấu hổ trước toàn thể sự việc Nhưng rồi lần lần nhà nước La-mã bắt đầu nhìn thấy công dụng có tầm mức rộng lớn của việc thờ lạy Sê-sa này. Đế quốc La-mã là một khu vực rộng lớn, kéo dài từ sông Danube, đến Bắc Phi, và từ Anh quốc đến sông Ơ-phơ-rát. Thật là khó đặt được một tiêu điểm, một vật chung nào đó, để nhờ đó đoàn kết được mọi bộ tộc, mọi dân tộc trong đế quốc ấy. Bỗng nhiên chính quyền La-mã nhận thức được rằng họ đã có được điều ấy nơi chính việc thờ lạy Sê-sa. Chúng ta thường đề cập Hoàng gia Anh quốc là điều đã kết hợp được cả Khối Thịnh Vượng Chung lại với nhau; và cũng tựa như việc muốn thống nhất Khối Thịnh Vượng Chung, thì chúng ta thiết lập việc thờ lạy Nữ hoàng. Cuối cùng thì chính quyền La-mã đã quy định việc tất cả các công dân, mỗi năm một lần, phải thắp một nắm hương cho Sê-sa và nói ‘Sê-sa là Chúa’, rồi được cấp cho một chứng chỉ bảo rằng công dân ấy đã có làm như vậy. Tuy nhiên cũng phải công bằng đối với La-mã nữa. Ấy là sau khi đã làm như vậy, người kia có thể ra đi, thờ lạy bất cứ vị nam thần hoặc nữ thần nào tùy thích, miễn là việc thờ phượng đó chẳng gây tác hại gì cho trật tự công cộng hay nền luân lý đạo đức chung. Việc thờ lạy Sê-sa là một trắc nghiệm về lòng trung thành trên phương diện chính trị của một người, nhiều hơn là trên phương diện tôn giáo. Nhưng điều mà các Cơ Đốc nhân không thể nói là ‘Sê-sa là Chúa’. Với họ, chỉ có Chúa Cứu Thế Giê-xu mới là Chúa mà thôi - ngoài ra chẳng còn có Chúa nào khác. Do đó mà cuộc bắt bớ bách hại lại bùng nổ, như thi sĩ William Watson đã có thơ rằng:
Thế là con sói rừng thù ghét và gào thét săn đuổi bầy chiên chạy đứt hơi, túm tụm vào với nhau, mà tội ác của họ là Chúa Cứu Thế. Và đến đó thì sách Khải thị ra đời. Trong thời của Phao-lô, chẳng có gì giống như thế cả. Đến thời của sách Khải thị, thì người ta đang đôn đốc việc bắt buộc phải thờ lạy Sê-sa.
Sở dĩ phải nói tất cả những việc trên đây, vì vấn đề là Cơ Đốc nhân phải là công dân tốt, phải là công dân thuận phục có quyền - nhưng cũng có những giới hạn và người ấy sẽ chẳng bao giờ vượt ra khỏi. Trong đời sống một Cơ Đốc nhân, chỉ có một sự trung thành tối cao: đó là lòng trung thành đối với Chúa Cứu Thế Giê-xu, và sự trung thành đó có quyền ưu tiên trên lòng trung thành đối với gia đình, với nhà nước, với mọi việc khác cho nên có thể có lúc một Cơ Đốc nhân có bổn phận phải bất tuân phục nhà nước và Cơ Đốc nhân phải giữ vững lập trường đó để đến lúc cần họ phải theo đó mà hành động. Có thể việc ấy vẫn không đến trong cả một đời người; có thể việc ấy vẫn không đến trong vòng một thế kỷ - nhưng nó có thể đến - và đây là một điều mà chúng ta không thể quên. Sau đó, chúng ta hãy nhìn vào mối liên hệ giữa Hội Thánh với Cơ Đốc nhân, và với nhà nước.
Tùy theo thời thế, mối liên hệ ấy có thể có nhiều hình thức:
1. Có nhiều khi Hội thánh đã áp đảo được nhà nước. Có một trong những gương mặt vĩ đại của Hội thánh nguyên thủy, là giám mục Ambrose ở Milan. Ông vốn là bạn thân của hoàng đế La-mã Theodosius, cũng là một Cơ Đốc nhân. Theodosius là một người tốt và hào hiệp, nhưng lại có tính khí bất thường, khiến lắm lúc hoàng đế hành động như một người loạn trí vậy. Bấy giờ, có chuyện rắc rối tại Tê-sa-lô-ni-ca mà hậu quả là quan tổng đốc bị ám sát. Theodosius đã phản ứng thật cuồng bạo. Hoàng đế chờ cho đến khi dân chúng tụ tập trong diễn trường nhân các cuộc tranh tài thể thao, đã sai quân đội của mình đến và 7.000 người gồm cả nam nữ và trẻ con bị giết ngay tại chỗ họ đang đứng. Chẳng bao lâu sau đó, vì hoàng đế tính nóng như lửa này cảm thấy hối hận về việc mình đã làm. Thật ra, hoàng đế đã truyền hoãn thi hành lệnh của mình lại, nhưng vì quá muộn nên không thể thực thi được Hoàng đế đến Milan, vào thờ phượng trong đại thánh đường, vì hoàng đế rất chú trọng vào việc thờ phượng, nhưng Ambrose ra đứng trước cửa đại thánh đường để chận đường của hoàng đế. Vị giám mục không chịu để cho hoàng đế vào trong thánh đường. Theodosius đã phải sám hối suốt một năm; hoàng đế không được phép tham dự thánh lễ suốt một năm; và cuối cùng, hoàng đế đã phải ngồi chung với số người phải ăn năn sám hối, là cũng phải quỳ dưới dưới đất để lạy trước cửa đại thánh đường trước khi vị giám mục chịu tiếp nhận ông ta. Đã có thời đại Hội thánh Cơ Đốc đã có thể truyền lệnh cho một hoàng đế của trần gian phải quỳ dưới đất mà lạy.
Sự việc cũng đã xảy ra giống như vậy cho Hery đệ nhị sau khi Tổng giám mục Canterbury là Thomas Becket bị giết. Becket vốn là người đại diện đi đòi hỏi các quyền lợi cho Hội thánh. Vua Henry từng đặt câu hỏi cho các quần thần ‘Ai dám loại trừ cho ta tên linh mục lắm chuyện này?’ Nghe theo lời vua, trong đám quần thần có kẻ đã giết Becket ngay trong ngôi đại thánh đường của mình. Thế là có một ngày, vua Henry đã phải mặc áo lông, ăn bánh mì lạt và uống nước lã, phải đi chân không dưới trời mưa đến tận nơi Becket đã bị giết, rồi phải nằm dài xuống đất để chịu cho vị giám mục, vị tu trưởng và các linh mục đánh đòn, trước khi được nhận lại vào Hội thánh.
Trong lịch sử, có những thời kỳ Hội thánh áp đảo nhà nước, và các vua, các hoàng đế phải quỳ xuống trước một uy quyền cao hơn uy quyền của họ. Nhưng chắc chắn là các thời kỳ ấy đã vĩnh viễn qua rồi, tuy chúng ta có thể cãi lại rằng ngay trong thời đại của chúng ta đây, Hội thánh cũng từng buộc vua Edward đệ bát phải thoái vị, vì vua này muốn lập lên làm nữ hoàng nước Anh, một phụ nữ mà Hội thánh thấy không phải là người thích hợp. Hội thánh vẫn còn thế lực, nhưng không phải là thế lực áp đảo tối hậu như đã từng có trước kia.
2. Đã có những thời kỳ Hội thánh được hoàn toàn độc lập với nhà nước, và Hội thánh tuyên bố là mình đang hành động đưới một uy quyền mà nhà nước cũng phải đầu phục. Đây là quan điểm cá biệt của xứ Tô-cách lan. Chúng ta được thấy việc này bộc lộ rõ ràng trong những xung đột giữa John Knox với Nữ hoàng Mary. Nữ hoàng Mary vốn ghét việc John Knox hay can thiệp vào công việc của bà ta, nhưng câu trả lời của John Knox là ‘Tâu nữ hoàng, theo thiển ý thì ngoài tòa giảng ra, rất ít có ai phiền trách giận hờn tôi; nhưng tại đó, tâu nữ hoàng, tôi không còn là chủ của mình nữa, nhưng phải tuân thủ các lịnh truyền dạy tôi phải nói thẳng, và đừng nịnh bợ một người nào trên mặt đất này cả.’ Ông là người mang một sứ điệp từ Thượng Đế gởi đến, và không ai có thể ngăn trở việc ông phải truyền rao bức thông điệp ấy. Ông nói ‘Tâu nữ hoàng, nhiệm vụ của tôi là phải cảnh cáo trước những việc vốn có thể làm tổn hại cho Khối Thịnh Vượng Chung.’ Các hoàng đế, các vua chúa, các nữ hoàng nữ vương cũng như người dân thường đều phải lắng nghe lương tâm của quốc gia dân tộc mình. Khi vị nữ hoàng khóc, Iohn Knox nói ‘Tôi phải làm cho nữ hoàng khóc dầu là ngoài ý muốn, còn hơn là dám gây tổn thương chính lương tâm mình hay phản bội Khối Thịnh Vượng Chung bằng việc cứ giữ im lặng.’ Sự thật phải được nói ra. Viện trưởng trường Maxwell cảnh cáo ông rằng nếu ông cứ tiếp tục chống đối nữ hoàng, ông sẽ phải nhận chịu hậu quả. John Knox nói ‘Thưa ông viện trưởng, tôi không hiểu ông ngụ ý muốn nói gì. Bản thân tôi không hề chống lại Nữ hoàng, ngoại trừ ở cương vị giáo chủ, và trong cương vị đó, tôi nghĩ là ông không muốn tôi phải cúi đầu.’ Một khi đã có một sứ điệp Thượng Đế gởi đến ,thì cho dầu sứ điệp ấy có gì đi nữa, nó cũng phải được truyền rao. Một trong các cố vấn của nữ hoàng nhắc nhở ông rằng lúc ấy, ông không đứng trên tòa giảng mà đang đứng trước mặt nữ hoàng. John Knox đã lớn tiếng quật lại ngay ‘Tôi đang đứng tại chỗ mà tôi bị đòi hỏi phải nói sự thật; cho nêu tôi phải nói. Tôi chỉ nói sự thật, bất chấp người nghe nó là ai đi chăng nữa’ Khi nữ hoàng than phiền về cái giọng truyền giảng của ông. John Knox trả lời rằng là một con người, ông vốn chẳng hơn gì một con sâu con bọ, nhưng ông vẫn là một thần đân của Khối Thịnh Vượng Chung và Thượng Đế đã giao cho ông chức vụ khiến ông trở thành ‘người canh giữ trên đất nước đồng thời cũng trên Hội thánh mà Thượng Đế đã tập họp.’ Đây là thái độ mà cả vị nữ hoàng lẫn người dân thường đều phải có khi lắng nghe lời phải được nói ra của Thượng Đế, và đã được nói ra không chút sợ hãi.
Cách diễn tả cổ điển này là trong các lời của Andrew Melville nói với vua James đệ lục. Chính phủ và quốc hội có chỉ định một phái đoàn đến thăm nhà vua tại Falkland. Trong phái đoàn này có James Melville, Patrick Galloway, James Nicolson và Andrew Melville. Thoạt tiên có quyết định là James Melville sẽ phải là người phát ngôn, vì ông vốn là người ăn nói ôn tồn mà có lẽ là nhà vua sẽ chịu nghe. Nhưng nhà vua vốn ‘hay cáu kỉnh và nóng nảy’, cho nên Andrew Melville phải chen vào. Ông nắm tay áo của nhà vua, gọi nhà vua là chư hầu ngu dại của Thượng Đế’: Rồi ông nói: ‘Tâu hoàng thượng, chúng tôi bao giờ cũng hạ mình tôn kính hoàng thượng, nghĩa là trước công chúng, nhưng vì chúng tôi được cơ hội này để đến với hoàng thượng nơi tư riêng, và sự thật là hoàng thượng đang đưa sự nguy hiểm cùng cực đến cho đời sống và chiếc ngai vàng của hoàng thượng, và đồng thời với hoàng thượng là vương quốc này và Hội thánh của Chúa Cứu Thế cũng bị nguy nan, vì không nói ra sự thật cho hoàng thượng, không đưa ra một lời khuyên trung thành cho hoàng thượng, là chúng tôi đã không làm tròn nhiệm vụ của mình, hoặc cũng đã phản bội cả Chúa Cứu Thế lẫn hoàng thượng nữa!. Và tâu hoàng thượng như nhiều lần trước đây và bây giờ nữa, tôi phải nói với hoàng thượng rằng tại Tô-cách-lan đang có hai nhà vua và hai vương quốc. Có Chúa Cứu Thế Giê-xu là Vua, và vương quốc của Ngài là Hội thánh mà thần dân là Vua James đệ lục và đối với vương quốc này, ông này không phải là vua, không phải là nhà quý tộc hay lãnh tụ, nhưng chỉ là một thành viên mà thôi’.
Cũng bằng giọng điệu như vậy, Melville đã ngỏ lời với quan Phụ chính là Bá tước Morton. Morton từng than phiền rằng xứ Tô-cách-lan sẽ không có hòa bình trong khi Melvilla vẫn còn ở đó, và hăm dọa sẽ đày biệt xứ ông ta. Melville đáp:
‘Thôi đi, thưa Ngài! Ngài lại hăm dọa các triều thần như vậy hay sao? Với tôi thì có xương tàn cốt rụi ở trên trời hay dưới đất, thì cũng như nhau mà thôi. Đất là của Chúa tôi, đất tổ của tôi, là bất cứ nơi nào có việc làm tốt... Nguyện Thượng Đế được tôn vinh, vì quyền treo cổ hay lưu đày chân lý của Thượng Đế không ở trong thẩm quyền của Ngài đâu.’
Theo truyền thống Tô-cách-lan, thì Hội thánh được hoàn toàn độc lập. Nó không tạo phản hay làm cách mạng; nó xuất phát từ hình thức trung thành cao cả nhất, là xuất phát từ mềm tin quyết rằng những điểm dị biệt sẽ không còn nữa khi người ta đứng trước hiện diện Thượng Đế, và rằng người của Thượng Đế phải nói ra bất luận người nghe có là ai đi chăng nữa. Hoàng đế, nhà vua, nữ hoàng, nữ vương hay người dân thường, tất cả đều là thần dân của Thượng Đế.
3. Có những thời kỳ Hội thánh đầu phục và trở thành kẻ quỵ lụy nhà nước. Có một bức thư dài khác thường do Thomas Coke, là bàn tay mặt của John Wesley, đã viết cho Bộ trưởng nội vụ Henry Dundas hồi đó. Ngày viết bức thư ấy là 8 tháng 11 năm 1798. Bấy giờ cố chuyện rắc rối tại mấy đảo ở eo biển Channel; Pháp quốc đang đe dọa xâm lăng và dân chúng thuộc nam giới có sức khỏe đã được lệnh phải đi học huấn luyện quân sự vào những ngày chúa nhật. Một số tín đồ Giám lý từ chối không chịu đi tập luyện quân sự trong các ngày chúa nhật; họ sẵn sàng thụ huấn gấp đôi thì giờ trong suốt tuần lễ, mà theo ý họ, thì không thể phàm tục hóa, làm ô uế ngày chúa nhật thiêng liêng được. Thomas Coke có nhiều bạn thân có chức vị cao, và ông viết thư cho họ để cố gắng thay nhiều việc ban hành một chỉ thị nhằm quy định việc bắt bớ thật sự số người không chịu thụ huấn quân sự. Ông chẳng ích lợi gì cho đảng Dân chủ. ‘Khi có một số lớn đảng viên Dân chủ len lỏi vào giữa chúng ta, đến con số khoảng 5.000, thì tôi là phương tiện chủ yếu để hoàn toàn trục xuất họ khỏi xã hội của chúng ta’ Ông cũng chẳng ích lợi gì cho những người chủ hòa. ‘Theo thiển ý, thì trong phần mở đầu của Luật pháp có bảo là có một số người đã từ chối không chịu mang vũ khí. Tôi chỉ được nghe một lần tại Jersey đã có người đáp ứng đúng với phần mô tả này, và anh ta đã bị đuổi ra khỏi Đảo rồi. Chúng tôi không bào chữa cho một người như thế. Chúng tôi xem họ giỏi lắm thì cũng như những kẻ cuồng tín khốn khổ, hay những kẻ hèn nhát quá mức, và không phản đối việc lưu đày họ. Họ chẳng có quyền gì để được Luật pháp bảo vệ cho, vì chính họ vốn không sẵn sàng bảo vệ các luật lệ đang lâm nguy.’ Và rồi Coke lại kết thúc một cách đáng kinh ngạc. ‘Thưa ngài, thật tình tôi có thể nói rằng tuy tôi rất yêu mến xã hội của chúng ta, nhưng tôi yêu nhà vua và quê hương mình càng nhiều hơn nữa’ (John Vickers Thomas Coke, Apostle of Methodism, p.224).
Một Hội thánh quỵ lụy là một đại họa cho quốc gia dân tộc. Người ta đã nói về Ambrose rằng ông là ‘lương tâm được nhân cách hóa của tất cả những gì là tốt đẹp nhất trong Đế quốc La-mã. Ông đã bảo với Theodosius ‘Ai dám nói ra sự thật cho hoàng đế, nếu một vị linh mục không dám nói?’ Một dân tộc không có một Hội thánh độc lập thì đã đánh mất lương tâm của mình.
4. Có những thời kỳ nhà nước từ chối không cho Hội thánh lên tiếng về việc nước, vì nhà nước chủ trương rằng những việc ấy không phải là công việc của Hội thánh. Lúc Hitler lên cầm quyền thoạt đầu ông ta không hề đe dọa Hội thánh, nhưng rất cẩn thận không để cho một Cơ Đốc nhân chân chính nào được có chút quyền lực nào cả. Ông ta chủ tâm gạt bỏ họ qua một bên, vì ông công khai thừa nhận là không muốn một ai trong chính quyền của mình trung thành với bất cứ ai khác ngoài trung thành với nhà nước. Lúc Niemoller, một Cơ Đốc nhân độc lập vĩ đại, đến bảo với Hitler rằng ông ta đang lo lắng về tương lai của Đức quốc. Hitler đã thẳng thừng trả lời rằng ‘Chuyện đó thì để mặc cho tôi lo’.
Goebbels, vị bộ trưởng tuyên truyền lừng danh từng bảo với Hội thánh nói chung ‘Các giáo phẩm dính dáng vào chuyện chính trị phải lưu ý rằng nhiệm vụ duy nhất của họ là chuẩn bị cho cuộc đời hầu đến.’ Ông ta không phản đối các nhà truyền đạo chú trọng vào thiên đàng, miễn là họ cứ bỏ mặc nước Đức cho Hitler.
Điều 88 của Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vạch rõ ‘Các công dân ... Trung quốc được hưởng quyền tự do tín ngưỡng.’ Câu ấy đã nói lên đúng ý nó muốn nói. Chẳng hề có tự do hội họp, thờ phượng, truyền giảng, chủ động đề xướng một hoạt động nào hay chỉ trích bất kỳ một chính sách nào. Miễn là tín ngưỡng chỉ là một điều hoàn toàn có tính cách nội tâm, chẳng ảnh hưởng gì đến cách ăn ở ứng xử hay các mối liên hệ với người khác hay với nhà nước, thì có tự do tín ngưỡng đấy. Nhưng nếu tín ngưỡng đe dọa biến thành hành động, thì nó sẽ bị bóp chẹt ngay tức khắc (Richard C.Bush Jr., Religion in Communist China. pp. 15-22).
Vào thời của Nữ hoàng Victoria, Lord Melbourne có đưa ra một lời phát biểu lừng danh rằng tôn giáo là một điều tuyệt vời, bao lâu nó không can thiệp vào đời tư của một người. Và một nhà nước độc tài không hề phản đối tôn giáo miễn là nó biết giữ mồm giữ miệng đối với mọi việc của trần gian, mà chỉ chú trọng vào các giấc mơ về thiên đàng mà thôi - và lẽ tất nhiên là điều này sẽ thu hẹp Hội thánh lại để chỉ còn là một tổ chức không có ý nghĩa gì.
5. Cuối cùng, chúng ta phải xét đến mối liên hệ giữa Hội thánh với nhà nước trong tư tưởng của Martin Luther, vì có thể nói rằng không hề có quan điểm nào lại tạo ảnh hưởng trên lịch sử và cả trên thời đại của chúng ta nhiều hơn nó, và không có một quan điểm nào lại bị người ta hiểu lầm nhiều hơn nó. Chúng ta có thể gặp quan điểm của Luther ở hai chỗ. Ở một chỗ thì ông chia thiên hạ ra làm hai nhóm, ở chỗ khác ông chia đời sống ra làm hai lãnh vực.
Chúng ta có thể bắt đầu với phần khảo luận về Thế Quyền: nó phải được vâng phục đến chừng mực nào, từng được gởi cho John, hầu tước Saxony năm 1523 (quyển 3 trong Các tác phẩm của Luther của nhà xuất bản Philadelphia, pp. 228 et seq; cũng được nêu ra thích hợp nhất trong tác phẩm Martin Luther của E.G.Rupp và Benjamin Drewery, pp.107-112). Phần khảo luận này chia thiên hạ thành hai nhóm. Có những người là tín hữu chân chính, thuộc về Nước Trời, và những người không tin Chúa và thuộc về nước của đời này. Nếu tất cả mọi người đều là tín hữu chân chính, thì chẳng còn cần đến vua, chúa, gươm giáo hay luật pháp nữa. Họ sẽ làm mọi điều luật pháp đòi hỏi và còn hơn thế nữa. Mặt khác, có những người không tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu và đạo Ngài. ‘Kẻ bất chính chẳng làm điều gì mà luật pháp đòi hỏi cả, do đó, cần được luật pháp dạy dỗ, thúc đẩy, giục giã họ phải làm lành’ Về những người không thuộc về Chúa Cứu Thế, thì ‘Thượng Đế đã cung cấp...một chính quyền khác ngoài lãnh thổ của Cơ Đốc giáo và Nước Trời, và đã đặt họ phải chịu đầu phục lưỡi gươm để khi họ làm như vậy, họ không thể đi theo sự gian ác của mình, mà nếu có làm họ sẽ không thể làm điều ác mà không bị lo sợ hoặc làm trong sự bình an, và hưng vượng được.’ Không thể nào thử cai trị thế gian bằng Phúc âm và tình yêu thương của nó. Nếu có ai cố gắng làm như vậy, ‘kẻ ấy sẽ cởi ra các dây cột và các xiềng xích những con thú rừng hung dữ, để cho chúng cấu xé, phân thây tất cả mọi người.’ Trước khi bạn đem đạo của Chúa Cứu Thế để ứng dụng cho tất cả mọi người, thì mọi người phải trở thành Cơ Đốc nhân đã - mà khiến mọi người trở thành Cơ Đốc nhân là điều bạn chẳng bao giờ hoàn tất nổi. Thử cai trị thế gian bằng Phúc âm sẽ giống như hành động của một người chăn chiên đem nhốt chó sói, sư tử, đại bàng và chiên chung với nhau, rồi bảo chúng hãy tương trợ lẫn nhau. Hậu quả sẽ là sự hỗn loạn. Cơ Đốc nhân thật sự là Cơ Đốc nhân thì không cần luật pháp, nhưng những người không phải là Cơ Đốc nhân thì cần có nó. Do đó mà lưỡi gươm rất cần thiết ‘vì gươm là một ích lợi và một sự cần thiết lớn lao cho toàn thế giới, nhằm duy trì hòa bình, trừng phạt tội lỗi và ngăn chận điều ác. Các Cơ Đốc nhân rất sẵn sàng tự nguyện phục tùng việc cai trị bằng gươm, nộp thuế, tôn trọng các nhà cầm quyền, phục vụ, giúp đỡ và làm tất cả những gì mình có thể làm được để củng cố chính quyền để mọi người đều tôn trọng và nể sợ chính quyền.’ Do đó, Cơ Đốc nhân bị bắt buộc phải phục vụ và yêu thích lưỡi gươm của chính quyền, cũng như người ấy sẽ phục vụ và yêu thích bất luận một định chế nào khác về sự sống do Thượng Đế thiết lập, như đạo vợ chồng chẳng hạn. ‘Phải có người bắt giữ, buộc tội, giết bỏ và tiêu diệt kẻ ác, và bảo vệ, tha bổng, bênh vực và giải cứu người ngay lành.’
Vậy chính Luther đã lý luận rằng khi nào vẫn còn có hai loại người - những người ở trong và ở ngoài Nước Trời - thì không thể nào thu xếp một xã hội theo các nguyên tắc của tình yêu thương Cơ Đốc được. Cần phải có luật pháp và bạo lực; phải có lưỡi gươm và quan tòa. Và muốn thấy có an ninh và trật tự tốt đẹp, Cơ Đốc nhân bắt buộc phải tôn trọng, và nếu có khả năng, thì phải phục vụ nhà nước và nếu một Cơ Đốc nhân có đủ tư cách thì người ấy phải phục vụ nhà nước. ‘Cho nên, nếu bạn thấy đang thiếu đao phủ thủ, công chức, thẩm phán, vua chúa, và nhận thấy mình có đầy đủ tư cách, thì bạn phải ra ứng cử vào các chức vị ấy, để nhất thiết chính quyền khỏi bị khinh dể, trở thành vô hiệu, hay bị diệt vong.’ Điều hết sức đơn giản, ấy là Luther bảo rằng bạn không thể nào cai trong một thế giới phi Cơ Đốc giáo bằng tình yêu thương của Chúa Cứu Thế được, và trong một thế giới như vậy, bạn cần phải dùng gươm, và tất cả những gì gươm tiêu biểu cho nhằm chống lại kẻ gian ác.
Đoạn thứ hai còn đi xa hơn nhiều. Nó nằm trong các bài giảng của Luther về Bài Giảng Trên Núi (Các Tác phẩm của Luther ấn bản Mỹ, quyển 21, H. 106-115). Đoạn ấy ở trong một bài giảng về Ma 5:38-42, chỗ Chúa Giê-xu dạy chúng ta hủy bỏ nguyên tắc mắt đền mắt và răng đền răng, và dạy chúng ta đừng chống lại kẻ ác, mà phải đưa luôn má bên kia, giao luôn cả áo ngoài lẫn áo trong, và không phải là một dặm mà đi luôn hai dặm đường.
Trong bài giảng này, quan điểm của Luther là Cơ Đốc nhân đang sống trong hai lãnh vực. Luther bảo trong khúc sách này, Chúa Giê-xu dạy cá nhân một Cơ Đốc nhân phải sống đời tư của mình như thế nào. Với tư cách cá nhân, không nắm giữ một địa vị công quyền nào, thì Cơ Đốc nhân không bao giờ nên mong muốn trả thù. Họ phải có thái độ là nếu bị ai tát, thì phải sẵn sàng, nếu cần, chìa luôn má kia cho kẻ kia nữa, kìm chế để khỏi trả thù chẳng những bằng nắm tay, mà cả bằng tấm lòng, bằng tư tưởng và bằng tất cả sức lực mình có nữa.’ Bài giảng trên núi được dành cho Cơ Đốc nhân với cương vị một con người và một cá nhân.
Nhưng Cơ Đốc nhân không phải chỉ là một cá nhân riêng lẻ, người ấy còn là một con người trong mối liên hệ với nhiều người khác nữa; và ở đây thì tình hình khác hẳn. Quan điểm của Luther quan trọng đến mức chúng ta để cho chính môi miệng ông nói ra, và chúng tôi xin trích dẫn lời ông, tuy có phần hơi dài dòng.
"Chẳng thể nào né tránh việc này, một Cơ đốc nhân phải là một con người phàm tục theo một cách thế nào đó. Về bản thân người ấy, theo đời sống làm Cơ Đốc nhân của người ấy, thì người ấy chẳng hề phải chịu đầu phục ai ngoài Chúa Cứu Thế - chẳng bề bị bó buộc gì đối với hoàng đế hay một ai khác cả. Nhưng ít nhất là ở bề mặt, theo thân xác và tài sản, thì người ấy có liên hệ để phải chịu đầu phục, phải có bổn phận đối với hoàng đế, bởi vì người ấy đang có một chức vị, một vị trí nào đó trong đời sống hoặc có nhà cửa, gia đình, vợ con; vì tất cả những điều đó đều có liên hệ đến hoàng đế. Trong việc này, người ấy nhất thiết phải làm theo những gì mà những đòi hỏi ngoại tại của đời sống dạy bảo, đòi hỏi mình. Nếu người ấy có một ngôi nhà, vợ con hoặc tôi tớ, mà không chịu trợ cấp cho họ, hoặc nếu cần thì bảo vệ cho họ, là người ấy đã làm sai. Người ấy không thể viện lý rằng mình là một Cơ Đốc nhân để do đó mà quên lửng đi hay vứt bỏ tất cả.
Nhưng phải bảo người ấy rằng: Nay nhà người ở dưới quyền kiểm soát của hoàng đế. Ở đây, tên của ngươi không phải là ‘Cơ Đốc nhân’ nhưng là ‘cha’ là ‘Nhà quý tộc’ hoặc là ‘công tước’. Theo con người riêng của ngươi, thì ngươi là một Cơ Đốc nhân; nhưng trong mối liên hệ với người đầy tớ của mình, thì người là một con người khác hẳn và có bổn phận phải che chở bảo vệ cho nó.’
Chắc bạn đã thấy là chúng ta đang đề cập đến một Cơ Đốc nhân trong mối liên hệ với nhiều người khác; chúng ta không nói việc người ấy là một Cơ Đốc nhân, nhưng nói về đời sống người ấy, và bổn phận của người ấy đối với một người khác, hoặc là ở dưới quyền, hoặc là trên quyền, hoặc cả là ngang hàng với người ấy nữa, như một ông hoàng bà chúa, một người vợ hay một đứa con, hay những người láng giềng mà người ấy có nghĩa vụ phải bênh vực, giữ gìn và bảo vệ. Nếu ở đây mà dạy là: ‘Hãy đưa luôn má kia, vứt luôn cả áo ngoài lẫn áo trong của ngươi’, là sai lầm.
Làm như vậy thì thật là lố bịch, như trường hợp một ông thánh khùng để mặc cho chí rận cắn mình, không chịu giết chúng đi vì cớ này, đoạn Kinh Thánh khăng khăng bảo rằng mình phải chịu khổ mà không nên kháng cự lại kẻ ác.’
Sau đây là khúc sách vốn là điểm then chốt của toàn thể vấn đề này:
‘Bạn có muốn biết đâu là nhiệm vụ của mình với tư cách một công tước, một quan tòa, hay một ông hoàng một bà chúa đối với những người dưới quyền mình không? Bạn không cần phải hỏi Chúa Cứu Thế về bổn phận của mình. Hãy tra hỏi bộ luật của hoàng đế hoặc của vùng lãnh thổ. Nó sẽ nói ngay cho bạn biết nghĩa vụ của mình đối với những người dưới quyền mà bạn chính là người phải bảo vệ cho họ. Nó sẽ dành cho bạn cả cái quyền lẫn sức mạnh để trừng phạt trong giới hạn uy quyền của bạn. Không phải với tư cách một Cơ Đốc nhân, nhưng theo cương vị là một thần dân của hoàng đế.’
Rồi Luther trích dẫn một trường hợp của những người bị gọi nhập ngũ do những hoàng đế vô thần:
‘Họ chém giết với lương tâm trong trắng, và về mặt này, thì chẳng có gì phân biệt giữa các Cơ Đốc nhân với những người ngoại đạo. Nhưng họ không hề phạm tội chống lại đoạn Kinh thánh này. Vì họ đã không hề làm việc ấy với tư cách những Cơ Đốc nhân, cho chính họ, nhưng với tư cách là những thần dân phải đầu phục, bị một con người và nhà cầm quyền thế tục bắt buộc mình’.
Cho nên:
‘Lúc một Cơ Đốc nhân ra trận hay ngồi vào chiếc ghế của một quan tòa để trừng phạt người lân cận mình, hay khi người ấy trình lên một bản thỉnh cầu hay một lời than phiền khiếu nại với chính quyền, thì người ấy đã không làm thế với tư cách một Cơ Đốc nhân, nhưng với cương vị một người một thẩm phán hay một luật gia... Một Cơ Đốc nhân thì không nên kháng cự một kẻ ác nào, nhưng trong phạm vi chức vụ của mình, một con người trần tục phải chống lại tất cả những điều ác. Người chủ nhà không thể chấp nhận sự bất phục tùng hay gây gổ với nhau giữa đám tôi tớ mình. Một Cơ Đốc nhân không nên kiện cáo ai cả, mà phải giao cả áo trong lẫn áo ngoài cho kẻ nào muốn cướp lấy chúng, nhưng một con người phàm tục thì phải phải đi kiện nếu có thể tự vệ chống lại bạo lực hoặc cướp bóc. Tóm lại, luật của Nước Trời của Chúa Cứu Thế là phải khoan dung mọi sự, tha thứ tất cả, và lấy thiện báo ác. Mặt khác, trong lãnh thổ của một hoàng đế, thì không thể tỏ ra khoan dung với bất kỳ một sự bất công nào, mà trái lại, phải có việc bảo vệ chống lại và trừng phạt điều sai trái, và phải có nỗ lực nhằm bảo vệ và duy trì lẽ phải, tùy theo sự đòi hỏi của chức vụ và địa vị của từng người.’ Quả thật là trong bài khảo luận của Luther - chớ không phải là trong bài giảng của ông - ông đã vạch rõ là có những giới hạn, và ngay đến nhà vua cũng không có quyền đòi hỏi điều sai trái.
Nhưng đó không phải là ấn tượng chính mà lời truyền dạy của ông để lại nơi chúng ta. Cái ấn tượng được để lại là trong địa hạt thế tục, thì chính quyền là tối cao, và chính là xuất phát từ đó - chớ không phải là từ Chúa Cứu Thế - mà Cơ Đốc thân phải nhận lấy nghĩa vụ của mình. Và chính là do sự kiện ấy đã cho phép Hitler lên cầm quyền và lập ra các trại tập trung Belsen và Dachau.
Giáo hội Lutheran đã không đứng ngoài, vì đã quen với việc phải chấp nhận quyền lực dân sự.
Tất cả đều có thể được thấy dưới hình thức khủng khiếp nhất trong thái độ của Luther đối với cuộc khởi nghĩa Nông dân vào những năm 1524 - 5. Các nông dân đã nổi dậy. Dưới mắt Luther, thì họ đã vi phạm điều răn của Chúa Giê-xu là hãy trả cho Sê sa vật gì của Sê-sa (Ma 22:21). Họ đã vi phạm luật trong Kinh Thánh liên hệ đến việc phải thuận phục nhà nước, như Phao-lô đã vạch rõ trong Rô-ma chương 13. Do đó, theo lời lẽ của Luther, họ đã đánh mất cả xác lẫn hồn, như kẻ vô đạo, phản bội lời thề, lưu manh, lừa đảo, vô lại, bất tuân hành luật pháp vẫn thường làm. Họ là bọn gây chia rẽ và do đó, bị đặt ra ngoài vòng pháp luật của Thượng Đế và của đế quốc. Với bất kỳ một nông dân nào ‘người đầu tiên nào giết được họ, là người làm đúng làm phải,... Do đó, bất cứ ai có thể thì cứ đánh, giết, đâm chết, hoặc kín giấu hoặc công khai, vì nhớ rằng chẳng có gì lại có thể độc hại, gây tổn thương và quỉ quái hơn những kẻ nổi loạn. Việc này chẳng khác gì người ta phải giết con chó điên.’ Họ có thể bị tàn sát, cả không cần phải đem ra xét xử nữa. ‘Ở đây, không còn thì giờ để mà ngủ; không còn chỗ cho sự nhẫn nại hay thương xót.
Đây là thì giờ của lưỡi gươm, chớ không phải là ngày ân điển... Thật là những thể kỳ lạ lùng, khi một nhà vua có thể hưởng được nước thiên đàng bằng việc làm đổ máu, hơn cả những con người được hưởng nó bằng sự cầu nguyện!’.
Thiết tưởng không phải là quá đáng khi bảo rằng nền đạo đức học của Luther về Hội thánh và nhà nước là tai họa lớn lao nhất trong cả lịch sử đạo đức học, vì nó đã mở đường cho một thứ Cơ Đốc giáo cho phép nhà nước thực hiện những điều khủng khiếp nhất mà không hề phản kháng, trong rất nhiều trường hợp. Không thể nào chia đời sống thành ra hai lãnh vực như vậy. Một Cơ Đốc nhân là một Cơ Đốc nhân trong bất cứ phạm vi nào của đời sống và Chúa Cứu Thế Giê-xu vẫn là Chúa mình cả trong những việc thánh thiêng lẫn những việc trần tục.
Thật là không phải lẽ chút nào khi bỏ mặc vấn đề trong tình trạng mơ hồ, trừu tượng và tổng quát hóa như vậy. Chúng ta phải tự hỏi chẳng hay đạo đức học Cơ Đốc thật ra phải có mặt ở đâu.
Tôi thiết nghĩ có ba lãnh vực trong đời sống hiện đại là những nơi rất cần có lời chứng đặc biệt của đạo đức Cơ Đốc.
1. Thứ nhất là trong lãnh vực chủng tộc chủ nghĩa. Có một số sự kiện đơn giản cho thấy vấn đề này là có thật như thế nào. Hiện đã có đến một triệu người da màu di dân đến Anh quốc. Đến khoảng năm 1980 con số ấy sẽ tự nhiên tăng lên ba triệu. Trong các trường đại học đã có khoảng 15.000 sinh viên, còn trong các trường cao đẳng kỹ thuật, thì đã có đến 48.300 sinh viên từ hải ngoại đến. Hai phần trăm sinh viên hậu đại học trong xứ từ hải ngoại đến. Hiện nay có 3 phần trăm thanh niên rời ghế nhà trường là người da màu; vào khoảng giữa thập niên bảy mươi, con số ấy sẽ tăng thành 15 phần trăm. Và đây là sự kiện thật sự nghiêm trọng. Các viên chức sắp xếp công ăn việc làm cho thanh niên vạch rõ rằng họ phải dành nhiều thì giờ để sắp xếp công ăn việc làm cho các di dân vừa rời ghế nhà trường cũng ngang hàng với số thì giờ họ phải bỏ ra để tìm việc làm phù hợp cho các trẻ con bị khuyết tật vậy. Hầu như một người da màu đi tìm việc làm thì cũng gặp khó khăn như một người bị khuyết tật (R.H.Fuller and B.K. Rice, Christianity and the Affuent Society, p. 137). Fuller và Rice đã ghi lại một loại vấn đề giống nhau hết sức kỳ lạ.
Tại Ấn-độ hiện nay có hai triệu thanh niên đã tốt nghiệp trung học thất nghiệp và 200.000 người có bằng cử nhân không có việc làm. Vấn đề kỳ thị chủng tộc không phải là một chuyện mà người ta có thể chờ đợi thời gian đưa ra câu trả lời.
Theo một ý nghĩa rất thật, thì thế giới cổ thời vốn là một thế giới có chia rẽ, kỳ thị. Điều này đặc biệt có trong hai lãnh vực. Dân Do Thái được phân biệt với các dân ngoại quốc khác. Đối với một người Do Thái, thì trẻ con người ngoại quốc vốn ô uế ngay từ thuở sơ sinh. ‘Con gái một người Y-sơ-ra-ên sẽ không đỡ đẻ cho một phụ nữ ngoại quốc, vì làm như vậy là người ấy tiếp tay cho việc đưa ra đời một đứa bé thờ thần tượng.’ Ngay trong những việc thông thường nhất ở đời, sự việc ấy đã xảy ra. Một người Do Thái sẽ không chịu để một người ngoại quốc cắt tóc cho mình. Một người Do Thái không chịu ăn bánh mì do một người ngoại quốc làm, cũng không chịu uống sữa bò do một người ngoại quốc vắt, trừ phi khi có một người Do Thái khác có mặt trong khi vắt sữa. Nghi ngờ người ngoại quốc là điều hết sức rõ ràng, sâu sắc. ‘Không nên gởi súc vật trong quán trọ của người ngoại quốc vì họ bị nghi ngờ là có thú tính, một phụ nữ cũng không ở một mình giữa họ, vì họ bị nghi ngờ là dâm ô; hoặc cả một người đàn ông cũng không ở một mình giữa họ, vì họ bị nghi ngờ là thích làm đổ huyết’ (Mấy câu trên đây được trích từ sách Mislmah, phần Abodah Zarah 2.1, 2, 6).
Có sự phân rẽ giữa người Hy-lạp với người dã man. Từ ngữ dã man (barbarian) trong Hy văn nguyên có nghĩa là một người nói một ngôn ngữ khác, một kẻ nói bí ba bí bô chẳng ai hiểu gì cả, như một con chó sủa, thay vì nói tiếng Hy-lạp đẹp đẽ, dịu đàng. Chúng ta gặp ý nghĩa này hai lần trong Tân Ước. Trong bức thư thứ nhất gởi cho người Cô-rinh-tô, Phao-lô có nói khi đề cập ân tứ nói tiếng lạ và việc người ta không hiểu được các thứ tiếng ấy ‘Khi tôi không hiểu ngôn ngữ nào, người nói ngôn ngữ đó chê tôi man rợ, và tôi cũng chê họ man rợ’ (I Cô 14:11). Khi thuật lại chuyện đắm tàu trong sách Công vụ, Lu-ca kể lại thế nào Phao-lô và đoàn người cùng đi với ông bị chìm tàu tại đảo Man-ta, rồi kể tiếp ‘Những người dã man (hay man rợ, theo nguyên văn) tiếp đãi chúng tôi rất niềm nở’ (Công 28:2). Trong Hy văn, một người man rợ thường chỉ đơn giản là một người nói một thứ tiếng mà chẳng ai hiểu gì cả. Nhưng rồi lần lần, từ ngữ ấy không chỉ đơn giản đề cập một người nói một ngôn ngữ khác, mà còn là một người xuất thân từ một nền văn hóa thấp kém ‘những linh hồn man rợ’. Người dã man khác với người Hy-lạp. Và do đó mà nhiều nhà văn lớn người Hy lạp như Plato, Demosthenes, Isocrates, có thể dùng hàng loạt những câu như người man rợ là ‘kẻ thù theo thiên nhiên’, rằng họ là ‘những kẻ thù’ tự nhiên và theo di truyền; rằng họ là thù địch ‘theo lẽ tự nhiên và theo truyền thống’, rằng giữa họ và người Hy-lạp có ‘chiến tranh liên miên không dứt’ (TC T.J. Haarhoff, The Stranger at the Gate, pp. 8, 13, 60, 65, 66). Nhưng với người Hy-lạp và người La-mã, hãy còn một phương diện khác nữa. Kịch tác gia người La-mã là Terence từng nói ‘Tôi không hề xem một người nào là người xa lạ cả’
Diogenes tự xưng là một công dân thế giới. Có lẽ chính ông đã đặt ra từ ngữ cosmopolitan (thuộc về thế giới chủ nghĩa). A-lịch-sơn đại đế thì đề cập việc mình muốn cho Đông phương và Tây phương kết hôn với nhau, để hòa lẫn mọi chủng tộc của loài người trong một chiếc cốc yêu thương vĩ đại.
Thế giới cổ thời đúng đã có sự chia rẽ, kỳ thị; nhưng không có sự ngăn cách do màu da. Đã có chia rẽ về tôn giáo, văn hóa, truyền thống, nhưng việc khinh rẻ trắng trợn một con người với tư cách một con người - vốn là cơ sở của việc kỳ thị màu da - đã không hề có. Thế mà ngày nay, nó lại hiện diện ngay tại đây, chớ không những chỉ tại Nam Phi mà thôi.
Lãnh vực liên hệ chủng tộc là một lãnh vực khác nữa trong đó loài người đã từng gieo gió, cho nên đang phải gặt bão. Nhiều năm trước đây, một nữ tác giả tên là Janet Mitchell có viết một quyển sách, trong đó bà kể lại câu chuyện về một chuyến viếng thăm Hoa-kỳ. Một trong những chủ điểm trong chuyến đi của bà, là việc đến thăm Paul Robeson, một ca sĩ và diễn viên lớn, mà bà đã được giới thiệu. Bà đang ở nhà bạn bè tại Chicago, và hào hứng nói về chuyến đi thăm Paul Robeson sắp đến. Bà nhận thấy bầu không khí trở thành tẻ nhạt. Bà hỏi ‘Thế có chuyện gì vậy?’ Các bạn của bà trả lời rằng ‘Chúng tôi không muốn trò chuyện quá nhiều về chuyến đến thăm Paul Robeson, nếu chúng tôi là bà.’ Janet Mitchell hỏi ‘Thế vì lý do trên trời dưới đất nào, mà tôi lại không nên đề cập chuyện ấy? Ông ta là một ca sĩ và là một diễn viên vĩ đại nhất thế giới kia mà?’ Chủ nhà của bà đáp ‘Có lẽ đúng như vậy, nhưng ông ta là một người da đen.’ Nếu bạn đối xử với một người hay một nhóm người nào theo cách đó, tức là bạn đang tự chất chứa cho mình cả một kho rắc rối mà có ngày nó sẽ nổ bùng lên - mà nó thật đã nổ bùng lên rồi đấy. Tôi đã đọc được ở đâu đó câu chuyện về một họa sĩ được đặt thiết kế một cửa sổ bằng kính màu, minh họa cho bài thánh ca của các thiếu nhi:
‘Kìa trên thiên đàng hàng ngàn trẻ nhóm nhau Vui vẻ vòng quanh ngôi thánh. Hát rằng ‘Vinh quang, vinh quang, Duy Cha thánh đáng hưởng vinh quang’
Bản thiết kế đã xong; bức tranh sẽ được dùng làm mẫu cho khung cửa sổ đã hoàn tất, và ủy ban phụ trách sẽ xem nó ngày hôm sau. Đêm hôm ấy, nhà họa sĩ có một giấc mơ. Trong chiêm bao, ông thấy một người lạ trong xưởng vẽ của mình, và người lạ ấy đang cầm cọ và màu vẽ lên bức tranh của mình. Ông ta thét lên ‘Thôi, thôi đi. Ông làm hỏng mất bức tranh của tôi!’ Người lạ mặt quay lại và nói ‘Chính ông mới là người làm hỏng nó đấy’ Nhà họa sĩ nói ‘Tôi ấy à? Tôi mà lại làm hỏng bức tranh của tôi sao?’ Người lạ mặt đáp ‘Chắc chắn là ông đấy.’ Nhà họa sĩ bảo ‘Thế ông hãy giải thích đi!’ Người lạ mặt nói ‘Ai bảo với ông rằng đám thiếu thi trên thiên đàng tất cả đều có gương mặt trắng? Ông xem kìa! Tôi đang thêm vào những gương mặt đen.
Những gương mặt nâu, nhưng gương mặt vàng nữa kìa.’ Sáng ra, nhà họa sĩ thức dậy, và chạy nhanh vào xưởng vẽ của mình. Bức tranh vẫn y nguyên như lúc ông ta để nó ở đó. Ông chụp ngay bó cọ và vẽ thêm vào các gương mặt thiếu nhi đủ các màu da và thuộc mọi quốc gia dân tộc. Và khi ủy ban phụ trách nhìn thấy nó sau đó trong buổi sáng ấy, họ nói ‘Tuyệt vời! Đây chính là điều mà chúng tôi mong muốn! Đây quả là buổi họp mặt của cả gia đình Thượng Đế!’.
Có ai dám bảo rằng tất cả các gương mặt của con cái trong gia đình Thượng Đế đều là da trắng?
Tất cả những việc trên đây đều đúng, nhưng tôi nghĩ là bỏ mặc mọi sự việc như thế ở đây là chưa phải lẽ. Bạn không thể thu xếp vấn đề này nhờ vào một đợt sóng tình cảm mà thôi; hãy còn phải làm nhiều hơn nữa kia. Tôi có thể nói rằng cứ theo nguyên tắc mà nói, thì việc kỳ thị chủng tộc là hoàn toàn sai, và việc hội nhập là hoàn toàn cần thiết, nhưng tôi không biết mình sẽ cảm thấy như thế nào nếu phải sống trong một nước mà dân da trắng chỉ là thiểu số. Nhưng đây là điều mà chúng ta có thể quả quyết. Cân có và phải có sự công bằng về cơ hội và công bằng đối xử với tất cả mọi người. Điều đó cũng có thể có nghĩa là cần phải kiểm soát việc cho di dân nhập vào một xứ, nghĩa là tùy khả năng thu nạp của xứ ấy đối với số người mới tới, làm sao cho số di dân ấy có thể được cấp nhà ở tử tế, có đầy đủ công việc đứng đắn cho họ làm, và làm sao cho họ có thể thật sự hội nhập vào nền giáo dục, vào công việc làm ăn và vào sinh hoạt trong xứ. Nhưng một khi nguyên tắc con người vốn được Thượng Đế yêu thương chăm sóc đã được thừa nhận, thì phải sớm tìm cho ra phương pháp đứng đắn để đối xử với họ.
2. Lãnh vực thứ hai mà Cơ Đốc nhân phải chứng minh nền đạo đức Cơ Đốc, là lãnh vực của các điều kiện xã hội trong môi trường xã hội mà mình đang sinh sống.
Chính tại đây, Hội thánh có nhiều điều phải phô bày ra về cách sống của mình. Chẳng có gì để nghi ngờ là từ lâu, Hội thánh vốn được kết hợp chặt chẽ với thể chế và với nguyên trạng của xã hội. Dường như người ta cho rằng Hội Thánh chủ trương và hậu thuẫn cho việc duy trì các sự việc trong tình trạng hiện hữu của chúng. Trong thế kỷ thứ mười chín, Hội thánh từng liên quan với các giai cấp thượng lưu và trung lưu, mà ít có liên hệ với người công nhân.
Có một trong những điều khủng khiếp nhất mà tôi đã được đọc là về cuộc đời của Studdert Kennedy trong quyển sách của William Purcell. Vào thời của cha ông Kennedy, là thời của cuộc cách mạng công kỹ nghệ, trong khu nhà thờ thánh Phi-e-rơ tại Leeđs, có một người cùng khổ công khai đem quyển Kinh Thánh và quyển sách Cầu Nguyện Chung ra đốt, vì ông cho rằng hơn ai hết, Hội thánh phải chịu trách nhiệm về các điều kiện trong đó ông ta đang phải sống. Chính vào thời ấy, đã có một người nhà quê làm thuê cho một nông trại, khi được hỏi ông ta có dự Tiệc thánh không, thì ông ta đã trả lời rằng ‘Không, Loại công việc ấy chỉ dành cho giới tiểu quý tộc mà thôi’ - và điều thể thảm là sự kiện này phần lớn là có thật trước khi Jolln Wesley xuất hiện.
Phúc âm xã hội không phải chỉ là phần kèm theo Phúc âm, mà nó chính là Phúc âm. Nếu chúng ta đọc các sách phúc âm, chúng ta sẽ thấy rõ rằng không phải những gì Chúa Giê-xu đã phán về Thượng Đế đã đem rắc rối đến cho Ngài. Điều gây rắc rối cho Ngài chính là cách Ngài đối xử với những người nam và người nữ, cách Ngài tỏ ra thân thiện với hạng người mạt lưu mà chẳng hề có một người Do Thái tử tế, khả kính nào lại chịu dây vào. Nói về Thượng Đế thì bao giờ cũng khá an toàn. Chính khi chúng ta bắt đầu nói về con người thì rắc rối mới bắt đầu. Thế nhưng sự kiện đến nay vẫn còn, ấy là người ta không thể quan niệm được một phương pháp gì để chứng minh tình yêu thương đối với Thượng Đế khác hơn là bằng việc yêu thương người khác.
Cũng không thể quan niệm được một phương pháp nào để chứng minh rằng chúng ta yêu thương người khác, hơn là làm một việc gì đó cho những người cần được trợ giúp hơn hết.
Vậy, bây giờ, bổn phận của Cơ Đốc nhân là gì? Nhiệm vụ của Cơ Đốc nhân tùy thuộc một nguyên tắc không thể trốn tránh được. Nếu chúng ta nghĩ rằng có những điều kiện cần phải thay đổi, nếu chúng ta nghĩ rằng có một lãnh vực nào đó mà các điều kiện sinh sống không được như đáng lẽ phải có trong một đất nước được gọi là Cơ Đốc giáo, thì chỉ có một biện pháp duy nhất để thay đổi chúng - đó là nhờ hành động chính trị. Không còn có phương pháp nào khác để thực hiện việc thay đổi đó. Và điều này đưa chúng ta tới chỗ phải đối diện với câu kết luận không trốn tránh vào đâu được, là Cơ đốc nhân phải dấn thân sâu vào chính trị. Người ấy phải hoạt động tích cực trong chính quyền địa phương, người ấy phải là một thành viên tích cực trong nghiệp đoàn của mình, người ấy phải hoạt động tích cực và chịu trách nhiệm về chính trị trên cấp bậc quốc gia. Điều này không có nghĩa là người ấy phải là thành viên của một đảng phái chính trị riêng biệt nào, vì không hề có một đảng chính trị nào chiếm độc quyền lẽ phải độc quyền. Cơ Đốc nhân phải ở trong mọi đảng phái, phải hành động ở bất cứ nơi nào thương tâm của cộng đồng và làm động lực đưa tới hành động.
Chúng ta thường than phiền về hành động của chính quyền địa phương và của các nghiệp đoàn. Có một nguyên tắc đầu tiên là chẳng ai có quyền phàn nàn về công việc của người khác, trừ phi khi bản thân người ấy cũng sẵn sàng để tự tay mình làm việc ấy giỏi hơn, tốt hơn. Có một sự kiện hết súc đơn giản là lắm khi có những quyết định được đưa ra và những vấn đề được giải quyết chỉ do một thiểu số người đấu tranh có mặt mà thôi, trong khi số còn lại thì lánh mặt và không chịu nhận lấy các trách nhiệm của mình. Nếu chúng ta bỏ mặc cho người khác quyết định điều mà đáng lý ra chúng ta cũng phải góp phần thì chúng ta không có quyền phàn nàn. Chẳng hề có chất men nào làm lên men được một ổ bánh mì, trừ phi khi nó thâm nhập ổ bánh mì ấy, và một Cơ Đốc nhân sẽ chẳng bao giờ trở thành chất men cho một xã hội, trừ phi khi người ấy hoàn toàn dấn thân vào xã hội đó. Có lần Luther đã nói về một sự việc phi thường trong quyển khảo luận Về quyền tự do của Cơ Đốc nhân của ông. Ông nghĩ về tất cả những gì mà Thượng Đế đã ban cho ông trong Chúa Cứu Thế, sau đó, ông nghĩ về nghĩa vụ mà tình yêu thương và lòng hào hiệp đã được ban xuống trên con người đã tiếp nhận chúng, nhất là sự bó buộc phải sống giữa mọi người để phục vụ (làm tôi tớ) thiên hạ, như Chúa Giê-xu từng làm. Rồi ông nói ‘Do đó, tôi phải tự hiến thân theo như cách Chúa Cứu Thế, cho người lân cận tôi, như Chúa Cứu Thế đã tự hiến thân cho chính tôi vậy, và sẽ chẳng làm một việc gì trong đời này trừ phi khi tôi thấy nó là cần thiết, có lợi và tốt lành cho người lân cận tôi, vì bởi đức tin tôi phải làm những điều tốt đẹp cách dư dật trong Chúa Cứu Thế.’ Đây là tiếng nói của một người phải tự hiến thân cho cộng đồng. Mỗi một Cơ Đốc nhân cần phải cảm thấy như vậy, do đó, mỗi một Cơ Đốc nhân đều phải tự hiến thân để phục vụ cho cộng đồng mà mình đang sống trong đó.
3. Lãnh vực thứ ba mà đạo đức Cơ Đốc dấn thân vào là lãnh vực chiến tranh.
Đời xưa, người ta tham dự một cuộc chiến tranh bằng tinh thần thượng võ; các chiến sĩ ra trận là những lính đánh thuê có luật lệ để phải tuân thủ. Có một sách chép rằng trong một chiến dịch nọ, người ta tìm thấy trong một ngôi nhà nằm giữa hai đạo quân có một bức tranh do Polygllotus nhà họa sĩ vĩ đại nhất của các họa sĩ Hy-lạp vẽ. Trận đánh được đình hoãn cho đến khi bức tranh đã được đưa vào một nơi an toàn. Nhưng chính bản tính của chiến tranh đã bị thay đổi. Trong cuộc Nội chiến ở Tây-ban-nha, một nhà báo có mô tả một đường phố bị ném bom, có những mảnh gương vỡ và đủ thứ mảnh vụn khác nằm la liệt khắp nơi. Trên đường, có một cậu bé kéo một chiếc xe gỗ không có bánh xe, buộc vào một sợi dây. Bỗng có lửa loé lên và khói bốc lên, và khi bụi đất đã rơi xuống hết, thì thấy cậu bé đã chết rồi. Đó là chiến tranh.
Nhưng ngày nay, chiến tranh cũng không phải chỉ có thế. Cái đó chẳng có thể so sánh với tiềm năng của chiến tranh hiện đại, Đã có chuyện xảy ra tại Hisoshima và Nagasaki, một việc mà sau đó thế giới chẳng bao giờ còn như trước đó nữa. Người ta đã khám phá ra và sử dụng một phương pháp đánh nhau có thể tàn sát nhiều ngàn người; đã san phẳng cả một thành phố, và có thể gây tai hại qua di truyền cho nhiều thế hệ chưa được sanh ra đời nữa. Có người bảo - điều đó là đúng mà chẳng có ai thắc mắc gì - rằng Anh Quốc, Hoa-kỳ và các nước dân chủ Tây phương ít ra cũng sẽ chẳng bao giờ sử dụng bom nguyên tử như một vũ khí tấn công nữa, và chỉ dùng nó như một biện pháp răn đe để phòng thủ mà thôi. Nhưng có một việc đã hết sức rõ ràng - nó không thể là một biện pháp răn đe trừ phi trong những hoàn cảnh nào đó, quốc gia có loại vũ khí ấy sẽ sẵn sàng sử dụng nó. Mà đó chính là điều tôi tin rằng một Cơ Đốc nhân sẽ chẳng bao giờ làm. Bất luận vào hoàn cảnh nào tôi không thể quan niệm được là việc sử dụng các biện pháp đó lại phù hợp với các nguyên tắc của Cơ Đốc giáo.
Nếu có người hỏi tôi, giả sử có kẻ tấn công vợ hoặc con gái tôi, thì tôi có đứng ra bênh vực cho họ không, câu trả lời là lẽ tất nhiên là có. Và điểm khác biệt là như vầy: Gặp trường hợp đó tôi sã phải giải quyết sự việc với kẻ đang thực hiện cuộc tấn công. Và không thể có mối liên hệ nào giữa việc đối phó với một kẻ tội phạm đang thực hiện hành động tội ác của mình; với việc gieo rắc cái chết và sự huỷ diệt trên nhiều ngàn người mà hoàn toàn không có sự phân biệt giết hại cả đàn ông, phụ nữ lẫn trẻ con.
Chúng ta đã được dạy bảo là chớ giết người. Điều răn này không hề bị thủ tiêu khi việc giết chóc đó không nhằm vào một cá nhân mà là việc tàn sát tập thể. Chúng ta đã được dạy bảo là phải bênh vực cho Cơ Đốc giáo - hay là nền văn minh Tây phương - dường như coi cả hai đều là một thứ chống lại những lực lượng có thể tiêu diệt nó. Trước hết, tôi không tin rằng Cơ Đốc giáo có thể bị tiêu diệt. Ngay từ nguyên thủy, nó vẫn tồn tại và lan tràn bất chấp cả thế lực của Đế quốc La-mã. Thứ hai, nếu Cơ Đốc giáo cần được bảo vệ bằng những phương tiện như vậy, thì tôi sẽ không muốn dính dáng gì với việc sử dụng nó. Không thể nào đứng ra bảo vệ cho một tôn giáo mà mật khẩu là yêu thương, và biểu tượng là một người bị treo trên thập tự giá bằng một chính sách là sự hủy diệt. Tôi không yêu thương các kẻ thù mình khi cách thả một quả bom trên họ. Và sau cùng - tuy câu tôi phát biểu có vẻ như là khờ khạo và được đơn giản hóa quá mức - nhưng tôi không thể tưởng tượng ra có thể khi lâm vào một vài hoàn cảnh nào đó, mà Chúa Giê-xu lại bằng lòng bấm nút để thả một quả bom. Tôi nghĩ rằng đã đến lúc các Cơ Đốc nhân và Hội thánh có thể tuyên bố là mình đã giải quyết dứt khoát vấn đề chiến tranh rồi.
Cơ Đốc nhân với tư cách vừa là một con người vừa là một Cơ Đốc nhân, phải dấn thân vào trong cộng đồng. Chưa bao giờ, đối với một Cơ Đốc nhân việc dấn thân vào trong cộng đồng lại khó khăn cho bằng hiện nay - nhưng nó cũng chưa bao giờ là cần thiết hơn.