- Những Kỹ Năng căn bản -
LỜI TỰA
Năm 1969, tôi viết quyển Dẫn Nhập Vào Tư Vấn Tôn Giáo. Quyển sách đề cập rộng rãi đến các nền tảng tâm lý của việc tư vấn mục vụ, nhưng nó hầu như không bàn đến chính tiến trình, đến các kỹ năng và các sách lược tư vấn. Ít lâu sau khi hoàn thành quyển sách, tôi đã chuyển sang một công tác khác – thuộc lãnh vực quản lý – ở đại học rồi ở nhà thờ. Mười năm sau, nhân một đợt nghỉ phép tôi đã tham dự các lớp tại UCLA, nhằm chuẩn bị quay trở lại với lãnh vực tư vấn và giảng dạy. Trong thời gian theo học ở UCLA này, tôi đã khám phá một phương pháp mới để thực hành tư vấn và để hướng dẫn người ta làm công việc này. Phương pháp của tôi tập chú vào các kỹ năng và các sách lược tư vấn xét như là những yếu tố làm nên tiến trình tư vấn. Sau khi sử dụng phương pháp này trong công tác tư vấn của chính mình và truyền đạt nó cho các học viên đang theo học ngành tư vấn tâm lý với tôi, tôi càng xác tín rằng phương pháp ấy có thể là một khí cụ rất hữu ích cho những ai đang đảm nhận công việc tư vấn mục vụ hoặc đang hướng đến vai trò của một nhà tư vấn mục vụ.
Đầu tiên, tôi có ý định rất đơn giản là viết lại quyển Dẫn Nhập Vào Tư Vấn Tôn Giáo – rồi bổ sung vào đó một phần bàn đến các kỹ năng và các sách lược tư vấn. Nhưng khi xúc tiến công việc, tôi nhận ra rằng chiều hướng của mình bây giờ rất khác với quyển sách nguyên thủy ấy, đồng thời tôi nhận thấy phần lớn nội dung của quyển Dẫn Nhập... không còn đóng vai trò quan trọng lắm đối với tác phẩm mới này, vì thế tôi bỏ kế hoạch hiệu đính quyển Dẫn Nhập... và tập trung nỗ lực để xây dựng một tác phẩm hoàn toàn mới. Tuy nhiên, phải nhận rằng một vài phần trong quyển Dẫn Nhập cũng rất hữu ích xét như là chất liệu căn bản giúp giải thích các kỹ năng và các sách lược tư vấn, chẳng hạn chương nói về Các Cảm Nghĩ và Cảm Xúc, một phần trong chương nói về Việc Xử Lý và một phần khác trong chương về Bản Chất Của Việc Tư Vấn Tôn Giáo ... đã được tôi biên tập lại và làm nên một phần của tác phẩm này.
Mục đích của tác phẩm này là nhằm phục vụ các sinh viên và các đối tượng tư vấn của tôi. Những kết quả tích cực mà các sinh viên tốt nghiệp gặt hái được sau đó nhờ tìm hiểu và áp dụng các kỹ năng và sách lược tư vấn đã thuyết phục tôi tin rằng đây có thể là phương pháp giảng dạy tư vấn hữu hiệu nhất từ trước tới nay. Sự hưởng ứng nhiệt tình của các đối tượng mà tôi giúp tư vấn cũng chứng minh cho tôi thấy rằng các kỹ năng và các sách lược này đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình tư vấn. Vì thế, tôi rất biết ơn các sinh viên mà tôi đã giảng dạy trong chín năm qua cũng như những người mà tôi đã tư vấn cho trong cùng thời gian đó.
Tôi đã hết sức cố gắng để tránh những ngôn ngữ có tính thành kiến giới tính. Nhưng nếu có chỗ nào còn sơ sót, xin bạn đọc lượng thứ, vì đấy không thuộc chủ ý của nguời viết. Một số những kỹ năng và những sách lược chủ chốt được giải thích lại lần thứ hai, nhưng trong một bối cảnh khác hẳn: Repetitio est mater studiorum (lặp lại là mẹ đẻ của học tập!). Quyển sách này mong phục vụ như một giáo trình học tập cho cả những ai chuẩn bị trở thành những nhà tư vấn mục vụ lẫn những người vốn đã dấn thân vào lãnh vực này rồi. Tôi hy vọng rằng việc lặp lại sẽ giúp củng cố tiến trình tìm hiểu của chúng ta.
Tôi xin chân thành ghi ơn Cha Robert Caro, S.J. đã cho tôi sự khích lệ quí báu, Cha Rockwell Shaules, S.J. và Cha Leo Rock, S.J. đã góp ý cho bản thảo, Thầy Henry Yoshioka, S.J. đã cộng tác về mặt kỹ thuật để cho ra đời quyển sách này.
Richard P. Vaughan, S.J.
Tác giả Lê Công Đức, Lm.
§1. DẪN NHẬP VÀ ĐẠI LƯỢC
Tư vấn là một cuộc đối thoại giữa người giúp đỡ và người tìm kiếm sự giúp đỡ. Đó là một trong nhiều công việc được đảm nhận bởi những người dấn thân trong công tác mục vụ – bên cạnh các công việc khác như cử hành phụng vụ, đem Mình Thánh Chúa cho người già yếu, dạy giáo lý cho người lớn và trẻ em, an ủi những người có tang chế, viếng thăm các bệnh nhân... Vì thế, tư vấn là một trong những công tác mục vụ. Đây là một công tác quan trọng bởi vì nó giúp người ta tìm ra các giải pháp cho các vấn đề trong cuộc sống hằng ngày của họ, dựa trên cơ sở là căn tính Kitô giáo của đương sự - và do đó nhằm giúp đương sự sống đời Kitô hữu của mình một cách trọn vẹn hơn.
Trong quá khứ, công tác mục vụ thường được hiểu là công việc của các linh mục. Tuy nhiên, trong vài thập niên trở lại đây, nhiều nữ tu và giáo dân nam cũng như nữ đã dấn thân vào loại công tác này. Ngày nay, một số nữ tu đảm nhận vai trò phụ tá của chủ chăn trong các giáo xứ; một số khác làm việc mục vụ tại các bệnh viện hay các ký túc xá đai học. Vài người trong họ là những giám đốc mục vụ tại đại học hay bệnh viện, hoặc nắm giữ các chức vụ quản lý trong Giáo Hội. Ở một mức độ khiêm tốn hơn, các giáo dân nam và nữ đã bắt đầu nắm giữ những vai trò tương tự trong cộng đồng Công Giáo. Khi con số giáo sĩ giảm sút do bởi mỗi năm con số các linh mục mới được phong chức mỗi ít hơn, xem ra các nữ tu và các giáo dân sẽ ngày càng đóng vai trò nhiều hơn trong công tác mục vụ. Trong các cộng đoàn Tin Lành, nhiều phụ nữ đã trở thành mục sư, và nhiều giáo dân cả nam lẫn nữ đã dấn thân cách chủ động hơn trong công tác mục vụ, và một phần của công tác này là công việc tư vấn mục vụ. Quyển sách này nhắm đến không chỉ các linh mục và các mục sư mà còn nhắm đến cả các nữ tu và các giáo dân hiện đang làm việc trong lãnh vực mục vụ hoặc đang hướng đến trở thành những nhà tư vấn mục vụ. Mặc dù quyển sách được viết bởi một người Công Giáo đang làm việc trong lãnh vực tư vấn mục vụ và tâm lý, tôi cũng ước mong rằng nó sẽ hữu ích cho bất cứ ai trong các Giáo Hội Kitô khác đang hoặc sẽ là những nhà tư vấn mục vụ.
CÁC LINH MỤC VÀ CÁC MỤC SƯ TRONG TƯ CÁCH LÀ NHỮNG NHÀ TƯ VẤN
Tại nhiều chủng viện, việc huấn luyện chính thức về tư vấn mục vụ xem ra rất giới hạn hay thậm chí hoàn toàn không có. Rất ít chủng viện, của cả Công Giáo lẫn Tin Lành, cung ứng một chương trình giảng dạy về những nguyên tắc và kỹ thuật tư vấn kết hợp với việc thực hành có sự giám sát của người hướng dẫn – như người ta vẫn làm để đào tạo các chuyên gia tâm lý tư vấn và lâm sàng. Trong Giáo Hội Công Giáo, nói chung người ta chấp nhận rằng việc giáo dục triết học và thần học cộng với vài ‘cua’ tâm lý mà người giáo sĩ được giảng dạy trong chủng viện là đủ để trang bị cho đương sự đảm nhận công việc tư vấn cho người ta ở giáo xứ, ở bệnh viện hay các ký túc xá đại học. Tuy nhiên, khi làm việc mục vụ được một thời gian, nhiều linh mục trẻ đã khám phá ra rằng mình chưa được chuẩn bị thích đáng để giúp đỡ người ta khi họ lâm vào phiền não và khủng hoảng. Ngay cả dù các linh mục rất sốt sắng muốn giúp những người đến với mình, các vị cũng thường nhận ra rằng mình rất thiếu các kỹ năng tư vấn cần thiết cho công việc này. Có lẽ chỉ có một ngoại lệ (trong đó không xảy ra tình trạng lúng túng nói trên), đó là các giáo sĩ, tu sĩ và nam nữ giáo dân đã từng theo học khóa Kinh Nghiệm Mục Vụ Lâm Sàng (CPE, Clinical Pastoral Experience) – là khóa học dành cho những người chuẩn bị phục vụ tại các bệnh viện. Trong khóa CPE, các linh mục, tu sĩ và giáo dân học các kỹ năng cơ bản cần thiết cho công tác mục vụ trong môi trường bệnh viện và được hướng dẫn trực tiếp khi họ áp dụng các kỹ năng này. Dường như trong các chủng viện Tin Lành việc huấn luyện tư vấn mục vụ được nhấn mạnh hơn so với trong các chủng viện Công Giáo; vì thế, các giáo sĩ Tin Lành xem ra được chuẩn bị tốt hơn cho sứ vụ này.
VIỆC CHUẨN BỊ CHO CÁC NỮ TU VÀ ANH CHỊ EM GIÁO DÂN
Ngoại trừ trường hợp các khóa CPE, phần lớn các nữ tu và các giáo dân dấn thân vào lãnh vực tư vấn mục vụ cũng nhận được sự đào tạo xem ra rất giới hạn về tư vấn. Người ta thường viện cớ rằng các nữ tu và các giáo dân nam nữ nói chung đã tốt nghiệp đại học và đã tham dự một số khóa về thần học và triết học, và như vậy có thể coi là họ đã được chuẩn bị thích hợp cho công việc tư vấn mục vụ. Người ta xem ra thường có chiều hướng nghĩ rằng kinh nghiệm làm việc và một vài khóa hội thảo (workshops) về tâm lý và tư vấn mục vụ sẽ có thể bổ khuyết cho mọi sự thiếu sót trong quá trình họ được đào tạo. Tuy nhiên, trong các Giáo Hội Tin Lành, ngày càng có sự phát triển hơn về các chương trình tư vấn mục vụ và việc bồi dưỡng kinh nghiệm cho các giáo dân được tuyển chọn trên cơ sở mức độ dấn thân của họ và là những người có dự phóng làm việc trong lãnh vực này.
Quyển sách này không thể thay thế cho một chương trình tư vấn có tính hệ thống và cũng không thể bổ khuyết cho mọi thiếu sót trong quá trình đào tạo các nhà tư vấn, nhưng nó có thể phục vụ như một giáo trình cho một khóa hướng dẫn tư vấn mục vụ, đồng thời cũng có thể giúp ích cho những nhà tư vấn chưa bao giờ được đào tạo chính thức trong lãnh vực này - để họ làm quen với các bước căn bản của công việc tư vấn mục vụ. Hy vọng rằng quyển sách này cũng sẽ cung ứng cho các đối tượng vừa nói trên cơ hội để học biết một số kỹ năng và kỹ thuật căn bản vốn có tầm quyết định đối với sự thành công của mọi cuộc tư vấn. Rất có thể quyển sách này cũng sẽ khích lệ họ vận dụng các kỹ năng và kỹ thuật ấy vào trong thực hành của chính họ, giúp họ khám phá và điều chỉnh những sai lầm trong cách làm của họ trước đây, và cuối cùng giúp cải thiện hiệu năng của họ trong tư cách là những nhà tư vấn mục vụ.
MỘT NGHỆ THUẬT HAY MỘT KHOA HỌC?
Việc tư vấn là một nghệ thuật hay là một khoa học? Đó là vấn đề gây rất nhiều tranh cãi. Hầu như phải nhìn nhận rằng việc tư vấn bao gồm cả hai khía cạnh đó. Xét như một nghệ thuật, khả năng tư vấn là một khả năng tự nhiên giúp một số người tỏ ra hiệu quả hơn những người khác trong khi làm công việc này. Còn xét như một khoa học, nó là kết quả của việc nghiên cứu khoa học liên quan đến những gì diễn ra trong một buổi tư vấn. Với sự hỗ trợ của kỹ thuật ghi âm và ghi hình, việc nghiên cứu tư vấn đã sải được những bước tiến rất dài. Hàng ngàn cuộc tư vấn đã được ghi băng và được phân tích bởi các chuyên gia; và các chuyên gia này cố gắng lựa lọc để rút ra những kỹ năng và kỹ thuật tư vấn căn bản đã được áp dụng bởi các nhà tư vấn thành thạo. Các nhà nghiên cứu này đã xác định một cách kỹ lưỡng mỗi trong các kỹ năng và kỹ thuật ấy và đã phát triển các phương pháp để giảng dạy chúng cho các học viên. [1] Quyển sách này sẽ giới thiệu các kỹ năng và các kỹ thuật ấy, đồng thời sẽ trình bày cách áp dụng chúng vào lãnh vực tư vấn mục vụ.
Trong tư cách là một nghệ thuật thì việc tư vấn không thể được dạy và được học; nó là một khả năng mà người ta hoặc có hoặc không có. Cách đây hai mươi năm, tư vấn được xem chủ yếu như một nghệ thuật. Sau một vài khóa tâm lý căn bản, những ai muốn thử công việc tư vấn sẽ được bố trí cho bốn hay năm thân chủ cùng với một người hướng dẫn trực tiếp giúp mình. Nếu họ có năng khiếu tự nhiên trong công việc này, họ thường sẽ làm tốt; nếu không, họ thường sẽ bỏ cuộc và chuyển sang một loại công việc khác. Não trạng về giáo dục tư vấn như thế có thể đã ảnh hưởng trên quan điểm của các nhà hữu trách chủng viện và làm họ nghĩ rằng các linh mục và mục sư chỉ cần rất ít hoặc thậm chí không cần sự đào tạo chính thức về tư vấn để làm việc với loại người mà họ thường gặp ở giáo xứ hay trong bệnh viện. Nếu vị linh mục hay mục sư có một năng khiếu tự nhiên về tư vấn, vị ấy có lẽ sẽ làm tốt công việc này bất kể mình đã nhận được loại huấn luyện nào và bất kể đối tượng đến nhờ tư vấn ở giáo xứ hay ở bệnh viện là ai; còn nếu vị linh mục không có năng khiếu tự nhiên trong việc tư vấn, thì việc huấn luyện cũng chẳng cải thiện gì, và ông ta sẽ có khuynh hướng lảng tránh công việc tư vấn mục vụ hết sức có thể và dành tâm lực của mình cho các công tác khác.
ĐÂU LÀ NHỮNG PHẨM CHẤT CỦA MỘT NHÀ TƯ VẤN KIẾN HIỆU?
Sau khi phân tích hằng trăm cuộn băng của các chuyên gia tâm lý và các bác sĩ tâm thần, Carkhuff và các cộng sự viên của ông đã xác định những đặc điểm chung của những nhà tư vấn và những nhà tâm lý trị liệu thành công. [2] Kết quả xác định cho thấy rằng những nhà tư vấn thành công là những người có khả năng thấu cảm, chân thành, và biết biểu hiện sự kính trọng đối với những người mà họ đang cố gắng giúp đỡ. Rồi Carkhuff và nhóm của ông đã lập ra những tiêu chuẩn để đo lường mức độ tác dụng của mỗi trong các đặc tính ấy. Đành rằng một số người tự nhiên có được khả năng trỗi vượt trong việc thấu cảm, trong lòng chân thành và trong sự kính trọng người khác, song các nhà nghiên cứu này khẳng định rằng tất cả mọi người đều có thể học tập các phẩm chất đó và rằng những người giáo dân – chẳng hạn các sinh viên tốt nghiệp đại học hay các nhân viên tình nguyện trong các bệnh viện – đôi khi có thể học tập các phẩm chất ấy nhanh hơn và hoàn chỉnh hơn so với một số bác sĩ tâm thần hay chuyên gia tâm lý. [3]
THẤU CẢM
Chúng ta thấu cảm khi chúng ta có khả năng ‘hiện diện’ với người khác và nắm hiểu được thế giới nội tâm của họ. Chúng ta cố gắng nhìn thấy thế giới nội tâm của người khác y như chính đương sự cảm nhận. Những người Da Đỏ có một kiểu nói mô tả sự thấu cảm, đó là “bước đi trong đôi giày của người khác.”[4] Nói cách khác, người thấu cảm là người dường như ‘chui vào bên trong da’ của người khác và cố gắng hiểu cách mà người ấy cảm nghĩ và nhìn thế giới con người và sự vật xung quanh mình. Người thấu cảm không những nhìn được sự vật theo cách người kia nhìn mà còn có khả năng diễn đạt bằng lời rằng mình hiểu cách nhìn của đương sự.
Carkhuff mô tả sự thấu cảm tốt như sau: “Bạn tỏ ra hiểu biết chính xác những cảm xúc hiện lộ nơi người mà bạn giúp, song có thể bạn không nhận hiểu hoặc thậm chí hiểu sai những cảm xúc ngầm ẩn sâu hơn. Những biểu hiện của bạn khi đáp ứng lại những biểu hiện của người kia thì thiết yếu có thể hoán đổi cho nhau – bởi hai bên thiết yếu diễn tả cùng những điều như nhau.”[5] Trong trường hợp này, nhà tư vấn ý thức những cảm nghĩ được diễn tả bởi người được tư vấn và cho người được tư vấn biết – thường qua sự truyền đạt bằng lời – rằng mình hiểu tâm trạng của anh ta hay cô ta. Carkhuff mô tả sự thấu cảm tuyệt vời như sau: “Bạn cho thấy rằng mình nhận hiểu những biểu lộ của người kia sâu hơn mức mà người ấy biểu lộ và do đó làm cho người ấy có thể cảm nghiệm và diễn tả được các cảm nghĩ mà trước đó anh ta hay cô ta không có khả năng diễn tả.”[6] Sự hưởng ứng của bạn sẽ đóng vai trò hỗ trợ để người kia có thể diễn tả những cảm nghĩ sâu xa hơn mức mà anh ta hay cô ta có khả năng trình bày. Nói chung, việc tư vấn mục vụ nhằm phản ảnh những cảm xúc hiện lộ, trong khi đó việc trị liệu tâm lý cố giúp người ta diễn tả những cảm nghĩ và cảm xúc mà họ chưa từng nhận ra trước đó. Những người thành công trong công việc tư vấn mục vụ hay trong ngành trị liệu tâm lý đều là những người có khả năng thấu cảm – có điều, sự thấu cảm của họ thuộc những mức độ khác nhau.
CHÂN THÀNH
Người chân thành là người biểu lộ sự thành thực, cởi mở và tự nhiên. “Người chân thành luôn luôn thoải mái với chính mình và do đó có thể tự nhiên ‘là mình’ trong mọi tương giao. Điều đó có nghĩa rằng họ không phải thay đổi khi tiếp xúc với những người khác nhau – nói cách khác, họ không phải thường xuyên khoác những vai mới nhằm để người khác chấp nhận mình.”[7] Họ không cần ‘làm mặt’, không cần đóng kịch. Người chân thành luôn ý thức các tâm tư ý nghĩ của mình và không ngại bày tỏ các tâm tư ý nghĩ ấy vào những khi thích đáng.
Carkhuff mô tả lòng chân thành như sau: “Bạn sốt sắng bộc lộ một cách thẳng thắn, trung thực các cảm nghĩ của bạn,” và “Bạn bộc lộ như vậy một cách xây dựng.”[8] Và Carkhuff mô tả sự thiếu chân thành là: “Tình trạng không nhất quán nghiêm trọng giữa những gì bạn cảm nghiệm và những gì bạn nói.”[9] Nói cách khác, bạn không chân thành khi những gì bạn nói và những gì bạn thực sự cảm nghĩ là hai điều khác nhau.
LÒNG KÍNH TRỌNG
Những người biết tôn trọng người khác là những người cho thấy – qua thái độ và hành động của mình – rằng mình trân trọng và đánh giá cao người khác. Lòng kính trọng này xuất phát từ sự trân trọng phẩm giá của con người mà mình tiếp xúc. Nghĩa là chúng ta quan tâm đến và nhận ra một cái gì đó nơi con người này – và điều đó làm cho chúng ta kính trọng anh ta hay cô ta, thấy anh ta hay cô ta là một con người có giá trị.
Carkhuff mô tả lòng kính trọng như sau: “Bạn bày tỏ sự quan tâm sâu sắc đến các cảm nghĩ, các kinh nghiệm và các tiềm năng của người mà bạn giúp” – và “Bạn ý thức sâu sắc về những tiềm năng của người ấy và bày tỏ sự nhiệt thành muốn tạo điều kiện cho người ấy hiện thực hóa các tiềm năng đó.”[10]
Kính trọng là một thái độ mà một người có đối với người khác. Egan nói: “Lòng kính trọng thường không được diễn tả thành lời trong những bối cảnh tư vấn. Hành động sẽ nói được nhiều hơn chính lời nói. Chẳng hạn, bạn ít khi phải thốt lên rằng ‘Tôi kính trọng anh bởi vì anh là một con người’, ‘Tôi đánh giá cao anh’, hay ‘Tôi kính phục anh vì anh biết quan tâm đến việc khám phá chính mình. Anh đang làm một việc rất có ý nghĩa đấy!’ Lòng kính trọng được diễn tả chủ yếu qua cung cách mà bạn đón nhận và làm việc với thân chủ của mình.”[11] Chúng ta bày tỏ lòng kính trọng đối với người khác bằng cách cho thấy – thường một cách gián tiếp – rằng chúng ta đang hiện diện cho họ, chúng ta muốn dành thời giờ và nỗ lực của mình để giúp họ. Những gì chúng ta đang làm không phải đơn thuần là bổn phận hay hoàn cảnh bắt mình phải làm. Chúng ta đang phục vụ họ bởi vì chúng ta kính trọng phẩm giá của họ trong tư cách là con người; chúng ta quan tâm và muốn giúp đỡ họ vì nhìn nhận giá trị biệt vị của họ.
SỰ NỒNG NHIỆT
Bên cạnh sự thấu cảm, lòng chân thành và lòng kính trọng đối với người mà bạn tư vấn, một số nhà nghiên cứu đã khám phá ra một phẩm chất thứ tư nữa, đó là: các nhà tư vấn thành công luôn luôn tỏ ra nồng nhiệt đối với người được tư vấn. “Nồng nhiệt là biểu lộ ra bên ngoài sự thấu cảm và lòng kính trọng bên trong. Sự nồng nhiệt thường được diễn tả qua rất nhiều cách truyền thông không dùng lời, như: cử chỉ, thái độ, giọng nói, sự đụng chạm, vẻ mặt.”[12] Thật khó định nghĩa sự nồng nhiệt, nhưng nó là một cái gì mà ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm được. Nó là sự thân thiện, song đồng thời còn hơn cả sự thân thiện. Người nồng nhiệt là người trao cho bạn ấn tượng rằng anh ta hay cô ta rất vui được gặp bạn, rất quan tâm tới bạn vì chính bản ngã của bạn (chứ không phải vì những yếu tố phụ thuộc nào đó). Nồng nhiệt là một trạng thái tâm cảm chúng ta có đối với người khác; thật khó – thậm chí không thể – giả tạo trạng thái tâm cảm này bằng cách bắt chước giọng nói hay cử chỉ của một người thực sự nồng nhiệt. Chúng ta có thể học cách thấu cảm và học cách biểu lộ lòng kính trọng – là một phần làm nên sự nồng nhiệt – và nếu có đủ cố gắng, chúng ta có thể bắt chước những biểu hiện không lời của sự nồng nhiệt, nhưng hầu như tất cả những điều đó đều không thể tạo ra được sự nồng nhiệt nơi nhà tư vấn, và một cách nào đó người được tư vấn sẽ nhận ra tính giả tạo của sự nồng nhiệt ‘đóng kịch’ ấy.
ĐÓN TIẾP, LẮNG NGHE VÀ DIỄN ĐẠT LẠI
Các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các nhà tư vấn thành công thường phát triển nhiều kỹ năng truyền đạt căn bản – tạo thành nền móng cho các bước và các kỹ thuật tư vấn khác. Một số kỹ năng đáng ghi nhận là: đón tiếp, lắng nghe và diễn đạt lại – bao gồm trong các bước như:
1. Đọc những thông tin không lời, như: cử chỉ, điệu bộ, giọng nói ...
2. Hiểu và diễn đạt lại các nội dung, các cảm nghĩ và ý nghĩa hàm chứa trong thông điệp của người được tư vấn.
3. Sử dụng các câu hỏi.
4. Sử dụng các câu khích lệ.
5. Kiểm tra sự nhận hiểu của mình.
6. Tổng hợp.
Các kỹ năng trên đều có thể được học, và chúng làm nên điểm tựa cho toàn bộ tiến trình tư vấn. Allen Ivey đã phác họa một chương trình giảng dạy các kỹ năng này cho những người có triển vọng làm công việc tư vấn.[13] Một khi đã học các kỹ năng tư vấn căn bản – thường là qua thực hành cụ thể – học viên có thể hệ thống chúng lại với nhau và áp dụng chúng trong một buổi làm việc tư vấn.
CÁC KỸ NĂNG TÁC ĐỘNG
Các kỹ năng đón tiếp và lắng nghe tạo khung cảnh cho các kỹ năng tác động. Tác động là cố gắng làm cho người được tư vấn thay đổi cách nghĩ, thay đổi cách hành động và cách quan hệ với người khác hay với môi trường của đương sự . Những kỹ năng tác động nhằm giúp cho người được tư vấn khảo sát cách nghĩ, cách hành động và cách quan hệ đặc trưng của mình, rồi sau đó sẽ quyết định xem có cần thay đổi những cung cách ấy hay không để giải quyết vấn đề mà mình đang gặp phải. Các kỹ năng tác động gắn liền với công việc tư vấn mục vụ là:
1. Cung cấp thông tin.
2. Chỉ dẫn.
3. Trấn an.
4. Đối chất.
5. Dìu dắt.
6. Đưa đề nghị hay lời khuyên.
MỘT KỸ THUẬT GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Những người tìm kiếm sự tư vấn mục vụ thường là những người có một vấn đề và họ muốn tìm ra giải pháp cho vấn đề đó. Các chuyên gia tâm lý đã phát triển một kỹ thuật nhằm giúp đỡ người ta giải quyết vấn đề.[14] Kỹ thuật này vận dụng một hệ thống các chủ đề bắt đầu bằng việc mô tả và xác định vấn đề của đương sự cũng như xác định cảm nghiệm của đương sự về vấn đề đó. Rồi sẽ xác lập mục tiêu của tiến trình cũng như các lý do thúc đẩy đương sự muốn giải quyết vấn đề đó – bởi vì một số người không thực sự muốn giải quyết các vấn đề của mình ngay cả dù họ nói rằng họ muốn. Rồi đương sự sẽ được yêu cầu cân nhắc xem vấn đề của mình có thể được giải quyết bằng những cách nào. Thế là đã có một số khả năng để chọn lựa. Mỗi khả năng chọn lựa này sẽ được đánh giá trên cơ sở đối chiếu những thuận lợi và những trở ngại trong việc áp dụng chúng. Nhà tư vấn sẽ thúc đẩy đương sự nhận định xem mỗi khả năng chọn lựa ấy liên hệ như thế nào với các giá trị của mình. Một khi tất cả các khả năng chọn lựa đã được mổ xẻ kỹ lưỡng, người được tư vấn sẽ được yêu cầu quyết định khả năng nào là tốt nhất và có triển vọng nhất trong việc giải quyết vấn đề của mình. Sau đó sẽ có một cuộc thảo luận về những cách thế thực hiện điều mà người được tư vấn đã quyết định. Trong kỹ thuật giải quyết vấn đề, nhà tư vấn làm việc như một trợ lý giúp tạo điều kiện cho người được tư vấn tự quyết định giải pháp cho vấn đề của mình; nhà tư vấn không đưa ra lời khuyên có tính áp đặt giải pháp cho người được tư vấn.
NHỮNG BIỆN PHÁP NÂNG ĐỠ
Một số người tìm đến xin được tư vấn song không có vấn đề nào, hoặc họ có vấn đề phải đương đầu nhưng đồng thời họ nhận ra rằng không thể có giải pháp tức khắc cho vấn đề của họ. Tuy nhiên họ tin rằng việc tư vấn có thể giúp ích cho họ. Ai trong chúng ta cũng có những lúc cảm thấy mình bị căng thẳng khủng khiếp và cần được một người khác nâng đỡ. Chúng ta mong có người động viên mình rằng mình có đủ sức khắc phục sóng gió và có thể tiếp tục sống một cuộc sống đầy hiệu năng. Các bác sĩ tâm thần và các chuyên gia tâm lý đôi khi dùng một kỹ thuật gọi là liệu pháp nâng đỡ (supportive therapy) – một liệu pháp mà các nhà tư vấn mục vụ cũng có thể vận dụng khi người ta đến với mình không phải để yêu cầu mình giúp họ giải quyết vấn đề mà chỉ để được mình nâng đỡ họ trong cơn phiền não.
GIỚI THIỆU CHO MỘT CHUYÊN VIÊN KHÁC
Nhiều trường hợp, các nhà tư vấn mục vụ được yêu cầu giúp những người mà tình trạng tâm cảm của họ cần đến sự trợ giúp vượt quá khả năng chuyên môn của mình – và do đó cần được giới thiệu đến một bác sĩ tâm thần, một chuyên viên tâm lý hay một nhà tư vấn về hôn nhân và gia đình. Vì thế, điều quan trọng là nhà tư vấn mục vụ phải biết nhận định xem trường hợp nào mình có thể giúp và trường hợp nào mình không có khả năng giúp. Nghĩa là nhà tư vấn mục vụ cần có sự hiểu biết đúng mức về các loại rối loạn tâm cảm khác nhau mà mình có thể thường gặp trong công tác tư vấn của mình, đồng thời cũng phải biết nên giới thiệu mỗi trường hợp cụ thể đến với nhà chuyên môn nào. Việc giới thiệu này có thể quyết định đến sự thành bại của công việc trị liệu tâm lý trong tương lai, nên chính bản thân việc giới thiệu này thật rất quan trọng.
SỬ DỤNG TẬP SÁCH NÀY NHƯ THẾ NÀO?
Ngoài việc mô tả bản chất và các yếu tố liên quan đến công việc tư vấn mục vụ, tập sách này cũng giới thiệu cho bạn những kỹ năng truyền đạt căn bản và một số kỹ thuật thường được các nhà tâm lý và các bác sĩ tâm thần sử dụng. Học biết các kỹ năng và các kỹ thuật này, cũng như học biết sử dụng chúng thế nào và khi nào qua sách vở, bạn rất có thể trở thành một nhà tư vấn hiệu quả hơn. Tuy nhiên, các nhà giáo dục tư vấn đã khám phá ra rằng cách tốt nhất để trở thành một nhà tư vấn hiệu năng là thực hành những kỹ năng và kỹ thuật này cùng với hai hay ba người khác – là những người cũng mong muốn trở thành những nhà tư vấn như mình. Trong loại thực hành này, mỗi thành viên của nhóm thay phiên nhau nhận vai trò tư vấn và được tư vấn, và mỗi người, sau khi đóng vai trò nhà tư vấn, sẽ nhận sự đánh giá từ các thành viên khác của nhóm. Các buổi tư vấn có thể được ghi băng và sau đó được nghe lại bởi chính người tư vấn hoặc được nghe lại ngay lập tức bởi nhóm, tùy thuộc vào lượng thời gian mà nhóm có được. Chủ đề cho các buổi thực hành tư vấn này thường là một khó khăn hay một vấn đề nào đó mà tất cả chúng ta thường gặp phải trong đời sống hằng ngày – chẳng hạn một vấn đề mà chúng ta gặp ở sở hay trong quan hệ bạn bè, đó cũng có thể là một khó khăn được ‘dựng ra’và người được tư vấn tự gán cho mình. Trong mỗi buổi thực hành, nhóm sẽ tập chú đến một hay một số các kỹ năng truyền đạt. Khi các kỹ năng truyền đạt căn bản đã được thực hành xong, nhóm sẽ bắt đầu tập chú đến các kỹ thuật tư vấn.
Các sinh viên học ngành tư vấn mục vụ sẽ nhận ra rằng phương pháp được mô tả trên rất hữu ích, nhưng có lẽ phương pháp này không thực tiễn đối với những người đang làm công tác mục vụ – bởi vì các vị này thường không có đủ thời giờ để đáp ứng như phương pháp này đòi hỏi. Các nhà tư vấn mục vụ nếu không có nhiều thời giờ để phát triển chuyên môn của mình thì cũng có thể đọc qua các kỹ năng và các kỹ thuật trong sách này, rồi cố gắng phối hợp chúng vào trong bài bản tư vấn mà mình vẫn áp dụng. Sẽ càng hữu ích hơn nữa nếu các vị có điều kiện ghi băng một số buổi tư vấn của mình để về sau kiểm tra lại và đánh giá việc mình sử dụng các kỹ năng và các kỹ thuật ấy. Một cách để rút tỉa kinh nghiệm từ một buổi tư vấn được ghi băng là ghi ra những gì bạn cho rằng đáng lẽ mình đã nói mỗi khi bạn nghe mình nói một câu nào đó mà bạn không thích. Đành rằng qua nhiều năm làm công việc tư vấn, đa số các nhà tư vấn có thể tự phát triển được bài bản có hiệu năng đáng kể cho riêng mình, song các vị ấy vẫn có thể phát huy hiệu năng nhiều hơn nữa bằng cách hội nhập một số kỹ năng và kỹ thuật được minh họa trong sách này.
NHỮNG VẤN ĐỀ THƯỜNG GẶP TRONG TƯ VẤN MỤC VỤ
Trong tập sách này, các kỹ năng và các kỹ thuật được minh họa qua những ‘vụ việc’ có liên quan với những trường hợp và những vấn đề mà các nhà tư vấn mục vụ thường hay gặp. Những vụ việc này đặt cơ sở trên người thực việc thực, nhưng các chi tiết được thay đổi để bảo đảm tính kín đáo cho các nhân vật liên hệ. Khi trình bày mỗi vụ việc, tôi cố gắng vạch rõ trạng thái tâm cảm của nhân vật trong một tình huống nhất định, chẳng hạn anh chồng nọ cảm thấy thế nào khi vợ anh mất hoặc vợ anh bỏ đi, người phụ nữ kia cảm thấy thế nào khi chị khám phá ra rằng con trai mình đã dính vào ma túy, ... Rồi, mỗi vụ việc như thế sẽ được nghiên cứu xem mỗi đương sự có thể được giúp đỡ như thế nào. Qua cách trình bày như thế, tôi hy vọng rằng bạn đọc sẽ không chỉ học biết cách sử dụng những kỹ năng và kỹ thuật khác nhau mà còn biết cách xử lý một số vấn đề thường gặp trong công tác tư vấn mục vụ.
[1] Allen E. Ivey và J. Authier, Microcounseling (ấn bản lần thứ hai). Springfield, III. : Charles C. Thomas, 1978.
[2] Robert R. Carkhuff, Helping and Human Relations, Quyển I: Selection and Training. New York: Holt, Rinehart & Winston, 1969, tr. 4.
[3] Robert R. Carkhuff và B. G. Berenson, Beyond Counseling and Psychotherapy (ấn bản lần thứ hai). New York: Holt, Rinehart & Winston, 1977.
[4] Gerald Egan, The Skilled Helper (ấn bản lần thứ hai). Monterey: Brooks/ Cole, 1982, tr. 86-87.
[5] Carkhuff, op. cit., tr. 174.
[6] Ibid. tr.165.
[7] Egan, op. cit. tr. 127.
[8] Carkhuff, op. cit., tr. 185-186.
[9] Ibid., tr. 184.
[10] Carkhuff, op. cit., tr. 179.
[11] Egan, op. cit. tr. 120-121.
[12] Geogre M. Gazda, Human Relations Development. Boston: Allyn &Bacon, 1973, tr. 87.
[13] Allen E. Ivey, Intentional Interviewing and Counseling. Monterey: Brooks/Cole, 1983.
[14] D.N. Dixon và J.A. Glover, Counseling, A Problem Solving Approach. New York: John Wiley & Sons, 1984.
§2. VAI TRÒ CỦA CÔNG VIỆC TƯ VẤN TRONG SỨ VỤ MỤC VỤ
Hai tiếng tư vấn có thể mang rất nhiều nghĩa khác nhau, từ việc đưa ra một lời khuyên cho tới việc trị liệu tâm lý. [1] Ý nghĩa thông thường nhất của hai tiếng tư vấn là: đưa ra lời khuyên cho một ai đó đang đương đầu với một khó khăn nào đó. Chẳng hạn, các luật sư làm công việc tư vấn khi họ nói cho thân chủ mình biết các quyền hợp pháp của thân chủ và những điều thân chủ nên làm khi bị thương trong một tai nạn ô tô; các nhân viên công tác xã hội làm công việc tư vấn khi khuyên người ta về cách săn sóc người cha hay mẹ già yếu của mình; các nhà tư vấn nghề nghiệp làm công tác tư vấn khi góp ý cho các sinh viên sắp tốt nghiệp cần quyết định về nghề nghiệp tương lai của mình. Có một yếu tố chung trong tất cả các trường hợp nói trên, đó là: đưa ra lời khuyên hay lời đề nghị về điều mà ai đó nên làm.
Trong tập sách này, ý nghĩa của hai tiếng tư vấn sẽ không dừng lại chỉ ở chỗ đưa ra lời khuyên hay lời đề nghị mà thôi. Tư vấn được xem như một cuộc đối thoại trong đó một nhà tư vấn thiết lập mối quan hệ có ý nghĩa giúp đỡ đối với người được tư vấn để giúp người này hiểu hơn về chính mình và về hoàn cảnh của mình – qua đó giúp đương sự có thể giải quyết vấn đề của chính đương sự, hoặc cung ứng sự nâng đỡ tinh thần nếu vấn đề không thể được giải quyết. Tiêu điểm của việc tư vấn là chính con người có vấn đề đúng hơn là loại vấn đề mà người ấy đang đương đầu. Việc tư vấn nhằm mục đích giúp cho người ta biết tự giúp mình. Nhiều trường hợp, việc tư vấn có bao hàm việc đưa ra lời khuyên, nhưng đưa ra lời khuyên chỉ là một trong nhiều kỹ năng mà nhà tư vấn sử dụng.
Việc tư vấn trong sứ vụ mục vụ là một loại tư vấn đặc biệt, phân biệt hẳn với các loại tư vấn khác xét về phương pháp và sự định hướng. Các nhà tư vấn trong sứ vụ mục vụ nắm giữ và đi theo một hệ thống các niềm tin và các giá trị Kitô giáo – và những người được tư vấn cũng thường nắm giữ và đi theo những giá trị và những niềm tin tương tự. Những niềm tin và những giá trị ấy bộc lộ một cách trực tiếp hay gián tiếp trong tiến trình tư vấn. Mục đích minh nhiên và chủ yếu của các nhà tư vấn trong sứ vụ mục vụ là giúp các Kitôhữu giải quyết các vấn đề của họ sao cho trung thành với sứ điệp của Đức Giê-su Kitô như được tìm thấy trong Tin Mừng và trong giáo huấn của Giáo Hội. Phần lớn các cuộc tư vấn mục vụ có liên quan đến một vấn đề nào đó mà người được tư vấn đang phải đương đầu. Vấn đề này được thảo luận trong bối cảnh đức tin và trong sự dấn thân Kitô giáo của người được tư vấn – chính đây là yếu tố phân biệt việc tư vấn trong sứ vụ mục vụ với những loại tư vấn khác. Chẳng hạn, khi một nhà tư vấn mục vụ cố gắng giúp một người nào đó có vấn đề về hôn nhân, thì quan điểm Kitô giáo về hôn nhân xét như một cam kết vĩnh viễn sẽ tất nhiên hiện lộ một cách cốt yếu. Nếu người được tư vấn đề cập đến chuyện ly dị, nhà tư vấn sẽ hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến tính vĩnh viễn và tính thánh thiện của khế ước hôn nhân – điều mà nhà tư vấn xác tín trong tư cách là một Kitôhữu và đồng thời cũng giả định rằng người được tư vấn, trong tư cách là một Kitôhữu, cũng xác tín như thế.
Việc tư vấn mục vụ được xây dựng trên cơ sở rằng một bên là người giúp đỡ còn bên kia là người tìm sự giúp đỡ. Những người tìm kiếm sự giúp đỡ giả định rằng nhà tư vấn là một người có đức tin, đáng tín nhiệm, có sự am hiểu và có kinh nghiệm trong việc tư vấn, và do đó có thể giúp đỡ họ. Họ cũng giả định rằng nhà tư vấn sẽ chia sẻ đức tin cho họ – một cách trực tiếp hay gián tiếp – trong quá trình tư vấn.
TƯ VẤN MỤC VỤ KHÔNG PHẢI LÀ TIẾP XÚC VÀ ĐỐI THOẠI MỤC VỤ
Tư vấn mục vụ không phải là một cuộc viếng thăm mục vụ tại nhà một giáo hữu, tại một nhà dưỡng lão hay một bệnh viện. Điều xảy ra trong các cuộc viếng thăm ấy cùng lắm chỉ có thể được mô tả là một cuộc đối thoại mục vụ trong đó một người đại diện cho Giáo Hội nói chuyện với một người khác về một chủ đề mà cả hai bên cùng quan tâm, chẳng hạn về những gì đang diễn ra trong gia đình của người được viếng thăm hay về một biến cố nào đó đang diễn ra trong Giáo Hội. Mục đích của cuộc đối thoại ấy là nhằm cho thấy rằng vị đại diện ấy của Giáo Hội (linh mục, mục sư, nữ tu hay giáo dân) đang quan tâm tới người được viếng thăm, nhất là quan tâm tới đời sống tâm linh của đương sự. Lúc này lúc khác, vị đại diện ấy của Giáo Hội có thể muốn vượt qua khỏi cấp độ trò chuyện để đi vào lãnh vực tư vấn, nếu chủ đề của cuộc trò chuyện yêu cầu đến việc tư vấn và nếu môi trường có đủ tính riêng tư cần thiết. Tuy nhiên, tiến trình thông thường hơn của việc tư vấn là mời đương sự đến văn phòng của giáo xứ hay văn phòng của vị tuyên úy. Nhiều trường hợp nhà tư vấn (là linh mục, mục sư, nữ tu hay giáo dân) có thể phải làm công việc tư vấn trong những điều kiện thiếu bầu khí riêng tư, chẳng hạn tại giường đôi ở bệnh viện hay trong một phòng tại nhà dưỡng lão mà những người khác ở quá gần sát – nhưng việc tư vấn như thế chỉ nên xảy ra nếu không còn cách nào khác.
TƯ VẤN MỤC VỤ KHÔNG PHẢI LÀ LINH HƯỚNG
Việc tư vấn mục vụ không hề giống với việc linh hướng. Mục đích chính của việc linh hướng là giúp người ta lớn lên trong đời sống thiêng liêng. Các vị linh hướng cố gắng giúp cho các người thụ hướng hiểu sâu sắc hơn về mối quan hệ với Thiên Chúa và hiểu cách thế mà Thiên Chúa, nhất là qua Đức Giê-su Kitô, đang làm việc trong cuộc đời họ. Các vị linh hướng chủ yếu quan tâm đến cách mà người thụ hướng quan hệ với Thiên Chúa và với người khác.[2] Giống như việc tư vấn, việc linh hướng dường như có rất nhiều ý nghĩa. Đối với một số nhà linh hướng, linh hướng có nghĩa là lắng nghe những điều mà người ta phải nói về việc cầu nguyện và về đời sống tâm linh của họ, rồi dạy bảo họ hay hướng dẫn họ. Đối với một số vị linh hướng khác, linh hướng hoàn toàn giống với việc tư vấn không có tính chỉ thị, trong đó nhà linh hướng diễn đạt lại những gì người thụ hướng nói về mối quan hệ của đương sự với Thiên Chúa, rồi giúp cho đương sự nhận ra cách mà Chúa Thánh Thần đang hướng dẫn đương sự.[3] Trong trường hợp vừa nói trên, nhà linh hướng “đóng góp vào việc xác minh đời sống đức tin và những hình thức cụ thể mà đời sống đức tin ấy khoác lấy – và nhà linh hướng làm công việc này bằng cách cùng với người thụ hướng khảo sát những hoạt động của Thiên Chúa mà đương sự ý thức được. Dần dần, bản sắc đích thực của các hình thức cụ thể ấy sẽ hiện lộ rõ. Trong trường hợp này, sự nhấn mạnh được đặt nơi nguồn gốc và bản chất của hoạt động ơn sủng, nơi những giai đoạn nối tiếp nhau của quá trình nhọc nhằn kiếm tìm Thiên Chúa, và nơi sự khám phá đầy thú vị về Ngài.”[4]
CŨNG KHÔNG PHẢI LÀ TƯ VẤN TÂM LÝ HAY TRỊ LIỆU TÂM LÝ
Tư vấn mục vụ cũng thuộc trong số những ngành chuyên môn giúp đỡ người khác, nhưng nhà tư vấn mục vụ có một chức năng khác với các bác sĩ tâm thần và các chuyên viên tâm lý lâm sàng – là những người đã được đào tạo chuyên sâu và được chứng nhận để hành nghề tư vấn tâm lý và tâm lý trị liệu. Chức năng chính của các nhà tư vấn mục vụ là giúp những người “bình thường” sống đời sống Kitô hữu xứng đáng hơn và giải quyết các vấn đề của mình trên cơ sở đức tin và mối ràng buộc Kitô giáo; còn các bác sĩ tâm thần và các chuyên viên tâm lý thì làm việc với những người bị suy nhược tâm thần hay tâm cảm – bằng cách sử dụng dược liệu và những biện pháp tâm lý. Chức năng chính của các bác sĩ tâm thần và các chuyên viên tâm lý là đem lại một sự xoa dịu các triệu chứng thể lý và tâm lý, đem lại một sự thay đổi trong cơ cấu nhân cách và đem lại sự trưởng thành tâm lý. Để đạt được tất cả ba mục tiêu này, các nhà tâm lý và các bác sĩ tâm thần sử dụng những bài bản và những kỹ thuật không thấy có nơi các nhà tư vấn trong sứ vụ mục vụ. Tuy nhiên, đôi khi một số nhà tư vấn mục vụ có thể sử dụng kỹ thuật này hay kỹ thuật khác của ngành tâm lý mà mình đã học được khi tham dự các cuộc hội thảo về tâm lý học hay tâm thần học. Dù sao, cần ghi nhận rằng việc tham dự một cuộc hội thảo hay thậm chí việc hoàn tất vài khóa cũng không trang bị đủ cho các nhà tư vấn mục vụ đảm nhận công việc tư vấn tâm lý hay trị liệu tâm lý. Nếu các nhà tư vấn mục vụ muốn đảm nhận cả việc tư vấn tâm lý nữa, thì họ cần có sự đào tạo bổ sung và có những kinh nghiệm lâm sàng, rồi họ sẽ được chứng nhận để hành nghề như những nhà tâm lý chuyên nghiệp khác.
KHÔNG CHỈ LÀ ĐƯA RA LỜI KHUYÊN
Như chúng ta đã từng ghi nhận, một số người xem việc đưa ra lời khuyên như là phần chủ yếu của việc tư vấn. Thế nhưng, các nghiên cứu cho thấy rằng lời khuyên thường không có mấy hiệu quả trên người được tư vấn và đôi khi thậm chí có thể tai hại nữa.[5] Người ta không ai giống ai, vì thế không thể hưởng ứng những giải pháp tiền chế cứng ngắt. Người ta có thể hiểu một lời khuyên, nhưng sự phiền não trong lòng họ không cho phép họ thực sự tiếp thu và thực hiện lời khuyên ấy. Cũng có những trường hợp, lý do thúc đẩy họ tìm kiếm sự giúp đỡ không có mấy liên hệ với các dữ kiện và các câu trả lời. Khi nhà tư vấn đưa lời khuyên cho những người này, lời khuyên sẽ không gây ấn tượng mấy cho họ – bởi vì hoặc họ không đang tìm kiếm lời khuyên hoặc họ chưa sẵn sàng để nghe lời khuyên.
KHÔNG DUY CHỈ LÀ PHÂN TÍCH VẤN ĐỀ
Một số người xem việc tư vấn như một công việc thuần tri thức. Các nhà tư vấn là những chuyên gia phân tích vấn đề, các vị đó có tài nắm bắt các yếu tố của vấn đề, phân tích chúng và truyền đạt sự phân tích của mình cho người được tư vấn. Những nhà tư vấn giỏi là những người thông hiểu và có khiếu giải thích cho người được tư vấn về những lý do tại sao đương sự nghĩ và hành động như thế, như thế ... Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy rằng các cảm nghĩ và cảm xúc đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình tư vấn; đôi khi các cảm xúc của chúng ta cũng quan trọng không kém các ý nghĩ của chúng ta.[6] Một nhà tư vấn có thể phân tích vấn đề của người được tư vấn một cách rạch ròi hết sức, và người được tư vấn hoàn toàn nhất trí với sự phân tích ấy – nhưng có thể đương sự không bao giờ vận dụng nó bởi vì sự phân tích ấy bỏ qua cảm xúc của đương sự về vấn đề. Xét về mặt tri thức, người ta thường hiểu mình phải làm gì để giải quyết một vấn đề, nhưng nhiều khi chính cảm xúc của họ không cho họ có khả năng làm điều mà họ nghĩ mình nên làm. Chẳng hạn, một người cha gặp phiền toái thường có thể hiểu rằng mình cần có sự kiểm soát chặt chẽ hơn đối với đứa con trai mười bốn tuổi ‘lộn xộn’ của mình. Việc bạn nói với ông ta rằng ông ta cần kiểm soát đứa con ông chặt chẽ hơn thường không có hiệu quả gì – bởi vì ông vốn biết rõ điều đó hoặc ít nhất ông vốn mường tượng điều đó. Vấn đề của ông cắm rễ trong một cái gì đó kín ẩn hơn, đó chính là cảm nghĩ của ông rằng mình là một người cha bất xứng. Chính tâm trạng này làm ông không thể xử lý được đứa con trai quậy phá của ông. Các cảm nghĩ và các cảm xúc thường gây ách tắc không cho phép chúng ta làm những điều mình biết rõ là mình nên làm.
NHỮNG THÓI QUEN SAI LẦM TRONG QUÁ TRÌNH TƯ VẤN
So sánh với các nhà tư vấn khác, các nhà tư vấn mục vụ thường có sự đào tạo chính thức hạn chế hơn về công việc tư vấn. Nhiều nhà tư vấn mục vụ, qua kinh nghiệm của mình, đã phát triển một phương pháp tư vấn cho mình và đã tiếp tục áp dụng nó vì nhận thấy rằng nó có hiệu quả. Một trong những mục đích của sách này là củng cố những gì mà bạn – trong tư cách là một nhà tư vấn – đã phát triển, đồng thời giúp bạn loại bỏ bất cứ thói quen sai lầm nào có thể làm giảm thiểu hiệu năng làm việc của bạn.
Những thói quen sai lầm thường đến từ việc lạm dụng thái quá hay sử dụng không đúng cách một kỹ năng tư vấn. Chẳng hạn, một số nhà tư vấn dựa quá nhiều vào việc đặt các câu hỏi hay việc đưa ra các lời khuyên. Đành rằng có những lúc lời khuyên sẽ rất hữu ích cho người ta, nhưng cần biết đưa ra lời khuyên một cách dè dặt, nhất là khi mới ở bước bắt đầu tiến trình tư vấn.
Một số nhà tư vấn cung ứng các lời khuyên từ khung qui chiếu của riêng mình. Họ khuyên người ta trên cơ sở những gì họ sẽ làm nếu họ ở trong trường hợp của người ta. Kiểu khuyên này không có mấy ý nghĩa đối với người được tư vấn bởi vì đương sự không nhìn vấn đề như nhà tư vấn nhìn.
Yếu tố thời gian cũng có tầm quyết định đối với sự thành bại của lời khuyên. Nếu lời khuyên được đưa ra sớm quá, người được tư vấn không sẵn sàng để lắng nghe hoặc không sẵn sàng để áp dụng.
Làm thế nào bạn biết khi nào lời khuyên của bạn sẽ trở nên hữu ích hay chỉ là ‘nước đổ đầu vịt’? Nếu người được tư vấn không đưa ra nhận định gì về lời khuyên của bạn, thì hầu chắc là đương sự sẽ bỏ nó ngoài tai. Nếu người được tư vấn đáp lại lời khuyên của bạn bằng kiểu nói “Vâng, nhưng mà ... “, bạn sẽ biết rằng đương sự không đồng tình với lời khuyên ấy – chẳng hạn, khi bạn đề nghị một anh chồng đưa vợ đi ăn tối ở ngoài để trao đổi về một khúc mắc giữa hai người, anh ta trả lời rằng “Vâng, nhưng tôi đã từng đưa cô ấy đi ăn tối, và điều đó chỉ tổ làm cho vấn đề càng tệ hại hơn”, rồi khi bạn đề nghị anh ta cùng vợ đánh xe đi dạo vòng bờ biển ban tối, anh ta nói: “Vâng, nhưng vợ tôi không thích đi xe vào ban đêm.” Mọi đề nghị của bạn đều húc phải câu trả lời “Vâng, nhưng mà ...”! Người được tư vấn dường như có một danh sách bất tận những lý do để giải thích rằng mọi đề nghị của bạn đều không tác dụng.
Nhiều trường hợp khác, người được tư vấn có thể đồng ý với điều mà bạn đề nghị, và trả lời rằng “Vâng, điều đó đúng. Tôi phải làm như thế”, nhưng qua giọng nói của đương sự bạn biết rằng đương sự không có ý định sẽ làm theo điều bạn khuyên.
Các nhà tâm lý trị liệu đôi khi đề cập đến kinh nghiệm “lightbulb” (bóng đèn). Khi nhà tư vấn đề nghị một giải pháp cho vấn đề thì vẻ mặt người được tư vấn sáng lên và anh ta hay cô ta trầm trồ: “Thật tuyệt. Thế sao tôi đã không nghĩ ra điều đó nhỉ?” Vậy là bạn biết rằng đương sự đã chấp nhận đề nghị hay lời khuyên của bạn và có lẽ đương sự sẽ áp dụng nó.
Mỗi người chúng ta đều phải chịu trách nhiệm đối với các hành động của mình. Việc nhà tư vấn đưa ra lời khuyên sẽ giải tỏa trách nhiệm này khỏi người được tư vấn và trách nhiệm đó được đặt trên vai nhà tư vấn. Việc sử dụng thái quá lời khuyên có thể thực sự làm hại cho người được tư vấn bởi vì nó tước mất khỏi họ cơ hội học biết tự nhận lãnh trách nhiệm về chính mình và có thể làm cho họ trở thành lệ thuộc quá vào nhà tư vấn. Cuối cùng, nếu lời khuyên không có tác dụng, người ta có khuynh hướng trách nhà tư vấn. Nếu xảy ra hai ba lần lời khuyên không có tác dụng, người ta có thể mất tín nhiệm vào nhà tư vấn, hay thậm chí mất tín nhiệm cả đối với công việc tư vấn.
MỘT VÍ DỤ VỀ HAI PHƯƠNG SÁCH
Sau đây là một ví dụ về hai phương sách khác nhau để làm việc với cùng một người có vấn đề: một nhà tư vấn dựa vào việc đưa ra các lời khuyên và các đề nghị - trong khi một nhà tư vấn khác cố gắng nhận hiểu những gì mà người được tư vấn đang cảm nghiệm, rồi sau đó diễn đạt lại sự nhận hiểu của mình cho đương sự.
Bà Smith vừa mới bị chồng bỏ sau 10 năm chung sống vợ chồng. Ngay từ đầu, cuộc hôn nhân của hai người đã không ổn định. Bà và chồng bà thường xuyên có những cuộc cãi vã dữ dội, nhiều lần ông ấy đùng đùng bỏ đi, ba bốn ngày sau mới trở về. Hết sức khổ sở, bà đến gặp cha sở xin giúp đỡ. Có vẻ như bà chỉ cần một vài lời khuyên. Bà có nên bắt đầu sắp xếp việc săn sóc con cái và tìm một việc làm không? Bà có nên bắt đầu xúc tiến việc ly dị và yêu cầu chồng bà nuôi con không? Nếu chồng bà trở về, bà có nên đón nhận ông như bà đã từng đón nhận những lần trước không? Sau khi lắng nghe câu chuyện của bà Smith, cha sở dồn sự chú ý đến tình trạng bất ổn định của cuộc hôn nhân giữa hai người và những hệ quả của nó trên con cái họ. Ngài nhắc lại bổn phận phải tạo một bầu khí gia đình thuận tiện cho con cái có thể lớn lên trở thành những con người Kitôhữu tốt. Rồi ngài đề nghị một số sự sắp xếp trong việc nuôi dạy con cái. Ngài khuyên bà nên tham vấn một luật sư về cách nào tốt nhất để bắt chồng bà phải đóng góp vào việc nuôi con. Bà Smith do dự trước lời khuyên của cha sở, bà nêu ra nhiều lý do ấm ớ để phản đối. Cha sở cố gắng thuyết phục bà Smith rằng bà phải đối diện với tình hình thực tế của mình. Và cuộc phỏng vấn kết thúc trong tình trạng cả hai bên đều không thỏa mãn.
Thấy bà Smith trở nên quẫn trí hơn, một người bạn đã mách nước rằng bà nên tham vấn một vị linh mục có chuyên môn về tư vấn tâm lý. Vị linh mục này ngay lập tức nhận ra sự rối loạn tâm cảm của bà Smith và kết luận rằng bất cứ cố gắng nào thúc đẩy bà đưa ra quyết định cũng vô hiệu. Ông tập trung quan tâm lắng nghe bà. Trong hơn một tiếng đồng hồ, bà Smith trút hết nỗi phẫn nộ đối với chồng mình cho nhà tư vấn – và bà kết luận rằng bà chỉ còn quan tâm đến tư cách làm mẹ của bốn đứa con nhỏ của mình mà thôi. Vị linh mục khuyến khích bà giải tỏa những cảm xúc dồn nén của mình, thỉnh thoảng ông nêu những câu hỏi hay những câu nhận xét khéo léo để cho thấy rằng ông hiểu tâm trạng của bà. Đến cuối giờ, bà Smith bắt đầu nhận ra rằng cách nào đó chính bà cũng có góp phần gây nên vấn đề trong hôn nhân của mình, dẫn đến tình trạng tệ hại cho mình như hiện nay. Trước khi ra về, bà cho biết bà đã cảm thấy đỡ hơn – và bà ngỏ ý muốn trở lại lần khác. Bốn ngày sau, bà trở lại và báo tin rằng chồng bà đã trở về. Bà kể rằng dù tình hình rất gay cấn nhưng vợ chồng bà đã có thể nói chuyện được với nhau, đã thảo luận về vụ cãi vã gần đây nhất và đã đi đến nhất trí rằng cả hai đều có lỗi. Rồi bà yêu cầu vị linh mục tư vấn vui lòng làm việc với cả hai vợ chồng bà – vì cả hai đều tin rằng mình cần được giúp đỡ để cứu vãn cuộc hôn nhân của mình.
NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG TƯ VẤN
Các nhà tư vấn mục vụ có thể làm công việc của mình theo một trong ba định hướng sau đây:
(1) trong tư cách là một chuyên gia,
(2) trong tư cách là một người giúp đỡ đầy quan tâm và cảm thông, và
(3) trong tư cách là một người giúp tạo điều kiện cho quá trình giải quyết vấn đề được dễ dàng hơn.
Cả ba tư cách trên đều là thành phần của việc tư vấn mục vụ, nhưng không một phương án nào có thể phù hợp cho mọi tình huống. Phương án nào cũng giả định sự chăm chú lắng nghe của nhà tư vấn để có thể hiểu những cảm nghiệm của người được tư vấn, hiểu được đương sự đang tìm kiếm gì trong công việc tư vấn này, và hiểu được mình có thể làm gì để cải thiện tình hình.
CHUYÊN GIA
Trong nhiều thế kỷ nay, các linh mục và các mục sư đã phục vụ trong tư cách là những chuyên gia trong lãnh vực tôn giáo. Khi bất cứ ai có vấn đề không chỉ liên quan đến đức tin và thần học mà còn liên quan đến cuộc sống thường ngày, thì họ cũng tìm đến tham vấn nơi linh mục hay mục sư. Cách đây một trăm năm, không hề có tồn tại một bác sĩ tâm thần hay một nhà tâm lý nào; cách đây ba mươi năm, cả hai loại chuyên gia này vẫn còn bị nhiều người nghi ngờ. Nếu một người cần bày tỏ vấn đề riêng nào đó của mình, thì địa chỉ lô-gíc nhất để họ tìm tới là cha sở hay mục sư của họ. Do được đào tạo chuyên biệt về triết học và thần học, vị cha sở hay mục sư được xem là một chuyên gia bách khoa! Vị ấy có thể trả lời các câu hỏi của người ta không chỉ về tôn giáo mà còn về hầu như bất cứ vấn đề nào khác, và vị ấy có thể đưa ra những lời khuyên cho người ta biết họ nên làm gì. Đa số các lời khuyên mà các linh mục hay mục sư đưa ra đều dựa cơ sở trên kinh nghiệm quá khứ của họ trong việc giúp đỡ người khác và dựa trên lẽ khôn ngoan thông thường.
Ngày nay người ta vẫn cần đến sự tinh thông thần học của các linh mục và mục sư. Họ cần được chỉ dẫn về đức tin của họ; đặc biệt, họ cần được chỉ dẫn về luân lý và các giá trị Kitô giáo. Sau đây là ví dụ về trường hợp một linh mục làm việc trong tư cách là một chuyên gia cố vấn và một nhà tư vấn.
Một thành viên khá tên tuổi của một giáo xứ nọ đến gặp cha sở để chia sẻ về tình trạng hôn nhân lủng củng của mình. Anh nói rằng anh và vợ anh chỉ là vợ chồng trên danh nghĩa. Anh cho biết vợ chồng anh nhiều năm nay đã rất xa cách trong tâm cảm. Dường như ngay từ đầu cuộc sống chung, hai người thường xuyên có những vụ cãi vã kịch liệt, tiếp nối theo bởi những giai đoạn lầm lì với nhau. Mối ràng buộc duy nhất giữa hai người là việc nuôi dạy bốn đứa con – và cả bốn nay đều đã lớn và đã sống ngoài gia đình. Cách đây ba năm, vào thời điểm sau hai mươi lăm năm chung sống vợ chồng như thế, hai người đã tìm đến một chuyên viên tâm lý để được tư vấn về hôn nhân, nhưng kết quả không đáng kể. Anh cho biết rằng anh đi lễ nhà thờ hằng ngày, đức tin là điều rất quan trọng đối với anh, vì nó giúp anh nghị lực để đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống mình. Trái lại, vợ anh, một người mới trở lại Công Giáo khi đã trưởng thành, đã bỏ hẳn việc đi nhà thờ. Chị nhận thấy lối sống ngoan đạo của chồng là một điều bực bội đối với chị. Chị cho anh biết rằng chị muốn ly dị. Anh nói anh rất băn khoăn về tình trạng của mình trong Giáo Hội Công Giáo nếu như anh tán thành điều mong ước ấy của vợ anh. Anh trăn trở khôn nguôi với ý nghĩ rằng ly dị đồng nghĩa với sự chấm dứt tư cách thành viên tích cực trong Giáo Hội và chấm dứt quyền lãnh nhận các bí tích. Anh nói anh thà phấn đấu chịu đựng cuộc hôn nhân của mình hơn là vứt bỏ đức tin Công Giáo.
Điều mà người đàn ông này cần chính là một số thông tin đúng đắn về quan điểm của Giáo Hội đối với vấn đề ly dị. Anh cần biết vị thế của một người ly dị trong cái nhìn của Giáo Hội. Anh cần biết mình có thể làm gì và mình không thể làm gì. Có lẽ anh cũng cần sự nâng đỡ tinh thần nữa, một khi mà anh đã quyết định đâu là sự chọn lựa tốt nhất cho mình. Anh không cần sự tư vấn cho bằng những thông tin từ một chuyên gia về thần học luân lý và về giáo luật.
NGƯỜI GIÚP ĐỠ ĐẦY CẢM THÔNG
Nhiều người khác sẽ cần nhiều thứ hơn nữa chứ không chỉ là những thông tin và những câu trả lời. Họ cần sự trợ giúp của một người giúp đỡ đầy cảm thông. Carl Rogers đã bỏ ra cả đời để nghiên cứu xem một người cảm thông là một người như thế nào.[7] Rogers bắt đầu sự nghiệp của mình trong tư cách là một nhà tâm lý thuộc truyền thống phân tâm. Rồi về sau, ông ngày càng thất vọng với phương pháp phân tâm. Dần dần ông nhận ra tầm quan trọng của những kinh nghiệm chủ quan của thân chủ. Rogers khám phá ra rằng nếu có hai điều kiện sau đây thì tình trạng của thân chủ thường sẽ được cải thiện: một là, khi nhà tư vấn có thể biểu hiện sự quan tâm tích cực đối với thân chủ, không phán xét thân chủ và biết đón nhận thân chủ như một con người mà không hề đặt một điều kiện tiên thiên nào cho sự đón nhận đó; hai là, khi nhà tư vấn có thể cho thấy mình thấu cảm đối với thân chủ.
Rogers mô tả sự thấu cảm như là một cách hiện diện với người khác. “Đó là đi vào trong thế giới cảm thụ riêng của người khác và trở thành hoàn toàn tự nhiên với thế giới ấy. Nó gắn liền với sự nhạy cảm trong từng khoảnh khắc đối với những cảm nhận đang dâng lên trong lòng người khác, cùng sợ hãi, cùng phẫn nộ, cùng xúc động, cùng hoang mang ... với đương sự. Nó có nghĩa là phải tạm thời sống chính tình trạng của người khác mà không đưa ra một phán xét nào. Nó có nghĩa là cảm nhận được những điều mà đương sự ít khi ý thức, song không cố lột trần hoàn toàn những cảm xúc của vô thức, vì điều đó quá kinh hoàng. Nó cũng có nghĩa rằng bạn cảm nhận thế giới của người khác bằng đôi mắt trong sáng, điềm nhiên trước những yếu tố làm cho đương sự khiếp sợ. Nó có nghĩa bạn phải thường xuyên kiểm tra với người khác để biết mình cảm nhận có đúng không, căn cứ vào thái độ hưởng ứng của đương sự để thẩm tra sự cảm nhận ấy của mình. Bạn là một người đồng hành đáng tin cậy của người kia trong thế giới nội tâm của anh ta hay cô ta.”[8]
Khi bạn lắng nghe một người cần bạn tư vấn, bạn nên tự hỏi: Người này đang cảm nghiệm điều gì? Điều gì đang xảy ra trong cuộc sống của người này đến nỗi người này đang cố giãi bày cho mình? Người này đang cảm thấy thế nào về điều đang xảy ra đó? Mình sẽ nói sao để mô tả tốt nhất kinh nghiệm nội tâm của người cần mình tư vấn đây?[9]
Sự thấu cảm đối với người được tư vấn sẽ giúp đương sự khảo sát chính mình cũng như khám phá ra những khía cạnh và hoàn cảnh của mình mà trước đây đương sự chưa hề nhìn thấy, qua đó đương sự sẽ thay thế những quan điểm tai hại cũ nơi mình bằng những quan điểm mới mẻ và tích cực hơn, và hướng tới một giải pháp cho vấn đề của mình, nếu mình có một vấn đề. Yếu tố quan trọng quyết định sự tiến triển của quá trình chính là việc người ta nhận ra rằng họ không còn một mình trong hành trình của họ – nhưng bên cạnh họ đã có một người bạn đồng hành đầy cảm thông. Rogers khám phá rằng chính kinh nghiệm được một người khác cảm thông và đón nhận vô điều kiện sẽ giúp người ta có cái nhìn tích cực hơn về chính họ – và kết quả là họ sẽ vận dụng các khả năng của họ nhiều hơn để đương đầu với bất cứ vấn đề nào gây rắc rối cho họ.[10]
Nhiều người kiếm tìm sự tư vấn mục vụ không nhằm tìm các câu trả lời và những giải pháp; họ chỉ tìm kiếm sự cảm thông và sự nâng đỡ trong một giai đoạn mà họ thực sự cần. Rồi với thời gian, họ sẽ cảm thấy mình có khả năng giải quyết khó khăn của mình. Nhiều người khác tìm đến với tư vấn mục vụ nhưng kỳ thực vốn đã biết lời giải cho vấn đề của mình; họ muốn chia sẻ nó với một người mà họ tín nhiệm. Trong khi đó cũng có những người thực sự muốn tìm kiếm giải pháp cho vấn đề của họ nhưng họ không muốn bạn đảm nhận đời sống của họ và quyết định một giải pháp thay cho họ. Họ muốn được bạn giúp để họ quyết định xem nên làm gì, họ không kỳ vọng bạn là người đưa ra quyết định cuối cùng. Những người này xác tín rằng họ có thể tự quyết định nếu họ có cơ hội thảo luận vấn đề với một người đáng tin cậy. Trong cả ba trường hợp vừa kể trên, phương pháp qui về con người của Carl Rogers sẽ là phương pháp hữu hiệu nhất, miễn là người được tư vấn có thể chia sẻ vấn đề một cách mạch lạc, có thể ý thức các cảm nghĩ của mình và có đủ bản lĩnh để đưa ra một quyết định.
TẠO ĐIỀU KIỆN DỄ DÀNG CHO TIẾN TRÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Nhà tư vấn mục vụ có thể làm việc trong tư cách là một người tạo điều kiện cho người ta dễ dàng giải quyết vấn đề. Theo phương án này thì nhà tư vấn cố giúp người ta tìm ra các giải pháp cho các vấn đề mà họ đương đầu.[11] Chức năng của nhà tư vấn là làm cho tiến trình giải quyết được dễ dàng hơn – chứ không phải giải quyết vấn đề ấy bằng cách đưa ra các lời khuyên. Nhà tư vấn chỉ thiết lập một cái khung để giúp cho đương sự đạt đến một giải pháp khả thi.
Để bắt đầu tiến trình này, bạn cần chăm chú lắng nghe những gì người kia nói về nỗi khó khăn mà đương sự đang cảm nghiệm, rồi cố nhận hiểu nỗi khó khăn ấy từ chính quan điểm của đương sự. Bạn cần quan tâm đến cách mà đương sự cảm nhận về vấn đề và tác động của vấn đề ấy đối với đương sự như thế nào – bởi vì mỗi người đều có cách nhìn riêng của mình đối với một tình huống. Điều có sức tàn phá lớn lao đối với người này có thể chỉ là một trở ngại nhỏ cho một người khác. Rồi bạn tổng hợp những gì đương sự đã nói về vấn đề hay về nỗi khó khăn của đương sự, sau đó kiểm tra tính chính xác của những gì mà bạn đã tổng hợp. Bây giờ, người được tư vấn đã sẵn sàng để xem xét những giải pháp có thể cho vấn đề của mình. Sau khi xem xét các khả năng chọn lựa có thể có, bạn yêu cầu đương sự thẩm định lại mỗi khả năng và lập một bảng kê những điều thuận nghịch đối với mỗi khả năng chọn lựa. Đương sự sẽ được yêu cầu cân nhắc các khả năng đó và cuối cùng quyết định xem khả năng nào đương sự nghĩ là có cơ thành công nhất. Khi đương sự đã quyết định đâu là khả năng chọn lựa tốt nhất, bạn sẽ thúc đẩy đương sự suy nghĩ xem đâu là cách để triển khai sự chọn lựa ấy. Sự mô tả tiến trình giải quyết vấn đề như trên chỉ có tính đại lược; trong chương sau chúng ta sẽ xem xét lại tiến trình này một cách chi tiết hơn.
TỔNG LƯỢC
Tư vấn mục vụ là một cuộc đối thoại trong đó nhà tư vấn thiết lập một mối tương quan có tính nâng đỡ và thể hiện những cố gắng để giúp cho người được tư vấn đi vào những đổi thay trong cách sống, trong cách giải quyết vấn đề của đương sự hay chỉ đơn giản là giúp đương sự cảm thấy mình được nâng đỡ bởi một người đầy quan tâm đại diện cho Giáo Hội. Tất cả những công việc ấy được thực hiện trong bối cảnh đức tin và các giá trị Kitô giáo mà đương sự xác tín. Nhà tư vấn có thể đóng vai trò như
(1) một chuyên gia,
(2) một người giúp đỡ đầy cảm thông, và
(3) một người giúp tạo điều kiện dễ dàng cho quá trình giải quyết vấn đề.
Quá trình tư vấn có thể cần áp dụng cả ba hay chỉ một trong ba chức năng ấy. Việc đưa ra quá nhiều lời khuyên là một sai lầm phổ biến nơi các nhà tư vấn mục vụ. Đành rằng có những lúc cần đưa ra lời khuyên, nhưng lời khuyên thường chẳng mấy tác dụng. Nó thường làm cho người được tư vấn phụ thuộc vào nhà tư vấn, và có thể làm ách tắc sự trưởng thành của người được tư vấn trong tư cách là một Kitô hữu.
[1] Gary S. Belkin, Introduction to Counseling. Dubuque: Wm. C. Brown, 1984, tr. 20-25.
[2] William J. Connolly, “Contemporary Spiritual Direction: Scope and Principles."”St. Louis: American Assistancy Seminar on Jesuit Spirituality, June 1975, tr. 102-103.
[3] Eugene F. Bleidorn, Help Me Father. Milwaukee: Bruce, 1960, tr. 13-14.
[4] Raymond Hostie, Pastoral Counseling. New York: Sheed and Ward, 1960, tr. 10.
[5] Lawrence M. Brammer, The Helping Relationship (ấn bản lần thứ ba). Englewood Cliffs: Prentice-Hall, 1985, tr. 2.
[6] Michael E. Cavanagh, The Counseling Experience. Monterey: Brooks/Cole, 1982, tr. 157-159.
[7] Carl R. Rogers, A Way of Being, Boston: Houghton Mifflin, 1980, tr. 27-45.
[8] Ibid., tr. 142.
[9] David G. Martin, Counseling and Therapy Skills, Monterey: Brooks/Cole, 1983, tr. 3-16.
[10] Carl R. Rogers, Client Centered Therapy, Boston: Houghton Mifflin, tr. 172-196.
[11] Gerald Egan, The Skilled Helper, (ấn bản lần thứ hai). Monterey: Brooks/Cole, 1982, tr. 223-291.
§3. ĐỨC TIN VÀ CÁC GIÁ TRỊ KITÔ GIÁO
Chính đức tin và các giá trị là yếu tố phân biệt việc tư vấn mục vụ với các hình thức tư vấn khác. Trong việc tư vấn mục vụ Kitô giáo, nhà tư vấn và người được tư vấn cùng tuyên xưng một niềm tin Kitô giáo và cùng theo cách sống Kitô giáo. Các nhà tư vấn trong tư vấn mục vụ được mời gọi đảm nhận công việc này cũng do bởi đức tin và do sự dấn thân của họ cho các giá trị Kitô giáo. Vì thế, đức tin và sự dấn thân này phải đóng một vai trò chính yếu trong công việc tư vấn của họ. Thường thì những người tìm kiếm tư vấn mục vụ mong đợi rằng những gì họ tin sẽ một cách nào đó được hội nhập vào trong quá trình tư vấn. Vấn đề mà người được tư vấn muốn thảo luận có thể có quan hệ trực tiếp với các vấn đề tôn giáo và các giá trị Kitô giáo, trong trường hợp này nhà tư vấn vận dụng đức tin của đương sự để giúp đương sự. Hoặc đó có thể là một vấn đề mà người được tư vấn cho rằng không có mấy liên quan với tôn giáo. Trong trường hợp này công việc của nhà tư vấn mục vụ là, qua thảo luận, nối kết vấn đề với đức tin và các giá trị của người được tư vấn. Một cách nào đó, đức tin và các giá trị của cả nhà tư vấn lẫn người được tư vấn đều có đóng vai trò trong quá trình tư vấn – ngay cả dù xem ra có ít hay không có sự liên quan nào giữa những gì đương sự muốn thảo luận và những xác tín tôn giáo của đương sự.
ĐỨC TIN
Khi chúng ta nghe hai tiếng “đức tin”, chúng ta thường liên tưởng ngay đến một loạt những điều tin tưởng như được liệt kê trong Kinh Tin Kính của các Tông Đồ hay của Công Đồng Nicê. Chúng ta cho rằng tin có nghĩa là chấp nhận một điều tuyên bố trong các Kinh Tin Kính nói trên, chẳng hạn “Chúng tôi tin một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất.” Công Đồng Vatican I định nghĩa đức tin như sau: “Đức tin là một nhân đức siêu nhiên trong đó chúng ta – được hướng dẫn và được hỗ trợ bởi ân sủng – quyết chắc là đúng thật những điều được Thiên Chúa mạc khải, không phải do chúng ta đã cảm thụ được sự thật cốt yếu bên trong của những điều đó, nhưng do thẩm quyền của Thiên Chúa là Đấng không thể lừa dối hay bị lừa dối.” Như vậy đức tin là một tình trạng bền vững của tâm trí cho phép chúng ta chấp nhận các chân lý mà Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta về chính Ngài và về các kế hoạch của Ngài đối với thế giới.[1] Những điều Thiên Chúa đã mạc khải thì nhất định, nhưng đối với các cá nhân thì những ý nghĩa hàm chứa trong một chân lý mạc khải cụ thể nào đó thì có thể rất khác nhau. Chúng ta chấp nhận câu tuyên bố rằng “Chúng tôi tin một Thiên Chúa là Cha toàn năng” bởi vì chúng ta chấp nhận đó là một chân lý mạc khải. Tự nó câu tuyên bố ấy là bất biến, nhưng ý nghĩa của câu tuyên bố ấy đối với mỗi cá nhân thì thay đổi từ người này sang người khác. Do hoàn cảnh phát triển, do học tập, do kinh nghiệm, ... mỗi người chúng ta cách nào đó có một cách nhìn khác nhau về Thiên Chúa và về nội dung của đức tin chúng ta.[2] Thiên Chúa đối với một thiếu nhi hay thiếu niên sẽ không giống với Thiên Chúa của một người lớn. Khi chúng ta trưởng thành hơn lên, hy vọng là sự nhận hiểu về Thiên Chúa nơi chúng ta cũng trưởng thành hơn. Câu tuyên bố “Chúng tôi tin một Thiên Chúa là Cha toàn năng” vẫn không thay đổi, nhưng ý nghĩa của câu tuyên bố ấy đối với chúng ta thì thay đổi. Trong việc tư vấn, khi liên hệ đến đức tin, chúng ta sẽ tập chú vào ý nghĩa của đức tin đối với đương sự và vào vai trò của đức tin trong đời sống hằng ngày của đương sự. Tuy nhiên, chúng ta không có ý nói rằng các nhà tư vấn mục vụ không bao giờ liên hệ tới chính đức tin. Đôi khi, một vài buổi tư vấn có thể cần được dành để giúp đương sự làm sáng tỏ những điều mà đương sự tin.
NHỮNG MỨC ĐỘ DẤN THÂN KHÁC NHAU
Trong các truyền thống Công Giáo và Tin Lành, đức tin của các Kitô hữu khác nhau rất đáng kể. Một số người hoàn toàn dấn thân cho Đức Giê-su Kitô và cho những giáo huấn của Ngài, trong khi những người khác nói rằng họ là Kitô hữu nhưng Kitô giáo của họ chỉ có tính hình thức thôi và không có mấy liên hệ đến đời sống của họ. Giữa hai thái cực ấy còn có rất nhiều mức độ dấn thân khác nhau. Thật quan trọng bạn phải hiểu giáo huấn của Thiên Chúa và của Đức Giê-su Kitô có nghĩa gì đối với người được bạn tư vấn và phải hiểu mức độ dấn thân của đương sự. Sự nhận hiểu ấy sẽ cho phép bạn xác định xem có thể vận dụng đức tin của đương sự hay không và vận dụng đến chừng mực nào để làm một yếu tố thúc đẩy đương sự. Trước khi bạn có thể vận dụng đức tin của đương sự như một yếu tố thúc đẩy, có thể bạn phải giúp làm sáng tỏ những gì mà đương sự tin, và có những lúc bạn thậm chí phải chỉ dẫn đương sự về một số niềm tin mà Giáo Hội dạy.
Theo nghĩa đầy đủ nhất, “Đức tin Kitô giáo là một cuộc hạnh ngộ với Đức Giê-su Kitô, Đấng gặp gỡ người tin nhờ Thánh Thần của Ngài, trong khi người tin gặp gỡ Đức Giê-su Kitô xuyên qua ơn đức tin – là ơn cho phép đương sự biết và chấp nhận Đức Kitô và sứ điệp mà Ngài truyền dạy. Đức tin huy động một cách bền bỉ toàn thể con người: tri thức, kinh nghiệm, sự tín nhiệm, những cảm nghĩ, cảm xúc và thái độ dấn thân.”[3] Chính trong mối quan hệ đức tin này với Đức Giê-su Kitô mà nhà tư vấn mục vụ sẽ cố gắng nhận hiểu và áp dụng vào tiến trình tư vấn.
CỞI MỞ VỚI THIÊN CHÚA
Đây là sứ điệp căn bản mà Đức Giê-su Kitô dạy: Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần – và trong tư cách là Kitôhữu chúng ta được gọi sống trong quan hệ với Thiên Chúa Ba Ngôi. Quan hệ với Thiên Chúa có nghĩa là lắng nghe Thiên Chúa khi Ngài nói với chúng ta. Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách. Ngài nói với chúng ta qua lời mạc khải của Ngài như được trình bày trong Cựu Ước và Tân Ước. Ngài cũng nói với chúng ta qua Giáo Hội và qua các thừa tác viên của Giáo Hội. Ngài cũng nói qua những người khác nữa và qua những biến cố có vẻ bình thường của cuộc sống hằng ngày. Cuối cùng, Ngài nói với chúng ta qua Thánh Thần. Những người tin có thể lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa khi tiếng nói ấy đến với họ từ các nguồn ấy.
Tuy nhiên, một số người đọc Thánh Kinh hay nghe Thánh Kinh nhưng nhận rất ít hoặc không nhận được ánh sáng nào từ đó. Họ xem Thánh Kinh chỉ như một tác phẩm văn chương. Mặc dù lời Chúa rót vào tai họ, họ vẫn không nghe được gì cả. Nhiều người khác nghe sứ điệp Tin Mừng được rao giảng bởi các thừa tác viên của Giáo Hội, nhưng những điều họ nghe không có một ý nghĩa biệt vị nào đối với họ. Cũng có những người khác không hề ý thức rằng Thiên Chúa đang nói với họ qua vợ, chồng họ, bạn hữu họ hay thậm chí qua kẻ thù địch họ. Sứ điệp của Thiên Chúa trở thành vô hiệu bởi vì người ta không nhận ra rằng đó là sứ điệp đến từ Thiên Chúa. Và, cuối cùng, Chúa Thánh Thần nói trực tiếp với một số người để thúc đẩy họ suy nghĩ và hành động một cách đặc biệt nào đó, nhưng sự linh hứng này bị bỏ hụt vì họ quá chia trí vào những rối loạn nội tâm đến nỗi không thể lắng nghe bất cứ gì khác. Một trong những chức năng của công việc tư vấn mục vụ là giúp chuẩn bị cho người ta lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa khi Ngài nói với họ.
Phương pháp tư vấn này không nhấn mạnh sự can thiệp tác động của nhà tư vấn cho bằng hành động của Thiên Chúa trong việc giúp đỡ người ta xử lý những khó khăn của họ. Nhà tư vấn làm việc như một người tạo điều kiện hơn là như một người tác động. Chức năng chính của nhà tư vấn là dọn đường cho Chúa Thánh Thần. Như Thánh Phao-lô nói: “Tôi trồng, Appolo tưới, nhưng Thiên Chúa mới cho mọc lên” (1Cr 3,6). Nhà tư vấn mục vụ nhìn nhận rằng sự lớn lên và sự chữa trị là hoa trái của Chúa Thánh Thần; công việc của nhà tư vấn chỉ là giúp cho người ta hưởng ứng tiếng nói của Thiên Chúa. Trên căn bản mạc khải, chúng ta tin rằng nếu người ta sẵn sàng đúng mức và cầu xin sự hỗ trợ, thì Thiên Chúa sẽ giúp họ vượt qua bất cứ tình trạng khó khăn nào hoặc Ngài sẽ trao cho họ nghị lực để sống được với khó khăn ấy.
NHỮNG CẢN NGẠI KHÔNG CHO LẮNG NGHE TIẾNG CHÚA
Có một số chướng ngại không cho phép người ta lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa: sự tẩy chay Chúa Thánh Thần, tội lỗi, sự bấn loạn nội tâm. Chướng ngại đầu tiên xảy ra nơi những người đã gặp gỡ Kitô giáo và đã được ban ơn đức tin nhưng hoặc họ từ chối đón nhận hoặc họ đón nhận nhưng rồi sau đó lại đào thải. Đối với những người này, nhà tư vấn phải giúp họ nhận ra rằng họ đã bác bỏ Thánh Thần, rồi phải tìm ra những lý do của sự bác bỏ ấy, và – nếu có thể – giúp họ lắng nghe và vâng theo Chúa Thánh Thần một lần nữa.
Chướng ngại thứ hai, tức tội lỗi, xảy ra nơi những người vẫn giữ niềm tin vào Thiên Chúa song lại ưu tiên chọn theo ý muốn của riêng mình hơn là theo ý Chúa. Họ quay lưng lại với Thiên Chúa, vì thế họ thường xuyên không nghe được tiếng nói của Chúa Thánh Thần khi Ngài nói với họ. Khi tội lỗi trở thành thói quen lặp đi lặp lại thì nó làm suy yếu đức tin và đức tin trở thành ngày càng mất ý nghĩa. Một trong những mục tiêu của tư vấn mục vụ là đem lại sự hòa giải với Thiên Chúa, sự hòa giải này sẽ giúp tội nhân từ bỏ tội lỗi và biết mở lòng ra lắng nghe tiếng Chúa.
Chướng ngại thứ ba, tình trạng bấn loạn nội tâm, xảy ra nơi những người mà các xung đột nội tâm và các nỗi thất vọng quá lớn đến nỗi họ không còn có được sự bình tâm. Sợ hãi, lo âu, giận dữ, dằn vặt ... thu hút phần lớn chú ý của họ. Lòng họ quá ‘ồn ào’ đến nỗi tiếng nói của Thiên Chúa không thể xuyên thấu vào ý thức của họ được. Nếu đương sự không bấn loạn một cách nghiêm trọng lắm, thì trong tư cách một nhà tư vấn bạn có thể giúp đương sự lấy lại bình tâm bằng việc tích cực lắng nghe đương sự; nếu đương sự quá bấn loạn, có thể bạn phải giới thiệu đương sự đến với một bác sĩ tâm thần hay một chuyên viên tâm lý.
CỞI MỞ VỚI CHÍNH MÌNH
Sự cởi mở với Thiên Chúa tùy thuộc vào khả năng cởi mở với chính mình. Chúng ta dùng sự tự thức như một nhịp cầu dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa. Những người bị bao vây kín mít với những bộ áo giáp phòng vệ sẽ không thể nhìn thấy Thiên Chúa đang hoạt động trong thế giới của mình. Việc nhận hiểu mình và việc chấp nhận mình có mối gắn kết chặt chẽ với việc chấp nhận lời của Thiên Chúa. Sự cởi mở đối với chính bản thân mình sẽ chuẩn bị nền móng cho một sự nhận thức về Chúa Thánh Thần “Đấng muốn thổi đâu thì thổi.”
Baute nói rằng “việc tư vấn mục vụ có thể được mô tả như một mối tương quan liên ngã vị đặt cơ sở trên sự chấp nhận, cảm thông và liên lạc giữa vị linh mục (hay giáo sĩ) với một giáo dân nhằm mục đích giúp đỡ cho đương sự thực hiện những chọn lựa và những quyết định, và qua đó theo đuổi ơn gọi Kitôhữu của chính đương sự một cách hạnh phúc hơn, theo những khả năng của mình.”[4] Những chọn lựa và những quyết định này có thể được thực hiện dựa vào những gì Thiên Chúa nói với đương sự.
Việc cởi mở với tiếng nói của Thiên Chúa không làm cho người ta mất tự do nhưng trái lại làm cho họ có được nhiều tự do hơn. Mục đích của tư vấn mục vụ là tạo ra cho người ta sự tự do để họ đưa ra những quyết định dựa trên nền tảng đức tin của họ, nhờ Thánh Thần tác động, chứ không phải dựa trên những xung động, sợ hãi, dằn vặt, phẫn nộ. Thái độ chấp nhận và cảm thông mà nhà tư vấn thể hiện sẽ cho phép người được tư vấn có được sự tự do cần thiết để lắng nghe tiếng Thiên Chúa khi Ngài nói với họ. Công việc của nhà tư vấn là tạo lập một bầu khí tự do, xua tan các nỗi sợ hãi và lo âu hết sức có thể, đó là bầu khí cho phép người được tư vấn nhận ra chính mình đúng như sự thực của mình.
Thánh Phao-lô trong Thư gửi tín hữu Ga-lát đã mô tả những tiêu chuẩn theo đó người ta có thể xác định một người nào đó có đang hành động một cách tự do theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần hay không: “Những hoa quả của Thần Khí là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ.” (Gl 5,22). Các tác giả tu đức đã quan tâm rất nhiều đến sự phân biệt thần loại. Có nhiều dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa đang thực sự tác động một người, chẳng hạn người ấy không ngừng chân thành khát khao bắt chước Đức Kitô, người ấy trung thực và chân thành cởi mở với việc tư vấn, người ấy mềm dẻo chứ không cố chấp, người ấy thanh thản và khiêm tốn.[5] Các đặc tính đó là những dấu hiệu cho thấy người được tư vấn đang cởi mở với sự linh hứng của Thánh Thần.
CÁC GIÁ TRỊ KITÔ GIÁO
Các giá trị Kitô giáo cắm rễ từ đức tin. Một giá trị là “một điều được quí trọng, được tán thưởng hay được cho là đáng giá và đáng khát khao bởi một cá nhân hay bởi một nền văn hóa.”[6] Đức tin vào Đức Giê-su Kitô và vào sứ điệp mà Ngài giảng dạy thúc đẩy chúng ta trân trọng một số lối suy nghĩ, lối hành động và lối sống nào đó như là có giá trị và đáng khát khao. Những lối suy nghĩ, hành động và sống đặc biệt này hình thành nên một hệ thống các giá trị Kitô giáo. Một ví dụ về một giá trị Kitô giáo đó là lòng kính trọng đối với phẩm giá mỗi con người mà chúng ta tiếp xúc, cơ sở của lòng kính trọng này là lệnh truyền của Đức Giê-su Kitô: Hãy yêu thương tha nhân như chính mình! Giá trị Kitô giáo ấy sẽ ấn định lối suy nghĩ, cảm xúc và hành động của chúng ta đối với người khác, các chủng tộc khác, các quốc gia khác, ngay cả đối với những người mà chúng ta có thể không thích hay coi như những người thù địch mình. Chúng ta quí trọng tất cả mọi người vì phẩm giá của họ là tạo vật của Thiên Chúa và vì cả chúng ta lẫn họ đều có Thiên Chúa là Cha chung. Sự kính trọng và yêu thương này đối với người khác được gắn kết chặt chẽ với lệnh truyền: “Hãy yêu mến Thiên Chúa với hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” (Mt 23,37). Hai lệnh truyền ấy thực ra chỉ là một, và đó là nền tảng cho tất cả các giá trị Kitô giáo của chúng ta.
Trong Bài Giảng Trên Núi, Đức Giêsu nêu ra nhiều tình trạng hay trường hợp được quí trọng và đánh giá cao bởi mọi Kitôhữu (Mt 5,3-12):
Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời thuộc về họ.
Phúc cho những ai than khóc, vì họ sẽ được an ủi.
Phúc cho những ai hiền hòa, vì họ sẽ nhận được đất làm cơ nghiệp.
Phúc cho những ai đói khát sự công chính, vì họ sẽ được no thỏa.
Phúc cho những ai thương xót người, vì họ sẽ được xót thương.
Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc cho những ai đem lại hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc cho những ai bị bách hại vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ.
Mỗi tuyên bố trên đây đều chứa một giá trị mà những ai theo lối sống Kitô giáo đều được dạy phải theo.
VAI TRÒ CỦA CÁC GIÁ TRỊ TRONG VIỆC TƯ VẤN
Cũng như trong trường hợp đức tin, các nhà tư vấn Kitô giáo biểu hiện các giá trị của mình – một cách ý thức hay vô thức – khi họ làm công việc tư vấn.[7] Đôi khi nhà tư vấn có thể móc nối trực tiếp với một giá trị, như trong trường hợp của một nhà tư vấn giúp một cô gái mười sáu tuổi đang mang thai và đang tính đến việc phá thai – do đó cô gái này cần phải suy nghĩ về giá trị của sự sống con người, ngay cả sự sống con người trong giai đoạn một bào thai, hay trường hợp một người chồng có quan hệ tình dục với cô thư ký của mình và do đó cần lượng định lại giá trị mà anh đặt vào cuộc hôn nhân của mình, vào vợ và con mình. Có những lúc khác, các giá trị của nhà tư vấn có thể biểu hiện chỉ một cách gián tiếp thôi, như trong trường hợp một linh mục tư vấn đang cố gắng nhận hiểu và giúp một thanh niên đang muốn chuyển từ một đại học Công Giáo sang một trường đại học nhà nước, hay một nữ tu tư vấn cố gắng giúp một cô gái trẻ đang muốn rời bỏ cộng đoàn tu của mình, dù cô ta không nắm rõ tại sao mình muốn rời bỏ. Trong hai trường hợp vừa kể, các giá trị mà nhà tư vấn này gán cho nền giáo dục Công Giáo và nhà tư vấn kia gán cho ơn gọi tu trì sẽ tự nhiên bộc lộ ra, ngay cả dù nhà tư vấn hết sức cố gắng để tỏ ra trung lập nhằm cho phép hai người bạn trẻ kia có thể đưa ra quyết định riêng của họ sau khi đã cân nhắc tất cả các yếu tố liên quan đến quyết định ấy.
ĐỨC TIN VÀ CÁC GIÁ TRỊ LÀM MẪU
Các nhà tâm lý nói đến một tiến trình gọi là ‘làm mẫu’. Hai tiếng “làm mẫu” có ý chỉ “tiến trình quan sát và tiếp thu trong đó cách ứng xử của một cá nhân hay một nhóm – gọi là mẫu thức hay mô hình – có tác dụng như một tác nhân kích thích gây ra các suy nghĩ, thái độ và cung cách ứng xử tương tự nơi một người nhìn ngắm sự thể hiện của mẫu thức đó.”[8] Nói cách khác, đương sự bắt chước cung cách ứng xử của một kiểu mẫu. Trong tư vấn mục vụ, người được tư vấn bắt chước đức tin và các giá trị Kitô giáo của nhà tư vấn. Các nhà tư vấn mục vụ trở thành mẫu thức bởi chính sự kiện rằng họ được quí trọng bởi những người đến xin họ tư vấn.[9] Mọi biểu hiện công khai hay kín đáo của đức tin và các giá trị của nhà tư vấn đều tạo một ấn tượng đối với người được tư vấn – và đương sự rất dễ bắt chước những gì mà nhà tư vấn tin tưởng và thực hành.
Một số nhà tư vấn mục vụ cùng cầu nguyện với người mà mình đang tư vấn trong một buổi làm việc tư vấn. Việc cầu nguyện với người ta có ích lợi về hai phương diện: kêu xin sự giúp đỡ của Chúa cho công việc mình đang làm, và trao cho người được tư vấn một mẫu thức cầu nguyện. Nhà tư vấn - với đức tin và với ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống mình - sẽ dễ dàng khơi động một ý thức tương tự nơi người được tư vấn. Nếu nhà tư vấn biểu hiện một sự tín nhiệm công khai vào sự quan phòng của Thiên Chúa, thì người được tư vấn sẽ dễ dàng được tác động bởi sự tín nhiệm ấy và phát triển nơi chính mình một sự tín nhiệm tương tự. Để trở thành một nhà tư vấn mục vụ đầy hiệu năng, bạn cần phải là một người có đức tin; sẽ là không đủ nếu bạn chỉ được đào tạo kỹ lưỡng về các kỹ năng và các kỹ thuật tâm lý mà thôi.
Các nghiên cứu cho thấy rằng “một người làm mẫu nếu giống với người nhìn ngắm về phái tính, tuổi tác, chủng tộc và quan điểm thì sẽ dễ được người nhìn ngắm bắt chước hơn so với trường hợp hai bên khác nhau về các phương diện ấy. Với những tương đồng giữa hai bên, người nhìn ngắm được bảo đảm rằng các cung cách thái độ mà mình quan sát thấy nơi nhà tư vấn có thể phù hợp và vận dụng được cho chính mình. Những người làm mẫu có uy tín cao trong con mắt người nhìn ngắm sẽ dễ được bắt chước hơn so với những người ít có uy tín. Tuy nhiên, thật quan trọng việc phải tránh những người làm mẫu mà bậc sống của họ có uy tín quá đến nỗi người nhìn ngắm thấy rằng cung cách của họ là một mẫu mực không thực tiễn lắm cho mình. Có lẽ sự chọn lựa một kiểu mẫu tốt nhất là một người chỉ bước trước đương sự một hai bước hay một người đã tiến lên từ một vị trí tương đối giống với vị trí hiện tại của người nhìn ngắm.”[10] Nghiên cứu này cho thấy rằng nhà tư vấn mục vụ nên là một người có đức tin và mức độ dấn thân cao hơn người được tư vấn song đồng thời cũng không quá tiến xa trước người được tư vấn trên con đường nên thánh đến độ quá tầm với của người được tư vấn. Nói chung, những nhà tư vấn nam giới sẽ hữu hiệu hơn cho nam giới, và những nhà tư vấn nữ giới sẽ hữu hiệu hơn cho nữ giới.[11] Lứa tuổi càng gần nhau giữa hai bên thì việc làm mẫu sẽ càng thuận tiện hơn.
CHIA SẺ ĐỨC TIN
Việc chia sẻ đức tin là một khí cụ khác mà nhà tư vấn mục vụ có thể sử dụng. Trong việc chia sẻ đức tin, các nhà tư vấn bộc lộ đức tin và các giá trị Kitô giáo của mình cho người mà mình đang tư vấn. Jourard đã cho thấy rằng các nhà tư vấn chia sẻ về những cảm nghĩ và hoàn cảnh của mình sẽ giúp cho người được tư vấn dễ dàng bộc bạch những cảm nghĩ và hoàn cảnh của họ.[12] Khi bạn sẵn sàng nói lên công khai về những gì mà bạn tin tưởng và quí trọng, bạn sẽ không chỉ nhận ra rằng người được tư vấn khám phá một sự nhận hiểu mới nào đó về đức tin và các giá trị của chính đương sự mà bạn còn nhận ra rằng đương sự sẽ sẵn sàng hơn để nói về những gì họ tin và về cách mà những niềm tin đó ảnh hưởng trên cuộc sống họ. Việc chia sẻ kinh nghiệm đức tin của bạn với người khác sẽ vừa làm cho họ bớt ngần ngại để nói về những gì mình tin vừa giúp người khác đo lường chiều sâu dấn thân của họ. Việc chia sẻ như vậy cũng tạo ra một mối hiệp nhất giữa nhà tư vấn và người được tư vấn. Về phía nhà tư vấn, việc chia sẻ đức tin có thể là một phương cách đầy hiệu năng để đem lại sự thay đổi trong đức tin của người được tư vấn.
TỔNG LƯỢC
Đức tin và các giá trị là những yếu tố phân biệt việc tư vấn mục vụ với những hình thức tư vấn khác. Trong hầu như mọi buổi tư vấn, cả nhà tư vấn lẫn người được tư vấn đều biểu hiện những gì mình tin và những gì mình quí trọng. Thường thì đức tin và các giá trị Kitô giáo sẽ là chủ đề của cuộc đối thoại, nhưng ngay khi cả đức tin lẫn các giá trị đều không được thảo luận công khai thì chúng vẫn thường đi vào trong tiến trình một cách gián tiếp. Trong trường hợp người được tư vấn không thấy mối liên hệ bao nhiêu giữa vấn đề của mình và tôn giáo thì công việc của nhà tư vấn là nối kết cả đức tin và các giá trị Kitô giáo với vấn đề mà đương sự đang trình bày.
Do vai trò của mình trong Giáo Hội, các nhà tư vấn mục vụ hành động hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp như những kiểu mẫu cho những người đến gặp mình, điều này có nghĩa rằng nhà tư vấn phải là một con người có đức tin vững mạnh và có sự dấn thân sâu xa cho các giá trị Kitô giáo. Một cách để củng cố đức tin của người được tư vấn, đó là nhà tư vấn chia sẻ đức tin của mình với người mà mình đang giúp tư vấn. Khi nhà tư vấn cầu nguyện với người được tư vấn, họ đang chia sẻ đức tin của mình vào Thiên Chúa với người được tư vấn và trao cho đương sự một mẫu thức về cách cầu nguyện. Đức tin có thể là một yếu tố tác động mãnh liệt thúc đẩy người ta thực hiện những bước cần thiết để giải quyết một vấn đề.
Các giá trị là những điều chúng ta nâng niu quí trọng trong cuộc sống mình. Các giá trị Kitô giáo được dẫn xuất từ lời giáo huấn của Đức Giê-su Kitô và chúng thúc đẩy chúng ta suy nghĩ, hành động và liên hệ với người khác trong một cách thế đặc thù. Các nhà tư vấn mục vụ Kitô giáo cần phải hoàn toàn dấn thân cho các giá trị được Đức Giê-su Kitô giảng dạy – những giá trị mà họ truyền đạt một cách trực tiếp hoặc gián tiếp cho người mà mình tư vấn.
[1] Eugene Joly, What is Faith? New York: Paulist Press, 1963, tr. 111.
[2] John L. Tracy, “Faith and Growth: A Psychology of Faith,” trong Faith in the Face of Doubt của John P. Keating. New York: Paulist Press, 1968, tr. 3-5.
[3] Richard P. Vaughan, “Growth in Christian Faith,” Human Development, 5, 3, 1984, tr. 40.
[4] B. Pascal, “The Work of the Pastoral Counselor,” Insight, 11, 2, 1963, tr. 5.
[5] Antonio Royo và Jordan Aumann, The Theology of Christian Perfection. Dubuque: Priory Press, 1962, tr. 626-630.
[6] Leland E. Hensie và Robert J. Campbell, Psychiatric Dictionary, New York: Oxford Press, 1976, tr. 802.
[7] Ernest G. Brier và David G. Young, The Silent Language of Psychotherapy (ấn bản lần thứ hai). New York: Adline, 1984, tr. 9.
[8] Martha Perry và M.J. Furukawa, “Modeling Methods,” trong F.H. Kanfer và A.P. Goldstein, Helping People Change (ấn bản lần thứ hai). New York: Pergamon, 1980, tr. 131.
[9] Ibid., tr. 136.
[10] Ibid
[11] Ibid
[12] S.M. Jourard, The Transparent Self (bản hiệu đính). New York: Van Nostrand Reinhold, 1971.
§4. CÁC CẢM NGHĨ VÀ CÁC CẢM XÚC
Các cảm nghĩ và các cảm xúc đóng một vai trò quan trọng nhưng thường không được chú ý trong đời sống hằng ngày của người ta nói chung. Chẳng hạn, một công nhân – là cha của sáu đứa con - phạm một sai lầm trong phán đoán và làm thiệt hại cho nhà máy vài ngàn đô la. Anh ta bị khiển trách và được cảnh báo rằng một sai lầm như thế sẽ có nghĩa là bị sa thải. Kết quả là anh ta bắt đầu cảm thấy dằn vặt và sợ hãi, suy giảm tự tin trong công việc ở nhà máy và cáu kỉnh, căng thẳng, uể oải ở nhà. Các bạn anh nhận ra rằng anh trở nên trầm mặc và khép kín hơn. Phát hiện ra một thay đổi nơi chính mình, nhất là trong mối quan hệ với vợ mình, anh đã tìm gặp một nhà tư vấn tại giáo xứ của anh. Anh rất mập mờ bất quyết về lý do vì sao anh đến, anh nói về tình trạng hục hặc với vợ xung quanh chuyện giáo dục đứa con trai mười lăm tuổi của họ. Tuy nhiên, nguồn gốc của sự rối rắm lại nằm ở sự kiện anh không có khả năng nhận ra cuộc sống của mình đang bị những cảm nghĩ dằn vặt và sợ hãi làm cho gãy đổ như thế nào để có thể giải quyết những cảm nghĩ đó.
Phần đông trong chúng ta nhận ra rằng mình đang có những cảm nghĩ và cảm xúc, nhưng khi được yêu cầu định nghĩa những cảm nghĩ và những cảm xúc ấy, thì chúng ta bị tắc tị! Tất cả chúng ta đều cảm thấy vui mừng hay buồn sầu; tất cả chúng ta đều chia sẻ niềm vui và tình yêu với người khác; tất cả chúng ta đều biết giận dữ và sợ hãi. Đó là những cảm nghiệm chung bên trong tạo sắc thái cho những tương giao của chúng ta với con người và sự vật. Allport đã định nghĩa các cảm xúc là “những tình trạng báo động của cơ chế ứng xử.”[1] Chúng làm việc như những tín hiệu nhắc nhở, giúp chúng ta có được điều chúng ta cần để sống còn và để lớn lên trong tư cách là những con người. Có những lúc chúng là những dấu hiệu báo nguy, nói cho ta biết rằng một điều chi đó đang trục trặc và rằng chúng ta cần phải thay đổi phương hướng hành động. Chúng tạo nên một bộ phận chức năng tâm thần mà các nhà tâm lý gọi là cảm tính (affective). Cảm tính thì đối lập với suy tư và ý chí. Do bởi thần học nhấn mạnh đến tri thức và trách nhiệm nên các nhà tư vấn mục vụ thường dễ có khuynh hướng không chú ý đủ tới khía cạnh cảm tính của tâm trí con người.
CÁC CẢM NGHĨ
Các phản ứng theo cảm tính thường được phân thành hai loại: các cảm nghĩ và các cảm xúc. Có thể định nghĩa các cảm nghĩ là những phản ứng tích cực hay tiêu cực đối với một kinh nghiệm.[2] Chúng thường xuất phát từ một cái gì đó mà chúng ta yêu thích hay ghê tởm, và chúng không thâm sâu bằng các cảm xúc như sợ hãi, giận dữ, ghen tị. Khi người ta có một phản ứng cảm tính tích cực, họ sẽ kinh nghiệm được niềm khoan khoái. Chẳng hạn, tại bữa điểm tâm, một người có thể cảm thấy tách cà phê thú vị, nhưng trong khi chờ vợ mình pha cà phê thì anh ta lại cảm nghiệm một phản ứng tiêu cực và khó chịu.
CÁC CẢM XÚC
Các cảm xúc thì thâm sâu hơn, tràn ngập hơn và mãnh liệt hơn các cảm nghĩ.[3] Tuy nhiên, không hề có sự phân ranh rõ ràng giữa hai bên. Một yếu tố phân biệt giữa chúng, đó là một cảm xúc thường gắn liền với một đối tượng hay một loại đối tượng rõ ràng. Một số người sợ chó hoặc sợ việc đi thang máy. Một số người khác thường giận vợ/chồng mình hay ông chủ việc của mình. Những đối tượng ấy gây ra các phản ứng tâm cảm, ngay cả dù chính đương sự không ý thức được mối liên hệ.
Để thấu cảm, cần phải hiểu được các phản ứng tâm cảm của người ta; sự nhận hiểu này đòi ta phải nắm vững về cách mà các cảm nghĩ và các cảm xúc làm việc. Một trong những đặc điểm rất rõ ràng là tính tự phát.[4] Gặp một tình huống kinh hoàng, chúng ta tự động cảm nghiệm nỗi sợ. Một người lính bị kẹt giữa hai làn đạn sẽ cảm thấy sợ, dù anh ta có thể cố trấn áp hay cố xua đuổi nỗi sợ ấy. Anh ta cảm nghiệm được rằng mình đang ở trong tình huống nguy hiểm cực độ và ngay lập tức anh ta trải qua cảm xúc sợ hãi. Anh ta có thể kiểm soát được các hành động của mình, nhưng anh ta không thể xua tan cảm xúc ấy. Một quan niệm sai lầm phổ biến cho rằng nếu chúng ta có bản lĩnh thì chúng ta sẽ hoàn toàn kiểm soát được các cảm nghĩ và cảm xúc của mình, chúng ta có thể tùy ý khơi chúng lên hoặc dập tắt chúng đi! Thật ra, nỗi sợ, cơn giận, lòng ghen tị, nỗi dằn vặt ... đều là những phản ứng tự phát và không thể bị kiểm soát bởi sức mạnh của ý chí, một khi mà chúng ta đã ý thức đối tượng khơi chúng lên. Vì vậy, chúng ta không phải chịu trách nhiệm về các cảm xúc như thế. Một người chồng - bị dằn vặt vì anh đã lừa dối người vợ mà anh ta yêu dấu - không hề chọn sự dằn vặt ấy cũng không thể dùng ý chí để giải phóng mình khỏi nỗi dằn vặt ấy. Anh ta có thể kiểm soát được hành vi tội lỗi chứ không thể kiểm soát được các phản ứng tâm cảm.
VAI TRÒ CỦA NỖI SỢ VÀ NỖI DẰN VẶT
Những cảm xúc như sợ hãi, giận dữ, dằn vặt có thể hoặc có ích hoặc gây hại. Vì cảm nghiệm dằn vặt là một cảm nghiệm đau đớn, nên ước muốn tránh nó thường thúc đẩy người ta tuân theo qui tắc luân lý của mình; nếu cám dỗ quá mạnh và làm cho họ vi phạm qui tắc luân lý ấy, nỗi dằn vặt nơi họ sẽ nhắc họ biết hối hận, sửa chữa, điều chỉnh. Khi các mặc cảm tội lỗi không dịu đi, chúng tiếp tục chồng chất lên và có thể dẫn tới việc “phá rào”, như trong trường hợp những người nghiện rượu cứ tiếp tục ‘nốc’ một cách bất khả kháng để chạy trốn sự dằn vặt nơi mình.
Nỗi dằn vặt giống với nỗi sợ hãi về nhiều phương diện. Chúng ta thậm chí có thể gọi dằn vặt là nỗi sợ hãi về mặt luân lý. Và sợ hãi thường là một kinh nghiệm vô cùng hữu ích, vì nó cảnh báo chúng ta tránh xa nguy hiểm. Nếu chúng ta hoàn toàn không biết sợ, chúng ta sẽ gặp nhiều rắc rối. Hầu như mọi cảm xúc, trong một số trường hợp, đều có ích cho chúng ta, nếu chúng nhắc nhở ta tự bảo vệ hay phát triển mình về thể lý hoặc tâm lý.
SỰ ĐÁNH GIÁ
Trong một phản ứng theo cảm xúc luôn có bao hàm một sự đánh giá. Những người sợ rắn sẽ cho rằng rắn có thể gây nguy hiểm. Khi họ trông thấy một con rắn xuất hiện gần mình, họ lập tức nghĩ rằng đó là một con vật mà mình phải tránh xa.
Rất nhiều cảm xúc của chúng ta được hình thành bởi kinh nghiệm cá nhân hay bởi tiếp xúc với người khác. Một người bị rắn cắn sẽ bắt đầu biết sợ rắn do rút kinh nghiệm từ điều không may đó của mình. Một đứa trẻ cảm thấy áy náy vì đã ăn cắp một món đồ chơi của bạn bởi vì em đã được dạy cho biết rằng ăn cắp là điều không tốt. Vì vốn liếng kinh nghiệm của người ta không ai giống ai, nên các phản ứng theo cảm xúc của mỗi người chúng ta đều có tính độc đáo.[5] Các nhà tư vấn nên nắm vững hết sức bản chất các kinh nghiệm cảm xúc của người được tư vấn. Những phản ứng theo cảm xúc đóng một vai trò quan trọng trong hệ qui chiếu của người được tư vấn. Vì thế, cậu bé này có thể cảm thấy lòng mình tràn ngập dằn vặt và xấu hổ khi cậu ăn cắp, trong khi đó cậu bé khác có thể thực hiện hành vi ăn cắp một cách khá thoải mái ung dung. Để giúp đỡ mỗi cậu bé như thế, các nhà tư vấn cần phải chú ý đến phản ứng tâm cảm của mỗi trường hợp đặc thù.
Có một mối liên quan giữa tâm cảm và trí thông minh. Những người thông minh hơn thường có một đời sống tâm cảm phức tạp hơn, và vì thế việc hiểu họ sẽ khó hơn. “Sự kiện này cho thấy rằng sự rối loạn tâm cảm giống như một hỏng hóc tạm thời trong một cỗ máy hay một thiết bị điện; thiết bị càng tinh vi phức tạp thì sẽ càng có nhiều chi tiết liên can đến sự hỏng hóc, sự hỏng hóc sẽ rắc rối hơn và người ta sẽ phải tốn nhiều thời gian hơn để điều chỉnh nó trở lại tình trạng bình thường.”[6]
Các cảm xúc cũng phát triển theo một trình tự giống như bất cứ thành tố nào khác của cơ thể con người.[7] Khi những đứa trẻ lớn lên, thân thể của chúng lớn lên và mặc lấy một dáng dấp trưởng thành hơn; cũng vậy, các cảm xúc của chúng cũng được biểu lộ trong những hình thái trưởng thành hơn. Nơi một em bé, các phản ứng tâm cảm rất chóng qua; nhưng các phản ứng tâm cảm của một người lớn thì kéo dài hơn nhiều. Một em bé bộc lộ cảm xúc rất ầm ĩ, dữ dội, nhưng thật ra rất nông cạn. Một điều thất vọng nhỏ nhặt có thể kích động nơi em bé một cơn giận dữ rất hung hăng, nhưng chỉ năm phút sau, nó chẳng còn nhớ gì về chuyện đó nữa. Còn với một người lớn, thường phải có một nguyên nhân có tầm quan trọng đáng kể nào đó mới khơi lên nơi họ một cảm xúc, và cảm xúc ấy thường tồn tại lâu hơn nhiều.
Đối với các thanh niên hay người lớn, sự ấu trĩ trong cảm xúc là một thất bại – vì họ đã không vượt qua được một số hình thái cảm xúc của trẻ con. Họ vẫn có những phản ứng giận dữ hay sợ hãi y như kiểu giận dữ hay sợ hãi của một đứa trẻ bốn hay năm tuổi. Chẳng hạn, một thanh niên có thể nổi tam bành lên, hung hăng như một đứa trẻ chỉ vì bị ai đó cãi lại ý mình. Còn trong các trường hợp thích thú thì anh ta có những lúc như ‘bốc lên mây’, nhưng cảm xúc của anh ta không sâu cũng chẳng bền.
XỬ LÝ CÁC CẢM XÚC
Một kinh nghiệm tâm cảm có thể được xử lý theo nhiều cách khác nhau. Nó có thể được bộc lộ công khai, được điều tiết, được trấn áp hay ức chế. Một số người có thói quen bộc lộ sạch sành sanh các cảm xúc của mình. Họ phơi cái bụng ra ngoài! Họ chẳng che chắn lấp liếm gì. Nhiều người khác, trái lại, dường như không bộc lộ một cảm xúc nào ra ngoài. Họ có thể đang có cùng những cảm xúc của những người thuộc nhóm trước, nhưng họ không cho thấy cảm xúc của họ. Cả hai loại phản ứng này đều có những hạn chế của chúng. Những người thường xuyên bộc lộ các cảm xúc của mình có thể thường nhận ra rằng mình lố bịch đối với người khác. Không kìm chế được và dễ dàng bật khóc ngon lành, đó là kiểu cách không thể chấp nhận được trong đa số các nền văn hóa. Sừng sộ lên, vung tay múa chân, đó cũng là một kiểu cách chỉ gây ra sự chê cười hoặc sự sừng sộ đáp lại nơi người khác.
Khi chúng ta không thể biểu lộ các cảm xúc của chúng ta hoặc chúng ta nghĩ rằng việc biểu lộ như thế là không khôn ngoan, chúng ta có thể hoặc điều tiết chúng hoặc giấu kín chúng. Việc điều tiết các cảm xúc có bao gồm việc nhận ra cảm xúc của mình và chọn một số cách gián tiếp để biểu lộ nó. Chẳng hạn, một phụ nữ giận chồng mình, nhưng thay vì tấn công anh ta bằng lời nói hay bằng hành động, chị ... đi ra công viên chạy thể dục!
Tuy nhiên, có những trường hợp chúng ta không thể bộc lộ cũng không thể điều tiết các cảm xúc của chúng ta – và do đó phải hoặc trấn áp hoặc ức chế chúng. Việc trấn áp bao gồm một cố gắng có tính chủ động gạt cảm xúc ấy qua một bên; còn ức chế là chặn đứng không cho cảm xúc ấy vọt lên khu vực ý thức, song một cách không chủ động. Khi trấn áp cảm xúc, người ta quyết định rằng mình ngừng lại không nghĩ đến những ý tưởng giận dữ nữa. Mỗi khi những ý tưởng hằn học quay trở lại với tâm trí mình, người ta chủ động xua đuổi chúng. Còn khi ức chế, người ta thậm chí không biết rằng mình đang giận dữ hay ít nhất họ không biết rằng họ đang giận đến mức nào. Họ có thể cảm thấy bực bội một cách mơ hồ, nhưng họ không nhận ra tại sao mình đang cảm thấy bực dọc như thế. Trong số tất cả những phương pháp xử lý các cảm nghĩ và cảm xúc thì ức chế có thể là phương pháp tai hại nhất. Những cảm nghĩ bị ức chế sẽ gây nguy hiểm cho sự quân bình của cả thể lý lẫn tâm lý. Đôi khi sự giận dữ có thể bất thần trào ra trong một sự bạo động vô căn cứ nhắm vào một ai đó rất ngẫu nhiên, và chính bản thân người giận dữ cũng không giải thích được các hành vi của mình.
Một điều kiện tối quan trọng để kiểm soát cảm xúc của mình là bạn phải ý thức về nó và đón nhận nó. Một khi bạn ý thức rằng mình đang ‘nổi khùng’ với một ai đó hay một sự việc gì đó, thì lúc ấy bạn mới có thể bắt đầu kiểm soát được các hành động của bạn. Nếu bạn mơ hồ về các cảm nghĩ chán nản hay phẫn nộ của bạn, bạn không thể làm chủ chính bạn hay tình hình được. Đôi khi bằng cách bộc bạch tất cả cảm nghĩ của mình với một người khác, chẳng hạn với một nhà tư vấn, bạn có thể nhận ra mình cảm xúc đến mức nào và có thể xử lý được nguyên nhân của những cảm xúc ấy.
CÁC CẢM NGHĨ VÀ ĐỘNG LỰC HÀNH ĐỘNG
Một tác dụng chính của các cảm nghĩ và cảm xúc đó là chúng đóng vai trò động lực hành động. Chúng ta thường làm một điều gì đó vì chúng ta thấy điều đó dễ chịu, và chúng ta thường từ chối không làm một điều gì đó vì nó khó chịu đối với chúng ta. Các cảm nghĩ của chúng ta cung ứng động lực thúc đẩy các hành động của chúng ta. Nếu không có các cảm nghĩ và cảm xúc, rất có thể chúng ta trở thành uể oải lờ đờ như xác không hồn. Chúng ta có thể chẳng còn mấy động lực để chế ngự những khó khăn hay để tránh những điều tai hại.
Các cảm nghĩ thường là nguyên nhân chính thúc đẩy người ta kiếm tìm sự tư vấn hay sự trị liệu tâm lý. Người ta cảm thấy lo âu về tình trạng xuống cấp của cuộc sống hôn nhân mình hoặc người ta bị suy sụp vì thấy đời sống mình chẳng có mấy ý nghĩa. Dường như không hẳn chỉ có những xác tín của lý trí thúc đẩy họ kiếm tìm sự giúp đỡ của một nhà tư vấn; chính những cảm xúc khổ sở nơi họ là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy họ làm thế. Thật vậy, những cảm xúc khổ sở thường thúc đẩy một người loạn thần kinh nghiêm trọng tìm kiếm sự tư vấn hay sự trị liệu tâm lý và thúc đẩy người ấy tiếp tục kiên trì trải qua nhiều giờ trị liệu vất vả cho đến hoàn tất. Tất cả chúng ta đều cảm thấy khó sống với những cảm xúc có tính hành hạ mình như nỗi sợ, cơn giận, lòng ghen tị, nỗi lo âu, ... và tất cả chúng ta đều muốn tìm cách để thoát ra khỏi chúng. Các nhà tư vấn và các nhà trị liệu tâm lý vận dụng đặc điểm này của con người khi làm việc với các thân chủ mình.
GIẢI TỎA TÂM CẢM
Một chức năng của tư vấn là đem lại sự giải tỏa. Thuật ngữ giải tỏa ở đây có ý chỉ một sự xả ra hay làm suy giảm tình trạng căng thẳng tâm cảm gây ra bởi xung động hay ức chế. Trong bầu khí thoải mái của buổi gặp gỡ tư vấn, người ta có thể dễ dàng bộc bạch tâm trạng của mình. Nói về cơn giận hay nỗi sợ của mình, việc đó sẽ làm vơi nhẹ tâm trạng khốn khổ của người ta và giúp họ được thư giãn hơn. Tiến trình nói ra ấy có tác dụng đem lại sự giải tỏa. Thường chúng ta không chỉ cần phải bộc lộ các cảm nghĩ và cảm xúc của mình mà còn cần phải xác định nguồn gốc cũng như các bối cảnh của chúng nữa.[8] Một khi những người được tư vấn nhận ra được rằng có những cách ứng xử khác tốt hơn cho tình hình, thì họ thường có thể thanh toán được cơn giận của họ. Việc giải tỏa như vậy thường đem lại cho người ta nhiều khả năng hơn để kiểm soát và để đưa ra những quyết định sáng suốt.
LO ÂU
Trong tư vấn mục vụ, có bốn loại cảm xúc thường gặp thấy nhất là: Lo âu, hằn học, dằn vặt và xót xa. Lo âu là điều mà chẳng có ai tránh khỏi. Nó là một cảm nghĩ đúng hơn là một cảm xúc. Nó có thể ở những mức độ khác nhau: từ rất nhẹ đến rất nặng. Lo âu là một tình trạng hoang mang, ưu tư và bất an, rất gần với nỗi sợ.[9] Nó khác với nỗi sợ vì khi lo âu, tâm trạng của người ta mơ hồ chứ không có đối tượng rõ ràng. Khi bạn lo âu, bạn đang ưu tư về một mối nguy hiểm không xác định trong tương lai. Bạn sợ rằng một điều chi đó tệ hại xảy ra nhưng bạn không biết chắc đó là điều gì. Tình trạng khó chịu này thường thúc đẩy một số người tìm cách trốn thoát hay tìm kiếm sự giúp đỡ của một nhà tư vấn.
Lo âu thường kèm theo bối rối. Người lo âu tự hỏi: “Điều gì sắp xảy ra cho mình đây?”, và đương sự bối rối: “Mình sẽ làm gì khi ... ?” Các nhà tư vấn thường xuyên gặp những người bối rối về đủ mọi chuyện - một số chuyện xem ra có lý, một số chuyện khác thì hoàn toàn vu vơ. Một phụ nữ có thể hoang mang về tình trạng sức khỏe của chồng mình (là một người đàn ông 45 tuổi cũng khỏe mạnh bình thường như bao người đàn ông khác), về công việc làm của mình (dù trong 5 năm trở lại đây, năm nào chị cũng được tăng lương), về cái chết của một người bạn (dù người bạn ấy chẳng phải là thân thiết lắm), về một lần trễ hẹn, và về một mớ những ưu tư khác mà chị giãi bày ra trong chỉ có nửa tiếng đồng hồ. Một con người như thế hầu chắc đang ở trong tâm trạng lo âu cao độ, và dường như chuyện gì cũng có thể khiến chị lo âu. Để hiểu tâm trạng của một con người như thế, rất cần phải ghi nhớ rằng chị là một con người hết sức hoang mang nhưng thực sự không biết điều gì khiến mình hoang mang.
Lo âu, giống như bất cứ trạng thái cảm xúc nào khác, có thể có ích hoặc gây hại. Các diễn giả giàu kinh nghiệm thường xác nhận rằng họ ăn nói hùng hồn nhất vào những khi mà họ cảm thấy lo âu một mức nào đó. Một mức độ lo âu vừa phải sẽ làm cho các khả năng của người ta sắc bén hơn và giúp người ta làm việc tốt hơn. Ngay chính đời sống hằng ngày cũng có thể đem lại cho người ta một lượng lo âu nào đó. Tất cả chúng ta đều ít nhiều mơ hồ băn khoăn lo rằng mình sẽ bị thất bại hoặc bị vướng vào một tai nạn nào đó. Chỉ khi nỗi lo âu vượt quá mức độ bình thường thì nó mới trở thành một ‘sự cố’.
“Nỗi lo âu bình thường thì tương ứng với mối nguy hiểm khách quan, và nó sẽ vơi đi khi mối đe dọa được giải tỏa; còn nỗi lo âu thần kinh loạn thì dai dẳng và không tương ứng với mối nguy hiểm khách quan nào.”[10] Nỗi lo âu thần kinh loạn có thể trở thành thái quá đến độ làm hỏng cơ cấu ứng xử bình thường. Những người mắc chứng lo âu này có thể nhận thấy rằng sự suy nghĩ, lập luận và khả năng chú ý của mình đều gãy đổ. Họ trở thành thường xuyên bất an và bực dọc, và thậm chí có thể tới mức cảm thấy rằng mình đang “rời rã” ra! Rõ ràng những người như thế sẽ cần nhiều sự giúp đỡ hơn khả năng mà một nhà tư vấn mục vụ có thể cung ứng.
HẰN HỌC VÀ GIẬN DỮ
Hằn học cũng là một trạng thái cảm xúc mà các nhà tư vấn mục vụ thường gặp thấy nơi thân chủ của mình. Nó cũng mơ hồ giống như lo âu, và xem ra đây cũng là một cảm nghĩ đúng hơn là một cảm xúc. Thật không dễ nhận hiểu được sự hằn học, vì đa số các biểu hiện của nó đều bị che đậy. Hằn học là một sự biểu lộ mơ hồ của cơn giận dưới hình thức mỉa mai, khinh thị, chì chiết hay cằn nhằn. Thường thì không chỉ nhà tư vấn mà ngay cả bản thân người được tư vấn cũng không nhận ra mức độ hằn học của mình và ảnh hưởng của nó trên khả năng giải quyết vấn đề của mình.
Hằn học thường được gây ra bởi sự chán chường và nỗi bất mãn với cuộc sống.[11] Những người không đạt được những gì trong cuộc sống mà họ nghĩ đáng lẽ mình phải đạt được sẽ có thể nổi giận mà không ý thức hoàn toàn về động lực của cơn giận nơi mình. Thay vào đó, họ cảm thấy mình bất mãn, chán nản và trầm uất. Thường thì nguồn gốc của tâm trạng này là do người ta bất mãn với chính mình, dù sự hằn học cũng có thể do nguyên nhân bị thất vọng bởi người khác hoặc bởi các hoàn cảnh bên ngoài.
Giống như các cảm nghĩ và cảm xúc khác, sự hằn học và sự giận dữ có một hướng đích có tính xây dựng. Chúng trao cho chúng ta động lực và sức chịu đựng để hoàn thành một công việc khó. Chỉ khi những cảm nghĩ này vượt quá mức kiểm soát thì chúng mới trở thành bất tương ứng và trở thành gây bế tắc cho cơ cấu ứng xử bình thường của chúng ta.
Cả sự giận dữ lẫn sự hằn học đều có thể gây ra ... giận dữ và hằn học nơi con người mà chúng nhắm đến. Nếu các nhà tư vấn không nhận thức đúng về sự hằn học mà người được tư vấn đang chĩa vào mình, thì họ sẽ cảm thấy ... hằn học đối với người ấy. Nhưng nếu nhà tư vấn hiểu được các dấu hiệu hằn học nơi người được tư vấn, nhà tư vấn sẽ nhận ra rằng sự hằn học này có lẽ không hướng về mình một cách biệt vị mà thật ra đó chỉ là một thái độ hằn học khơi khơi - và đương sự nhắm đến mình chỉ như một mục tiêu nhất thời tại chỗ. Nếu nhà tư vấn cho rằng người kia đang hằn học riêng đối với mình, thì nhà tư vấn dễ phản ứng lại bằng sự phẫn nộ và như vậy sẽ tai hại cho công việc đang diễn tiến giữa hai bên.
DẰN VẶT
Vì tôn giáo gắn bó chặt chẽ với luân lý, nên các nhà tư vấn mục vụ thường xuyên gặp loại tâm cảm dằn vặt nơi người ta. “Dằn vặt có thể được mô tả là một cảm xúc ray rứt khổ sở, một cảm thức về sự bất xứng có liên hệ đến việc nhận ra tính không nhất quán giữa hành vi của mình và các qui tắc luân lý đạo đức mà mình đã xây dựng cho chính mình. Như vậy, dằn vặt là những cảm nghĩ thuộc nội tâm và có tính riêng tư, vì dằn vặt là kết quả của việc người ta tự đánh giá mình theo những tiêu chuẩn đã được người ta nội tâm hóa.”[12]
Nỗi dằn vặt thường thúc đẩy người ta thay đổi cung cách ứng xử và tuân theo các chuẩn mực luân lý. Các cảm nghĩ dằn vặt thông thường có thể được xoa dịu nhờ việc tự thú, nhờ một cố gắng sửa chữa bất cứ tổn hại nào gây ra bởi hành vi ứng xử sai lầm của mình, một thái độ sẵn sàng chấp nhận sự thứ tha, và một quyết tâm hướng về tương lai hơn là hướng về quá khứ. Một trong những chức năng của nhà tư vấn mục vụ là đón nhận bất cứ gì mà những người tư vấn thú nhận và giúp đương sự rút ra ích lợi từ những lỗi lầm của quá khứ.
Một số người không bao giờ chịu tin rằng mình hoàn toàn không đáng trách. Hầu như lúc nào họ cũng cảm thấy ít nhiều dằn vặt, đôi khi về những lầm lỗi nhỏ nhặt chiếu theo các qui tắc luân lý đạo đức của mình, đôi khi họ dằn vặt chẳng vì lý do gì rõ ràng cả. Họ bị trăn trở bởi một mặc cảm tội lỗi có tính tâm bệnh. Có những người quá ‘nhạy cảm’ đến nỗi nhìn đâu cũng thấy tội lỗi và phóng đại những lầm lỗi của mình quá mức. Nỗi dằn vặt khôn nguôi ấy làm cho họ hầu như lúc nào cũng cảm thấy khốn khổ. Họ quá nhạy cảm đối với các trách nhiệm và bổn phận cá nhân. Thường họ là những người cầu toàn, những người thiết định các qui tắc ứng xử hoàn toàn vượt quá tầm với của mình. Những con người dằn vặt dai dẳng như vậy thường cần phải nhận được sự giúp đỡ của một bác sĩ tâm thần hay một chuyên gia tâm lý.
XÓT XA
Một cảm xúc cuối cùng thường gặp trong các cuộc tư vấn mục vụ là nỗi xót xa. Khi gặp đau buồn, nhiều người tìm đến với một vị tư vấn mục vụ. Họ tìm thấy niềm an ủi khi giãi bày nỗi buồn u uất của mình ra. Xót xa là một trạng thái tâm cảm bình thường khi người ta mất một người hay một vật mà mình đánh giá cao.[13] Tâm trạng xót xa thường được gắn kết với những tâm cảm khác như hằn học, dằn vặt và chán chường. Một người vợ vừa mới mất chồng sẽ thường bị ray rứt với ý nghĩ rằng mình đã chưa tận tình chăm sóc đủ cho anh ấy trong cơn bệnh của anh. Bên cạnh tâm trạng dằn vặt, chị cũng cảm thấy giận dữ đối với chính mình. Phần đông người ta có thể vượt qua nỗi xót xa của mình bằng cách khóc lên hay giãi bày với người khác, hoặc có khi chỉ bằng cách chờ thời gian làm cho nguôi ngoai.
Việc tìm kiếm một người lắng nghe với sự quan tâm sẽ rất hữu ích cho tiến trình giải tỏa một nỗi xót xa. Công việc chính yếu của nhà tư vấn trong trường hợp này là tạo ra một bầu khí đón nhận và cảm thông. Khi người ta cảm thấy rằng họ đang nói chuyện với một người nào đó biết quan tâm đến vấn đề của mình, thì họ sẽ trút cạn những cảm nghĩ của họ và nhờ đó sẽ làm chủ được những cảm nghĩ ấy một cách dễ dàng hơn. Thường thì họ chỉ cần có vậy thôi. Với thời gian, sự mất mát được đón nhận và người ta trở về lại tình trạng quân bình của mình.
Đôi khi các nhà tư vấn được yêu cầu nói chuyện với những người không có khả năng vượt qua nỗi xót xa của họ. Chẳng hạn, một phụ nữ mất chồng cách đây một năm song vẫn còn bỏ ra mỗi tuần vài giờ bịn rịn bên mộ của anh, chẳng mấy khi tìm tới gặp gỡ bạn bè và không màng gì đến chuyện cố gắng xây dựng cuộc sống cho chính mình trong hoàn cảnh mới. Chị thường hay sụt sùi và rất dễ bật khóc ngon lành mỗi khi có ai nhắc đến người chồng quá cố của mình. Nếu những sách lược thông thường của việc tư vấn mục vụ không tỏ ra có tác dụng đối với những người như thế, nhà tư vấn có thể nắm chắc rằng nỗi xót xa của đương sự phát xuất từ những nguyên nhân tâm bệnh sâu xa hơn, và do đó đương sự cần nhận được sự săn sóc có tính chuyên môn nhiều hơn.
NHỮNG CẢN TRỞ CHO VIỆC NHẬN HIỂU
Việc xác định tâm cảm của một người khác không phải là một công việc dễ dàng chút nào. Người ta thường che giấu các cảm xúc của mình, nhất là những cảm xúc có liên quan đến thể diện của họ trong xã hội. Đa cảm xúc là một dấu hiệu của yếu nhược. Chúng ta kiềm chế các cảm xúc của chúng ta – và nếu ai đó hỏi đúng vào chỗ ‘tim đen’ ấy của mình, chúng ta sẽ phủ nhận và lãng tránh bằng cách lái sang chuyện khác.
Một trở ngại khác nữa cho việc hiểu các cảm nghĩ và cảm xúc của người khác, đó là người ta thường không nhận ra chính bản thân họ thực sự đang cảm thấy gì. Ngay từ thuở ấu thời, chúng ta đã học cách ức chế mọi cảm nghĩ mà mình không thích. Nơi người trưởng thành, cơ chế ấy làm việc một cách tự động để trục xuất ra khỏi ý thức nhiều loại tâm cảm. Một người đàn ông bị hụt một dịp tiến thân thường sẽ phủ nhận tâm trạng giận dữ của mình, và thay vào đó anh ta sẽ nói rằng mình chỉ hơi tiếc. Ngay từ thuở nhỏ anh ta đã rút kinh nghiệm được rằng chẳng ích lợi gì việc bộc lộ cơn giận nơi mình cách công khai. Sau nhiều năm ức chế, anh ta không còn có thể nhận ra rằng mình cảm thấy chán nản và giận dữ trước một điều bất công. Để chuyển tải sự nhận hiểu của mình cho người được tư vấn, nhà tư vấn phải cách nào đó vượt qua những cản trở nói trên, cho thấy rằng bất chấp những trở ngại ấy mình vẫn nắm hiểu được các cảm nghĩ thực sự của đương sự.
NHỮNG CHÌA KHÓA ĐỂ NHẬN HIỂU
Việc nhận hiểu các cảm nghĩ và cảm xúc của người khác đòi chúng ta phải có sự nhạy bén và có kinh nghiệm.[14] Các nhà tư vấn nên nắm vững một số dấu hiệu hay chìa khóa để phát hiện tâm cảm của một con người. Một trong những chìa khóa hữu ích có thể là chính những lời nói của đương sự. Nếu đương sự thẳng thắn, đương sự sẽ nói rõ cho bạn biết đương sự thích gì và ghét gì. Tuy nhiên, nhiều người quá ái ngại không thể nói rõ ra các cảm nghĩ của mình. Họ chỉ nói với bạn những gì mà họ nghĩ rằng bạn muốn nghe – như kiểu thiên hạ tán phét ở các quán cà phê vậy! Người ta cũng có thể cho thấy các cảm xúc của họ qua cung cách nói và qua điệu bộ, cử chỉ. Họ có thể không nói huỵch toẹt rằng họ giận dữ, song việc họ nắm chặt nắm đấm và nói đanh giọng có thể cho bạn thấy rằng họ giận dữ. Các nhà tư vấn cần lưu tâm tới tầm quan trọng của những dấu hiệu này.
Một chìa khóa khác nữa là nhận ra loại cảm xúc gắn liền với một tình huống nào đó. Khi xe của người ta bị ‘lạc tay lái’ trên một con đường đóng băng, thì tâm trạng của người ta thường là sợ hãi hay thậm chí hoảng hốt. Khi một anh chồng mô tả cuộc cãi vã giữa anh với vợ anh, nhà tư vấn thường có thể dựa vào kinh nghiệm thông thường của người ta trong những trường hợp đó để suy luận và biết anh chồng này đang mang tâm trạng gì. Nhờ kinh nghiệm, đa số người ta có thể nhận biết những trạng thái tâm cảm thường tình gắn liền với nhiều tình huống khác nhau. Các nhà tư vấn vận dụng kinh nghiệm của mình khi cố gắng nhận hiểu những cảm nghĩ của người đang nói chuyện với mình.
Cuối cùng, các nhà tư vấn sử dụng chính kinh nghiệm tâm cảm của riêng mình để giúp mình nhận hiểu các cảm nghĩ và cảm xúc của người được tư vấn. Những nhà tư vấn có một nhận thức chính xác về tâm trạng của mình trong một số tình huống nào đó sẽ dễ dàng phỏng đoán tâm trạng của người được tư vấn trong những tình huống tương tự. Trong một số trường hợp, tâm trạng của người này có thể không giống với người kia, nhưng thường thì các nhà tư vấn có thể giả thuyết rằng những người lành mạnh bình thường sẽ có những cảm xúc tương tự nhau trong những tình huống giống nhau.
SỰ TƯƠNG TÁC GIỮA CÁC KINH NGHIỆM TÂM CẢM
Trong việc tư vấn, luôn luôn có sự ảnh hưởng qua lại giữa kinh nghiệm tâm cảm của người được tư vấn và của nhà tư vấn. Mỗi bên đang phản ứng theo cách của mình đối với điều đang diễn ra trong buổi gặp gỡ tư vấn. Các nhà tư vấn cần ý thức những gì đang diễn ra cả nơi chính mình lẫn nơi người được tư vấn. Nếu nhà tư vấn không ý thức được điều đó, mối quan hệ giữa hai bên có thể bị gãy đổ. Chẳng hạn, chúng ta có thể xem xét trường hợp một anh chàng có thái độ hậm hực thù địch đối với quyền bính - vì anh có một người cha rất khắc nghiệt. Anh ta đến gặp cha sở tại văn phòng giáo xứ và ồ ạt trút ra những lời lẽ rất chua cay phê bình Giáo Hội. Cứ sự thường thì ông cha sở sẽ đáp lại sự hằn học ấy bằng sự hằn học của chính ông. Nhưng nếu ông nhạy bén và nhận hiểu được điều gì đang diễn ra, ông sẽ có thể bình tĩnh trao đổi với anh chàng kia và giúp anh ta nhận hiểu chính bản thân anh. Trong trường hợp này, sự nhận hiểu sai lầm của ông cha sở đối với những biểu hiện của người được tư vấn sẽ đưa cuộc tư vấn đến chỗ thất bại. Bởi vì dù những cảm nghĩ của anh ta đang nhắm đến cha sở hay đến Giáo Hội mà ông là đại diện, song kỳ thực những cảm nghĩ ấy phát sinh từ sự áp chế đầy độc đoán của người cha anh ta. Chỉ có điều là những cảm nghĩ ấy đang chuyển vị về phía cha sở, người mà anh ta đồng hóa với cha mình trong tư cách là một người nắm giữ quyền bính.[15] Nếu ông cha sở không ý thức được sự chuyển vị này, ông sẽ dễ dàng dùng sự giận dữ để đáp lại sự giận dữ và do đó sẽ chẳng giúp đỡ gì được cho người được tư vấn.
Mỗi chúng ta đều có những điểm yếu về tâm cảm, thường là do bởi cách mà chúng ta được nuôi dạy lớn lên. Một số người cảm thấy không hợp với những cuộc nói chuyện trao đổi thiên về tri thức; một số người khác thì cảm thấy mình không bao giờ được đón nhận bởi những người mình gặp lần đầu tiên. Các nhà tư vấn mục vụ cũng không phải là ngoại lệ; các vị cũng có những điểm yếu của mình. Và nếu các vị không ý thức về các điểm yếu ấy, các vị có thể phản ứng hằn học khi người ta tấn công đúng vào điểm yếu nhất của các vị. Các bác sĩ tâm thần và các chuyên gia tâm lý cũng thường nhận sự trị liệu tâm lý nhằm mục đích giúp mình ý thức các điểm yếu nơi mình. Cũng vậy, sẽ rất hữu ích nếu các nhà tư vấn mục vụ nhận sự trị liệu tâm lý, bởi vì điều này sẽ giúp cho các vị có cơ hội nhận hiểu hơn về các điểm yếu nơi chính bản thân mình.
Các nhà tư vấn mục vụ cần ghi nhận rằng thật là bình thường và lành mạnh việc người được tư vấn bộc lộ những cảm xúc của đương sự, miễn là sự bộc lộ ấy không tác hại gì cho đương sự hay cho người khác. Có những lúc cần bộc lộ cơn giận hay nỗi sợ của mình ra, ngay cả dù điều này có thể gây khó chịu cho những người khác hoặc cho chính nhà tư vấn. Các nhà tư vấn phải diễn tả các cảm nghĩ của mình nếu muốn tỏ ra mình vẫn là những con người bình thường trong quan hệ với người khác. Các vị phải học cách đón nhận những cảm xúc này đúng như sự thật của chúng - chứ không tìm cách ức chế chúng. Các vị cũng phải học cách đón nhận những cảm nghĩ của người được tư vấn cùng một cách như thế, ngay cả dù đó là những cảm nghĩ tiêu cực hay hằn học; vì chỉ bằng cách bộc lộ những cảm nghĩ của mình ra thì người được tư vấn mới có thể nhận định về chúng một cách chính xác, đánh giá chúng một cách khách quan, và thực hiện mọi thay đổi cần thiết trong thái độ của mình.
Các cảm nghĩ và cảm xúc là những lực tác động rất quan trọng. Các nhà tư vấn mục vụ càng hiểu biết về chúng và về cách vận hành của chúng cả nơi mình lẫn nơi người được tư vấn thì công việc tư vấn của họ càng phát huy hiệu quả nhiều hơn.
TỔNG LƯỢC
Dù ta thường không dành quan tâm đủ đối với các cảm nghĩ và cảm xúc, chúng vẫn đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống tâm thần của chúng ta, bởi vì chúng thường là động lực thúc đẩy chúng ta hành động. Lo âu, sợ hãi, giận dữ, xót xa ... là những trạng thái tâm cảm thường được gặp thấy nhất trong các cuộc tư vấn. Tất cả những trạng thái tâm cảm ấy đều có thể phục vụ cho một mục đích tốt, nhưng đôi khi chúng cũng gây khốn khổ cho người cảm nghiệm chúng. Một trong những công việc chủ yếu của nhà tư vấn là nhận hiểu cảm xúc của người được tư vấn. Việc nhận hiểu cảm xúc của người khác đòi hỏi chúng ta phải có sự nhạy bén và kinh nghiệm. Tuy nhiên, có những chìa khóa giúp ta làm công việc nhận hiểu này.
Người ta xử lý các cảm xúc của họ bằng nhiều cách khác nhau:
(1) bộc lộ chúng công khai,
(2) điều tiết chúng,
(3) trấn áp chúng, hoặc
(4) ức chế chúng.
Trong việc tư vấn, luôn luôn có một mối tương tác giữa các kinh nghiệm tâm cảm của nhà tư vấn và người được tư vấn. Bạn cần nhận thức được sự tương tác này cũng như nhận hiểu các cảm nghĩ và cảm xúc của bạn khi bạn giúp tư vấn cho người ta.
[1] Gordon W. Allport, Pattern and Growth in Personality. New York: Holt, Rinehart and Winston, 1961, tr. 198-199.
[2] Magda B. Arnold, Emotion and Personality. New York: Columbia University Press, 1960, tr. 74-75.
[3] Rochelle S. Albin, Emotions, Philadelphia: The Westminister Press, 1983, tr. 13.
[4] Ibid., tr. 15.
[5] Arnold, op. cit., tr. 194.
[6] Ibid., tr. 210.
[7] Donald O. Hebb, A Textbook of Psychology, Philadelphia: W. B. Saunders, 1966, tr. 239.
[8] Arnold, op. cit., tr. 258.
[9] Samuel L. Dixon, Working with People in Crisis. St. Louis: C. V. Mosby, 1979, tr. 129-135.
[10] Arnold, op. cit., tr. 269.
[11] Michael E. Cavanagh, The Experience of Counseling. Monterey: Brooks/Cole, 1982, tr. 170-175
[12] Michael E. Cavanagh, What To Do When You Are Feeling Guilty. Chicago, Claretian, 1978.
[13] Dixon, op. cit., tr. 152-156.
[14] Dorothy Rethingshafer, Motivation ánh sáng Related to Personality. New York: McGraw-Hill, 1963, tr. 150-155.
[15] Andre Godin, S.J., The Pastor ánh sáng Counselor. New York: Holt, Rinehart & Winston, 1965.
§5. CÁC SÁCH LƯỢC XỬ LÝ
Nhiều người tìm đến với tư vấn mục vụ do đã trải qua một gãy đổ nào đó trong trong các kỹ năng xử lý của mình. Họ thấy rằng phương cách thông thường của họ không còn kiến hiệu nữa trong việc giải quyết vấn đề. Nếu tình hình trở nên nghiêm trọng và đe dọa đến sự ổn định của họ, nỗi âu lo của họ sẽ thúc đẩy họ đi tìm kiếm một giải pháp. Đó là lúc mà họ thường tìm tới với một nhà tư vấn với hy vọng rằng nhà tư vấn sẽ giúp họ khám phá ra cách xử lý vấn đề của mình.
Trong cuộc sống của mình, mỗi người chúng ta đều phát triển nhiều kỹ năng xử lý vấn đề – và những kỹ năng này cho phép chúng ta xử lý hầu như bất cứ vấn đề nào mà mình gặp phải. Những kỹ năng này thuộc đủ mọi mức độ: từ rất đơn giản đến rất phức tạp. Hầu như ngay từ lúc mới sinh, trẻ em đã học biết cách phản ứng với cơn đói bằng việc khóc thét lên. Đứa trẻ nhanh chóng khám phá ra rằng nếu nó khóc thì một ai đó sẽ đến và cho nó bú. Một bài bản xử lý tinh vi hơn có thể được ghi nhận nơi một người phụ nữ trẻ tốt nghiệp đại học, trở thành kỹ sư và nhận công việc đầu tiên của mình tại một công ty không gian vũ trụ. Trước đây cô đã từng làm việc tạm thời trong công nghiệp không gian vũ trụ nhưng cô chưa bao giờ làm việc trong tư cách là một thành viên của một nhóm được chỉ định thực hiện một dự án đặc biệt. Các kỹ năng về cơ khí và về toán học mà cô học ở trường giúp cho cô khẳng định với chức vụ mới của mình, nhưng cô phải học thêm nhiều kỹ năng mới nữa nếu cô muốn thích nghi với công việc tập thể trong nhóm và đóng góp phần mình vào dự án đặc biệt đó. Một khi cô đã nắm được những kỹ năng mới này, có thể nói rằng cô đã có thể đáp ứng những yêu cầu của công việc mới.
Các sách lược xử lý là những cách mà chúng ta vận dụng để đối phó với những trường hợp có đe dọa, thách đố hay tổn hại. “Trong hầu hết các trường hợp, việc xử lý đòi hỏi không chỉ một hành vi đơn độc nào đó mà là cả một loạt những hành động phối hợp với nhau, và các dạng thức của những hành động này sẽ thay đổi theo thời gian, khi mà vấn đề liên hệ và tình trạng tâm lý của đương sự thay đổi.”[1] Chẳng hạn, người nữ kỹ sư mà chúng ta vừa đề cập trên phải học những cách mới để quan hệ với những người đàn ông mà cô làm việc với họ, những người này có thể hơi khó chịu khi thấy cô đi vào một lãnh vực mà trước đây vẫn được coi là lãnh vực độc quyền của nam giới. Nếu có một người phụ nữ khác giỏi giang hơn và có khả năng lôi cuốn hơn cô tại sở làm của cô, thì cô có thể còn phải học cách xử lý các cảm xúc của mình trong liên hệ với người phụ nữ kia nữa.
Có hai loại sách lược xử lý: xử lý bằng hành động trực tiếp hoặc xử lý bằng cách tự làm cho vấn đề được xoa dịu đi nơi mình. Trong sách lược hành động trực tiếp, người ta đối mặt với tình hình và thực hiện những bước thích đáng để hóa giải hay để giảm nhẹ mối đe dọa mà tình hình đặt ra; còn với sách lược xoa dịu, người ta tập trung vào việc làm vơi bớt tâm trạng khổ sở mà mối đe dọa hay sự tổn hại đó gây ra nơi mình.[2]
Những người có khuynh hướng xử lý bằng hành động trực tiếp thường đối mặt với các vấn đề và thực hiện bất cứ bước nào cần thiết để hóa giải chúng. Họ chủ động tìm kiếm các thông tin cần thiết để xử lý vấn đề của mình và cân nhắc kỹ lưỡng các thông tin ấy. Thậm chí họ có thể tiên lượng được các vấn đề trước cả khi chúng xảy ra và họ vạch sẵn kế hoạch hành động nếu các vấn đề ấy thực sự xảy ra. Khi những người này tìm kiếm sự tư vấn, họ thường muốn tìm kiếm một ai đó xác nhận tính đúng đắn của sách lược mà họ đã chọn để đối phó với tình hình.
CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA CUNG CÁCH XỬ LÝ KIẾN HIỆU
Caplan cho rằng những người xử lý tình huống kiến hiệu có các đặc điểm sau đây:
(1) Họ sẵn sàng nhìn nhận thực chất của tình hình và tìm kiếm thông tin giúp mình chọn đúng giải pháp.
(2) Họ ý thức cả những cảm nghĩ tích cực lẫn tiêu cực của mình và họ có kiên nhẫn chịu đựng nỗi chán nản.
(3) Họ tìm kiếm và sẵn sàng đón nhận sự giúp đỡ của người khác.
(4) Cách xử lý của họ có bao gồm việc phân tách các vấn đề thành những mảng có thể kiểm soát được và giải quyết lần lượt các mảng đó.
(5) Họ mềm dẻo và sẵn sàng thay đổi quan điểm của mình nếu tình hình đòi họ phải thay đổi.
(6) Họ vừa tự tin nơi mình vừa tín nhiệm vào người khác, và họ lạc quan về triển vọng kết quả mình sẽ đạt được.[3] Những người có các đặc điểm như thế thường chỉ tìm kiếm sự tư vấn khi họ nghĩ rằng mình cần có thêm thông tin hoặc mình cần nhận được sự khích lệ.
Richard Lazarus, một người rất có thẩm quyền về các sách lược xử lý, cho rằng “khi một sự cố có tính đe dọa xảy ra, trước hết người ta sẽ đánh giá khái quát tình hình, rồi sau đó sẽ đánh giá lại một lần thứ hai. Lần thứ nhất, họ tự vấn: ‘Phải chăng có sự cố không ổn ở đây?’ Sự cố ở đây có thể hoặc là
(a) một điều gì đó không thích hợp cho sự ổn định của đương sự (chẳng hạn, sự kiện một số công nhân bị sa thải ở một nhà máy khác hoặc ở một bộ phận khác trong cùng công ty), hoặc
(b) cũng có thể là một điều tốt lành hay có tính tích cực, nhưng không thỏa mãn (chẳng hạn, nhận được một sự tăng lương nhỏ nhoi), hoặc
(c) một điều gì đó gây căng thẳng. Những biến cố căng thẳng, theo Lazarus, bao gồm ba loại. Trước hết, biến cố ấy có thể mang ý nghĩa mất mát hay tổn hại (mất một tay hay chân, ly dị, cái chết bất ngờ của một người thân). Thứ hai, biến cố căng thẳng có thể là một sự đe dọa đối với sự ổn định hiện nay của đương sự. Thứ ba, biến cố căng thẳng có thể là một thách đố, một cơ hội để lớn lên, để thành đạt. Trước khi xử lý tình hình, việc đánh giá ban đầu là một tiến trình nhận thức để xác nhận có hay không có sự cố, và nếu có thì đó là sự cố gì. Việc đánh giá lại (tức lần thứ hai) trong bài bản của Lazarus cũng thiên về nhận thức, nhưng ở đây là nhận thức về chính công việc xử lý: ‘Tôi phải làm gì?’ Việc đánh giá thứ hai hướng đến mục đích thay đổi tình hình và kiểm soát những thành tố chủ quan (như các cảm nghĩ, các ý tưởng, sự lành mạnh thể lý, cung cách thái độ ...) trong liên hệ với tình hình.”[4]
Trong sách lược xử lý bằng hành động trực tiếp, người ta có ba sự chọn lựa: tấn công, rút lui hoặc điều đình.[5] Tùy thuộc vào tình huống cụ thể, người ta sẽ quyết định xem sự chọn lựa nào là thích hợp. Chẳng hạn chúng ta hãy xem xét trường hợp một nữ công nhân bị sa thải mà chính đương sự cho là bất công. Nếu chị sử dụng phương pháp tấn công, chị sẽ đưa vụ việc ra ủy ban giải quyết khiếu nại của công đoàn và yêu cầu can thiệp để mình được tiếp tục làm việc. Nếu chị chọn con đường rút lui, chị chỉ cần bỏ công việc đó và đi tìm một chỗ làm khác. Trong trường hợp rút lui, chị chấp nhận bỏ cuộc và dồn sự cố gắng của mình vào việc tìm kiếm chỗ làm mới. Nếu chị chọn phương cách điều đình, chị sẽ đến gặp thượng cấp của mình và cố gắng vận động để mình được chuyển sang làm việc tại một bộ phận khác hay tại một chi nhánh khác của công ty. Trong trường hợp này, chị nhận hiểu rằng mình không thể được làm lại chỗ cũ như mình mong muốn, vì thế chị chấp nhận một khả năng thay thế. Cách nào sẽ là cách thích hợp? Điều đó tùy thuộc vào bối cảnh của tình hình và tùy thuộc vào tâm trạng của người nữ công nhân này. Đôi khi công việc của nhà tư vấn là giúp cho đương sự nhận ra các khả năng chọn lựa của mình và rồi giúp đương sự chọn khả năng xem ra thích hợp nhất đối với tình huống.
Việc xử lý cũng có thể là một công việc mang tính xoa dịu, nghĩa là đương sự cố gắng kiểm soát tình huống khổ sở của mình bằng những cách khác hơn là hành động trực tiếp. Trong trường hợp này, đương sự nhắm đến việc xoa dịu tâm trạng âu lo khổ sở mà tình hình gây ra cho mình. Việc sử dụng những kỹ thuật tự vệ là một đặc trưng của phương sách xoa dịu.
NHỮNG KỸ THUẬT TỰ VỆ
Tâm trí con người có thể nghĩ ra nhiều cách để tránh thoát khỏi những gì mình không thể chịu đựng được. Một trong những đóng góp quan trọng của Sigmund Freud trong việc nhận hiểu cung cách ứng xử của con người là luận giải của ông về các kỹ thuật tự vệ.[6] Về sau, Miller và Dollard đã nghiên cứu lý thuyết này một cách cặn kẽ hơn và đã đặt nó trên một nền móng có tính khoa học hơn.[7] Khi chúng ta không thể đối mặt với những căng thẳng có tính đe dọa mình, đôi khi chúng ta vận dụng các mánh lới tự vệ. Mánh lới riêng của mình mà chúng ta vẫn áp dụng được rút từ kết quả của kinh nghiệm bản thân và của sự học hỏi. Việc lặp đi lặp lại thường xuyên làm cho cách phản ứng này trở thành một thói quen, trở thành một phần kiểu cách phản ứng của chúng ta. Mỗi khi chúng ta sử dụng một kỹ thuật tự vệ, chúng ta làm vơi nhẹ bớt nỗi lo âu của mình – và kết quả là chúng ta càng trở nên tin cậy hơn đối với kỹ thuật mà mình đã áp dụng ấy.
Hồi còn bé, chúng ta học biết rằng một sự đương đầu trực tiếp với quyền bính của cha mẹ sẽ dẫn tới phiền phức, rắc rối, dằn vặt và có lẽ cả hình phạt nữa; thế nhưng chúng ta vẫn muốn chọn cách phản ứng của chúng ta. Chúng ta học những cách ma mãnh để xử lý tình huống phiền nhiễu ấy. Rất thường, những kỹ thuật của chúng ta hoàn toàn giống với những kỹ thuật mà cha mẹ chúng ta áp dụng. Cô con gái nghe rằng mẹ mình bứt rứt khó chịu và bỏ ngang một buổi họp phụ huynh học sinh mà bà rất không ưa, do bà bị một cơn nhức đầu khủng khiếp; thế là cô bé sẽ áp dụng chính giải pháp đó để đối phó với bài kiểm tra ở trường. Thật lạ là cô bé bị nhức đầu thật chứ không phải giả vờ! Việc lặp đi lặp lại sẽ làm cho kiểu cách đó trở thành một thói quen tự nhiên không kém chi việc chúng ta buộc dây giày vậy. Mặc dù mỗi lần người ta dùng một kỹ thuật tự vệ họ đều làm giảm nhẹ được sự âu lo và căng thẳng, song không có kỹ thuật tự vệ nào có được sự kiến hiệu hoàn toàn.[8] Trong đa số các trường hợp, một phần của mối lo vẫn còn tồn đọng trong tâm trí. Đôi khi việc tự vệ như thế sẽ đem lại một sự căng thẳng mới, ngay cả dù nó làm giảm bớt nỗi lo âu. Cô gái bị nhức đầu để tránh buổi kiểm tra nói trên chẳng bao lâu sẽ khám phá ra rằng việc học của mình ở trường không trôi chảy tốt đẹp, và cô sẽ bị những áp lực mới ở nhà và ở trường.
Một số kỹ thuật tự vệ, như chúng ta sẽ thấy, sẽ làm xáo trộn toàn bộ cơ cấu ứng xử của chúng ta. Một sự hạn chế khác nữa của các kỹ thuật tự vệ là chúng đòi hỏi ta bỏ ra quá nhiều năng lực. Ngay cả dù chúng ta không ý thức cái giá mà mình đang phải trả để làm vơi nhẹ nỗi lo âu và sợ hãi, việc duy trì một hệ thống phòng vệ rộng khắp sẽ tiêu tốn rất nhiều năng lực mà ta có thể dùng cho những mục tiêu có tính xây dựng hơn.
SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ CÁC KỸ THUẬT TỰ VỆ
Những điều nói trên không hề có ý kết luận rằng mọi kỹ thuật tự vệ đều gây tai hại.[9] Một số kỹ thuật tự vệ rất cần thiết cho sự quân bình tâm lý. Nếu chúng ta bất thần phải buông mọi ‘vũ khí’ của mình, chúng ta có thể bị suy sụp tâm thần nghiêm trọng. Điều này càng đặc biệt đúng trong trường hợp người ta có một bản ngã không vững mạnh và một tâm thần yếu nhược. Có những lúc quả là lành mạnh việc tạm thời gạt vấn đề qua một bên; vì việc đâm đầu thẳng vào nó có thể dẫn tới tai họa. Trong những trường hợp như thế, việc chúng ta sử dụng các kỹ thuật tự vệ có thể bảo vệ nhân cách mình khỏi bị tổn hại.
Trong khi cố gắng nhận hiểu một người đến xin mình giúp đỡ, các nhà tư vấn mục vụ cũng nên cố gắng nhận hiểu những đặc điểm độc đáo trong hệ thống tự vệ của đương sự. Sự nhận hiểu như vậy rất cần thiết không phải để thuyết phục đương sự từ bỏ những cách phòng vệ làm suy yếu mình nhưng đúng hơn là để truyền đạt cho đương sự một sự nhận hiểu về thế giới của đương sự. Việc truyền đạt này có thể giúp đương sự nhận thấy rằng mình đang vận dụng một kỹ thuật tự vệ đặc biệt của mình và đôi khi nhận ra cả lý do của việc mình sử dụng kỹ thuật đó. Tuy nhiên, mục đích của việc tư vấn mục vụ không phải là đem lại một sự thay đổi trong cơ cấu phòng vệ của đương sự – (đôi khi đây chính là một mục đích của việc trị liệu tâm lý) - nhưng là nhằm giúp đương sự vận dụng những năng lực có sẵn trong nhân cách mình để giải quyết một vấn đề theo các nguyên tắc của đời sống Kitôhữu.
PHỦ NHẬN VÀ ỨC CHẾ
Phủ nhận là một trong những kỹ thuật tự vệ căn bản. Bằng cách phủ nhận sự tồn tại của một vấn đề, người ta tránh được nỗi lo âu mà vấn đề ấy có thể dấy lên cũng như có thể tránh được nhu cầu phải đương đầu với nó.[10] Một kỹ thuật khá tương tự khác là ức chế.[11] Trong cách phòng vệ này, một cách vô thức người ta ngăn chặn không cho một số cảm nghĩ và xung lực nào đó vọt lên trong ý thức mình. Chẳng hạn, một người vợ có thể rất giận dữ đối với thái độ xem thường của chồng mình. Bằng cách không ngừng tự nhắc mình rằng thái độ của chồng thực sự chẳng ảnh hưởng đến bất cứ chuyện gì cả, người vợ ấy sẽ dần dần đi đến chỗ không còn ý thức về cơn giận của mình nữa. Mặc dù ức chế là một trong những kỹ thuật tự vệ thường được chúng ta áp dụng nhất, chúng ta ít khi nhận ra nó vào chính lúc mình đang dùng nó.
NHỮNG KIỂU CÁCH PHẢN ỨNG TỰ VỆ KHÁC
Trong một ngày làm việc của mình, nhà tư vấn mục vụ thường gặp nhiều loại kỹ thuật tự vệ khác nhau. Chúng ta hãy xem xét một số ví dụ.
Một người cha có cậu con trai, tuổi thiếu niên, dính vào rắc rối với cảnh sát vì sử dụng ma túy và trộm cắp. Ông đến gặp nhà tư vấn xin giúp đỡ. Rõ ràng ông bị sốc vì biến cố này. Trong khi nói chuyện với nhà tư vấn, ông có bày tỏ rằng “Tôi quá bận rộn với công việc đến nỗi tôi thật sự không dành đủ thời giờ cho con trai tôi.” Nếu người cha này nhận thức đúng đắn hơn, ông đáng lẽ phải nhìn nhận rằng ông đang sử dụng một mẹo tự vệ để tránh đối diện với sự thực rằng ông đã thất bại trong tư cách làm cha. Cái mẹo mà ông đang dùng được gọi là hợp lý hóa. Chúng ta không muốn chấp nhận sự thất bại trong những bổn phận chính yếu của cuộc sống mình, vì thế chúng ta tìm cách để bào chữa cho mình.
Một phương sách tự vệ khá phổ biến khác là phóng chiếu.[12] Một phụ nữ 40 tuổi, độc thân và rất ngoan đạo nọ đến giãi bày với nhà tư vấn về những mối quan hệ chẳng tốt đẹp gì của mình. Chị tin chắc rằng phần đông các phụ nữ tại sở làm của chị đang xì xầm đàm tiếu nhiều điều sau lưng chị. Chị cho rằng họ ghen tị vì chị nhận được những ưu đãi của người chủ việc. Nhưng khi trao đổi sâu hơn, té ra rằng người phụ nữ này chỉ có những chứng cứ mơ hồ và lỏng lẻo cho những gì mà chị xác tín. Chị có một ngoại hình không lôi cuốn và có một tính cách rất tẻ nhạt. Chị không hài lòng với chính mình về nhiều phương diện và chị phóng chiếu để tránh nhìn nhận những điểm yếu nơi mình. Chị ngăn chặn không cho nỗi bất mãn đối với chính mình vọt lên khu vực ý thức, và để làm thế, chị hướng nỗi bất mãn ấy đến kẻ khác. Để biện minh cho quan điểm của mình, chị tưởng tượng rằng các đồng nghiệp của chị đang ghen tị với chị vì những ưu đãi mà chị nhận được từ người chủ việc. Sách lược tâm lý này cho phép chị hướng sự chú ý của mình đi phía khác, khỏi phải trăn trở với nỗi tự ti nơi mình.
Có một loại ức chế được gọi là sự cô lập về tâm cảm.[13] Một phụ nữ dáng vẻ rất phờ phạc, mẹ của bốn đứa con nhỏ, đến với nhà tư vấn tìm sự giúp đỡ vì chị có anh chồng nghiện rượu. Đầu tiên, chị rất sôi nổi và linh hoạt. Sau một vài câu nói pha trò dí dỏm, chị bắt đầu thổn thức kể lể về cuộc sống của chị với người chồng nghiện rượu, một người chồng không có khả năng làm điểm tựa cho gia đình. Cuối cùng, sau khi trình bày xong nỗi bi đát của cuộc sống mình, chị kết luận: “Tôi không phiền hà việc anh ấy uống rượu. Tôi chỉ ưu tư đến đời sống tâm linh của anh ấy mà thôi, vì tôi yêu anh ấy lắm.” Chị đã tìm thấy rằng cách duy nhất để giúp chị có thể sống là từ chối không cho các cảm nghĩ của mình trào lên khu vực ý thức. Chị phủ nhận nỗi ưu tư và lo lắng của mình. Chị có một đứa con đang bị bệnh, nhưng chẳng chạy chữa gì. Ngay cả lương thực trong nhà cũng thiếu trước hụt sau, nhưng chị cho rằng “trời sinh voi sinh cỏ”. Chị nói về tình yêu của Thiên Chúa đối với chị và gia đình chị. Chị không nhắc gì đến nỗi oán giận đối với chồng mình hay đối với hoàn cảnh mình. Chị không cho phép nỗi sợ về tương lai hay nỗi lo âu về đứa con đau ốm của mình hiện lộ ra nơi mình. Kết quả là chị không đối mặt với vấn đề của chị và không thực hiện một bước nào để cải thiện tình hình. Cũng trong giáo xứ ấy, có một phụ nữ khác đã giải quyết các vấn đề nội tâm mình bằng cách dấn thân miệt mài lo cho “sự thánh thiện” riêng của mình. Người phụ nữ này thường xuyên có mặt ở nhà thờ: các buổi cầu kinh, các Thánh Lễ ngày thường và ngày Chúa Nhật – đặc biệt vào ngày Chúa Nhật, chị thường tham dự cả hai hay ba Thánh Lễ. Chị làm thế là nhằm để khỏi phải chú ý đến vấn đề thực của chị: để khỏi phải cảm thấy cô đơn, để khỏi phải day dứt với tâm trạng bị bạc bẽo. Bao lâu phần lớn cuộc sống của chị còn bị lấp đầy bởi những việc ‘đạo đức’, bấy lâu chị sẽ không còn thời giờ để lo nghĩ đến bất cứ gì khác. Hơn nữa, việc ‘nên thánh’ như vậy rõ ràng càng củng cố quan điểm của chị về chính mình. (Dĩ nhiên, không phải bất cứ ai siêng năng việc kinh lễ ở nhà thờ cũng đều làm thế do sự thúc đẩy trong vô thức của các kỹ thuật tự vệ.)
Để làm một ví dụ cuối cùng, chúng ta hãy xem xét trường hợp một người đàn ông – do bởi các mẹo tự vệ của mình – không bao giờ tìm đến một văn phòng tư vấn nào cả. Người đàn ông này dùng sự cô lập như một phương thế bảo vệ chính mình.[14] Ông nhận thấy rằng rút lui khỏi thực tại là cách tiện lợi nhất để xử lý tình huống. Ông nghĩ ông không còn có thể chiến đấu với cuộc sống được nữa, vì thế ông rút lui vào vỏ ốc an toàn của ông và hiếm khi người ta thấy ông xuất hiện bên ngoài. Ông đắm chìm trong những nghĩ ngợi mông lung, trải qua phần lớn thời gian trước máy truyền hình hoặc chúi mũi vào những quyển tiểu thuyết. Thay vì đối mặt với thất bại, ông dùng trí tưởng tượng của mình để xây dựng một thế giới dễ chịu hơn cho mình. Thường thì một người nhà hay một người bà con của đương sự sẽ tìm đến với một nhà tư vấn mục vụ để yêu cầu sự giúp đỡ cho một con người như thế.
CÁC KIỂU THỨC XỬ LÝ
Mỗi người trong chúng ta đều có kiểu thức xử lý của riêng mình. Và không có hai kiểu thức nào hoàn toàn giống nhau. Phần đông trong chúng ta kết hợp phương pháp hành động trực tiếp với nhiều kỹ thuật tự vệ khác nhau. Tùy từng tình huống, chúng ta sẽ gán vai trò chủ yếu hoặc cho việc hành động trực tiếp hoặc cho việc tự vệ. Trong khi giúp đỡ đối tượng tư vấn, bạn cần nắm hiểu được những điểm mạnh và những điểm yếu riêng của đương sự liên quan đến các sách lược xử lý. Một cách để nắm hiểu như vậy là hỏi xem đương sự đã từng đương đầu với vấn đề tương tự như thế trước đây bao giờ chưa, và hỏi xem đương sự đã làm gì trong tình hình như vậy. Nếu đương sự cho biết rằng đương sự đã từng gặp vấn đề loại này và đã thực hiện những bước dứt khoát để giải quyết nó, thì bạn có thể ghi nhận rằng đương sự có khả năng hành động trực tiếp khi đương đầu với một vấn đề. Nếu đương sự còn cho bạn biết rằng đấy là cách mà đương sự thường dùng để xử lý các vấn đề, thì bạn càng được xác nhận hơn nữa về những khả năng xử lý của đương sự. Trái lại, nếu đương sự nói với bạn rằng đương sự đã chẳng làm gì cả để đối phó với vấn đề ngoại trừ chờ đợi vấn đề trôi qua, rằng thời gian sẽ chữa trị mọi sự ... thì bạn có thể ghi nhận nơi đương sự những kỹ thuật lãng tránh việc xử lý các vấn đề. Khi những người như thế đối diện với một vấn đề, họ thường ì ra, chẳng làm gì cả, và từ chối không nhìn nhận rằng tình hình có thể thực sự gây bế tắc cho cuộc sống mình.
TẠI SAO PHẢI TÌM HIỂU CÁC KỸ NĂNG XỬ LÝ?
Những người đến với tư vấn mục vụ thường đến với một vấn đề. Công việc của bạn trong tư cách một nhà tư vấn là giúp đỡ đương sự tìm ra một giải pháp khả thi cho vấn đề ấy. Nếu đương sự có những kỹ năng xử lý sắc sảo, thì công việc của bạn chỉ đơn giản là đề ra một cơ cấu cho tiến trình - (chúng ta sẽ đề cập đến tiến trình giải quyết vấn đề trong một chương sau) – và bạn đóng vai trò một nguồn khích lệ. Trái lại, nếu người được tư vấn quá thiên về xu hướng tự vệ, thì công việc của bạn có thể sẽ khó khăn hơn nhiều; thậm chí có thể không có giải pháp nào cả – ít nhất là trong nhất thời – và trong trường hợp này điều tốt nhất mà bạn phải cung ứng cho người được tư vấn chính là sự nâng đỡ bằng cách tích cực quan tâm lắng nghe và thông cảm. Việc bạn đề nghị một giải pháp sẽ quá có tính đe dọa và, mặc dù đương sự có thể tỏ ra trân trọng giải pháp mà bạn đưa ra, thì xác suất của khả năng đương sự áp dụng giải pháp ấy cũng vô cùng nhỏ. Việc nhận hiểu những thủ thuật xử lý của người được tư vấn sẽ giúp bạn phòng tránh những quyết định sai lầm và tiết kiệm được rất nhiều thời giờ quí báu.
GIẢM THIỂU XU HƯỚNG TỰ VỆ
Một trong những công việc đầu tiên trong bất cứ hình thức tư vấn nào cũng là tạo ra một bầu khí thích hợp để giúp làm giảm tâm trạng lo âu nơi người được tư vấn. Bao lâu người được tư vấn còn cảm thấy lo âu và không thoải mái, bấy lâu đương sự sẽ còn cố tự vệ và không có mấy khả năng để xem xét vấn đề của mình trong bối cảnh thực sự của nó.
Bạn nên cố gắng giúp cho người được tư vấn cảm thấy an tâm hơn và cởi mở hơn đối với thực tại. Người được tư vấn càng cảm nhận và lượng giá được nhiều dữ kiện của thực tại hơn thì đương sự càng có nhiều cơ may hơn để tìm ra giải pháp cho vấn đề của mình. Nếu cái nhìn của đương sự bị méo mó hay bị giới hạn chỉ trong một khía cạnh rắc rối nhỏ của tình hình, đương sự sẽ bỏ qua nhiều yếu tố có tầm quan trọng cho một sự lượng giá đúng đắn. ]] Một dạng bóp méo khá phổ biến là phóng đại quá mức những hậu quả của sự khó khăn. Trong trường hợp này, đương sự cần có cơ hội để giãi bày một cách cởi mở thoải mái mà không lo sợ bị xét đoán hay trách móc vì sự kiện mình có một vấn đề. Nhà tư vấn phải thận trọng để phòng tránh trường hợp mình có thể làm cho người được tư vấn cảm thấy sợ hãi.
Công việc tư vấn có thể là một kinh nghiệm đầy đe dọa. Nhà tư vấn mục vụ, cũng giống như bất cứ một nhà tư vấn trong lãnh vực nào khác, phải cố gắng hết sức để tránh bất cứ gì có tính đe dọa đối với người được tư vấn – và giúp người được tư vấn đối diện với tình hình thực tế của đương sự. Công việc tư vấn bắt đầu có kiến hiệu khi người được tư vấn có thể nói lên rằng “Tôi hiểu” hay “Tôi có thể đối mặt với vấn đề này” hay “Quả đây là vấn đề của tôi” (chứ không phải của một ai khác).[15] Trong một số phương diện, các nhà tư vấn mục vụ gặp nhiều khó khăn hơn so với các nhà tư vấn tâm lý. Trong tư cách là một giáo sĩ và là một người tận hiến, họ nhận được một sự “sùng bái” nào đó; họ được tôn kính như những con người gương mẫu với những lý tưởng và những giá trị cao cả. Thường thì những người được tư vấn cảm thấy mình không thể sống đúng như những kỳ vọng của những con người đặc biệt này. Là một nhà tư vấn mục vụ, bạn phải cố gắng hết sức để đánh tan thái độ này nơi người được tư vấn và tạo lập một bầu khí sao cho người được tư vấn không cảm thấy sợ hãi.
Có một số điều nên tránh và một số điều khác nên thực hiện. Có lẽ điều quan trọng nhất cần phải tránh đó là bất cứ kiểu cách nào tỏ ra tự tôn mình. Nếu bạn trao cho người ta ấn tượng rằng bạn có tất cả mọi câu trả lời bởi vì bạn có một học vấn trỗi vượt, thì ngay lập tức bạn cũng đang xem thường người được tư vấn và làm cho đương sự cảm thấy tự ti – kết quả là đương sự sẽ củng cố những vũ khí tự vệ của mình để bảo vệ cái nhìn cố hữu của mình về chính bản thân mình.
SỰ ĐÁNH GIÁ VÀ NHỮNG PHẢN ỨNG TỰ VỆ
Ngay từ thuở ấu thời của chúng ta, người ta đã đưa ra những đánh giá về các hành động của chúng ta. Và những đánh giá tiêu cực thường đặt chúng ta vào thế tự vệ.[16] Bé Johnny, tám tuổi, chơi trò trượt patin và làm rách ống quần của mình; bà mẹ trông thấy, quở: “Con là đứa trẻ không ngoan; con đã xé rách quần của con rồi kìa!” Ngay lập tức, Johnny trả lời: “Không phải tại con làm rách; tại anh Jimmy xô con té đó.” Bà mẹ đã đưa ra một phán đoán tiêu cực, có tính làm suy yếu lòng tự trọng của Johnny, và Johnny phản ứng bằng cách tự vệ. Nhiều người lớn vẫn còn giữ lối phản ứng tự vệ của trẻ con như thế, khác chăng là họ tìm thấy những cách tinh vi hơn để bảo vệ chính mình. Nếu nhà tư vấn khoác lấy vai trò của cha mẹ và đưa ra những xét đoán về các hành động của người được tư vấn, thì hầu như họ cũng sẽ nghe những câu trả lời đại loại như câu trả lời mà bé Johnny đã trả lời cho mẹ, khác chăng là câu trả lời của một người lớn thì phức tạp hơn mà thôi. Trong việc tư vấn mục vụ, cần phải hạn chế những câu nói có tính xét đoán. Đôi khi có thể có những trường hợp cần đến những câu nói có tính đánh giá, vì nhiều nhà tư vấn mục vụ cũng là những thầy dạy về luân lý Kitô giáo và đôi khi họ được tham vấn về tính đúng sai của một hành vi cụ thể nào đó; nhưng xét chung, cần hết sức hạn chế những câu tuyên bố có tính đánh giá như vậy.
Phần đông những người có nhân cách tương đối ổn định vốn đã hiểu những tính chất luân lý trong các hành vi của mình rồi, hoặc khi được cho biết những nguyên tắc căn bản thì họ có thể dễ dàng tự rút ra cho mình những kết luận. Họ không cần một người nào đó nói cho họ biết rằng họ đã hành động sai trái. Việc đay nghiến vào tính tội lỗi của hành vi của họ có thể chỉ làm gia tăng xu hướng tự vệ và cảm nghĩ dằn vặt nơi họ.
Trong tư vấn mục vụ, ít khi cần đến những lời dạy dỗ có tính trách mắng người ta. Bởi điều đó sẽ gia tăng nỗi sợ hãi và lo âu cho đương sự và càng làm cho đương sự khó đối mặt một cách khách quan với những vấn đề đang làm đương sự khổ sở.
TỔNG LƯỢC
Nhiều người tìm kiếm sự tư vấn vì bị một gãy đổ nào đó trong kỹ năng xử lý của mình. Kỹ năng xử lý là cách mà chúng ta đã học để giải quyết một tình huống cụ thể nào đó. Khi một trong những cách ấy tỏ ra không còn kiến hiệu nữa, chúng ta cảm thấy nỗi lo âu gia tăng trong mình và nỗi lo này thúc đẩy chúng ta tìm kiếm những cách khác để đối phó với tình hình. Chính đây là lúc mà người ta tìm kiếm sự giúp đỡ của một nhà tư vấn mục vụ.
Các kỹ thuật tự vệ, chẳng hạn ức chế, tự bào chữa, phóng chiếu ... làm thành một phần sách lược tự vệ của chúng ta. Đành rằng có một số kỹ thuật tự vệ rất nên và rất cần thiết phải sử dụng, nhưng nếu lạm dụng các kỹ thuật này quá mức, thì đó thường là dấu hiệu của rối loạn thần kinh. Các nhà tư vấn mục vụ cần nhận ra những kỹ thuật tự vệ nơi người được tư vấn – không phải để thay đổi chúng nhưng là để nhận hiểu rõ hơn tâm trạng mà đương sự đang cảm nghiệm và để tạo điều kiện tốt hơn cho mình trong việc giúp đỡ đương sự.
[1] Richard S. Lazarus, “Coping Psychology,” trong International Encyclopedia of Psychiatry, Psychology, and Neurology, Vol. 3. New York: Aesculapius, 1977, tr. 379.
[2] Ibid.
[3] Gerald Caplan, Principles of Preventive Psychiatry. New York: Basic Books, 1964.
[4] Karl A. Slaikeu, Crisis Intervention. Boston: Allyn and Bacon, Inc. , 1984, tr. 18.
[5] James C. Coleman và C. L. Hammon, Personality Dynamics and Effective Behavior. Chicago: Foresman, Scott & Company, 1973.
[6] Sigmund Freud, The Problem of Anxiety, New York: W. W. Norton & Company, 1936.
[7] John Dollard và Neal E. Miller, Personality and Psychotherapy. New York: McGraw-Hill Company, 1950.
[8] Coleman, op.cit.
[9] Alexander A. Schneiders, Personality Dynamics and Mental Health. New York: Holt, Rinehart & Winston, 1965, tr. 250.
[10] Michael E. Cavanagh, The Experience of Counseling. Monterey: Brooks/Cole, 1982, tr. 225.
[11] Sigmund Freud, A General Introduction to Psychoanalysis. New York: Washington Square Press, 1960.
[12] Cavanagh, op.cit., tr. 225-226.
[13] Coleman, op. cit., tr. 203-204.
[14] James M. Sawrey và Charles W. Telford, Adjustment and Personality. Boston: Allyn and Bacon, 1975, tr. 351-352.
[15] Hiltner Seward, “Clinical and Theological Notes on Responsibility,” Journal of Religion and Health, Vol. 2, 1962, tr. 7-20.
[16] Carl R. Rogers, On Becoming a Person. Boston: Houghton-Mifflin, 1961, tr. 54.
§6. NGHE VÀ ĐÁP ỨNG LẠI THÔNG ĐIỆP
Trong mỗi buổi tư vấn, thường thì người được tư vấn có một thông điệp muốn gởi đến cho người tư vấn. Thông điệp này thường hàm chứa vấn đề đã buộc người này đi tìm sự giúp đỡ. Nội dung của thông điệp này có thể liên quan tới đủ mọi chuyện trên đời, từ “Vợ tôi và tôi không thể sống thuận hoà; chúng tôi cãi cọ, đánh nhau suốt” cho đến “Cuộc sống thật như hỏa ngục; tôi bị rối tung, tôi không biết phải làm gì đây”. Thông điệp ấy có thể được trình bày cách rõ ràng, cũng có thể bị lấp liếm hay bị làm cho trở thành lộn xộn. Người được tư vấn mong muốn nhà tư vấn của mình nghe và đáp ứng thông điệp này. Nhiệm vụ đầu tiên của người tư vấn là nắm hiểu cho được bức thông điệp.
Thông điệp thường hàm chứa:
(1) nội dung,
(2) yếu tố cảm xúc hay cảm nghĩ, và
(3) ý nghĩa của nó.
Cả ba thành tố này đều quan trọng và cần được xem xét nếu muốn cho công việc tư vấn đạt được hiệu quả.
NỘI DUNG CỦA THÔNG ĐIỆP
Nội dung của thông điệp là vấn đề đang được thảo luận. Nó thường là một mô tả những sự cố đang xảy ra trong cuộc sống của đương sự. Nội dung của thông điệp thường có liên quan đến những người khác và cách ứng xử của đương sự đối với những người ấy. Nhà tư vấn kiến hiệu sẽ cố hết sức để nhận hiểu những gì đang xảy ra trong cuộc sống của đương sự, và tỏ dấu cho thấy rằng mình đã nhận hiểu – cho dẫu việc tỏ dấu ở đây chỉ đơn giản là một cái gật đầu hay “ừ hứ”.
Chúng ta hãy xem xét trường hợp sau đây và hãy ghi nhận đâu là nội dung của thông điệp. Một phụ nữ, là mẹ của ba đứa trẻ, đi đến văn phòng giáo xứ và xin được giúp đỡ. Số là khi người phụ nữ này giặt quần áo cho gia đình, chị đã phát hiện ra cần sa trong túi quần của cậu con trai nhỏ nhất. Chị bị sốc; chị giận dữ và bứt rứt với chính mình. Chị nói rằng chuyện lộn xộn này đã không hề xảy ra với hai đứa lớn và chị không thể hiểu tại sao thằng út này lại sinh chuyện như thế. Chị đã ráng hết sức để gửi cả ba đứa con vào trường của giáo xứ vì chị nghe nói rằng tại các trường công lập thường có tệ nạn ma tuý. Thế nhưng chị tỏ ra thất vọng đối với hệ thống trường học giáo xứ. Chị cho biết rằng thằng út của chị vốn có tính độc lập hơn và dễ bị ảnh hưởng bởi bạn bè hơn so với hai đứa lớn. Chị cũng cho biết rằng cậu út này không bao giờ tìm lời khuyên của bố hay của mẹ mỗi khi gặp điều lúng túng. Chị tự trách mình đã không quan tâm đúng mức đến đứa con và không kiểm tra chặt chẽ đám bạn của nó. Chị nói giờ đây chị không biết phải làm gì và chị cần được giúp đỡ.
Trong ví dụ này, thông điệp là “Tôi khám phá ra đứa con trai út của tôi đang xử dụng cần sa và tôi không biết phải đối phó thế nào.” Ở đây cũng có nhiều chi tiết thêm vào nội dung cơ bản của thông điệp, ví dụ như tuổi của đứa con, bạn bè của cậu ta, thái độ của người mẹ này đối với việc xử dụng cần sa, tình trạng cậu con trai dễ bị ảnh hưởng bởi bạn bè, trường học của cậu ta. Trong tư cách là một nhà tư vấn, bạn cần phải biểu lộ cho thấy rằng bạn đã nghe bức thông điệp cùng với mọi chi tiết của nó. Nếu bạn chỉ nghe mà không tỏ bất cứ dấu nào cho thấy rằng bạn đã nghe, thì người kia sẽ không bao giờ biết được liệu bạn có nghe và hiểu được những điều đương sự nói với bạn hay không.
Có một số kỹ năng mà bạn có thể sử dụng để cho người được tư vấn biết rằng bạn hiểu được thông điệp hay ít nhất là cho thấy bạn đang cố gắng để hiểu. Một trong những kỹ năng đó là diễn đạt lại thông điệp và tóm tắt những điểm chính yếu của nó. Diễn đạt lại những gì đã nói đôi lúc còn được gọi là diễn giải.[1] Chúng ta làm công việc diễn giải khi chúng ta trình bày lại những gì người khác đã nói bằng ngôn ngữ của chính chúng ta. Nó khác với việc nhắc lại ‘như vẹt’ hầu như nguyên văn của người nói. Việc diễn giải sẽ cho người kia thấy rằng bạn có nghe và hiểu được điều đương sự nói, ít nhất là bạn hiểu đủ để có thể trình bày lại bằng ngôn ngữ của chính bạn. Chính nhờ việc bạn nhắc lại những gì người kia nói bằng một cách diễn đạt hơi khác mà đương sự có thể có được một nhãn giới khác về những gì đương sự vừa nói. Những lợi ích khác của việc diễn đạt lại là:
(1) Nó giúp cho nhà tư vấn ghi nhớ những gì mình đã nghe;
(2) Nó giúp chặn đứng sự leo thang của cơn giận và giúp cho người kia được lắng dịu;
(3) Nó giúp cho nhà tư vấn tránh khỏi cám dỗ đưa ra sự phán xét hay lời khuyên.
Một kỹ năng khác bạn có thể sử dụng là tóm tắt, nó thường được dùng sau khi người được tư vấn đã trình bày những yếu tố chính yếu của điều mà đương sự cho là vấn đề.[2] Sau khi nghe câu chuyện của đương sự, bạn có thể nói: “À, để coi thử tôi có hiểu anh chính xác không. Anh nói rằng anh ... “ - và rồi bạn toát lược lại những điểm chính yếu mà bạn ghi nhận trong câu chuyện của đương sự. Việc tóm tắt của bạn sẽ giúp nối kết các thành phần của thông điệp lại với nhau và giúp cho đương sự có được một cái nhìn toàn diện. Nó cũng tạo điều kiện cho người được tư vấn sửa lại những chỗ bạn hiểu nhầm và bổ sung những gì bạn bỏ hụt. Rất thường, việc tóm tắt của bạn sẽ giúp cho đương sự có được một cái nhìn đầy đủ hơn về tình huống của mình.
Nếu bạn không hiểu người đuợc tư vấn muốn nói gì mà bạn cứ giả vờ hiểu bằng cách gật gật đầu hay nói “Ờ, ờ ...”, thì điều đó chẳng giúp được gì cả cho bạn lẫn cho đương sự. Rốt cục, đương sự cũng sẽ biết rõ rằng bạn không hiểu và niềm tín nhiệm của đương sự đối với bạn sẽ suy giảm trầm trọng. Vì vậy, nếu thực sự bạn không nắm hiểu điều đương sự muốn nói thì tốt nhất là thú thật rằng bạn không hiểu, và yêu cầu người ấy trình bày lại rõ hơn. Một số câu hỏi có dạng thức chủ lực sẽ giúp bạn ‘khui’ cho vấn đề sáng tỏ hơn.[3]
CÁC CẢM NGHĨ VÀ CÁC CẢM XÚC
Bên cạnh việc bộc lộ nội dung vấn đề, đa số các thông điệp còn bộc lộ cho thấy cả tâm trạng của đương sự về vấn đề mà đương sự đang trình bày. Những cảm nghĩ này của đương sự thường có tầm rất quan trọng, đôi khi quan trọng hơn cả nội dung của thông điệp. Một số nhà tư vấn, vì nóng lòng muốn đưa thân chủ của mình nhanh chóng tới một giải pháp, thường không chú tâm đủ đến tâm trạng của đương sự đối với nội dung của thông điệp. Đây quả là một sai lầm, bởi vì phần lớn động lực tác động chúng ta không đến từ tư tưởng cho bằng từ tâm trạng của mình.[4] Thường thì khi người ta trình bày một vấn đề, họ cũng đồng thời có một số cảm nghĩ rõ rệt về vấn đề đó. Vấn đề đó có thể làm cho họ vui hay buồn, tức giận hay sợ hãi. Đôi khi đương sự ý thức được tâm trạng của mình, song cũng có khi đương sự không hề ý thức được những gì mình đang cảm nghĩ và cảm xúc. Dù trường hợp nào đi nữa, việc giúp cho đương sự nhận ra tâm trạng của chính đương sự cũng đều rất hữu ích. Trong trường hợp thứ nhất, việc phản ảnh lại tâm trạng của đương sự sẽ giúp nhấn mạnh cho đương sự thấy rõ hơn tâm trạng ấy. Còn trong trường hợp thứ hai thì việc phản ảnh sẽ giúp đương sự ý thức được tâm trạng của chính mình – tâm trạng vốn có đó nhưng chưa được đương sự ý thức. Tiến trình bày tỏ cho người kia thấy rằng bạn hiểu tâm trạng của họ được gọi là thấu cảm.[5] Thấu cảm bao gồm hai yếu tố:
(1) nhận thức được tâm trạng của người ta, và
(2) tỏ cho họ biết bạn hiểu tâm trạng đó.
Carl Rogers mô tả thấu cảm là “bước vào thế giới cảm thụ riêng của người kia và trở thành hoàn toàn là ‘người nhà’ trong đó. Nó gắn liền với sự nhạy cảm – từng phút giây – đối với những trạng thái tâm cảm đang chuyển biến không ngừng trong con người ấy, đối với nỗi sợ, cơn giận, nỗi xao xuyến, sự bất an hay bất cứ điều gì người ấy đang cảm nghiệm. Nó có nghĩa là tạm thời sống trong cuộc sống của người kia, thấm nhập vào bên trong người ấy một cách tế nhị mà không hề đưa ra một phán xét nào; nó có nghĩa là cảm nhận được những tâm trạng mà chính đương sự cũng không ý thức mấy, song không cố lột trần hoàn toàn những cảm nghĩ trong vô thức của đương sự, bởi vì điều này có thể quá khủng khiếp và đương sự chưa sẵn sàng để đón nhận được. Thấu cảm còn bao gồm việc truyền đạt những điều bạn cảm nhận về thế giới của người kia – những điều vốn khiến đương sự sợ hãi thì sẽ được bạn nhìn với một cái nhìn mới mẻ và không pha phôi chút khiếp sợ nào. Thấu cảm cũng thường bao hàm việc cùng thẩm định với người kia về tính chính xác của những điều mà bạn cảm nhận, việc ghi nhận những phản ứng của đương sự như dấu hiệu hướng dẫn mình.”[6]
Chúng ta hãy xem xét lần nữa ví dụ về người phụ nữ phát hiện thấy cần sa trong túi quần của con trai chị. Cảm xúc của người phụ nữ này khi khám phá ra con mình hút cần sa là choáng váng và tức giận. Đồng thời chị cũng cảm thấy dằn vặt bởi nghĩ rằng mình đã không hoàn thành bổn phận của một người mẹ. Chị cũng cho thấy nỗi thất vọng - và có lẽ cả một ít giận dữ - đối với hệ thống trường học của giáo xứ. Sẽ thật hữu ích cho người phụ nữ này việc nhận hiểu tâm trạng của mình và việc biết rằng có người hiểu được tâm trạng ấy của chị mà không phê phán gì cả. Cũng thật hữu ích cho chị việc nhận ra những cảm xúc nơi mình mà trước đây chị chưa hề nhận ra, chẳng hạn nỗi dằn vặt do nghĩ rằng mình là một người mẹ thiếu trách nhiệm và nỗi thất vọng đối với hệ thống giáo dục Công Giáo. Một phần của công việc giúp đỡ người phụ nữ này là tạo điều kiện cho chị nói lên những cảm xúc của mình và giúp chị xử lý những cảm xúc đó.
NHẬN THỨC CÁC CẢM NGHĨ VÀ CẢM XÚC
Việc nhận thức cảm nghĩ của một người thường có bao hàm việc phản ảnh một cách nào đó về tâm trạng của đương sự. Chẳng hạn, nhà tư vấn có thể nói với người phụ nữ này: “Ồ, khi chị phát hiện ra cần sa trong túi quần của con trai chị, chắc hẳn là chị bị ‘sốc’ lắm nhỉ. Hình như bây giờ chị vẫn còn tức giận cả con trai mình lẫn chính mình, và chị lúng túng không biết phải làm gì đây, phải không?” Câu nói trên có tác dụng qui hướng sự chú ý của người phụ nữ ấy vào tâm trạng của chị lúc phát hiện ra cần sa trong túi quần con trai, tâm trạng của chị trong chính thời điểm hiện tại, và câu nói ấy cũng cho chị biết rằng có một người nhận hiểu những gì chị đã cảm nghiệm cũng như những gì chị đang cảm nghiệm. Quan trọng hơn nữa, nó cho phép chị nhận biết rằng có người chấp nhận chị và những cảm xúc của chị mà không hề đưa ra một phê phán nào cả đối với chị lẫn đối với con trai chị. Ở đây không có một lời khuyên nào, cũng không có một áp lực nào bắt chị phải làm điều này điều nọ. Chị hoàn toàn được tự do để tự đưa ra quyết định mà chị nghĩ là tốt nhất – hơn nữa, chị có được sự hỗ trợ để quyết định và để triển khai điều mình quyết định.
ĐÂU LÀ GIÁ TRỊ CỦA SỰ THẤU CẢM?
Trước hết, sự thấu cảm giúp người ta cảm thấy rằng họ có một đồng minh khi họ đối mặt với một tình huống phiền nhiễu.[7] Họ không cô độc. Có người hiểu được tình thế gay go của họ và hiểu được tâm trạng của họ trước tình thế ấy. Sự cảm thông sẽ đem lại cho họ một niềm an tâm và tạo điều kiện cho họ đưa ra một quyết định và thực hiện quyết định đó. Thứ hai, sự thấu cảm giúp đương sự cảm thấy mình có giá trị, cảm thấy mình được quan tâm và được chấp nhận trong tất cả sự thực của mình. Và cuối cùng, sự thấu cảm sẽ giúp đương sự hiểu đúng đắn hơn về chính mình và về hoàn cảnh của mình. Những biểu lộ thấu cảm của nhà tư vấn thường giúp cho người được tư vấn có thể chia sẻ một cách cởi mở và tự nhiên hơn về chính mình và về vấn đề của mình. Nhờ đó, đương sự hiểu được điều gì đang diễn ra trong chính mình – và đương sự sẽ có điều kiện tốt hơn để xử lý vấn đề của mình.
Ý NGHĨA
Ý nghĩa là chiều kích thứ ba của thông điệp. Ngôn ngữ là biểu tượng trình bày một thực tại. Mỗi từ ta sử dụng đều có nghĩa chung cho mọi người dùng từ đó song đồng thời nó cũng có một nghĩa độc đáo đối với riêng mỗi người chúng ta. Ví dụ như từ “nhà” là biểu tượng có ý chỉ một chỗ ở nơi mà một nhóm người sống với nhau trong mối hiệp nhất. Từ này có một ý nghĩa chung mọi người đều hiểu nhưng còn có một ý nghĩa cá biệt nữa. Một học sinh trung học lớn lên trong môi trường quân đội và kể từ khi sinh ra đã thay đổi chỗ ở muời hai lần sẽ hiểu từ “nhà” khác với một chàng trai sống cả đời trong cùng một ngôi nhà, trong một đại gia đình đông đúc với những mối tương quan rất chặt chẽ giữa các thành viên, giữa một cộng đồng thôn quê nhỏ bé. Những kinh nghiệm quá khứ của chúng ta sẽ trao những ý nghĩa độc đáo cho các từ ngữ trong cách nhận hiểu của chúng ta. Nhiệm vụ của nhà tư vấn là đi vào trong tâm khảm của người được tư vấn và cố hiểu ra những ý nghĩa độc đáo này.
Hiểu được ý của người được tư vấn có nghĩa là hiểu được cách nhìn thế giới của họ.[8] Chúng ta thường dễ tưởng rằng người khác cũng nhìn thế giới như cách nhìn của chúng ta. Các nhà tư vấn giỏi sẽ nhanh chóng đi vào trong thế giới ý nghĩa của thân chủ mình. Họ có khả năng tạm thời gạt quan điểm của mình sang một bên và đi vào trong cách hiểu của người kia, và rồi trình bày lại cho đương sự cách hiểu của chính đương sự.
Việc nhận hiểu ý nghĩa mà người kia đang gán cho những gì họ đang nói là điều hết sức quan trọng trong tư vấn mục vụ - bởi vì đức tin thường quyết định cách mà người ta nhìn tình huống cụ thể mà họ đang đương đầu. Một người Kitô hữu nghiêm túc sẽ nhìn tình trạng tan rã dần dần của một cuộc hôn nhân hoàn toàn khác với cách nhìn của một người không tin. Phần lớn người Công giáo biết rằng việc ly dị và tái hôn sẽ loại họ ra khỏi đời sống bí tích trong Giáo hội, và niềm tin này thường có một vai trò hết sức quan trọng trong quyết định cuối cùng họ phải làm gì – điều này có thể chẳng thành vấn đề gì cả đối với những người không dấn thân vào một niềm tin tôn giáo nào.
LẮNG NGHE THÔNG ĐIỆP
Lắng nghe là kỹ năng quan trọng nhất trong các kỹ năng tư vấn. Không chăm chú lắng nghe, chúng ta sẽ không thể hiểu được thông điệp của người được tư vấn.[9] Phần đông trong chúng ta cứ tưởng rằng hễ người ta nói thì đương nhiên mình lắng nghe, vì thế chúng ta không coi lắng nghe là một kỹ năng tư vấn. Chúng ta không nghĩ rằng mình cần phải học cách lắng nghe. Chúng ta nghĩ rằng lắng nghe là chuyện hoàn toàn tự nhiên, tự động. Tuy nhiên khi các nhà huấn luyện tư vấn nói về việc lắng nghe thì họ đang ý niệm một điều gì đó hoàn toàn khác với sự lắng nghe mà chúng ta vẫn thể hiện trong giao tiếp hằng ngày. Khi bạn lắng nghe trong tư cách là một nhà tư vấn thì bạn sẽ vận dụng tất cả sự chú ý của mình để tập trung không chỉ vào điều đang được nói mà còn tập trung vào cách thế mà điều đó đang được nói nữa. Thậm chí bạn còn lưu ý cả đến những gì không được nói ra nữa. Bạn không chú ý đến việc bạn sẽ nói gì tiếp đó, như thói thường vẫn xảy ra trong giao tiếp hằng ngày. Bởi vì trong lúc này bạn phải ngừng hết mọi việc phân loại và chẩn đoán. Bạn không đưa ra một lời phán xét nào. Bạn chỉ thuần túy lắng nghe xem người kia đang nói gì và rồi bạn tự hỏi đương sự đang cảm nghiệm gì lúc này và đã cảm nghiệm gì trong quá khứ. Rồi bạn sẽ cố gắng hình dung thử xem mình sẽ cảm nghiệm gì nếu mình ở vào tình cảnh của đương sự. Việc lắng nghe như vậy đòi hỏi một cố gắng đầy ý thức ở ta để lắng nghe tất cả những gì người kia cần nói mà không tán thành hay phản bác lại những điều được nói ra.
Chúng ta lắng nghe không chỉ bằng trí óc, con tim và trí tưởng tượng mà còn lắng nghe bằng cả con người của mình.[10] Cùng với việc lắng nghe những lời nói thật sự của người được tư vấn chúng ta còn phải chú ý đến những ngôn ngữ không lời, như giọng nói, vẻ mặt, cử chỉ, điệu bộ và y phục của đương sự. Chẳng hạn, khi bạn hỏi một người đàn ông đứng tuổi: “Công việc của ông có trôi chảy không?”, ông ta trả lời “Rất tốt” - nhưng giọng nói và vẻ mặt buồn bã của ông sẽ cho bạn biết rằng ở đây không có sự đồng nhất giữa thông điệp được nói lên và thông điệp thật sự. Nếu bạn chỉ nghe những gì đương sự nói ra thành lời thì rất có thể thông điệp thực sự sẽ bị bạn bỏ hụt.
NGÔN NGỮ THÀNH LỜI, NGÔN NGỮ KHÔNG THÀNH LỜI
Thông điệp mà người được tư vấn chuyển trao thường liên quan đến ba thành tố:
(1) lời nói,
(2) thể cách nói, và
(3) ngôn ngữ không lời.
Lời nói bao gồm tất cả những từ mà đương sự dùng để diễn tả tâm tư ý nghĩ của mình. Thể cách nói là hình thái qua đó thông tin được chuyển trao, thường bao gồm các yếu tố như giọng nói, tốc độ, lối trình bày.[11] Ví dụ, khi chán nản, người ta thường nói chậm hơn và với giọng thấp hơn bình thường. Một người suy sụp trầm trọng sẽ thường nói những câu có cấu trúc lủng củng, rời rạc. Mặt khác, khi lo lắng, người ta thường nói nhanh hơn và với giọng cao hơn bình thường.
Trong khi trình bày, người được tư vấn thường sử dụng ngôn ngữ điệu bộ. Một trong những dấu chỉ phản ảnh rõ nhất tâm trạng của người ta là sắc diện của họ. Khi chúng ta sung sướng, đôi mắt chúng ta sáng ngời lên và chúng ta mỉm cười; khi lãnh đạm ơ hờ, chúng ta thường cau mặt lại với đôi mắt uể oải, thiếu thần sắc. Vui mừng, tức giận, sợ sệt, ngạc nhiên, rầu rĩ ... tâm trạng nào cũng có sắc diện riêng của nó. Từ khi còn rất nhỏ chúng ta đã học cách phản ứng lại ngôn ngữ điệu bộ của người khác. Chúng ta thường nhận ra được cảm nghĩ của người khác xuyên qua nét mặt của họ. Chỉ cần nhìn nét mặt của người nghe, bạn cũng thường có thể nhận ra người ấy có thích điều bạn đang nói hay không. Cũng vậy, sẽ rất hữu ích nếu bạn ý thức rằng nét mặt của mình có thể truyền đạt cho người kia cảm nghĩ của bạn đối với những gì mà đương sự vừa nói ra.
Khi chúng ta quan tâm đến những gì người khác nói với mình, chúng ta thường nghiêng người về phía trước và nhìn chăm chú vào đôi mắt của người ấy; còn khi không thích, chúng ta có xu hướng ngả người ra ghế và đôi lúc chúng ta liếc ra ngoài. Ngôn ngữ điệu bộ của bạn sẽ nói cho người được tư vấn biết bạn đang sốt sắng quan tâm hay đang chán nản đối với câu chuyện của họ.
Y phục và vệ sinh cá nhân cũng là những yếu tố giúp ta nắm hiểu thêm thông điệp của người được tư vấn. Một người đến gặp bạn với cách ăn mặc và cách chăm sóc vệ sinh cá nhân khác hẳn bình thường ắt hẳn đang muốn nói với bạn một điều gì đó. Những người chán nản thường chẳng quan tâm mấy đến ngoại hình của họ. Một người phụ nữ suy sụp đôi khi có thể ăn mặc rất nhếch nhác – quần áo nhàu bẩn với vài cái khuy không nút, đầu tóc thì bù xù, không son không phấn. Thông điệp mà cung cách ấy muốn nói lên là: “Tôi chán chính mình; tôi không còn chút lòng tự trọng nào.” Một người đàn ông tuổi trung niên nhưng ăn mặc và để kiểu tóc giống như một chàng sinh viên đại học ắt hẳn muốn nói rằng “Tôi thấy mình vẫn rất trẻ trung. Tôi không phải là một người trung niên.” Những ví dụ vừa nêu trên cho thấy tầm quan trọng của những ám hiệu không lời trong việc giúp chúng ta nhận hiểu được thông điệp thực sự. Việc lắng nghe ngôn ngữ không lời đòi hỏi ta phải tập trung và phải có khả năng liên tục cảm nhận. Kỹ năng này không tự nhiên mà có – và ta có thể học nó bằng nỗ lực tập tành.
Đôi lúc những gì người ta không nói lại quan trọng hơn là những gì họ nói ra. Ví dụ như một cô giáo trẻ quá mập phì đang lo sốt vó vì không biết hợp đồng dạy học của mình có được tiếp tục trong năm tới hay không - và cô ta đến xin bạn tư vấn. Cô ta kể ra một số vấn đề mà cô ta gặp trong quá trình dạy học của mình suốt năm qua - nhưng không hề đả động gì đến tình trạng quá cân của mình cũng như việc mình bất lực không cải thiện được tình trạng ấy – ngay cả dù thực tế là vị hiệu trưởng đã có đề cập đến tình trạng mập phì của cô với ý chỉ rằng tình trạng ấy có những ảnh hưởng không tốt cho các em học sinh.
GIÁ TRỊ CUẢ VIỆC LẮNG NGHE
Tại sao lắng nghe lại là yếu tố thiết yếu cho một cuộc tư vấn có hiệu quả? Trước hết, nhà tư vấn cần phải biết lắng nghe nếu muốn hiểu những gì mà người được tư vấn đang cố gắng trình bày với mình (một cách ý thức hay vô thức). Nếu không biết lắng nghe, nhà tư vấn có thể bỏ hụt một phần quan trọng của thông điệp. Hơn nữa, việc tích cực lắng nghe sẽ cho người ta thấy rằng bạn đang quan tâm đến họ một cách biệt vị. Nó nói với người ta rằng bạn tôn trọng họ và đang dành ưu tư cho họ.
Việc lắng nghe tích cực cũng giúp người ta cởi mở các cảm nghĩ của họ. Khi người ta thấy mình được thông cảm, họ sẽ dễ dàng trang trải tâm sự của họ hơn. Và khi người ta bộc bạch ra được những cảm nghĩ và cảm xúc của mình, họ sẽ nhận hiểu chúng hơn, và có điều kiện tốt hơn để xử lý chúng. Cuối cùng, việc tích cực lắng nghe của nhà tư vấn sẽ giúp cho người được tư vấn tập trung hơn nữa vào vấn đề mà đương sự đang muốn thảo luận, thay vì cứ nói vòng vo ngoài lề.
NHỮNG CẢN NGẠI
Đâu là những cản ngại không cho phép chúng ta tích cực lắng nghe? Có lẽ cản ngại lớn nhất là sự tập trung chú ý đến vấn đề và giải pháp cho vấn đề thay vì tập chú đến cảm nghiệm chủ quan của người được tư vấn. Một số nhà tư vấn có những giải pháp “đóng hộp” sẵn cho nhiều loại vấn đề. Họ lắng nghe để nhận dạng vấn đề và rồi đưa ra những lời khuyên ‘tiền chế’ mà họ đã áp dụng trước đây.
Chính do cách làm như vậy mà những nhà tư vấn nói trên đôi khi không nghe được vấn đề thực của người ta, mà chỉ tập trung chú ý đến cái mà mình nghĩ là vấn đề. Nếu như họ biết tập chú đến những gì mà người kia đang nói hay đang cảm nghĩ, thì vấn đề thực của đương sự sẽ hiện lộ ra – và bấy giờ họ mới ở đúng vị trí thích đáng để giúp đương sự tìm ra giải pháp cho vấn đề.
Một cản ngại khác cho việc lắng nghe là sự lắng nghe có lựa lọc. Nghĩa là, nhà tư vấn chỉ lắng nghe những gì mình thích nghe mà thôi. Chẳng hạn, một nữ chuyên viên tư vấn đang giúp đỡ một phụ nữ khác về vấn đề hôn nhân; một cách vô thức, nữ chuyên viên này ủng hộ những lời than phiền của người phụ nữ kia về người chồng, vì thế không nhận ra được những dấu hiệu tế nhị cho thấy rằng người phụ nữ kia cũng có lỗi không kém chồng chị trong việc làm cho cuộc hôn nhân đổ vỡ.
Một cản ngại khác nữa là nỗi bức xúc nào đó tồn tại nơi chính nhà tư vấn và nhà tư vấn chưa bao giờ dứt điểm được - ví dụ như nỗi đau về thể lý và tâm lý mà nhà tư vấn đã chịu đựng do từng có một ông bố hung ác và nghiện ngập.[12] Khi người được tư vấn nói về một điều gì đó có sức gợi lên trong tâm trí nhà tư vấn kỷ niệm đau đớn này, thì nhà tư vấn không còn khả năng chăm chú vào những gì người kia nói, bởi vì tâm trí của vị này đã bị chiếm lĩnh bởi những hồi ức và cảm xúc của mình trong quá khứ.
Và cuối cùng, những sự chia trí cũng là cản ngại đối với việc lắng nghe. Sự chia trí có thể xảy ra do nội tâm hay do ngoại giới. Nếu chúng ta không có một nỗ lực tập trung tư tưởng, trí óc chúng ta dễ có khuynh huớng nghĩ lang mang. Điều này càng dễ xảy ra đối với những người có nhiều trách nhiệm khác nữa và thường chia trí về các trách nhiệm ấy. Khi chúng ta chia trí về một vấn đề khác, chúng ta sẽ bỏ mất một phần thông điệp mà người được tư vấn đang chuyển trao cho ta - và đó có thể là phần quan trọng nhất của thông điệp. Sự chia trí cũng có thể do bên ngoài, nghĩa là do bởi một điều chi đó bên ngoài chúng ta, ví dụ như tiếng điện thoại reo hay một ai đang nói ngoài cửa sổ. Vì thế, trong chừng mực có thể, việc tư vấn nên được tiến hành trong một môi trường tương đối bảo đảm không bị những chia trí do yếu tố bên ngoài. Nếu như hoàn cảnh không cho phép được như vậy, thì bạn nên chứng tỏ cho người được tư vấn thấy rằng bạn đang cố gắng lắng nghe họ nhưng rất tiếc rằng bạn cũng đang bị chia trí.
NẮM BẮT CỐT LÕI CỦA THÔNG ĐIỆP
Vấn đề chính mà người ta muốn thảo luận được gọi là cốt lõi của thông điệp.[13] Cốt lõi này cũng thường có ba yếu tố: nội dung, cảm xúc và ý nghĩa. Công việc của nhà tư vấn là phải tập trung chú ý vào cốt lõi này của thông điệp và rồi phản ảnh cốt lõi này cho người được tư vấn để họ hiểu rằng bạn nắm được vấn đề. và do đó bạn có khả năng giúp đỡ họ tìm ra một giải pháp cho vấn đề.
Cốt lõi thông điệp của một số người thường rất dễ nắm bắt. Với một chút khích lệ hay ngay cả chẳng cần khích lệ gì, những người này vẫn có thể diễn tả hoàn cảnh của họ một cách rành mạch. Tất cả điều bạn phải làm là lắng nghe và thỉnh thoảng phản ảnh lại những gì họ nói và như thế chứng tỏ rằng bạn đang lắng nghe họ và nắm hiểu điều họ đang nói. Rồi khi bạn đã nghe hết toàn bộ câu chuyện của họ, bạn nên trình bày lại cho họ điều mà bạn nghĩ là cốt lõi của vấn đề họ vừa trình bày.
Tuy nhiên, một số người trình bày rất lộn xộn rối rắm, và cốt lõi thông điệp của họ mất hút trong một rừng những chi tiết vòng vo vô định hướng. Trong trường hợp này nhiệm vụ của bạn là moi cho ra cốt lõi của thông điệp và phản hồi nó cho người được tư vấn để kiểm tra xem có chính xác không. Khi bạn trình bày cốt lõi của thông điệp người được tư vấn có thể trả lời: “Đúng rồi, những điều mà ông nói đều đúng cả,” hoặc cô ta điều chỉnh những điều bạn nói: “Vâng, đúng vậy, nhưng tôi không nghĩ rằng tôi phẫn uất về những gì anh ấy đã làm,” hay cô ta có thể phủ nhận và nói rằng “Không, không phải như vậy đâu”. Trong hai trường hợp sau cùng vừa nói trên, bạn có cơ hội để điều chỉnh những gì bạn nói và nhận định đúng đắn hơn tâm tư của đương sự. Một khi cả bạn và người kia đều ý niệm được rõ nét về những gì đang xảy ra trong cuộc sống của đương sự thì tiến trình tư vấn đã sẵn sàng để tiến sang bước kế tiếp.
Đôi lúc người kia trình bày thông điệp một cách không đầy đủ hay không sáng sủa. Một cách để làm sáng tỏ là đặt câu hỏi cho đương sự. Có hai loại câu hỏi: câu hỏi mở và câu hỏi đóng.[14] Câu hỏi mở là những câu hỏi mà người ta không thể trả lời bằng “Có” hoặc “Không” hay là bằng một hai từ cụt ngủn. Câu hỏi mở cho phép người ta trả lời bằng nhiều cách khác nhau. Ví dụ như: “Anh cảm thấy thế nào vấn đề đó?” hay “Bạn nghĩ gì về việc chia tay với anh ta?” Chức năng của câu hỏi mở là làm cho người ta cởi mở và nói nhiều hơn nữa về chủ đề. Đó là một cách để vừa tiếp tục cuộc đối thoại vừa thu thập thêm dữ liệu và thông tin về thông điệp chính yếu. Loại câu hỏi thứ hai là câu hỏi đóng. Câu hỏi đóng yêu cầu một câu trả lời chuyên biệt và không cho phép người được tư vấn triển khai bất cứ chủ đề nào mà đương sự muốn. Ví dụ như câu hỏi “Bạn có bao nhiêu con?” hay “Bạn đang sống ở đâu?”
Thường thì bắt đầu buổi tư vấn chúng ta sử dụng những câu hỏi mở bởi vì chúng ta muốn người được tư vấn nói về những gì là quan trọng đối với họ. Các nhà tư vấn thường nhận ra rằng việc sử dụng các câu hỏi mở sẽ giúp mình thu thập phần lớn các thông tin cần thiết để giúp cho thân chủ của mình. Nếu bạn khích lệ người kia bộc bạch tâm sự, họ thường sẽ trình bày cho bạn một bức tranh khá đầy đủ và chính xác về hoàn cảnh của họ. Nếu như sau khi người kia đã trình bày câu chuyện mà bạn còn cần thêm thông tin để nắm hiểu sáng tỏ hơn, thì lúc đó bạn có thể dùng đến các câu hỏi đóng. Nếu như bạn không chắc chắn người kia muốn nói gì trong một câu phát biểu nào đó thì bạn có thể đặt câu hỏi đóng để làm rõ ý nghĩa. Một ví dụ cho trường hợp này như : “Tôi tự hỏi liệu quyết định của bạn đã rõ ràng chưa; tôi thấy bạn có vẻ hơi do dự. Phải thế không ạ?”. Như vậy bạn sẽ khai thông được những điều hàm hồ và tạo cơ hội cho người được tư vấn triển khai thêm chủ đề đang được thảo luận. Đồng thời nhờ đó bạn cũng có thể kiểm tra lại tính chính xác của những gì mà bạn nghĩ mình đã nghe được.
NHỮNG CHỈ NAM CHO VIỆC ĐẶT CÂU HỎI
Đây là một số chỉ nam cho việc đặt các câu hỏi:
1. Hỏi mỗi lần một câu thôi. Nếu bạn phủ đầu người ta bằng một loạt câu hỏi, họ sẽ không thể nhớ hết và thường họ chỉ trả lời có một câu trong số đó thôi. Khi đã trả lời xong cho câu hỏi này, họ quên phứt mất những câu hỏi còn lại.
2. Câu hỏi phải ngắn và vào đúng trọng tâm. Những câu hỏi dài và mơ hồ thường làm cho người ta rối trí.
3. Khi nêu câu hỏi, bạn phải tính đến trình độ học vấn của người nghe; sử dụng những từ ngữ mà đương sự có thể hiểu được.
4. Tránh kiểu câu hỏi ‘Tại sao’ thuộc dạng như “Tại sao anh làm thế ?” Câu hỏi như vậy dễ gây cho người ta ấn tượng rằng họ bị khiển trách, và vì thế họ sẽ tự vệ. Hãy đặt các câu hỏi “Như thế nào”, “Ở đâu”, “Cái gì”...
5. Tránh sử dụng các câu hỏi có lồng lời khuyên trong đó, như : “Chị không nghĩ rằng chị nên gọi điện thoại cho mẹ chị sao?”. Nếu bạn cảm thấy muốn đưa ra lời khuyên thì bạn hãy khuyên một cách trực tiếp.
6. Hãy thận trọng với những câu hỏi có tính chủ ý gài người ta vào câu trả lời sẵn (leading question). Việc sử dụng khéo léo một loạt câu hỏi có thể dẫn người được tư vấn đến những kết luận của bạn, và họ thường không thực sự chấp nhận những kết luận này. Những câu hỏi ‘gài’ như vậy có thể là một cách áp đặt giải pháp của bạn cho người được tư vấn.
VIỆC CHUYỂN ĐỔI TIÊU ĐIỂM
Để giúp người kia khảo sát mọi góc cạnh của vấn đề đang xảy ra, đôi lúc cần phải thay đổi tiêu điểm của cuộc đối thoại.[15] Tiêu điểm có thể nhắm vào chính bản thân người được tư vấn, hoặc nhắm vào những người khác (như vợ / chồng hay bạn bè), hoặc nhắm đến hoàn cảnh (như công việc, gia đình); tiêu điểm có thể thuộc quá khứ, hiện tại hay tương lai. Một khi người kia đã thảo luận xong một khía cạnh của vấn đề, có thể cần một cái thúc khuỷu tay để lái đương sự sang một khía cạnh khác. Đây là việc chuyển đổi tiêu điểm. Chẳng hạn, một phụ nữ gặp vấn đề về hôn nhân có thể đã trình bày xong toàn bộ mối quan hệ của chị ta và chồng mình nhưng xem chừng không thể thoát ra khỏi chủ đề này. Bạn có thể hỏi chị ta về mối quan hệ của chị với các con.
Một số người có xu hướng trôi giạt từ chủ đề này đến chủ đề kia mà không nói hết được một chủ đề nào. Một số người khác thì chỉ nói loanh quanh ngoài lề một đề tài mà không đi vào trọng tâm của vấn đề. Những người này cần được giúp đỡ để tập chú vào một tiêu điểm và giữ vững tiêu điểm đó. Có thể làm điều này bằng cách kéo sự chú ý của họ vào một vấn đề chính họ vừa đề cập mà bạn thấy là quan trọng. Bạn có thể nói: “Khi nãy cô nhắc đến người bạn của cô. Cô có thể nói cho tôi rõ hơn về người bạn này không?”
Một số người khác lại có xu hướng không bao giờ nói về chính họ. Họ muốn bạn chỉ cho họ cách để họ có thể thay đổi người khác, chứ không phải thay đổi chính bản thân họ. Một người chồng có thể sốt sắng nói về vấn đề của vợ anh ta chứ không phải vấn đề của chính anh ta. Nếu như bạn bị rơi vào cái bẫy này và cứ mải loay hoay bàn với anh ta về những biện pháp để thay đổi cách cư xử của bà xã, thì bạn đã cho phép anh ta tránh né trách nhiệm khảo sát chính bản thân anh - và vì thế rất có thể hạn chế nhiều hiệu quả tích cực mà buổi tư vấn có thể mang lại cho anh ta. Cần phải khuyến khích một cách tế nhị để người đàn ông này xem lại chính bản thân, rất có thể do anh mà vợ anh đã đi đến cách ứng xử như thế. Việc bàn luận về vấn đề của một người thứ ba có thể làm cho người đối thoại với bạn tin rằng chính người thứ ba ấy mới có vấn đề, còn mình thì không.
Một lỗi khá phổ biến trong việc tư vấn, đó là tình trạng nhảy lung tung từ tiêu điểm này sang tiêu điểm khác mà không có tiêu điểm nào được thảo luận rốt ráo. Chẳng hạn khi đang thảo luận về mối quan hệ của một người vợ với chồng chị thì nhà tư vấn xen ngang: “Thế các con của cô phản ứng thế nào trước sự hục hặc giữa hai vợ chồng cô?” Ngay tức khắc sự chú ý của người phụ nữ này sẽ hướng về những đứa con và có thể chị không bao giờ đề cập lại mối quan hệ với chồng – là vấn đề vốn còn bỏ lửng.
TỔNG LƯỢC
Trong cuộc đối thoại tư vấn, người nói mong muốn trao cho nhà tư vấn một thông điệp. Thông điệp này bao gồm nội dung, cảm nghĩ và ý nghĩa. Nhiệm vụ chính của nhà tư vấn là tập trung toàn bộ sự chú ý của mình vào thông điệp và cố hiểu cốt lõi của thông điệp này. Sau đó nhà tư vấn cần phải thông đạt cho người được tư vấn rằng mình đã nhận hiểu điều đương sự muốn nói.
Thông điệp này có thể được nhận ra không chỉ nơi những lời người ta nói nhưng còn ở cách nói của họ nữa, ở điệu bộ và dáng vẻ của họ, và thậm chí cả ở những gì mà họ không nói ra.
Có nhiều kỹ năng giúp nhà tư vấn thông báo cho người được tư vấn biết rằng mình nắm hiểu đầy đủ thông điệp, chẳng hạn việc lắng nghe tích cực, việc phản ảnh lại nội dung và cảm nghĩ của người kia, việc tóm tắt, làm sáng tỏ, đặt câu hỏi và việc xác định tiêu điểm. Biết sử dụng những kỹ năng ấy, nhà tư vấn sẽ cải thiện được đáng kể hiệu năng công việc của mình.
[1] Lawrence M. Brammer, The Helping Relationship (ấn bản lần thứ ba). Englewood Cliffs: Prentice-Hall, 1985, tr. 65-66.
[2] Ibid., tr. 81-83.
[3] Ibid., tr. 74-75.
[4] Michael E. Cavanagh, The Counseling Experience. Monterey: Brooks/Cole, 1982, tr. 157-159.
[5] Gerard Egan, The Skilled Helper (ấn bản lần thứ hai). Monterey: Brooks/Cole, 1982, tr. 86-90.
[6] Carl Rogers, A Way of Being. Boston: Houghton Mifflin, 1980, tr. 142.
[7] Egan, op. cit., tr. 88.
[8] Rogers, op. cit., tr. 144-145.
[9] George Levinger và C. Moles, Divorce and Separation. New York: Basic Books, 1979, tr. 201-202.
[10] Ibid., tr. 204.
[11] Ibid. ,tr. 63-65.
[12] Cavanagh, op. cit., tr. 196-197.
[13] David G. Martin, Counseling and Therapy Skills, Monterey: Brooks/Cole, 1983, tr. 3-16.
[14] Alfred Benjamin, The Helping Interview (ấn bản lần thứ hai). Atlanta: Houghton Mufflin, 1974, tr. 67-69.
[15] Brammer, op. cit., tr. 69-70.
§7. TÁC ĐỘNG TRÊN ĐỐI TƯỢNG TƯ VẤN
Các kỹ năng theo dõi, lắng nghe và phản ảnh đều tập chú vào thế giới nội tâm của người kia. Mục đích của các kỹ năng ấy là nhằm giúp đương sự hiểu rõ hơn về chính mình và về tình trạng của mình, và nhờ vậy có thể thực hiện những thay đổi cần thiết nơi chính mình hay nơi môi trường sống của mình. Việc theo dõi và lắng nghe chỉ có kiến hiệu khi nhà tư vấn cố gắng nhận hiểu thông điệp của người kia từ góc nhìn của chính đương sự. Nhiều trường hợp việc sử dụng các kỹ năng lắng nghe và phản ảnh là đủ để giúp người kia giải quyết bất cứ vấn đề gì mà đương sự nêu ra. Nhưng cũng có nhiều trường hợp khác, bạn cần đi xa hơn hai kỹ năng trên để vận dụng các kỹ năng tác động nữa.
Có thể xem việc tư vấn như một tiến trình tương tác liên vị. [1] Những kỹ năng theo dõi và lắng nghe sẽ ảnh hưởng gián tiếp còn những kỹ năng tác động thì ảnh hưởng trực tiếp trên người được tư vấn. Việc sử dụng có hiệu quả các kỹ năng tác động sẽ phát xuất từ sự thấu cảm của nhà tư vấn đối với hoàn cảnh của người được tư vấn – và sự thấu cảm này dựa trên khung quy chiếu của người được tư vấn. Khi nhà tư vấn không hiểu được tình cảnh mà người kia đang trải qua từ quan điểm của chính đương sự, sẽ có nguy cơ nhà tư vấn sử dụng các kỹ năng tác động một cách sai lầm hoặc chỉ cố gắng giúp đương sự giải quyết một vấn đề mà thực ra không phải là vấn đề của đương sự – bởi kỳ thực đó chỉ là một vấn đề do nhà tư vấn tưởng tượng ra mà thôi.
Những kỹ năng tác động thường được sử dụng nhất trong tư vấn mục vụ là:
(1) Cung cấp thông tin,
(2) Chỉ dẫn,
(3) Trấn an,
(4) Đối chất,
(5) Dìu dắt,
(6) Đưa ra đề nghị hay lời khuyên.
Mục đích của những kỹ năng này là giúp cho người được tư vấn thay đổi cách nghĩ, cách cảm nhận, cách hành động, cách quan hệ với người khác và nhờ vậy đương sự sẽ có khả năng giải quyết được vấn đề vốn đã thúc đẩy đương sự đến với cuộc tư vấn.
CUNG CẤP THÔNG TIN
Cung cấp thông tin là cung cấp cho người ta những dữ kiện liên quan đến các kinh nghiệm, các biến cố, các con người; thường thì những dữ kiện này có sức trao cho đương sự một cách nhìn khác về tình hình và do đó có thể đề xuất những giải pháp khác nữa cho vấn đề.[2] Có những trường hợp người được tư vấn không cần bất cứ gì khác ngoài những thông tin. Hãy lấy ví dụ một người phụ nữ đến văn phòng tư vấn hôn nhân gia đình và muốn biết thông tin liên quan đến vấn đề tiêu hôn. Tín nhiệm vào văn phòng tư vấn này, chị muốn hỏi xem trường hợp của mình có hợp lệ để tiêu hôn không và đâu là những cơ hội của mình để đạt được một sự tiêu hôn như thế. Nếu bạn che giấu thông tin vì nghĩ rằng người phụ nữ này có một vấn đề riêng nào đó cần phải được xử lý, thì như vậy là bạn đang bỏ qua một cơ hội để giúp đỡ người phụ nữ này, vì bạn đang tước mất của chị một dịp để xem xét đến một khả năng chọn lựa trong khi chị đang cố gắng tìm kiếm một giải pháp cho vấn đề hôn nhân của mình.
Vậy khi nào thì nên cung cấp thông tin? Câu trả lời hiển nhiên nhất là khi người kia yêu cầu được cung cấp thông tin. Nếu bạn lắng nghe với đủ sự chăm chú thì bạn thường sẽ phân biệt được khi nào người kia đang muốn tìm kiếm thông tin, khi nào đương sự đang muốn thăm dò xem thử bạn sẽ phản ứng thế nào, và khi nào đương sự chủ ý tìm thông tin để dẫn tới điều mà đương sự vốn nhắm sẵn. Khi người kia tỏ dấu không thỏa mãn với câu trả lời của bạn, thì rất có thể đấy là vì đương sự không đang thật sự tìm kiếm thông tin mà chỉ nhằm kiểm tra xem lập trường của bạn thế nào. Một khi bạn đã bộc lộ quan điểm dứt khoát, thì người kia hoặc sẽ cho biết lý do thật sự vì sao họ đến đây hoặc sẽ chấm dứt cuộc trao đổi nhanh nhất có thể. Nhiều người khác có thể đặt câu hỏi tìm thông tin để thăm dò xem bạn có sắp sửa đưa ra lời phán xét về hành vi của họ hay không.
Đôi khi các nhà tư vấn cung cấp thông tin mà không cần có sự yêu cầu của người được tư vấn, bởi vì nhà tư vấn nghĩ rằng những thông tin ấy sẽ hữu ích cho đương sự về sau này. Thường thì việc cung cấp những thông tin có ít hay không có liên hệ đến vấn đề đang bàn luận sẽ không gây ấn tượng mấy cho người ta. Người ta hoặc không nghe hoặc nghe rồi thì cũng rất mau quên.
Nhiều trường hợp, chính người được tư vấn không ý thức rằng mình cần phải biết một số dữ kiện nào đó để giải quyết vấn đề của mình. Ví dụ một thiếu nữ lỡ mang thai sẽ cần phải biết rằng mình còn có nhiều sự chọn lựa khác nữa chứ không phải chỉ có duy nhất một cách là phá thai. Vì vậy, nhà tư vấn phải cho đương sự biết những khả năng chọn lựa khác ấy. Đàng khác, đôi khi người được tư vấn có những niềm tin không đúng đắn và cần phải được giúp điều chỉnh – chẳng hạn một phụ nữ tin rằng việc ly thân với anh chồng vũ phu của mình là điều trái với luân lý.
Đôi khi người ta không lường trước được những hậu quả xảy ra do quyết định của mình, chẳng hạn một phụ nữ chia tay với chồng và quyết định tranh đấu tại tòa án để giành toàn quyền nuôi dạy hai đứa con nhỏ – mà chị ta không hề thấy trước rằng mình sẽ vất vả đến kiệt sức vì phải lo lắng cho con cái nếu không có sự hỗ trợ từ phía người chồng ly thân của chị. Một phụ nữ như thế rất cần có người chỉ cho chị thấy các hậu quả có thể gắn liền với quyết định của chị, để giúp phòng tránh những bất hạnh cho bản thân chị và cho con cái chị.
Thông tin cần được trao một cách đơn giản. Nó chỉ nên được thông đạt chứ không áp đặt. Một thái độ độc đoán, tự mãn của nhà tư vấn có thể gây khó chịu cho người kia và khiến họ coi thường những thông tin mà nhà tư vấn muốn chuyển trao.
VÀI HƯỚNG DẪN CHO VIỆC CUNG CẤP THÔNG TIN
1. Hãy bảo đảm rằng thông tin mà bạn đang chuyển trao là đúng. Nếu bạn không chắc hoặc không biết thông tin ấy, hãy tra cứu lại và hẹn trả lời đương sự vào lần sau.
2. Đừng nhập nhằng thông tin với những quan điểm cá nhân của bạn.
3. Thông tin phải được diễn đạt một cách dễ hiểu. Đừng quên rằng nhiều người không hiểu được ngôn ngữ thần học.
4. Yếu tố thời gian rất quan trọng. Nên trao thông tin khi người kia cần thông tin và sẵn sàng để đón nhận thông tin; nghĩa là, bạn có thể phải chuẩn bị bối cảnh phù hợp trước khi trao thông tin.
5. Hãy nhớ rằng một số thông tin có thể gây tác động tâm cảm cho người kia. Sau khi trao thông tin, bạn nên trao đổi với đương sự về cảm xúc của đương sự khi đón nhận thông tin ấy.
6. Trao quá nhiều thông tin có thể gây ‘quá tải’. Hãy trao thông tin với liều lượng chừng mực thôi.
7. Đừng mắc cỡ và tránh né việc trao những thông tin không dễ chịu duy chỉ vì bạn thấy khó nói lên những thông tin đó.[3]
CHỈ DẪN
Một kỹ năng tác động khác là cung cấp sự chỉ dẫn. Chỉ dẫn nghĩa là cho người ta biết họ nên làm gì, làm như thế nào, nên tránh điều gì.[4] Đôi khi người ta cần được dạy cho biết cách hành động, nhất là khi họ rơi vào một tình hình mới. Hãy lấy ví dụ trường hợp người mẹ của cậu thiếu niên đang hút cần sa mà chúng ta đã nhắc đến ở chương trước. Vì đây là lần đầu tiên chị gặp phải vấn đề này, nên nhà tư vấn có thể cần phải nói cho chị biết chị nên hành động như thế nào – hơn là duy chỉ giúp chị tìm ra một quyết định về điều mà chị phải làm. Nhà tư vấn có thể nói với người phụ nữ ấy như sau: “Tôi cho đây là điều chị nên làm: Hãy nói với con trai chị rằng chị đã bắt gặp cần sa trong túi quần của nó - và cho nó biết rằng chị đang lo lắng về nó và về sức khỏe của nó. Rồi một lúc nào khác sau đó, chị có thể giải thích cho nó về những hậu quả tai hại của việc sử dụng cần sa. Theo những gì chúng ta biết thì những hậu quả của việc tiếp tục sử dụng cần sa là ... “ Lời chỉ dẫn khác với lời khuyên ở chỗ khi bạn trao lời chỉ dẫn thì bạn đang dạy cho người ta một điều chi đó mà họ vốn không biết; còn khi bạn trao lời khuyên thì bạn đề nghị người ta làm một điều mà họ vốn đã có nghĩ đến rồi.
Lời chỉ dẫn cần được trình bày một cách trực tiếp. Khi người kia cần biết về một cách khác nữa để giải quyết vấn đề hay cần phải hành động nhưng lại có quá ít hay hoàn toàn không có kinh nghiệm để dựa vào, hoặc vì quá bấn loạn không thể đưa ra một quyết định, thì lời chỉ dẫn của nhà tư vấn sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc giúp đương sự.
VÀI HƯỚNG DẪN CHO VIỆC CUNG CẤP SỰ CHỈ DẪN
1. Sự chỉ dẫn phải tương hợp với đối tượng cụ thể. Hãy diễn đạt sự chỉ dẫn bằng ngôn ngữ mà đối tượng có thể hiểu một cách dễ dàng. Hãy cố diễn đạt thật đơn giản.
2. Sau khi đã đưa ra sự chỉ dẫn, hãy kiểm tra xem đối tượng có nắm hiểu hay không. Thường thì bạn nên yêu cầu đối tượng tóm tắt những gì bạn vừa nói.
3. Hãy cố gắng tránh tính cách giáo điều. Tốt nhất là kiêng kỵ các kiểu nói như “Anh nên làm thế này, thế nọ...” Thay vào đó, nên nói: “Tôi nghĩ rằng sẽ hữu ích nếu như anh làm các bước sau ...”
4. Hãy chỉ rõ những lý do tại sao cần theo các chỉ dẫn ấy.[5]
TRẤN AN
Có vô số lý do khiến một số người cảm thấy không thể theo các chỉ dẫn của bạn. Như vậy họ cần được đảm bảo rằng họ có khả năng để thực hiện những chỉ dẫn ấy. Ở đây, trấn an là nói với họ rằng bạn tin vào họ và tin vào khả năng của họ. Bạn nói rằng bạn nghĩ họ sẽ thành công.[6] Bạn vỗ vai người ta và giúp họ xử lý vấn đề – bất cứ vấn đề gì.
Chẳng hạn, người mẹ trên kia có thể cảm thấy quá ngần ngại việc gặp và trao đổi trực tiếp với con trai mình về chuyện nó chơi cần sa. Chị sợ rằng chị sẽ không làm chủ được mình và sẽ nổi giận – và như vậy sẽ càng làm cho vấn đề trở nên tệ hại hơn. Chị cần được trấn an rằng chị có thể thảo luận chuyện này với con trai chị. Nhà tư vấn có thể trấn an bằng cách nói như sau: “Chị đã có thể nói chuyện về vấn đề của con trai chị với tôi một cách khá điềm tĩnh. Tôi nghĩ rằng chị cũng sẽ có đủ sự bình tĩnh và sự hiểu biết để ngồi xuống và thảo luận sự việc này với con trai chị. Tôi tin chắc chị có khả năng để làm được chuyện ấy.”
VÀI HƯỚNG DẪN CHO VIỆC TRẤN AN
1. Trước khi đưa ra sự trấn an, hãy nắm chắc rằng đó là một sự trấn an có cơ sở vững vàng. Việc đưa ra những sự trấn an không có cơ sở có thể khiến người ta nghi ngờ rằng bạn không hiểu tâm trạng của họ và không hiểu vấn đề mà họ đang nói.
2. Chỉ đưa ra sự trấn an khi bạn nghĩ rằng mình đánh giá đúng về các điểm mạnh và các điểm yếu của đương sự, cũng như hiểu được yêu cầu của tình hình.
3. Phải tự tin và dứt khoát khi đưa ra sự trấn an. Những sự bảo đảm nửa vời hay bất quyết có thể làm suy giảm sự tự tin của đối tượng tư vấn.
4. Dùng phương thế này một cách dè dặt thôi. Bạn chỉ trấn an khi bạn nghĩ điều này thật sự cần thiết và có hy vọng đem lại kiến hiệu.
ĐỐI CHẤT
Một cách khác nữa để tác động đến suy nghĩ và hành động của người ta, đó là đối chất. Đối chất là vạch ra cho người kia thấy những lủng củng hay lệch lạc trong thông điệp hay trong cung cách ứng xử của người ấy. Đối chất là lột trần những lủng củng, những sự bóp méo, những ‘hỏa mù’ mà người kia sử dụng nhằm tránh né việc nhận hiểu chính mình và tránh né việc thay đổi cách hành động của mình. Đó là một “sự mời gọi khảo sát lại dạng ứng xử nào đó xem ra thất sách hay gây tai hại cho kẻ khác và đồng thời mời gọi đương sự thay đổi thái độ nếu quả thực dạng ứng xử kia được thấy là không ổn.”[7] Thường thì khi trao một thông điệp mâu thuẫn, người ta không ý thức rằng mình đang làm thế; bởi vậy, công việc của nhà tư vấn là chọn đúng thời điểm thích hợp để giúp cho người kia nhận ra tính mâu thuẫn trong thông điệp của đương sự. Ví dụ một người đàn ông nói rằng ông thường làm việc muộn vào buổi chiều và không về nhà ăn tối – song đồng thời ông cũng nói rằng ông rất thích quây quần với vợ con ông. Khi được chất vấn, ông thú nhận rằng ông không bị buộc phải làm việc ngoài giờ, song ông chọn làm thêm việc ngoài giờ bởi vì ông thích bầu khí yên tĩnh một mình sau khi các đồng nghiệp đã ra về. Như vậy, người đàn ông này cần phải làm rõ sự thiếu nhất quán giữa lời ông nói rằng ông thích quây quần với vợ con và việc ông tự ý chọn làm việc trễ đến độ không thể về nhà ăn tối với gia đình. Ví dụ khác, một phụ nữ trẻ sống độc thân và nói với bạn rằng thật tuyệt vời được sống độc thân và được độc lập khỏi mọi ràng buộc – nhưng giọng nói cũng như cách nói của cô cho bạn thấy rằng đó chẳng qua là cô ta đang tự ép mình tin như thế.
Nghe hai tiếng “đối chất”, chúng ta dễ liên tưởng đến sự tấn công. Kỳ thực đối chất không có nghĩa là tấn công.[8] Để đạt được kiến hiệu, đối chất phải được xây dựng trên sự thấu cảm – nghĩa là, bạn phải hiểu rõ cách nhìn và tâm trạng của người kia đối với vấn đề của chính đương sự. Sự đối chất của bạn phải là một lời mời gọi người kia nhìn lại chính bản thân họ để nhận ra rằng một cái gì đó đang không ổn. Qua sự đối chất của bạn, người kia phải nhận ra rằng bạn đang rất quan tâm tới đương sự và đang cố giúp đỡ đương sự.
Trước khi đối chất với một người, bạn nên có mối quan hệ tốt đẹp với người đó đã. Người ấy sẽ tín nhiệm bạn và cảm thấy rằng bạn đang quan tâm và đang muốn giúp đỡ mình. Vì thế, sự đối chất ít khi được dùng khi bạn mới lần đầu tiên gặp và nói chuyện với người ta. Nếu bạn thấy cần phải đối chất sớm một ai đó, thì hãy liệu sao cho khéo léo để đương sự không cảm thấy rằng bạn đang tấn công họ.
Nói chung, sự đối chất không phải là một việc dễ dàng cho cả nhà tư vấn lẫn người bị đối chất – vì việc đối chất thường nhắm buộc người kia phải đối diện với điều mà đương sự không muốn đối diện. Ở đây ta thấy thời gian tính là yếu tố vô cùng quan trọng. Bạn nên chuẩn bị cho người kia đón nhận sự đối chất của bạn. Nếu đương sự tự vệ, đương sự thường sẽ phủ nhận sự thật mà bạn nêu ra hoặc sẽ cố cãi lại; trong trường hợp này, tốt nhất bạn đừng cố áp đảo nhưng hãy tạm cho qua và sẽ đề cập lại vấn đề khi nào đương sự dễ chấp nhận hơn. Đối chất là một công việc phải được làm một cách tế nhị và phải hết sức dè dặt.
VÀI HƯỚNG DẪN CHO VIỆC ĐỐI CHẤT
1. Chỉ đối chất khi bạn thực sự quan tâm tới người kia.
2. Không bao giờ đối chất khi bạn đang chán nản hay tức giận.
3. Chỉ đối chất khi bạn chắc chắn rằng bạn hiểu người kia và hiểu vấn đề của đương sự.
4. Hết sức tránh việc đối chất ở lần gặp đầu tiên. Hãy đợi cho đến khi bạn đã thiết lập được một mối tương quan tốt với người ấy đã.
5. Khi đối chất, bạn hãy dùng những câu nói với chủ từ ngôi thứ nhất (tôi) hơn là ngôi thứ hai (anh / chị). Đừng nói giọng tố cáo người ta, kiểu: “Chị đang bóp méo các dữ kiện”, nhưng nên nói: “Tôi nghĩ rằng chị đang bóp méo các dữ kiện.”
6. Trong hết khả năng có thể, hãy dùng các dữ kiện thực tế để đối chất, đừng dùng các quan điểm hay các suy diễn của mình.
7. Hãy bảo đảm rằng người kia đang sẵn sàng nghe sự đối chất của bạn. Hãy dìu dắt đương sự vào cuộc đối chất.
8. Dùng sự đối chất một cách dè dặt thôi – chỉ khi nào bạn nghĩ rằng việc đối chất sẽ có thể giúp đem lại một thay đổi đáng kể trong cung cách ứng xử hay cách suy nghĩ của đương sự.
DÌU DẮT
Tiến trình tư vấn có thể được xem như một hình thức dạy bảo người ta – nhắm mục đích là giúp người ta học một điều chi đó mới. Xét như một tiến trình dạy bảo, việc tư vấn nhằm giúp người ta học biết những cách thế mới để dàn xếp với chính mình, với người khác và với môi trường của mình.[9] Một phương pháp để dạy bảo là phương pháp sản ý của Socrates, triết gia Hy Lạp. Socrates đã sử dụng một loạt các câu hỏi được hình thành một cách bài bản để dẫn dắt các học trò của ông đi tới những kết luận nào đó. Ứng dụng vào việc tư vấn, phương pháp này được gọi là dìu dắt, nghĩa là nhà tư vấn làm cho đối tượng tư vấn chấp nhận giải pháp của mình đối với một vấn đề bằng cách vận dụng một loạt các câu hỏi.
Cần nhấn mạnh ở đây rằng nhà tư vấn dìu dắt đối tượng tư vấn đến với một giải pháp của mình chứ không phải của đương sự. Chẳng hạn, bạn nghĩ rằng người phụ nữ kia nên bỏ công việc làm hiện tại của chị. Bạn đặt một loạt câu hỏi sao cho các câu trả lời sẽ nêu bật sự bất mãn của chị đối với công việc ấy – và như vậy loạt câu hỏi ấy sẽ làm cho chị chấp nhận cái kết luận rằng chị nên bỏ công việc làm hiện tại của mình. Nhà tư vấn dẫn dắt đương sự tới một kết luận có thể không phải là của chính đương sự và có thể đương sự không hề muốn. Tiến trình này thật ra là một hình thức kín đáo trao lời khuyên. Thay vì nói thẳng với đương sự về điều mà đương sự nên làm, nhà tư vấn từ từ dìu dắt đương sự bằng một loạt câu hỏi.
Phương pháp sản ý của Socrates là hình thức dìu dắt trực tiếp nhất mà một nhà tư vấn có thể dùng. Có một hình thức dìu dắt khác, trong đó người được tư vấn không được dẫn tới chỗ chấp nhận quan điểm của nhà tư vấn. Hình thức dìu dắt này được gọi là định tiêu điểm cho cuộc đối thoại.[10] Một ví dụ của việc định tiêu điểm này có thể được nhận thấy trong cuộc phỏng vấn trong đó nhà tư vấn quyết định rằng thật rất cần thiết việc anh chồng này phải khảo sát lại cảm nghĩ của mình đối với người vợ đang xa rời và lạnh lùng đối với mình, rồi nhà tư vấn cố gắng định lại tiêu điểm cho cuộc thảo luận bằng cách hỏi: “Ơ, hồi nãy anh nói rằng anh và vợ anh vốn thường có những cuộc cãi vã dữ dội. Anh hãy nói rõ hơn về những cuộc cãi vã ấy và nhất là xin anh cho biết cảm nghĩ của anh trong những lúc hục hặc với vợ như vậy.” Đặt câu hỏi như thế, nhà tư vấn sẽ làm cho đương sự rời bỏ chủ điểm mà đương sự đang nói để trở lại với một điều mà đương sự đã từng nhắc qua trước đó.
VÀI HƯỚNG DẪN CHO VIỆC DÌU DẮT
1. Khi sử dụng kỹ năng này, hãy ý thức rằng bạn đang nhắm đến một chiều hướng mà đương sự sẽ nhắm. Giải pháp là của bạn, chứ không phải của người kia.
2. Chỉ sử dụng phương pháp sản ý của Socrates khi bạn xác tín rằng người kia không thể giải quyết vấn đề bằng cách nào khác.
3. Chỉ sử dụng phương pháp định lại tiêu điểm đối thoại khi chủ đề đang nói đã đi đến rốt ráo và bạn thấy cần thiết phải quay trở lại một chủ đề đã được thảo luận trước đó. Đừng định lại tiêu điểm khi bạn đang thảo luận với đương sự về một chủ đề khác.
4. Khi dìu dắt, bạn phải xác định rõ bạn muốn đưa người kia đi tới đâu.
5. Hãy cho phép người kia được tự do đi theo hay không đi theo sự dìu dắt của bạn.
6. Sau một buổi nói chuyện tư vấn, bạn hãy kiểm điểm xem mình có đã dìu dắt đương sự không. Nhiều khi do muốn nhanh chóng tìm ra giải pháp, rất có thể chúng ta dìu dắt người ta mà chính chúng ta không ý thức.[11]
ĐƯA RA ĐỀ NGHỊ VÀ LỜI KHUYÊN
Nhiều người tìm kiếm sự tư vấn nhằm để có được những lời khuyên. Khuyên một người là nói cho người ấy biết nên làm gì, làm như thế nào, và không nên làm gì.[12] Đề nghị là một dạng lời khuyên, chỉ khác ở chỗ nó nhẹ nhàng hơn lời khuyên. Nó là lời khuyên được đưa ra một cách thăm dò. Nhà tư vấn đưa ra lời đề nghị là quan điểm đã được mình cân nhắc, nhưng vẫn bỏ ngõ cho người được tư vấn có quyền chấp nhận hay từ khước.[13] Trong khi đó lời khuyên có tính đòi hỏi quyết liệt hơn. Khi đưa ra lời khuyên, nhà tư vấn nói cho người được tư vấn biết đương sự phải nên làm gì, chẳng hạn: “Tôi nghĩ nếu người chủ việc đối xử với chị như vậy thì chị nên bỏ công việc làm đó.” Khi chúng ta, trong tư cách là nhà tư vấn, đưa ra cho người ta lời khuyên, thì đó là chúng ta đang đưa ra quan điểm của mình và nhằm cho họ biết chúng ta sẽ làm gì nếu chúng ta ở trong hoàn cảnh của họ.
Lời khuyên có thể được đưa ra bằng nhiều cách khác nhau và vì nhiều lý do khác nhau. Bạn có thể khuyên trực tiếp bằng cách nói: “Tôi nghĩ chị nên bỏ công việc mà chị đang làm,” hoặc khuyên một cách gián tiếp dưới dạng một câu hỏi, chẳng hạn: “Tôi không biết chị đã có bao giờ nghĩ đến việc bỏ chỗ làm đó chưa.” Chúng ta có thể đưa ra lời khuyên bởi vì chúng ta xác tín rằng đó là giải pháp tốt nhất cho người kia, hoặc bởi vì chúng ta nghĩ rằng lời khuyên là cái mà đương sự cần và chúng ta muốn đáp ứng, cũng có thể bởi vì chúng ta thấy rằng đó là cách ít tốn thời giờ nhất cho một cuộc phỏng vấn. Dù có ý thức hay không, đa số trong chúng ta đều đưa ra lời khuyên – bằng dạng này hay dạng khác – một cách thường xuyên hơn mình tưởng rất nhiều.
Dĩ nhiên có những lúc chúng ta cần đưa ra lời khuyên; song những trường hợp như vậy rất họa hiếm. Trong tư cách là nhà tư vấn, chúng ta thường phạm sai lầm không phải ở chỗ chúng ta đã không đưa ra lời khuyên khi cần cho bằng bởi vì chúng ta quá lạm dụng lời khuyên trong khi tốt hơn chỉ nên trợ giúp để người ta tự quyết định điều họ cần làm. Lời khuyên có thể gây hại cho người ta nếu nó làm họ mất tự tin vào khả năng của chính họ trong việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống thường ngày và làm họ trở thành lệ thuộc quá đáng vào lời khuyên của người khác.
Trong trường hợp đối tượng trực tiếp xin lời khuyên, tốt nhất bạn nên nắm chắc rằng bạn đã nắm hiểu thấu đáo vấn đề của đương sự trước khi quyết định nên hay không nên đưa ra lời khuyên. Việc nói lên quan điểm của mình ngay tức thời sẽ dễ rơi vào nguy cơ trao cho người ta lời khuyên kém chất lượng – vì rất có thể lời khuyên của bạn đang dựa trên những dữ kiện không thích đáng. Bạn nên yêu cầu đương sự trình bày toàn bộ tình hình, càng kỹ càng tốt, rồi có thể bạn cũng cần đặt một số câu hỏi để làm sáng tỏ những khía cạnh mà bạn chưa thấu triệt. Bấy giờ, bạn đã sẵn sàng để quyết định có cần đưa ra lời khuyên hay không – và nếu cần khuyên, thì khuyên như thế nào. Việc đương sự trình bày chi tiết vấn đề sẽ không chỉ giúp bạn nắm hiểu vấn đề mà đồng thời còn giúp chính đương sự nhận hiểu vấn đề một cách sáng tỏ hơn. Đôi khi, do người ta đã thấy rõ được vấn đề, chính họ sẽ có thể nghĩ ra những cách thế giải quyết, và họ không cần đến lời khuyên của bạn nữa.
Tuy nhiên, nếu bạn vẫn xác quyết rằng bạn cần phải đưa ra cho đương sự lời khuyên, hoặc vì đương sự không đủ sáng suốt để tự mình giải quyết vấn đề, hoặc vì đương sự đang ở trong tình trạng quá bấn loạn tâm cảm, hoặc vì một lý do chính đáng nào đó khác ... thì tốt nhất bạn nên đưa ra lời khuyên trong một hình thức dè dặt, chẳng hạn: “Chị có bao giờ nghĩ đến việc ... không?” hay “Biết đâu cách này có thể là một giải pháp cho vấn đề của bạn đấy chứ ?” Đưa ra lời khuyên như vậy là cho phép người ta từ chối hay điều chỉnh lời khuyên của mình. Những người thật sự cần lời khuyên thường sẽ đón nhận tất cả những gì bạn đề nghị, bởi vì bạn là nhà chuyên môn và, đàng khác, họ nhận ra rằng họ không thể tự quyết định mình nên làm gì hoặc nên làm như thế nào.
Bất cứ khi nào bạn đưa ra lời khuyên, bạn đừng quên rằng bạn đang tước lấy khỏi người kia trách nhiệm quyết định về công việc của chính họ. Nếu lời khuyên ấy rốt cục không hữu ích cho họ hoặc làm cho tình hình thêm tệ hại hơn, họ dễ có khuynh huớng phiền trách bạn. Một lời khuyên vô bổ sẽ làm cho người ta suy giảm tín nhiệm đối với nhà tư vấn; rất có thể lần sau, khi họ cần lời khuyên, họ cũng không đến với bạn nữa. Việc bạn trao lời khuyên cũng tước khỏi người ta cơ hội tự đưa ra những quyết định quan trọng cho chính mình – mà việc tự quyết định này lại là yếu tố giúp người ta trưởng thành hơn.
VÀI HƯỚNG DẪN CHO VIỆC ĐƯA RA LỜI KHUYÊN
1. Chỉ đưa ra lời khuyên khi bạn quyết chắc rằng người kia không thể tự mình quyết định.
2. Hãy bảo đảm rằng bạn đã nắm hiểu hoàn toàn vấn đề của đương sự trước khi bạn đưa ra bất cứ lời khuyên nào.
3. Phải liệu cách để đưa ra lời khuyên sao cho còn chừa chỗ để đương sự được phép chấp nhận hay từ khước.
4. Khi trao lời khuyên cho một người, bạn đừng quên rằng lời khuyên ấy có thể làm cho đương sự lệ thuộc vào bạn và bớt tự tin vào khả năng của chính mình.
5. Cũng đừng quên rằng bạn có thể bị phiền trách nếu lời khuyên ấy rốt cục không tác dụng.
6. Và bạn cần nhớ: lời khuyên có thể làm tổn thương người ta, dù bạn khuyên một cách khéo léo mấy đi nữa.[14]
TỔNG LƯỢC
Bên cạnh các kỹ năng tiếp xúc và lắng nghe, còn có những kỹ năng tác động nữa. Những kỹ năng tác động thì có tính trực tiếp hơn và nhằm giúp đối tượng thay đổi cách nghĩ, cách cảm xúc và cách hành động. Việc sử dụng các kỹ năng tác động giả định rằng nhà tư vấn đã lắng nghe kỹ lưỡng tất cả những gì người kia nói – và việc này cũng cho thấy sự thấu cảm nơi nhà tư vấn.
Chúng ta đã bàn đến các kỹ năng tác động sau đây:
(1) cung cấp thông tin,
(2) chỉ dẫn,
(3) trấn an,
(4) đối chất,
(5) dìu dắt,
(6) đưa ra đề nghị hay lời khuyên.
Mỗi kỹ năng trên đều có trường hợp cần đến trong tiến trình tư vấn mục vụ, dù những trường hợp này rất giới hạn. Việc xác định thời điểm chính xác và việc chuẩn bị cho sự ứng dụng mỗi kỹ năng ấy thật vô cùng quan trọng. Dìu dắt, đưa ra đề nghị hay lời khuyên là hai kỹ năng nên dùng hết sức dè dặt, chỉ khi nào các phương pháp khác không có tác dụng hoặc khi nhà tư vấn nhận thấy đối tượng quá kém khả năng phán đoán hay quá rối loạn về tâm cảm.
[1] Allen E. Ivey, Intentional Interviewing and Counseling. Monterey: Brooks/Cole, 1983, tr. 171.
[2] William H. Cormier và L. Sherilyn Cormier, Interviewing Strategies for Helpers. Monterey: Brooks/Cole, 1979, tr. 105.
[3] Ibid. tr. 107.
[4] Ibid. tr. 102.
[5] Ibid. tr. 102.
[6] Alfred Benjamin, The Helping Interview (ấn bản lần thứ hai). Boston: Houghton Mifflin, 1974, tr. 126-127.
[7] Gerald Egan, The Skilled Helper (ấn bản lần thứ hai). Monterey: Brooks/Cole, 1982, tr. 186.
[8] Ibid.
[9] Lawrence M. Brammer, The Helping Relationship (ấn bản lần thứ ba). Englewood Cliffs: 1985, tr. 67-69.
[10] Ibid., tr. 68.
[11] Ibid.
[12] Benjamin, op. cit., tr. 129.
[13] Ibid. tr. 128.
[14] Brammer, op. cit., tr.88.
§8. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Nhiều Kitô hữu không thể xử lý được các vấn đề của họ, vì thế họ tìm đến nhà tư vấn. Nhưng điều mà họ đang tìm kiếm ở đây không phải là tư vấn tâm lý mà là tư vấn mục vụ. Họ muốn tìm ra một cách thế vừa xử lý được tình trạng của mình vừa am hợp với tinh thần Kitô giáo; thậm chí họ có thể sử dụng chính tinh thần này để tìm kiếm giải pháp cho vấn đề của mình.
BẮT ĐẦU
Tiến trình tư vấn bắt đầu với cuộc tiếp xúc đầu tiên – cuộc tiếp xúc này có thể xảy ra trên điện thoại, tại nhà riêng, ở sân nhà thờ hay trong văn phòng ... Những ấn tượng ban đầu do cuộc tiếp xúc sơ khởi này mang lại thường sẽ quyết định đến cung cách quan hệ giữa đối tượng và nhà tư vấn. Nếu đương sự nhận thấy nhà tư vấn là một con người nhiệt tình và đầy quan tâm, họ sẽ dễ dàng bộc bạch cởi mở câu chuyện của họ. Trái lại, nếu nhà tư vấn tỏ ra hơi vô tình, xa vắng, thiếu quan tâm, họ sẽ rất ngần ngại trong việc thố lộ vấn đề của mình.
Đa số người ta tự ý đến tìm tư vấn mục vụ. Họ nhận ra rằng họ có một vấn đề mà họ cần được giúp đỡ để giải quyết. Thường họ không thể xử lý một tình huống gay go. Công việc đầu tiên của bạn là cố nắm hiểu mọi chi tiết của tình hình. Bạn cố gắng nhìn tình hình theo như cách mà đương sự nhìn, luôn ghi nhớ rằng đương sự có thể nhìn một vấn đề hoàn toàn khác với cách nhìn của bạn. Chẳng hạn, một bà lão sống một mình và con chó vốn quấn quít bên bà suốt mười hai năm nay vừa mới chết, bà mong được giúp đỡ vì bà đang bị đè nặng bởi nỗi ám ảnh tự tử. Bà không còn thấy có lý do gì để bà tiếp tục sống nữa. Đối với một số nhà tư vấn, việc người ta khao khát kết thúc cuộc sống mình vì cái chết của một con chó xem ra là một điều hết sức kỳ cục; nhưng đối với bà lão này, con chó ấy là bầu bạn thường xuyên và duy nhất của bà trong nhiều năm qua. Cái chết của nó được nhà tư vấn cảm nhận khác hẳn với bà lão này. Vì thế nếu bạn coi thường hoặc gạt bỏ không xét đến cái chết của con chó – xem đó không phải là lý do thực thúc đẩy những ý tưởng tự tử – thì bạn có thể bỏ hụt mất cơ hội để giúp đỡ người phụ nữ này.
Chỉ cần có một chút khích lệ, phần đông người ta sẽ tự động giải thích tại sao họ cần tìm đến với sự tư vấn. Tất cả những gì bạn cần làm là lắng nghe một cách đầy quan tâm sao cho đối tượng thấy được rằng bạn đang cố gắng nhận hiểu những gì đang diễn ra trong cuộc sống của đương sự. Tuy nhiên, nếu đương sự tỏ ra lúng túng không ‘vào’ chuyện được, thì đôi khi bạn cần phải sử dụng một câu hỏi mở, chẳng hạn: “Bà đến đây hôm nay, chắc có điều gì muốn nói?” hay “Bữa nay ông muốn trao đổi với tôi về chuyện gì?”
Khi bạn nhận thấy mình đã nắm được khá rõ vấn đề và xác định được điều gì đang diễn ra trong cuộc sống của đương sự, bạn nên tóm tắt tất cả những gì bạn đã nghe đương sự nói. Công việc tóm tắt này sẽ liên kết các yếu tố chính yếu lại với nhau và sẽ giúp kiểm tra xem bạn đã nghe và hiểu đúng hay chưa. Một sự tóm tắt mạch lạc thường sẽ giúp nêu bật cho chính người được tư vấn thấy các yếu tố chủ chốt của vấn đề. [1]
TRAO ĐỔI CÓ TIÊU ĐIỂM
Một số người không thể trình bày các khó khăn của họ một cách ngọn ngành mạch lạc. Họ dễ trôi giạt từ chủ đề này sang chủ đề khác. Nếu cứ để họ nói lang mang mãi như vậy, cuối cùng nhà tư vấn sẽ mù tịt không biết đâu là vấn đề cốt lõi – và do đó sẽ không thể đẩy đương sự vào đúng chiều hướng tìm ra giải pháp. Hơn nữa, vì không có chủ đề nào được khảo sát cặn kẽ nên buổi gặp tư vấn sẽ trôi qua mà kết quả chẳng thu được bao nhiêu. Công việc của bạn là giúp đương sự tập trung vào một vấn đề trọng tâm, thường là vấn đề mà chính đương sự cho là quan trọng nhất , để nói rõ vấn đề này bằng những mô tả cụ thể.[2] Bạn có thể yêu cầu đương sự trưng dẫn các ví dụ hầu làm sáng tỏ vấn đề.
Đôi khi người ta nêu ra một vấn đề giả. Họ thăm dò để xem thử có thể tín nhiệm bạn trong tư cách một nhà tư vấn hay không. Tùy theo phản ứng của bạn mà đương sự sẽ quyết định nói lên hay không nói lên lý do thực đã thúc đẩy đương sự kiếm tìm sự tư vấn. Nếu bạn tỏ ra thấu cảm và nếu bạn không hấp tấp khuyên bảo này nọ, thì đương sự sẽ dễ dàng bắt đầu nói với bạn về vấn đề thực sự của mình. Còn nếu bạn cố khư khư đẩy cho đương sự lời khuyên của bạn, đương sự sẽ lắc đầu và nói: “Vâng, tôi đã thử cách đó, nhưng chẳng có kết quả gì.” Hoặc giả đương sự phớt lơ không đếm xỉa gì đến lời bạn khuyên. Đôi khi bạn cần phải chủ động lèo lái câu chuyện và bắt đương sự xoáy vào chỉ một vấn đề chính yếu mà thôi.
Có những người tìm kiếm sự giúp đỡ của nhà tư vấn song lại không biết rõ mình trục trặc ở chỗ nào. Họ chỉ biết rằng họ không vui vẻ, không thỏa mãn với cuộc sống. Có thể họ phiền trách một nguyên nhân mơ hồ nào đó - chẳng hạn họ nghĩ do mình thiếu đức tin hoặc do mình không giữ đạo đàng hoàng. Họ nói: “Nếu tôi ngoan đạo hơn, chắc hẳn sự việc không tệ hại như thế này!” Trong trường hợp này bạn cần tìm hiểu xem đương sự đã “không vui vẻ” như thế bao lâu rồi, phải chăng đã có những thay đổi nào đó gần đây trong cuộc sống của đương sự liên quan đến tình trạng suy sụp hiện tại. Rất có thể bạn cần dùng những câu hỏi đóng để khui các thông tin này.[3] Một khi những nguyên nhân chủ chốt của vấn đề đã hiện lộ ra, đương sự cần tìm hiểu những nguyên nhân ấy một cách đầy đủ hơn, rồi nếu quả đó đúng là những nguyên nhân của vấn đề thì bắt đầu xử lý chúng.
Đầu tiên, công việc chính yếu của bạn là giúp cho đương sự tìm ra đâu là vấn đề, sau đó giúp mô tả vấn đề một cách chi tiết.[4] Phần đông người ta lúc đầu thường chỉ nêu vấn đề ra một cách chung chung, và họ cần được khuyến khích để đào sâu hơn. Nghĩa là họ cần nhìn thấy rõ những hậu quả mà vấn đề ấy gây ra cho họ và nhận ra tâm trạng của chính mình đối với vấn đề ấy, nhận ra nó còn chi phối đến những ai khác nữa, chi phối cách nào, và nếu cứ để nguyên vậy thì tình hình sẽ diễn tiến tới đâu. Thường thì đối tượng sẽ tự động nhận hiểu phần lớn trong các khía cạnh trên, song một số khía cạnh cũng rất thường bị bỏ qua. Bạn sẽ đặt một số câu hỏi chuyên biệt để hướng sự chú ý của đương sự đến các khía cạnh bị bỏ qua ấy.
NHỮNG KỲ VỌNG
Người ta đến tìm tư vấn với rất nhiều kỳ vọng khác nhau. Những kỳ vọng này có thể làm tiêu chuẩn để đo lường sự thành công hay thất bại cuối cùng của cuộc tư vấn. Nếu các kỳ vọng của họ không được đáp ứng, thường họ sẽ đứng dậy ra về một cách thất vọng, và có thể sẽ không bao giờ trở lại nữa. Vì thế, thật quan trọng việc tìm hiểu sớm hết sức xem đương sự hy vọng gặt hái gì qua việc gặp gỡ trao đổi.[5]
Nếu bạn là linh mục, mục sư hay tu sĩ ..., một số người sẽ nhìn thấy nơi bạn một thẩm quyền đặc biệt. Họ kỳ vọng bạn trao cho họ những lời khuyên bổ ích hay thậm chí họ kỳ vọng bạn giải quyết vấn đề cho họ. Chẳng hạn, một phụ nữ có chuyện hục hặc với chồng có thể sẽ kỳ vọng bạn khuyên bảo chồng chị và giúp anh ta thay đổi những cung cách ứng xử mà chị cho là không phù hợp. Nếu bạn cố tập trung chú ý đến vai trò của chị trong vụ xung đột này và bạn nhấn mạnh đến những gì chị có thể làm để cải thiện tình hình, người phụ nữ này có thể khó chịu và câm dứt cuộc tư vấn. Để giúp người phụ nữ này, bạn phải biết chị kỳ vọng gì và, nếu cần, vạch cho chị thấy rằng những kỳ vọng ấy là phi thực tế.
Một số người có những kỳ vọng phi thực tiễn. Họ đã từng được giúp đỡ trước đó, vì thế họ chắc mẩm lần này cũng vậy thôi. Họ chẳng làm gì ngoài việc kể lể cho một linh mục hay một nữ tu, bởi họ nghĩ như vậy là đủ rồi. Họ không nhận ra rằng chính họ phải thực hiện một số bước cụ thể nào đó để đem lại sự thay đổi nơi chính bản thân họ hoặc nơi môi trường xung quanh họ. Một số người khác ký thác mọi sự cho nhà tư vấn mục vụ; họ cho rằng nhà tư vấn mục vụ có những uy quyền mà các nhà tư vấn khác không có được. Cứ việc tuân theo những chỉ bảo của nhà tư vấn này, thì vấn đề dù gay go đến mấy đi nữa cũng sẽ được giải quyết. Tuy nhiên, cần ghi nhận rằng khi lời khuyên không có tác dụng – nhất là khi thất bại hai ba lần như thế – những người này sẽ dễ vỡ mộng, và họ sẽ chẳng bao giờ gõ cửa tìm kiếm tư vấn nữa dù trong những trường hợp họ thực sự cần.
XÁC LẬP CÁC MỤC TIÊU
Một khi vấn đề đã được nhận hiểu rõ ràng và những mối kỳ vọng đã được xác định, bước kế tiếp sẽ là ấn định các mục tiêu. Sự ấn định này bao gồm việc tuyên bố rõ ràng những gì mà đương sự muốn làm một cách cụ thể và một cách chuyên biệt để xử lý toàn bộ hay một phần của tình hình.[6] Mục tiêu cho biết cuộc tư vấn phải đem lại điều gì và sẽ diễn tiến tới chỗ nào. Ít khi người ta giải quyết được một vấn đề bằng cách thảo luận về vấn đề đó, dù thảo luận lâu dài đến mấy. Thường thường đương sự phải có những bước hành động. Mục đích của việc tư vấn là giúp đương sự biết phải thực hiện những bước nào. Chúng ta hãy lấy ví dụ trường hợp một phụ nữ 27 tuổi, đã lấy chồng được bốn năm và đang có một đứa con. Chị tìm đến tư vấn để nhờ giúp đỡ xử lý tình trạng uống rượu của chồng (mà chị cho là quá độ). Chị nói chồng chị rất yêu vợ thương con, trừ khi anh ấy uống rượu. Chị đã từng bày tỏ ý kiến với chồng về vấn đề này, nhưng anh ấy đã nổi xung, đôi khi làm ầm ĩ lên. Chị cũng cho biết rằng bố chồng chị cũng từng nghiện rượu, và chị lo sợ rằng chồng mình cũng sẽ trở thành một con sâu rượu. Trong trường hợp này, mục tiêu của cuộc tư vấn là giúp người phụ nữ này tìm ra cách nào đó để làm cho anh chồng chị nhìn thẳng vào những mối nguy hiểm của việc tiếp tục duy trì thói quen uống rượu hiện nay của anh.
Nếu có thể, mục tiêu của cuộc tư vấn nên là chính điều mà đương sự muốn. Nhà tư vấn không nên ấn định mục tiêu rồi đẩy cho đương sự. Nói cách khác, cần thảo luận với đương sự về chính việc xác lập mục tiêu. Điều thiết yếu là đương sự phải nhìn mục tiêu như là mục tiêu của chính mình chứ không phải của nhà tư vấn.[7] Như vậy, người phụ nữ nói trên ắt hẳn phải muốn tìm ra phương cách ‘làm việc’ với chồng chị, và chị đã tha thiết muốn điều đó trước khi điều đó hiện lộ rõ nét ra. Sở dĩ chị nghĩ đến việc nhờ một người bạn thân của chồng phân tích vấn đề đó với anh ta, đấy là vì chị tin rằng điều này sẽ có tác dụng.
Mục tiêu phải rõ ràng và cụ thể.[8] Một cách nào đó đương sự phải hình dung được các kết quả khi mà các bước hành động đã được thực hiện. Kết quả của các hành động phải là những gì nhìn thấy được, thậm chí phải đo lường được, cũng như phải được mô tả một cách chi tiết. Trong trường hợp của người phụ nữ này, một mục tiêu thực tế có thể là cố gắng quan hệ tốt hơn với chồng để cuối cùng có thể thảo luận vấn đề uống rượu của anh ta mà không sợ xảy ra việc anh ta nổi cáu, nhưng một mục tiêu như vậy vẫn còn khá mơ hồ và trừu tượng. Một mục tiêu rõ ràng, xác định sẽ bao hàm việc chị có những cách thế cụ thể nào đó để cải thiện mối quan hệ với chồng, chẳng hạn đi đánh cầu lông với anh ta – môn mà anh ưa thích – rồi sau đó rủ nhau đi ăn tối, và đây chính là những khoảnh khắc mà hai người có thể nói chuyện riêng với nhau. Vào lúc thích hợp, chị có thể ôn tồn (chứ không cay cú) bàn với chồng về vấn đề uống rượu quá độ của anh, và đề xuất rằng anh nên gặp một chuyên gia trong lãnh vực cai rượu.
Mục tiêu phải thực tiễn, nghĩa là đương sự phải có những cơ sở để đạt được nó, những hoàn cảnh bên ngoài phải không ngáng trở việc hiện thực hóa mục tiêu, và giá phải trả phải không quá đắt.[9] Nếu người phụ nữ này không thể thảo luận cách bình tĩnh về vấn đề nghiện rượu do bởi thành kiến của chị quá nặng nề đối với chuyện này, thì trong trường hợp này bất cứ mục tiêu nào có bao hàm việc chị nói chuyện với chồng cũng đều là không khả thi. Cũng vậy, việc cố dàn xếp cho chồng gặp một chuyên gia về lãnh vực cai rượu cũng sẽ không phải là điều khả thi nếu trong thực tế không có sẵn một chuyên gia như thế. Và cuối cùng, nếu chị tiếp tục mè nheo cố bắt chồng ngừng uống rượu, cho dù anh ta giận dữ và quát tháo rùm beng – thì đó sẽ là giá quá đắt. Điều xảy ra có thể là ly thân hoặc ly dị!
THU THẬP THÊM THÔNG TIN
Đôi khi bạn cần những thông tin khác nữa về hoàn cảnh xã hội và môi trường của đối tượng, để có thể phác họa hướng hành động. Thường bạn có thể thu thập thêm thông tin bằng cách đặt một loạt những câu hỏi đóng. Tuy nhiên, bạn cần cẩn trọng để tránh trao ấn tượng rằng mình đang thăm dò xem trục trặc ở chỗ nào nhằm nói cho đương sự biết phải làm gì – kiểu như một y sĩ chẩn đoán bệnh nhân để cho toa thuốc! Nếu đối tượng có ấn tượng như vậy, họ sẽ đi đến kỳ vọng bạn giải quyết vấn đề cho họ – và như thế đánh mất yếu tố căn bản của tư vấn, đó là nhà tư vấn cố gắng giúp người được tư vấn tự giải quyết vấn đề cho mình.
Nếu bạn vận dụng các kỹ năng tư vấn một cách thích hợp, nhất là kỹ năng thấu cảm, đa số người ta thường sẽ trao cho bạn hầu như tất cả những thông tin cần thiết mà không cần bạn đặt câu hỏi. Tuy nhiên, đôi khi người ta cũng bỏ sót một yếu tố quan trọng, chẳng hạn đương sự không nói mình đã lập gia đình hay chưa, bao nhiêu con, đang làm nghề gì ... Những dữ kiện ấy đôi khi có liên quan đến việc lựa chọn cách hành động cho phù hợp. Chẳng hạn, thật khó nghĩ đến khả năng cho một anh chồng uống rượu quá độ nhận sự trị liệu của một chương trình cai nghiện tốn kém nếu anh ta có mức lương thấp và chế độ bảo hiểm y tế của anh ta không có bao gồm một chương trình như vậy. Nếu vợ anh ta không nói cho bạn biết các dữ kiện này, thì việc bàn bạc về một chương trình cai nghiện như nói trên sẽ chỉ là chuyện phung phí thời gian mà thôi.
Chỉ nên hỏi thêm thông tin sau khi đương sự đã lược thuật về hoàn cảnh của đương sự, và những câu hỏi này nhằm mục đích hoàn thành bức tranh toàn cảnh. Các nhà tư vấn, nhất là những người thiếu kinh nghiệm, thường có khuynh hướng hỏi nhiều quá.[10] Khi cuộc đối thoại bắt đầu hơi lí bí, một số nhà tư vấn trở nên lúng túng; và để tránh xảy ra một khoảng thinh lặng không biết nói gì, họ tự động đặt ra những câu hỏi – thường là những câu hỏi linh tinh chẳng ăn nhập vào đâu. Họ quên rằng mục đích của việc đặt câu hỏi là để thu thập thêm những thông tin cần thiết. Việc dùng các câu hỏi để lấp đầy khoảng trống thường chẳng có nghĩa lý gì và có thể gây thiệt hại cho tiến trình tư vấn.
CÂN NHẮC PHƯƠNG HƯỚNG HÀNH ĐỘNG
Tất cả những bước đi trước có vai trò tạo điều kiện cho bước tiếp theo, đó là giúp đương sự tìm ra một cách giải quyết vấn đề. Một khi vấn đề đã được nhận diện rõ ràng và các mục tiêu đã được xác lập, thường cuộc tư vấn sẽ tự động tập chú vào những phương thế khả dĩ giúp đương sự hóa giải tình hình.
Thường có một số phương hướng hành động, và đương sự cần khảo sát và đánh giá từng phương hướng một.[11] Chúng ta hãy xem xét một số phương hướng hành động mà người phụ nữ có chồng uống rượu quá độ trên kia có thể vận dụng: (1) Chị có thể tiếp tục cố gắng thảo luận vấn đề đó với chồng, nhưng không phải một cách bực dọc trách cứ, và chị có thể cố dàn xếp cho chồng mình gặp một chuyên gia về cai rượu. (2) Chị có thể nhờ người bạn thân nhất của chồng nói chuyện với anh ta về vấn đề uống rượu của anh. (3) Chị có thể thúc giục anh ta đến gặp cha sở. (4) Chị có thể tham gia hiệp hội A.A. và xem thử tổ chức này có thể giúp mình xử lý vấn đề hay không. Đó là tất cả những hướng hành động mà chị có thể thực hiện, vấn đề là chị cần phán đoán xem phương hướng nào có nhiều khả năng thành công hơn.
Trong khi làm công việc phác họa các hướng hành động, trước hết bạn cần yêu cầu đương sự đưa ra cách thế mà đương sự cho rằng có thể giải quyết được vấn đề, và rồi nếu cần, bạn có thể đề nghị những khả năng khác, nhưng nên lưu ý là bạn chỉ đưa ra những khả năng này trong tư cách là những gợi ý mà thôi. Người ta có khuynh huớng xem bạn là một chuyên gia, và họ sẽ xem những gì mà bạn đề nghị là đúng đắn hơn và bảo đảm thành công hơn so với những phương hướng mà họ nghĩ ra – và điều này có thể đúng hoặc không đúng.
Một cách để phác họa những giải pháp khả dĩ cho vấn đề là hỏi xem đương sự đã từng đương đầu với một tình hình tương tự như vậy bao giờ chưa – chẳng hạn, người phụ nữ nói trên rất có thể đã từng có cha hay mẹ nghiện rượu và đã phải từng đương đầu với tình trạng đó ... Nếu quả thật như vậy, bạn hãy hỏi xem chị ta đã làm gì, và cuối cùng đề nghị chị thử hành động tương tự như vậy đối với trường hợp hiện tại ... Đôi khi người ta thấy khó mà tìm ra phương hướng hành động. Khi bạn hỏi họ đã có cách nào chưa, họ sẽ đáp: “Nếu tôi có cách, tôi đã chẳng cần phải đến đây!” hoặc họ nói: “Tôi đã thử hết mọi cách mà mình có thể nghĩ ra, nhưng tất cả đều vô tác dụng.” Trong những trường hợp như thế, bạn có thể cần phải yêu cầu đương sự tập trung suy nghĩ về các khả năng, kể cả những khả năng xem chừng không thành công. Một số người có một thái độ tiêu cực, họ ngay lập tức nghĩ đến tất cả những lý do thất bại cho một hướng hành động cụ thể nào đó, và vì thế họ không bao giờ đề xuất bất cứ cách thế nào. Trong trường hợp này, bạn có thể đưa ra một số đề nghị, chẳng hạn bạn nói: “Chị có bao giờ nghĩ đến việc .... chưa?” Nếu đương sự lập tức bác bỏ mọi đề nghị của bạn, thì điều đó cho thấy rất có thể đương sự không thực sự muốn tìm ra một giải pháp, ít nhất là cho tới lúc này hoặc ít nhất với cái giá mà đương sự phải trả.
CÂN NHẮC CÁC PHƯƠNG HƯỚNG HÀNH ĐỘNG
Một khi đã có ba hay bốn phương hướng hành động được phác họa, bước tiếp theo sẽ là tổng lược chúng. Nếu bạn đang giúp tư vấn cho người phụ nữ có chồng uống rượu quá độ nói trên, bạn có thể nói với chị: “Dường như có ba cách chị có thể thực hiện để xử lý vấn đề này. Thứ nhất, chị có thể chờ cho đến lúc thích hợp để thảo luận lại vấn đề ấy với anh ta, một cách ôn hòa chứ không cay cú, và chị có thể giúp anh ta gặp một chuyên gia về cai rượu; hoặc cách khác, chị nhờ người bạn thân nhất của anh nói chuyện với anh về vấn đề này; hay cách khác nữa, chị có thể tham gia hiệp hội A.A. và xem thử tổ chức ấy có thể giúp chị xử lý vấn đề này không.” Với những người có trí thông minh khá, thường sẽ rất hữu ích việc bạn yêu cầu họ tổng lược những phương hướng hành động có nhiều triển vọng, qua đó bạn có thể tương đối nắm chắc rằng đương sự đã nắm hiểu các phương hướng ấy. Việc tóm lược như vậy sẽ đem lại cho đương sự một hình dung sáng tỏ hơn về những gì có thể thực hiện và đồng thời sẽ đem lại cho đương sự niềm hy vọng – vì đương sự thấy rằng có nhiều cách khác nhau có thể giải quyết vấn đề của mình, trong đó có một số cách mà trước đây mình chưa bao giờ nghĩ tới.
Bước kế tiếp là trở ngược lại và cùng với đương sự xem xét từng cách thế giải quyết vấn đề, bằng cách hỏi đương sự đâu là những điểm thuận và đâu là những điểm nghịch với từng giải pháp cụ thể.[12] Trong khi xem xét những điểm thuận/nghịch này, phần đông người ta đều có thể tự đưa ra một liệt kê những lý do ủng hộ việc chọn giải pháp ấy và một liệt kê khác gồm những lý do nghịch lại. Thường thì một trong hai bảng sẽ có nhiều lý do hơn bảng kia – và điều này sẽ đặt nền cho sự quyết định sau này. Bấy giờ đương sự sẽ so sánh hai bảng liệt kê ấy, xem thử những lý do thuận có nhiều hơn và gây ấn tượng hơn những lý do nghịch, hay ngược lại, rồi quyết định xem bên nào nặng ‘ký’ hơn. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng về hai bảng lý do tương phản nhau ấy, phần đông các đối tượng đều có thể quyết định chấp nhận hay loại trừ giải pháp mà mình đang xem xét; rồi sau đó sẽ đối chiếu giải pháp này với các giải pháp còn lại (sau khi đã đánh giá xong từng giải pháp). Bước kế tiếp, bạn yêu cầu đương sự làm lại tất cả việc liệt kê và đối chiếu nói trên cho giải pháp thứ hai, rồi thứ ba ... Thường thì sau khi thảo luận tất cả những giải pháp này, một trong chúng sẽ hiện lộ ra là giải pháp tốt nhất và có nhiều cơ hội thành công nhất. Trong trường hợp này, đương sự sẽ không mấy khó khăn để quyết định theo giải pháp nào.
Đôi khi hai giải pháp có vẻ tốt ngang nhau. Nếu chúng không bất tương hợp nhau, đương sự có thể vận dụng cả hai. Chẳng hạn, người phụ nữ có chồng uống rượu quá độ nói trên có thể quyết định tham gia hiệp hội A.A. và sau đó trong tư cách là một thành viên của hội, chị sẽ cố gắng thảo luận lại vấn đề ấy với chồng mình và cố dàn xếp để chồng mình gặp gỡ một chuyên gia. Nếu hai giải pháp tốt ngang nhau nhưng lại bất tương hợp, đương sự sẽ so sánh một lần nữa những triển vọng của mỗi giải pháp và rồi quyết định chọn giải pháp nào có nhiều khả năng thành công hơn.
CÁC TIÊU CHUẨN ĐỂ CHẤP NHẬN HAY LOẠI BỎ MỘT GIẢI PHÁP
Việc quyết định chọn một giải pháp và loại bỏ các giải pháp khác sẽ dựa vào những yếu tố sau đây: (1) con số các lý do thuận của giải pháp này nhiều hơn và nặng ‘ký’ hơn so với các lý do thuận của những giải pháp kia, và con số các lý do nghịch của giải pháp này thì ít hơn và nhẹ ‘ký’ hơn so với các lý do nghịch của những giải pháp kia; (2) việc sử dụng giải pháp này để xử lý vấn đề có nhiều triển vọng hơn để đạt được các mục tiêu đã xác lập cho cuộc tư vấn; (3) các cơ hội thành công của giải pháp naythì lớn hơn so với các giải pháp kia; (4) giải pháp này phù hợp với đức tin và các giá trị Kitô giáo của đối tượng tư vấn trong khi một số trong những giải pháp kia có thể không phù hợp về mặt này.
Thường thì phương cách giải quyết vấn đề xem ra thành công nhất là phương cách có nhiều lý do thuận nhất. Điều này đặc biệt đúng nếu đó cũng là những lý do có tầm quan trọng. Các giải pháp có nhiều lý do nghịch thường sẽ bị gạt ra để dồn sự ủng hộ cho các giải pháp còn lại.
Nếu một phương cách giải quyết vấn đề được xem là đầy triển vọng, thì nó phải là một phương cách giúp đạt được mục tiêu cụ thể của cuộc tư vấn. Chẳng hạn, trong trường hợp của người phụ nữ có chồng uống rượu quá độ, cách giải quyết mà chị quyết định phải cuối cùng giúp chị làm cho chồng mình xem xét lại chuyện uống rượu của anh ta và thực hiện bất cứ sự thay đổi nào mà chính anh ta cho là cần thiết. Nếu giải pháp mà chị chọn không giúp chị đạt được mục tiêu này, thì rõ ràng giải pháp ấy không tốt bằng một trong các giải pháp kia có triển vọng hơn. Đa số các đối tượng tư vấn chú trọng rất nhiều đến khả năng một giải pháp có sẽ thành công hay không. Nếu một giải pháp xem ra có nhiều cơ hội đem lại kết quả, đương sự thường sẽ chọn nó, ngay cả dù một giải pháp khác có nhiều lý do thuận hơn. Các đối tượng tư vấn thường dựa vào kinh nghiệm quá khứ để đánh giá một giải pháp có nhiều hay ít khả năng thành công. Họ nhận ra rằng khi họ gặp một tình hình tương tự và áp dụng một giải pháp loại này, thì thường có tác dụng, và họ có khuynh huớng muốn dùng lại giải pháp ấy.
Trong tư vấn mục vụ, đức tin và các giá trị của đối tượng tư vấn đóng một vai trò quan trọng. Nếu một cách giải quyết vấn đề nào đó không tương hợp với đức tin và các giá trị Kitô giáo của đương sự, thì đó sẽ không phải là một giải pháp có hiệu lực và do đó cần được loại bỏ. Chẳng hạn, ly dị và tái hôn không phải là một giải pháp thích hợp cho người phụ nữ nói trên kia, vì một giải pháp như vậy không tương hợp với đức tin và các giá trị Kitô giáo của chị. Hơn nữa, đức tin Kitô giáo phải là một động lực chính yếu trong cuộc sống chúng ta. Đức tin có thể là nguồn mạch đem lại nghị lực giúp đương sự thực hiện giải pháp mà mình đã chọn lựa. Đức tin của người phụ nữ ấy và sự trân trọng của chị đối với hôn nhân xét như là một bí tích và một ràng buộc vĩnh viễn có thể là một động lực thúc đẩy người phụ nữ này làm tất cả những gì có thể để cải thiện mối quan hệ với chồng chị - sao cho chị có thể trao đổi với anh ta về vấn đề uống rượu của anh một cách có tính xây dựng, điều mà chị vốn thấy là rất gay go, bởi vì chị quá bức xúc mỗi khi đụng đến vấn đề này.
Trong việc đánh giá các khả năng xử lý một vấn đề, đức tin và các giá trị tôn giáo thường tự động liên can vào. Giải pháp của một Kitôhữu có thể rất khác với giải pháp của một người không có đức tin. Đức tin đặt ra một chiều kích mới cho rất nhiều hành động của chúng ta, và điều này cũng xảy ra khi chúng ta làm công việc đánh giá các giải pháp. Chẳng hạn, một người Kitôhữu nhiet tâm sẽ trân trọng bất cứ sự sống con người nào. Nếu Kitôhữu ấy là một thiếu nữ chưa có gia đình nhưng lỡ có thai, thì quan điểm của cô ta về chuyện phá thai sẽ hoàn toàn khác với quan điểm của một cô gái không có chút tinh thần Kitô giáo nào. Khi cô thiếu nữ nói trên tìm cách giải quyết vấn đề của cô, cô sẽ xem việc phá thai không phải là một khả năng chọn lựa cho mình, vì phá thai là hành vi trái nghịch với đức tin và các giá trị của cô.
Đôi khi nhà tư vấn mục vụ sẽ phải giúp đối tượng tư vấn làm sáng tỏ những quan điểm của Kitô giáo để đương sự có thể vận dụng những quan điểm và những giá trị ấy trong việc đánh giá các phương cách hành động. Quá trình này tạo cho việc tư vấn mục vụ có đặc tính khác hẳn việc tư vấn tâm lý. Nhà tư vấn mục vụ đại diện cho Giáo Hội và được mời gọi giúp những người khác ý thức về sứ điệp Kitô giáo, không chỉ trên bục giảng và trong phòng lớp mà cả trong văn phòng tư vấn nữa.
Sau khi đo lường các điểm lợi hại của mỗi phương cách giải quyết vấn đề, đối tượng tư vấn được yêu cầu quyết định chọn phương cách nào xem ra tốt nhất cho mình và phù hợp với đức tin và hệ thống giá trị Kitô giáo của mình.
TRIỂN KHAI QUYẾT ĐỊNH
Khi quyết định đã được đưa ra, việc kế tiếp bạn phải làm là giúp đương sự vạch rõ đâu là những bước cụ thể để thực hiện quyết định đó.[13] Vô số người đưa ra quyết định nhưng chẳng bao giờ thực hiện nó cả! Việc ấn định một kế hoạch hành động sẽ hỗ trợ rất nhiều cho khả năng thực hiện một quyết định mà người ta vừa đưa ra. Các đối tượng tư vấn cần ấn định rõ mình sẽ thực hiện quyết định đó khi nào, ở đâu, và như thế nào. Chẳng hạn, người phụ nữ có chồng uống rượu quá độ trên kia quyết định rằng chị sẽ tham gia hiệp hội A.A. Để giúp chị thực hiện quyết định ấy, bạn phải hỏi xem chị có biết gì về tổ chức ấy chưa và có biết cách nào để tiếp xúc với họ không. Nếu chị nói “có”, bạn sẽ hỏi xem khi nào sẽ là lúc thuận tiện để chị gọi điện thoại cho nhóm A.A. ở khu vực mình để tìm hiểu các thủ tục gia nhập. Sẽ rất tốt nếu bạn khích lệ được chị ta ấn định cụ thể thời điểm cho cú gọi ấy – chẳng hạn, chiều hôm nay hay sáng ngày mai. Bạn cũng nên hỏi xem chị có thể rảnh vào những ngày nào để tham dự các buổi gặp gỡ, và chị sẽ đi bằng phương tiện gì. Nếu các đối tượng tư vấn biết rằng họ phải báo cáo lại về tiến trình thực hiện quyết định của mình, họ sẽ càng có thêm động cơ để bám sát các bước hành động.
Không phải bao giờ chúng ta cũng nên kỳ vọng theo sát kế hoạch giải quyết vấn đề mà mình đã vạch ra, hết bước này đến bước khác, từ đầu tới cuối. Bởi có khi hai bước có thể được thực hiện đồng thời và có thể một vài bước nào đó được bỏ qua; hoặc giả đối tượng tư vấn chỉ muốn xác định rõ vấn đề chứ không hề nghĩ đến chuyện tìm ra một giải pháp. Một số người đến với tư vấn để tìm kiếm một chút nâng đỡ về cảm xúc hầu có thể sống với một tình hình gay go, trong trường hợp này thì họ chẳng cần quan tâm gì đến kỹ thuật giải quyết vấn đề.
Giá trị của kỹ thuật giải quyết vấn đề nằm ở chỗ nó trao cho nhà tư vấn một bộ khung mạch lạc để định hướng cho tiến trình tư vấn. Khi người ta nhận thấy rằng bạn đang theo một kỹ thuật xem ra có triển vọng, lòng tín nhiệm mà họ đặt nơi bạn sẽ tăng lên, và họ sẽ hợp tác với bạn một cách tích cực hơn. Đối với một số người, sẽ rất hữu ích nếu bạn vạch rõ các yếu tố chủ chốt của kỹ thuật ngay từ đầu. Điều này đặc biệt đúng đối với những người thích bài bản.
Giống như mọi kỹ thuật tư vấn khác, việc giải quyết vấn đề cần am hợp với các nhu cầu của đối tượng tư vấn. Tư vấn đôi khi được mô tả như một nghệ thuật. Nó là một nghệ thuật nhận biết khi nào nên áp dụng một kỹ thuật nào đó và khi nào thì không nên. Đối với những người có các vấn đề hệ trọng dường như không thể xử lý được, thì kỹ thuật giải quyết vấn đề sẽ rất hữu ích cho họ.
Nó sẽ càng có thêm giá trị nếu nó giúp đối tượng tư vấn có được một giải pháp có tính hệ thống chặt chẽ để giải quyết những vấn đề tương tự trong tương lai. Khi người ta nắm được tiến trình này nhờ thực nghiệm nó vài lần, về sau người ta thường có thể tự áp dụng nó mà không cần bất cứ sự giúp đỡ nào của nhà tư vấn. Kỹ thuật giải quyết vấn đề lúc ấy trở thành một kỹ năng mà người ta đã tiếp thu được – và họ sẽ còn tiếp tục vận dụng nó trong nhiều dịp khác nữa.
TỔNG LƯỢC
Kỹ thuật giải quyết vấn đề gồm các bước sau:
1. Xác định vấn đề chủ chốt đã đẩy đương sự tới kiếm tìm tư vấn.
2. Xác lập các mục tiêu: Đương sự hy vọng đạt được những gì xét như là kết quả của cuộc tư vấn?
3. Vạch ra các phương hướng hành động mà đương sự có thể thực hiện để giải quyết vấn đề.
4. Đánh giá những thuận nghịch đối với mỗi phương hướng hành động - việc đánh giá này qui chiếu đến việc đạt được mục tiêu của cuộc tư vấn, qui chiếu đến triển vọng thành công, và qui chiếu đến đức tin và các giá trị Kitô giáo của đương sự.
5. Yêu cầu đương sự quyết định chọn một trong các phương hướng đã vạch ra.
6. Lên kế hoạch để thực hiện các giải pháp đã chọn.
7. Sắp xếp để đương sự trở lại và báo cáo tiến trình thực hiện của đương sự .
Kế hoạch nói trên không buộc phải theo một cách cứng nhắc. Có thể có một sự linh động nào đó giữa các bước. Sau khi xem xét tình hình của đối tượng, bạn có thể nghĩ đến khả năng loại bỏ một bước này hay một bước khác. Kế hoạch ấy sẽ tạo cho cuộc tư vấn của bạn có chiếc khung mạch lạc – và điều này có thể rất hữu ích cho đương sự về sau.
[1] Gerald Egan, The Skilled Helper (ấn bản lần thứ hai). Monterey: Brooks/Cole, 1982, tr. 86-87.
[2] Lawrence M. Brammer, The Helping Relationship (ấn bản lần thứ ba). Boston: Houghton Mifflin, 1974, tr. 67-69.
[3] Alfred Benjamin, The Helping Interview (ấn bản lần thứ hai). Boston: Houghton Mifflin, 1974, tr. 67-69.
[4] Allen E. Ivey, Counseling and Psychotherapy. Englewood Cliffs: Prentice-Hall, 1980, tr. 30-33.
[5] Michael E. Cavanagh, The Counseling Experience. Monterey: Brooks/Cole, 1982, tr. 118-119.
[6] W.H. Cormier và L.S. Cormier, Interviewing Strategies for Helpers. Monterey: Brooks/Cole, 1979, tr. 165-168.
[7] Egan, op.cit., tr. 216-217.
[8] Ibid.
[9] Ibid., tr. 214-216.
[10] Ibid., tr. 101-102.
[11] David N. Dixon và John A. Glover, Counseling: A Problem Solving Approach. New York: John Wiley & Son, 1984, tr. 93-99.
[12] Robert R. Carkhuff, The Art of Problem Solving. Amherst, Mass: Human Resources Development, 1974, tr. 91-116.
§9. CĂNG THẲNG VÀ KHỦNG HOẢNG (-/-HẾT-/-)
Căng thẳng và những áp lực là một phần của cuộc sống thường ngày. Mỗi người đến gặp tư vấn đều bị những căng thẳng và áp lực riêng – chẳng hạn, việc đối phó với một đứa con gái mới lớn có những tính cách phản loạn, việc đương đầu với một ông chủ khó chịu hay việc đối mặt với một cuộc giải phẫu đang đến gần... Mỗi người có mỗi cách khác nhau để xử lý căng thẳng. Có người đem chuyện khó khăn của riêng mình bộc bạch với một người bạn, rồi đi đến một quyết định, sau đó thực hiện những gì mà mình quyết định; có người thì phản ứng lại tình hình căng thẳng bằng cách hút thuốc lá nhiều hơn, ăn hay uống nhiều hơn; cũng có người bị áp đảo bởi những căng thẳng và không thể sinh hoạt bình thường được nữa. Tại sao người này có thể dứt khoát và bình tĩnh xử lý một tình hình căng thẳng, còn người kia thì bất lực không làm gì được? Lý do nằm ở chỗ cách mà đương sự nhìn tình hình căng thẳng, ở quá trình được giáo dục của đương sự từ thuở bé và ở các phương pháp xử lý mà đương sự đã học được.
Phần đông trong chúng ta thường có thể tự xử lý những căng thẳng thông thường của mình, nhưng chúng ta cũng thấy rằng việc chia sẻ với một người khác sẽ giúp làm giảm bớt sự căng thẳng của chúng ta và đôi khi trao cho chúng ta một cách nhìn hoàn toàn khác. Khi chúng ta chia sẻ một chuyện gì đó với một người khác, chúng ta thường có thể nhìn thấy vấn đề từ một góc nhìn khác và do đó chúng ta có thể thực hiện những bước mà trước đây mình chưa hề nghĩ đến. Nhiều người đến với tư vấn mục vụ có thể xử lý bất cứ chuyện gì gây phiền toái cho họ, nhưng họ vẫn tìm sự giúp đỡ vì họ nhận ra rằng việc nói chuyện với một nhà tư vấn mục vụ sẽ giúp họ giải quyết được vấn đề ấy một cách dễ dàng hơn. Họ cũng cảm thấy rằng bạn – trong tư cách một nhà tư vấn mục vụ – sẽ có thể giúp họ hiểu ra mối quan hệ giữa đức tin Kitô giáo của họ và tình hình căng thẳng đang diễn ra nơi họ, đồng thời họ cũng kỳ vọng bạn sẽ chỉ cho họ biết cách sử dụng đức tin này trong việc tìm ra một giải pháp cho vấn đề của họ.
Một số người trải qua một tình trạng căng thẳng kéo dài và không thể tìm ra cách giải tỏa, thế là họ thử hết giải pháp này đến giải pháp khác – cứ thêm mỗi lần thất bại là sự phiền não nơi họ lại tăng lên, cho đến khi họ hoàn toàn rơi vào khủng hoảng. “Một khủng hoảng là một tình trạng rối loạn và đảo lộn tạm thời, được đặc trưng chủ yếu bởi sự bất lực của người ta trong việc xử lý một tình huống nào đó (xử lý bằng những cách thế thông thường).[1] Khủng hoảng thường ập đến khi có một đe dọa đối với sự sống còn, sự lành lặn thân thể, hay đối với một nhu cầu tâm lý xã hội nào đó được coi là có giá trị sinh tử. Điều bị mất hay có nguy cơ mất vốn có ý nghĩa rất quan trọng đối với đương sự đến nỗi đương sự cảm thấy không thể sống mà không có nó.[2]
MỘT VÍ DỤ VỀ KHỦNG HOẢNG
Sau đây là ví dụ về một người trong tình trạng khủng hoảng. Ví dụ này sẽ minh họa những yếu tố khác nhau xảy ra trong phần lớn các cơn khủng hoảng.
Bà Jones là mẹ của ba đứa con gái (10, 14 và 17 tuổi). Bà làm việc trong một chân thư ký, còn chồng bà là một thợ máy. Cách đây hai tháng, chồng bà mất việc làm. Ông đã hết sức cố gắng tìm một chỗ làm mới nhưng không thành công. Thế là ông trở nên chán nản và thôi không cố kiếm việc làm nữa. Gần đây ông uống rượu rất nhiều và tỏ ra hung dữ đối với cả bà Jones lẫn các con gái.
Tháng trước, cô con gái lớn bị ngất xỉu ở trường và sau đó được chẩn đoán là bị bệnh đái đường. Bà Jones vô cùng hoang mang. Một cách nào đó, bà Jones cảm thấy mình chịu trách nhiệm về bệnh trạng của con gái, vì bà đã chọn đi làm khi các con bà còn nhỏ. Bà nghĩ rằng nếu mình không đi làm thì mình đã có thể dành nhiều thời giờ hơn cho con cái và chắc hẳn đã phát hiện các dấu hiệu bệnh trạng của con từ rất lâu rồi, đâu đến nỗi ...
Sáu tháng trước đây, bà Jones bị một tai nạn xe hơi, trong đó xe bà hư hại nặng và bà bị một chấn thương ở cổ. Số là vì bà không chú ý một biển báo dừng nên chạy thẳng và húc vào một ô tô đang lao tới, vì vậy bà phải chịu trách nhiệm về tai nạn đó. Thoạt nghe qua, tưởng chừng bà gõ cửa tư vấn mục vụ chỉ để đối phó với tình hình uống rượu của chồng bà mà thôi. Nhưng khi bà giãi bày câu chuyện, té ra điều bà thực sự muốn là nói về chính bà. Gần đây bà cảm thấy khó tập trung khi làm việc, dường như lúc nào bà cũng căng thẳng và hoang mang. Bà nhận ra mình dễ khóc chẳng vì lý do gì rõ rệt, và điều này càng làm bà bấn loạn vì trước đây ít khi bà khóc. Bà sợ mình sẽ mất việc làm và gia đình sẽ hoàn toàn điêu đứng, không biết dựa vào đâu để sống.
CÁC YẾU TỐ LÀM NÊN KHỦNG HOẢNG
Để nhận hiểu rõ hơn bản chất của một cơn khủng hoảng, chúng ta hãy xem xét một số yếu tố trong ví dụ vừa kể trên. Trước hết, chúng ta ghi nhận một sự thay đổi trong tâm thần và trong cung cách ứng xử của bà Jones. Trước khi xảy ra khủng hoảng, bà là một thư ký giỏi, một người vợ và người mẹ tốt, và là một con người dễ chịu đối với mọi người xung quanh; còn bây giờ, bà không thể đáp ứng những đòi hỏi của công việc ở sở và ở nhà. Bà không còn là một bà Jones như trước nữa. Thứ hai, ta thấy rằng ba sự kiện gây bất an cho bà đã xảy ra trong khoảng thời gian sáu tháng – và bất cứ sự kiện nào trong đó cũng có thể được bà xử lý mà không phải rơi vào khủng hoảng, vì bà vốn là một con người giàu nghị lực. Như vậy, chính sự kết hợp cả ba sự kiện gây căng thẳng này đã quật ngã bà – điều này rất thường xảy ra trong nhiều cơn khủng hoảng.[3] Cũng cần ghi nhận rằng không nhất thiết chính biến cố là nguyên nhân của khủng hoảng, nhưng nguyên nhân của khủng hoảng nằm ở chỗ ý nghĩa của biến cố đó đối với đương sự, điều này giải thích tại sao một (hay một loạt) biến cố nào đó trở thành khủng hoảng cho người này song không hề là khủng hoảng cho người kia. Trong cả ba biến cố nói trên, bà Jones tự đánh giá mình là thất bại. Bà nghĩ rằng bà đã không cảm thông đủ với chồng nên đã làm cho ông ấy hóa ra suy sụp và sinh chứng uống rượu quá độ. Bà cũng nghĩ rằng bà chịu trách nhiệm, ít nhất một mức nào đó, về bệnh trạng của con gái mình, vì bà cho rằng mình đã không quan tâm đủ khi con mình còn nhỏ. Và cuối cùng, bà tự trách mình về vụ tai nạn xe hơi đã làm cho tình hình tài chánh của gia đình bị căng thẳng. Những người đang ở giữa cơn khủng hoảng rất dễ rơi vào mặc cảm tội lỗi và tự rúc rỉa mình. Họ thường tự trách mình về những sự cố vốn ngoài tầm kiểm soát của họ.
Mỗi trong ba yếu tố nói trên đều đòi hỏi bà Jones phải có những kỹ năng xử lý. Bà đã cố gắng thông cảm với chồng khi ông ấy mất việc làm, nhưng điều đó không đủ để phòng tránh cho ông khỏi rơi vào suy sụp và sinh tật uống rượu quá độ. Trước đây không có đứa con nào của bà từng bị trọng bệnh, vì thế bà không có kinh nghiệm gì để dựa vào khi đối diện với bệnh trạng của con gái mình. Và, cuối cùng, bà áy náy vì vụ tai nạn và hậu quả của nó đối với tình hình tài chánh gia đình. Bà đã cố gắng nói chuyện với chồng về tai nạn đó, nhưng ông ấy không thông cảm và ông chỉ quan tâm nhiều đến các chi phí phải thanh toán cho việc sửa chữa xe và cho các hóa đơn thuốc men! Trong mọi cuộc khủng hoảng đều có hiện tượng gãy đổ trong các kỹ năng xử lý. Một khi các kỹ năng xử lý thông thường không còn hiệu nghiệm nữa, đương sự không còn biết dựa vào đâu, đương sự cố gắng giải quyết vấn đề một cách loạng quạng, thường là không thành công – và cuối cùng cảm thấy tất cả hoàn toàn vô vọng.
BÓ TAY
Trong quá trình lớn lên, chúng ta học biết những cách xử lý các đòi hỏi và các vấn đề của cuộc sống thường ngày. Khi tình thế cần đến những cách xử lý ấy, chúng ta áp dụng chúng một cách tự động. Tuy nhiên, chúng ta gặp khó khăn khi phải đương đầu với những hoàn cảnh mới mà mình không có những kỹ năng xử lý hoặc những kỹ năng của mình tỏ ra không kiến hiệu.
“Các kỹ năng xử lý thông thường không luôn luôn thích ứng với một vấn đề, vì rất nhiều lý do:
(1) Một vấn đề có thể quá lớn và quá chấn động, chẳng hạn cái chết của một người thân trong gia đình.
(2) Một vấn đề có thể có một ý nghĩa nào đó làm cho nó trở thành chấn động. Một người có thể thích nghi tương đối dễ dàng với tình trạng bị cụt mất một tay, trong khi cũng tình trạng tương tự có thể gây căng thẳng vô cùng cho một người khác, có thể vì lý do nghề nghiệp hay vì một ý nghĩa nào đó trong một mối tương quan cá nhân.
(3) Một vấn đề có thể xảy ra vào một thời điểm nhạy cảm đặc biệt – tôi thường có thể bình tĩnh xử lý một vụ nước lũ tràn vào nhà mình, nhưng nếu sự việc xảy ra khi tôi đang bị cảm cúm, thì đấy quả là một tai ách khủng khiếp! Nhiều vấn đề xảy ra dồn dập trong một thời gian ngắn cũng có thể làm kiệt quệ khả năng xử lý của người ta.
(4) Một vấn đề có thể xảy ra khi cơ chế xử lý thông thường của một người bị bế tắc – chẳng hạn, vợ tôi vừa mới bỏ tôi và vì thế tôi không thể thảo luận một vấn đề mới với cô ta như thông thường tôi vẫn làm!
(5) Một vấn đề có thể xảy ra khi đương sự không có sự chuẩn bị gì cả, vì nó hoàn toàn mới đối với đương sự và đương sự chưa bao giờ có kinh nghiệm xử lý nó. Chẳng hạn, nếu tôi xử lý mọi vấn đề gia đình tôi bằng cách ra lệnh kiểu ‘nhà binh’, thì sự việc đứa con đầu của mình tới tuổi trưởng thành sẽ đem lại cho tôi một cảm nghĩ bất lực.[4]
PHẢN ỨNG CỦA MỖI NGƯỜI ĐỐI VỚI CĂNG THẲNG
Trước những tình hình căng thẳng, mỗi người phản ứng mỗi khác. Điều làm mất nhuệ khí nơi người này có thể lại là điều khích động và khơi trào chí khí của người kia. Một tình hình có thể đưa đến khủng hoảng hay không, điều đó còn tùy thuộc nhiều yếu tố. Trước hết, và có lẽ quan trọng nhất, đó là ý nghĩa của biến cố đối với cá nhân đương sự.[5] Bất cứ biến cố nào được xem là có sức đe dọa nghiêm trọng tới sự sống còn về thể lý hay tâm lý đều có thể dẫn tới khủng hoảng. Chẳng hạn, bà Jones trong câu chuyện trích dẫn trên đã nhìn vấn đề tài chánh như một vấn đề sinh tử. Sự kiện chồng bà mất việc làm, những hóa đơn tiền thuốc của con gái và sự tốn kém do vụ tai nạn xe hơi ... tất cả đã có một ý nghĩa đe dọa đối với sự ổn định tài chánh của bà. Một người khác có thể nhìn các biến cố ấy một cách triết lý hơn và nhận ra rằng bà Jones có thể vượt qua bằng khoản bảo hiểm thất nghiệp và bằng một sự trợ giúp nào đó từ những người thân.
Sự nhận thức về mình và mức độ tự tin của người ta sẽ có tầm quyết định trực tiếp tới khả năng một (hay một loạt) biến cố nào đó có gây ra khủng hoảng cho người ta hay không. Một người tự đánh giá mình dở tệ và nghèo lòng tự tin sẽ dễ dàng rơi vào khủng hoảng trước những biến cố mà những người khác sẽ vượt qua không mấy khó. Bà Jones, chẳng hạn, thuộc số những người hơi coi thường chính mình. Bà có khuynh huớng tự phiền trách mình trước bất cứ điều không may nào xảy ra. Khuynh hướng này một khi cứ lặp đi lặp lại sẽ bào mòn dần lòng tự trọng và làm gia tăng khả năng khủng hoảng.
Kinh nghiệm quá khứ có thể ấn định cách nhìn của chúng ta đối với một tình huống và cách xử lý của chúng ta trong tương lai. Chẳng hạn, nếu chúng ta lớn lên trong một gia đình giàu có và được bồi đắp niềm tin tưởng rằng việc gìn giữ lối sống thượng lưu là điều tối quan trọng, thì bất cứ mối đe dọa nào đối với lối sống ấy của chúng ta cũng có thể tạo nên nơi chúng ta một cơn khủng hoảng.
KHỦNG HOẢNG DO MẤT MÁT
Sự mất mát một điều gì đó mà chúng ta cho là rất quan trọng đối với mình sẽ có thể đẩy chúng ta vào khủng hoảng. Cái chết của cha hay mẹ mình, biến cố ly dị với vợ hay chồng mình, biến cố mất việc làm do bị sa thải hay do về hưu ... là những nguyên nhân thông thường nhất của khủng hoảng. Đôi khi chỉ cần những dấu hiệu báo trước của sự mất mát – chứ chưa phải là một mất mát thực - đã đủ đẩy người ta vào khủng hoảng. Một số sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp có thể rơi vào khủng hoảng chỉ vì nhận ra rằng mình sắp sửa đánh mất môi trường yên ổn của trường đại học để lao vào trong thế giới làm ăn đầy những giành giựt bon chen. Lạ hơn nữa, có người bị khủng hoảng do sự kiện mình được thăng chức tại sở làm – vì đương sự băn khoăn không biết mình có đủ khả năng để gánh vác những trách nhiệm mới hay không. Ý nghĩa mà người ta gán cho sự mất mát xảy ra với mình thường quyết định hoặc họ sẽ vượt qua được nó hoặc họ sẽ bị nó nhận chìm trong khủng hoảng.
Việc chà đạp các lý tưởng của mình có thể làm cho người ta mất lòng tự trọng và mất cả sự tôn trọng kẻ khác. Một người bị bỏ tù do lái xe trong khi say rượu hay do bị bắt khi đang chứa ma túy có thể rơi vào một cơn khủng hoảng, và mức độ khủng hoảng sẽ tùy thuộc vào mức độ suy giảm lòng tự trọng nơi đương sự. Và – cuối cùng – bất cứ sự thay đổi đột ngột nào có kèm theo sự tổn hại về thể lý hay tâm lý đều có thể gây ra khủng hoảng, chẳng hạn một tổn thương nghiêm trọng do tai nạn ô tô, một vụ giải phẫu, một chẩn đoán HIV dương tính...
NHẬN RA CÁC DẤU HIỆU CỦA KHỦNG HOẢNG
Việc nhận ra cơn khủng hoảng của một người không phải luôn luôn là điều dễ dàng. Bởi người ta phản ứng mỗi người mỗi cách: một số người sẽ bộc lộ các dấu hiệu rõ ràng, song một số người khác thì dường như chẳng cho thấy một dấu hiệu nào cả. Có lẽ dấu hiệu rõ ràng nhất của khủng hoảng là những thay đổi đột ngột trong cung cách ứng xử của người ta. Một con người hoạt bát, sôi nổi bỗng dưng trở nên trầm mặc và khép kín; một con người vốn thường hiền hòa bỗng dưng trở nên cáu kỉnh, hay gây hấn ... Một số người bỗng dưng dễ bật khóc mà không vì lý do gì, và điều này chưa bao giờ xảy ra với đương sự trước đó. Và – cuối cùng – một số người biểu hiện những dấu hiệu suy sụp như u sầu, chán nản, day dứt cùng với những thay đổi trong cách ăn cách ngủ.
Gay go nhất cho việc tư vấn có lẽ là những đối tượng cố ‘bưng bít’ các cảm nghĩ của mình. Họ có vẻ xử lý rất tốt biến cố mất việc làm hay biến cố tan vỡ cuộc hôn nhân đã từng kéo dài bao năm. Họ lý giải sự tổn thương ấy một cách đầy triết lý: “Ồ, chuyện gì cũng có mục đích của nó. Rồi sẽ ổn cả thôi!” Hoặc họ che giấu tâm trạng thực của mình bằng cách dựa vào đức tin của họ: “Ồ, đó là ý Chúa. Chắc chắn Chúa sẽ liệu cho mình có một công việc khác tốt hơn.” Họ phủ nhận cơn giận hay nỗi phiền trách của họ bằng cách ‘siêu nhiên hóa’ nó, và họ không thể nhận ra tâm trạng thực của mình đối với sự mất mát đang xảy ra cho mình.
LO ÂU VÀ CHÁN NẢN
Lo âu và chán nản là hai tâm trạng phổ biến nhất nơi những người khủng hoảng.[6] Lo âu sẽ thể hiện trong nhiều dạng khác nhau và có thể gây ảnh hưởng đến hầu như mọi bộ phận trong cơ thể người ta. Lo âu làm cho người ta cảm thấy mình bị nhận chìm trong sợ hãi, kinh hoàng. Bạn có thể nghe đương sự nói: “Tôi cảm thấy rất căng thẳng và hoang mang, dường như một điều chi đó rất khủng khiếp đang chờ chực xảy ra.” Lo âu làm nhịp tim đập nhanh, tạo ra những cơn đau nhói nơi ngực, làm các tuyến mồ hôi tiết ra nhiều, gây nên cảm giác mệt nhoài, rũ rượi ... Người lo âu cũng bực dọc vì mất khả năng tập trung và không thể suy nghĩ hay quyết định cách mạch lạc được nữa. Cáu kỉnh, khó chịu, bức xúc ... cũng là những dấu hiệu của lo âu.
Chán nản là một tâm trạng rất hay gặp khác nơi những người khủng hoảng. Đôi khi chúng ta cảm thấy buồn tênh, nhưng tâm trạng này không giống với sự chán nản. Chán nản là tâm trạng không chỉ buồn mà còn ngao ngán, thất vọng nữa. Người chán nản là người bi quan, suy nghĩ theo chiều hướng tiêu cực, không quan tâm đến người khác hay đến bất cứ gì đang xảy ra nơi thế giới xung quanh mình. Người chán nản cũng cảm thấy dằn vặt và giận dữ. Thường cơn giận của họ hướng về chính mình, đay nghiến chính mình. Những người như vậy cần phải có điều kiện bộc bạch tâm trạng của mình ra và nối kết những tâm trạng ấy với nguyên nhân của chúng.
GIÚP NGƯỜI TRONG CƠN KHỦNG HOẢNG
Chúng ta có thể làm những gì để giúp người đang trong cơn khủng hoảng?
Trước hết, bạn có thể giúp họ giãi bày tình trạng khủng hoảng với tất cả những lo âu, sợ hãi, đớn đau, chán chường. Bạn có thể thấu cảm với nỗi buồn, sự hụt hẫng, tâm trạng bất lực của đương sự. Bạn có thể cho phép đương sự bật khóc hay bộc lộ cơn phẫn nộ của mình (thậm chí phẫn nộ đối với Thiên Chúa) mà không hề lên án đương sự. Bạn có thể giúp đương sự đối mặt (theo mức độ có thể chịu đựng được) với tình huống đã đẩy đương sự vào khủng hoảng. Có những lúc nỗi buồn chán của người ta chất ngất đến nỗi bạn cần phải tạm thời ‘đánh trống lảng’, hướng họ sang chuyện gì đó khác, rồi sẽ quay trở lại sau này - khi thuận tiện. Bạn có thể gieo vào lòng người ta niềm hy vọng mà không cần phải đưa ra những bảo đảm vô căn cứ. Bạn có thể giúp người ta hình dung rõ nét toàn bộ tình hình. Đôi khi cơn khủng hoảng làm cho người ta hoàn toàn lộn xộn và không thể nhìn thấy được mọi sự đúng như sự thực của chúng. Nếu họ phiền trách kẻ khác về những bất hạnh của họ, bạn có thể giúp họ tập chú vào chính bản thân họ và vào tình hình khủng hoảng của họ – vì thái độ phiền trách kẻ khác chỉ là một cách lẩn tránh thực tại.
Bạn có thể giúp họ tìm ra cách thế khả dĩ xử lý được tình hình khủng hoảng và quyết định chọn lựa một giải pháp có nhiều triển vọng thành công nhất. Nếu họ có nhiều vấn đề cùng một lúc, bạn có thể giúp họ tập chú vào từng vấn đề một. Việc ôm đồm giải quyết cùng lúc nhiều vấn đề thường rốt cục sẽ chẳng dứt điểm được vấn đề nào cả. Và cuối cùng, bạn có thể giúp đương sự triển khai thực hiện những quyết định mà đương sự đã chọn lựa.
NÂNG ĐỠ
Nhiều người trong cơn khủng hoảng không cần gì ngoài sự nâng đỡ của một kẻ khác cho đến khi họ tìm lại được tình trạng quân bình của mình. Bạn có thể cung ứng sự nâng đỡ này bằng cách lắng nghe họ một cách đầy quan tâm. Lắng nghe người ta một cách đầy quan tâm có nghĩa là tập trung toàn bộ sự chú ý của mình đến những gì đương sự nói ra, những gì đương sự ám chỉ chứ không nói ra rõ ràng, giọng nói, điệu bộ của đương sự, và thậm chí ghi nhận cả những gì mà đương sự không bao giờ đề cập tới. Chỉ ra cho người ta thấy những điểm mạnh của họ và giúp họ hạn chế những điểm yếu nơi họ, đó cũng là cách nâng đỡ người ta. Bạn cũng cần phải lắng nghe chính các ý tưởng và cảm nghĩ của bạn để phòng tránh trường hợp chúng có thể cản trở không cho bạn giúp đỡ người kia.
Phần đông những người đến với tư vấn mục vụ đều biết rõ tại sao họ phải đến và họ cũng biết mình cần gì qua cuộc tư vấn này. Chỉ cần một chút khích lệ, họ sẽ giãi bày câu chuyện của họ. Vì vậy trong tư cách một nhà tư vấn mục vụ, bạn phải lắng nghe người ta một cách đầy quan tâm; bạn phải hiểu biết những gì đã xảy ra cho đương sự và nhận hiểu tâm trạng của đương sự đối với vấn đề ấy. Bạn cũng cần nhận hiểu tại sao đương sự đã đến hôm nay chứ không phải là cách đây hai tuần hay một tháng – bởi vì người ta thường phản ứng đối với một cơn khủng hoảng ít lâu sau khi sự cố xảy ra, và điều này có thể giúp bạn phát hiện ra lý do của cơn khủng hoảng.
Do bởi tình trạng bấn loạn tâm cảm, nhiều người ở trong cơn khủng hoảng thường không thể xác định rõ điều gì đã xảy ra trước khi cơn khủng hoảng bắt đầu tấn công mình. Trong trường hợp này, công việc trước hết của bạn là giúp cho đương sự nhận hiểu tâm trạng của họ và các lý do của tâm trạng đó.[7] Sau khi đã trình bày các cảm nghĩ của mình, họ thường có thể bắt đầu sử dụng lại các khả năng nhận thức của bản thân mình. Ký ức của họ sẽ bén nhạy hơn và họ sẽ có thể suy nghĩ một cách mạch lạc hơn.
“Tái lập lại khả năng nhận thức là điều cần thiết bởi vì tình trạng tâm cảm của người ta bị rối loạn đến nỗi mục tiêu của họ là tránh né hay đề kháng lại nỗi đau thay vì là giải quyết cơn khủng hoảng. Cơ sở của việc tái lập khả năng nhận thức đặt ở chỗ niềm tin rằng sự hiểu biết của người ta, sau khi các cảm nghĩ đã được ‘xả’ hết và không còn đè nén nữa, sẽ nắm lại chức năng phán đoán và kiểm soát của nó. Nói cách khác, bằng cách giải thích cho thân chủ thấy rõ lý do của cơn khủng hoảng và ý nghĩa của cung cách ứng xử của đương sự, nhà trị liệu sẽ giúp thân chủ thu hồi lại quyền kiểm soát trên cuộc sống mình.[8]
TẠO LẬP MỐI TƯƠNG QUAN
Trong bất cứ loại tư vấn nào, một mối tương quan tốt giữa hai bên cũng là yếu tố quan trọng nhất. Yếu tố này càng khẩn thiết khi bạn giúp một người trong cơn khủng hoảng – bởi vì phần đông người ta trong cơn khủng hoảng đều cảm thấy tình trạng của mình là vô vọng và mình bất lực không thể xoay xở gì được. Chỉ khi nào họ đặt niềm hy vọng nơi nhà tư vấn thì những cảm nghĩ bất lực và vô vọng ấy mới vơi dần và họ mới có thể làm một cái gì đó để cải thiện tình hình – cùng với sự trợ giúp của nhà tư vấn. Để tạo lập một mối tương quan tốt, bạn cần thể hiện lòng quan tâm chân thành đối với người kia và sự nhận hiểu về những gì đang diễn ra trong tâm cảm của đương sự. Hơn nữa, bạn cần tỏ ra thoải mái, thân thiện, tự tin và làm cho đương sự an tâm rằng nguyên nhân của cơn khủng hoảng có thể được hóa giải nhờ sự cộng tác làm việc giữa hai bên trong cuộc tư vấn này.
Đang trong cơn khủng hoảng, nhiều người nghĩ rằng mình mất trí rồi! Bạn có thể trấn an bằng cách giúp đương sự nhận ra rằng những gì mà đương sự đang cảm nghiệm cũng là những gì mà tất cả mọi người cảm nghiệm khi ở trong cùng tình cảnh của đương sự. Kiểm soát được nỗi sợ mất trí, đó sẽ là yếu tố giúp đương sự tái lập lại thế quân bình tâm cảm.
TỔNG LƯỢC NHỮNG GÌ ĐỐI TƯỢNG TƯ VẤN NÓI RA
Sau khi chăm chú lắng nghe những gì người kia trình bày, bạn cần tóm tắt lại tất cả những điều bạn đã nghe. Sự tóm tắt này sẽ chứa đựng cốt lõi của vấn đề và tâm trạng của đương sự đối với vấn đề.[9] Bạn sẽ diễn đạt thành lời thực chất vấn đề của đương sự theo như nhận hiểu của bạn và cho phép đương sự điều chỉnh lại bất cứ sự ngộ nhận nào trong đó. Tóm tắt như vậy, bạn cho đương sự thấy rằng bạn đã lắng nghe và nắm hiểu câu chuyện; đồng thời, qua đó, đương sự có cơ hội bổ sung những chi tiết mà rất có thể đương sự đã bỏ sót.
Sau khi nghe đương sự trình bày tất cả những gì xảy ra, bạn có thể cần có thêm thông tin để làm sáng tỏ những chỗ mà mình chưa thật sự nắm hiểu. Chẳng hạn, bạn có thể muốn biết người đàn ông này đang nghĩ gì về vợ ông, ông có người bạn thân nào không ..., bởi vì ông đã không nói rõ bầu khí quan hệ giữa ông với vợ và với những người khác. Mục đích của những thông tin này là để hỗ trợ cho bạn trong việc giúp đương sự sau này, khi hai người tiến hành xác định một giải pháp khả thi.
TÌM KIẾM NHỮNG GIẢI PHÁP KHẢ THI
Khi đã cảm thấy rằng mình nhận hiểu tạm đủ tình hình của đối tượng, bạn nên hỏi xem đương sự đã từng rơi vào tình huống như thế bao giờ chưa, đã đối phó như thế nào, và kết quả ra sao. Kinh nghiệm quá khứ sẽ trợ giúp rất nhiều để đương sự xác định một giải pháp khả thi cho tình hình hiện tại. Chẳng hạn, một phụ nữ trung niên cho biết rằng chị đã mất một đứa con trai trong một tai nạn ô tô cách đây ba tháng – và chị đã suy sụp kể từ đó. Bạn hỏi và được biết rằng cách đây vài năm, khi mẹ của người phụ nữ này qua đời, chị đã hóa giải cú sốc đó bằng cách thường xuyên thăm viếng các bạn bè và người thân – dù chị không hề cảm thấy thích làm thế. Việc vận dụng lại cùng biện pháp ấy có thể là giải pháp tốt nhất cho người phụ nữ này vượt qua cơn khủng hoảng hiện tại. Nếu đương sự chưa hề kinh nghiệm tình huống tương tự hoặc đã thử vận dụng biện pháp cũ nhưng không kiến hiệu, bạn sẽ giúp đương sự tìm những giải pháp khác để xử lý vấn đề (như được mô tả trong tiến trình giải quyết vấn đề, chương 8).
Để tìm kiếm giải pháp, bạn có thể theo một trong ba cách sau đây, tùy vào trạng thái tâm cảm của đương sự:
(1) bạn không chỉ dẫn gì cả,
(2) bạn cộng tác với đương sự để kiếm tìm,
(3) bạn đưa ra sự chỉ dẫn rõ ràng.
Theo cách không chỉ dẫn, nhà tư vấn yêu cầu đương sự đề xuất những phương cách có thể giải quyết vấn đề và sau đó yêu cầu đương sự nhận định những thuận nghịch đối với mỗi phương cách. Như vậy, nhà tư vấn chỉ làm việc trong tư cách một trợ lý, giúp đương sự tự khám phá ra giải pháp cho vấn đề của mình. Nếu đối tượng là một người có khả năng suy nghĩ tốt và nếu cơn khủng hoảng không nghiêm trọng, phương pháp này thường sẽ có kiến hiệu.
Theo cách cộng tác (đây là cách hay được áp dụng nhất), bạn cùng với đương sự tìm kiếm những giải pháp vượt qua cơn khủng hoảng. Đôi khi bạn phải đề nghị những khả năng mà đương sự bỏ qua, nhưng chính đương sự sẽ là người chọn lựa giải pháp nào xem ra có triển vọng thành công nhất.
Cuối cùng, đôi khi đương sự quá bấn loạn và không thể nghĩ ra cách nào để xử lý tình hình, tốt nhất bạn nên dùng cách chỉ dẫn. Bạn cho đương sự biết đương sự cần phải làm gì. Thường đương sự cảm thấy tình hình như đã đến mức vô vọng và nan giải. Lúc này, lời khuyên của bạn, nhất là những lời khuyên mà đương sự thấy có lý, có thể đem lại cho đương sự những tia sáng hy vọng – và đương sự dễ dàng chấp nhận làm theo những gì bạn khuyên.
Song cần lưu ý rằng một khi những người trong cơn khủng hoảng đã quyết định làm điều gì đó thì không phải luôn luôn họ sẽ làm đúng như điều mình đã quyết định. Bạn cần giúp họ phác họa ra các bước cụ thể để triển khai điều họ đã quyết định. Những bước này phải rõ ràng, chẳng hạn bạn yêu cầu một người phụ nữ suy sụp cho biết khi nào thì chị sẽ gọi điện thoại cho một người bạn để dàn xếp một cuộc gặp gỡ. Bạn đừng quên rằng những người trong cơn khủng hoảng thường không đủ khả năng tự tổ chức bài bản hành động cho mình, cũng không đủ khả năng thực hiện tất cả những gì họ đã quyết định, nếu bạn không đẩy tới cho họ một thứ áp lực nào đó.
Thường cần trải qua nhiều buổi gặp tư vấn liên tiếp thì mới có thể đi đến một giải pháp cho vấn đề. Nếu một kế hoạch nào đó đã vạch ra trong buổi gặp trước tỏ ra không kiến hiệu, thì cần phải phác họa một kế hoạch mới hoặc phải cứu xét lại một khả năng chọn lựa đã bị loại bỏ.
TỔNG LƯỢC
Khủng hoảng là một tình trạng rối loạn và đảo lộn tạm thời, được đặc trưng chủ yếu bởi sự bất lực của người ta trong việc xử lý một tình huống nào đó. Khủng hoảng thường đến từ một sự mất mát nào đó, chẳng hạn mất vợ hay chồng (do chết hoặc do ly dị), mất việc làm, mất của cải ...
Một số dấu hiệu cho thấy khủng hoảng là:
(1) có sự thay đổi đột ngột trong cung cách sống của đương sự,
(2) phản ứng thái quá hay bất cập về mặt tâm cảm,
(3) khép kín và rút lui khỏi đời sống xã hội thông thường, và
(4) có sự rối loạn tâm thần và mất khả năng quyết đoán.
Việc nâng đỡ người trong cơn khủng hoảng bao gồm: xác định rõ ràng nguyên nhân của khủng hoảng, giúp đương sự trút xả cảm xúc, tái lập khả năng nhận thức và giúp đương sự hóa giải cơn khủng hoảng xuyên qua một kỹ năng giải quyết vấn đề.
[1] Karl A. Slaikeu, Crisis Intervention. Boston: Allyn and Bacon, 1984, tr. 13.
[2] Samuel L. Dixon, Working with People in Crisis. St. Louis: C.V. Mosby: 1979, tr. 10.
[3] Slaikeu, op.cit., tr. 14-15
[4] Douglas A. Puryear, Helping People in Crisis. San Francisco: Jossey-Bass, 1979, tr. 5 .
[5] Glenn E. Whitlock, Understanding and Coping with Real-Life Crisis. Monterey: Brooks/Cole, 1982, tr. 321-323.
[6] Michael E. Cavanagh, The Counseling Experience. Monterey: Brooks/Cole, 1982, tr. 321-323.
[7] Dixon, op.cit., tr. 87-88.
[8] Ibid., tr. 120.
[9] Lawrence M. Brammer, The Helping Relationship (ấn bản lần thứ hai). Englewood Cliffs: Prentice-Hall, 1979, tr. 81-83.
Tác giả Lê Công Đức