Chương hai
CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẠO ĐỨC CƠ ĐỐC
TRONG LỜI DẠY CỦA CHÚA GIÊ-XU
Nhan đề cho loạt bài thuyết trình này là Chúa Giê-xu Hôm Nay, và có một số đông người sẽ bảo thẳng thừng rằng họ không tin là chúa Giê-xu có dính dáng gì tới hôm nay cả. Nhan đề này có thể được đổi lại thành Đạo đức Cơ Đốc trong thế kỷ thứ hai mươi, và cũng sẽ có một số người tương đương như trên nói thẳng rằng Đạo đức Cơ Đốc chẳng thích hợp chút nào cho thế kỷ hai mươi này. Họ nói đúng hay nói sai? Nếu có cơ hội, bạn có thể đưa ra một luận cứ mạnh mẽ về mặt lý thuyết để bảo rằng quyển Kinh Thánh nói chung và Tân Ước nói riêng, đều chẳng liên quan gì với năm 1970 cả.
1. Những phần xưa nhất của Cựu Ước đã được định niên đại tận năm 950 TCN, còn phần trễ nhất của Tân Ước thì có niên đại khoảng 120 SCN; nghĩa là nhiều phần trong Kinh Thánh đã xưa đến khoảng 3.000 năm rồi; phần gần với chúng ta hơn hết cũng đã trên 1.800 năm rồi. Làm thế nào một lời truyền dạy có tuổi cao như thế, lại có thể thích hợp được cho hôm nay? Chẳng hề có ai đem các sách thuốc của Galem và Hippocrates để làm sách giáo khoa dạy cho các bác sĩ ngày nay. Cũng chẳng hề có ai căn cứ vào Varro để dạy về nông ghiệp, hay căn cứ vào Vitruvius để dạy về kiến trúc. Các tác giả cổ đại thuộc các lãnh vực khác thì đều đáng chú ý; họ đã thuộc về lịch sử của môn học của họ. Nhưng chẳng hề có ai chấp nhận là họ vẫn còn thẩm quyền đối với đời sống và nếp sống sinh hoạt hiện nay. Thế thì tại sao lại phải chấp nhận Chúa Giê-xu? Tại sao lại phải chấp nhận Tân Ước?
2. Hơn nữa, cả Kinh Thánh Tân Ước lẫn Chúa Giê-xu đều xuất thân từ một nước bé tí xíu, xứ Palestine chỉ dài khoảng 150 dặm từ Bắc xuống Nam nghĩa là chỉ bằng khoảng cách từ Hà nội đến Vinh, hay từ Đà lạt tới Sài-gòn. Còn chiều ngang từ Đông sang Tây của nó chỉ có 45 dặm nghĩa là còn thua khoảng cách từ Sài-gòn đi Tây Ninh! Làm thế nào một nền đạo đức của một nước nhỏ bé như vậy lại có thể đem ra làm đạo đức học cho cả thế giới được? Hơn nữa, dân cư ngụ trong xứ Palestine là dân Do Thái và người Do Thái, rồi họ lại còn tự cô lập hóa đối với các dân tộc và các nền văn hoá khác nữa. Làm thế nào một nền đạo đức học xuất phát từ một chính sách cố tình tự cô lập hóa, lại có thể trở thành đạo đức học cho cả thế giới? Lại nữa dân Do Thái 15
vốn bị thất bại hoàn toàn về phương diện chính trị. Họ từng chịu thần phục các nước A-sy-ri, Ba-by-lôn, Ba-tư, Hy Lạp, La-mã. Có thể nói là họ chưa hề biết thế nào là tự đo, là độc lập. Làm thế nào một nền đạo đức học nảy sinh từ một nước nhỏ bé, cô lập, từng chịu thần phục nhiều ngoại bang, lại có thể trở thành nền đạo đức học cho toàn thể thế giới được?
3. Lại nữa, rõ ràng là đời sống tại Palestine thời đó chẳng có gì giống với sinh hoạt ngày nay. Cứ nghĩ mà xem. Tiền lương của một công nhân tại Palestine chỉ vào khoảng một mỹ kim một ngày. Cứ cho là mãi lực có khác nhau rất lớn đi chăng nữa, một mỹ kim một ngày thì chẳng thấm vào đâu so với lương bổng của một người thuộc xã hội giàu có hiện đại, trong đó người ta được hưởng mức sống cao nhất từ trước đến giờ. Trong thế giới cổ thời, đã chẳng hề có ngành công kỹ nghệ theo ý nghĩa của các danh từ hiện nay, chẳng hề có hãng xưởùng, máy móc, cơ giới hóa hoặc kỹ nghệ hóa.
Rồi trong cái xã hội xưa cũ đó cũng có sự im lìm bất động khác thường so với các tiêu chuẩn của chúng ta. Trong các chương đầu sách Sa-mu-ên, chúng ta đọc thấy câu chuyện của Sa-mu-ên và mẹ ông là bà An-ne. Bà đã dẫn đứa con trai bé bỏng của mình từ quê nhà là Ra-ma đến Đền tạm tại Si-lô để giao cậu bé cho thầy tế lễ Hê-li. Rồi sách chép tiếp rằng mỗi năm bà mẹ may cho con một cái áo dài nhỏ để đem theo khi đi lên dâng của lễ hằng năm (I Sa. 2:19). Chắc bạn phải nghĩ rằng đây là một chuyến đi đầy phấn khởi, một chuyến đi mà mỗi năm chỉ có một lần. Thật ra thì Ra-ma chỉ cách Si-lô có mười lăm dặm (24 km) mà thôi. Trong cả cuộc đời của Ngài, Chúa Giê-xu chỉ có một lần đi xa nhà khoảng bảy mươi dặm. Khi bạn suy nghĩ về sự khác biệt giữa điều ấy với xã hội ngày nay mà chuyến đi nghỉ hè bên Tây ban nha chỉ là việc bình thường, chuyện bay lên cung trăng là điều có thể có được, thì bạn sẽ thấy rằng xã hội bấy giờ với xã hội của chúng ta quả là những thế giới hoàn toàn khác biệt. Vậy làm thế nào một sự dạy dỗ và dạo đức học đã được đưa ra cho một xã hội như vậy, lại có thể có liên hệ gì với ngày nay?
Có hai điều cần phải nói: Thứ nhất, những điều bên ngoài có thể thay đổi, nhưng các nguyên tắc nội tại thì vẫn giữ y nguyên. Thử lấy trường hợp các công trình xây cất. Giữa kim tự tháp Ai-cập, đền Parthenon tại A-thên, các đại thánh đường Canterbury, Liverpool, Coventry và Tháp Bưu điện tại Luân Đôn đều có thể khác nhau rất xa. Cứ bề ngoài mà trông thì chúng có vẻ như những thế giới cách biệt, thế nhưng ẩn tàng bên trong chúng đều theo các quy luật kiến trúc giống nhau, vì nếu không có những quy luật ấy, tất cả sẽ sụp đổ. Tuy bề ngoài chúng có thể khác nhau đến đâu đi chăng nữa, phần nguyên tắc ẩn tàng bên trong vẫn giống nhau. Bây giờ là điểm thứ hai. Điều mà đạo đức học Cơ Đốc chú trọng là các mối liên hệ giữa người với người. Nó quan tâm đến mối liên hệ giữa đàn ông với đàn ông, giữa đàn ông với đàn bà, và giữa con người với Thượng Đế; mà các mối liên hệ cá nhân thì không hề thay đổi. Thương yêu và thù ghét, danh dự và trung thành bao giờ cũng y như vậy. Có người đã đưa ra thí dụ minh họa này: lúc Ra-chen được gả cho Gia-cốp, nàng được đưa về nhà chồng bằng lạc đà, mặc áo dài, có mạng che mặt thật kín đáo. Còn cô dâu hiện đại thì về nhà chồng trên xe hơi Rolls-Royce thuê và mặc váy ngắn. Nhưng tình cảnh thì vẫn hệt nhau: có hai người đang yêu nhau. Thi sĩ Thomas Hardy có mấy dòng thơ sau đây: Hãy nhìn chàng cùng nàng
Sánh vai nhau thì thầm, Các biên niên sử của các trận chiến sẽ tan biến vào đêm tối 16 Trước khi câu chuyện của họ tàn phai. Chính vì thế mà đạo đức học của Tân Ước và của Kinh Thánh ngày nay vẫn còn giá trị như
vốn đã có giá trị từ xưa. Sở dĩ như thế vì đạo đức học đề cập tới những điều bất biến, tới các mối liên hệ không hề thay đổi một khi đàn ông vẫn là đàn ông, đàn bà vẫn là đàn bà và Thượng Đế vẫn là Thượng Đế.
Nếu quả đúng như vậy, thì có một điểm nổi bật trong đạo đức học Cơ Đốc: nó là một nền đạo đức cộng đồng. Đó là một nền đạo đức trong đó không ai có thể sống cô lập đối với đồng bào đồng loại. Tình yêu, lòng trung thành, sự tha thứ, việc phục vụ - đó là những vấn đề của cộng đồng, những việc chỉ có thể tìm thấy và thực thi khi có người sống chung với nhau. Hồi John Wesley còn trẻ và còn hoang mang trong đức tin, ông từng nghĩ đến chuyện đi dựng một túp lều trong một vùng đất hoang vu, và bỏ nhà tới đó ở để được sống một mình với Thượng Đế. Bấy giờ có một Cơ Đốc nhân lớn tuổi và khôn ngoan hơn bảo với ông rằng “Thượng Đế chẳng hề dạy gì về một tôn giáo cô độc cả”. Vấn đề sinh hoạt của Cơ Đốc nhân chỉ có giữa vòng nhiều người với nhau mà thôi.
Bây giờ thì chúng ta có thể đưa ra câu hỏi quan trọng nhất. Nền đạo đức của Tân Ước có đặc điểm gì? Hay có thể nói cách khác như chúng tôi vừa mới nói: Mối liên hệ cá nhân giữa một Cơ Đốc nhân với đồng bào đồng loại mình có đặc điểm nào?
Điều này đưa chúng ta trở lui lại một bước. Trước hết chúng ta phải hỏi rằng “Chúa Giê-xu đã dạy gì về các mối liên hệ giữa Thượng Đế với những con người đã được Ngài sáng tạo ra? Sở dĩ chúng ta phải đặt vấn đề như vậy là vì lý do: một trong những nét chính yếu của đạo đức Cơ Đốc, là sự đòi hỏi phải bắt chước. Loài người phải bắt chước, phải theo gương của Chúa Giê-xu.
Phi-e-rơ dạy rằng Chúa Giê-xu đã để lại một tấm gương hầu cho chúng ta noi theo các dấu chân Ngài (I Phi 2:21). Từ ngữ ông dùng chỉ tấm gương là hupogrammos, và hupogrammos là từ ngữ chỉ dòng chữ viết tay thật trọn vẹn làm mẫu trên đầu trang vở để tập viết của trẻ con, là dòng chữ mà đứa trẻ phải sao chép lại. Cho nên, Cơ-đốc nhân cũng phải bắt chước Chúa Giê-xu. Và chính Phao-lô cũng đòi hỏi Cơ Đốc nhân phải bắt chước Thượng Đế - và dầu sao thì phải chăng đây chỉ là một đòi hỏi hết sức hợp lý, bởi vì như Kinh Thánh chép, con người vốn được tạo dựng theo hình ảnh giống như Thượng Đế (Ê-phê 5:1; Sáng 1:26,27)?. Cho nên điều mà thật ra chúng ta phải hỏi là: đâu là điều mới mẻ mà Chúa Giê-xu dạy về Thượng Đế, liên quan đến mối liên hệ giữa Thượng Đế và loài người mà Ngài đã tạo dựng nên? Nếu chúng ta tìm đến các ý niệm của người Hy Lạp về Thượng Đế, chúng ta thấy rằng ý niệm đầu tiên và căn bản nhất về Thượng Đế là ý niệm về sự yên tĩnh thanh thản tuyệt đối của Ngài, một sự yên tĩnh thanh thản mà chẳng có gì ở dưới đất hay trên trời có thể tác động đến được.
Người Hy Lạp dùng hai từ ngữ để chỉ Thượng Đế. Họ nói về ataraxia của Ngài. Khi Chúa Giê-xu bảo rằng lòng chúng ta đang bối rối, Ngài đã dùng động từ (tarassw) đối lập với chữ ataraxia. Ataraxia là không chút lo âu xao xuyến: Nó là sự bình an bất khả xâm phạm. Người Khắc kỷ (Stoics) đề cập tới sự apatheia của Thượng Đế bởi đó họ ngụ ý bảo rằng theo bản thể của Ngài thì Thượng Đế không thể có cảm xúc. Hễ có cảm xúc có tình cảm là có âu lo xao xuyến. Nếu bạn có thể yêu, thì bạn có thể có âu lo buồn bực và bối rối về người mà bạn yêu. Người Hy Lạp cảm nhận rằng điều thiết yếu về Thượng Đế là sự bình an thanh thản, không có gì quấy rầy được, tuyệt đối và chẳng có gì đụng chạm đến được đó. Họ bảo rằng muốn có được sự bình an đó, Thượng Đế phải vô cảm. Đây là điểm khác biệt mà Cơ Đốc giáo đưa ra. Chúa Cứu Thế Giê-xu đã đến để bảo cho loài 17 người biết về một Thượng Đế hết sức quan tâm lo lắng, một Thượng Đế đã dấn thân vào hoàn cảnh con người, một Thượng Đế mà Cựu Ước đã viết là rất âu lo (khốn khổ), bối rối khi chúng ta lo âu (bị khốn khổ) bối rối, là một Thượng Đế hết sức quan tâm chú ý đến loài người. Một thái độ thanh thản tách biệt chính là một ý niệm đối lập với ý niệm của Cơ Đốc giáo về Thượng Đế.
Thượng Đế của Cơ Đốc nhân trái ngược hẳn với một Thượng Đế cô lập, vô cảm. Nếu quả đúng như vậy, thì nền móng của đạo đức Cơ Đốc thật rõ ràng–nền móng của đạo đức Cơ Đốc là lòng quan tâm. Đây là yếu tính của ba trong số các ẩn dụ của Chúa Giê-xu trong ẩn dụ về chiên và dê (Ma-thi-ơ 25:31-46), tiêu chuẩn của việc phán xét loài người lần cuối cùng thật là đơn giản: Ngươi có bận tâm đến số người đang gặp khó khăn bối rối không? Trong ẩn dụ về ông nhà giàu và La-xa-rơ (Lu-ca 16:19-30), đã không có một dấu chỉ nhỏ nhặt nào cho thấy người nhà giàu đã đối xử tàn ác đối với La-xa-rơ. Vấn đề rắc rối là ông ta đã chẳng quan tâm gì đến đời sống của La-xa-rơ cả. La-xa-rơ nằm đó trong nghèo khổ, đau đớn, thế nhưng ông nhà giàu chỉ nhìn như anh ta là một phần trong cảnh vật của mình; ông ta đã chẳng hề bận tâm chút gì cả; và trong ẩn dụ ấy, cuộc đời của ông ta đã kết thúc trong hỏa ngục. Ẩn dụ thứ ba là về người Sa-ma-ri nhân từ (Lu-ca 10:29-37). Tất cả vấn đề của ẩn dụ này là mối quan tâm của người Sa-ma-ri. Trong khi những người khác đều tránh qua bên kia đường và chỉ muốn tránh xa để khỏi phải tiếp xúc với đau khổ, thì người Sa-ma-ri đã quan tâm tới kẻ gặp
nạn và đã làm một việc gì đó cho anh ta.
William Booth vẫn luôn luôn phủ nhận công tác có tầm hạn hết sức rộng lớn của Hội Cứu Thế quân là có hoạch định hẳn hoi. Ông thường nói:
“Chúng tôi thấy nhu cầu. Chúng tôi thấy người ta đang chết đói; chúng tôi thấy thiên hạ gần như trần truồng; người ta phải đổ mồ hôi để lao động khổ sai; và chúng tôi làm một việc gì đó nhằm cứu vãn tình thế. Chúng tôi cảm thấy bị bó buộc - có một sức thúc giục nào đó. Chúng tôi có thể làm gì khác hơn được?”. Nhưng tất cả vấn đề là có vô số người có thể làm một việc gì đó - họ chẳng chịu làm gì cả.
Chính mối bận tâm đó đã ám ảnh một người như William Booth. Năm 1868 là năm mà ông tiêu tiền lần cuối cùng theo lối thông thường cho ngày lễ Chúa Giáng sinh với một bữa tiệc và một buổi dạ hội. Ông vừa đi giảng ở Whitechapel buổi sáng hôm đó trở về. Ông cố gắng giữ lễ Giáng sinh, nhưng không thể vui vẻ để dự lễ được. Ông nói: “Thế là tôi chẳng còn dự một ngày lễ Giáng sinh nào giống như thế này được nữa. Những kẻ nghèo thì chẳng có gì để vui hưởng ngoài các quán rượu”. Vào những ngày tàn của cuộc đời mình, khi chứng khó tiêu hóa khiến ông hầu như không thể ăn được nữa ông nói như sau: “Người ta đem trứng đến cho tôi điểm tâm, mà chính lúc này đây, nhiều trẻ con đang sắp chết đói”. Điều ám ảnh ông nhiều nhất đã được bày tỏ trong câu nói đầy thương cảm đó - ông luôn luôn bị ám ảnh khi nghĩ đến những đứa bé mà chữ hôn vốn là một huyền nhiệm vô nghĩa. Thế thì, trước hết, nền móng của đạo đức Cơ Đốc là nền móng của sự hiện hữu của Thượng Đế và cuộc đời của Chúa Giê-xu - đó là lòng quan tâm. Trong cuộc đời biết quan tâm này thì Cơ Đốc nhân trái ngược hẳn với người Hy Lạp. Người Hy Lạp không thể không thấy đời sống theo ý nghĩa của một Thượng Đế thanh thản, cô lập, vô cảm, chẳng hề biết xúc động tình cảm là gì. Cho nên họ lý luận rằng con người cũng phải giống như vậy. Và ta có thể tóm tắt mục tiêu vĩ đại nhất của họ chỉ bằng một câu nói như thế này “Hãy tự dạy cho mình đừng bận tâm gì cả. Cho dầu có chuyện gì xảy ra, thì chính Thượng Đế đã khiến cho nó phải xảy ra như thế. Cho nên hãy chấp nhận nó”. 18 Nhưng người Khắc kỷ còn đi xa hơn. Họ nhìn thấy cuộc đời là một tiến trình để học tập đừng bận tâm chi cả. Epictetus đưa ra lời khuyên này: Hãy bắt đầu bằng chiếc áo rách, một cái tách hay cái đĩa bể và tự nhủ: Ta bất cần. Hãy nhìn một con chó kiểng hay một con ngựa cưng nằm chết và nói: Ta bất cần. Cuối cùng, bạn sẽ đạt đến chỗ có thể đứng bên cạnh giường của người thân yêu mình đang hấp hối, nhìn người thân yêu trút hơi thở cuối cùng và nói: Ta bất cần. Với người Khắc kỷ thì cuộc đời là một tiến trình để bất cần, bất chấp tất cả, còn với một Cơ Đốc nhân thì cuộc đời là một tiến trình để học biết lưu ý bận tâm - như Thượng Đế vậy.
Hãy đặt quan niệm của họ bên cạnh những lời nói cuối cùng của William Booth năm 1912 khi ông đã rất cao tuổi và biết rằng mình sắp bị mù: “Khi nào các phụ nữ còn khóc lóc như hiện nay, tôi sẽ còn chiến đấu; khi nào trẻ con vẫn còn bị đói như hiện nay; tôi sẽ còn chiến đấu; khi nào thiên hạ vẫn còn vào tù ra khám, tôi sẽ còn chiến đấu; khi nào hãy còn một linh hồn ở trong sự tối tăm mà không thấy ánh sáng của Thượng Đế tôi sẽ còn chiến đấu - Tôi sẽ chiến đấu cho đến cùng”. Và ông đã làm như thế. Nếu bạn muốn biết đạo đức Cơ Đốc đại khái là gì, hãy đặt lời kêu gào hãy chiến đấu lúc Booth đang hấp hối này bên cạnh những lời giáo dục bảo bạn hãy bất chấp tất cả, chẳng bận tâm gì cả - thì bạn sẽ thấy rõ sự khác biệt.
Các sách Phúc âm có dành một lời cho thái độ bận tâm này. Các sách ấy gọi đó là tình yêu thương. Vì đây là trung tâm điểm của đạo đức Cơ Đốc giáo cho nên chúng ta cần tra xét nó cặn kẽ hơn.
Chúng ta hãy bắt đầu bằng một sự bất lợi. Trong tiếng Việt, chữ yêu thương có một nội dung tình cảm cao độ. Nó là sự bừng dậy, là đỉnh cao mà con tim đạt tới lúc ta cảm thông, nghĩ tới một người rất gần gũi, rất thân thiết với chúng ta. Cho nên khi chúng ta được dạy là phải yêu thương người lân cận mình và hơn nữa, là phải yêu thương các kẻ thù mình, thì chúng ta bị thối chí trước một nhiệm vụ hầu như không tài nào chu toàn nổi. Như chúng ta đã học biết cách sử dụng từ ngữ ấy tình yêu thương vốn không phải là điều gì để đem ra phân phát cho một số đông người; tự bản tính, nó nhất thiết là một cái gì phải được tập trung vào chỉ một tối thiểu số, một con người duy nhất nào đó. Người Hy Lạp vốn biết rõ điều này. Họ biết rõ về tình yêu vốn là một đam mê và là một khát vọng, có cường độ lấn át tất cả, cho nên họ gọi nó là eros. Họ biết rõ về loại tình yêu thương bền vững của tình cảm xuất phát từ kinh nghiệm cùng nhau đối mặt với cuộc sống, loại tình yêu bền vững buộc chặt hai con người lại với nhau, cả khi đam mê không còn nữa, họ gọi nó là philia. Họ biết rõ tình yêu thương của một đứa con đối với cha mẹ nó, một đứa con trai dành cho mẹ , một đứa con gái dành cho cha, một anh em trai cho một chị em gái, một loại tình yêu thương mà tình dục không dự phần vào. Họ gọi nó là storgh.
Nhưng tình yêu thương mà Chúa Giê xu đòi hỏi không phải là loại nào trong số tất cả các điều đó; nó là agaph. Thế agaph này là gì? Nó đã được mô tả cho chúng ta qua thái độ của Thượng Đế đối với loài người:
“Người ta thường nói: Hãy yêu kẻ lân cận nhưng ghét kẻ thù” nhưng ta bảo các con: phải yêu kẻ thù, cầu nguyện cho người khủng bố hành hạ các con. Có như thế, các con mới xứng đáng làm con cái Cha trên trời. Vì Ngài ban nắng cho người ác lẫn người thiện, ban mưa cho người công bình lẫn kẻ bất công (Mathiơ 5:43-45).
Thế thì đâu là chỗ khác nhau của tình yêu thương mà Thượng Đế dạy chúng ta phải dành cho đồng bào đồng loại? Đặc điểm của nó là Thượng Đế vẫn ban ơn cho cả kẻ ác lẫn người thiện, 19 người công bình lẫn kẻ bất công. Ánh sáng mặt trời cũng như mưa móc đều dành cho tất cả mọi người. Cho nên điều đó có nghĩa rằng, cho dầu một người có tốt hay xấu, ý tốt lành của Thượng Đế vẫn dành cho con người ấy. Thượng Đế hoàn toàn chỉ muốn điều tốt lành; sự từ ái của Ngài luôn luôn vây quanh Ngài và từ Ngài chiếu toả ra. Đó là tình yêu thương của Cơ Đốc nhân. Đó là thái độ đối với tha nhân. Đó là cả toàn bộ ý muốn tốt của tôi đối với mọi người. Đó là loại thái độ để bày tỏ thiện chí không thể thay đổi được là ước muốn điều tốt lành cho người khác mà chẳng có gì tiêu diệt được. Điều hết sức rõ ràng, đây không phải chỉ là cách đáp ứng của tình cảm; đây là một hành động của ý chí. Trong đó, không phải chỉ có trái tim của chúng ta đến với người khác; mà đó là toàn diện con người của chúng ta. Và chính vì thế mà tình yêu thương này đã được truyền dạy cho chúng ta và được đòi hỏi nơi chúng ta. Không thể nào đòi hỏi chúng ta phải yêu thương mọi người theo nghĩa là “phải
lòng” họ được. Không thể nào đòi hỏi chúng ta phải yêu thương các kẻ thù như chúng ta yêu thương những người thân yêu của mình, như chính mạng sống của chúng ta được. Nhưng có thể bảo chúng ta rằng “Bạn phải cố gắng bắt chước Thượng Đế. Bạn phải cố gắng chỉ ao ước điều tốt lành cho tha nhân mà thôi. Bạn phải cố gắng nhìn mọi người bằng đôi mắt của Thượng Đế, bằng đôi mắt của thiện chí”.
Luther nhận thấy có một điều trong tình yêu thương của Thượng Đế. Trong cuộc tranh luận ở Heidelberg năm 1518, ông đề cập tình yêu thương của Thượng Đế, và nói như vầy “Tội nhân rất hấp dẫn vì họ được yêu thương, chứ họ không được yêu thương vì cớ hấp dẫn”. Thượng Đế không yêu thương chúng ta vì chúng ta là những con người hấp dẫn, đáng yêu mà Ngài yêu chúng ta vì chính chúng ta, và bởi tình yêu thương Ngài, Ngài tái tạo và làm lại chúng ta. Đó là cách chúng ta phải yêu thương tha nhân. Chúng ta không yêu thương họ vì họ khả ái; chẳng hề có ai cần được một người khác ra lệnh cho mình phải yêu thương một người xinh đẹp, hấp dẫn.
Tất cả vấn đề của tình thương Cơ Đốc là thái độ của tâm trí và ý chí và của con người toàn diện khiến chúng ta có thể yêu thương những người chẳng có gì đáng yêu, những người khó có thể yêu nổi, những người chẳng được ai yêu thương, cả đến những người thù ghét, làm hại và nguyền rủa chúng ta nữa, theo ý nghĩa là cho dầu họ có làm gì đi chăng nữa, thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ đối xử với họ bằng điều gì khác hơn là bằng ý tốt với họ, và chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm cầu gì cho họ ngoài ra điều tốt lành.
Đây là mối bận tâm của Cơ Đốc nhân, vì đây chính là mối quan tâm của Thượng Đế. Đây không phải là một tình cảm tự động tự phát; đây không phải là một cái gì tùy thuộc vào tính cách khả ái của người kia. Nó là việc học tập để nhìn người khác như Thượng Đế nhìn họ, bằng con mắt không phải là nhắm lại đối với các lầm lẫn, thất bại và tội lỗi của họ, nhưng bằng con mắt luôn luôn trông mong giúp đỡ, và hễ một người càng tồi tệ bao nhiêu, thì càng phải trông mong giúp đỡ càng nhiều hơn. Theo một ý nghĩa, thì hễ một người càng làm hại tôi bao nhiêu, thì tôi càng phải yêu thương nhiều hơn bấy nhiêu, vì như thế là người ấy càng cần đến tình yêu thương của tôi nhiều hơn. Vấn đề đến đây cũng chưa phải là xong. Luther bắt đầu đoạn tranh luận tôi
vừa trích dẫn như thế này:
“Tình yêu thương của Thượng Đế không đi tìm nhưng sáng tạo ra điều đẹp lòng nó. Tình yêu thương của loài người nảy sinh khi gặp điều đẹp lòng mình”
Nghĩa là loài người yêu cái khả ái, đáng yêu; Thượng Đế thì yêu cái không có gì là khả ái, đáng yêu cả rồi khiến nó trở thành điều khả ái, đáng yêu. Như vậy, muốn trở nên giống như Thượng Đế, Cơ Đốc nhân cũng phải có thái độ của thiện chí bất biến như Ngài, nhưng điều đó
không phải chỉ đơn giản có nghĩa là chấp nhận tha nhân với tình trạng hiện có, dường như nếu 20 người ấy cứ giữ tình trạng hiện có, dường như nếu người ấy cứ giữ nguyên trạng như thế mà không hề đổi khác đi, thì cũng chẳng có gì quan trọng cả. Mà cũng như Thượng Đế, Cơ Đốc nhân phải trông mong cho người được mình yêu thương sẽ trở thành khả ái, tốt lành, và đến lượt
mình, người ấy cũng phải có tình yêu thương. Sự việc vốn không phải luôn luôn xảy ra, nhưng
thỉnh thoảng chúng ta cũng được cái phước hạnh là có thể yêu thương được người mà mình từng
ghét cay ghét đắng và khiến người ấy yêu thương mình. Lấy đắng cay trả cay đắng, đem thù hận
báo hận thù, thì chẳng ích lợi gì cả, nhưng chỉ chuốc thêm cay đắng hận thù mà thôi. Lắm lúc
chúng ta cũng bị thất bại, nhưng phương pháp duy nhất để biến kẻ khó thương thành khả ái, là
yêu thương kẻ ấy. Và đó chính là ý nghĩa của lòng quan tâm trong Cơ Đốc giáo.
Nhưng chúng ta hãy bước thêm một bước xa hơn nữa: và đây cũng là một điều mới mà Chúa
Giê-xu đã đem đến: đạo đức Cơ Đốc giáo không phải chỉ là lòng quan tâm mà thôi nhưng là mối
quan tâm phổ quát (universal concern). Tôi có thể bảo rằng vị giáo sư dạy đạo đức vĩ đại nhất
của người Hy Lạp là Plato; nhưng bạn có thể mô tả đạo đức học của Plato chỉ là một nền đạo đức
học của quý tộc. Ông ta thấy mục tiêu của cuộc sống là tạo nên các vị vua triết gia, là những con
người ngay lành ngự trị trên tột đỉnh của một kim tự tháp gồm toàn thể nhân loại; và những con
người tầm thường chỉ hiện hữu nhằm cho một số ít người có thể được nổi bật hẳn lên và chiếm
những địa vị cao cả huy hoàng. Nền văn hóa Hy Lạp vốn do các nô lệ xây dựng lên, và kẻ nô lệ
chỉ là một công cụ sống mà thôi.
Thế giới đã phải chờ đến khoảng 1800 năm mới bắt đầu khám phá được thành phần này của
đạo đức Cơ Đốc. Đến khoảng năm 1895, Hội Cứu thế quân bắt đầu công tác tại Ấn Độ và sống
giữa người Ấn Độ. Một sĩ quan người Anh đã nói với các chiến sĩ Cứu thế quân “Tôi không hiểu
nổi tại sao các bạn lại có thể sống được giữa đám người này. Đối với chúng tôi, họ là thú vật, chỉ
là súc vật mà thôi”.
Đó là nước Ấn Độ. Bạn có biết là cho tới năm 1865, tại xứ ấy, chỉ có một trăm hai mươi bốn
người đàn ông là được quyền bầu cử mà thôi hay không? Mãi đến cuối thế kỷ thứ mười tám, bắt
đầu sang thế kỷ mười chín, từ ngữ dân chủ là một danh từ rất xấu. Thomas Coke, một nhân vật
lừng danh của Hội Giám lý chỉ đứng sau John Wesley mà thôi, từng viết thư cho Henry Dundas
trong đó có đoạn:
“Khi một số khá đông đảng viên dân chủ đã len lỏi xâm nhập được vào giữa vòng chúng tôi
đến con số khoảng 5000 người, thì tôi là công vụ chủ yếu đã hoàn toàn loại trừ họ khỏi Hiệp hội
của chúng ta”.
Há không phải chính nữ hoàng Victoria từng viết rằng sẽ chẳng bao giờ là “nữ hoàng của đế
chế dân chủ” hay sao?
Phải mất một thời gian rất dài thế giới mới thấy được là đạo đức Cơ Đốc không những chỉ đòi
hỏi một mối quan tâm, nhưng còn đòi hỏi một mối quan tâm phổ quát nữa.
Nhưng tương phản với những điều trước đây, vẫn còn một cái gì khác nữa cần nói thêm. Đạo
đức Cơ Đốc đòi hỏi sự quan tâm; nó đòi hỏi sự quan tâm phổ quát và nó đòi hỏi sự quan tâm
thiết tha nồng nhiệt nữa.
Chúng ta đã nhìn qua đạo đức học của Plato. Một triết gia cao cả khác nữa của người Hy Lạp
là Aristotle, và Aristotle cũng từng đưa ra một trong những lý thuyết đạo đức lừng danh nhất, là
thuyết trung dung. Ngày nay, chúng ta có thể gọi đó là sự trung dung tốt đẹp. Ông dạy rằng đức
hạnh luôn luôn là một trung bình nằm giữa hai đối cực. Một đàng là đối cực thái quá, và đầu kia 21
là đối cực thiếu kém, và giữa đó là trung bình. Vậy ở một phía có sự hèn nhát; ở phía kia là sự
liều mạng bất cần; và nằm giữa cả hai là lòng can đảm. Một đàng là sự keo kiệt; đàng kia là sự
phung phí và ở giữa là con người hào hiệp. Khi bạn có một nền đạo đức học như vậy, thì có một
điều bạn chẳng bao giờ có thể có được là lòng hăng say nhiệt thành. Bạn luôn luôn bị bận rộn để
tính toán giữa cái quá nhiều và cái quá ít, cứ cân nhắc, điều chỉnh. Đó là một nền đạo đức học
tính toán. Nhưng đạo đức Cơ Đốc là một nền đạo đức học của lòng hăng say nhiệt thành; nó
không phải là nền đạo đức học trong đó người ta phải tính toán chi li từng khoản cơ nguy một;
nó là nền đạo đức học của con người dấn thân vào đời mà lòng cảm thông; dành cho con người
là một đam mê.
Chúng tôi còn có thể thêm một điều khác nữa vào mối bận tâm của nền đạo đức Cơ Đốc: mối
bận tâm trong đạo đức Cơ Đốc là mối quan tâm toàn diện (total concern). Như Phao-lô nhìn thấy
thì con người gồm có thân thể, hồn và linh. Thân thể là phần thịt và máu của một người; hồn,
psuch, không phải là phần mà chúng ta thường gọi là linh hồn. Hồn là sự sống động vật của
một người. Mọi sinh vật đều có hồn (psuch). Một con vật vốn có hồn cả đến cây cỏ cũng có
hồn; vốn là hơi thở của đời sống thuộc thể mà tất cả mọi vật sống đều có. Linh, Pneuma là phần
đặc thù của một người; đó là cái mà chỉ con người mới có; đó là thành phần của con người có
liên hệ mật thiết với Thượng Đế và Thượng Đế có thể trò chuyện với.
Ở đây, một lần nữa, là điều mới mẽ mà Cơ Đốc giáo đã đưa vào thế gian. Thế giới cổ thời
phần lớn khinh dể và sợ hãi thân thể, người ta cho rằng tất cả những rắc rối, hoạn nạn và tội lỗi
đau khổ của con người đều do sự kiện con người có một thân xác. Plato bảo thân thể là nhà ngục
của hồn. Seneca thì nói về nơi cư trú đáng ghê tởm là thân xác. Epictetus bảo mình là một (linh)
hồn khốn khổ bị cùm chặt vào một thân xác. Thế giới đời xưa khinh ghét thân xác. Và ngay
trong Cơ Đốc giáo cũng hãy còn một khuynh hướng cảm thấy xấu hổ về thân xác; một khuynh
hướng vẫn còn sợ tình dục và những điều thuộc thể, và cho rằng những điều giống như vậy
không được thanh lịch mấy và không nên bàn tới.
Đạo đức Cơ Đốc hoàn toàn chắc chắn về hai điều. Chắc chắn rằng chúng ta có thể đem thân
thể mình dâng lên như một sinh tế cho Thượng Đế (Rô-ma 12:1); và thật ra đó chính là điều mà
chúng ta phải làm. Để cho thân thể trở nên yếu đuối, bệnh hoạn, bất năng và to béo bạc nhược là
tội lỗi. Để cho thân thể kiệt quệ cũng có tội y như để cho phần hồn của bạn bị suy kiệt vậy. Phải
giữ cho thân thể luôn luôn sẵn sàng để phục vụ là một trong những nghĩa vụ được áp đặt trên
một Cơ Đốc nhân.
Thứ hai, Cơ Đốc nhân phải quan tâm đến thân thể người khác y như quan tâm đến phần hồn
vậy. William Booth chẳng bao giờ quên được câu nói của Chúa Giê-xu trước khi hóa bánh cho
năm ngàn người ăn “Chính các con hãy cho họ ăn” (Ma-thi-ơ 14:16). Chính vì thế mà ông đã mở
cửa các hiệu “Lương thực cho cả triệu người” và cung cấp bữa ăn miễn phí cho cả đàn ông lẫn
phụ nữ. Chính vì thế mà Bramwell Booth đến Covent Garden Market với một chiếc xe cút kít
vào lúc ba giờ sáng để xin các loại rau và xương bị vứt bỏ đi để nấu xúp. Chính vì thế mà Booth
nói “Chẳng hề có ai nhận được một phước hạnh nào nếu chân người ấy bị lạnh, và chẳng hề có ai
có thể được cứu rỗi, nếu người ấy bị nhức răng”.
Booth vốn biết rõ thân xác người ta là quan trọng. George Whitefield đã nhất trí với Booth ở
điểm này. Lúc Whitefield đi Hoa kỳ, chắc chắn ông đem theo một trăm năm mươi sách cầu
nguyện phổ thông và nhiều sách in các bài giảng, nhưng ông cũng đem theo đủ thứ vật dụng,
lương thực được liệt kê đầy hai trang giấy in - đụng đâu ghi đấy - nào là hai mươi bốn áo nữ
ngắn, hai mươi lố nút áo sơ-mi; đại hoàng, là thuốc senna, củ nghệ, nhân sâm, phó-mát, 22
Cheshine, ba thùng nho, tiêu, bột kiều mạch, củ hành, đan sâm, hai thùng lớn rượu chát trắng
ngon! Lúc lên tàu, ông ghi vào nhật ký:
“Kẻ đau yếu gia tăng, nhưng rất biết ơn việc tôi cung cấp trà, đường, canh, v.v... cho họ”.
Ông đến Hoa-Kỳ và chúng ta thấy ông giúp một gia đình nọ tám heo nái và một heo nọc;
chúng ta thấy ông tặng cho một phụ nữ nghèo một bò cái và một bò con, và tặng cho một thợ làm
bánh mì nghèo mấy thùng bột. Lắm lúc những bài giảng và cầu nguyện, những buổi đọc Kinh
Thánh rất khó thay thế nổi cho một bữa ăn ngon.
Xin chúng ta đừng bao giờ quên rằng đạo đức học Cơ Đốc chẳng bao giờ quên là con người ta
vốn có thân xác, mà các thân xác ấy chính là tài sản của Thượng Đế, và chúng rất quan trọng đối
với Thượng Đế.
Chúng ta cũng luôn luôn nhớ rằng đạo đức học Cơ Đốc là một nền đạo đức học nhìn đến tận
thế giới bên kia. Nó nhắc nhở người ta rằng có một đời sau. Điều đó không có nghĩa rằng nó chỉ
cho người ta những bánh vẽ trên mây; nó không ngụ ý dạy rằng nó quan tâm đến thiên đàng đến
nỗi đất này chỉ còn là một bãi sa mạc khô cằn. Nhưng nó ngụ ý bảo rằng Cơ Đốc nhân vốn biết
rõ cuộc đời này rồi sẽ dẫn tới một nơi nào đó; rằng cuộc đời này là chương đầu của một bộ sử ký
cứ được tiếp tục; và những gì xảy ra sau cái chết sẽ chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi lối sống chúng
ta đang sống đây.
Lúc Dick Sheppard qua đời sau giai đoạn ông thi hành chức vụ thật xuất sắc tại St. Martin in
the Fields, một trong những tờ nhật báo lớn trong nước đã cho đăng một bức hí họa. Nó trình bày
chiếc tòa giảng trống trải của ông Dick, và trên tòa giảng là một quyển Kinh Thánh mở rộng, còn
dưới đó là lời chú: Đến đây kết thúc bài đọc Kinh Thánh thứ nhất.
Đạo đức Cơ Đốc sống với ý thức về cõi đời đời.
Chắc bạn còn nhớ người hốt phân trong câu chuyện Stevenson. Stevenson hỏi anh ta cứ làm
việc với phân, với bùn đất dơ dáy thì có thấy chán nản mệt mỏi không. Anh ta đáp “Không,
không đâu. Người nào nhìn vào một cái gì xa hơn, thì chẳng bao giờ cảm thấy mỏi mệt”. Đạo
đức Cơ Đốc sống trong ánh sáng của thế giới xa hơn.
Điều hết sức quan trọng chúng ta phải lưu ý là đạo đức Cơ Đốc là một nền đạo đức học tích
cực. Nghĩa là đạo đức Cơ Đốc trong tổng thể dạy chúng ta những điều phải làm chớ không phải
là những gì không nên làm.
Nói chung thì Mười Điều Răn dạy “Ngươi chớ...” Nhưng trong một điều răn cá biệt khác -
không phải là một trong Mười Điều Răn - điều này vốn có tầm quan trọng hàng đầu. Đó là điều
mà chúng ta thường gọi là Luật Vàng. Với hình thức tiêu cực của nó. Luật vàng đáp ứng được
nhiều hệ thống đạo đức học: “Kỷ sỡ bất dục vật thi ư nhân” nghĩa là chớ làm cho người khác
điều ngươi không muốn người ta làm cho mình. Nhưng cách phát biểu câu này của Cơ Đốc giáo
lại có tính cách tích cực “Hãy làm cho người khác điều các con muốn người ta làm cho mình”
(Ma-thi-ơ 7:12). Câu phát biểu của Cơ Đốc giáo vốn có tính đòi hỏi nhiều hơn. Đừng làm điều
này điều nọ thì chẳng có gì khó khăn lắm. Nhưng đòi hỏi của Cơ Đốc giáo không phải chỉ đơn
giản là chớ làm việc này việc nọ cho tha nhân, nhưng là chúng ta phải tích cực làm cho họ điều
chúng ta muốn họ làm cho mình.
Đây là giáo lý yêu thương của Cơ Đốc giáo. Cần cẩn thận lưu ý từ ngữ mà Cơ Đốc giáo dùng
để chỉ tình yêu thương. Đó là chữ agapẽ. Nó không hề có sự đam mê trong đó; cũng không có 23
tình dục; cũng không có tinh thần lãng mạn. Nó có nghĩa là một thái độ không gì đánh bại được
của thiện chí, nó có nghĩa là bất chấp tha nhân làm gì cho ta, trong mọi trường hợp chúng ta đều
không thể làm gì cho người ấy, ngoài ra làm điều tốt lành. Đó là thiện chí đối với tha nhân, bất
chấp họ như thế nào. Nó không phải chỉ là một phản ứng của trái tim; nó là sự điều khiển của ý
chí. Nó có thể được thi hành cả cho kẻ mà chúng ta không hề ưa thích, vì cả khi chúng ta không
thích họ, chúng ta vẫn có thể cố ý và đặt chủ đích chỉ mong ước cho người ấy gặp điều tốt lành,
và chỉ hành động nhằm đem đến điều tốt lành cho người ấy mà thôi.
Tất cả vấn đề của đạo đức học Cơ Đốc không phải là chỉ cung cấp cho chúng ta một bảng liệt
kê những điều mà chúng ta không nên làm mà thôi. Nó dạy chúng ta: Thái độ của người đối với
đồng bào đồng loại là phải luôn luôn chỉ ước mong điều tốt lành cho họ mà thôi. Và nếu bạn
trông mong như thế cho thiên hạ, thì việc thực thi đạo đức học Cơ Đốc sẽ có kết quả tất nhiên.
Còn có một ý nghĩa khác và là tối quan trọng, trong đó đạo đức học Cơ Đốc là một đạo đức
học toàn diện. Nó là một nền đạo đức học của suy tư cũng như là của cách ăn ở ứng xử của xúc
cảm cũng như hành động. Như thế, chẳng những nó lên án tội giết người, mà cũng lên án sự giận
dữ, sẽ dẫn đến việc sát nhân (Ma-thi-ơ 5:21,22), Nhưng chúng ta phải thận trọng trong cách nói
lên sự đòi hỏi tự thâm tâm này, và đặc biệt là khi đem nó ra áp dụng. Chúa Giê-xu phán:
“Luật pháp Môi-se dạy: Không được phạm tội ngoại tình. Nhưng ta bảo các con: người nào
nhìn đàn bà với con mắt thèm muốn là đã phạm tội ngoại tình trong lòng rồi” (Ma-thi-ơ 5:28).
Chúng tôi không nói như có người đã nói rằng chỉ cần suy nghĩ đến mà thôi, thì một ham
muốn sai trái cũng xấu như một hành động sai quấy rồi. Nếu như vậy, thì chúng ta cho rằng gặp
cám dỗ là điều xấu như sa vào sự cám dỗ rồi. Trong trường hợp như thế, thà chúng ta sa ngay
vào sự cám dỗ đi. Có một ham muốn sai trái mà biết chống cự nó, thì không thể là cũng xấu xa
như có một ham muốn sai quấy rồi làm theo sự ham muốn đó.
Câu nói này của Chúa Giê-xu đã khiến cho một số người hoang mang. Nếu chúng ta đọc câu
ấy trong Hi văn, chúng ta sẽ thấy Chúa Giê-xu thực sự ngụ ý muốn nói gì. Điều mà nguyên văn
Hy Lạp lên án không phải là kẻ nhìn một người đẹp rồi có phản ứng do bản năng là ái mộ và cả
ham muốn nữa. Điều bị lên án - và nguyên văn nói lên hết sức rõ ràng - là kẻ nhìn một người
khác theo cách nào đó để rồi cố tình đánh thức và kích thích sự ham muốn. Điều bị lên án là một
loại nhìn ngắm đặc biệt, cách nhìn ngắm thích đọc sách báo khiêu dâm để cố tình đánh thức sự
ham muốn, loại nhìn ngắm mà người ta gặp nơi một màn trình diễn thoát y; loại nhìn ngắm mà
như câu người Pháp nói là lấy mắt lột truồng người mà ta nhìn; loại nhìn ngắm bôi bẩn bất cứ
một vật gì bằng một thứ lọ nồi hay một vật ô uế. Câu này không lên án loại nhìn ngắm tự nhiên
đến với tất cả mọi người chúng ta vì một người đàn ông là một người đàn ông, và một người đàn
bà là một người đàn bà mà Thượng Đế đã sáng tạo như thế. Nó lên án cái nhìn tọc mạch, rình rập
tìm cách lợi dụng đôi mắt để kích thích sự ham muốn.
Điều mà sau hết Chúa Giê-xu muốn nói trong những lời truyền dạy này của Ngài về sự ham
muốn trong lòng, nói cho cùng là điều duy nhất thật sự đầy đủ, là tột đỉnh của đạo đức học Cơ
Đốc, chính là tình trạng trong đó một người đạt đến giai đoạn chẳng những không làm điều sai
quấy, mà còn không muốn làm việc ấy nữa - vì chỉ đến đó thì người ấy mới được an toàn mà
thôi.
Đến đây, chúng ta phải xét đến câu đã ngự trị trong các thư tín của Phao-lô - là nhóm từ trong
Đấng Christ. Trong các thư tín của Phao-lô, tất cả đều ở trong Đấng Christ. Một học giả Tân Ước
lừng danh đã dùng một cách so sánh để giải thích nhóm từ này, ông dùng cách ví sánh với không 24
khí, với bầu khí quyển. Chúng ta không thể sống được về mặt thuộc thể nếu không khí không ở
trong chúng ta, và chúng ta không ở trong không khí. Nếu chẳng vậy, chúng ta sẽ không thể thở
được; chúng ta chết. Cũng vậy, đối với một Cơ Đốc nhân thì Chúa Cứu Thế Giê-xu là bầu không
khí cho đời sống người ấy. Cơ Đốc nhân luôn luôn ý thức được sự hiện diện của Ngài.
Chúng ta có thể dùng một cách so sánh khác. Có những điều kiện tâm lý bất thường khiến
một người có hành vi cử chỉ ở nơi công cộng mà đáng lẽ không nên có; và có một lời khuyên
tâm lý vẫn thường được dành cho một người như thế, là chẳng bao giờ nên đi ra ngoài một mình,
mà phải luôn luôn cùng đi với một người bạn. Toàn thể cơ sở của nền đạo đức học Cơ Đốc, là
Cơ Đốc nhân chẳng bao giờ nên đi ra ngoài một mình. Người ấy ra ngoài luôn luôn với ký ức là
sự hiện diện của Chúa Giê-xu Christ.
Vậy để tóm tắt, ý chỉ đạo của đạo đức học Cơ Đốc là sự quan tâm, mối quan tâm đã được thể
hiện trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, và là cách bày tỏ chính sự sống và tấm lòng của Thượng Đế.
Nó là một mối quan tâm không có ranh giới, không bị hạn chế. Nó được biểu hiện trong sự sống
của thế gian, và trong thế gian, nó được thanh lọc và được hà hơi sống bởi việc ghi nhớ liên tục
rằng cuộc đời mình phải sống trong hiện diện và trong quyền năng của Chúa Cứu Thế Giê-xu. 25