Chương ba
CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẠO ĐỨC CƠ ĐỐC TRONG LỜI DẠY CỦA PHAO-LÔ
Nhiều người cho rằng Phao-lô là một thần học gia, và là một thần học gia viết khó hiểu nữa.
Ngay trong Tân Ước đã có người bảo rằng trong các thư tín của Phao-lô có nhiều điều không phải là dễ hiểu (II Phi 3:16). Nhưng với Phao-lô thì mọi luận cứ thần học đều kết thúc bằng một loạt các mạng lệnh về đạo đức. Từ bức thư này sang bức thư khác, cho dầu phần lý luận thần học có khó hiểu đến đâu đi chăng nữa, tất cả đều kết thúc bằng một đoạn đạo đức học trong sáng như pha lê. Phần luận cứ được kết thúc bằng sự đòi hỏi (Rô-ma 12:15; Galati 6:1-10; Ê-phê-sô 5:21- 6:9; Côlôse 3:18-4:6; I Tê 5:2; II Tê 3). Trong I Ti-mô-thê, mục đích của bức thư đã được vạch rõ là để ‘con cùng biết cách tuyển chọn những người phục vụ trong Hội thánh của Thượng Đế’ (I Ti 3:15). Bản dịch Kinh Thánh Anh văn mới (NEB) ghi chú bên lề Tít 3:8 như sau ‘Những người đã tin Thượng Đế rồi, thì phải chuyên tâm trau dồi đức hạnh. Về mọi phương diện, Phao-lô vốn là một nhà đạo đức học sốt sắng nhiệt thành và vĩ đại, cũng như ông vốn là một thần học gia lớn và đầy nhiệt tâm vậy. Chúng ta hãy khảo xét lời truyền dạy đạo đức trong các thư tín của ông.
1. Với Phao-lô, cũng như với Chúa Giê-xu, đạo đức Cơ Đốc là một đạo đức cộng đồng (community). Các đức hạnh quan trọng là tình yêu thương, việc phục vụ và tha thứ chỉ có thể đem ra thực thi ngoài xã hội mà thôi. Dấn thân chớ không phải yếm thế (thoát tục) là điều chủ yếu trong đạo đức học của Phao-lô.
2. Nhưng đối với Phao-lô đạo đức Cơ Đốc rõ ràng cũng là một nền đạo đức học về khác biệt.
Các thư tín của Phao-lô thường được gởi cho số người mà bản dịcb Kinh Thánh cũ gọi là các thánh đồ (Rô-ma l:7; I Cô 1:2; II Cô 1:1; Ê-phê-sô 1:1; Philíp 1:1; Côlôse 1:2). Từ ngữ Hy văn đó là hagios. Chúng ta đã thấy cách dùng chữ này trong Cựu Ước cho dân Y-sơ-ra-ên. Đó là từ ngữ mà Cựu Ước thường dịch ra là thánh, và ý niệm căn bản của nó là ý niệm về dị biệt. Điều vốn là thánh (hagios) của ngày Sa-bát, Đền thờ, Kinh thánh, ấy là sự khác biệt. Do đó mà trước hết và sau cùng, Cơ Đốc nhân phải khác người. Sở dĩ có chỗ khác nhau đó, là do sự kiện người ấy đã hiến dâng, đã biệt riêng mình ra cho Thượng Đế; và điểm dị biệt đó phải được chứng minh giữa thế gian, chớ không phải bằng cách ẩn mình, rút lui khỏi thế gian.
Khi nào Phao-lô không viết cho các hagioi - tức là các thánh đồ - là những người nam người nữ mà ông khuyên là phải sống khác người, thì ông lại viết cho ekklẽsia, là Hội thánh, ở những 26 chỗ khác (Galati 1 :2; I Tês 1:1; II Tês 1: 1). Từ ngữ này cũng có một hàm ý đúng y như vậy. Ekklẽsia được buộc chặt với động từ ekkalein có nghĩa là gọi ra, mà Hội thánh là số người đã được gọi ra khỏi thế gian, không phải là để lìa bỏ thế gian, nhưng là sống trong thế gian và xã hội của nó, nhưng tại đó, họ phải sống khác với những người khác.
Phao-lô bảo Cơ Đốc nhân không nên sống rập khuôn với thế gian, nhưng phải sống trong đó như một người đã được biến hóa (Rôm 12:2). Cơ Đốc nhân sống trong thế gian, nhưng không tham gia cuộc chiến tranh của thế gian (II Cô 10:3). Cơ Đốc nhân phải là những con cái không tì vết của Thượng Đế, phải chiếu sáng như những ánh đuốc giữa xã hội xô bồ điên đảo (Phi líp 2:15). Cơ Đốc nhân không nên sống như mình vẫn còn thuộc về thế gian (Côlôse 2:20).
Đòi hỏi sau này cũng đưa chúng ta đến với một đòi hỏi trước sau như một của Phao-lô. Ông luôn luôn khuyến giục tín đồ của mình phải làm sáng tỏ rằng mình đã được thay đổi rồi, rằng mình đã bỏ cuộc đời cũ đằng sau lưng, và mình đang thật sự đi trên một con đường mới. Họ không nên cứ sống như người ngoại đạo nữa (Êphêsô 4:17-20). Trước kia, họ từng sống trong tối tăm, nhưng giờ đây họ đang sống trong ánh sáng cho nên cách ăn ở ứng xử của họ phải chứng minh điều đó (Êphêsô 5:8). Trước đây, họ vốn thù ghét Thượng Đế và xa cách Ngài; nhưng bây giờ họ đã được phục hòa với Ngài rồi (Côlôse 1:21-23). Trước đây, họ đã chết trong sự quá phạm; nhưng bây giờ họ đã được sống lại vẻ vang (Côlôse 2:13). Họ phải vứt bỏ cách ăn ở trước kia vốn là đặc điểm của cuộc đời họ (Côlôse 3:7-10). Họ không nên hành động theo sự ngoại đạo
vốn không nhận biết Thượng Đế (I Tê 4:5).
Với Phao-lô thì chẳng bao giờ có thể có việc không phân biệt được một Cơ Đốc nhân với một người không tin Chúa. Chắc ông phải đồng ý với Richard Glover, là người từng bảo rằng không thể nào có được cái gọi là người môn đệ kín giấu, vì hoặc là sự kín giấu đó sẽ giết chết người môn đồ, hoặc là người môn đệ phải giết chết sự bí mật kín giấu đi. Với một Cơ Đốc nhân thì mỗi khoảnh khắc của dời sống phải là một chứng minh rằng mình là Cơ Đốc nhân.
Sự việc ấy xảy ra như thế nào hiện nay? Trong tình hình hiện tại, một người không còn ra khỏi một xã hội ngoại đạo để gia nhập một xã hội Cơ Đốc giáo, vì ngay cả khi Hội thánh bị khinh thường hoặc bị phớt lờ, thì các nguyên tắc trên đó xã hội đã được xây dựng hiện nay đều là các nguyên tắc của Cơ Đốc giáo. Điều phải xảy ra hiện nay là như thế này. Ngày nay mọi người đều biết rất rõ các đòi hỏi của đạo đức học Cơ Đốc. Một khi người ấy đã tự nhận mình là người theo Chúa Cứu Thế Giê-xu, người ấy phải chuyển từ kẻ đã được lý thuyết đạo đức học của Cơ Đốc giáo giác ngộ, sang một người dấn thân thực hành theo nền đạo đức học ấy. Kiến thức phải biến thành hành động - bất chấp mọi giá phải trả.
3. Ý niệm về dị biệt có thể tiến một bước xa hơn nữa để đặt chúng ta đối diện với một phần nào đó của một vấn đề. Trong lời truyền dạy của Phao-lô, thỉnh thoảng việc sống khác biệt bị biến thành việc phân rẽ. Trong các thư tín của Phao-lô, nhiều khi việc sống khác người dường như trở thành chia rẽ. Trong II Côrinhtô 6:14-16, Phao-lô viết “Đừng mang ách với người vô tín, vì đức công chính không thể kết hợp với tội ác, cũng như ánh sáng không thể hòa đồng với bóng tối. Có điều hòa hợp nào giữa Chúa Cứu Thế với Ác quỷ? Người tin Chúa dự phần gì với kẻ vô tín? Thư Ê-phê-sô đề cập những kẻ tà dâm, ô uế, rồi tiếp tục nói “vậy, anh em đừng tham dự vào tội ác của họ” (Êphêsô 5:7). Phao-lô cảnh cáo người Tê-sa-lô-ni-ca giữ mình lánh xa bất kỳ một người anh em đang ở dưng nào. Nếu có ai không chịu thừa nhận uy quyền của ông, thì người Tê-sa-lô-ni-ca cần lưu ý đến người đó, và đừng dính dáng gì với người như thế (II Tê 3:6,14). Các thư tín mục vụ đề cập tới những kẻ mang danh là có đạo, còn lối sống phóng túng của họ thì phủ nhận lời tự xưng đó của họ ‘Con nên tránh xa họ’ (II Ti 3:1-5). Nếu có người gây chia rẽ, phải 27 khuyến cáo người ấy một hai lần. Nếu lời khuyến cáo chẳng mang lại kết quả gì, thì không cần giao thiệp với họ nữa. Đó là hạng người hư hỏng, phạm tội và tự lên án’ (Tít 3:10,11).
Đây là một loạt những lời cảnh cáo nặng nề. Đã có gì xảy đến cho công tác truyền giáo? Phải chẳng có một số người thất vọng và bỏ đạo? Phải chăng phải bỏ mặc kẻ phạm tội cho tội lỗi của người ấy? Đây rõ ràng là một việc đòi hỏi phải suy nghĩ. Ta có thể nêu ra một số điểm.
a. Chúng ta đừng bao giờ nên quên tình hình tổng quát. Lúc Phao-lô viết các thư tín, Hội thánh Cơ Đốc vốn chẳng khác gì một hòn đảo nhỏ, bị cả đại dương ngoại giáo vây quanh. Sự cám dỗ và các ảnh hưởng gây ô nhiễm vốn gần gũi kinh khủng. Số Cơ Đốc nhân nguyên thủy này chỉ là những người mới chuyển từ ngoại giáo sang, cho nên rất dễ dàng cảm thấy thất vọng để quay trở về con đường cũ.
Chúng ta thấy sự việc được đặt thành vấn đề ở I Cô các chương 8 đến 10. Vấn đề ở đây là chẳng hay Cơ Đốc nhân có thể ăn thịt đã cúng cho thần tượng - nghĩa là số thịt đã dự phần vào việc cúng lễ của ngoại giáo rồi, hay không. Vấn đề đã nảy sinh như thế này. Đời xưa, một sinh tế dâng lên được thiêu toàn diện là điều rất hiếm thấy ngoài thế gian. Trong phần lớn các trường hợp, chỉ có một phần tượng trưng của của lễ là được đem thiêu trên bàn thờ mà thôi, lắm khi phần đó vốn chẳng có gì nhiều hơn là một mớ lông cạo trên trán của con thú. Sau đó, một phần thịt được dành ưu tiên cho các thầy tư tế, phần còn lại được trả về cho người dâng tễ. Bằng phần thịt của mình, người dâng lễ tổ chức một bữa tiệc để cùng ăn mừng với bè bạn. Và bữa tiệc này
được tổ chức ngay trong đền thờ - cho nên sự việc mới trở thành vấn đề. Cũng như chúng ta ngày nay có thể tổ chức một dạ hội tại một khách sạn, một nhà hàng hay một câu lạc bộ, thì người Hy Lạp tổ chức nó tại đền thờ của thần mình. Lời mời có thể như thế này ‘Mời bạn đến dự một bữa tiệc chung vui với tôi vào ngày nào, giờ nào đó, tại bàn ăn của thần Serapis của chúng ta. Serapis là vị thần mà chủ tiệc mến chuộng nhất. Thế một Cơ Đốc nhân có thể đi dự một bữa tiệc như vậy không? Phao-lô nói rõ là không. Ông nói rõ rằng một người không thể vừa là khách được mời dùng bữa tại bàn tiệc của Chúa Cứu Thế Ciê-xu, mà cũng vừa đến dự tiệc tại bàn ăn của thần Serapis nữa. Người ấy không thể bắt cá hai tay như vậy. Phải dứt khoát với mối tình cũ trước đã, rồi mới có thể bắt đầu một mối tình mới (I Cô 10:21, 22). Cố sức hành động như vậy sẽ gặp nguy cơ bị ô nhiễm. Nó có thể có nghĩa rằng sinh hoạt xã hội của một người phải đột ngột kết thúc, nhưng đây là một cái giá phải trả một khi người ấy đã trở thành một Cơ Đốc nhân.
b. Điểm thứ hai nổi bật hẳn lên khi chúng ta khảo xét những khúc sách này, là người bị lên án phải là người cố tình và cố ý dan díu với sự cám dỗ. Điều Phao-lô nhấn mạnh là trong hoàn cảnh như vậy, người ta không nên tự ý tham dự một việc làm có nguy cơ phá hoại cuộc đời Cơ Đốc nhân của mình.
c. Nhưng trên hết phải xa lánh người anh em Cơ Đốc đã đi sai lạc. Đây không phải là trường hợp Cơ Đốc nhân đoạn giao với thế gian và với mọi cơ hội truyền giáo mà thế gian đem đến cho mình, nó là vấn đề tuyệt giao với người anh em Cơ Đốc dại dột có khuynh hướng đưa mình đến gần với hỏa ngục. Phao-lô đã nói rất rõ điểm này trong I Cô 5:9-13. Trong Hội thánh Cổ-linh, có một người đã phạm tội tà dâm với kế mẫu mình - một việc làm gây chấn động cả cho người ngoại đạo nữa, chứ đừng nói là cho một Cơ Đốc nhân. Phao-lô nhấn mạnh rằng Hội chúng cần phải có biện pháp. Phải trục xuất kẻ ấy di. Họ không nên kết hợp với những kẻ vô luân. Nhưng Phao-lô bảo điều đó không có nghĩa là họ phải từ bỏ thế gian, hay là họ phải bỏ mặc và tuyệt giao với tất cả mọi người thế gian. Những người mà họ cần xét xử, không phải là người ngoài Hội thánh; họ phải xét xử chính các thành viên trong Hội thánh của họ; và nếu một người lấy danh nghĩa là anh em mà có cách ăn ở gây xấu hổ như vậy, thì người ấy phải ra khỏi Hội Thánh. 28 Từ việc này, lại nảy sinh một số việc khác. Vấn đề liên hệ với kẻ vẫn tự xưng là Cơ Đốc nhân.
Hội thánh không thể có thái độ dễ dãi với kẻ phạm tội ăn ở bậy bạ một cách công khai. Đây là một vấn đề kỷ luật, và Phao-lô chủ trương rằng nếu kẻ tự xưng (thề nguyện) là Cơ Đốc nhân mà không chịu chấp nhận các tiêu chuẩn đạo đức của Hội thánh thì Hội thánh phải có biện pháp để tự vệ.
d. Nhưng câu chuyện vẫn chưa xong. Vấn đề được đặt ra là kỷ luật. Cả khi việc dứt phép thông công dường như có nghĩa là phó kẻ phạm tội cho quỷ Sa-tan, cứu cánh tối hậu vẫn là nhằm cứu linh hồn người ấy được sống (I Cô 5:5), và ít nhất cũng có một trường hợp, chúng ta thấy Phao-lô yêu cầu nhận lại một tội nhân trở vào Hội thánh trước khi tâm linh người ấy bị tan vỡ hoàn toàn (II Cô 2:5-11). Toàn thể tiến trình sửa phạt là nhằm chữa lành, chớ không phải là tiêu diệt.
Tất cả những điều đó có nghĩa là Hội thánh sẽ không thể tiếp tục là Hội thánh nếu không chịu thi hành kỷ luật. Cơ Đốc nhân là người đang bị ràng buộc bởi một lời thề nguyện đã được tự nguyện đưa ra, mà nếu cố ý phạm, thì không thể tránh khỏi bị trừng phạt. Và từ ngữ cố ý phải được nhấn mạnh. Từ đầu chí cuối, rõ ràng là Phao-lô không hề nghĩ đến người bị thúc đẩy sa vào tội lỗi mà không hề ngưng ăn năn. Ông chỉ nghĩ đến kẻ bịt tai lại đối với lời kêu gọi, nhắm mắt lại đối với nhiệm vụ, và quên đứt tình yêu thương, nên đã chai lì và cố ý noi theo đường riêng của mình.
4. Một nền đạo đức học cộng đồng phải là một nền đạo đức học có trách nhiệm. Đặc điểm của một Cơ Đốc nhân, là một người có trách nhiệm.
a. Cơ Đốc nhân có trách nhiệm đối với xã hội mà mình là một thành phần. Ở đây, Phao-lô dùng một cách so sánh mà các tác giả cổ điển trước ông từng sử dụng, tức là cách so sánh với thân thể. Thí dụ nổi tiếng nhất trong số các tác giả cổ điển là ẩn dụ của Menenius Agrippa (Liv 2:32). Có một thời tại La-mã, có sự rạn nứt giữa giới bình dân và giới quý tộc. Sự rạn nứt cứ ngày càng phát triển sâu rộng đến nỗi giới bình dân bỏ ra đi khỏi thành phố. Sinh hoạt của thành phố bị ngưng trệ. Cho nên các nhà cầm quyền của thành phố phái một nhà hùng biện gọi là Menesius Agrippa đi ra với dân chúng để thử thuyết phục họ hãy quay về. Ông ta kể cho họ nghe một ẩn dụ đại ý như thế này: Ngày xưa, có lần các chi thể rất buồn cái dạ dày. Chúng bảo: hãy xem cái anh dạ dày ngồi đó, chẳng làm lụng gì cả, còn chúng thì phải lao động khổ nhọc để góp sức cùng đem lương thực đến cho anh dạ dày, là kẻ chẳng làm gì cả để có được các thức ăn ấy.
Do đó, các chi thể quyết định là chúng sẽ không mang thức ăn đến cho anh dạ dày nữa, bàn tay sẽ không đưa thức ăn lên miệng; răng sẽ không nhai; thực quản sẽ không nuốt; và làm như thế là chúng hy vọng sẽ trả thù dược anh dạ dày. Nhưng hậu quả chỉ là toàn thân bị nguy cơ chết đói, do đó, các chi thể học biết được rằng phương pháp duy nhất để thân thể giữ được sức khỏe và an vui, ấy là tất cả mọi thành phần đều phải đóng góp vào, chớ không nên so đo, ghen tị lẫn nhau.
Đây chính là bức tranh mà Phao-lô dùng trong Rô-ma 12:3-8. Trong Chúa Cứu Thế, họ đều có chung một thân thể, và mỗi người đều là một thành phần, một chi thể. Ân điển đã ban cho họ nhiều ân tứ khác nhau, và tất cả các ân tứ ấy đều phải được sử dụng dể tạo sự tốt lành cho toàn thân. Như John Donne từng nói: “Chẳng có ai là một hòn đảo riêng lẻ, là mình là hoàn toàn trọn vẹn cả”. Không ai sống cho mình, hoặc chết cho mình cả (Rô-ma 14:7). Theo câu viết thật sống động trong Cựu Ước thì chúng ta đều cùng ở chung trong một bọc của sự sống (I Sa 25:29). Nếu không có xã hội, thì một người đơn độc chẳng làm được gì cả, mà xã hội cũng chẳng làm được gì nếu thiếu những con người đơn độc, riêng lẻ. Nếu một người ‘bỏ rơi’ xã hội, thì thật ra anh ta không hề làm như vậy. Anh ta chỉ tự rút lui khỏi công việc và phần đóng góp của mình cho xã 29 hội nhưng nếu anh ta vẫn sống và ăn thì anh ta vẫn tiếp nhận điều mà xã hội cung cấp cho anh ta.
Anh ta đã chọn việc cứ giữ lấy các quyền lợi và cứ từ khước các trách nhiệm của mình.
b. Cơ Đốc nhân có trách nhiệm đối với người anh em yếu đuối hơn mình. Người ấy vốn biết rõ mình là kẻ phải gìn giữ bảo vệ anh em mình. Điều này đúng cả về phương diện tinh thần lẫn thể xác. Một điều hết sức an toàn cho người này, lại có thể là vô cùng nguy hiểm cho người khác. Phao-lô nhắc nhở chúng ta rằng những cuộc tranh luận, bàn cãi có thể là một trò chơi lý thú cho tinh thần, một vật kích thích trí thức cho người này, có thể làm tàn hại đức tin của một người khác (Rô-ma 14:1). Và người mạnh khỏe bao giờ cũng phải chia xẻ gánh nặng với kẻ yếu đuối, vì chúng ta sống trên đời này không phải là để tự làm đẹp lòng mình, nhưng là để nâng đỡ cho người lân cận chúng ta (Rô-ma 15:1, 2). Một người phải luôn luôn nhớ đến điều mình tự cho phép mình làm sẽ gây ảnh hưởng gì trên những người khác. Phao-lô đã hai lần dưa ra nguyên tắc này một cách thực tiễn và rõ ràng ‘Tốt hơn là đừng ăn thịt, uống rượu hoặc làm gì cho anh em mình vấp phạm’ (Rô-ma 14:13-21). ‘Cho nên, nếu thức ăn gây cho anh em tôi phạm tội, tôi sẽ chẳng bao giờ ăn thịt để anh em tôi khỏi vấp phạm’ (I Cô 8:13). Sau Kane trong bài thơ Lòng Thương Xót Đời Đời của John Masefield đã bị ám ảnh bởi ‘điều tai hại tôi đã làm vì là chính tôi’. Tân Ước dạy hết sức rõ ràng rằng Cơ Đốc nhân phải luôn luôn tự vấn chẳng những là ‘Việc này sẽ gây ra điều gì cho tôi’ mà còn là ‘Việc này sẽ có ảnh hưởng gì đến người anh em tôi, vốn không mạnh mẽ bằng tôi?’
c. Cơ Đốc nhân có trách nhiệm đối với nhà nước, nhưng chúng ta sẽ để phần này lại cho một phần thảo luận sau, khi đến chỗ bàn về Cơ Đốc nhân với cộng đồng.
d. Cơ Đốc nhân có trách nhiệm với một người đang đi lạc. Người ấy phải nhẹ nhàng dìu dắt người kia trở lại với chánh đạo (Galati 6:5). Cơ Đốc nhân phải ý thức về cái tội thản nhiên đứng nhìn; người ấy thừa hiểu rằng người không làm gì cả có thể phạm tội nặng bởi cũng như làm một việc gì đó.
e. Tân Ước nêu ra ba lần về bổn phận đơn giản mang tánh con người là phải tiếp đãi khách lạ và khách lỡ đường (Hê 13:2; I Phi 4:9; Rô-ma 12: 13). Phao-lô dạy ‘hãy tiếp đãi khách’. Và điều đó chẳng có gì để phải ngạc nhiên. Đời xưa, các quán trọ nổi tiếng là rất tồi. Trong quyển ‘Bối Cảnh Ngoại Giáo Thời Cơ Đốc Giáo Nguyên Thủy’. W.R. Halliday có một trang thật sinh động về ‘Các Phương tiện giao thông’ trong đó ông mô tả việc đi lại. Ông kể một câu chuyện thật vui trong sách ngụy kinh là ‘Công Vụ của Giăng’ (M.R. James, The Apocryphal New Testament, p.242).
Giăng và các môn đồ vào một quán trọ vắng vẻ để nghỉ qua đêm. Chiếc giường có rất nhiều rệp. Giăng bảo ngay với chúng ‘Hỡi lũ rệp kia, ta bảo các ngươi một lần đủ cả, hãy rời khỏi chỗ ở của các ngươi đêm nay và ở yên một chỗ, cách xa các tôi tớ của Thượng Đế’. Sáng hôm sau, khi các tôi tớ mở cửa ‘chúng tôi thấy trước cửa nhà mà chúng tôi đã ở trọ không biết cơ man nào là rệp đang xếp hàng’. Bấy giờ Giăng ‘ngồi lên giường rồi nhìn chúng và bảo ‘Vì các ngươi đã biết đối xử tốt nghe lời quở trách của ta, vậy tất cả hãy trở về chỗ của mình’. Sau khi ông nói thế và đứng lên khỏi chỗ của mình, thì bầy rệp từ ngoài cửa từ ngoài cửa vội vàng chạy ùa vào, trèo lên giường rồi biến mất vào những kẽ ráp nối’. Các điều kiện của nhà trọ quả là khủng khiếp.
Seneca thì viết (trong On Benefits 6:15): ‘Chúng tôi vui mừng xiết bao khi thấy có một nơi trú ẩn trong sa mạc, một mái nhà giữa cơn dông, một chỗ để tắm và một lò lửa trong cơn lạnh lẽo - và trong các quán trọ như thế, chúng tôi đã phải trả giá đắt biết bao’. Nhiều quán trọ trong các thành phố vốn chẳng hơn gì các nhà thổ, tuy nhiên trong những nơi nghỉ sang trọng cũng có các quán trọ lộng lẫy dành cho người giàu có; những Cơ Đốc nhân thì lại ít người giàu. Cho nên nghĩa vụ 30 đơn giản là mở rộng cửa cho người trẻ tuổi xa nhà và cho người khách đến một nơi xa lạ là một phần của đạo đức Cơ Đốc .
f. Cơ Đốc nhân có trách nhiệm đối với Chúa Cứu Thế Giê-xu. Hội Thánh là thân thể của Chúa Cứu Thế (I Cô 12:7; Êphêsô 1:22). Câu này có thể có nhiều nghĩa; nhưng có một nghĩa rất đơn giản và thực tiễn. Chúa Giê-xu không còn ở đây trong thân thể nữa, Ngài đang hiện diện ở đây trong Thánh Linh. Nhưng điều đó có nghĩa là nếu Ngài muốn thực hiện một công việc gì, thì Ngài phải nhờ một người đàn ông hoặc đàn bà nào đó làm thay cho mình. Có một sự bất năng của Chúa Giê-xu cũng như có một quyền phép của Chúa Giê-xu. Chẳng có gì có thể dạy dỗ cho con cái Ngài trừ phi khi một người nam hay một người nữ làm cái công việc ấy thay cho Ngài.
Những điều Ngài muốn giúp đỡ cho người già cả, yếu đuối, đau khổ, bối rối đều phải thông qua các phương tiện là con người. Ngài cần người làm bàn tay để làm việc thay Ngài, làm miệng để nói thay Ngài, làm đôi chân để chạy, đi đây đó theo sự sai bảo của Ngài. Cơ Đốc nhân không thể quên trách nhiệm của mình đối với Chúa Cứu thế Giê-xu được. Việc Cơ Đốc nhân phải làm người đại diện cho Chúa Cứu Thế Giê-xu không phải là một phần nhỏ trong đạo đức học Cơ Đốc.
5. Đạo đức học của Phao-lô là một nền đạo đức của cả thân, hồn và linh. Nó tin quyết vào tầm quan trọng của thân thể. Thân thể có được dâng lên làm một của lễ sống cho Thượng Đế (Rô-ma
12:1). Thân thể vốn chẳng phải điều gì kém hơn là đền thờ, trong đó Đức Thánh Linh có thể trú
ngụ (I Cô 3:16; 6:19). Do đó, thân thể không thể bị khinh dể hay đem ra sử dụng sai lầm. Nó
phải được dùng theo mục đích nó đã được tạo ra, và đạo đức học của Phao-lô không chủ trương
khắc khổ chủ nghĩa vốn khinh dể hôn nhân và khước từ các ân tứ tốt lành của Thượng Đế (I Ti 4:
1-5). Điều này phù hợp với Do Thái giáo, vì các ra-bi có câu tục ngữ rằng một người sẽ phải tính
sổ về mọi điều tốt lành mình có thể thụ hưởng hoặc không chịu thụ hưởng.
Điểm này cần được nhận xét trên bối cảnh Khả tri phái (Gnosticism). Khả tri phái là một tư
tưởng rất phổ biến vào thời Tân Ước. Lúc đó nó chưa phát triển thành những hệ thống đầy đủ nở
rộ sau này, nhưng nó vốn ăn sâu vào tư tưởng Hy-lạp. Nó xuất phát từ ước muốn giải thích căn
nguyên tội lỗi, buồn rầu và đau khổ trong thế giới. Nó bắt đầu từ cái nguyên lý là từ trước vô
cùng, đã hiện hữu hai nguyên lý tinh thần (spirit) và vật chất. Thượng Đế là linh, mà linh thì
hoàn toàn tốt lành thiện hảo. Vật chất cũng hiện hữu ngay từ ban đầu, và vật chất là chất liệu từ
đó vũ trụ này được tạo nên. Nhưng - và đây là điểm thiết yếu - Khả tri phái tin rằng ngay từ ban
đầu nguyên thủy vật chất cơ bản là hư xấu; nó là ác; vũ trụ được tạo nên từ chất liệu xấu. Mà nếu
vật chất đã là xấu, là ác, thì Thượng Đế là linh và hoàn toàn tốt lành thiện hảo sẽ không thể nào
đụng chạm tới nó. Thượng Đế thực hữu và chân chính đó không thể là đấng sáng tạo. Cho nên,
theo sự tin tưởng của người thuộc Khả tri phái, thì Thượng Đế chân thật thực hiện một chuỗi
những lần ‘toát ra’ (emanations), mỗi lần lại thoát đi xa khỏi Ngài hơn và càng ít biết về Ngài
hơn, lần cuối cùng thì không chỉ chẳng biết gì về Thượng Đế mà còn đố kỵ thù ghét Thượng Đế
đích thực. Chính đợt phát tỏa xa thẳm chẳng biết gì về Thượng Đế và thù ghét Thượng Đế đó
mới là đấng sáng tạo. Từ đó, chỉ có thể rút ra một kết luận duy nhất - ấy là thân thể và tất cả
những gì liên hệ đến nó đều thiết yếu là xấu, là ác. Và điều này làm nảy sinh hai lối sống có thể
có. Một là khắc khổ chủ nghĩa triệt để theo đó người ta khinh bỉ và bỏ mặc thân thể, cố gắng dập
tắt, tiêu diệt mọi bản năng và động lực thúc đẩy. Đối với người ấy, thì tình dục, hôn nhân, mọi sự
có liên quan tới thân thể đều là xấu, là ác, là vô phương cứu chữa, và phải bị vứt bỏ đi. Lối sống
thứ hai, lý luận rằng vì thân thể vốn là xấu là ác rồi cho nên dù bạn có làm điều gì đi nữa thì
chẳng quan hệ gì. Cứ để mặc nó tự tung tự tác, thỏa mãn các động lực thúc đẩy nó, và ngốn ngấu
tùy tánh háu đói của nó. Dù có điều gì xảy đến cho nó thì cũng chẳng quan hệ gì. Điều này dẫn 31
tới nếp sống hoàn toàn vô luân vô đạo, phó mặc đời sống cho các bản năng thuộc thể. Như
Augustine nói, ông có thể nhìn thấy trong Kinh Thánh những điều giống với các triết phái Hy-
lạp trong mọi sự, ngoại từ câu “Ngôi Lời (Đấng Christ) trở nên xác thịt” (Giăng 1:14). Xác thịt,
thân xác là điều duy nhất mà Thượng Đế chẳng bao giờ có thể khoác lên, mặc lấy được.
Điều này khác xa với tư tưởng Phao-lô. Nhưng nó vẫn có ảnh hưởng sâu xa trên tư tưởng Cơ
Đốc giáo, và vấn đề còn phức tạp thêm khi người ta hiểu lầm cách dùng từ ngữ xác thịt của
Phao-lô. Theo Phao-lô thì xác thịt không có nghĩa là thân thể. Khi Phao-lô nói về tội lỗi của xác
thịt, thì không phải ông chỉ ngụ ý đề cập tội lỗi của thân xác và tình dục mà thôi. Các tội lỗi của
xác thịt bao gồm cả sự tranh cạnh, ghen tị, giận dữ, bất hòa, tinh thần chia rẽ, tham lam nữa
(Galati 5:20, 21), Điều Phao-lô muốn ám chỉ khi nói xác thịt, là bản tính con người xa cách với
Thượng Đế. Đó là những gì loài người tự tạo lấy cho mình, tương phản với điều mà Thượng Đế
muốn họ trở thành. Nhưng ngay từ ban đầu điều nầy đã bị hiểu lầm và để lại cảm tưởng là thân
thể và các ham muốn của nó đều là những điều đáng tiếc, tình dục là một cái gì nhơ nhớp đáng
xấu hổ và các bản năng của thân thể là một cái gì mà chúng ta phải kéo một bức màn để che lại.
Chính điều đó đã là nguyên nhân tạo ra sự dốt nát liên hệ đến tình dục từng gây buồn khổ tai hại
cho rất nhiều người, và đã gây rắc rối cho những việc như giáo dục đứng đắn về tình dục.
Đạo đức học Cơ Đốc chấp nhận thân thể và tất cả những gì có liên hệ với nó. Cơ Đốc nhân tin
rằng thân thể thuộc về Thượng Đế, và chúng ta có thể dâng nó lại cho Ngài, như chúng ta có thể
dâng tấm lòng và tâm trí chúng ta cho Ngài vậy.
6. Đạo đức học Cơ Đốc là một nền đạo đức học vượt khỏi thế giới này và vượt thời gian. Vì
đời sống Cơ Đốc nhân được sống trên bối cảnh của cõi vĩnh hằng.
a. Đạo đức học Cơ Đốc là một nền đạo đức của sự phục sinh. Có một điểm hết sức rõ ràng là
bất cứ nơi nào Phao-lô bắt đầu truyền giảng ông luôn kết thúc bằng lời giảng về Chúa Cứu Thế
đã sống lại (Công 13:30-37, 17:18,31). Mọi cuộc đời đều được sống trước sự hiện diện của Chúa
đã Phục Sinh. Mọi đời sống đều dàn trải dưới con mắt chăm chú theo dõi của Ngài.
b. Đạo đức học Cơ Đốc là một nền đạo đức học của sự phán xét. Theo như Phao-lô nhìn thấy,
mọi cuộc đời đều đang trên dường dẫn đến sự phán xét. Địa chỉ mà tất cả mọi người đều phải
đến là tòa phán xét của Thượng Đế và Chúa Giê-xu (Rô-ma 14:10-12; II Cô 5:10). Người nào cứ
miệt mài phạm các tội của xác thịt đều sẽ không được hưởng Nước Trời (Galati 5:21). Ai gieo gì
thì sẽ gặt nấy (Galati 6:7, 8). Không vâng lời Thượng Đế là chịu số phận phải ở dưới cơn thạnh
nộ của Ngài (Êphêsô 5:6). Cứ tiếp tục sống vô luân và nhơ nhớp, là tự chuốc lấy cho mình cơn
thạnh nộ của Thượng Đế (Côlôse 3:6).
Cất đi ý niệm về sự đoán phạt khỏi Cơ Đốc giáo có nghĩa là cất đi nguồn sinh lực của nó.
Chẳng hề có ai trình bày về Cơ Đốc giáo, mà lại có thể giấu đi lời đe đọa tối hậu của nó.
c. Đạo đức Cơ Đốc theo cách trình bày của Phao-lô, chẳng bao giờ cho phép chúng ta quên
mất sự tái lâm trong vinh quang và để phán xét của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Tân Ước đầy dẫy
những người nam và người nữ đang trông chờ, mong đợi. Chẳng có gì được cho phép gây trở
ngại cho cường độ của sự trông mong chờ đợi đó, ngay cả đến các mối liên hệ mật thiết nhất của
đời sống (I Cô 7:25-35). Các Cơ đốc nhân đang trông đợi niềm hy vọng phước hạnh của mình
(Tít 2:3). Sẽ có một ngày, và Cơ Đốc nhân phải sống sao cho ngày ấy sẽ không đến một cách bất
ngờ gây kinh ngạc sững sờ cho mình (I Tê 5:2-7,23; Phi líp 2:16; 3:20; Côlôse 3:4; II Tê 1:5-10).
Rất có thể sự tái lâm đó sẽ dược triển hạn lâu dài, nhưng cho dầu nó có được triển hạn bao lâu
chăng nữa, nó vẫn không làm thay đổi sự kiện căn bản là Cơ Đốc nhân luôn luôn sống trong 32
khoảng giữa cái đã có và cái chưa đến theo cách nói của Cullmann. Cơ Đốc nhân là người vì họ
mà đã có một điều đã xảy ra rồi, và vẫn còn một điều nữa sẽ xảy đến.
Hiển nhiên tất cả mọi điều đó đều sẽ có một hậu quả đạo đức phi thường. Sống trước sự hiện
diện của Chúa Cứu Thế, nhìn thấy cuộc đời là một hành trình dẫn tới sự phán xét, được thụ
hưởng điều đã có rồi, đồng thời lại trông mong điều chưa đến - tất cả họp lại giúp ban cho đời
sống một phẩm chất nào đó, một sự kích thích đạo đức mãnh liệt nào đó mà người ta không thể
nào quên được.
7. Với Phao-lô, đạo đức Cơ Đốc là một nền đạo đức của sự noi gương (imitation).
a. Bắt đầu với hình thức cao nhất của nó, Cơ Đốc nhân được kêu gọi để chẳng làm gì khác
hơn là noi gương Thượng Đế. Thư Ê-phê-sô chép ‘Trong mọi việc, hãy noi theo gương Thượng
Đế, như con cái yêu dấu bắt chước cha mình’ (Êphêsô 5:1). Tuy thoạt nghe có vẻ lạ lùng, đây là
lời khuyên mà các giáo sư vĩ đại của cả người Hy-lạp lẫn người Y-sơ-ra-ên đều kêu gọi mọi
người. Trong sách Theaetetus (176), Plato bảo một người phải bay càng nhanh càng hay để xa
lánh đất này mà đến thiên đàng, mà bay đi như thế là trở nên giống như Đức Chúa Trời, mức tối
đa có thể đạt được. Trước Plato, Pythagoras từng lấy câu ‘theo gót Thượng Đế’ làm châm ngôn.
Trong tư tưởng Do Thái cũng có cái ý niệm đó. Trong loạt bài thứ hai về Nghiên cứu phái
Pha-ri-si và các sách Phúc âm, ông Israel Abrahams có một thiên khảo luận về vấn đề ‘Bắt chước
Thượng Đế’. Trong thiên khảo luận này, ông trích dẫn từ những quyển sách mà ông yêu thích
nhất, một tác phẩm bồi linh Do Thái cổ điển do Cordovero viết, có nhan đề là Cây chà và của
Đê-bô-ra. Quyển sách bắt đầu như thế này ‘Con người phải tự biến mình trở thành giống như
Chủ mình’. Rồi Cordovero trích dẫn Mi-chê 7:18-20 ‘Ai là Đức Chúa Trời giống như Ngài, tha
thứ sự gian ác và bỏ qua sự phạm pháp của dân sót của sản nghiệp Ngài? Ngài cưu giận đời đời,
vì Ngài lấy sự nhơn từ làm vui thích. Ngài sẽ còn thương xót chúng tôi, dập sự gian ác chúng tôi
dưới chân Ngài. Và ném hết thảy tội lỗi chúng nó xuống đáy biển. Ngài sẽ làm ra sự chân thật
cho Gia-cốp, và sự nhơn từ cho Áp-ra-ham, là đều Ngài đã thề hứa cùng tổ phụ chúng tôi từ
những ngày xưa’.
Abrahams cho chúng ta biết rằng trong khúc sách này, Cordovero thấy mười ba thuộc tính của
Thượng Đế mà con người cần bắt chước từng thuộc tính một ‘Ông đưa ra từng mệnh đề một, giải
thích phương pháp của Thượng Đế, rồi kêu gọi độc giả của mình hãy đi ra và làm y như vậy.
Như thế, người ta phải chịu đựng lời nhục mạ; phải có tình yêu thương vô hạn, nhận thấy tất cả
mọi người đều là đối tượng của tình yêu thương trìu mến sâu xa và không hề thay đổi của mình;
phải bỏ qua những điều sai quấy người ta làm cho mình; và chẳng bao giờ quên sự nhơn từ, tử tế.
Cordovero nhấn mạnh nhiều lần thái độ kiên trì chịu đựng đó của Thượng Đế, việc Thượng Đế
bỏ qua nhiều tội lỗi cho loài người và việc Ngài thừa nhận các đức hạnh thỉnh thoảng mới có của
loài người. Con người cũng phải hành động giống như vậy. Phải dung hòa công lý bằng lòng
thương xót, phải đặc biệt tỏ ra dịu dàng mềm mỏng với kẻ không xứng đáng. Cả đời sống một
người phải phù hợp, hài hòa với đời sống của Thượng Đế - Con mắt trần của người ấy phải mở
rộng để nhìn thấy điều tốt trong tất cả mọi người, cũng như con mắt thiên thượng vậy, lỗ tai trần
của người ấy phải bịt lại đối với những lời gièm pha và kẻ ngu dại, cũng như lỗ tai thiên thượng
chỉ thâu nhận những điều tốt lành mà thôi. Vì Thượng Đế yêu thương tất cả mọi người mà Ngài
đã dựng nên theo hình tượng Ngài, thế thì tại sao loài người lại thù ghét điều mà Thượng Đế yêu
thương? (I. Abrahams, Studies in Pharisaism and the Gospels, loạt bài thứ hai, ff. 145,146).
Abrahams tiếp tục cho thấy Kinh Talmud (Sota 14a) nói về Phục Truyền Luật Lệ Ký 13:4 kêu
gọi con người hãy bắt chước Thượng Đế là Đấng mặc áo cho kẻ trần truồng (A-đam và Ê-va), 33
thăm viếng người đau ốm (Áp-ra-ham), và chôn cất người chết (Môi-se) ‘như vậy, cả sách Torah
(luật pháp) từ Sáng Thế Ký đến Phục Truyền đều khuyến giục dân Y-sơ-ra-ên bắt chước Thượng
Đế’.
Nói về việc loài người bắt chước Thượng Đế thì không hề là điều phạm thượng hay làm một
việc không tài nào làm nổi, vì Thượng Đế đã dựng nên loài người theo hình tượng Ngài (Sáng
Thế Ký 1:26,27), và việc bắt chước Thượng Đế, do đó, chính là chức năng, nhiệm vụ của loài
người.
b. Cơ Đốc nhân phải bắt chước Chúa Cứu Thế Giê-xu. Có thể được dạy bảo học tập theo
Chúa Cứu Thế (Êph 4:20). Cơ Đốc nhân là người noi theo Chúa Giê-xu.
c. Cơ Đốc nhân được khuyên giục bắt chước các anh hùng đức tin. Người viết thơ Hêbơrơ
truyền cho độc giả của mình nhớ lại những người lãnh đạo họ. ‘Anh em hãy nhớ đến những
người dìu dắt và truyền dạy Lời Chúa cho mình. Hãy nghĩ đến kết quả tốt đẹp của đời sống họ và
học tập lòng tin Chúa của họ’ (Hê 13:7). Họ phải noi gương ‘những người đã hưởng điều Chúa
hứa, nhờ đức tin và nhẫn nại’ (Hê 6:12). Phao-lô khen ngợi người Tê-sa-lô-ni-ca, vì trong khi
chịu khổ vì đạo họ đã trở thành những người noi gương các Hội thánh tại Giu-đê, đã từng chịu
khổ trước họ (I Tê 2:14).
Chính vì thế mà một người phải biết chút ít về lịch sử của Hội thánh mình. Chính vì thế mà
Oliver Cromwell khi thu xếp việc giáo dục cho con trai mình là Richard, đã nói ‘Tôi muốn nó
được biết chút ít lịch sử’. Như có người đã nói: lịch sử là ‘triết học dạy bằng thí dụ’. Chắc đó
phải chính là mục tiêu và đối tượng của các sử gia đời xưa. Mục đích soạn sách của Thucydides
không phải là để nó được xem là một bình luận có giá trị nhưng là để nó tồn tại mãi mãi, sao cho
khi cùng một loại các biến cố ấy tái diễn, như ông tin chắc là sẽ tái diễn, thì thiên hạ sẽ nhờ các
tấm gương của quá khứ làm thí dụ để được sự hướng dẫn cho hiện tại (Thucydides 1:22). Trong
thiên khảo luận về Phải viết Sử ký như thế nào(44) Lucian bảo rằng các sử gia phải nhằm vào
tính cách chính xác và hữu dụng trên hết mọi sự, để khi những biến cố và những tình hình tương
tự như thế xảy ra, phần ký thuật về quá khứ có thể dạy chúng ta biết hành động như thế nào trong
hiện tại. Trong bài Tựa của mình, Livy viết: ‘Đây là kết quả lành mạnh và trung thực nhất của
việc nghiên cứu lịch sử; bạn có trước mặt mình những thí dụ có thật về đủ các loại xử thế, các thí
dụ có thật được thể hiện dưới hình thức hiển nhiên nhất, từ đó bạn có thể rút ra cả cho chính
mình lẫn cho đất nước các lý tưởng mà bạn nhằm đạt tới; bạn cũng có thể học hỏi phải tránh
những điều gì bởi vì đó là điều nghịch đạo trong quan niệm hoặc trong kết quả của nó’.
A.L.Rowse, một sử gia hiện đại cũng tuyên bố giống y như vậy. Đối với ông thứ công dụng
đầu tiên của lịch sử là ‘nó giúp bạn hiểu rõ hơn bất cứ một bộ môn nào khác, các biến cố, công
việc và xu hướng của thời đại của bạn. Lịch sử đề cập xã hội loài người, câu chuyện của nó và
làm thế nào để nó đạt tới tình trạng như hiện có; được biết trong quá khứ các xã hội vẫn như thế
nào và sự tiến hóa của nó, sẽ cho bạn đầu mối của các yếu tố đang tác động trong chúng, các trào
lưu và lực lượng đang điều động chúng, các động lực thúc đẩy và xung đột nhau, cả tổng quát
lẫn riêng tây đang tác tạo nên các biến cố’ (A.L. Rowse, The Use of History, p.16). Nhờ nghiên
cứu các tấm gương của quá khứ, chúng ta được hướng dẫn trong hiện tại.
Cơ Đốc nhân phải biết lịch sử của Hội thánh mình để có thể bắt chước các gương anh hùng và
tránh xa các lầm lẫn của nó.
d. Nhưng lời mời gọi bắt chước đáng ngạc nhiên nhất của Phao-lô là lời mời gọi được nhắc đi
nhắc lại của ông với những người đã được ông dẫn dắt ăn năn quy đạo là hãy bắt chước chính 34
ông. Ông viết cho người Cô-rinh-tô ‘Tôi khuyên nài anh em bắt chước tôi’ (I Cô 4:16). Rồi ông
lại viết cũng cho chính họ ‘Anh em hãy noi gương tôi, như tôi noi gương Đấng Christ’ (I Cô
11:1). Ông viết cho người Phi-líp ‘Thưa anh em, hãy theo gương tôi’ (Phi líp 3:17). Rồi ông lại
viết cho họ ‘Hãy thực hành những điều anh em đã học hỏi với tôi, những lời tôi nói cũng như
những việc tôi làm’ (Phi líp 4:9). Ông viết cho người Tê-sa-lô-ni-ca ‘Anh em đã theo gương
chúng tôi và theo gương Chúa’ (I Tê 1:6). Rồi ông lại viết thêm cho họ ‘Anh em biết phải noi
gương chúng tôi’. Đời sống và công tác của ông tại Tê-sa-lô-ni-ca đều nhằm mục đích muốn nêu
gương cho anh em’ (II Tê 3:7, 9).
Bất cứ các nhà truyền đạo và giáo sĩ nào cũng đều có thể bảo rằng ‘Tôi có thể bảo anh em
điều phải làm’. Có ít người có thể nói ‘Tôi có thể chỉ (show) cho anh em điều phải làm’. Ai cũng
có thể nói ‘Hãy nghe tôi nói'; nhưng có ít người có thể nói ‘Hãy noi gương tôi’. Lời tuyên bố
đáng ngạc nhiên của Phao-lô là ông dạy bằng nếp sống, còn nhiều hơn là bằng lời nói hay thư
tín.
8. Đạo đức Cơ Đốc đòi hỏi toàn thể các Cơ Đốc nhân chẳng những phải nhận một tấm gương
để noi theo, mà cũng phải nêu gương cho người khác bắt chước nữa. Đã có người nói rất đúng
rằng ‘mỗi người đều phải để dấu chân của mình lại cho người khác noi theo’. Lúc tôi đang viết
mấy dòng này, có một câu chuyện được trình diễn trên truyền hình về việc tuyên truyền cho
thiên hạ cai thuốc lá. Hai cha con nhà nọ đi câu cá; họ ngồi lại dùng bữa và nghỉ ngơi; người cha
rút ra một điếu thuốc rồi châm lửa đứa con bắt chước ngắt một cọng cỏ cho vào miệng rồi cũng
bắt chước động tác phun khói thuốc ra của ông bố. Người cha thấy sự việc xảy ra, liền dập tắt
điếu thuốc, vì ông ta bỗng nhận ra rằng con trai mình đang bắt chước mình trong những việc làm
sai trái cũng như trong những việc làm đứng đắn.
Phao-lô vốn biết rõ điều đó. Ông vốn biết rõ điều mà bạn có thể gọi là giá trị tuyên truyền của
một đời sống Cơ Đốc nhân chân chính. Cho nên theo như Phao-lô thấy, thì đạo đức học Cơ Đốc
nhấn mạnh rằng Cơ Đốc nhân phải nêu gương để hấp đẫn chớ không phải là để xua đuổi. Phao-
lô vốn ý thức rất rõ bổn phận của Cơ Đốc nhân đối với ‘người ngoại đạo’, là người còn ở ngoài
Hội thánh. Người Tê-sa-lô-ni-ca được khuyến giục sống một cuộc đời lao động lương thiện để
‘được người chưa tin Chúa tôn trọng’ (I Tê 4:12). Một trong những phẩm cách của người làm
giám mục là phải ‘được người chưa tin Chúa làm chứng tốt cho’ (I Ti 3:7). Người Cô-lô-se được
răn bảo phải đối xử khôn ngoan với người ngoại (Côlôse 4:5). Phi-e-rơ cũng nhấn mạnh điểm
này. Ông răn bảo các Cơ Đốc nhân hãy ‘thận trọng đối xử với bạn hữu chưa được cứu’ để mọi
lời cáo gian, mọi lời gièm pha nói xấu có thể bị chứng minh là giả dối (I Phi-e-rơ 2:12; 3:16).
Điều đáng yêu nhất là lời Phi-e-rơ khuyên người vợ lỡ có chồng là người ngoại đạo. Người ấy
phải sống tốt đẹp sao cho người chồng được đưa đến với Cơ Đốc giáo mà khỏi cần phải khuyên
bảo một lời nào (I Phi-e-rơ 3:1).
Hy văn có hai từ ngữ chỉ về ‘tốt’. Agathos chỉ đơn giản mô tả một vật tốt tự nhiên; kalos mô
tả một vật - hay một người - vốn chẳng những chỉ tốt, mà còn có tính thu phục, khả ái nữa. Và
Tân Ước thì rất thường dùng chữ kalos hơn (TC Mã 5:14-16). Cơ Đốc nhân không thể nói ‘Tôi
bất cần thiên hạ nói gì hay nghĩ gì về tôi’. Người ấy phải quan tâm, vì cuộc đời người ấy là một
bài giảng sống hậu thuẫn cho, hoặc chống lại niềm tin của người ấy.
9. Một trong những đòi hỏi phổ biến nhất của lời truyền dạy đạo đức của Phao-lô là các Cơ
Đốc nhân phải sống hòa thuận với nhau. Ít có điều gì để Phao-lô phải nói nhiều hơn là nguy cơ
có bất hòa và sự cần thiết phải có hòa hiệp. 35
Chia rẽ luôn luôn là một căn bệnh của Hội thánh. Ngay trong Bữa Tiệc Tối Cuối Cùng, các
môn đệ Chúa vẫn cãi nhau về vấn đề ai sẽ là người quan trọng nhất giữa vòng họ (Lu-ca 22:24).
Hội thánh Cô-rinh-tô có nhiều người ủng hộ cho nhiều thủ lãnh khác nhau, một tình trạng không
do lỗi của bản thân các thủ lãnh. Lời quở trách của Phao-lô, ấy là bao lâu giữa họ còn có sự ghen
tị, tranh cạnh, thì họ chẳng có quyền gì để tự xưng là Cơ Đốc nhân cả (I Cô 3:l-4). Bữa ăn Yêu
thương, đáng lẽ phải là dấu hiệu và biểu tượng cho sự đoàn kết, hiệp một trọn vẹn, đã trở thành
lý do để chia rẽ và phân biệt giai cấp. Các bản dịch mới hơn đã cho thấy một ý rõ hơn. Các bản
dịch xưa hơn bảo rằng ăn và uống thánh lễ mà không phân biệt thân Chúa là chuốc lấy sự phán
xét chớ không phải là được cứu rỗi. Nhưng trong văn bản Hi văn tốt nhất vốn không có chữ
Chúa. Tội là ở chỗ không phân biệt thân thể - nghĩa là không biết phân biệt Hội thánh là một
thân thể, không ý thức dược sự hiệp làm một của Hội thánh, không ý thức được là toàn thể các
thành viên phải cùng hiệp làm một với nhau (I Cô 11:17-32). Sự mất đoàn kết này được mô tả
trong mấy câu 17:22; về việc đó, Phao-lô mô tả có bệnh tật và yếu đuối giáng trên hội chúng
(câu 30). Nguy cơ của vấn đề không phải do không biết phân biệt bánh và rượu là tiêu biểu cho
thân thể Chúa Cứu Thế; mà nguy cơ là trong một Hội thánh thiếu hòa hợp và hòa thuận giữa Cơ
Đốc nhân với Cơ Đốc nhân, thì Tiệc thánh bị biến thành một sự lăng nhục. Tại Phi-líp, có những
nhà truyền đạo muốn làm xấu hổ cho Phao-lô chứ không nhằm mục đích truyền giảng Chúa Cứu
Thế (Philíp 4:2). Phao-lô sợ rằng khi ông đến Cô-rinh-tô, ông sẽ gặp cảnh gây gỗ và ghen tị (II
Cô 12:20). Ông nói đến việc người Ga-la-ti có thể xâu xé, cắn nuốt nhau (Galati 5:15). Trong các
Giám mục Thư của Phao-lô, có lời cảnh cáo những kẻ ‘gieo mầm ganh tỵ tranh chấp’, và một lời
cảnh cáo chống lại’ những người có tâm trí hư hoại và chối bỏ chân lý’ (I Ti. 6:4,5).
Phao-lô phải kêu gọi sống hòa hợp nhau nhiều lần. Hơn một lần, ông đã viết cho người La-mã
‘phải...hoà mình với những người tầm thường’ (Rô-ma 12:16-18; 15;5,6). Người Ê-phê-sô thì
được khuyến giục sống bình an hòa thuận dể giữ sự hợp nhất trong Thánh Linh (Ê-phê-sô 4:2,3).
Có một trong những bài thánh ca quan trọng nhất về Chúa Cứu Thế trong Tân Ước đã được viết
không phải như thần học, nhưng như một lời kêu gọi hãy có tinh thần giống Chúa Cứu Thế,
nghĩa là phải có tinh thần hợp nhất và khiêm tốn (Phi líp 2:1-11). Đôi bàn tay giơ lên để cầu
nguyện phải thánh sạch, đừng giận dữ và cãi cọ (I Ti 2:8). Tít phải dạy tín đồ của mình luôn luôn
tránh tranh chấp và hiền hòa nhã nhặn với mọi người (Tít 3:2).
Đạo đức học của Phao-lô đòi hỏi các Cơ Đốc nhân phải giải quyết vấn đề sống chung với
nhau - bằng không thì chớ có tự xưng là Cơ Đốc nhân...
10. Với Phao-lô, thì đạo đức Cơ Đốc là một nền đạo đức học của sự khiêm nhường. Phẩm
chất khiêm nhường này được nhấn mạnh xuyên suốt Tân Ước. Theo lời truyền dạy của Chúa
Giê-xu, thì kẻ kiêu ngạo sẽ bị triệt hạ, còn người khiêm nhường sẽ được tôn cao (Mathiơ 23:12;
Lu ca 14:11; 18:14). Con đường vào Nước Trời là con đường khiêm nhường của trẻ con (Mathiơ
95 18:4). Gia-cơ và Phi-e-rơ đều trích dẫn Cựu Ước, dạy rằng Thượng Đế gia ơn cho người
khiêm hạ, nhưng chống trả kẻ kiêu ngạo (Gia cơ 4:6,7; I Phê 5:5,6, Châm 3:34). Nhưng khúc
sách quan trọng viết về sự khiêm nhường là khúc sách Phao-lô vẽ lại đức khiêm nhường của
Chúa Giê-xu, Đấng đã chối bỏ sự vinh hiển thiên đàng để dễ sống trong thế gian, chẳng những
chỉ với tư cách một con người, mà còn như một kẻ tôi tớ và chẳng những chỉ để sống mà để cuối
cùng còn phải chịu chết, nhưng không phải chỉ để chịu chết mà thôi; nhưng còn chịu chết trên
thập tự giá nữa. Phải tìm mẫu mực của đức khiêm nhường nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu (Phi líp
2:1-11). Thư Ê-phê-sô bảo các dấu hiệu ấn chứng cho đời sống một Cơ Đốc nhân là khiêm cung
nhu mì (Êphêsô 4:2). 36
Đây là một điều mới mẻ trong Cơ Đốc giáo. Có người đã vạch ra rằng trong Hy văn thế tục
(secular) không có chữ khiêm nhường, mà không hàm ý hèn hạ, thấp kém. Chẳng ở đâu khác có
điểm dị biệt giữa đạo đức Cơ Đốc và đạo đức học Hy-lạp được nhận thấy rõ ràng hơn là trong
việc đối chiếu sự khiêm hạ này của Cơ Đốc giáo với bức tranh về con người quãng đại (great-
souled) của Aristotle, mà theo Aristotle thì đó là đặc tính tốt đẹp nhất (Aristotle, Nicomachean
Ethics 4.3.l-34,1 122a 33-1125a 17).
Bức tranh của Aristotle như sau: Con người ‘có linh hồn vĩ đại’ là người đại ngôn và xứng
đáng với những lời phô trương dó. Người không hay khoe khoang có thể là khiêm tốn và tiết độ
nhưng anh ta sẽ chẳng bao giờ trở thành vĩ đại. Người đại ngôn mà không tương xứng với những
lời khoe khoang của mình chỉ là khoác lác chớ không phải là vĩ đại. Để làm người có ‘linh hồn vĩ
đại’ phải vĩ đại, cũng như người đẹp trai phải có vóc dáng to lớn vậy. Aristotle bảo ‘người nhỏ
bé có thể gọn gàng, cân đối nhưng không thể đẹp trai được’. Điều duy nhất mà người có linh hồn
vĩ đại đặt làm mục tiêu là danh dự. Anh ta nhất thiết phải là người tốt. Người có linh hồn vĩ đại
phải đạt đến tột đỉnh của các đức hạnh, vì nếu không có chúng, cũng không thể có con người vĩ
đại Khi những con người có danh giá tôn kính con người có linh hồn vĩ đại thì người ấy sẽ sẵn
sàng tiếp nhận; nhưng nếu sự tôn kính do những con người tầm thường hiến tặng, thì người có
linh hồn vĩ đại sẽ quyết liệt khinh thường nó. Người ấy không vui mừng quá đáng khi được hưng
vượng, cũng không buồn rầu quá đáng khi gặp nghịch cảnh. Người ấy dửng dưng với phần lớn
sự đời, kể cả vinh dự, vì đối với anh ta, chẳng có gì là thật sự quan trọng cả. Chính vì lý do ấy
mà những người có linh hồn vĩ đại thường tạo cho người ta cái cảm tưởng là họ kiêu kỳ. Người
ấy khinh rẻ tha nhân, và thái độ xem thường kẻ khác của họ được coi là đúng.
Người có linh hồn vĩ đại thích ban phát các nguồn lợi lộc, nhưng không muốn tiếp nhận
chúng, vì ban phát ra là dấu hiệu của người trên, còn ngửa tay tiếp nhận là dấu hiệu của kẻ dưới.
Nếu người ấy chịu để cho ai phục vụ mình người ấy sẽ đền đáp có lợi cho người kia, vì như thế
người ấy vẫn tiếp tục làm người trên trước, nếu người ấy ban cho người sẽ nhớ. Nếu người ấy
nhận ân huệ của ai, thì thích quên nó đi. Người ấy chẳng bao giờ, hay chỉ hết sức miễn cưỡng,
chịu nhờ ai giúp đỡ mình. Người ấy tỏ ra ngạo mạn với người cao hơn mình, còn đối với kẻ thấp
hơn mình thì người ấy sẽ hạ cố để gia ơn cho. Các đối tượng bình thường của tham vọng sẽ
không hấp dẫn được người ấy. Người ấy tạo cho thiên hạ cái cảm tưởng là mình ở dưng và hành
động chậm chạp vì người ấy chẳng quan tâm gì ngoài ra những công trình vĩ đại mà thôi. Người
ấy chẳng bao giờ sống theo ý người khác, vì như vậy sẽ là quá khúm núm, nô lệ. Người ấy chẳng
xem việc gì là quan trọng, lớn lao cả, đối với người ấy thì chẳng có gì là đáng ngưỡng mộ. Người
ấy không thù oán ai, chỉ vì lý do là người ấy vốn quá cao cả đối với điều đó. Người ấy thích
những điều đẹp đẽ và vô dụng hơn là những gì hữu dụng, hữu ích; người ấy sẽ có dáng đi thư
thả, giọng nói thâm trầm, và có cách nói cẩn trọng.
Trên đây là một bức tranh của con người quý phái mà thái độ có đặc điểm là khinh miệt.. Bức
tranh về một con người vĩ đại của người Hy-lạp là bức tranh của một con người chẳng ý thức
được gì hơn là tính cách cao sang của mình, đối với người đó nếu tự nhận mình hãy còn thiếu
một cái gì, còn cần đến một điều gì, tức là tự nhận mình thất bại. Những phước hạnh của quan
điểm Cơ Đốc lại giành cho người nào ý thức được chính sự nghèo thiếu của mình, đau buồn vì
chính tội lỗi mình, dành cho người đói khát điều thiện mà người ấy buồn rầu ý thức rằng mình
không có gì (Mathiơ 5:3,4,6). Con người vĩ đại của người Hy-lạp là con người đứng từ trên cao
nhìn xuống. Trong đạo đức Cơ Đốc, thì con người vĩ đại là người biết nhìn lên Thượng Đế,
chẳng biết gì hơn là nhu cầu của chính mình, và ngồi nơi mà đồng bào đồng loại mình đang ngồi. 37
1. Điều căn bản cho đạo đức học của Phao-lô cũng như cho cả nền đạo đức học Tân Ước, ấy
là đạo đức học Cơ Đốc là một nền đạo đức của tình yêu thương. Tình yêu thương ở đây không
phải là một thứ tình cảm dễ dãi, do cảm xúc. Nó không phải là một cái gì bị sự đam mê giục giã
thôi thúc. Nó không phải là một cái gì cháy bùng lên rồi tắt, lúc này như một đam mê cháy bùng,
lúc khác lại hầu như không còn gì thực hữu. Nó không phải là một cái gì lệ thuộc vào điều ta
thích hoặc không thích. Nó là quyết tâm kiên trì, bất biến không thể bị đánh bại để yêu thương
người khác như chính Chúa Giê-xu đã yêu thương họ, và bất chấp họ có đáp ứng lại như thế nào,
cũng chẳng tìm kiếm điều gì ngoài ra điều tốt lành cao nhất cho họ. Nó là cái thiện chí không gì
dập tắt được. Đây là loại tình yêu thương sẽ đem lại nhiều kết quả.
a. Nó sẽ chi phối thái độ của Cơ Đốc nhân đối với lời nhục mạ và nguyền rủa. Sự báo thù -
nếu nó có len lỏi vào trong bức tranh này - thì cũng được phó vào tay Thượng Đế mà thôi. Về
phần chúng ta, kể cả đối với những người tự xem là kẻ thù với chúng ta, chúng ta sẽ chẳng làm
gì khác hơn là quan tâm lo lắng cho họ (Rôma 12:19,20). Mẫu mực cho sự tha thứ của con
người, là sự tha thứ của Thượng Đế. Như Chúa Cứu Thế đã tha tội cho chúng ta thể nào, chúng
ta cũng phải tha thứ cho người khác như vậy (Ê-phê-sô 4:32; Cơ 3:13). Người đã được tha tội,
thì phải tha thứ cho tha nhân. Điều này sẽ có nghĩa rằng một Cơ Đốc nhân chẳng bao giờ tìm
cách lấy ác trả ác. Người ấy sẽ luôn luôn tìm cách lấy thiện thắng ác (Rôm 12:21 ; I Tê 5:15).
Không phải là Cơ Đốc nhân chỉ thực thi chính sách tiêu cực là không trả đủa, nhưng phải áp
dụng một chính sách tích cực lấy sự nhân từ tử tế khiến thiên hạ phải cảm thấy xấu hổ mà đáp
ứng lại với mình (Rôma 1 2:20; Châm 25:21, 22).
b. Tình yêu thương Cơ Đốc giáo này sẽ đưa vào trong các mối liên hệ cá nhân một lòng khoan
dung mới. Kiên nhẫn chịu dựng là đặc điểm của thái độ của Cơ Đốc nhân đối với người khác (Ê-
phê-sô 4:2; Philíp 4:5). Phao-lô vốn ý thức rõ ràng rằng những con người khác nhau có thể rất
chân thành chủ trương nhiều quan điểm khác nhau (Rôma 14:5,6). Về thái độ khoan nhượng này,
có hai điểm cần nói.
Thứ nhất, đây không phải là sự khoan nhượng vì dửng dưng, nhưng là do tình yêu thương. Cơ
Đốc nhân khoan dung không phải vì chẳng bận tâm gì tới, không phải vì người ấy cho rằng nó
chẳng có gì quan trọng cả, nhưng vì trong sự cảm thông người ấy cố gắng tìm hiểu tại sao người
kia lại suy nghĩ và hành động như thế. Đây là sự khoan dung nhận biết rằng câu ‘nói biết rõ tất cả
là tha thứ tất cả’, là chí lý.
Thứ hai, thái độ khoan dung rộng lượng đối với những điều không cần yếu không phải là gạt
bỏ quyết tâm chọn lập trường không lay chuyển, khi một lập trường như thế là cần thiết. Chẳng
có ai dám bảo rằng Phao-lô là một con người thiếu cương quyết. Thế nhưng con người sắt đá đó
của Phao-lô lại có thể nhượng bộ trong nhiều vấn đề mà ông xem là không thiết yếu hay mang
lại nhiều lợi ích hơn cho cộng đồng. Ai ai cũng biết Phao-lô nghĩ gì về phép cắt bì, thế nhưng
ông đã làm phép cắt bì cho Ti-mô-thê chỉ vì ông biết rằng một khi Ti-mô-thê chịu cắt bì, thì
nhiều cơ hội truyền bá Phúc âm sẽ được mở ra, mà nếu Ti-mô-thê không chịu phép cắt bì, thì các
cánh cửa ấy chắc chắn sẽ bị đóng kín (Công 16:3). Chúng ta vốn biết Phao-lô nghĩ gì về luật
pháp Do Thái với tất cả, các nghi lễ của nó, thế nhưng Phao-lô hoàn loàn đồng ý trả phí tổn cho
người đã có lời thề nguyện làm người Na-xi-rê khi Gia-cơ gợi ý là ông phải làm như thế để
chứng minh rằng ông không hề là kẻ phản bội Do Thái giáo (Công 21:17-26). Thái độ không
nhân nhượng và ngoan cố không hề đồng nghĩa với nhau. Một người sống theo nguyên tắc với
một người làm nạn nhân của thành kiến là hai việc khác hẳn nhau. Sự khoan dung của Cơ Đốc
nhân biết rõ chỗ khác nhau giữa nguyên tắc và thiên kiến. 38
c. Tình yêu thương Cơ Đốc là yếu tố điều khiển là cũng là điều kiện của sự tự do của Cơ Đốc
nhân. Cơ Đốc nhân được tự do, tự đo đối với luật pháp độc đoán độc tài, tự do đối với các bó
buộc chỉ đạo cách ăn uống của người Do Thái, tự do đối với việc nô lệ cho luật pháp. Nhưng
quyền tự do ấy chẳng bao giờ được lạm dụng để bào chữa cho việc phóng túng. Đây là quyền tự
do của một người biết yêu thương người lân cận mình, và sẽ chẳng bao giờ làm gì có hại cho
người lân cận mình (Galati 5:1,13,14). Như Phi-e-rơ nói, đó là quyền tự do của người tôi tớ của
Thượng Đế (I Phi-e-rơ 2:16). Trong nhạc kịch của Gilbert và Sullivan có một bài ca nhan đề ‘Tôi
tự do, nhưng bị những cái cùm trói buộc cho đến giờ cuối cùng của tôi’. Cơ Đốc nhân được tự
do, nhưng Cơ Đốc nhân bị trói buộc bởi những cái cùm của trách nhiệm và bó buộc của tình yêu
thương.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này nếu xếp bên cạnh nhau hai đoạn truyền dạy của Phao-lô liên
hệ đến vấn đề ăn uống. Trong thư Cô-lô-se, ông nhấn mạnh rằng Cơ Đốc nhân không hề bị sự bó
buộc của luật lệ về khắc khổ dạy rằng chớ lấy, chớ nếm, chớ rờ vật này vật kia. Cơ Đốc nhân vốn
được tự do ăn uống tùy thích (Cô 2:16, 21). Thế nhưng khi viết cho người La-mã và người Cô-
rinh-tô, Phao-lô đưa ra lời cảnh cáo rằng một người chẳng bao giờ nên viện lẽ mình có quyền ăn
uống các vật có thể gây tàn hại cho người lân cận (Rôma 14:21; I Cô 8:13). Cơ Đốc nhân vốn tự
do, nhưng quyền tự do ấy phải được kiểm soát bởi trách nhiệm và được điều tiết bởi tình yêu
thương. Tự do mà vô trách nhiệm, tự do mà thiếu tình yêu thương, thì không phải là tự do của
Cơ Đốc giáo vì chúng chỉ có thể gây tổn hại mà thôi.
d. Còn có một lãnh vực khác nữa mà tình yêu thương phải cầm quyền kiểm soát. Tình yêu
thương phải kiểm soát việc trình bày và bênh vực chân lý. Đúng là sự thật phải được nói ra,
nhưng là nói ra với lòng yêu thương (Êphêsô 4:15). Sự thật có thể được nói ra bằng một thái độ
hầu như là tàn ác nhằm gây đau khổ cho người khác; nó có thể dược nói ra để gây thương tích
chớ không phải là để chữa lành. Như một triết gia Hy-lạp nói sự thật có thể giống như ánh sáng
làm nhức mắt, nhưng đừng bao giờ cố ý gây thương tổn cho tha nhân bằng sự thật. Các thư tín
mục vụ dạy rằng người giáo sư Cơ Đốc không nên cộc cằn hay gây gổ, nhưng phải hòa nhã; phải
là người khéo dạy dỗ và nhẫn nhục. Phải nhu mì sửa dạy người chống nghịch (II Ti 2:23-25).
Như Phi-e-rơ viết Cơ Đốc nhân lúc nào cũng phải sẵn sàng bênh vực và giải thích niềm tin của
mình, nhưng bao giờ cũng phải làm việc ấy cách hòa nhã, lễ độ (I Phi-e-rơ 3:15). Người ta hoàn
toàn có thể thắng cuộc tranh luận nhưng bị mất luôn con người. Nhưng khi lời truyền dạy và bàn
luận được thực hiện trong tình yêu thương của Chúa Cứu Thế, thì điều đó sẽ không xảy ra.
12. Hãy còn một lãnh vực cuối cùng nữa, trong đó đạo đức học của Phao-lô còn có điều ý
nghĩa đáng nói, một điều mà người ta có thể nói là liên hệ với đạo đức học của Phi-e-rơ. Trong
nền văn học liên quan tới đạo đức học của thế giới cổ có điều gọi là Các Luật lệ trong Nhà, trong
đó các bổn phận của các thành viên trong gia đình đối với nhau được giải thích và đúc kết lại.
Tân Ước cũng có bảng Gia huấn riêng theo hình thức này. Chúng đề cập ba mối liên hệ.
1. Mối liên hệ giữa vợ chồng (Ê-phê-sô 5:2-33; Cô 3:18,19; I Phi 3:1-7).
2. Mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái (Ê-phê-sô 6:1-4; Cô 3:20-21; I Ti 5:4,8,16)
3. Mối liên hệ giữa chủ tớ hay nô lệ (Ê-phê-sô 6:5-9; Cô 3:22-4:1; Philêmôn 16; I Ti 6:1,2; I.
Phi 2:18-25)
Căn cứ vào những đoạn Kinh Thánh trên ta rút ra được một vài điều.
Thứ nhất, Phao-lô thấy trong đời sống có một loạt những sự tùng phục tự nhiên - vợ thuận 39
phục chồng, con cái thuận phục cha mẹ, tôi tớ thuận phục chủ. Những tùng phục này không hề
có chút gì là bạo ngược hoặc độc tài. Chúng chỉ là phần cơ chế nội tại mà nếu không có, đời sống
sẽ không thể tiến triển. Nếu không có chúng tất cả đều sẽ trở thành hỗn loạn. Cơ Đốc giáo không
hề chủ trương tình trạng vô chính phủ. Nó có nền móng là tình yêu thương; nó đưa tình yêu
thương vào trong các mối liên hệ giữa người này với người kia; nhưng Cơ Đốc giáo thấy rõ là trừ
phi khi mọi người chấp nhận một số quyền lãnh đạo nào đó, đời sống sẽ không thể nào tiến triển
được. Đây không phải là chế độ phong kiến, phụ quyền hay duy trì việc phân biệt giai cấp. Một
người không nhất thiết phải mãi mãi làm tôi tớ, hoặc luôn luôn làm người lãnh đạo. Nhưng việc
chấp nhận quyền lãnh đạo cả theo hai nghĩa là thực thi và tuân thủ sự lãnh đạo đó, đều là một
thành phần của đời sống.
Thứ hai, nền đạo đức học về mối liên hệ cá nhân của Phao-lô bao giờ cũng có hai chiều. Đó là
mặt trái của sự tùng phục. Phao-lô chẳng bao giờ quy định một quyền lợi mà không gắn liền vào
đó một nghĩa vụ. Bổn phận của người lãnh đạo đối với kẻ thuận phục mình cũng được vạch rõ về
đủ mọi mặt y như bổn phận của kẻ phục tùng đối với người lãnh đạo vậy. Vợ phải thuận phục
chồng, nhưng chồng phải đối xử với vợ bằng thái độ luôn luôn dịu đàng hòa nhã, và tôn trọng
(Ê-phê-sô 5:22, 25, 28, Côlôse 3:18,19; I Phi 3:1,5,7). Con phải vâng lời cha mẹ, nhưng cha mẹ
phải đừng bao giờ đòi hỏi vô lý khiến con cái thù ghét hay chán nản thất vọng (Ê-phê-sô 6:1-4;
Côlôse 3:20-21). Tôi tớ phải vâng lời và phục vụ chủ nhưng chủ không bao giờ được quên các
quyền lợi của tôi tớ (I. Êphêsô 6:5, 9; Côlôse 3:22-25; 4:1; I Phi 2:18-25). Đặc quyền đặc lợi
chẳng bao giờ chỉ có ở một phía. Được quyền lãnh đạo có nghĩa là phải chịu trách nhiệm đối với
những người được lãnh đạo. Nền đạo đức học của Phao-lô, buộc chung tất cả mọi người lại trong
một trách nhiệm hai chiều, trong đó chẳng ai có thể đòi hòi gì nơi người khác mà không đồng
thời thừa nhận nghĩa vụ của mình đối với người ấy.
Thứ ba, mọi sự được tể trị bởi sự hiện diện của Chúa Cứu Thế Giê-xu và trách nhiệm của
chúng ta đối với Thượng Đế. Con cái phải vâng phục cha mẹ là điều đẹp lòng Chúa (Côlôse
3:20). Mối liên hệ giữa vợ với chồng giống như mối liên hệ giữa Chúa Cứu Thế và Hội thánh
(Êphêsô 5:21-33). Tôi tớ phải làm việc như lấy công tác của mình để dâng cho Chúa Cứu Thế
vậy (Ê-phê-sô 6:6-8; Côlôse 3:23,24). Người chủ phải luôn luôn nhớ rằng mình không phải là
chủ của chính mình, nhưng mình còn có một ông chủ ở trên trời nữa (Ê-phê-sô 6:9; Côlôse 4:1).
Đất luôn luôn có liên hệ với trời, thời gian luôn luôn có liên hệ với cõi vĩnh hằng; điều đơn sơ
giản dị nhất cũng trở thành một điều có tính cách tôn giáo. Như George Herbert đã viết:
Lạy Thượng Đế là vua của con, xin dạy con
Làm việc và thờ phượng đã trở thành cùng một việc giống nhau.
Thứ tư, tình hình mới cũng có các vấn đề của nó. Thoạt nhìn, nó có thể gây ngạc nhiên cho
chúng ta rằng Tân Ước chẳng đá động gì đến chuyện giải phóng nô lệ cả. Có hai điểm cần nói.
Một là, gợi ý việc giải phóng nô lệ có thể gây rối loạn, và cuối cùng chẳng có gì xảy ra hơn là sự
tàn sát hàng loạt; cả khi phong trào giải phóng có thành công đi nữa thì sẽ không có thị trường tự
do cho việc lao động. Thời gian vẫn chưa chín muồi. Thứ hai, lúc Phao-lô gởi Ô-nê-sim trả về
cho Phi-lê-môn, ông đã gởi trả anh ta không phải chỉ với tư cách một nô lệ mà thôi, nhưng còn
với tư cách một anh em yêu dấu nữa (Philêmôn 16). Điều này có nghĩa là tình yêu thương và sự
thông công của Cơ Đốc giáo đã đưa vào một mối liên hệ mới giữa người chủ và người nô lệ,
trong đó các danh từ ấy không còn hợp thời nữa. Tương tự như vậy, trong hội chứng có thể rằng
người làm chủ bổng nhiên nhận thấy mình nhận lấy bánh thánh, rượu thánh từ tay kẻ vốn là nô lệ
của mình. Nếu mọi người đã hiệp làm một trong tình yêu thương của Chúa Cứu Thế thì vấn đề40
không còn là người này là ông chủ kẻ kia là đầy tớ nữa, vì tất cả đều là anh em với nhau. Quả
thật, sau này có lúc tình hình khiến cho chế độ nô lệ không thể tồn tại nữa, nhưng nó chỉ đến theo
đúng kỳ của nó, bằng không sẽ chỉ có lộn xộn, rắc rối mà thôi.
Thứ năm, còn một điều cuối cùng nữa cần ghi nhận. Người vốn là đầy tớ, bây giờ đã trở thành
một anh em yêu dấu rồi; cả chủ lẫn tớ đều đã là Cơ Đốc nhân. Trong thư I Ti-mô-thê có một
đoạn cho thấy có một số tôi tớ đã tìm cách lợi dụng mối liên hệ mới mẻ này ‘Nếu chủ là tín hữu,
tôi tớ không vì thế mà coi thường, nhưng phải tận tụy làm việc, vì phục vụ cho một tín hữu thân
yêu’ (I Ti 6:1,2). Rõ ràng là đã có một số tôi tớ lợi dụng mối liên hệ mới mẻ này để cố tình xem
thường kẻ ăn không ngồi rồi. Nhưng đạo đức Cơ Đốc dạy rằng mối liên hệ huynh đệ phải biến
chúng ta trở thành những con người tốt hơn, chớ không phải trở thành những công nhân lười
biếng, và giờ đây, chúng ta làm việc không phải là vì bị thúc ép nữa, nhưng là vì đồng lao - đồng
công với nhau.
Nền đạo đức học của Phao-lô có lẽ đã được trên một ngàn chín trăm tuổi rồi, nhưng nó vẫn
còn có giá trị như xưa, vả lại, hãy còn một số ý nghĩa ẩn tàng trong đó vẫn chưa được thực hiện
thật đầy đủ. 41