Chương một
CHIẾC NÔI CỦA ĐẠO ĐỨC CƠ ĐỐC
Nếu bạn chỉ muốn viết ra thành một câu mà thôi, thì đạo đức là khoa học về hành vi. Đạo đức là một phần nhỏ trong tôn giáo dạy chúng ta phải ăn ở ứng xử như thế nào. Nhưng việc đang xảy ra liên hệ đến đạo đức , là chúng ta đang đối diện với một tình hình mà Hội thánh Cơ Đốc chưa từng phải đối đầu trước đây.
Trước đây chẳng bao lâu, lúc tôi còn trẻ và mới bước vào chức vụ, thì tiếng reo hò chiến trận vang đội là “Đừng bận tâm đến thần học; hãy giữ chặt đạo đức”. Thiên hạ bảo “Xin thôi đi, và chớ có nói gì về Thượng Đế Ba Ngôi và về hai bản tính của Chúa Giê-xu, cũng như tất cả những chuyện thuộc loại đó, và hãy giữ chặt lấy đạo đức! Chớ có bận tâm đến thần học mà làm gì; chỉ cần nắm chắc Bài Giảng Trên Núi mà vứt hết mọi thứ trừu tượng, mọi điều khó hiểu, mọi triết lý và siêu hình học đi!” Thiên hạ nói “Hãy đưa thần học đi chỗ khác chơi – tôi chẳng hiểu chút gì về nó cả!” Trước đây ba mươi năm, chẳng có ai thật sự thắc mắc nghi ngờ về đạo đức Cơ Đốc cả. Ba mươi năm trước đây, ai cũng nghĩ rằng ly dị là chuyện bất hạnh; rằng trẻ con ra đời cách bất hợp pháp là một tai họa; việc giữ trinh tiết là điều tốt lành; rằng chân thành trong công việc hằng ngày là một phần của bất kỳ một con người khả kính và có trách nhiệm nào.
Nhưng ngày nay lần đầu tiên trong lịch sử, toàn thể đạo đức Cơ Đốc đang bị công kích. Thiên hạ không phải chỉ muốn vứt bỏ thần học mà thôi đâu – họ còn muốn vứt bỏ cả đạo đức nữa. Chính vì lý do đó mà điều tối quan trọng là phải nhìn vào nền đạo đức Cơ Đốc ngày nay, để xem nó nói gì và hỏi xem nó có còn là điều được thừa nhận như xưa nay hông. Nếu bạn muốn hiểu biết về một người nào đó, thì bạn cần biết về cha mẹ anh ta và về nơi xuất thân của anh ta. Cựu Ước là tiền thân của Tân Ước, về tôn giáo của Cựu Ước là chiếc nôi từ đó Cơ Đốc giáo ra đời. Do đó, điều cần thiết là phải nhìn trước hết vào nền đạo đức của Cựu Ước.
1. Điều đầu tiên để nói về đạo đức của Cựu Ước là đó là một nền đạo đức mặc khải.
Trong trường hợp này, nếu chúng ta chỉ bắt đầu bằng cách đơn giản là nhìn vào ngôn từ, thì
chúng ta đã bắt đầu hết sức sai lầm rồi. Từ ngữ đạo đức (ethics) do từ ngữ Hy Lạp ethos mà ra,
ethos có nghĩa là một thói quen hay một tập tục. Phải chăng tiếp theo đó, chúng ta sẽ bảo rằng
đạo đức chỉ đơn giản gồm các thói quen, các tập tục, các quy ước đã trở thành cố định, cứng
nhắc đến nỗi nhiều điều trước kia vốn là bình thường, thông dụng, nay trở thành những điều bó
buộc phải làm?
Hãy lấy một chữ khác, chẳng hạn từ ngữ Hy lạp chỉ luật pháp là nomos. Nếu bạn tra chữ6
nomos trong từ điển Hy lạp, bạn sẽ thấy nghĩa đầu tiên của nó là một tập tục được chấp nhận. Phải chăng chúng ta lại gặp cùng một việc giống y như vậy? Phải chăng luật pháp là một cái gì đã trở thành rất quen thuộc, rất tập quán, đến độ cuối cùng nó đã trở thành một điều bó buộc?
Phải chăng đó chỉ là trường hợp một việc được làm, nay trở thành một việc phải làm?
Hãy lấy một chữ khác nữa, thí dụ từ ngữ Hy Lạp chỉ công lý–dikh. Trong tiếng Hy Lạp dikh có nghĩa là
tiêu chuẩn ăn ở ứng xử được chấp nhận–và rõ ràng đây là một điều hoàn toàn khác biệt, khác hẳn nhau từ một xã hội này sang một xã hội khác, khác hẳn tại Trung Phi với vùng trung tâm Anh quốc hay vùng Cao nguyên xứ Tô Cách Lan. Phải chăng chúng ta lại trở lui về cùng một sự việc? Phải chăng công lý chỉ là một tập tục, một thói quen, một quy ước đã trở thành cứng nhắc, bất động? Phải chăng khi nói đến đạo đức, luật pháp, công lý, thì thật ra, chúng ta chỉ đề cập thói quen và tập tục–hay nó còn đi sâu hơn thế?
Trong Cựu Ước, nó còn đi xa hơn nhiều, vì như đã chép thì đối với Cựu Ước đạo đức là sự tuân giữ của hoạt động con người theo ý chỉ của Thượng Đế. Đạo đức trong Cựu Ước không phải là điều mà lề thói, quy ước bảo tôi làm, mà là điều Thượng Đế truyền bảo tôi làm.
2. Thứ hai, đạo đức của Cựu Ước vốn bắt nguồn từ lịch sử. Có một điều mà không một người Do Thái nào quên được, ấy là dân tộc họ vốn làm nô lệ trong xứ Ai Cập và rồi Thượng Đế đã giải thoát cho họ. Mãi đến ngày nay, sự tích này vẫn được nhắc đi nhắc lại mỗi lần đến lễ Vượt qua. “Phải nhớ lại rằng mình đã làm tôi mọi tại xứ Ai Cập, và Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã chuộc ngươi khỏi đó” (Phục 7:18; 8:2; 15:5; 16:12; 24:18, 22). Đây chính là âm chủ của tôn giáo Cựu Ước.
Câu nói trên đây có hai ẩn ý, nó có nghĩa rằng sở dĩ Thượng Đế có quyền lên tiếng là vì hai lý do. Thứ nhất, Ngài có quyền lên tiếng vì Ngài đã làm nhiều việc vĩ đại. Thứ hai, Ngài có quyền lên tiếng vì đã làm những việc vĩ đại đó cho dân Do Thái. Người Do Thái có thể nói rằng “Thượng Đế có quyền bảo tôi phải ăn ở như thế nào, bởi vì Ngài từng chứng tỏ rằng Ngài có thể hành động bằng quyền phép - và Ngài đã hành động đầy quyền phép là vì cớ tôi”.
3. Trong Cựu Ước, ý niệm về đạo đức được buộc chặt với ý niệm về giao ước. Trong Cựu Ước, một giao ước không phải là một việc mặc cả, một thỏa thuận, một hiệp ước ký kết giữa hai người–trong trường hợp ở đây là giữa Thượng Đế với dân Y-sơ-ra-ên–những chữ kể trên có nghĩa rằng cả hai bên vốn ngang hàng, bình đẳng với nhau. Tất cả vấn đề của giao ước ở đây, là nó hoàn toàn do sự chủ động đi bước trước của Thượng Đế. Ý niệm ở đây là Thượng Đế đã đến với dân Y-sơ-ra-ên và bảo rằng họ sẽ là dân của Ngài, còn Ngài sẽ làm Thượng Đế của họ là hoàn toàn do ân huệ (ân sủng, ân điển) của Ngài–chớ không phải vì dân Y-sơ-ra-ên vốn là một dân tộc đặc biệt quan trọng, đặc biệt tốt lành, thiện hảo. Sở dĩ Ngài đến với họ để ban ơn cho họ, chỉ vì chính Ngài muốn như thế mà thôi (Phục 7:6-8; 9:4-5).
Nhưng mọi hành động gia ơn đều kèm theo một bó buộc. Dân Y-sơ-ra-ên tự nhiên bị bó buộc phải luôn luôn tỏ ra xứng đáng với sự tuyển chọn đó của Thượng Đế.
4. Cựu Ước thường đề cập sự việc trên theo một cách khác. Cựu Ước bảo rằng dân Y-sơ-ra-ên là cô dâu của Thượng Đế (Ês 54:5; 61:10; 62:4,5; Giê 2:2, 3:14; Ôsê 2:19,20). Sự việc dường như là Thượng Đế đã chọn dân Y-sơ-ra-ên để kết hôn cùng mình vậy. Chính vì thế mà trong Cựu Ước, mỗi khi dân Y-sơ-ra-ên tỏ ra bất trung, thì các nhà tiên tri bảo rằng dân ấy đi hành dâm với các thần khác. Dân Y-sơ-ra-ên với Thượng Đế đã kết hôn với nhau, và việc không chung thủy với nhau thì chẳng khác gì phạm tội ngoại tình (Mal 2:11; Lêv 17:7; 20:5,6; Phục 31 :16; Quan 2:17; 8:27,33; Ôsê 9:1). Cũng chính vì thế mà Cựu Ước có thể dùng một từ ngữ để chỉ về7 Thượng Đế mà có lẽ ngày nay chúng ta chẳng mấy ưa thích – ấy là Cựu Ước bảo rằng Thượng Đế là một Thượng Đế hay ghen tuông (Xuất 20:3; 34:14; Phục 4:24; 5:9; 6:15). Sở dĩ như vậy vì
tình yêu bao giờ cũng muốn độc chiếm. Thượng Đế muốn dân Ngài phải yêu mến chỉ một mình Ngài mà thôi và không được san sẻ tình yêu ấy với ai khác – và nếu họ làm như vậy, thì Ngài cũng ghen tuông y như bất luận một người yêu nào khác. Hãy thử xét cả hai cách như vừa kể trên - hoặc là Thượng Đế đã ký kết với dân Y-sơ-ra-ên một giao ước đặc biệt - hoặc là Ngài đã cưới dân ấy làm vợ - thì trong cả hai cũng đều do ân huệ
vô điều kiện của Ngài, và do sự bó buộc mà tình yêu luôn luôn mang theo với nó, ta có thể nói rằng dân Y-sơ-ra-ên đã bị kết án, bị bắt buộc phải trở nên tốt lành, thiện hảo.
5. Tôi vừa dùng một từ ngữ vốn là chữ chìa khóa chỉ mối liên hệ giữa dân Y-sơ-ra-ên với Thượng Đế đó là từ ngữ chọn. Thượng Đế đã tuyển chọn dân Y-sơ-ra-ên. Có một điểm mà dân Y-sơ-ra-ên tin chắc tuyệt đối, ấy là họ là dân được chọn (tuyển chọn) nghĩa là theo một ý nghĩa này hoặc một ý nghĩa nào khác, thì họ cũng là một dân đặc biệt. Ý niệm được tuyển chọn dẫn đến một số hậu quả - mà đó là những hậu quả mà bạn hoàn toàn chẳng bao giờ nghĩ tới.
a. Thứ nhất, nó đưa đến một ý thức khủng khiếp về trách nhiệm. Trong sách A-mốt có một đoạn gây kinh ngạc cho chúng ta. A-mốt kể ra tội lỗi của một dân tộc này tiếp sau một dân tộc khác, nào là Đa-mách, Ga-xa, Ty-rơ, Ê-đôm, Am-môn, Mô-áp - cả một bảng liệt kê dài kinh khủng, và sự đoán phạt dành cho mỗi dân tộc. Rồi đến lượt dân Y-sơ-ra-ên. Chúng ta có cảm tưởng là ông sẽ kể rằng dân Y-sơ-ra-ên vốn là tuyển dân, do đó, chẳng cần chi phải lo ngại. Mọi sự rồi sẽ đâu vào đấy, sẽ êm đẹp cả thôi. Thế rồi lời phán của Thượng Đế thông qua nhà tiên tri được tiếp tục “Ta đã chọn chỉ một mình các ngươi trong mọi họ hàng trên đất - thế là người nghe sửa soạn ngồi xuống thật vững tâm, thì bỗng nhiên bản án làm rúng động mọi người vang lên: Vậy nên ta sẽ thăm phạt các ngươi vì mọi việc gian ác các ngươi” (A-mốt 3:2). Bạn càng được đặc ân lớn lao bao nhiêu, thì trách nhiệm của bạn sẽ càng nặng nề hơn bấy nhiêu, Thượng Đế càng tạo cho chúng ta cơ may tốt đẹp bao nhiêu, thì nếu chúng ta bất trung với Ngài, chúng ta sẽ càng bị khiển trách thậm tệ bấy nhiêu.
Đây là một trong những trường hợp đáng sợ nhất của những chữ vậy nên. Ngươi là kẻ mà ta đã tuyển chọn - vậy nên ta sẽ phạt ngươi.
b. Điều cũng hết sức rõ rằng, là việc tuyển chọn đó phải làm nảy sinh sự vâng lời. Môi-se nói với dân chúng: Hôm nay các ngươi đã trở thành dân của Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi rồi, “vậy, hãy nghe theo tiếng phán của Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi và giữ theo những điều răn và luật lệ của Ngài” (Phục 27:10). Do đó, được tuyển chọn không phải là để được miễn trừ khỏi việc vâng lời; nhưng được tuyển chọn, vì vậy luôn luôn bị bó buộc phải vâng lời.
c. Vậy, nếu sự vâng lời này chính là yếu tính của đời sống, thì luật pháp mà Người Do Thái phải tuân thủ trở thành điều quan trọng nhất trong đời sống người ấy. Như Môi-se đã nói về luật pháp khi ông đọc bài giảng từ biệt dân chúng (Đó) chẳng phải là một lời nói vô giá trị (điều nhỏ mọn tầm thường) cho các ngươi đâu, nhưng nó là sự sống của các ngươi. (Phục 32:46,47). Luật pháp là điều mà bởi đó họ biết được ý chỉ Thượng Đế, và họ nhất thiết phải tuân giữ luật pháp để chứng tỏ rằng họ vâng lời Thượng Đế.
d. Sự vâng lời này có một hậu quả hết sức rõ ràng - nó có nghĩa rằng nếu bằng lòng vâng lời Thượng Đế thì người Do Thái phải dọn mình, phải chuẩn bị để sống khác hẳn mọi dân tộc khác. Lời phán của Thượng Đế vốn hết sức rõ ràng; họ không thể sống giống như dân Ai-cập mà họ vừa từ giã để ra đi; mà họ cũng không thể sống giống với dân Ca-na-an là các dân đang ở trong xứ mà họ sắp đến đó (Lêv 18:1-5; 20:23,24). Thượng Đế đã biệt riêng đã phân rẽ họ ra khỏi các 8 dân khác.
e. Và giờ đây, chúng ta đến với bản văn và câu nói nêu rõ yếu tính cốt lõi của tôn giáo Do Thái hơn bất cứ một văn bản, một câu nói nào khác - một lời phán mà họ được nghe nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần “Hãy nên thánh, vì ta là thánh” (Lêv 20:26; 19:2; 11:44,45). Ý nghĩa căn bản của chữ thánh là khác. Ngày sa-bát sở dĩ thánh, vì nó khác với những ngày khác. Kinh Thánh sỡ dĩ thánh, vì nó khác với các sách khác; đền thờ là thánh vì nó khác hẳn các tòa nhà khác. Thượng Đế là Đấng Thánh Khiết tối cao, vì Ngài là Đấng tối cao, khác hẳn tất cả. Vậy, nhiệm vụ đầu tiên của người Do Thái là phải khác hẳn; người ấy đã được biệt riêng, đã được tuyển chọn; người ấy thuộc về Thượng Đế là người của Thượng Đế; do đó, người ấy phải khác hẳn đi. Điều này giải thích được hai trong số các vấn đề lớn của đạo đức học Cựu Ước. Dân Do Thái một dân hoàn toàn biệt lập (exclosive) (Có một phẩm cách kèm theo nhưng chúng ta sẽ đề cập sau). Người Do Thái không được phép lập giao ước với bất cứ một dân nào khác (Xuất 23:32;34:12-15). Việc cưới vợ gả chồng với những người thuộc bất luận một dân tộc nào khác đều bị tuyệt đối cấm đoán (Xuất 34:16; Phục 7:3). Ở đây, chúng ta được giải thích về một số sự việc trong Cựu Ước vốn luôn luôn khiến một Cơ Đốc nhân phải kinh ngạc - bởi vì các Cơ Đốc nhân thường không chịu cố gắng tìm hiểu chúng. Chẳng hạn, khi có chiến tranh, các đền thờ của bất kỳ một dân tộc nào khác đều phải bị phá hủy hoàn toàn (Xuất 23:24; Phục 7:5; 12:3). Đây là một lệnh truyền mà người ta rất thường trích dẫn để chống lại Cựu Ước. Nếu một thành phố nào đầu hàng, thì cư dân nó sẽ bị bắt làm nô lệ, nếu một thành phố nào chống cự và cuối cùng bị đánh chiếm thì chớ để sống một vật nào (Phục 20:10-18; 7:1-5). Tất cả người nam, người nữ và trẻ con đều phải bị tận diệt; trong nội bộ cũng vậy. Nếu có ai từ bỏ Do Thái giáo nghĩa là bội đạo thì phải bị tiêu diệt không xót thương (phục 13:12-18; 17:2-7).
Những điều như thế gây bất mãn sửng sốt cho chúng ta. Nhưng ta phải tìm hiểu. Đàng sau việc này, chẳng có gì là riêng tư (personal) cả; cũng không hề có sự ghét bỏ. Cái có là nỗi đam mê thuần khiết. Chẳng có điều gì - tuyệt đối chẳng có một điều gì, được phép làm vấy bẩn sự thuần khiết của dân Y-sơ-ra-ên; điều gây ô nhiễm phải bị nhổ tận gốc, không chút xót thương. Phải bảo vệ sự thánh khiết bằng cách tận diệt của kẻ thù - không phải là của chính dân Y-sơ-ra- ên - nhưng của sự thuần khiết và của Thượng Đế. Ở đây chẳng có chút chi là chính trị cả; chẳng hề có tư tưởng về một chủng tộc ưu việt sẽ tận diệt các dân tộc khác vấn đề là sự thánh khiết. Cái ngày mà họ bắt đầu thấy được rằng phương pháp tốt nhất để tận diệt các kẻ thù của Thượng Đế
không phải là giết họ đi nhưng là kết bạn với họ, vẫn chưa đến - và rồi sẽ đến. Phải tận diệt các kẻ thù của Thượng Đế bằng cách cải giáo họ, khiến họ ăn năn quy đạo, chớ không phải là tiêu diệt họ đi. Nhưng ngay từ khởi thủy, thì nỗi đam mê trở thành thánh khiết đã tạo ra đòi hỏi phải tiêu diệt - một đòi hỏi mà chúng ta không nên kết án mà không chịu tìm hiểu. Vấn đề về đạo đức thứ hai là tìm thấy trong luật pháp Do Thái một nét khiến bất cứ ai nghiên cứu nó thoạt tiên đều phải kinh ngạc. Một trong nhiều điều lạ lùng nhất trong luật pháp Do Thái là cách thức theo đó phần đạo đức và nghi lễ, phần luân lý và phần nghi thức được đặt bên cạnh
nhau. Hai sự việc được đặt sát cạnh nhau, mà một việc thì dường như vô cùng quan trọng nhưng việc kia đi chẳng có vẻ gì quan trọng cả, nhưng dường như cả hai đều được xem là quan trọng ngang nhau. Xin nêu ra một thí đụ, ở đây là một khúc sách trong Lê-vi ký: Chớ có lòng ghen ghét anh em mình; hãy sữa soạn dạy kẻ lân cận mình, đừng vì cớ họ mà phải mắc tội. Chớ toan báo thù, chớ giữ sự báo thù cùng con cháu dân sự mình; nhưng hãy yêu thương kẻ lân cận ngươi như mình, ta là Đức Giê-hô-va: 9 Các ngươi hãy giữ các mạng lịnh ta. Chớ để loài vật khác giống phủ lẫn nhau; chớ gieo ruộng ngươi hai thứ giống; và chớ mặc mình bằng áo dệt nhiều thứ chỉ (Lêv 19:17-19).
Khúc sách này bắt đầu bằng một trong số những nguyên lý đạo đức quan trọng nhất từng được đưa ra: hãy yêu thương kẻ lân cận như bản thân, rồi lại kết thúc bằng việc cấm mặc một vài loại y phục mà lý do lại hết sức khó hiểu. Bạn có phần đạo đức và phần nghi lễ được hoàn toàn trộn lẫn vào nhau. Hiện nay, nhiều người chỉ trích Do Thái giáo là chú trọng vào một việc làm có tính cách thuộc thể như phép cắt bì, vào các luật lệ về thực phẩm và những điều giống như vậy. Nhưng như bạn thấy, thật là rõ ràng như pha lê là nếu không có các luật lệ ấy thì Do Thái giáo không thể nào tồn tại được. Vấn đề là như thế này, hễ là một người tốt lành, thiện hảo, thì người ấy dầu là người tốt đối với hầu hết mọi tôn giáo hay triết lý - dầu là của Plato, Aristotle, Thomas Aquinas, Immannuel Kant, John Stuart Mill, một người Khắc kỷ, Cơ Đốc nhân, Do Thái - nghĩa là tất cả mọi người đều đồng ý với nhau về thế nào là danh dự, là thành thật, là can đảm, là trung trinh. C. S. Lewis từng đề cập “tính cách độc điệu đầy chiến thắng của những điều tầm thường cần thiết giống nhau mà chúng ta vẫn gặp từ một nền văn hóa này sang một nền văn hóa khác”. Nếu chỉ là vấn đề luân lý mà thôi, thì chẳng có gì là dị biệt quan trọng trong hành động của một người Hy Lạp, một người La Mã, một người theo Do Thái giáo với một Cơ Đốc nhân tốt lành, thánh thiện.
Điều khiến cho người Do Thái nổi bật hẳn lên, khiến cho người ấy khác hẳn đi, chính là phần luật lệ về lễ nghi của Do Thái giáo. Bạn có thể nói anh ta là người Do Thái căn cứ vào những gì anh ta ăn và những gì anh ta không ăn.
Tôi từng kể câu chuyện sau đây một lần rồi, nhưng vì nó minh họa thật trọn vẹn điều tôi sắp nói, nên tôi không ngần ngại kể nó lại một lần nữa. Hồi Jane, con gái tôi còn bé, thì cô bạn thân nhất của cháu là Diane một bé gái người Do Thái. Những chiều thứ bảy, chúng tôi thường cùng đi chung xe với nhau và đừng lại tại một nơi nào đó để dùng trà buổi chiều. Khi món bánh mì kẹp thịt (sandwiches) được dọn lên, thì bé Diane luôn luôn hỏi tôi “Con ăn bánh này có được không?” Trong một khách sạn, vào bữa dùng trà lúc xế chiều, vì bé Diane là một bé gái người Do Thái, cho nên em đã tự bộc lộ con người của mình. Vì cớ Đức Chúa Trời, chúng ta là Cơ Đốc nhân cũng sẵn sàng bày tỏ Cơ Đốc giáo của mình ra như vậy! Nhưng vấn đề là phần lễ nghi trong luật pháp Do Thái vẫn nhằm mục đích phơi bày ra điểm dị biệt chủ yếu của người Do Thái
- đó là lời chứng của người ấy cho Do Thái giáo - mà thay vì chế nhạo hay chê bai, chúng ta phải nhớ luôn rằng chính nó đã giữ cho Do Thái giáo còn sống động. Người Do Thái luôn luôn là người không chịu sống rập khuôn theo kẻ khác hơn hết; đối với anh ta, tất cả những gì là danh dự chính là làm một người có can đảm, chứng tỏ rằng mình khác người. Bây giờ chúng ta đến điểm mà Do Thái giáo đã đóng góp nhiều nhất vào đạo đức học. Do Thái giáo nhấn mạnh mối liên hệ giữa tôn giáo và đạo đức. Đối với chúng ta điều này có vẻ hoàn toàn hiển nhiên, nhưng trong thế giới cổ thời đó không hiển nhiên chút nào cả. Chúng ta có thể thấy mối liên hệ này ở hai điều. Thứ nhất là tập tục phổ biến của thế giới cổ thời là việc hành lạc trong các đền thờ. Người xưa vốn bị mê hoặc bởi điều có thể gọi là nguồn sinh lực. Cái gì làm cho cây lúa mọc lên, cho trái nho và trái ô-liu chín tới, sẵn sàng cho mùa gặt hái? Trên hết mọi sự cái gì khiến cho một hài nhi ra đời? Đó là nguồn sinh lực. Cho nên họ tôn thờ nguồn sinh lực ấy. Nhưng nếu bạn tôn thờ nguồn sinh lực thì hành động giao hợp có thể biến thành một hành động thờ phượng. Cho nên trong các đền thờ của thế giới cổ thời thường có khi có đến nhiều ngàn nữ tư tế có liên hệ với chúng, vốn chỉ là gái mãi dâm tại các đền thờ. Trong sách Phục truyền, có một đoạn như thế này: 10 Trong vòng con gái Y-sơ-ra-ên, chớ có người nào chuyên sự buôn hương, trong vòng con trai Y-sơ-ra-ên cũng chớ có người nào chuyên sự tà dâm. Mặc dầu sự hứa nguyện ngươi thể nào chớ đem vào nhà của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, hoặc tiền công của một con đĩ, hay là
giá trả cho một con chó (nghĩa là của một tên điếm đực); vì cả hai đều lấy làm gớm ghiếc cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi. (Phục 23:17-18). Trên đời này “tiền công của một con đĩ” thì có liên hệ gì với đến thờ của các thần? Tại Hy Lạp, số tiền ấy lại là tất cả. Trong đền thờ tại Ê-phê-sô, có hàng ngàn gái điếm cứ mỗi chiếu tối là tràn xuống các đường phố để hành nghề. Tại Hy Lạp, Solon là chính khách người Hy Lạp đầu tiên thiết lập các nhà thổ công cộng và lấy lợi tức để xây một đền thờ cho nữ thần Aphrodite. Thế giới cổ thời đó cho là việc ấy chẳng có gì sai trái cả. Trinh khiết và tôn giáo vốn không có liên hệ gì với nhau. Lần đầu tiên Do Thái giáo đặt tôn giáo và sự thánh sạch đi song hành với nhau.
Điều thứ hai mà Do Thái giáo nhấn mạnh là những nghi lễ trau chuốt nhất với những buổi thờ phượng uy nghiêm nhất trong nhà thờ cũng không thể thế chỗ cho việc chúng ta phải phục vụ đồng loại mình. Nhà tiên tri đặt câu hỏi: Đức Chúa Trời muốn gì? Và câu trả lời là không phải những buổi nhóm lại thờ phượng, nhưng là chia cơm xẻ áo cho kẻ nghèo, tiếp đãi những kẻ vô gia cư, nuôi dưỡng kẻ trần truồng. Điều Thượng Đế muốn cho chúng ta làm là sự công bình và tỏ lòng thương xót (Ês 1:12-17; 58:6-12; Giê 7:8-10; Am 5:21-24). Đó là những điều Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm.
Thế là Do Thái giáo nhấn mạnh rằng không thể có tôn giáo nếu không có đạo đức. Và muốn phục vụ Thượng Đế, thì chúng ta phải phục vụ đồng loại mình. Như Mi-chê nói, bạn có thể đến với Thượng Đế để dâng cho Ngài những bò con tuổi giáp niên; bạn có thể dâng cho Ngài nhiều ngàn dê đực hoặc dâng cho Ngài cả chục ngàn con suối dầu; bạn có thể đem cả chính con mình
là kết quả của chính thân thể mình để dâng cho Ngài nữa. Nhưng Thượng Đế không cần một vật nào trong số những vật đó - của lễ đích thực duy nhất là hành động công bằng, là lòng thương xót, và bước đi khiêm nhường trước mặt Thượng Đế (Mich 6:6-8; Ôs 6:6). Cựu Ước đã kết hợp một lần dứt khoát giữa tôn giáo với đạo đức, và công việc ấy đã hoàn tất thật mỹ mãn và vĩnh viễn đến nỗi ngày nay, chẳng hề có ai dám xem tôn giáo là tôn giáo, trừ phi nó kết hợp việc phục vụ Thượng Đế với việc phục vụ con người. Trước khi nhìn vào chi tiết của đạo đức trong Cựu Ước, có hai điểm tổng quát mà chúng ta cần lưu ý. Thứ nhất, Cựu Ước không hề e ngại về động cơ ban thưởng chút nào. Cựu Ước nhấn mạnh rằng sự thịnh vượng của một quốc gia có tỷ lệ thuận trực tiếp với việc quốc gia ấy vâng lời Thượng Đế. Hễ dân tộc nào vâng lời Thượng Đế thì sẽ được mưa thuận gió hòa, sẽ chắc chắn có được mùa gặt hái, sẽ chiến thắng kẻ thù. Còn nếu không vâng lời Thượng Đế, thì sinh hoạt quốc gia sẽ bị tan rã (Lev 26; Phục 28; Lev 5:18,19; Phục 7:12-16; 11:13-17). Có hai điều cần nói:
Thứ nhất, Cựu Ước tin rất ít hay chẳng có niềm tin nào cả vào bất cứ một cuộc đời hầu đến nào, do đó, phải có lời hứa ban thưởng cho đời này mà thôi. Đây là một trong những điểm khác với Cơ Đốc giáo. (TC Gióp 14:12; Thi 6:5; 30:9; 88:5-10-12; 115:17; Truyền 9:10; Eâs 38:18). Nó đưa vào một thế giới mới để bù đắp vào sự thăng bằng của thế giới cũ. Thứ hai, các nhà tiên tri Cựu Ước quả thật đã nói đúng. Điều vốn rất đúng, ấy là không hề có một vấn đề nào đe dọa một nước này hay một nước nọ hiện nay, mà là không phải là một vấn đề về luân lý đạo đức. Chẳng hạn ngày nay, sự bất ổn về công kỹ nghệ, về cơ bản không phải chỉ là một vấn đề kinh tế. Tôi dám nói rằng đó là một vấn đề luân lý đạo đức - và chúng ta sẽ trở lại với vấn đề này - xuất phát từ sự kiện là một người chúng ta - cả tôi lẫn tất cả mọi người - chỉ muốn càng ít phải cố gắng 11 càng hay, nhưng lại muốn thu lợi được càng nhiều càng tốt - thì kẻ gian ác nhất sẽ lên chiếm lấy nhiều nhất! Bạn không tài nào vá víu nổi một vấn đề kinh tế một khi thái độ sống của phần đông thiên hạ đều khiến cho nó trở thành bất khả giải quyết.
Sự kiện quan trọng thứ hai cần lưu ý - và chúng ta sẽ trở lại với nó một lần khác nữa - ấy là các nhà tiên tri vốn là những chính trị gia. Các nhà tiên tri không phải chỉ là những kẻ nói suông; các vị vốn là những con người hành động. Họ nhận thấy hết sức rõ ràng phương pháp duy nhất để biến khải tượng thành sự kiện là bằng hành động chính trị. Các nhà tiên tri vốn là những người bạn thân thiết nhất của kẻ nghèo khổ xưa nay, và là những ngọn roi giáng những đòn đau nhất mà kẻ giàu có từng gặp. Triết gia Péguy nói “Mọi sự đều bắt đầu với thần bí học và kết thúc bằng chính trị”. Lẽ dĩ nhiên, con người ta phải có khải tượng về một xã hội hoàn toàn. Đòi hỏi của nhà tiên tri là “Tốt lắm! Bạn đã có một khải tượng. Bạn đang làm gì với khải tượng ấy?” bây giờ chúng ta hãy nhìn vào chi tiết một chút.
1. Đặc điểm tối cao của đạo đức học Cựu Ước là tính cách bao quát của nó (comprehenviveness). Nó bao gồm rnọi người và bao trùm mọi hành động. Một trong những lệnh truyền phi thường nhất của Thượng Đế cho dân Do Thái là “Các ngươi sẽ thành một nước thầy tế lễ” (Xuất 19:6). Sự thiện hảo, tôn giáo không phải chỉ là công việc của một vài chuyên gia; nó là công việc của tất cả mọi người. Có một thi sĩ viết bài thơ rằng cả xứ Giu-đê “phủ trùm Thượng Đế hằng sống”. Trước giả sách Truyền đạo nói “Ngài khiến cho sự đời đời ở nơi lòng loài người” (Truyền đạo 3:11). Mọi đời sống đều nằm trong lệnh truyền và việc phục vụ Thượng Đế.
2. Trong gia đình, cha mẹ phải được tôn trọng (Xuất 20:12). Hành hung cha mẹ !à tội đáng chết (Xuất 21:15; Phục 21:18-21). Nếu chúng ta có thể đi lạc đề một chút, thì thế giới cổ tôn kính cha mẹ, xem đó là một nghĩa vụ có liên hệ tới sinh mạng con người. Luật Hammurabi của Ba-by-lôn có một hình phạt đối với kẻ hành hung cha mẹ là chặt tay kẻ phạm tội. Plato quy định hình phạt cho tội ác ấy là bị lưu đày biệt xứ vĩnh viễn, và nếu kẻ phạm tội tìm cách trở về thì phải bị xử tử (Laws 881 BD). Cicero bảo rằng sỡ dĩ Solon, nhà làm luật vĩ đại nhất trong các nhà làm luật Hy-lạp đã không đưa ra điều luật dành cho kẻ hành hung cha mẹ là vì ông ta hông thể quan niệm được rằng sự việc ấy lại có thể xãy ra (Rosc. 25). Trinh khiết và nếp sống trong sạch được đánh giá rất cao. Lý tưởng về hôn nhân cũng cao, nhưng trong thực tế người ta đã không đạt được lý tưởng ấy.
3. Trong luật pháp Do Thái, có một điều đáng cho chúng ta chú ý. Bộ luật đặc biệt được soạn thảo nhằm bảo vệ kẻ nghèo, vì Thượng Đế đặc biệt yêu mến họ (Phục:10:18, 1:17; 16:19; Lêv 19:15). Nhưng - đây là điểm đặc biệt - dân Do Thái đòi hỏi phải chỉ có một bộ luật cho tất cả mọi người một bộ luật giống nhau cả cho người Do Thái lẫn cho khách lạ trú ngụ trong xứ họ (Lêv 24:22). Nơi người Do Thái có hai điều tạo nghịch lý đáng ngạc nhiên. Một người Do Thái chẳng bao giờ quên rằng mình là tuyển dân của Thượng Đế, người ấy sẽ không thể sống lẫn lộn với người ngoại quốc, nhưng đồng thời, không hề có dân tộc nào lại cương quyết bài trừ tệ nạn kỳ thị chủng tộc khỏi xã hội của họ cho bằng người Do Thái. Bất chấp một người có là ai đi chăng nữa, công lý vẫn thuộc về người ấy, vì Thượng Đế là Đấng chăm sóc cho người ấy. Chúng ta chỉ có đủ thì giờ để thu nhặt rải rác chỗ này chỗ nọ trong đạo đức học Cựu Ước để chọn ra một vài điểm nổi bật.
1. Trong đạo đức học Do Thái, đạo đức trong việc làm ăn kinh doanh là vô cùng quan trọng. Có một điểm phi thường nhất trong đạo đức học Cựu Ước, là việc bắt buộc phải cân lường thật 12 chính xác đã được quy định không dưới bảy lần (Lêv 19:35,36; Phục 25:13-16; Châm 16:11; Êxê 45:10-12; Am 8:4-6; Mic 6:10,11). Như một trước giả sách Châm ngôn viết “Trái cân và cân công bình thuộc về Đức Giê-hô-va. Các trái cân trong bao là công việc của Ngài” (Châm. 16:1). Đây là một Thượng Đế không phải chỉ có mặt tại đền thờ và trong nhà thờ mà thôi, nhưng cũng là Thượng Đế của người làm kế toán và buôn bán tạp hóa nữa. Việc cân đong của bà nội trợ cũng như việc đo lường giữa các bạn hàng buôn bán với nhau đều bị đòi hỏi phải trở thành một hành động thờ phượng đối với người Do Thái. Và chính vì lý do đó mà tôi nghĩ rằng mình có thể được an toàn khi bảo rằng bạn sẽ chẳng bao giờ tìm được một người Do Thái bất lương nào là người giữ tôn giáo của mình.
2. Có một nét nổi bật trong luật pháp Do Thái, là nó nhấn mạnh trên trách nhiệm. Một người không phải chỉ có trách nhiệm về việc mình làm mà thôi; anh ta còn có trách nhiệm đối với việc sai trái mà đáng lý ra mình phải ngăn chận, và về sự thiệt hại mình đã gây ra vì sự bất cẩn hay vô tâm của mình. Nếu một con bò báng một ai đó, nếu chủ bò vốn không biết nó nguy hiểm như vậy, thì con vật bị xử tử, còn chủ nó thì trắng án; nhưng nếu chủ bò biết rõ con bò vốn nguy hiểm, thì chẳng những chỉ một mình con bò bị giết đi, mà chủ nó cũng bị xử tử nữa - vì đáng lẽ anh ta phải ngăn chận trước tấn thảm kịch ấy (Xuất 21:28-32). Các ngôi nhà trong xứ Palestine đều có nóc bằng, và nóc bằng ấy thường được dùng làm nơi để nghỉ ngơi hoặc suy gẫm. Do đó
mà luật pháp quy định rằng “Khi ngươi cất một cái nhà mới thì phải làm câu lơn nơi mái nhà, kẻo người nào ở trên đó té xuống, ngươi gây cho nhà mình can đến tội làm đổ huyết chăng” (Phục 22:8). Cựu Ước bảo đảm trong tôi phải là người bảo vệ cho anh em mình; sách ấy đoán quyết rằng tôi không phải chỉ phải chịu trách nhiệm về điều thiệt hại mà chính mình đã gây ra mà thôi, nhưng tôi cũng có trách nhiệm về điều thiệt hại mà tôi có thể ngăn chận nữa.
3. Cuối cùng, trong đạo đức học Do Thái có một thái độ tử tế hết sức đáng yêu. Người Do Thái chỉ có hai cái áo; một áo trong (lót) giống như một áo ngắn và một áo khoác ngoài, như một áo choàng vậy. Người ấy mặc áo choàng ban ngày, còn ban đêm dùng đắp ngủ. Luật pháp quy định rằng nếu người ấy đưa chiếc áo choàng đi cầm, thì tối đến, chiếc áo ấy phải được trả lại để anh ta đắp mà ngủ. Người ban hành luật pháp nghe Thượng Đế phán rằng: “Nếu người đến kêu van ta, tất ta sẽ nghe lời người, vì ta là Đấng hay thương xót” (Xuất 22:26,27; Phục 24:12,13).
Luật pháp phải quan tâm bởi vì Thượng Đế vốn quan tâm đến việc một người phải được ngủ ấm ban đêm, cả khi người ấy đang lâm cảnh nghèo khó.
Tiền lương của một công nhân Do Thái không cao hơn một mỹ kim mỗi ngày. Chẳng ai nhờ vào đó mà mập lên được, cũng chẳng tiết kiệm được gì. Cho nên luật pháp quy định rằng người chủ phải trả tiền công ngày hôm đó cho anh ta - “bằng không, người sẽ kêu đến Đức Giê-hô-va về ngươi, và ngươi sẽ mắc tội” (Lêv 19:15; Phục 24:14,15; Mal 3:5). Thượng Đế quan tâm đến việc người làm công phải được trả lương. Một con bò hay con lừa đi lạc phải được trả về cho chủ nó, hoặc giữ lại cho đến khi chủ nó đến xác nhận. Một con vật kiệt sức té quỵ, phải được giúp đỡ bằng cách cho ăn uống thêm (Xuất 23:4,5; Phục 22:1-4; 21:1-9). Phải luôn luôn tha mạng cho con chim mẹ đang giữ tổ (Phục 22:6,7). Không nên gặt hết một cánh đồng từ đầu nọ chí đầu kia, cũng đừng mót lại những bông lúa đã bị bỏ sót; không nên hái trái của một cây ô-liu đến hai lần; không nên hai sạch cả vườn nho, còn những trái nho rơi rụng thì đừng mót lại, vì phải chừa một chút gì đó cho những kẻ nghèo khó và khách lạ (Lêv 19:9, 10; 23:22; Phục 24:20,21); không bao giờ được rủa sả một người điếc và để một vật chi trước người mù để làm cho người vấp té (Lêv 19:14). Một người 13
mới cưới vợ phải được cho nghỉ việc và được miễn trừ quân dịch một năm để “người sẽ được thong thả ở nhà trong một năm, vui vẻ cùng người vợ mình đã cưới” (Phục 20:5-7; 24:5). Có rất ít nền đạo đức nào lại tuyệt diệu hơn nền đạo đức của Cựu Ước. Tuy nó có phần nào khắc nghiệt, nghiêm ngặt, nhưng cũng có sự khoan dung, cởi mở và tình thương. Đây chính là nền móng của đạo đức Cơ Đốc và đạo đức Cơ Đốc đã không thể nào có được một nền móng nào vững chắc hay một chiếc nôi nào tốt đẹp hơn thế.