Conscience - Lương Tâm
Lương tâm là một trong những công cụ (tools) mà Đức Thánh Linh dùng để đối thoại với con người. Từ ngữ “lương tâm – conscience” được ghi chép lại khoảng 32 lần trong Thánh Kinh Tân Ước.
Chữ “conscience - lương tâm” được kết nối từ chữ Latin “scire” nghĩa là nhận biết (“to know”), và chữ “con” là cùng chung (“together”). Thuật ngữ “conscientia - lương tâm” mô tả việc chia sẻ “kiến thức (scientia).” Trong tiếng Latin, chữ “Con” có nghĩa là “với (with)” và khoa học (Scientia) có nghĩa là “kiến thức.” Vì vậy, từ lương tâm theo nghĩa đen có nghĩa là "với kiến thức (with knowledge)”.
Trong tiếng Pháp cổ, thuật ngữ "lương tâm” mang ý nghĩa về suy nghĩ sâu xa nhất, mong muốn, ý định; cảm xúc.” Trong tiếng Latin, lương tâm có thể hiểu như là & quot;một sự hiểu biết chung về một cái gì đó, một sự biết về một sự vật cùng với một người khác; ý thức, kiến thức; & quot; đặc biệt, & quot;kiến thức bên trong bản thân, ý thức về đúng và sai, ý thức đạo đức;
Trong tiếng Hê-bơ-rơ, chữ “conscience - lương tâm” là chữ “leb” thường được dịch là “con tim - heart” trong Thánh Kinh Cựu Ước. Đức Chúa Trời đã làm cho vua Pha-ra-ôn cứng lòng (Xuất hành 8:15); Chúa cứu rỗi người có lòng ngay thẳng (Thánh thi 7:10); Đa-vít cầu xin Chúa tạo nên trong tôi một tấm lòng trong sạch (Thánh thi 51:10).
Từ Hi ngữ & quot; syneídēsis” (4893), conscience, nghĩa là một sự phân biệt tự nhiên (an innate discernment), lương tâm tự phán xét (self-judging consciousness).
Theo Tự Điển Kinh Thánh Holman Bible Dictionary, Danh từ “lương tâm – conscience” không có đề cập nhiều lần trong Thánh Kinh Cựu Ước. Tuy nhiên, Cựu Ước chỉ dùng chữ “con tim – heart” thay vì lương tâm. Điển hình như câu Kinh Thánh chép “Đa-vít đến gần, cắt lén vạt áo choàng của vua Sau-lơ. 5 Nhưng ngay sau đó, Đa-vít tự trách mình (“Afterward David's heart smote him”) vì đã cắt vạt áo choàng của vua Sau-lơ” (1 Sa-mu-ên 24:5). “Ngày nay, chính mắt cha thấy CHÚA đã giao mạng cha vào tay con trong hang đá. Người ta xúi con giết cha, nhưng con không nỡ, và con tự nhủ: "Ta không nên ra tay hại chủ ta vì người được CHÚA xức dầu” (2 Sa-mu-ên 24:10).
Người công chính như Gióp sẽ không bị lương tâm cắn rứt. Vì thế, Gióp nói rằng “Tôi quyết chắc tôi công chính, tôi không hề đổi ý, Trọn đời tôi, tôi không hề bị lương tâm cắn rứt” (Gióp 27:6). “I will maintain my innocence and never let go of it; my conscience will not reproach me as long as I live” (Job 27:6).
Khi tấm lòng của chúng ta bị cáo trách hay bị lên án là lúc chúng ta đang bị lương tâm khiển trách hay nhắc nhỡ. Vì vậy, “mỗi khi lòng chúng ta lên án chúng ta. Vì Đức Chúa Trời còn vĩ đại hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự. 21Thưa anh em yêu dấu, nếu lòng của chúng ta không lên án chúng ta thì chúng ta được vững tâm đến với Đức Chúa Trời;” (1 Giăng 3:20-21). Sách Thi thiên 16:7 BHD chép “Con sẽ chúc tụng Đức Giê-hô-va là Đấng khuyên bảo con; Ngay cả ban đêm lương tâm con cũng nhắc nhở con.”
Kinh Thánh Tân Ước ghi chép lại hai loại lương tâm của con người thường có khuynh hướng sống theo như:
Lương Tâm Bản Ngã (the natural conscience) _ Lương tâm yếu đuối – A weak conscience (1 Cô-rinh-tô 8:7,13). _ Lương tâm băng hoại – A defiled conscience (Titus 1:15). _ Lương tâm gian ác – A evil conscience (Hê-bơ-rơ 10:19-22). _ Lương tâm chai lì – A seared conscience (1 Ti-mô-thê 4:2).
Lương Tâm Thuộc Linh (Spiritual conscience) _ Lương tâm tốt - A good conscience (1 Ti-mô-thê 1:5; 1 Phê-rơ 3:16). _ Lương tâm trong sáng - A Clear conscience (2 Ti-mô-thê 1:1-3) _ Lương tâm không bị cáo trách - A blameless conscience (Công vụ 24:16). _ Lương tâm chứng thực – A convicted conscience (Rô-ma 2:15).
Phao-lô viết về mối liên hệ giữa lương tâm con người và Đức Thánh Linh.
“Trong Chúa Cứu Thế tôi nói sự thật, tôi không nói dối, lương tâm tôi làm chứng cho tôi trong Đức Thánh Linh rằng 2 lòng tôi rất buồn rầu và đau đớn triền miên” (Rô-ma 9:1-2).
“Vì khi người ngoại quốc không có kinh luật mà tự nhiên làm những điều kinh luật dạy, dù không có kinh luật thì họ cũng là kinh luật cho họ rồi. 15 Họ tỏ ra rằng những điều kinh luật đòi hỏi đã được viết trong lòng họ, lương tâm họ cũng chứng thực như thế, và tư tưởng họ tranh biện nhau khi thì lên án, khi thì bênh vực” (Rô-ma 2:14-15).
Đức Thánh Linh giải bày chân lý và vấn đề thuộc linh của chúng ta.
“Đức Chúa Trời đã khải thị cho chúng ta qua Đức Thánh Linh. Vì Đức Thánh Linh thông suốt mọi sự, ngay cả những điều sâu nhiệm của Đức Chúa Trời. 11 Vì ai biết được tư tưởng trong lòng người ngoại trừ tâm linh trong chính người ấy? Cũng vậy, không ai có thể biết được tư tưởng của Đức Chúa Trời, ngoại trừ Thánh Linh của Đức Chúa Trời. 12 Chúng ta không tiếp nhận thần trí của thế gian, nhưng nhận Thánh Linh đến từ Đức Chúa Trời để chúng ta hiểu những ân phúc Đức Chúa Trời ban cho mình. 13 Chúng tôi truyền giảng không phải bằng lời nói khôn ngoan do loài người dạy dỗ nhưng do Đức Thánh Linh dạy dỗ, giải thích những vấn đề thiêng liêng cho người thuộc linh” (1 Cô-rinh-tô 2:10-13).
Đức Thánh Linh cảnh báo lương tâm của chúng ta.
“Kìa nay được Đức Thánh Linh ràng buộc (compelled by the Spirit), tôi đi về Giê-ru-sa-lem, chẳng biết sẽ gặp những gì tại đó. 23 Tôi chỉ biết một điều: trong mỗi thành phố, Thánh Linh đều bảo tôi rằng ngục tù và hoạn nạn đang chờ đón tôi.” (Công vụ 20:22-23).
Đức Thánh Linh làm tăng nghi lực cho lương tâm của chúng ta.
“Vậy, vì biết thế nào là kính sợ Chúa, chúng tôi thuyết phục người ta, còn Chúa thì biết rõ chúng tôi và tôi hy vọng anh chị em cũng biết rõ chúng tôi trong lương tâm mình” (2 Cô-rinh-tô 5:11).
Đức Thánh Linh cáo trách lương tâm của chúng ta.
“Nhưng Ta bảo các con sự thật này: Ta ra đi là ích lợi cho các con, vì nếu Ta không đi thì Đấng Phù Hộ sẽ không đến cùng các con. Nhưng nếu Ta đi, Ta sẽ phái Ngài đến cùng các con. Khi đến, Ngài sẽ làm thế gian nhận thức về tội lỗi, về lẽ công chính và về sự định tội: 9 Về tội lỗi, vì họ không tin Ta; 10 về lẽ công chính vì Ta sắp đi về cùng Cha và các con không còn thấy Ta nữa; 11 và về sự định tội vì lãnh tụ trần gian này đã bị kết án rồi” (Giăng 16:8-11).
“Nhưng trong lòng anh chị em hãy biệt riêng Chúa Cứu Thế làm Chúa. Luôn luôn sẵn sàng để trả lời cho những ai hỏi anh chị em lý do nào anh chị em có sự hy vọng đó. Phải làm điều này với sự hiền hòa và kính trọng, 16 giữ cho lương tâm trong sạch, để những ai nói xấu về hành vi tốt của anh chị em trong Chúa Cứu Thế sẽ bị xấu hổ vì những lời vu khống của họ” (1 Phê-rơ 3:15-16).
“Điều hãnh diện cho chúng tôi là thế này, có lương tâm chúng tôi làm chứng rằng chúng tôi cư xử trong thế gian, nhất là đối với anh chị em với tấm lòng thánh khiết và chân thật của Đức Chúa Trời, không phải bằng sự khôn ngoan xác thịt nhưng bằng ân sủng của Đức Chúa Trời” (2 Cô-rinh-tô 1:12).
“Do đó, tôi luôn luôn cố gắng giữ lương tâm không chê trách trước mặt Đức Chúa Trời và loài người” (Công vụ 24:16).
Từ ngữ “Lương Tâm – Conscience” được ghi chép lại trong Kinh Thánh như:
1. Lương tâm tốt - A good conscience
“Phao-lô mắt chăm chỉ trên tòa công luận, nói rằng: Hỡi các anh em, trước mặt Đức Chúa Trời, tôi đã ăn ở trọn lương tâm tử tế cho đến ngày nay.” (Công vụ 23:1).
“Mục đích của sự răn bảo, ấy là sự yêu thương, bởi lòng tinh sạch, lương tâm tốt và đức tin thật mà sanh ra.” (1 Ti-mô-thê 1:5).
“phải có lương tâm tốt, hầu cho những kẻ gièm chê cách ăn ở lành của anh em trong Đấng Christ biết mình xấu hổ trong sự mà anh em đã bị nói hành;” (1 Phê-rơ 3:16).
“giữ vững đức tin và lương tâm tốt. Có người vứt bỏ điều đó, nên đức tin bị chìm đắm” (1 Ti-mô-thê 1:19).
2. Lương tâm trong sáng - A Clear conscience
“Ta, Phao-lô, theo ý muốn Đức Chúa Trời, làm sứ đồ của Đức Chúa Jêsus Christ, đặng rao truyền lời hứa của sự sống trong Đức Chúa Jêsus Christ, 2 gởi cho Ti-mô-thê, là con rất yêu dấu của ta: nguyền con được ân điển, sự thương xót, sự bình an ban cho bởi Đức Chúa Trời, là Cha, và bởi Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta! 3 Ta cảm tạ Đức Chúa Trời mà ta hầu việc bằng lương tâm thanh sạch như tổ tiên ta đã làm, cả ngày lẫn đêm ta ghi nhớ con không thôi trong khi cầu nguyện.” (2 Ti-mô-thê 1:1-3)
“giữ vững huyền nhiệm của đức tin với lương tâm trong sạch” (1 Ti-mô-thê 3:9).
“nước ấy là hình bóng lễ báp-tem, để cứu anh chị em ngày hôm nay không phải để làm sạch sự dơ dáy khỏi thân thể, nhưng là một lời nguyện ước từ lương tâm trong sạch dâng lên Đức Chúa Trời qua sự sống lại của Chúa Cứu Thế Giê-xu,” (1 Phê-rơ 3:21).
3. Lương tâm không bị cáo trách - A blameless conscience
“Cũng vì cớ ấy, nên tôi vẫn gắng sức cho có lương tâm không trách móc trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt loài người.” (Công vụ 24:16).
4. Lương tâm yếu đuối – A weak conscience
“Nhưng chẳng phải mọi người đều có sự hay biết đó. Một đôi người vì nghĩ thường có thần tượng, nên khi ăn của cúng tế đó cho là của cúng tế thần tượng; thì lương tâm yếu đuối của họ bởi đó ra ô uế” (1 Cô-rinh-tô 8:7).
“Bởi vì, nếu có kẻ lương tâm yếu đuối thấy ngươi là người có sự hay biết ngồi ăn trong miếu tà thần, thì há chẳng cũng bắt chước mà ăn của cúng tế sao?” (1 Cô-rinh-tô 8:10)
“Khi nào mình phạm tội cùng anh em như vậy, làm cho lương tâm yếu đuối của họ bị thương, thì là phạm tội cùng Đấng Christ.” (1 Cô-rinh-tô 8:12).
5. Lương tâm băng hoại – A defiled conscience
“Mọi sự là tinh sạch cho những người tinh sạch, nhưng, cho những kẻ dơ dáy và chẳng tin, thì không sự gì là tinh sạch cả; trái lại, tâm thần và lương tâm họ là dơ dáy (defiled conscience) nữa.” (Titus 1:15).
“Họ là người đạo đức giả, nói dối, có lương tâm chai lì,” (1 Ti-mô-thê 4:2).
“Ấy là một hình bóng chỉ về đời bây giờ, để tỏ rằng các lễ vật và hi sinh dâng đó, không có thể làm cho kẻ thờ phượng được vẹn lành về lương tâm.” (Hê-bơ-rơ 9:9).
6. Lương tâm gian ác – A evil conscience
“Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào nơi rất thánh, 20 bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài, 21 lại vì chúng ta có một thầy tế lễ lớn đã lập lên cai trị nhà Đức Chúa Trời, 22 nên chúng ta hãy lấy lòng thật thà với đức tin đầy dẫy trọn vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong, mà đến gần Chúa.” (Hê-bơ-rơ 10:19-22).
7. Lương tâm chai lì – A seared conscience
“bị lầm lạc bởi sự giả hình của giáo sư dối, là kẻ có lương tâm đã lì,” (1 Ti-mô-thê 4:2).
“bởi sự ngu muội ở trong họ, và vì lòng họ cứng cỏi nên trí khôn tối tăm, xa cách sự sống của Đức Chúa Trời.” (Ê-phê-sô 4:18).
8. Lương tâm chứng thực – A convicted conscience
“Họ tỏ ra rằng việc mà luật pháp dạy biểu đã ghi trong lòng họ: chính lương tâm mình làm chứng cho luật pháp, còn ý tưởng mình khi thì cáo giác mình, khi thì binh vực mình.” (Rô-ma 2:15).
Phao-lô viết về mối liên hệ giữa lương tâm và Đức Thánh Linh qua sách Rô-ma 9:1-2, Rô-ma 2:14-15
• Đức Thánh Linh đổi mới tâm trí của chúng ta (1 Cô-rinh-tô 2:10-13).
• Đức Thánh Linh khuyến cáo lương tâm của chúng ta (Công vụ 20:22-23).
• Đức Thánh Linh làm tăng nghị lực cho lương tâm của chúng ta (2 Cô-rinh-tô 5:11).
• Đức Thánh Linh cáo trách lương tâm của chúng ta (Giăng 16:8-11, 1 Phê-rơ 3:15-16, 2 Cô-rinh-tô 1:12, Công vụ 24:16).
Conscience – Lương Tâm
_ “Lương tâm là la bàn (compass) dẫn chúng ta đến hạnh phúc và bình an.
_ Lương tâm là người bạn tốt giúp chúng ta tránh khỏi cạm bẫy tham nhũng và tội ác. _ Lương tâm là ông thầy khó tánh luôn lên án, nhưng là nhà tâm vấn công minh giúp chúng ta thành công và đầy uy tín. _ Lương tâm đáng tin cậy và trân quý khi lương tâm của chúng ta được soi dẫn bởi Lời Hằng Sống của Chúa và quyền năng của Chúa Thánh Linh.” Mục Sư Ngô Việt Tân
Lương Tâm Bản Ngã và Lương Tâm Thuộc Linh
• Lương Tâm Bản Ngã (the natural conscience) _ Lương tâm yếu đuối – A weak conscience (1 Cô-rinh-tô 8:7,13). _ Lương tâm băng hoại – A defiled conscience (Titus 1:15). _ Lương tâm gian ác – A evil conscience (Hê-bơ-rơ 10:19-22). _ Lương tâm chai lì – A seared conscience (1 Ti-mô-thê 4:2).
• Lương Tâm Thuộc Linh (Spiritual conscience) _ Lương tâm tốt - A good conscience (1 Ti-mô-thê 1:5; 1 Phê-rơ 3:16). _ Lương tâm trong sáng - A Clear conscience (2 Ti-mô-thê 1:1-3) _ Lương tâm không bị cáo trách - A blameless conscience (Công vụ 24:16). _ Lương tâm chứng thực – A convicted conscience (Rô-ma 2:15).