Biện Giáo
LUẬN VỀ NIỀM TIN
1.1 NIỀM TIN VÀ LÝ TRÍ: LÀM THẾ NÀO ĐỂ TÔI BIẾT ĐƯỢC RẰNG CƠ ĐỐC GIÁO LÀ CHÂN LÝ?
Trước khi trình bày lý lẽ bênh vực cho Cơ Đốc giáo, chúng ta phải nắm vững một số thắc mắc rất cơ bản về bản chất và mối quan hệ giữa niềm tin và lý trí. Làm thế nào để chúng ta biết chính xác Cơ Đốc giáo là chân lý? Có phải đơn giản là chỉ có niềm tin hoặc dựa vào thẩm quyền Lời của Thượng Đế, cả hai đều không liên hệ đến lý luận? Kinh nghiệm trong đạo có bảo đảm cho chúng ta chân lý niềm tin Cơ Đốc để không cần thiết phải biện minh thêm gì nữa không? Hay là một nền tảng hữu lý cho niềm tin có cần thiết mà nếu không có nền tảng này thì niềm tin sẽ không ai biện minh được và trở nên phi lý hay không? Chúng ta có thể giải đáp những thắc mắc này một cách có hiệu quả hơn nếu chúng ta lướt sơ qua một số nhà tư tưởng tiêu biểu quan trọng nhất trong quá khứ. Nhưng trước hết, tôi xin nêu một số thư mục dành cho đề tài này.
1.11 - Tài liệu trích dẫn và hướng dẫn.
1.111. Về bối cảnh lịch sử
1.112. Đánh giá
Tác giả: Green (Michael Green): Truyền bá Phúc âm trong giáo hội đầu tiên. Grand Rapids, Eerdmans, 1970
Tác giả: Hackett (Stuart Hackett): Sự hồi sinh của tư tưởng hữu thần. Tái bản lần 2. Grand Grapids: Baker, 1982
Tác giả: Hick (John Hick): Niềm tin và tri thức. Ithaca N.Y.Cornell U. 1957
1.12 - Bối cảnh lịch sử
1.121. Thời trung cổ.
Khi lướt qua bối cảnh lịch sử, chúng ta trước tiên thử xem qua hai khuynh hướng có tính cách quyết định vào thời Trung cổ; khuynh hướng của Augustine (354-430) và khuynh hướng của Thomas Aquinas (1224-74).
1.1211. Augustine:
Quan điểm của Augustine với niềm tin và lý trí rất khó giải thích, nhất là quan niệm ông biến đổi theo thời gian. Đôi khi chúng ta thấy ông là một nhà có tư tưởng độc đoán, nghĩa là ông cho rằng niềm tin là một căn cứ hay thẩm quyền thần hựu tuyệt đối, không có gì để bàn cãi. Căn cứ hay thẩm quyền này được biểu lộ qua một là Thánh Kinh hai là Giáo hội. Do vậy, Augustine đã xưng nhận rằng: “Tôi không nên tin vào Phúc âm nếu như Phúc âm không được động vào”. Ông coi trọng thẩm quyền của Thánh Kinh hơn là thẩm quyền của Giáo hội. Vì Thánh Kinh được Thượng Đế hà hơi hay linh cảm nên Thánh Kinh không có điều nào sai lầm nên vì thế phải đặt niềm tin tuyệt đối vào Thánh Kinh. Quan niệm về thẩm quyền như vậy hình như gợi ý rằng lý trí không đóng vai trò trong việc biện minh cho niềm tin, và Augustine nhiều lúc bày tỏ quan điểm này. Ông khẳng định rằng muốn thông hiểu thì trước hết phải tin. Ông hai trích dẫn Thánh Kinh sách Ê-sai đoạn 7 và 9 theo bản bảy mươi như sau: “Nếu ngươi không tin thì ngươi không sẽ không hiểu được” Nguyên tắc cơ bản theo trường phái Augustine đưa đến sự thông hiểu.
Một số phát biểu của Augustine minh chứng rằng ông tuy độc đoán nhưng không phải là không có lý luận vững vàng. Ông lập luận rằng thẩm quyền và lý trí hổ trợ cho nhau để đưa con người đến niềm tin. Thẩm quyền đặt yêu cầu nơi con người phải có niềm tin và thẩm quyền trang bị cho con người lý trí và lý luận đưa đến sự thông hiểu và tri thức. Nhưng đồng thời lý trí không hẳn tách rời với thẩm quyền vì con người cần phải xem xét mình phải đặt niềm tin nơi ai và thẩm quyền tối thượng là chân lý đã được làm sáng tỏ, nghĩa là chân lý khi đã sáng tỏ đương nhiên là thẩm quyền tối thượng mà chúng ta phải thừa nhận. Theo Augustine, nhiệm vụ của chúng ta là xem xét nhân vật nào hay quyển sách nào đáng tôn để tin thờ Thượng Đế cách đúng đắn - Gerhard Strauss trong một cuốn sách của ông ta bàn đến giáo lý Thánh Kinh của Augustine có giải thích rằng Thánh Kinh theo Augustine là đáng tin cậy và không hề có sai lầm một cách tuyệt đối, nhưng bản thân Thánh Kinh không mang tính chất đáng tin, nghĩa là khi nghe đến Thánh Kinh người ta không phải chấp nhận cách đương nhiên thẩm quyền của Thánh Kinh. Thế nên cần phải có một số biểu hiện nào đó nói lên tính đáng tin cậy này để chứng tỏ rằng thẩm quyền của Thánh Kinh là hiển nhiên. Dựa trên cơ sở là những biểu hiện hay dấu hiệu này, chúng ta có thể tin rằng Thánh Kinh là Lời đáng tin cậy của Thượng Đế và phục tùng thẩm quyền này. Những biểu hiện chủ yếu mà Augustine đã viện dẫn để nói lên thẩm quyền của Thánh Kinh là phép lạ và lời tiên tri. Dầu rằng có nhiều tôn giáo tự cho mình có được sự mặc khải để biết con đường đưa đến sự cứu rỗi, thì duy nhất chỉ có Thánh Kinh có sự hổ trợ của phép lạ và lời tiên tri để chứng minh Thánh Kinh là một thẩm quyền chân thật.
Do đó, lý lẽ độc đoán của Augustine xem ra rất hạn chế. Có lẽ tính mâu thuẫn này được giải thích rõ ràng nhất dựa theo sự hiểu biết về thẩm quyền thời trung cổ. Trong thời kỳ giáo hội đầu tiên, thẩm quyền bao gồm không những cả những chân lý thần học mà luôn cả toàn bộ truyền thống của những những điều con người hiểu biết được về quá khứ. Mối quan hệ giữa thẩm quyền và lý trí không giống mối quan hệ giữa niềm tin và lý trí. Đúng hơn đó là mối liên hệ về quá khứ và những hiểu biết ở hiện tại. Kiến thức, hay sự hiểu biết về quá khứ được chấp nhận trên cơ sở thẩm quyền. Điều này xem ra dường như là quan niệm của Augustine. Ông phân biệt giữa điều mình thấy là có thật và điều mình tin là có thật. Chúng ta biết được rằng một điều gì đó là có thật một là bằng nhận thức của giác quan hai là bằng chứng minh hữu lý. Chúng ta tin điều gì đó là có thật trên cơ sở là lời chứng xác nhận của người khác. Do đó, khi đề cập đến phép lạ và lời tiên tri thì Augustine có nói rằng tính chất đáng tin của các biến cố trên đời này theo thời gian, hoặc quá khứ, hoặc tương lai đều phải dựa vào niềm tin chứ không thể biết được bằng trí tuệ. Chỗ khác ông nói rằng con người nên tin có Thượng Đế bởi vì niềm tin nơi Thượng Đế được truyền đạt qua sách vỡ của những con người đã lưu lại trên giấy trắng mực đen lời chứng xác nhận của họ là họ đã sống với Con Thượng Đế và đã trông thấy những điều kỳ diệu nếu như không có Thượng Đế đã không thể xảy ra được. Tiếp đến ông kết luận rằng một người trước khi thông hiểu được thì người ấy phải tin. Vì rằng theo Augustine, bằng chứng về mặt lịch sử của phép lạ và lời tiên tri thuộc quá khứ, tức thuộc lãnh vực thẩm quyền, không phải lãnh vực lý trí. Ngày nay chúng ta có thể nói rằng lối lý giải như vậy là nhằm tạo một nền tảng lý luận cho thẩm quyền thông qua biện giáo lịch sử.
Giờ đây vấn đề nổi cộm nhất là dù cho họ là các tác giả kinh điển hay các trước giả Thánh Kinh thì tại sao phải chấp nhận thẩm quyền của những tác giả quá khứ này? Hiển nhiên, nếu Augustine muốn tránh lý luận vòng vo, ông không thể nói rằng chúng ta nên chấp nhận thẩm quyền của các nhà truyền bá Phúc âm bởi vì có thẩm quyền của Thánh Kinh, vì chính lời chứng về phép lạ và lời tiên tri của các nhà truyền bá Phúc âm là nhằm để minh chứng thẩm quyền của Thánh Kinh. Vì thế Augustine phải có một lập luận để chấp nhận rằng lời chứng của các nhà truyền bá Phúc âm là đáng tin cậy, còn nếu không thì ông buộc phải từ bỏ lối lý giải của mình. Vì ông thiếu phương pháp thứ nhất. Do đó ông đã chọn phương pháp thứ hai. Ông thẳng thắn chẳng nhận rằng sách vở kể về truyện tích Chúa Giê-xu thuộc về lịch sử xa xưa mà ai cũng có quyền từ chối không tin, cho nên ông đã xoay qua phép lạ hiện tại là giáo hội để làm căn bản cho việc chấp nhận thẩm quyền Thánh Kinh. Chính sự hiện hữu của giáo hội phổ thông và mạnh mẽ mà ông nhìn thấy và xem đó là một biểu hiện đầy thuyết phục rằng Thánh Kinh là chân thật và có tính thần hựu. Hãy lưu ý rằng Augustine không đặt thẩm quyền Thánh Kinh trên thẩm quyền giáo hội, vì ông quan niệm thẩm quyền Thánh Kinh vượt lên trên thẩm quyền giáo hội. Đúng hơn ông vẫn đặt trọng tâm vào biểu hiện của phép lạ, không hẳn là phép lạ ghi trong sách Phúc âm vốn thuộc quá khứ xa xưa không khôi phục lại được, nhưng là phép lạ hiển nhiên ở thời hiện tại đó là giáo hội. Trong tác phẩm “Thành phố của Thượng Đế” ông cho rằng cho dù người không tin bác bỏ tất cả phép lạ ghi trong Thánh Kinh thì chúng ta vẫn còn một phép lạ kỳ diệu, mà một người chỉ cần phép lạ ấy thôi, đó là sự thật về cả thế giới của những người tin Cơ Đốc giáo mà không phải dựa vào phép lạ - khi chú trọng đến việc lấy phép lạ ở hiện tại làm biểu hiện cho thẩm quyền của Thánh Kinh thì có điều thú vị là Augustine dường như đã ngắm ngầm khước từ đường lối độc đoán, vì rằng biểu hiện, hay dấu hiệu này không nằm trong quá khứ, không nằm trong lãnh vực thẩm quyền vốn chỉ có tin mà thôi, nhưng nằm trong hiện tại, có thể thấy được và có thể hiểu được. Dù thế nào đi chăng nữa thì việc Augustine chú trọng đến thẩm quyền của Thánh Kinh và đến các biểu hiện mang tính đáng tin cậy đã mở đường cho phong thái thần học trung cổ tiếp theo đó.
1.1212. Thomas Aquinas
Tác phẩm Summa contra gentiles của Aquinas viết ra để đương đầu với đường lối triết học Á-rập Hi-lạp là tác phẩm biện giáo giá trị nhất trong thời trung cổ vì thế rất đáng cho chúng ta nghiên cứu. Thomas đã hoàn chỉnh một khuôn mẫu về mối quan hệ giữa niềm tin và lý trí, kể cả những biểu hiện nói lên tính đáng tin cậy. Ông ta mở đầu bằng cách phân biệt giữa những chân lý về Thượng Đế. Một mặt có những chân lý vượt qua khả năng lý trí của con người, chẳng hạn như giáo lý về Ba Ngôi. Mặt khác, có nhiều chân lý nằm trong giới hạn lý trí của con người, chẳng hạn như sự hiện hữu của Thượng Đế. Trong 3 tập đầu của bộ Summa contra gentiles, Thomas đã thử chứng minh những chân lý thuộc về lý trí bao gồm sự hiện hữu và bản chất của Thượng Đế, thứ tự của sự sáng tạo, bản chất và sự tận cùng của con người v.v... nhưng đến tập 4, khi ông bàn đến đề tài như giáo lý Ba Ngôi, sự nhập thể, các phép bí tích và những sự cuối cùng thì ông đột nhiên thay đổi phương pháp giải quyết vấn đề. Ông phát biểu rằng những điều này chỉ được chứng minh bằng thẩm quyền của Thánh Kinh chứ không bằng lý trí. Vì những chân lý này vượt quá lý trí nên những chân lý này phải là đối tượng của niềm tin.
Thoạt nhìn, điều này dường như cho thấy rằng đối với Aquinas, những chân lý thuộc về niềm tin là những điều bí ần, vượt quá logic thế nào đó. Nhưng ở điểm này chúng ta phải cẩn thận. Vì khi tôi đọc Aquinas, đó không phải là cách mà ông xác định lời lẽ ngôn ngữ của mình. Đúng ra dường như ông có ý cho rằng chân lý thuộc về niềm tin vượt quá lý trí ở chỗ những chân lý này chẳng phải hiển nhiên theo phương diện kinh nghiệm cũng chẳng chứng minh được một các chắc chắn tuyệt đối. Ông không có ý nói rằng chân lý thuộc về niềm tin vượt quá logic theo Aristotle. Đúng hơn đó chẳng qua chỉ vì không có thực tế nào bằng kinh nghiệm mà qua đó những chân lý này được suy ra để kết luận. Thí dụ: mặc dù sự hiện hữu của Thượng Đế có thể được chứng minh bằng những kết quả của Ngài nhưng không có thực tế nào bằng kinh nghiệm mà nhờ đó để đi đến kết luận và lý lẽ Ba Ngôi. Hoặc là sự sống lại sau rốt của những kẻ chết cũng không thể chứng minh được vì không có biến cố trong tương lai này. Rãi rác những chỗ khác, Thomas nói rõ rằng chân lý thuộc về niềm tin cũng không thể chứng minh duy nhất bằng lý trí ông cho rằng chúng ta phải sử dụng lý lẽ mà thôi và những lý lẽ này chứng minh những kết luận trên một cách chắc chắn tuyệt đối, vì nếu chúng ta sử dụng lý luận theo xác suất thì sự thiếu sót của những lý luận trên chỉ củng cố thêm lòng vô tín của người ngoại đạo. Do đó, sự phân biệt giữa chân lý thuộc về lý trí và chân lý thuộc về niềm tin mà Thomas đưa ra cũng tương tự như Augustine phân biệt giữa thấy và tin. Chân lý thuộc về lý trí và có thể 'nhìn thấy' - nghĩa là, hoặc có thể chứng minh bằng sự chắc chắn hữu lý hoặc chấp nhận đó là hiển nhiên theo kinh nghiệm, còn chân lý thuộc về niềm tin phải được tin vì những chân lý này không thể chứng minh kinh nghiệm hay bằng lý luận. Điều này không có nghĩa là chân lý thuộc về niềm tin là không thể hiểu nổi hay 'vượt quá logic'. Vì chân lý thuộc về niềm tin chỉ có thể tin mà thôi, thế thì điều này có hàm ý rằng Thomas cuối cùng là người theo chủ nghĩa niềm tin hay là một người độc đoán? Câu trả lời xem ra rõ ràng là không phải - vì giống như Augustine, ông theo đuổi một lập luận rằng Thượng Đế cho những dấu hiệu về phép lạ và lời tiên tri dùng để xác nhận chân lý thuộc về niềm tin, dầu rằng không bày tỏ các chân lý này cách trực tiếp. Vì cớ những dấu hiệu này nên Aquinas cho rằng một người có thể nhìn thấy được những chân lý thuộc về niềm tin: “Lúc ấy tin sẽ thật sự nhìn thấy chân lý, nếu ai không thấy rằng những chân lý này đáng để tin dựa trên là những dấu hiệu, hay biểu hiện hiển nhiên hoặc một cái gì tương tự như thế thì người ấy sẽ không tin” Thomas gọi những biểu hiện này là những 'xác nhận' 'lý lẽ' và 'bằng chứng' cho chân lý thuộc về niềm tin. Điều này xem ra cho chúng ta thấy rõ rằng Aquinas tin rằng có những lý do chính đáng để chấp nhận chân lý thuộc về niềm tin nói chung. Những bằng chứng về phép lạ và lời tiên tri có tính thuyết phục mặc dầu là gián tiếp. Do đó, lấy ví dụ, giáo lý Ba Ngôi là một chân lý thuộc về niềm tin vì không thể chứng minh trực tiếp bằng lý luận, tuy vậy chân lý này vẫn được chứng minh cách gián tiếp, nếu như những chân lý thuộc về niềm tin này nói chung được chứng tỏ là có thể tin được bằng những biểu hiện, hay dấu hiệu thần hựu.
Phương pháp luận của Thomas có thể được tóm tắt thành 3 bước: (1) Lời tiên tri được ứng nghiệm và phép lạ khiến cho có thể tin được rằng Thánh Kinh nói chung là một mặc khải của Thượng Đế. (2) Vì là mặc khải của Thượng Đế nên Thánh Kinh là hoàn toàn đáng tin cậy. (3) Vì thế những giáo lý nào mà được Thánh Kinh đề cập đến nhưng không thể chứng minh tỏ tường hoặc hiện hữu trong kinh nghiệm thì có thể chấp nhận bằng niềm tin dựa trên thẩm quyền của Thánh Kinh. Do đó, Aquinas có thể nói rằng một đối thủ có thể tin chân lý thuộc về niềm tin dựa trên cơ sở thẩm quyền của Thánh Kinh được Thượng Đế xác nhận bằng phép lạ.
Lại nổi lên một vấn đề: Làm thế nào chúng ta biết được rằng những phép lạ có dụng ý và những lời tiên tri ứng nghiệm có xảy ra hay không? Vì thiếu phương pháp luận lịch sử nên các nhà tư tưởng thời trung cổ không thể giải đáp vấn đề này. Họ đã đề ra một cơ cấu triết học mà qua đó các biểu hiện để tạo điều kiện tin được xác định các chân lý thuộc về niềm tin thế nhưng họ lại không tìm được cách nào để chứng minh bản thân những chân lý này. Lý lẽ duy nhất là cách chứng minh gián tiếp của Augustine dựa theo phép lạ là giáo hội. Do vậy Thomas phát biểu: “Sự kiện kỳ diệu là thế giới loài người tin theo Cơ Đốc giáo là bằng chứng không chối cải được nói lên rằng những biểu hiện như vậy quả có thật. Và đó là biểu hiện kỳ diệu hơn hết vì giả như không có những biểu hiện kỳ diệu nào thì thế giới loài người sẽ không được thuyết phục bởi những con người hèn hạ, giản dị để tin những điều thật khó tin, thực hiện những việc thật khó khăn và hy vọng để đạt tới những điều thật siêu phám”.
Có thể nói thêm một điều. Với Aquinas chúng ta nhìn thấy niềm tin được đưa xuống phạm trù tri thức, nghĩa là niềm tin không còn là sự ủy thác hay sự phó thác của trái tim nhưng là phương cách để nhận biết bổ sung cho lý trí. Niềm tin cơ bản là sự chấp nhận bằng trí tuệ những tín lý không chứng minh được bằng lý trí, do đó quan điểm của Augustine cho rằng một tín lý không thể vừa nhận biết vừa tin, nếu bạn nhận biết (bằng lý trí) thì vị tất bạn không tin (bằng niềm tin). Do vậy Aquinas đã làm lạc mất quan điểm xem niềm tin là một sự ủy thác hay phó thác. Sự nhận định niềm tin theo trường phái tri thức tương tự như trên đã thể hiện trong các văn kiện của Hội nghị giáo hội tại Trent, và Cộng đồng chung Vatican I và được điều chỉnh lại trong các văn kiện của Cộng đồng chung Vatican II.
1.122. Thời đại ánh sáng.
Thực tế khi thời đại ánh sáng được biết đến như là thời đại của lý trí hẳn đã cho chúng ta một đầu mối có giá trị để chúng ta biết được các nhà tư tưởng của thời kỳ này quan niệm như thế nào về mối tương quan giữa niềm tin và lý trí. Tuy vậy, vấn đề này vẫn chưa có sự nhất trí hoàn toàn, và hai tiểu mục mà chúng ta xem xét sau đây nói lên hai quan điểm cơ bản là đối nghịch nhau.
1.1221. John Locke:
Tư tưởng của John Locke (1632-1704) đã chi phối thế kỷ 18. tác phẩm “Luận về tri thức con người” (1689) đã đặt ra các nguyên lý tri thức mà sau đó chi phối tư tưởng tôn giáo trong suốt thời kỳ này. Mặc dầu bác bỏ triết học của Descartes, Locke lại là một nhà duy lý thần học rất tíc cực. Nghĩa là, ông cho rằng niềm tin tôn giáo phải có một cơ sở, nền tảng dựa vào lý lẽ và nếu thiếu nền tảng như vậy thì niềm tin tôn giáo không còn có lý do xác đáng. Và Locke đã thử ra một nền tảng dựa vào lý lẽ như vậy.
Locke biện minh về sự hiện hữu của Thượng Đế bằng lý luận vũ trụ học, thật thế, ông lặp luận rằng sự hiện hữu của Thượng Đế là “chân lý hiển nhiên nhất mà lý trí khám phá ra” có cả một bằng chứng “ngang với tính chất chắc chắn của toán học”. Khi một người vượt ra khỏi những vấn đề thuộc về lý trí luận chứng sang những vấn đề thuộc về niềm tin thì Locke cho rằng những chân lý được mặc khải không thể nào mâu thuẫn với lý trí. Thượng Đế có thể bày tỏ cho chúng ta cả những chân lý hiểu được bằng lý trí (dầu rằng lý trí cho những bằng chứng chắc chắn hơn là sự mặc khải) lẫn chân lý không hiểu được bằng lý trí. Chân lý được mặc khải mà lý trí không hiểu được không thể mâu thuẫn với lý trí vì chúng ta sẽ luôn tin chắc vào chân lý thuộc về lý trí hơn là một sự mặc khải có mục đích nhưng mâu thuẫn với lý trí. Vì vậy không có tiền đề nào trái nghịch với lý trí có thể chấp nhận là một sự mặc khải thần hựu được, vì làm như thế tức là hủy hoại chính bản thân sự mặc khải thần hựu. Như thế, mặc dầu chúng ta biết sự mặc khải đến từ Thượng Đế là chân thật thì lãnh vực của lý trí vẫn phải sử dụng để xác định xem sự mặc khải giả định nào đó có thật là đến từ Thượng Đế hay không và phải xác định ý nghĩa của sự mặc khải đó.
Chẳng những thế, sự mặc khải không những chỉ phù hợp với lý trí mà bản thân nó phải được bảo đảm bằng những bằng chứng hữu lý thích đáng để cho thấy sự mặc khải đó quả thật là thần hựu. Nếu không thì con người trở thành quá nhiệt tình mà không biết đến hậu quả: “Mặc khải là lý trí tự nhiên được mở rộng bằng một tập hợp gồm những khám phá mới được Thượng Đế thông đạt trực tiếp mà chân lý của sự mặc khải đó được lý trí bảo đảm qua những bằng chứng cho thấy rằng những bằng chứng này đến từ Thượng Đế. Hầu cho người nào gạt bỏ lý trí để tiến đến sự mặc khải sẽ tức khắc dập tắt ánh sáng của cả lý trí lẫn sự mặc khải giống như thuyết phục một người nào đó che mắt họ và cho đó là phương cách tốt hơn để nhận được ánh sáng từ một ngôi sao không nhìn thấy được qua một kính thiên văn? (John Locke)
Niềm hăng say tôn giáo là hình thức biểu lộ tín ngưỡng thường bị các tín hữu trí thức của thời kỳ lý trí chê bai và Locke thì không có liên quan gì đến điều này và chỉ khi nào lý trí nhận thấy hữu lý một mặc khải có mục đích nào đó là chân thật thì sự mặc khải đó có thể tin được”.
Do đó, trong những tác phẩm về sau này như “Tính chất hữu lý của Cơ Đốc giáo” (1695) “Luận về phép lạ” (1690) Locke lập luận rằng lời tiên tri được ứng nghiệm và các phép lạ nhận thấy được tạo nên bằng chứng về chức vụ thần hựu của Chúa Cứu Thế. Ông đã đặt ra ba tiêu chuẩn để nhận biết một mặc khải thật: Thứ nhất là sự mặc khải đó không làm tổn hại đến danh Chúa hoặc không mâu thuẫn với tín ngưỡng tự nhiên và luật luân lý tự nhiên. Thứ hai, sự mặc khải này không phải là thông tin cho con người biết về những điều vô thưởng vô phạt, tầm thường hoặc khả năng tự nhiên con người khám phá ra dễ dàng. Thứ ba, sự mặc khải phải được những biểu hiện siêu nhiên chứng thực. Theo Locke, biểu hiện đứng đầu là phép lạ. Dựa trên phép lạ của Chúa Giê-xu chúng ta được biện minh khi nhận Ngài là Đấng Mê-si và sự mặc khải của Ngài từ Thượng Đế là thật.
Là nguồn gốc của những tác phẩm về thần luận và biện giáo chính thống, quan điểm của Locke đã định hướng cho tư tưởng tôn giáo thế kỷ mười tám. Dù cho là nhà thần luận hay chính thống, các nhà tư tưởng thuộc thế kỷ sau Locke đồng ý kiến rằng lý trí phải được ưu tiên thậm chí trong các vấn đề thuộc về niềm tin và sự mặc khải không được mâu thuẫn với lý trí và lý trí tạo nền tảng cơ bản cho niềm tin tôn giáo.
1.1222. Henry Dodwell:
Không phải những ý kiến bất đồng quan điểm hay không chính thống là không nghe thấy được. Henry Dodwell (qua đời năm 1784) trong tác phẩm “Cơ Đốc giáo không xây dựng bằng lý luận” (142) đã công kích chủ nghĩa duy lý thần học đang thịnh hành và cho đó là phản đề đối với Cơ Đốc giáo thật. Do đó Dodwell đã lạc điệu trong thời của ông ta, thậm chí ông còn bị nghi ngờ là người ngoại, người không tin, đề xướng một cơ sở chủ quan phi duy lý cho niềm tin tôn giáo và lấy đó làm một luận điệu lẫn tránh để phá hoại tính chất duy lý của Cơ Đốc giáo. Tuy nhiên, theo tôi, Dodwell phải được xem cách công bằng là một người đại diện cho truyền thống tôn giáo chống duy lý mà truyền thống này không hẳn là không có kể cả trong thời đại ánh sáng.
Ông lập luận rằng những vấn đề thuộc về niềm tin tôn giáo, không nằm trong sự xác định của lý trí. Có thể là Thượng Đế đã không có ý định đặt lý trí làm khả năng để đưa chúng ta đến niềm tin vì niềm tin không thể treo lơ lững mãi được trong khi lý trí lại thận trọng đắn đó cân nhắc lý luận. Ngược lại Thánh Kinh dạy rằng con đường đi đến Thượng Đế là tâm, là tấm lòng, chứ không phải bằng trí óc. Niềm tin chẳng qua là ân tứ của Thánh Linh. Thế thì cơ sở của niềm tin là gì? Câu giải đáp của Dodwell là thẩm quyền - không hẳn là thẩm quyền độc đoán của giáo hội nhưng đúng hơn là sự soi sáng nội tâm của một sự mặc khải riêng biệt và thường xuyên mà mỗi cá nhân tiếp nhận một cách riêng lẽ và siêu nhiên. Do đó Dodwell đã chú trọng đến công việc bên trong của Thánh Linh tạo nên niềm tin trong tấm lòng của mỗi cá nhân - Lối biện giải trên cơ sở chủ quan của ông xem ra đã không có học giả nào trong thời của ông đáp ứng, nhưng sau này đường lối chú trọng tương tự về ấn chứng của Thánh Linh do phái theo Wesley và Whitefield chủ trương được xem là một dấu ấn riêng biệt cho các cuộc phục hưng lớn lao mở ra những dòng suối tươi mới cho các linh hồn khô hạn, đang khao khát trong xã hội đầy thế tục tại Anh quốc.
1.123. Thời cận đại
Trong thế kỷ này việc tranh luận trên phương diện thần học về mối quan hệ giữa niềm tin và lý trí đã thể hiện với các chủ đề tương tự.
1.1231. Karl Barth và Rudolph Bultmann:
Cả hai trường phái thần học biện chứng của Karl Barth (1886-1968) và thần học hiện sinh của Rudolph Bultmann (1884-1976) đều đặc trưng cho khoa học tri thức về chủ nghĩa độc đoán theo quan niệm Tôn giáo.
Theo Barth thì lý trí con người không thể nào đạt tới sự hiểu biết Thượng Đế. Ngoài sự mặc khải của Thượng Đế qua Chúa Cứu Thế thì lý trí con người hoàn toàn mù tịt về Thượng Đế. Lý lẽ cơ bản đại diện cho thuyết bất khả tri liên quan đến tri thức con người về Thượng Đế xem ra đó là quyết tâm của Barth theo đuổi luận chứng cho rằng Thượng Đế là 'hoàn toàn khác biệt, do đó vượt quá mọi phạm trù tư tưởng và lôgic của người. Niềm tin này đã khiến Barth đi đến việc phủ nhận giáo lý Công giáo La-mã về sự tương đồng hữu thể giữa Thượng Đế và con người, nghĩa là tạo vật vốn là sản phẩm của Tạo Hóa, tương cận một số tính chất hoàn hảo nhất của Thượng Đế như tính hiện hữu, tính thiện, tính chân thật v.v... Theo Barth, Thượng Đế là siêu nghiệm đến nỗi không có mối tương đồng nào giữa Ngài và loài thọ tạo. Vì thế, hẳn là không thể nào hiểu biết về Thượng Đế theo lẽ tự nhiên cả. Nhưng Thượng Đế đã mặc khải chính mình cho con người trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, thật thế, Chúa Cứu Thế là sự mặc khải hay còn gọi là Lời của Thượng Đế. Và chỉ trong Ngài mà thôi mới thấy được sự tương đồng về niềm tin để đưa đến sự hiểu biết một phần nàn đó về Thượng Đế, cho dù điều này xem ra dựa theo kinh nghiệm hơn là nhận thức nhưng đó chính là sự gặp gỡ cá nhân với Lời của Thượng Đế là Đấng giáp mặt với chúng ta thường xuyên qua nhiều dạng khác nhau như Thánh Kinh hay lời giảng dạy. Mặc dù Ngài bày tỏ chính mình nhưng Ngài vẫn ẩn mình. “Ngài gặp mặt chúng ta như là Đấng dấu mặt, Đấng mà chúng ta phải nhận rằng khi chúng ta cố gắng nói về Ngài thì chúng ta không biết mình đang nói gì”. Thượng Đế vẫn vượt trên sự hiểu biết và những điều chúng ta khẳng định về Ngài đều đúng sự thật một cách không hiểu được.
Điều này có thể khiến cho chúng ta nghĩ rằng theo Barth thì thuyết niềm tin là con đường duy nhất mà qua đó con người mới có thể biết được Thượng Đế. Không hẳn như thế. Barth nhấn mạnh rằng sự gặp gỡ bản thân với Lời của Thượng Đế là hoàn toàn đặt dưới sự chủ động thần hựu tối thượng. Lầm lạc trong tội lỗi con người không có khả năng hướng mình đến đức tin đến nỗi một khoảng cách nhỏ để đạt đến đức tin con người cũng không đạt được, chỉ có Thượng Đế mới đột nhập vào tình trạng tội lỗi chay lười của con người để cho con người gặp được Lời của Thượng Đế. Barth có viết như sau: “Sự hiểu biết về Thượng Đế là một sự hiểu biết hoàn toàn được thực hiện và quyết định từ phía đối tượng của sự hiểu biết, từ phía Thượng Đế” hay “mặc dù con người có đi đến quyết định như thế ấy, đã tin thật sự, đã được hướng quyền tự do để bước vào một cuộc sống mới; tuân phục và hy vọng - tất cả những điều này không phải là công việc của tâm linh con người mà là công việc của Thánh Linh”. Barth tin rằng giáo lý xưng công bình bởi ân điển qua đó đức tin của thời kỳ Cải chánh là không tương hợp với bất kỳ sự chủ động khởi xướng nào từ phía con người - kể cả chủ nghĩa tín ngưỡng. Nếu sự nhận biết Thượng Đế lệ thuộc hoàn toàn vào ân điển của Ngài thì thậm chí hành động của niềm tin sẽ là một công việc tội lỗi nếu như điều đó không được Thượng Đế thực hiện hoàn toàn. Nếu hỏi làm thế nào biết được quả thật đó là Lời của Thượng Đế đang đối diện với một người mà không phải là ảo tưởng, thì Barth sẽ đáp rằng một câu hỏi như vậy là vô nghĩa. Khi Lời của Thượng Đế trực diện với một người thì người ấy không còn toàn quyền phân tích, cân nhắc hay xem xét như là một quan tòa hay nhà quan sát sự việc một cách vô tư - người ấy chỉ có thể tuân phục mà thôi. Thẩm quyền Lời của Thượng Đế là nền tảng cho niềm tin tôn giáo.
Tương tự như Barth. Bultmann cũng bác bỏ bất cứ tri thức nào của con người về Lời của Thượng Đế ngoài niềm tin ra. Bultmann giải thích niềm tin theo các phạm trù về tri thức luận, trái ngược với tri thức dựa trên chứng cứ. Theo cung cách của người theo thuyết hiện sinh, ông cho điều này rất quan yếu đối với niềm tin vì có liên hệ đến cái gì không chắc chắn và phiêu lưu. Vì thế, chứng cớ hữu lý không những không xác đáng mà còn đi ngược với niềm tin. Niềm tin, để trở thành niềm tin, phải hiện hữu trong một khoảng chân không mang tính chứng cớ. Vì lý do này Bultmann phủ nhận sự coi trọng thân vị Chúa Giê-xu qua lịch sử trong giáo lý Cơ Đốc ngoại trừ sự hiện hữu của Ngài mà thôi. Bultmann công nhận rằng trong thơ ICôrinhtô 15, Phao-lô quả thật có cho rằng ông có thể bảo đảm sự sống lại của Chúa Cứu thế và coi đó là một thực tế khách quan bằng cách nêu ra những nhân chứng đã tận mắt trông thấy Chúa sống lại. Nhưng Bultmann biểu thị đặc điểm của lập luận theo lịch sử như vậy là 'tai hại' vì lập luận này tìm cách viện dẫn bằng chứng cho những điều tuyên bố của Cơ Đốc giáo. Nếu như việc viện dẫn bằng chứng mang lại kết quả thì có nghĩa niềm tin bị phá sản. Một quyết định để tin hoàn toàn không lệ thuộc vào chứng cớ sẽ đưa con người tiếp cận với ý nghĩa khẳng định sự tồn tại của Phúc âm. Bultmann nhấn mạnh rằng điều này không có nghĩa là một bước như vậy được thực hiện một cách tùy ý hay vô tư. Không đâu, vấn đề khẳng định sự tồn tại của sự sống và sự chết đè nặng đến nỗi quyết định để tin là một bước quan trọng nhất và kinh sợ nhất mà một người có thể thực hiện nhưng phải thực hiện trong điều kiện không có những tiêu chuẩn lựa chọn nào mang tính hữu lý.
Điều này có thể khiến cho chúng ta cho rằng Bultmann là người thuần túy theo niềm tin, nhưng không hẳn thế, vì ông khẳng định rằng chính thẩm quyền của Lời của Thượng Đế đã tước bỏ tất cả những yêu cầu về tiêu chuẩn. “Dường như Thượng Đế đã biện minh chính mình cho con người! Dường như mọi yêu cầu biện minh không cần phải rút lại khi Thượng Đế hiện diện!”. Như Pannenberg giải thích: “Tiền đề cơ bản của nền thần học Tin Lành nước Đức bày tỏ qua Barth và Bultmann ấy là căn bản của thần học là Lời của Thượng Đế tự bản thân có giá trị xác thịt nên đòi hỏi phải tuân phục”. Do vậy, xem ra cả hai trường phái thần học biện chứng và thần học sinh tồn tính độc đoán vẫn là tối hậu.
1.1232. Wolfhart Pannenberg:
Phương pháp nghiêm nhặt dựa vào chứng cớ để giải quyết những vấn đề thần học của Pannenberg được nhiều người cổ vũ coi như là mở ra một số giai đoạn mới trong thần học Tin Lành Âu châu. Năm 1961 một nhóm gồm các nhà thần học trẻ tuổi mà Pannenberg là người phát ngôn chính trong bản tuyên ngôn mang tên “mặc khải qua lịch sử” đã khẳng định rằng sự mặc khải phải được hiểu một cáh riêng biệt bằng những hành động của Thượng Đế trong lịch sử chứ không phải Lời mà tự nó chứng minh là xác thực.
Bởi vì 'Lời', vốn được hiểu là Thượng Đế tự bày tỏ qua sự gặp gỡ mang tính chất vừa con người vừa thần hựu, không cần sự chứng minh là xác thực nào nữa từ bên ngoài, thần học, theo Pannenberg đã giảm tính xác đáng của lịch sử thành niềm tin và tự giam hẫm mình tách khỏi tri thức ngoài đời. Một mặt, thần học sinh tồn của Bultmann đã bỏ qua tính xác thực chủ quan của lịch sử để ủng hộ việc tìm ra những điều kiện dành cho sự hiện hữu đích thực của con người qua lời phán dạy của sứ đồ mà theo đó các thực tế lịch sử được xem là hoàn toàn không có giá trị. Mặt khác sự hiểu biết của Barth về các sự kiện đặc thù Cơ Đốc giáo và xem đó như nằm trong lãnh vực không phải là quá trình lịch sử thông thường có thể khám phá được mà là nằm trong quá trình lịch sử cứu chuộc, vốn tách rời với nghiên cứu lịch sử, cũng làm giảm đi giá trị lịch sử thực tế. Cả hai trường phái có chung một động cơ là làm giảm giá trị quan trọng của lịch sử để thay vào đó bằng niềm tin, nghĩa là muốn dành cho niềm tin một thành trì chống lại các cuộc tấn công từ các nghiên cứu, phê bình lịch sử hiện đại. Thần học biện chp1ng đã ẩn náu và lịch sử thượng tầng, coi như là thoát khỏi những đợt sóng phê bình lịch sử, trong ki đó thần học sinh tồn rút ra khỏi quá trình lịch sử khách quan để đi vào kinh nghiệm chủ quan vế tính đích thực cua con người. Cố gắng của thần học nhằm tự cô lập đã đem lại kết quả ngược lại mong đợi bởi vì các ngành khoa học thế tục đã chống lại bằng cách phê phán và phủ nhận. “Đã từ lâu, niềm tin được hiểu sai lạc là thành trì của tính chủ quan mà nhờ đó Cơ Đốc giáo tránh né được sự công kích của tri thức khoa học. Sự lẫn tránh để đi đến tính chủ quan mù quáng như vậy chỉ có thể đưa đến sự phá hủy mọi sự hiểu biết về chân lý của niềm tin Cơ Đốc” (Pannenberg).
Vì thế nếu Cơ Đốc giáo muốn đưa ra chân lý có ý nghĩa thì Cơ Đốc giáo phải theo Pannenberg, phục tùng cùng các phương thức và chứng thực như các ngành khoa học thế tục. Phương pháp chứng thực sẽ có tính chất gián tiếp chẳng hạn như dựa vào nghiên cứu lịch sử. Một sự diễn giảng lịch sử theo quan điểm thần học sẽ được thử nghiệm một cách tích cực bằng “chính khả năng xét đến tất cả các chi tiết lịch sử đã được biết đến”, và một cách tiêu cực là bằng “chứng minh cho rằng nếu không có những khẳng định cụ thể thì những thông tin thu thập được sẽ không thể hoặc chỉ có thể giải thích được một cách khập khiểng” (Pannenberg). Vì niềm tin Cơ Đốc dựa trên biến cố có thật trong quá khứ hơn là nghiên cứu mang tính lịch sử phê phán nên lẽ tất nhiên đối tượng của niềm tin Cơ Đốc không thể nào cứ ở trong tình trạng không bị các kết quả của việc nghiên cứu như vậy đụng chạm đến. Mặt khác, một Christ được ban cho hoàn toàn không liên hệ với con người Giê-xu có thật trong lịch sử sẽ là một chuyện “huyền hoặc”, mặt khác một Đấng Christ chỉ được biết qua biện giáo sẽ không thể nào phân biệt với sự tự đánh lừa. Vì thế kết luận bắt buộc phải là gánh nặng trách nhiệm để chứng minh rằng Thượng Đế đã bày tỏ chính Ngài trong con người Giê-xu Na-xa-rét phải để cho nhà sử học gánh vác.
Pannenberg thừa nhận rằng nếu như nền tảng lịch sử dành cho niềm tin bị lấy đi thì Cơ Đốc giáo sẽ không có ai theo đuổi. Tuy nhiên ông tin tưởng rằng với những dữ kiện lịch sử mà hiện nay chúng ta có thì thực tế này sẽ không xảy ra. Pannenberg nhận thức rằng kết quả của sự nghiên cứu tìm tòi về lịch sử luôn có một mức độ không chắc chắn nhưng nhờ cách bấp bênh không có cơ sở chắc chắn và tạm bợ này mà một sự hiểu biết về chân lý Cơ Đốc giáo mới khả hữu. Nếu không có nền tảng dựa vào sự kiện có thật này làm tiên quyết cách hợp lý cho niềm tin thì niềm tin chỉ còn lại tính chất cả tin, nhẹ dạ, dễ dẫn dụ hay dị đoan, chỉ có phương pháp bằng chứng cớ này, ngược lại với chủ nghĩa chủ quan trong thần học hiện đại mới có thể thiết lập chân lý Cơ Đốc giáo. Nhưng sự kiện lịch sử làm nền móng cho Cơ Đốc giáo là đáng tin cậy và do đó chúng ta có thể đặt niềm tin, cuộc sống và tương lai của chúng ta trên những sự kiện này.
1.1233. Alvin Plantinga:
Để kêu gọi sự hưởng ứng của cái mà Plantinga gọi là (theo tôi thì không đúng lắm) sự phản biện cải cách chống lại thần học tự nhiên, ông đã công kích chủ nghĩa duy lý thần học khi bàn đến niềm tin nơi Thượng Đế. Plantinga muốn lập luận rằng niềm tin nơi Thượng Đế dựa trên lý trí hoàn toàn tách biệt với bất kỳ một nền tảng dựa trên lý trí nào cho niềm tin này.
Điều này đã khiến ông phải đối lập với cái ông gọi là sự phản biện của trường phái chứng cứ chống lại niềm tin hữu thần. Theo trường phải chứng cứ, một người được biện minh là hữu lý khi tin rằng một tiền đề nào đó là đúng nếu như tiền đề đó một là đóng vai trò làm cơ sở cho tri thức hai là nó được thiết lập bằng chứng cứ mà cơ bản dựa vào cơ sở như vậy. Theo quan điểm này thì vì tiền đề “Thượng Đế hiện hữu” không mang tính chất làm cơ sở hay nền tảng thì thật là phi lý khi tin vào tiền đề này nếu như không có chứng cứ hữu lý cho chân lý này. Nhưng, Plantinga lại đặt câu hỏi, tại sao tiền đề “Thượng Đế hiện hữu” không thể tự nó là một phần của nền tảng đó hầu cho không cần phải có một chứng cứ hữu lý nào nữa. Trường phái chứng cứ đáp lại rằng chỉ có những tiền đề nào thực sự mang tính chất cơ bản thì mới có thể là một bộ phận của nền tảng tri thức. Thế thì tiêu chuẩn nào quy định một tiền đề nào đó có đúng là mang tính chất cơ bản hay không? Thông thường trường phái chứng cứ khẳng định rằng chỉ những tiền đề nào tự nó hiển nhiên làm chứng cứ hoặc không thể nào sửa đổi được thì mới đúng là cơ bản. Thí dụ như tiền đề “Tổng bình phương của hai cạnh trong một tam giác vuông thì bằng bình phương cạnh huyền” thì tự nó hiển nhiên là được. Tương tự, tiền đề “Tôi thấy đau” là đúng và không thay đổi được vì rằng giả dụ như tôi đang tưởng tượng ra mình bị thương tích đi nữa thì sự thật vẫn là tôi thấy đau. Vì rằng tiền đề “Thượng Đế hiện hữu chẳng mang tính chất tự bản thân là hiển nhiên, cũng chẳng mang tính chất không thể sửa đổi được nên tiền đề này không thể mang tính chất cơ bản đúng đắn được nên do đó nếu muốn tin thì phải có chứng cứ. Và nếu tin vào tiền đề này mà không có chứng cứ thì tất nhiên là phi lý.
Lưu ý là Plantinga không phủ nhận rằng những tiền đề tự nhiên và không sửa đổi được là mang tính chất cơ bản đúng đắn nhưng ông ta đặt vấn đề là làm thế nào chúng ta biết được rằng chỉ duy có những tiền đề này hay niềm tin này mới mang tính chất cơ bản đúng đắn? Giả rằng như thế thì tất cả chúng ta đều phi lý vì chúng ta thường chấp nhận vô số niềm tin mà chẳng có chứng cứ, cũng chẳng tự hiển nhiên hay không sửa đổi được. Thí dụ như niềm tin cho rằng thế giới đâu phải được dựng nên trước đây năm phút bằng những dấu vết còn lưu trữ lại của bộ nhớ có sẵn, rằng đồ ăn trong dạ dày sau bữa điểm tâm và chúng ta chưa bao giờ ăn và những biểu hiện khác của tuổi tác. Hẳn nhiên rất hữu lý khi tin rằng thế giới đã tồn tại hơn năm phút mặc dầu không có chứng cứ cho niềm tin này. Tiêu chuẩn của phái chứng cứ về tính chất cơ bản đúng đắn hẳn phải là thiếu sót. Đúng ra, chỗ đứng của các tiêu chuẩn này thì sao? Tiền đề “chỉ có những tiền đề nào tự hiển nhiên hoặc không sửa đổi được mới mang tính chất cơ bản đúng đắn” thì có phải tự nó là mang tính chất cơ bản đúng đắn hay không. Hẳn là không vì tiền đề này hẳn là không mang tính tự hiển nhiên hay không sửa đổi được. Thế cho nên nếu chúng ta muốn tin tiền đề này, chúng ta phải có chứng cứ cho thấy tiền đề này là đúng. Nhưng chẳng có chứng cứ nào như thế cả. Tiền đề này xem ra giống như một định nghĩa độc đoán, không phải là một định nghĩa có vẻ hợp lý lắm. Do đó trường phái chứng cứ không thề nào loại trừ khả năng là niềm tin nơi Thượng Đế là một niềm tin mang tính chất cơ bản đúng đắn.
Thực tế ra, noi gương Calvin, Plantinga cho rằng niềm tin nơi Thượng Đế là hoàn toàn cơ bản. Con người có khả năng tự nhiên bẩm sinh để cảm thấy rõ sự hiện hữu của Thượng Đế cũng giống như con người có khả năng chấp nhận những chân lý thuộc về giác quan (như 'tôi trông thấy một cái cây'). Khi được đặt trong tình cảnh thích ứng - như lúc nhận thấy lầm lỗi, biết ơn hay cảm nhận được công việc của bàn tay Thượng Đế trong thiên nhiên, thì con người tất nhiên cảm thấy rõ sự hiện hữu của Thượng Đế. Do vậy Plantinga nhấn mạnh tri thức luận của ông ta không tính chất dựa vào niềm tin, có những tình huống khiến niềm tin nơi Thượng Đế trở thành một niềm tin hoàn toàn cơ bản. Ông thú nhận rằng thật ra có thể đúng hơn khi nói rằng tiền đề “Thượng Đế hiện hữu” bản thân không phải là hoàn toàn cơ bản nhưng được kế thừa những niềm tin khác rất là cơ bản như “Thượng Đế làm cho tôi nhận thấy tội lỗi” hay “Thượng Đế đang phán với tôi”. Do đó, người ta có thể hoàn toàn hữu lý khi tin Thượng Đế mà không dựa vào chứng cứ.
Có một ghi nhận thú vị về vị trí cũng đã nổi lên trong khi thảo luận tại một hội nghị triết học: Plantinga xác nhận rằng không có mối quan hệ giữa niềm tin được xem là hoàn toàn cơ bản với việc niềm tin đó được xem là chân lý. Ông ta chỉ muốn chứng tỏ rằng niềm tin nơi Thượng Đế là hữu lý chứ không phải chứng tỏ rằng niềm tin đó là đúng. Một người vẫn có thể được biện minh là hữu lý khi chấp nhận một niềm tin không đúng, thí dụ rằng cách đây năm phút đâu phải thế giới mới được dựng nên vẫn là hữu lý. Nhưng biết đâu trong trường hợp này một người vẫn được biện minh là hữu lý khi chấp nhận một niềm tin không đúng. Tương tự, không cần phải hỏi xem niềm tin nơi Thượng Đế không thể vừa là hoàn toàn cơ bản lại vừa không đúng hay không. Trường hợp này Plantinga chẳng nói gì để giúp chúng ta biết được niềm tin của chúng ta có đúng hay không nhưng chỉ cho biết nó có hợp lý hay không mà thôi. Mặt khác, những tình huống mà Plantinga coi việc đặt niềm tin nơi Thượng Đế là cơ bản đã được quan niệm theo truyền thống cải cách (mà Plantinga ủng hộ) là không thể lầm lẫn, và có lẽ ông ta suy nghĩ theo chiều hướng đó. Trong trường hợp này niềm tin nơi Thượng Đế không những là hữu lý mà còn là đúng nữa.
1.13. Đánh giá
“Làm thế nào để tôi biết được Cơ Đốc giáo là chân lý?” Hẳn người tín đồ Cơ Đốc nào cũng tự vấn như thế. “Tôi tin Thượng Đế hiện hữu, tôi tin Chúa Giê-xu đã sống lại từ kẻ chết, tôi đã kinh nghiệm quyền năng biến đổi cuộc đời, nhưng làm thế nào tôi biết được Cơ Đốc giáo quả thật là chân lý?” Vấn đề càng trở nên gay gắt khi chúng ta phải đối diện với người không tin nơi Thượng Đế hay Chúa Giê-xu, hay người đó trung thành với một tôn giáo nào khác. Họ có thể đặt cho chúng ta câu hỏi làm thế nào chúng ta biết Cơ Đốc giáo là chân lý và hãy chứng minh cho họ thấy. Chúng ta sẽ trả lời làm sao? Làm thế nào tôi biết Cơ Đốc giáo là chân lý?
Để giải đáp thắc mắc trên, tôi thiết nghĩ chúng ta nên phân biệt giữa việc biết Cơ Đốc giáo là chân lý và việc chứng tỏ Cơ Đốc giáo là chân lý.
1.131. Nhận biết Cơ Đốc giáo là chân lý.
Ở đây tôi muốn cùng các bạn nghiên cứu hai điểm: thứ nhất là vai trò của Đức Thánh Linh và thứ hai là vai trò của lý trí.
1.1311. Vai trò của Đức Thánh Linh:
Bằng chứng xác thật hiển nhiên. Tôi xin phép được đưa ra ý kiến như sau: Về cơ bản, phương cách mà chúng ta biết được Cơ Đốc giáo là chân lý là nhờ vào bằng chứng xác thật hiển nhiên của Thánh Linh. Điều này nghĩa là gì? Tôi muốn nói rằng bằng chứng hay lời chứng của Đức Thánh Linh là chứng cớ cho chúnh bản thân của bằng chứng này, không thể lầm lẫn được, không cần những bằng chứng khác để hổ trợ, bằng chứng này tự nó là rõ ràng hiển nhiên không cần giải thích thêm và chứng thực cho chính chân lý của bằng chứng ấy. Chính bằng chứng tự mình chứng minh là,xác thực này của Chúa Thánh Linh đã bảo đảm rằng Cơ Đốc giáo là chân lý. Đây là lý lẽ cho người tin cũng như không tin.
a. 1.13111. Đối với người tin:
Trước hết chúng ta hãy xem xét vai trò của Đức Thánh Linh trong cuộc đời của người tin. Khi trở thành một người Cơ Đốc, thì một người đương nhiên được Thượng Đế nhận làm con và được Đức Thánh Linh ngự: “Vì chưng anh em bởi tin Đức Chúa Giê-xu Christ nên hết thảy đều là con trai của Thượng Đế... Lại vì anh em là con nên Thượng Đế đã sai Thánh Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta, kêu rằng A-ba! Cha!” (GaGl 3:26; 4:6). Phao-lô nhấn mạnh điểm này trong thơ Rôma 8. Ông giải thích rằng chính là Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta mà chúng ta mới nhận biết rằng chúng ta là con cái của Thượng Đế! “Thật anh em đã chẳng nhận lấy thần trí của sự tôi mọi đặng còn ở trong sự sợ hãi, nhưng đã nhận lấy thần trí của sự làm con nuôi và nhờ đó chúng ta kêu rằng: A-ba! Cha! Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Thượng Đế” (RoRm 8:15-16).
Sứ đồ Giăng cũng tỏ rõ rằng chính Đức Thánh Linh ở trong chúng ta đã ban cho những người tin sự tin chắc về chân lý của Cơ Đốc giáo. “Về phần các con đã chịu xức dầu từ nơi Đấng Thánh thì đã biết mọi sự rồi...sự xức dầu đã chịu từ nơi Chúa vẫn còn trong mình, thì không cần ai dạy cho hết, song sự xức dầu của Ngài dạy các con đủ mọi việc, mà sự ấy là thật, không phải dối, thì hãy ở trong Ngài, theo như sự dạy dỗ mà các con đã nhận” (IGi1Ga 2:20, 26-27). Ở đây Giăng giải thích rằng chính là Đức Thánh Linh đã dạy cho người tin chân lý của những sự thiêng liêng. Hiển nhiên sứ đồ Giăng nhắc lại lời dạy dỗ của Chúa Giê-xu khi Ngài phán: “Nhưng khi Đấng Yên ủi, tức là Đức Thánh Linh mà Cha sẽ nhơn danh ta sai xuống, Đấng ấy sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự, nhắc lại cho các ngươi nhớ mọi đều ta đã phán cùng các ngươi” (GiGa 14:26). Tôi tin là chân lý mà Đức Thánh Linh dạy cho chúng ta không phải là giáo lý Cơ Đốc. Có quá nhiều người Cơ Đốc đầy dẫy Thánh Linh đã bất động về tín lý để lấy đó làm lý lẽ. Điều mà sứ đồ Giăng nói đến là sự bảo đảm chắc chắn từ bên trong mà Đức Thánh Linh ban cho về những chân lý cơ bản của niềm tin Cơ Đốc. Sự bảo đảm chắc chắn này không phải phát xuất từ luận cứ của con người mà là trực tiếp từ chính Đức Thánh Linh. Sứ đồ Giăng cũng nhấn mạnh những điều dạy dỗ khác của Chúa Giê-xu về công việc của Đức Thánh Linh. Thí dụ, theo như Chúa Giê-xu thì chính là nhờ Thánh Linh ngự bên trong đó ban cho người tin sự tin chắc để biết rằng Chúa Giê-xu ở trong người ấy và người ấy ở trong Ngài, theo nghĩa là được hiệp nhất với Ngài.
“Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên ủi khác để ở với các ngươi đời đời, tức là Thần lẽ thật, mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài, nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài ở với các ngươi và sẽ ở trong các ngươi...Nội ngày đó, các ngươi sẽ nhận biết rằng Ta ở trong Cha ta, các ngươi ở trong Ta, và Ta ở trong các ngươi” (GiGa 14:16-17, 20).
Sứ đồ Giăng dạy dỗ cùng một điều: “Chúng ta biết Ngài ở trong lòng chúng ta, là nhờ Đức Thánh Linh mà Ngài đã ban cho chúng ta... Bởi điều này chúng ta biết mình ở trong Ngài và Ngài ở trong chúng ta, là Ngài đã ban Thánh Linh Ngài cho chúng ta” (IGi1Ga 3:24, 4:13). Sứ đồ Giăng dùng câu rất đặc trưng “Bởi điều này chúng ta biết” để nhấn mạnh rằng là người Cơ Đốc chúng ta phải có được sự bảo đảm chắc chắn tuyệt đối rằng niềm tin của chúng ta là chân thật, chúng ta thực sự ở trong Chúa, và Ngài thực sự ở trong chúng ta. Là người Cơ Đốc chúng ta làm chứng Thượng Đế ở trong chúng ta, Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Thượng Đế (IGi1Ga 5:7-10).
Cho nên dù rằng lý lẽ có thể được dùng để chứng minh cho niềm tin của người nhưng chẳng bao giờ làm cơ sở cho niềm tin ấy. Đối với người tin thì Thượng Đế không phải là kết luận của một sự suy luận như trong một tam đoạn luận; Ngài là Thượng Đế hằng sống của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp đang ngủ trong chúng ta. Thế thì làm thế nào người tin nhận biết được rằng Cơ Đốc giáo là chân lý? Người ấy biết được là nhờ bằng chứng xác thực hiển nhiên của Thánh Linh sống trong người ấy.
b. 1.13112. Đối với người không tin:
Vai trò của Đức Thánh Linh trên đời sống của người không tin thì như thế nào? Vì rằng Đức Thánh Linh không ngự trong người ấy, thì phải chăng điều này có nghĩa là người ấy phải dựa vào lý lẽ mà thôi để làm cho người ấy tin rằng Cơ Đốc giáo là chân lý. Không phải như thế. Theo Thánh Kinh, Đức Thánh Linh có một chức vụ khác nhắm vào nhu cầu miêu tả chức vụ này trong GiGa 16:7-11 như sau:
“Dầu vậy ta nói thật cùng các ngươi: Ta đi là ích lợi cho các ngươi, vì nếu ta không đi Đấng Yên ủi sẽ không đến cùng các ngươi đâu, song nếu ta đi, thì ta sẽ sai Ngài đến. Khi Ngài đến thì sẽ khiến thế gian tự cáo về tội lỗi, về sự công bình và về sự phán xét. Về tội lỗi, vì họ không tin ta, về sự công bình vì ta đi đến cùng Cha, và các ngươi chẳng thấy ta nữa, về sự phán xét, vì vua chúa thế gian này đã bị đoán xét”.
Ở đây cho thấy chức vụ của Đức Thánh Linh có ba mục đích: Ngài tự cáo người tin về tội lỗi của người ấy, về sự công bình của Thượng Đế, và về việc người ấy bị buộc tội trước mặt Thượng Đế.
Điều này tất phải như thế, vì nếu không nhờ vào công việc của Đức Thánh Linh thì không có người nào họ trở thành người Cơ Đốc được cả. Theo sứ đồ Phao-lô nếu chỉ có con người tự nhiên mà thôi thì người ấy chẳng tìm kiếm Thượng Đế: “Chẳng có một người công bình nào khác, dẫu một người cũng không, chẳng có một người nào hiểu biết, chẳng có một người nào tìm kiếm Thượng Đế” (RoRm 3:10). Con người tự bản thân một mình không thể hiểu được những việc thiêng liêng: “Vả người có tánh xác thịt không nhận định những sự thuộc về Thánh Linh của Thượng Đế, bởi chưng người đó coi sự ấy như là sự dồ dại, và không có thể hiểu được, vì phải xem xét cách thiêng liêng” (ICo1Cr 2:14). Con người lại chống nghịch với Thượng Đế: “vì sự chăm về xác thịt nghịch với Thượng Đế, lại cũng không thể phục được” (RoRm 8:7). Chúa Giê-xu phán con người tự mình chẳng khi nào đến với Thượng Đế.
Thực tế khi chúng ta nhìn thấy có những người tìm kiếm Thượng Đế và bằng lòng tiếp nhận Chúa Cứu Thế là bằng chứng cho thấy rằng Đức Thánh Linh đã và đang hành động, cáo trách họ vì kéo họ gần đến Ngài. Chúa Giê-xu phán: “Ví bằng Cha, là Đấng sai ta, không kéo đến, thì chẳng có ai đến được cùng ta” (GiGa 6:44).
Cho nên một người từ chối không chịu đến với Chúa Cứu Thế thì không phải vì thiếu chứng cớ thuyết phục hay vì trở ngại về tri thức, tận gốc rễ, người ấy từ chối vì người ấy tự ý làm ngơ và khước từ việc Đức Thánh Linh kéo người ấy đến gần trong tâm của mình. Chẳng có ai không trở thành người Cơ Đốc vì thiếu lý lẽ, người ấy không làm người Cơ Đốc vì yêu sự tối tăm hơn sự sáng láng và không muốn có quan hệ gì với Thượng Đế, nhưng nếu ai đáp lại việc Đức Thánh Linh kéo mình đến gần với tinh thần và tấm lòng rộng mở thì có thể nhận biết chắc chắn rằng Cơ Đốc giáo là chân thật, vì Thánh Linh của Thượng Đế sẽ tự cáo người ấy như thế. Chúa Giê-xu phán: “Đạo lý của ta chẳng phải bởi ta, nhưng bởi Đấng đã sai ta đến. Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Thượng Đế thì sẽ biết đạo lý ta có phải là bởi Thượng Đế hay là ta nói theo ý ta” (GiGa 7:16-17). Chúa Giê-xu phán rằng nếu ai thực lòng tìm kiếm Thượng Đế thì người ấy nhận biết rằng đạo lý của Chúa Giê-xu là thực sự đến từ Thượng Đế.
Thế cho nên đối với người tin cũng như không tin thì chính việc làm chứng của Thánh Linh của Thượng Đế cuối cùng mới bảo đảm chắc chắn cho người ấy về chân lý của Cơ Đốc giáo. Người không tin nào thực sự tìm kiếm Thượng Đế sẽ tin vào chân lý của những điều Cơ Đốc giáo nói đến.
Vì thế chúng ta thấy rằng đối với người tin cũng như người không tin thì ấy là hành động xác thực hiển nhiên của Đức Thánh Linh đã đem lại sự bảo đảm chắc chắn về chân lý Cơ Đốc giáo. Do đó tôi đồng ý rằng niềm tin và Thượng Đế trong Thánh Kinh là một niềm tin hoàn toàn cơ bản và muốn nhấn mạnh rằng ấy là nhiệm vụ của Đức Thánh Linh đã ấn chứng cho tính chất cơ bản hoàn toàn này. Và vì niềm tin này đến từ Thượng Đế nên chẳng những có tính hữu lý mà còn đương nhiên là chân thật. Chúng ta có thể vững tâm đặt niềm tin vào chân lý Cơ Đốc giáo.
1.1312. Vai trò của lý trí:
Thế thì còn điểm thứ hai thì sao: vai trò của lý trí trong việc nhận biết Cơ Đốc giáo là chân thật? Chúng ta có nhận định rằng ấy là Đức Thánh Linh đã ban cho chúng ta sự bảo đảm chắc chắn về chân lý của Cơ Đốc giáo. Vì thế vai trò duy nhất dành cho lý trí là vai trò phụ. Theo tôi Martin Luther đã phân biệt rất đúng giữa việc sử dụng lý trí cách có thẩm quyền và việc sử dụng lý trí theo tính cách bổ trợ. Việc sử dụng lý trí theo tính cách có thẩm quyền xảy ra khi lý trí chiếm vị trí bên trên, cao hơn Phúc âm giống như một quan tòa và phán đoán thẩm định Phúc âm. Việc sử dụng lý trí theo tính cách bổ trợ xảy ra khi lý trí phục tùng và phục vụ Phúc âm. Chỉ có việc sử dụng lý trí theo tính cách bổ trợ mới được chấp nhận. Triết học theo đúng nghĩa là người hầu của thần học. Lý trí là công cụ giúp chúng ta thông hiểu và bênh vực cho niềm tin của chúng ta tốt hơn, như Anselm có nói niềm tin của chúng ta là một niềm tin đòi hỏi phải có sự thông biết. Nếu như giữa niềm tin và lý trí có sự đối lập thì ấy là lý trí phải phục tùng niềm tin chứ không thể ngược lại.
1.1313. Hiểm họa:
Có một mối hiểm họa khi nói đến tất cả những điều này. Có người cho rằng đừng bao giờ chúng ta nên bênh vực cho niềm tin của mình. Hãy cứ giảng Phúc âm và để Đức Thánh Linh hành động. Nhưng thái độ nào là mất quân bình và không có cơ sở Thánh Kinh, chút nữa chúng ta sẽ thấy. Còn bây giờ chúng ta lưu ý rằng hễ chừng nào mà lý trí còn là người phục vụ cho niềm tin thì chúng ta những Cơ Đốc nhân phải tận dụng nó.
1.1314. Ý kiến phản đối:
Có người không đồng tình với tôi về vai trò của lý trí. Họ cho rằng lý trí có thể được sử dụng ở vai trò người chưa tin. Họ đặt vấn đề còn có cách nào khác hơn để chúng ta biết chắc được điều gì là đúng, Thánh Kinh, Kinh Koran, nếu như chúng ta không dùng lý trí để phán đoán những điều đó? Tôi cũng đã giải đáp thắc mắc này: Đức Thánh Linh trực tiếp dạy cho chúng ta biết đâo lý nào là thực sự đến từ Thượng Đế. Nhưng tôi cũng xin được đưa ra hai lý do khác mà theo tôi nghĩ những ai bênh vực cho vai trò có thẩm quyền của lý trí đều không được.
Lý do thứ nhất, vai trò như thế không nhất quán với những gì họ thực hành. Các trường thần học có rất nhiều bạn trẻ đang nổ lực soạn ra đường lối biện giáo vững vàng để bênh vực cho niềm tin Cơ Đốc. Theo như vai trò có thẩm quyền của lý trí thì những bạn bè trẻ này không nên tin Chúa cho đến khi nào họ đã hoàn chỉnh đường lối biện giáo của mình. Bằng không thì họ đang tin với lý do không đầy đủ. Tôi có đặt câu hỏi với một sinh viên đồng sự “Làm thế nào anh nhận biết Cơ Đốc giáo là chân thật”. Anh ta đáp: “Thực sự tôi không biết nữa”. Phải chăng điều ấy có nghĩa là anh ta nên từ bỏ Cơ Đốc giáo cho đến khi nào tìm ra được lý lẽ hợp lý để làm nền tảng cho niềm tin? Dĩ nhiên là không phải vậy. Anh ta nhận biết Cơ Đốc giáo là chân thật vì cách nhận biết Chúa Giê-xu bất chấp mọi luận chứng hữu lý. Thực tế cho thấy chúng ta có khả năng nhận biết chân lý cho dù chúng ta có hay là không có luận chứng hữu lý.
Lý do thứ hai, giả như vai trò có thẩm quyền của lý trí là có giá trị vững chắc vậy thì một người không được trình bày lý lẽ vững chắc về Cơ Đốc giáo sẽ có cớ chính đáng tại sao không tin Ngài. Giả như có ai đó được làm chứng để tin Thượng Đế bởi một lý lẽ không có giá trị vững chắc thì thử hỏi người ấy có thể nào trong ngày phán xét, đối diện với Thượng Đế và thưa rằng: “Lạy Chúa, mấy người Cơ Đốc kia đã đưa ra những lý lẽ không vững vàng để khiến con tin Ngài nên con mới không tin”. Đương nhiên là không được. Thánh Kinh có nói rằng không ai được có lý do bào chữa. Thậm chí những ai không được trình bày lý lẽ vững vàng để tin và những ai được trình bày lý lẽ thật vững vàng thật thuyết phục để không tin đều không có lý do bào chữa, bởi vì lý do tối hậu tại sao họ không tin là vì họ đã cố tình khước từ Đức Thánh Linh của Thượng Đế.
Cho nên vai trò lý trí trong việc nhận biết Cơ Đốc giáo là chân thật là vai trò của một người phục dịch. Một người nhận biết Cơ Đốc giáo là chân thật vì Đức Thánh Linh nói cho họ biết, trong khi ấy lý trí có thể được dùng để bênh vực và củng cố cho sự quyết đoán này nhưng lý trí không thể gạt bỏ sự quyết đoán này.
1.132. Chứng minh Cơ Đốc giáo là chân thật.
Đó là vai trò của Đức Thánh Linh và của lý trí vừa nhận biết Cơ Đốc giáo là chân thật. Thế còn vai trò của Đức Thánh Linh và lý trí trong việc chứng minh Cơ Đốc giáo là chân thật thì thế nào? Ở điểm này sự việc có hơi đảo ngược.
1.1321 Vai trò của lý trí:
Tính chất nhất quán có hệ thống, chúng ta hãy cùng nhau xem xét vai trò lý trí trong việc chứng tỏ Cơ Đốc giáo là chân thật. Ở điểm này chúng ta quan tâm đến việc làm thế nào để chứng minh cho người khác thấy rằng niềm tin của chúng ta là chân thật. Do đó chúng ta cần một cuộc thử nghiệm để tìm ra chân lý. Tôi xin phép gợi ý với các bạn là sự thử nghiệm chân lý là sự nhất quán có hệ thống được chứ? Tôi xin nói rõ hơn. Nói tới nhất quán có nghĩa là tuân thủ theo luật logic không có điều gì là đúng hay chân thât nếu như điều đó tự mâu thuẫn hay phi lý, không logic. Có hệ thống có nghĩa là ăn khớp với mọi thực tiễn kinh nghiệm. Để được gọi là đúng thì không những chỉ hợp lý mà thôi, mà còn phải có sự hổ trợ của thực tiễn, thực tiễn đó có thể thuộc về lịch sử, cá nhân hay khoa học. Ai đó có thể đưa ra một hệ thống lý luận chặt chẽ không có khe hở, nhưng nếu không giải thích được thực tiễn thì không có lý do để ta xem đó là đúng.
Khi chứng tỏ Cơ Đốc giáo lá đúng, chúng ta tìm cách trình bày ra rằng Cơ Đốc giáo mang tính nhất quán có hệ thống, có nghĩa là Cơ Đốc giáo là hợp lý và ăn khớp với mọi thực tiễn của kinh nghiệm. Vì rằng Cơ Đốc giáo vượt qua được sự thử nghiệm để tìm ra chân lý, chúng ta đã chứng tỏ được rằng Cơ Đốc giáo là đúng và bất kỳ ai có lý trí đều phải tin. Tri thức loại này chỉ là tri thức có nhiều khả năng đúng bởi vì những thực tế mới lúc nào cũng có thể được khám phá cho nên chúng ta chỉ có thể chứng tỏ việc gì đó có nhiều khả năng đúng mặc dầu với nhiều mức độ khác nhau về xác xuất đúng cho nên mục tiêu của nhà biện giải là chứng tỏ Cơ Đốc giáo chứa đựng một mức độ cao về khả năng đúng này. Thực tế khi loại tri thức này không được xem là chắc chắn tuyệt đối thì chúng ta không nên lấy làm nản lòng, vì hầu như mọi tri thức của chúng ta đều dựa vào khả năng rất có thể đúng này, thậm chí tri thức cho rằng có những con người khác hiện hữu hay trái đất tròn. Cho nên trong khi Đức Thánh Linh ban cho chúng ta niềm xác tín thiêng liêng ở mức độ nào đó về chân lý Phúc âm thì tính nhất quán có hệ thống có thể cho chúng ta niềm xác tín hữu lý có khả năng rất có thể đúng về chân lý Phúc âm.
1.1322. Vai trò của Đức Thánh Linh
Chúng ta hãy quay sang điểm thứ hai: vai trò của Đức Thánh Linh trong việc chứng tỏ Cơ Đốc giáo là chân thật. Vai trò của Đức Thánh Linh là dùng lý lẽ của chúng ta để thuyết phục người chưa tin về chân lý của Cơ Đốc giáo khi trình bày lý do tại sao mình tin, thì người ấy không phải hành động tách biệt với hoặc nghịch lại Đức Thánh Linh. Để trở lại điểm đã nói khi nảy. Nếu người chưa tin có thắc mắc hoặc ý kiến, phản đối thì việc truyền giảng Phúc âm cách đơn thuần là không có cơ sở Thánh Kinh và không quân bình.
a. 1.13221. Không quân bình khi khước từ lập luận:
Trước hết, điều này là không quân bình bởi vì được giả định là Đức Thánh Linh hành động qua truyền giảng mà thôi, nhưng Ngài có thể hành động qua những bằng chứng hữu lý nữa. Chúng ta phải gây sự chú ý đối với cái đầu cũng như là đối với trái tim. Theo như một nhà văn có viết, tấm lòng được chuẩn bị sẽ đáp ứng với lý lẽ, nhưng phải có lý lẽ để tấm lòng đáp ứng. Nếu một người chưa tin phản đối rằng Thánh Kinh không đáng tin cậy bởi vì Thánh Kinh là một bản phiên dịch từ một bản phiên dịch và bản phiên dịch này lại là bản phiên dịch của một bản phiên dịch khác, câu giải đáp không phải là bảo người ấy phải hiểu đúng về Thượng Đế. Câu giải đáp ta phải giải thích rằng chúng ta có được những bản thảo Thánh Kinh tuyệt hảo nguyên gốc bằng tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp, rồi lúc ấy mới bảo họ nên hiểu đúng về Thượng Đế.
b. 1.13222. Không có cơ sở Thánh Kinh khi khước từ lập luận:
Điểm thứ hai là không có cơ sở Thánh Kinh khi từ chối lý luận với người chưa tin. Hãy xem Phao-lô. Phương pháp tiêu chuẩn của Phao-lô là trình bày lý lẽ về chân lý của Phúc âm và làm như thế là bênh vực cho niềm tin:
“Phao-lô tới nhà hội theo thói quen mình và trong ba ngày Sa-bát biện luận với họ, lấy Thánh Kinh cắt nghĩa và giải tỏ tường về Đấng Christ phải chịu thương khó rồi từ kẻ chết sống lại... Vậy người biện luận trong nhà hội với người Do-thái, và người mới theo đạo Do-thái, lại mỗi ngày với những kẻ nào mình gặp tại nơi chợ.
Phao-lô vào nhà hội và trong ba tháng giảng luận một cách dạn dĩ ở đó, giải bày những điều về nước của Thượng Đế.
Từ buổi sáng đến chiều, người cứ làm chứng giảng giải với họ về nước của Thượng Đế, lấy luật pháp của Môi-se và các đấng tiên tri mà gắng sức khuyên bảo họ về Đức Chúa Giê-xu. Có người chịu tin lời người nói, có kẻ chẳng tin” (Cong Cv 17:2, 3, 17 19:8; 28:3, 4).
Thật thế, Thánh Kinh truyền cho chúng ta phải sẵn sàng để trình bày lý lẽ bênh vực cho người chưa tin nghe: “Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em” (IPhi 1Pr 3:15). Vì thế ở cương vị là Cơ Đốc nhân chúng ta phải chuẩn bị trình bày lý lẽ để chứng minh rằng Cơ Đốc giáo là đúng. Bỏ qua những thắc mắc và ý kiến phản đối của người chưa tin là vừa mất quân bình vừa thiếu cơ sở Thánh Kinh. Tất nhiên, đúng là chúng ta không bao giờ có thể tranh luận với bất cứ ai để đưa họ vào nước của Thượng Đế được. Sự tin theo đạo là vai trò của Đức Thánh Linh mà thôi. Thế nhưng Đức Thánh Linh dùng lý lẽ của chúng ta để kéo con người đến với Ngài.
1.1323 Hiểm họa:
Cũng có một mối hiểm họa đối với tất cả những điều này. Mối hiểm họa ấy là chúng ta có thể tập trung vào lý luận thay vì tập trung vào tội nhân. Đừng bao giờ để biện giáo làm chúng ta lạc hướng khỏi mục đích là thông đạt Phúc âm. Thật vậy tôi có thể nói rằng đối với nhiều người hầu hết, chúng ta không cần sử dụng đến biện giải chút nào cả. Chỉ sử dụng những bằng chứng hợp lý sau khi chia xẻ Phúc âm và khi nào người chưa tin vẫn còn thắc mắc. Nếu bạn bảo họ “Thượng Đế yêu thương bạn và có một chương trình tốt đẹp cho cuộc đời của bạn” và người ấy đáp rằng tôi không tìm Thượng Đế, thì đừng để bị sa lầy ở đấy khi gắng sức chứng minh sự hiện hữu của Thượng Đế. Hãy bảo với người ấy: “À, ở điểm này tôi không phải cố sức thuyết phục cho anh em tin rằng những gì Thánh Kinh nói là đúng, tôi chỉ làm công việc là chia xẻ cho anh những gì Thánh Kinh nói. Sau khi tôi làm điều này thì có lẽ chúng ta có thể bàn xem có lý lẽ vững vàng nào để tin những gì thánh Kinh nói tới là đúng hay không? Nhớ rằng mục tiêu chính của chúng ta là trình bày Đấng Christ.
1.1324 Ý kiến phản đối.
Có thể có người không đồng ý với tôi về vai trò của Đức Thánh Linh trong việc chứng tỏ Cơ Đốc giáo là chân thật. Họ sẽ lập luận rằng người tin và người chưa tin đều không có một cơ sở chung để bàn luận, vì thế thật là luống công để thuyết phục người chưa tin để họ thấy Cơ Đốc giáo là đúng. Tôi để cho cơ sở chung của chúng ta với người chưa tin như thế nào rồi: luật logic và thực tiễn kinh nghiệm. Khởi đầu bằng cơ sở này chúng ta xây dựng lý lẽ để bênh vực cho Cơ Đốc giáo.
Ngoài ra, tôi cho rằng tấm gương của Chúa Giê-xu và các sứ đồ khẳng định giá trị thật của phương pháp này. Chúa Giê-xu đã dùng phép lạ và lời tiên tri đã được ứng nghiệm để chứng tỏ rằng những điều Ngài phán là đúng, là chân lý (LuLc 24:25-27; GiGa 14:11). Thế còn các sứ đồ? Đối phó với người Do-thái họ đã dùng đến lời tiên tri được ứng nghiệm, phép lạ của Chúa Giê-xu và nhất là sự sống lại của Ngài. Bài biện giáo kiểu mẫu trình bày cho người Do-thái là bài giảng của Phi-e-rơ vào ngày lễ Ngũ tuần trong sách Công vụ đoạn 2 câu 22 ông nói đến phép lạ của Chúa Giê-xu. Từ câu 25-31 ông nói đến lời tiên tri được ứng nghiệm. Câu 32 ông nói đến sự sống lại của Chúa Giê-xu. Bằng đường lối lý luận như thế này các sứ đồ đã tìm cách chứng tỏ cho người Do-thái thấy rằng Cơ Đốc giáo là chân thật. Để đối phó với người không phải là Do-thái các sứ đồ đã tìm cách chứng tỏ sự hiện hữu của Thượng Đế qua công việc do bàn tay Ngài dựng nên trong thiên nhiên (Cong Cv 14:17). Trong sách Rôma đoạn một, Phao-lô nói rằng qua thế giới tự nhiên con người có thể nhận biết Thượng Đế hiện hữu (RoRm 1:20). Theo Michael Green trong tác phẩm của ông tựa đề “Công cuộc tuyền giáo trong thời kỳ Hội thánh đầu tiên” thì phương pháp tiêu chuẩn mà các sứ đồ sử dụng để đối phó với người ngoại quốc là dựa vào thiên nhiên giới để chứng tỏ Thượng Đế hiện hữu. Phao-lô cũng dùng đến những lời làm chứng của những người tận mắt chứng kiến sự sống lại của Chúa Giê-xu để chứng tỏ thêm nữa về tính chân thật của Cơ Đốc giáo (ICo1Cr 15:3-8). Vì thế theo tôi, hiển nhiên Chúa Giê-xu và các sứ đồ không e ngại trong việc lý luận về chân lý Cơ Đốc giáo. Điều này không có nghĩa là họ không tin tưởng Đức Thánh Linh đem con người đến với Thượng Đế, đúng hơn, họ tin tưởng Đức Thánh Linh sử dụng lý luận của họ để đem con người đến với Thượng Đế.
Thế nên khi chứng tỏ Cơ Đốc giáo là chân thật, thì vai trò của lý trí là xây dựng lý lẽ để chứng tỏ vai trò bênh vực của người Cơ Đốc là một vị trí nhất quán có hệ thống nhất. Còn vai trò của Đức Thánh Linh là sử dụng những lý lẽ này, những lý lẽ mà chúng ta nhiệt tình trình bày, để đem con người đến với Thượng Đế.
1.133. Kết luận
Tóm lại, chúng ta thấy rằng khi giải đáp thắc mắc “Làm thế nào là nhận biết Cơ Đốc giáo là chân thật?” Chúng ta phải phân biệt giữa nhận biết Cơ Đốc giáo là chân thật. Chúng ta nhận biết Cơ Đốc giáo là chân thật nhờ ấn chứng xác thực hiển nhiên của Đức Thánh Linh. Chúng ta chứng tỏ Cơ Đốc giáo là chân thật bằng cách chứng tỏ rằng Cơ Đốc giáo mang tính nhất quán có hệ thống.
Thế thì phương pháp dùng trong biện giải của chúng ta phải như thế nào? Phương pháp ấy đại khái như sau: Bạn thân mến, tôi nhận biết Cơ Đốc giáo là chân thật vì Đức Thánh Linh của Thượng Đế sống trong tôi và bảo đảm cho tôi biết chắc chắn rằng Cơ Đốc giáo là chân thật và bạn cũng có thể nhận biết Cơ Đốc giáo là chân thật bởi vì Thượng Đế đang đứng trước cửa tấm lòng bạn mà gõ, và nhắn nhủ với bạn những điều như vậy. Nếu bạn thực lòng tìm kiếm Thượng Đế thì Ngài sẽ ban cho sự bảo đảm chắc chắn rằng Phúc âm là chân lý. Giờ đây, để tìm cách chứng tỏ cho bạn thấy rằng Cơ Đốc giáo là chân thật, tôi xin được mạn phép chia xẻ với bạn một số lý lẽ mà tôi nhận thấy mất thuyết phục. Nhưng lỡ như lý lẽ của họ tỏ ra là yếu kém và thiếu sức thuyết phục thì đó là tại tôi, chứ không phải Thượng Đế. Có nghĩa là tôi là người đã lý luận, chứ không có nghĩa là Phúc âm không phải là chân lý. Cho dù bạn nghĩ thế nào về lý lẽ của tôi đi chăng nữa thì Thượng Đế vẫn thương yêu bạn và bạn phải chịu trách nhiệm. Tôi sẽ ráng hết sức để trình bày lý lẽ vững vàng cho bạn nghe, nhưng cuối cùng thì bạn phải xử sự, không phải với lý lẽ mà là với chính Thượng Đế.
1.14 Ứng dụng thực tế.
Những điều trình bày vừa qua có được áp dụng thực tế rộng rãi trong bước đi của người Cơ Đốc và trong công cuộc truyền bá Phúc âm của chúng ta. Với bước đi của người Cơ Đốc thì những điều này giúp chúng ta có được một sự bảo đảm chắc chắn, đúng đắn về chân lý của niềm tin chúng ta. Sau giờ học có một sinh viên nhận xét: “Tôi nhận thấy quan niệm này rất thoáng”. Anh ta đã mất một thời gian vất vả để tìm mối quan hệ giữa niềm tin và lý trí, nhưng không thành. Người Cơ Đốc thường thuộc vào phái cực đoan của chủ nghĩa duy lý thần học, hay chủ nghĩa tín ngưỡng nhưng quan niệm vừa trình bày cho hép chúng ta theo đuổi một niềm tin hợp với lý lẽ mà không cần phải dùng lý luận hay lý trí làm nền tảng cho niềm tin ấy, thật là thoáng khi chúng ta có thể trình bày niềm tin của chúng ta cho người chưa tin thấy là hợp với lý trí mà không lệ thuộc vào những sự thay đổi thất thường của lý trí trong việc tìm kiếm sự bảo đảm chắc chắn rằng niềm tin của chúng ta là đúng, đồng thời chúng ta nhận biết một cách mạnh dạn rằng những niềm tin của chúng ta là chân thật và rằng người chưa tin cũng nhận biết điều này để chúng ta không rơi vào chủ nghĩa chủ quan đương đợi.
Quan niệm này cũng nhấn mạnh tầm quan yếu trong việc đầu tư chức vụ của Đức Thánh Linh trong đời sống. Mặc dầu tất cả người Cơ Đốc đều được Đức Thánh Linh ngự, nhưng không phải ai cũng được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Kinh Thánh (Tân ước dạy rằng chúng ta có thể làm buồn Đức Thánh Linh của Thượng Đế vì tội lỗi (Eph Ep 4:30) và dập tắt Đức Thánh Linh bằng cách cản trở không để cho Ngài hành động trong đời sống của chúng ta (ITe1Tx 5:19). người Cơ Đốc không được đầy dẫy Đức Thánh Linh thường niềm tin họ bị dằn vặt bởi những điều nghi ngờ. Tôi có thể lấy bản thân mà làm chứng rằng khi con người tôi theo xác thịt thì ấy là lúc những điều nghi ngờ về trí thức ray rức tôi nhất. Nhưng khi một người Cơ Đốc bước đi trong Đức Thánh Linh thì mặc dầu lúc ấy những thắc mắc tri thức vẫn còn nhưng người ấy có thể sống với những thắc mắc và những thắc mắc nan đề ấy không còn khả năng cướp đi sức sống khỏi niềm tin mình. Là nguồn bảo đảm chắc chắn cho chúng ta rằng niềm tin mình là đúng, thì chức vụ của Đức Thánh Linh trong cuộc sống cần phải được đầu tư bằng những sinh hoạt thuộc linh nhằm giúp chúng ta bước đi gần gũi với Thượng Đế như học Kinh Thánh, cầu nguyện, đọc sách giáo lý, ca hát, làm chứng và thờ phượng trong không khí đầy dẫy Đức Thánh Linh.
Trong công cuộc truyền bá Phúc âm thì quan niệm này cho phép chúng ta trình bày cho người chưa tin những lý lẽ và bằng chứng hợp lý về chân lý của Phúc âm thay vì thách thức với người ấy rằng “Chỉ cần có niềm tin mà thôi” Tôi đã từng gặp gỡ nhiều người ngoại vốn được trưởng dưỡng trong môi trường và quá trình Cơ Đốc và họ đã bị xua đuổi khỏi chân lý Phúc âm vì cớ những thắc mắc chân thành của họ đã không được giải đáp tường tận thay vào đó họ lại được khuyến cáo “Hãy tin đi”. Ngược lại tôi xin mạn phép kể về một sinh viên mà tôi được dịp nói về Phúc âm. Nghe xong anh ta hỏi “Làm thế nào tôi biết được những điều vừa rồi là chân lý?” Tôi đáp: “Chúng ta cần phải có một thử nghiệm để tìm biết chân lý. Thế thử nghiệm của anh để biết chân lý như thế nào đây?”. Khi anh ta thổ lộ là anh ta chẳng có được một lối thử nghiệm nào cả thì tôi lại lên tiếng đáp: “Thế còn tính chất nhất quán có hệ thống thì sao?” Tôi giải thích khái niệm ấy cho anh ta và nào ngờ, điều đó lại quá đủ - anh ta chẳng cần bảo tôi phải chứng tỏ Cơ Đốc giáo là chân lý nữa. Đối với anh ta, chỉ nghe đến phương pháp thử nghiệm để tìm biết chân lý và lại áp dụng được Cơ Đốc giáo là quá đầy đủ, không cầm được nước mắt anh ta cùng với tôi cầu nguyện tin theo Chúa.
Tuy nhiên, đồng thời quan niệm này nhắc chúng ta nhớ rằng sự không tin, tận gốc rễ là một nan đề thuộc về tâm linh chứ không phải thuộc về tri thức. Nhiều khi người chưa tin tung hỏa mù tri thức để người ấy tránh chạm mặt với Phúc âm... Trong trường hợp như thế nổ lực lý luận sẽ có thể vô hiệu và phản tác dụng, chúng ta cần phải nhạy bén nhận biết lúc nào nên hoặc không nên dùng đến biện giáo. Nếu như chúng ta cảm nhận lối lý luận và thắc mắc của mgười chưa tin là thiếu sự thành thật, chúng ta có thể khắc phục bằng cách ngưng bàn luận và chúng ta đặt câu hỏi: “Giả như tôi giải đáp được ý kiến phản đối của anh thì anh có bằng lòng tin theo đạo không?” Nhẹ nhàng và thẳng thắn bảo anh ta rằng không chừng anh ta đang tung hỏa mù về tri thức để tránh đối diện với vấn đề có thực ấy là tội lỗi của anh ta trước mặt Thượng Đế. Biện giáo do đó sẽ trở nên rất thích ứng và có tác dụng khi người chưa tin có tâm linh rộng mở và khao khát muốn tìm biết chân lý.
Điểm cuối cùng. Lắm lúc có người nói: “Lý luận như vậy không có tác dụng vì người mà tôi dùng lý luận này chia xẻ đã không chịu tin”. Ở điểm này chúng ta phải thận trọng, có tính chất thuyết phục mang ý nghĩa tương đối theo từng người, có người không chịu tin và do vậy không thể nói rằng lập luận không có tác dụng vì còn có người không tin. Khi suy nghĩ đến thực tế là 'cửa hẹp đường chật dẫn đến sự sống, kẻ kiếm được thì ít” (Mat Mt 7:14) thì chúng ta đừng lấy làm lạ khi có nhiều người không xem biện giáo của chúng ta là thuyết phục. Nhưng điều này không có nghĩa là biện giáo của chúng ta không có tác dụng. Dĩ nhiên nếu chẳng có ai thấy lý luận của chúng ta có sức thuyết phục thì có thể cho là không có hiệu quả, tác dụng cho dù lý luận đó là vững chắc có sức thuyết phục. Điều mà chúng ta còn phát huy là một phương cách biện giáo sao cho vừa vững vàng vừa có sức thuyết phục đối với càng nhiều người càng tốt. Chúng ta cũng đừng nên nản lòng và nghĩ rằng đường lối biện giáo của chúng ta không có hiệu quả nếu như có nhiều người thấy nó không có sức thuyết phục. Thành công trong công tác làm chứng là chỉ đơn giản thông đạt hay truyền đạt Đấng Christ bằng quyền năng của Đức Thánh Linh còn kết quả thì để cho Thượng Đế lo liệu. Tương tự, tính hiệu quả của biện giáo là trình bày lập luận vững vàng, có sức thuyết phục về Phúc âm nhờ vào quyền năng của Đức Thánh Linh và để kết quả cho thượng Đế lo liệu.
LUẬN VỀ CON NGƯỜI
2.1. SỰ VÔ LÝ CỦA CUỘC SỐNG THIẾU VẮNG THƯỢNG ĐẾ
Một trong những câu hỏi thuộc về biện giáo mà thần học Cơ Đốc cận đại phải luận giải trong giáo lý nói về con người đó là điều mà người ta gọi là “phạm trù con người”, tức là ý nghĩa cuộc sống con người trong vũ trụ hậu hữu thần. Theo tôi thiễn nghĩ, câu hỏi này nên được nêu ra trước và dùng làm mào đầu cho câu hỏi về sự hiện hữu của Thượng Đế, như thế mới hợp lý.
2.11 Tài liệu trích dẫn và hướng dẫn
2.111. Bối cảnh lịch sử.
Dostoyevski, fyodor “Anh em nhà Karamazov”. Bản dịch của C.Garnett, M.Komroff đề tựa. New York: New American Library, Signet Classics, 1957. “Tội ác và hình phạt”
Bản dịch của C.Garnett, đề tựa: E.Simmons New York: Modern Library, 1950 Pascal, Blaise. “Tư Duy”. Louis lafuma hiệu đính, bản dịch của John Warrington, Every man's Library. Lodon: Dent, 1960. Schaeffer, Francis. “Thoát khỏi lý trí”
Downers Grove, Ill: Inter-Varsity Press 1968. “Thượng Đế còn đấy” Chicago: Inter-Varsity Press 1968. “Rồi chúng ta sống như thế nào đây” Old Tappan. N.J.Flenning H.Revell, 1976.
2.112. Đánh giá.
Cammus, Albert. Truyền thuyết Suyphut và các tiểu luận khác. Bản dịch của J.O''Brrien.
New York. Vintage, 1959. “Người khác lạ”. Bản dịch của S.Gilbert. New York. Vintage, 15.
Crick, Francis. “Lý do tôi nghiên cứu sinh vật học”. Washington University Magazine, Spring 1971, trang 20-4.
Hesse, Hermana. “Sói đồng hoang”. Bản dịch của Basil Creighton. New York: Holt, Rinehart and Winston, 1961 2.12. Bối cảnh lịch sử
Biện giáo Cơ Đốc dựa trên phạm trù con người là một hiện tượng khí mới mẻ, gốc gác của nó có liên quan tới Francis Shaeffer. Thông thường được gọi là “Biện giáo văn hóa” vì áp dụng sự phân tích văn học thời kỳ hậu Cơ Đốc giáo. Phương pháp này thiết lập nên một đường lối biện giáo hoàn toàn khác hẳn, vì nó không liên quan đến những vấn đề về tri thức. Thật thế, theo một nghĩa nào đó thì phương pháp này không nhằm tích cực chứng tỏ Cơ Đốc giáo là đúng mà chỉ khảo sát tỉ mỉ những hậu quả tai hại trên văn hóa, xã hội và sự hiện diện của con người nếu như Cơ Đốc giáo là sai lầm. Xét theo phương diện này thì phương pháp này có phần giống chủ nghĩa hiện sinh: những người mở màn cho phương pháp này cũng là những người mở màng cho chủ nghĩa hiện sinh, phần lớn sự phân tích của phương pháp này về phạm trù con người đều rút ra từ những hiểu biết sâu sắc của chủ nghĩa hiện sinh vô thần gần đây.
2.121. Blaise Pascal.
Một trong những thí dụ đầu tiên hết về biện giáo Cơ Đốc áp dụng phạm trù con người là tác phẩm “Tư Duy” của nhà toán học và vật lý học người Pháp Blaise Pascal (1623-62). Sau khi tin nhận Đấng Christ vào năm 1654, Pascal dự tính viết nên một tác phẩm bênh vực niềm tin Cơ Đốc có tựa đề là “Biện giáo trong Cơ Đốc giáo” nhưng qua đời vì một chứng bệnh suy nhược lúc được 39 tuổi, để lại hằng trăm bản ghi chép dành cho tác phẩm này, rồi sau đó được xuất bản sau khi ông chết với tựa là “Tư Duy”.
Phương pháp của Pascal hoàn toàn lấy Đấng Christ làm trung tâm. Ông xác nhận rằng Cơ Đốc giáo giảng dạy hai chân lý: đó là có một Thượng Đế mà con người có khả năng nhận biết được, và có một yếu tố hư hoại ở trong con người khiến họ không còn xứng đáng trước mặt Thượng Đế. Nhận biết Thượng Đế mà không nhận biết tình trạng khốn khổ của con người thì sinh ra sự kiêu ngạo, nhận biết tình trạng khốn khổ của con người nhưng không nhận biết Thượng Đế thì sinh ra tuyệt vọng, nhưng nhận biết Chúa giê-xu Christ ban cho con người sự nhận biết cùng một lúc cả hai. Pascal khuyên chúng ta hãy nhìn xem thế gian theo quan điểm Cơ Đốc giáo để xem những chân lý này có được xác nhận hay không. Tác phẩm biện giải của ông hiển nhiên được dự định chia làm hai phần: phần thứ nhất ông muốn trình bày tình trạng khốn khổ của con người khi thiếu vắng Thượng Đế (bản chất con người là hư hoại), ở phần hai ông muốn trình bày tình trạng viên mãn của con người khi có Thượng Đế (có một Đấng Cứu Chuộc). Theo như phần sau, Pascal trình bày bằng chứng qua phép lạ và nhất là lời tiên tri được ứng nghiệm. Để xác nhận chân lý về tình trạng khốn khổ của con người. Pascal tìm cách giải bày tình trạng khó khăn của con người.
Theo Pascal, tình trạng con người là một điều khó hiểu vì con người tuy là khốn khổ nhưng lại cao quí. Một mặt tình trạng khốn đốn chính là do tính vô nghĩa, tầm thường và tính bấp bênh của mình.
Dựa theo lối văn của nhà văn hoài nghi người Pháp Montaigne, Pascal thường xuyên nhấn mạnh đến tính không chắc chắn của những kết luận đạt được qua lý trí và giác quan. Ngoài những nguyên lý trực giác thứ nhất, xem ra không có điều gì để chúng ta có khả năng nhận biết được cách chắc chắn. Nói riêng, lý trí và thiên nhiên xem ra không giúp cho con người chứng cớ quyết định về sự hiện hữu của Thượng Đế. Khi con người nhìn xem chung quanh mình, thì chỉ thấy toàn là bóng tối và mờ mịt. Hơn nữa, nếu như kiến thức khoa học của con người là chính xác thì con người biết được rằng anh ta chỉ là một hạt bụi vô cùng nhỏ bé lạc lõng trong thế giới bao la cùng cực của không gian và thời gian. Cuộc đời ngắn ngủi của con người bị giới hạn ở hai phía bởi sự vô tận của thời gian, vị trí của con người trong vũ trụ bị lạc mất trong không gian vô cực, con người thấy mình bị treo lơ lững, có thể cho là như vậy, giữa vũ trụ vô hạn vĩ mô bên trong và vũ trụ vô hạn vĩ mô bên ngoài. Mờ mịt và bấp bênh con người lúng túng trong nỗ lực tìm một cuộc sống hạnh phúc và có ý nghĩa. Tình trạng con người có đặc điểm là thiếu tính kiên định, buồn chán và lo âu. Mối quan hệ với đồng loại bị sai lệch vì tính ích kỷ, xã hội được thiết dựng trên sự lừa dối lẫn nhau. Công lý của con người luôn thay đổi và mang tính tương đối, không có một tiêu chuẩn cố định nào về giá trị.
Mặc dầu lâm vào tình trạng khốn khó như vậy, phần lớn con người từ chối không chịu tìm kiếm cho mình câu trả lời hoặc suy nghĩ về tình trạng bế tắc của mình, thay vì thế họ đã lạc mất khi tìm lối thoát. Hãy lắng nghe Pascal diễn tả đường lối lý luận của con người như vậy:
Tôi không biết ai đưa tôi vào cõi đời này, tôi cũng không biết thế giới này ra làm sao và tôi là gì. Tôi không biết tí gì cả. Tôi không biết gì về cơ thể tôi, giác quang linh hồn và kể cả bộ phận trong người tôi vốn giúp suy nghĩ khi muốn phát biểu, bộ phận ấy tư duy và về ngoại cảnh.
Tôi nhìn thấy sự bao la cùng cực của vũ trụ quanh tôi và nhận thấy mình bị giới hạn vào một xó xỉnh của sự vô tận bao la này, lại cũng không biết lý do tại sao tôi lại có mặt tại chốn này mà không phải nơi khác trong vũ trụ, tôi cũng không biết tại sao quảng đời ngắn ngủi lại ban cho tôi vào lúc này mà không vào lúc khác trong dòng thời gian vĩnh cửu trước tôi và sau tôi. Mọi phía tôi chỉ nhìn thấy cõi vô tận mà tôi chỉ là một hạt bụi, một cái bóng qua đi không bao giờ trở lại. Tôi chỉ biết là trước sau gì tôi cũng phải chết, nhưng điều tôi ít biết đến nhất là cái chết mà tôi không thể nào né tránh được.
Vì tôi không biết mình từ đâu tới, nên tôi cũng không biết mình sẽ đi về đâu. Tôi chỉ biết rằng khi lìa đời tôi sẽ mãi mãi đi vào cõi hư vô hoặc vào tay một Đấng Thượng Đế đầy giận dữ, tôi cũng không biết tôi sẽ mãi mãi rơi vào tình cảnh nào trong hai tình cảnh trên. Đó là tình trạng của tôi, đầy dẫy sự yếu đuối và bấp bênh. Rút ra từ những điều trên tôi kết luận rằng tôi phải sống từng ngày một mà không cần biết về số mệnh của tôi cả. Có thể là tôi tìm ra giải đáp cho những điều mình nghi ngờ, nhưng tội tình gì tôi lại bận tâm, tôi chẳng màng gì để khám phá ra điều này cả.
Pascal chỉ có thể xem tính dửng dưng như vậy là điên dại. Tình trạng của con người phải là động cơ thúc đẩy con người tìm kiếm xem có Thượng Đế hay không và có tìm được giải pháp cho tình trạng khốn cùng của mình hay không. Thế nhưng con người lại bỏ ra bao thời gian bao công sức tư duy cho những giá trị tầm thường những thú tiêu khiển nhằm tránh né tình trạng thất vọng, buồn phiền, lo lắng mà nếu không có những thú tiêu khiển này thì con người tất không tránh khỏi tình trạng trên.
Đó là tình trạng khốn nạn của con người. Nhưng cũng phải nói đến sự cao quí của con người. Vì mặc dầu con người là khốn nạn, nhưng ít ra con người còn có khả năng nhận biết mình là khốn nạn. Sự cao quí của con người nằm ở tư duy. Con người là một cây sậy nhưng là cây sậy biết tư duy. Vũ trụ này có thể nghiền nát con người như nghiền nát một con muỗi, dầu vậy, con người cao quí hơn vũ trụ vì con người nhận biết vũ trụ nghiền nát mình còn vũ trụ thì không. Vì vậy chân giá trị của con người là ở tư duy “Bởi không gian, vũ trụ vây lấy tôi và nuốt chửng như một hạt bụi bởi tư duy tôi nhận biết vũ trụ”. Sự cao quí của con người không chỉ ở chỗ là tìm ra được giải phóng cho tình trạng khốn nạn của mình mà còn là trong thực tế nói lên rằng trong khắp vũ trụ chỉ có con người mà thôi mới nhận biết tình trạng khốn nạn của mình.
“Con người quả thật là một ngoái ộp, một khác thường, một quái vật, một hỗn độn, một đối tượng mâu thuẫn, một thần kỳ! Phân xử phán đoán mọi sự, ấy thế lại là một con giun đất khờ dại, một nơi tiếp nhận chân lý, một nơi sản sinh nghi ngờ và lầm lạc; sự kiêu ngạo và rác rưởi của vũ trụ. Ai sẽ gỡ rối mớ bòng bong này?”
Pascal kỳ vọng rằng bằng cách giải thích tính chất cao cả và tình trạng khốn nạn của con người, biết đâu ông đánh thức được con người để con người phải suy nghĩ về tình trạng của mình và nỗ lực đi tìm một giải pháp.
Việc Pascal phân tích tình trạng khốn cùng của con người đưa đến lối lý giải đánh cuộc nổi tiếng của ông, nhờ đó ông hy vọng làm nghiêng cán cân về phía chủ nghĩa hữu thần, vốn là người sáng lập lý thuyết xác suất, Pascal lập luận rằng khi cơ may về khả năng có hay không có Thượng Đế là ngang nhau thì người thận trọng khôn ngoan sẽ đánh cuộc là có Thượng Đế. Đây là một sự đánh cuộc mà mọi người phải tham gia, trò đánh cuộc đang được tiến hành và bạn phải đặt cuộc. Không còn chọn lựa nào khác - bạn đã tham gia trò đánh cuộc. Bạn chọn bên nào? Có hay không có Thượng Đế? Pascal lập luận rằng vì cơ may là ngang nhau nên lý trí không bị vi phạm khi chọn lựa bên nào, vì thế lý luận không thể quyết định nên đánh cuộc bên nào. Cho nên việc chọn lựa phải làm sao cho có tính thực dụng bằng cách bảo đảm cao nhất sự viên mãn của mình. Nếu một người đánh cuộc rằng có Thượng Đế và Ngài hiện hữu thật thì người ấy được sự sống đời đời và được viên mãn cùng cực. Nếu như không có Thượng Đế thì người ấy chẳng mất gì. Ngược lại nếu một người đánh cuộc là không có Thượng Đế mà Ngài lại có thật thì số phận người ấy coi như chịu sự mất mát vô cùng tận. Nếu như không có Thượng Đế thì người ấy cũng chẳng được gì. Do vậy sự lựa chọn khôn ngoan duy nhất là hãy tin rằng có Thượng Đế.
Ở điểm này Pascal tin rằng vẫn có cách đi luôn cửa hậu để xem xét rồi quyết định cho thật hợp lý mình phải đánh cuộc như thế nào, tức là ý muốn nói đến bằng chứng về Thánh Kinh, phép lạ và lời tiên tri, và những điều này ông bàn đến ở phần hai của tác phẩm. Nhưng trước mắt, ông muốn nhấn mạnh rằng cho dù không có hay thiếu những chứng cớ như vừa kể thì con người nên tin Thượng Đế. Cứ cho là tình trạng khốn nạn của con người được một bàn tay nào đó nhào nặn và phải đối diện với sự cuồng nộ hay trầm luân đời đời thì hành động hợp lý duy nhất là tin Thượng Đế: “Nếu được cuộc, bạn được tất cả nếu thua cuộc, bạn chẳng mất gì cả”.
2.122. Fyodor Dostoyevski
Một hình thức biện giải khác dựa trên tình trạng khốn nạn của con người có thể thấy được qua các tác phẩm tiểu thuyết tuyệt vời của Fyodor Dostoyevski, một nhà văn lớn người Nga vào thế kỷ trước (1821-81). Vấn đề dằn vặt Dostoyevski là vấn đề điều ác: Làm thế nào có một Thượng Đế yêu thương và thiện trong khi thế giới thì đầy dẫy sự đau khổ và điều ác? Dostoyevski đã trình bày vấn đề này qua những tác phẩm của ông một cách rất thuyết phục, sâu sắc đến độ một số chương trong các tác phẩm của ông, đặc biệt là chương “Chánh án tòa án dị giáo” trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov” được thường xuyên tái bản trong tuyển tập và được xem như là điều phát biểu kinh điển về vấn đề cái ác. Do đó, nhiều người nghi ngại Dostoyevski là một nhà vô thần và cho rằng quan điểm trong “Chánh án tòa án dị giáo” là do ông đặt ra (Tưởng cũng nên nhắc thêm rằng việc đặt nặng vào các tác phẩm của các tác giả như C.S.Lewis mà bỏ qua các tác giả như Dostoyevski là một điều tủi hổ. Dostoyevski là một tác giả vĩ đại hơn nhiều).
Đúng ra, ông tìm cách hoàn thành một lập luận có hai mũi nhọn để bênh vực cho chủ nghĩa hữu thần bất chấp vấn đề điều ác. Về mặc tích cực, ông lập luận rằng sự đau khổ trong trắng có thể hoàn thiện tính cách con người và đưa con người đến một quan hệ gần gũi hơn với Thượng Đế. Về mặt tiêu cực, ông cố tìm cách chứng tỏ rằng nếu sự hiện hữu của Thượng Đế bị phủ nhận thì con người bị đẩy hoàn toàn vào chủ nghĩa đạo đức tương đối, hầu cho không một hành động nào cho dù nó đáng kinh sợ ghê tởm đến đâu đi chăng nữa thì người vô thần chẳng có gì để lên án. Sống nhất quán với một quan niệm như vậy là một điều không thể tưởng tượng nổi và không thể có được. Do vậy chủ nghĩa vô thần hủy hoại cuộc sống và không còn cách nào khác hơn là kết thúc bằng tự sát.
Dostoyevski thừa nhận rằng điều này không thiết lập nên một chứng cớ tích cực nào cho Cơ Đốc giáo. Thật vậy, ông bác bỏ trường hợp này. Có người đòi hỏi Đấng Christ phải cho họ bánh nhưng Ngài đã khước từ. Quyết định theo Chúa phải được thực hiện đơn độc và háo hức. Mỗi người phải tự mình đối diện với nỗi thống khổ của một thế giới thiếu vắng Thượng Đế và với trái tim đơn độc phó mình cho Thượng Đế với cả niềm tin.
2.123. Soren Kierkegaard.
Soren Kierkegaard (1813-15) nhà tư tưởng Đan-mạch theo chủ nghĩa hiện sinh hay sinh tồn vào cuối thế kỷ 19 cũng trình bày một hình thức biện giáo tiêu cực cho Cơ Đốc giáo. Ông ta cho rằng cuộc sống được duy trì trên ba mặt hay ba giai đoạn: giai đoạn thẩm mỹ, giai đoạn đạo đức và giai đoạn tôn giáo. Con người ở giai đoạn thẩm mỹ sống một cuộc sống theo mức độ cảm quan, một cuộc sống tự kỷ và hướng về lạc thú. Điều này không cần thiết phải là chủ nghĩa khoái lạc. Con người ở cấp độ này có thể rất là học thức, thậm chí thận trọng, thế nhưng cuộc đời của con người chỉ xoay vần chung quanh mình và những thứ vật chất như tình dục, nghệ thuật, âm nhạc v.v... những thứ đem lạc thú cho con người. Cái nghịch lý của cuộc đời ở cấp độ này là cuối cùng đưa đến tình trạng khốn khổ, không có hạnh phúc. Con người thẩm mỹ và vị kỷ này không tìm thấy ý nghĩa tối hậu nào trong cuộc sống và không tìm thấy sự thỏa mãn nào đích thực. Do đó cuộc sống thẩm mỹ cuối cùng đưa đến tuyệt vọng, một hình thức bệnh hoạn vì cuộc sống.
Nhưng điều này chưa phải chấm dứt, vì chính thời điểm này con người mới sẵn sàng sống trên mặt phẳng đạo đức. Sự chuyển tiếp sang giai đoạn đạo đức là một bước nhảy do tình trạng tuyệt vọng thúc đẩy để tiến đến một cấp độ cao hơn, ở nơi đó con người xác nhận những giá trị đạo đức vượt lên trên cá nhân và dùng những tiêu chuẩn khách quan này để hướng dẫn cuộc sống. Cuộc sống không còn duy trì cho tự kỷ và lạc thú, đúng hơn con người buộc phải tìm kiếm cái thiện mang tính đạo đức và thay đổi cách cư xử để cho phù hợp với cái thiện đó, như thế, con người trong giai đoạn đạo đức là con người đạo đức nhưng cuộc sống trong giai đoạn này cũng kết thúc trong đau khổ vì con người càng phấn đấu hết lòng để sống một cuộc đời phù hợp với những tiêu chuẩn khách quan của cái thiện bao nhiêu thì con người càng ý thức một cách đau khổ rằng mình không có khả năng làm được việc này. Do đó, cuộc sống đạo đức, khi chân thành theo đuổi, cuối cùng cũng đưa đến mặc cảm tội lỗi và tuyệt vọng.
Nhưng còn một giai đoạn nữa trong quá trình một cuộc đời: đó là giai đoạn tôn giáo. Ở giai đoạn này con người tìm thấy sự tha tội và mối tương giao cá nhân với Thượng Đế, chỉ ở trong giai đoạn này, tương giao mật thiết với Đấng tạo dựng nên con người, thì con người mới tìm thấy sự sinh tồn xác thực và sự viên mãn đích thực. Một lần nữa Kierkegaard cho giai đoạn chuyển tiếp từ giai đoạn đạo đức sang giai đoạn này là một bước nhảy. Quyết định tin theo là một sự chọn lựa không có tiêu chuẩn, một bước nhảy của niềm tin vào trong bóng tối. Mặc dầu con người có thể không có được những cơ sở hợp lý nào dành cho bước nhảy này, nếu như con người không thực hiện điều này thì sẽ tiếp tục tuyệt vọng và tiếp tục hiện hữu trong cái không xác thực.
2.124. Francis Shaeffer
Như tôi đã nhận định trước đây, Francis Shaeffer là một nhà tư tưởng đứng ra soạn thảo nên một phương pháp biện giáo Cơ Đốc dựa trên tình trạng khốn khổ hiện đại. Theo Shaeffer, có thể truy tìm trong văn hóa phương Tây gần đây một “khuynh hướng tuyệt vọng” thấm nhuần trong triết học, văn chương và nghệ thuật kế tiếp nhau. Ông tin rằng cội rễ của điều ác nằm trong triết học Hegel, đặc biệt là triết học đó phủ nhận những chân lý tuyệt đối. Hegel đã khai triển nên một bộ ba được biết đến rất nhiều đó là đề - phản đề - tổng hợp đề, trong bộ ba này các mâu thuẫn không được xem như là mặt đối lập tuyệt đối nhưng là một bộ phận của chân lý được tổng hợp trong một tổng thể. Cuối cùng tất cả đều là Một, có tính tuyệt đối và không mâu thuẫn. Theo quan điểm của Shaeffer, hệ thống của Hegel đã ngấm ngầm phá hủy khái niệm về những chân lý tuyệt đối (chẳng hạn như “Hành động đó hỏng về mặt đạo đức” hay là “Bức tranh này xét về mặt thẩm mỹ thì xấu xí") bằng cách tổng hợp chúng lại thành một tổng thể. Việc phủ nhận cái tuyệt đối đã dần dà len lỏi vào văn hóa phương Tây. Trong mỗi trường hợp đều đưa đến kết quả là tuyệt vọng bởi vì nếu như không có cái tuyệt đối thì những nỗ lực của con người đều thoái hóa thành vô lý ngu xuẩn. Shaeffer tin rằng Sân khấu của cáu vô lý, nghệ thuật trừu tượng hiện đại, âm nhạc hiện đại thí dụ như của nhà soạn nhạc John Cage là những biểu hiện của những gì xảy ra ẩn nấp phía dưới khuynh hướng tuyệt vọng, chỉ bằng cách tái khẳng định niềm tin vào Thượng Đế tuyệt đối của Cơ Đốc giáo thì con người và nền văn hóa mới có thể tránh khỏi tình trạng suy đồi, vô nghĩa và tuyệt vọng tất yếu.
Nỗ lực của Shaeffer nhằm chống lại việc phá thai có thể được xem như là một sự khai triển hợp lý của đường lối biện giáo của ông ta. Một khi Thượng Đế bị phủ nhận, thì cuộc sống con người trở nên vô giá trị và chúng ta có thể trông thấy kết quả của một triết lý như vậy qua việc phá thai và giết hại trẻ con đang xảy ra. Shaeffer cảnh cáo rằng nếu con người phương Tây không trở lại theo quan điểm và lối sống Cơ Đốc thì không có gì ngăn cản xu hướng này thoát khỏi suy thoái thành việc hạn chế dân số và chọn giống con người. Chỉ có thế giới quan hữu thần mới có thể cứu vãn nhân loại thoát khỏi bản thân của chính mình.
2.13. Đánh giá
2.131. Tính chất cần phải có Thượng Đế và tính bất diệt.
Loren Eiseley mô tả: con người là kẻ mồ côi của vũ trụ. Con người là sinh vật duy nhất tự đặt câu hỏi “Tại sao?” Loài vật có bản năng để hướng dẫn chúng, nhưng con người tìm cách đặt câu hỏi.
Con người đặt câu hỏi: “Tôi là ai? Tại sao tôi hiện diện? Tôi sẽ đi về đâu?” Kẻ thù thời đại ánh sáng, khi con người lột bỏ được xiềng xích của tôn giáo thì con người đã nỗ lực giải đáp những câu hỏi này mà không kể gì đến Thượng Đế. Thế nhưng những giải đáp nhận được thì lại không phấn khởi mà lại là ảm đạm và khủng khiếp “Con người là một sản phẩm phụ một cách tình cờ của thiên nhiên, một kết quả từ vật chất, cộng thời gian, cộng ngẫu nhiên, không có lý do gì về sự hiện diện của con người. Tất cả những gì con người đối diện là sự chết”.
Con người hiện đại cho rằng một khi họ đã loại trừ được Thượng Đế thì họ đã tự giải thoát khỏi những gì đã áp bức và đè nén họ. Thế nhưng ngược lại, con người khám phá ra rằng khi giết chết chính mình. Vì rằng nếu không có Thượng Đế thì cuộc sống con người trở nên vô nghĩa lý.
Nếu không có Thượng Đế thì cả con người lẫn vũ trụ phải chết. Con người, giống như những sinh vật, phải chết, không còn hy vọng gì vào cõi trường sinh, cuộc đời con người chỉ đi đến mồ mã. Cuộc sống con người chẳng khác nào một tia sáng chợt lóe lên trong bóng tối vô cùng tận, một khi tia sáng xuất hiện, lập lòe rồi tắt lịm mãi mãi. So với dòng thời gian vô cùng tận thì quảng đời con người chẳng qua chỉ là một thoáng qua quá nhanh không đáng kể, ấy thế, đó chính là tất cả cuộc sống mà con người phải nhận biết, cho nên, con người ai cũng phải mặt đối mặt với điều mà nhà thần học Paul Tillich gọi là “mối đe dọa về sự không tồn tại”. Vì dầu rằng tôi nhận biết hiện giờ tôi hiện hữu, tôi đang sống thì tôi cũng nhận biết rằng một ngày kia tôi sẽ không còn hiện hữu nữa, tôi không còn tồn tại nữa, tôi sẽ chết. Tư tưởng này gây choáng váng và đầy đe dọa, ấy là tư tưởng cho rằng con người mà tôi gọi là “tôi” sẽ không còn tồn tại, không còn hiện hữu, không còn hiện diện nữa.
Tôi còn nhớ mồn một lần đầu tiên cha tôi bảo với tôi rằng một ngày kia tôi sẽ chết, không biết làm sao lúc nhỏ tôi chẳng bao giờ có suy nghĩ này. Khi ông ấy bảo tôi như thế tôi thấy sợ và buồn khôn tả. Mặc dầu ông nhiều lần cố trấn an tôi là điều này còn lâu lắm mới đến, nhưng xem ra tôi không thấy có tác dụng. Dù cho sau này thực tế không chối cải được là tôi sẽ chết, sẽ không còn tồn tại và tư tưởng này có khống chế tôi hay không. Cuối cùng, như tất cả mọi người chúng ta, tôi đâm ra chấp nhận thực tế đó. Chúng ta biết cách sống với cái tất yếu, nhưng sự nhận biết sâu kín của trẻ thơ vẫn đúng như Jean-Paul Sartre, nhà triết học hiện sinh người Pháp nhận xét, một khi bạn đánh mất vĩnh cửu thì một vài giờ đồng hồ hay một vài năm không là gì cả.
Dù cho điều này đến sớm hay muộn thì viễn ảnh về cái chết và mối đe dọa về tính không hiện hữu là một điều khủng khiếp không thể nào tưởng tượng được. Có lần tôi gặp một sinh viên không cảm nhận mối đe dọa này. Anh ta kể là anh lớn lên ở trong một trang trại và thường xuyên nhìn thấy súc vật sinh ra cũng như chết đi. Đối với anh ta sự chết là chuyện tự nhiên, có thể nói là một phần của cuộc sống. Tôi lấy làm bối rối khi nhìn thấy có sự khác biệt to lớn giữa hai cái nhìn về sự chết và tôi thấy khó hiểu là tại làm sao anh ta lại không cảm thấy được mối đe dọa về sự không tồn tại. Mấy năm sau, tôi cho là tôi đã tìm ra câu giải đáp khi đọc cái tác phẩm của Sartre. Sartre nhận định rằng sự chết không còn là mối đe dọa nữa chừng nào mà chúng ta xem sự chết như là cái chết của người khác, từ quan điểm của ngôi thứ ba, có thể nói như vậy. Chỉ khi nào chúng ta chủ quan hóa và nhìn theo quan điểm ngôi thứ nhất “cái chết của tôi, tôi sắp chết” - thì mối đe dọa không tồn tại sẽ trở thành hiện thực. Như Sartre đã nêu, ở quãng giữa cuộc đời có nhiều người không bao giờ chịu đặt mình vào cái nhìn của ngôi thứ nhất này, họ có thể nhìn cái chết của mình bằng quan điểm của ngôi thứ ba, làm như thể đó là cái chết của người khác, thậm chí coi đó là cái chết của một con vật, giống như anh bạn tôi vậy. Ý nghĩa và tầm quan trọng đích thực của sự tồn tại về cái chết của tôi chỉ có thể được cảm nhận và thông hiểu theo cái nhìn ngôi thứ nhất, như là tôi nhận thức rằng tôi sẽ chết và sẽ mãi mãi chấm dứt tồn tại. Cuộc đời tôi chỉ là một sự chuyển tiếp thoáng qua từ lãng quên để vào lãng quên.
Vũ trụ cũng đối diện với cái chết.
Các nhà khoa học cho chúng ta biết là vũ trụ đang trương nở và tất cả đều ngày càng xa nhau ra. Trong quá trình như vậy, vũ trụ trở nên lạnh lẽo hơn năng lượng cạn dần. Cuối cùng các tinh tú đều tắt, mọi vật chất đều biến thành cái ngôi sao không có ánh sáng và các lỗ đen. Sẽ chẳng còn ánh sáng, chẳng còn sức nóng, chẳng còn sự sống, chỉ còn xác các ngôi sao, các thiên hà vẫn tiếp tục trương nở để đi vào cõi tối tăm vô cùng tận và chốn lạnh lẽo của khoảng không gian - vũ trụ đã tiêu tan. Cả vũ trụ bước đi tới trước về phía mồ mã của mình, cho nên không những cuộc sống cua mỗi người đều phải tận số mà cả nhân loại. Thế giới vũ trụ đang bổ nhào tới sự tiêu diệt tất yếu. Sự chết hiện diện trong từng cấu trúc của nó, không có lối thoát - không có hy vọng -
2.132. Sự vô nghĩa của cuộc sống nếu không có Thượng Đế và không có sự bất diệt.
Nếu không có Thượng Đế thì con người và vũ trụ đều suy đồi. Giống như tử tội chúng ta chờ đợi bị hành quyết không sao tránh khỏi. Nếu không có Thượng Đế thì không có sự bất diệt. Kết quả là gì? Nghĩa là cuộc sống tự nó là vô lý. Nghĩa là cuộc sống mà chúng ta có là vô nghĩa, vô giá trị và vô mục đích. Chúng ta xem xét từng phần.
2.1321. Cuộc đời không có ý nghĩa tối hậu.
a. 2.13211. Không có sự bất diệt.
Nếu mỗi người không còn hiện hữu khi qua đời thì cuộc đời của mình mang ý nghĩa cuối cùng như thế nào. Việc người ấy tồn tại hay không có quan trọng lắm không? Có thể cho rằng cuộc sống của người ấy là quan yếu vì đã gây ảnh hưởng đến người khác hay ảnh hưởng đến tiến trình của lịch sử. Những điều này chỉ cho thấy ý nghĩa tương đối trên cuộc đời người ấy chứ không phải ý nghĩa tối hậu. Cuộc đời người ấy có thể quan trọng tương đối đối với một số biến cố nào đó, nhưng ý nghĩa tối hậu của các sự kiện hay biến cố đó là gì. Nếu mọi sự kiện đều vô nghĩa thì ý nghĩa tối hậu của việc ảnh hưởng đến những sự kiện, biến cố ấy là thế nào đây? Cuối cùng thì cũng thế thôi.
Hãy xem xét từ một góc cạnh khác: Các nhà khoa học cho rằng vũ trụ phát sinh từ một vụ nỗ gọi là “tiếng nỗ lớn” xảy ra cách nay khoảng 15 tỉ năm. Giả như tiếng nỗ lớn ấy không hề xảy ra. Giả như vũ trụ chưa bao giờ hiện hữu, thế thì sự khác biệt cuối cùng là gì? Vũ trụ cũng phải bị tiêu diệt thôi. Sau cùng dù vũ trụ có hiện hữu hay không cũng chẳng có gì khác biệt, do đó vũ trụ chẳng mang ý nghĩa tối hậu nào.
Nhân loại cũng thế. Nhân loại trước sau gì cũng bị tiêu diệt cùng với vũ trụ đang hấp hối. Bởi vì nhân loại cuối cùng sẽ chấm dứt tồn tại nên dù nhân loại có hiện hữu hay không cũng không tạo sự khác biệt tối hậu. Nhân loại chẳng khác chi một đám ruồi hay muỗi bầy gia súc vì tận cùng của chúng đều như nhau. Quá trình ngẫu nhiên mù mịt của vũ trụ hồi đầu sản sinh ra chúng thì cuối cùng cũng nuốt chửng lấy chúng.
Mỗi con người cũng thế. Sự đóng góp của nhà khoa học vào sự tiến bộ của trí thức con người, những công trình nghiên cứu của các bác sĩ để làm giảm bớt sự đau đớn, các nỗ lực của nhà ngoại giao để tìm kiếm hòa bình thế giới, những hy sinh của những con người cao cả ở mọi nơi để làm thăng tiến số phận con người - tất cả đều luống công. Cuối cùng họ chẳng tạo được khác biệt gì cả. Cuộc đời của mỗi người vì thế đều không có ý nghĩa tối hậu. Vì cuộc đời của chúng ta cuối cùng là vô nghĩa nên mọi hoạt động trong cuộc đời cũng vô nghĩa. Thời gian dùi mài kinh sách, làm việc, sở thích, tình bằng hữu - phân tích cho cùng, mọi thứ đều hoàn toàn vô nghĩa. Đâu là điều khủng khiếp của con người hiện đại, vì con người tận cùng không có gì cả nên con người không là gì cả.
b. 2.13212. Không có Thượng Đế.
Có điều quan trọng để nhận thấy rằng không chỉ sự bất diệt là cái mà con người cần để cho cuộc đời mang ý nghĩa. Kéo dài sự tồn tại chẳng làm cho sự tồn tại có ý nghĩa. Nếu như con người và vũ trụ có khả năng tồn tại mãi mãi, nếu như không có Thượng Đế thì sự tồn tại đó cũng chẳng mang một ý nghĩa tối hậu nào. Để minh chứng: “Có lần tôi đọc một chuyện khoa học giả tưởng kể lại rằng có một nhà du hành vũ trụ bị bỏ rơi trên một khối vân thạch khô khan cằn cõi lạc lõng ngoài không gian, anh ta đem theo hai ống thuốc. Một ống đựng thuốc độc, ống kia chứa một liều thuốc khiến anh ta sống mãi. Nhận thức được tình trạng bi đát của mình, anh ta bèn uống liều thuốc độc, nhưng thật khủng khiếp anh ta uống nhầm lọ thuốc trường sinh. Điều đó có nghĩa là anh ta khổ sở bị tồn tại mãi mãi - một cuộc sống vô nghĩa, kéo dài vô cùng tận. Thế thì nếu không có Thượng Đế thì cuộc đời của chúng ta cũng giống như thế: vô nghĩa. Cuộc đời của chúng ta có thể kéo dài, đời này qua đời khác nhưng vẫn vô nghĩa. Chúng ta có thể đặt câu hỏi với cuộc sống “Thế rồi sao?” Cho nên không chỉ con người cần sự bất diệt nếu như để cho cuộc đời vô ý nghĩa tối hậu, con người cần Thượng Đế và sự bất diệt. Nếu không có Thượng Đế thì con người chẳng có sự bất diệt.
Con người ở thế kỷ 20 hiểu điều này. Hãy đọc vở “Chờ đợi Godot” của Samuel Beckett. Trong cả vở kịch, có hai người đang trò chuyện gẫu trong khi chờ một người thứ ba đến, nhưng người ấy chẳng bao giờ đến. Cuộc đời của chúng ta cũng như thế, Beckett đã nói chúng ta giết thời giờ để chờ đợi một cái gì đó mà chúng ta chẳng biết khi miêu tả thảm kịch của con người, Beckett viết một vở kịch khác, khi màn vừa kéo lên cho thấy sân khấu bừa bãi đồ tạp nhạp. Trong ba mươi giây khán giả ngồi yên và lặng lẽ trố mắt nhìn đống đồ tạp nhạp ấy. Thế rồi màn hạ. Vở kịch chỉ có thế.
Một trong những tác phẩm có sức tàn phá ghê gớm mà tôi đã đọc là tiểu thuyết “Sói đồng hoang” của Hermann Hesse. Ở cuối truyện, Harry Haller đứng ngắm mình trong gương. Suốt trong cuộc đời, anh ta đã từng trãi những thú trên đời. Giờ đây anh ta đứng ngắm lấy mình, miệng lẩm bẩm “Ôi, vị đắng của cuộc đời!” Anh ta nhổ nước bọt vào con người mình trong gương rồi đá tấm gương bể tan tành. Cuộc đời của anh ta vô nghĩa và hư không.
Jean-Paul Sartre và Albert Camus, hai nhà hiện sinh người Pháp cũng hiểu rõ điều này. Sartre mô tả cuộc đời qua vở kịch “Không lối thoát” như là địa ngục. Câu cuối cùng của vở kịch là lời lẽ cam phận. “Thôi, chúng ta tiếp tục vậy”. Do vậy, ở đâu đó Sartre có viết về “sự lợm giọng của tính chất hiện hữu. Camus cùng xem cuộc đời là vô nghĩa. Ở cuối tiểu thuyết ngắn ngủi “Kẻ lạ mặt” nhân vật anh hùng của Camus chợt khám phá ra rằng không có Thượng Đế để đem đến cho vũ trụ một ý nghĩa. Jacques Monod, nhà sinh hóa người Pháp xem ra đã nhắc lại những cảm nghĩ ấy khi ông viết trong tác phẩm “Ngẫu nhiên và Nhu cầu” “Cuối cùng con người nhận biết mình cô đơn, lẽ loi trong cõi bao la dững dưng của vũ trụ”.
Thế nên nếu không có Thượng Đế thì bản thân cuộc đời trở nên vô nghĩa. Con người và vũ trụ đều không mang ý nghĩa tối hậu.
2.1322. Cuộc đời không có giá trị tối hậu.
a. 2.13221. Không có sự bất diệt. Nếu cuộc đời chấm dứt ở nấm mồ thì chẳng có gì khác biệt cho dù người ấy sống như một kẻ gian ác hay một vị thánh. Như nhà văn Dostoyevski viết: “Nu không có sự bất diệt thì mọi sự đều được phép làm”. Trên cơ sở này thì một nhà văn cở như Agn Rand hoàn toàn có lý khi ca tụng đức tính ích kỷ. Hãy sống vì mình, không ai quy trách nhiệm cho bạn cả. Thật thế, thật dại dột để làm bất cứ điều gì khác, vì cuộc đời quá ngắn ngủi ể liều lĩnh thực hiện bất cứ điều gì nếu không phải là tư lợi. Hy sinh cho một người khác là dại dột.
b. 2.13222. Không có Thượng Đế. Vấn đề này càng trở nên tệ hại hơn. Vì bất chấp có sự bất diệt, nếu không có Thượng Đế thì chẳng có tiêu chuẩn tuyệt đối nào để xác định đúng sai, phải quấy. Tất cả những gì mà chúng ta phải đương đầu, theo cách nói của Jean-Paul Sartre, là thực tế hiện hữu trơ trọi, vô giá trị. Trong mặt thế giới không có Thượng Đế, ai có thể nói giá trị nào đúng, giá trị nào sai. Ai có thể đánh giá trị của Hitler không bằng giá trị của một vị thánh? Quan niệm về đạo đức mất tất cả ý nghĩa trong một vũ trụ không có Thượng Đế. Không có cái gì gọi là đúng hoặc sai. Điều này có nghĩa là không thể nào lên án chiến tranh, áp bức, tội ác và coi đó là điều ác. Cũng chẳng ai có thể ca ngợi tình huynh đệ, bình đẳng và tình yêu để coi đó là điều thiện. Vì trong vũ trụ không có Thượng Đế, tiện và ác không tồn tại chỉ có thực tế trơ trọi, vô giá trị của sự tồn tại, chẳng có ai nói rằng bạn đúng, tôi sai.
2.1323. Cuộc đời không có mục đích tối hậu.
a. 2.13231. Không có sự bất diệt.
Nếu sự chết mở rộng cách tay chờ đợi chúng ta ở cuối cuộc đời thì mục đích của cuộc đời là gì? Tận cùng của cuộc đời là gì? Phải chăng là luống công? Phải chăng không có lý lẽ dành cho cuộc sống? Còn vũ trụ ra sao? Phải chăng nó hoàn toàn vô nghĩa? Nếu vận mệnh của vũ trụ là nắm mồ lạnh lẽo ở một nơi sâu kín ngoài không gian thì câu giải đáp là đúng vậy - vũ trụ là vô nghĩa. Đối với vũ trụ chẳng có mục tiêu, mục đích. Xác chết của vũ trụ cứ tiếp tục trương nở mãi mãi. Còn con người thì sao? Ở nửa cuối thế kỷ hai mươi, con người xem ra phải đương đầu với triển vọng bị hủy diệt bằng hạch nhân hay nạn đói hoành hành toàn thế giới. Nhân loại, cuối cùng có thể tối tận cùng con đường và nhìn thấy sự hủy diệt được tuyên phán không phải các nhà tiên tri nói về tận thế mà là bởi các con người thông minh trong cộng đồng khoa học. Bóng đen đi bao trùm lên trên nửa cuối thế kỷ này. Henry Kissinger thuật lại cuộc gặp gỡ với Mao Trạch Đông ít lâu trước khi Mao tạ thế, ông Mao đã phát biểu điều mà ông Kissinger mô tả là sự phân tích lõi lạc và thản nhiên nhất về tương lai của thế giới, chiến tranh hạt nhân sẽ tiêu diệt phần lớn dân số thế giới và từ trong đống tro tàn, tàn dư của giai cấp vô sản Trung quốc sẽ trổi dậy và thống trị thế giới. Thế nhưng người ta có thể đặt câu hỏi họ sống sót để được mục đích gì? Phải chăng chẳng có mục đích cho nhân loại? Hay là ngày nào đó nhân loại biến mất dần và bị lãng quên trong một vũ trụ thờ ơ hờ hững.
H.G.Wells, nhà văn người Anh cũng nhìn thấy trước được viễn ảnh đó. Trong tiểu thuyết “Cổ máy thời gian” nhân vật du lịch bằng thời gian đã du lịch vào tương lai để khám phá định mệnh con người. Người nào khám phá ra trái đất không có sự sống với một ít rong rêu cùng với địa y đang xoay quanh mặt trời màu đỏ khổng lồ. Còn âm thanh thì chỉ vỏn vẹn có tiếng gió thoảng và tiếng rì rào của các gợn sóng lăng tăng của biển cả “Ngoài những âm thanh không có sự sống này, cả thế giới đều câm lặng. Câm lặng? Thật khó mà diễn tả hết cảnh tỉnh lặng của trái đất. Tất cả các âm thanh do con người tạo nên, tiếng kêu của đàn cừu, tiếng chim hót, tiếng ca hát của côn trùng, những hoạt động tạo nên khung cảnh cho đời sống của chúng ta, tất cả đều không còn nữa”. Thế rồi nhà du hành thời gian trở về. Trở về nơi nào? Trở về một hội điểm trước đó, thời điểm đang đi dần đến quên lãng, đến mục tiêu bất định. Lúc chưa theo đạo, lần đầu tiên khi đọc tác phẩm của Wells, tôi nghĩ: “Không thể được! Không thể được! Không thể như thế được!” Nhưng nếu không có Thượng Đế thì tất phải như thế. Đấy là thực tại của một vũ trụ không có Thượng Đế: không có hy vọng, không có mục đích. Điều này gợi lại trong tôi những dòng thơ đầy ảm đạm của T.S.Eliot:
Này tận thế sẽ đến
Này tận thế sẽ đến
Không có tiếng nổ mà chỉ có rên rỉ.
Toàn cảnh nhân loại thế nào thì mỗi cá nhân cũng thế ấy. Chúng ta chẳng có mục đích. Nếu không có Thượng Đế, thì cuộc đời của chúng ta, xét về mặt tính chất thì chẳng khác chi cuộc đời một con chó. Tôi biết điều này nghe thật khó chịu nhưng đó là sự thật. Tác giả sách Truyền đạo xưa kia trong Thánh Kinh có viết: “Vì việc xảy đến cho con loài người làm sao, thì xảy đến cho loài thú cũng vậy, sự xảy đến cho hai loài giống hẳn với nhau. Sự chết của loài này cũng giống như sự chết của loài kia; hai loài đều thở một thứ hơi, loài người chẳng hơn gì loài thú, vì thảy đều hư không. Cả thảy đều qui vào một chỗ, cả thảy do bụi đất mà ra, cả thảy sẽ trở về bụi đất”. (TrGv 3:19-20). Trong sách này, vốn gần với tác phẩm văn chương hiện sinh cận đại hơn là sách của Thánh Kinh, tác giả cho thấy sự hư không của lạc thú, của cải, học vấn, danh vọng chính trường, vinh dự của cuộc đời đều tiêu tan khi chết đi. Lời phán quyết của tác giả “Hư không của sự hư không! Thảy đều hư không” (1:2). Nếu cuộc đời chấm dứt ở nấm mồ thì cuộc sống của chúng ta không có mục đích tối hậu.
b. 2.13232. Không có Thượng Đế.
Hơn thế nữa: giả như chết chưa phải là hết thì nếu không có Thượng Đế cuộc đời vẫn vô mục đích bởi vì con người và vũ trụ cũng chỉ là kết quả của ngẫu nhiên, vô cớ xuất hiện. Không có Thượng Đế thì thế giới chỉ là kết quả của ngẫu nhiên vũ trụ, một vụ nổ ngẫu nhiên. Không có lý do gì để nó hiện hữu. Còn về phần nhân loại, con người là một quái vật, một sản phẩm mù quáng của vật chất cộng với thời gian cộng với ngẫu nhiên. Con người chỉ là một tảng đất bùn tiến hóa thành duy lý. Chẳng có mục đích nào cho nhân loại hơn là một giống côn trùng vì cả hai đều là kết quả của mối tương tác mù quáng giữa ngẫu nhiên và nhu cầu, như một triết gia phát biểu:” “Cuộc đời con người được dựng trên một cái bệ gần giống như con người và phải tự mình xoay sở lấy giữa vũ trụ câm lặng vô tâm. Những gì đúng với vũ trụ và nhân loại thì cũng đúng với mỗi cá nhân chúng ta. Hễ chúng ta là con người thì chúng ta là kết quả của sự phối hợp di truyền và sinh thái. Chúng ta là sản phẩm của một tác động ngẫu nhiên về di truyền học và sinh thái”. Theo gương Sigmund Frend các nhà tâm lý học nói rằng mọi hành vi của chúng ta là kết quả của các ước muốn dục tính bị ức chế. Các nhà xã hội học noi theo B.F.Skinner lập luận rằng mọi sự lựa chọn của chúng ta đều do điều kiện cần thiết quy định và tự do là một ảo tưởng. Francis Crick và các nhà sinh vật học quan niệm con người giống như một cổ máy điện hóa có thể điều khiển được bằng cách thay đổi mã số di truyền. Nếu không có Thượng Đế thì bạn, chỉ là một sơ xẩy của thiên nhiên, đột nhiên xuất hiện trong một vũ trụ vô mục đích để sống một cuộc đời vô mục đích.
Vì vậy nếu không có Thượng Đế, thì có nghĩa là con người và vũ trụ tồn tại cũng chẳng để làm gì, vì cuối cùng vẫn là sự chết, và vì chúng hiện hữu cũng chẳng để làm gì, tất cả là sản phẩm đui mù của ngẫu nhiên. Tóm lại cuộc đời hoàn toàn chẳng để làm gì cả.
Bạn có hiểu được tầm mức quan trọng của những sự lựa chọn bày ra trước mặt chúng ta không? Vì rằng nếu Thượng Đế hiện hữu thì còn có hy vọng cho con người. Nhưng nếu không có Thượng Đế thì chúng ta chỉ còn lại tuyệt vọng. Bạn có hiểu tại sao vấn đề Thượng Đế hiện hữu lại quan trọng đối với con người như thế không? Một nhà văn hiện đại có viết “Nếu Thượng Đế đã chết thì con người cũng chết”.
Tiếc thay, những người chưa nhận ra thực tế này. Họ vẫn tiếp tục đi con đường của mình làm như không có gì thay đổi. Tôi nhớ đến câu chuyện của Nietzsche kể về một người điên, vào lúc sáng tinh mơ, tay cầm đèn bão, ào ào bước vào giữa chợ và la lên “Tôi đi tìm Thượng Đế! Tôi đi tìm Thượng Đế!” Vì có nhiều người không tìm Thượng Đế đứng xung quanh nên người này lại là trò cười cho họ. Họ trêu chọc anh ta: “Ủa, Thượng Đế đi lạc rồi hả? Hay Ngài đang trốn, hay có thể Ngài đang đi du ngoạn hay di cư cũng nên!” Họ la hét và cười rộ lên. Gả điên nhìn chăm bọn họ.
Gả la lên “Thượng Đế đâu rồi? Này tôi nói cho mấy người nghe. Chúng ta đã giết Ngài, các người và tôi. Chúng ta là những kẻ giết Ngài, nhưng làm cách nào chúng ta giết Ngài được? Làm thế nào chúng ta đã uống hết nước biển? Ai cho ta bọt biển để quét sạch chân trời? Chúng ta làm gì khi giải thoát địa cầu khỏi mặt trời? Địa cầu đang đi về đâu? Xa mọi mặt trời? Không phải chúng ta đang bổ nhào à? Trở lui, dạt ngang, tới trước, khắp mọi hướng? Còn có phía trên hay phía dưới không? Không phải chúng ta lạc lõng giữa cõi hư vô bất định à? Chúng ta không cảm thấy được hơi thở của không gian trống rỗng chăng? Bộ hơi thở ấy không lạnh hơn chăng? Bộ đêm tối không phải càng lúc càng nhiều hơn à? Đêm không được đốt vào buổi sáng hay sao? Chúng ta không nghe thấy gì về tiếng ồn ào của những người đang đào huyệt chôn Thượng Đế hay sao? Thượng Đế đã chết. Chúng ta đã giết ngài. Làm sao mà chúng ta, những kẻ sát nhân lớn nhất trong số những kẻ sát nhân, lại an ủi nhau, vỗ về nhau được?”
Đám đông nhìn chăm lấy gả điên, lặng yên và kinh ngạc. Cuối cùng gả thảy cây đèn lồng xuống đất và lên tiếng “Ta đến quá sớm. Biến cố trọng đại này đang diễn tiến, nó chưa truyền đến tai con người”. Con người không hiểu được hết hậu quả cua việc giết Thượng Đế nhưng Nietzsche tiên đoán rằng tương lai con người sẽ nhận ra được mối liên can của chủ nghĩa vô thần, sự nhận thức này đưa đến thời đại chủ nghĩa hư vô - sự tiêu hủy mọi ý nghĩa và giá trị của cuộc sống. Tận cùng của Cơ Đốc giáo có nghĩa là sự xuất hiện của chủ nghĩa hư vô. Vị khách khủng khiếp nhất đang đứng đợi ngoài cửa. Nietzsche viết: “Toàn thể nền văn hóa Chân Âu đang chuyển động trong tình trạng căng thẳng oằn oại từ thập niên này sang thập niên khác như nhắm hướng đến một tai họa; luôn chuyển động, dữ dội, liều lĩnh giống như một giòng sông muốn đạt tới đích, không quay trở lại, và sợ không dám quay đầu trở lại”.
Nhiều người vẫn không chịu suy nghĩ đến hậu quả của chủ nghĩa vô thần vì vậy cho nên giống như đám đông giữa chợ, tiếp tục cuộc sống không hề có ý thức. Nhưng khi chúng ta nhận ra, giống như Nietzsche, hàm ý của chủ nghĩa vô thần thì vấn đề ông nêu lên lại càng làm cho chúng ta phải suy nghĩ: “Làm thế nào mà chúng ta, những tay sát nhân ghê tởm nhất trong các tay sát nhân lại tự an ủi mình được?”
2.133. Tính bất khả của chủ nghĩa vô thần.
Giải pháp duy nhất người vô thần đưa ra là chúng ta đối diện với sự vô nghĩa của cuộc đời và sống ngoan cường. Bertrand Russel viết rằng chúng ta phải xây dựng cuộc đời trên “nền tảng vững chắc là sự tuyệt vọng không hề nao núng”. Chỉ bằng cách nhận thức rằng thế giới là một chốn khủng khiếp thì chúng ta mới chấp nhận cuộc sống. Camus cho rằng chúng ta phải trung thực nhận thức tính chất vô nghĩa của cuộc đời và rồi sống yêu thương nhau.
2.1331. Không thể sống kiên định và hạnh phúc.
Vấn đề cơ bản đối với giải pháp này là con người không thể sống kiên định và hạnh phúc trong một thế giới quan như vậy. Nếu sống kiên định thì mất hạnh phúc, nếu sống hạnh phúc là nhờ ở chỗ không kiên định. Francis Shaeffer đã giải thích điều này khá rõ ràng. Theo Shaeffer thì con người là cư dân trong một vũ trụ hai tầng, tầng dưới là một thế giới hữu hạn không có Thượng Đế, cuộc sống ở đây vô nghĩa. Tầng trên là ý nghĩa, giá trị, mục đích. Thế thì con người hiện đại sống ở tầng dưới vì tin rằng có Thượng Đế nhưng lại không thể sống hạnh phúc trong một thế giới vô nghĩa như vậy, thế nên con người luôn tạo những bước nhảy bằng niềm tin lên tầng trên để khẳng định ý nghĩa giá trị và mục đích dẫu rằng con người không có quyền hạn đó vì không tin Thượng Đế. Con người hiện nay hoàn toàn mất kiên định khi thực hiện bước nhảy này bởi vì nếu có Thượng Đế thì không có những giá trị này và con người ở tầng dưới không có Thượng Đế.
2.1332. Mổ xẻ những cái bất định.
Chúng ta sẽ xem xét từng lãnh vực trong ba lãnh vực mà chúng ta thấy cuộc đời là vô nghĩa nếu không có Thượng Đế, để chứng tỏ con người hiện đại không thể sống kiên định và hạnh phúc với chủ nghĩa vô thần.
a. 2.13321. Ý nghĩa cuộc sống.
Trước tiên là lãnh vực ý nghĩa. Chúng ta đã nhìn thấy rằng nếu không có Thượng Đế cuộc đời không mang ý nghĩa. Chẳng hạn Jean-Paul Sartre lập luận rằng một người có thể tự tạo lấy cho mình ý nghĩa của cuộc sống bằng cách toàn quyền quyết định theo một phương hướng hành động nào đó. Bản thân Sartre đã chọn lựa chủ nghĩa Mác-xít. Điều này thật bất kiên định. Bất kiên định khi nói rằng cuộc đời là vô nghĩa rồi lại cho rằng có thể tạo ý nghĩa cho cuộc đời. Nếu cuộc đời là vô nghĩa thế thì con người bị kẹt ở tầng dưới. Nỗ lực tạo ý nghĩa cho cuộc đời tiêu biểu cho bước nhảy lên tầng trên. Thế nhưng Sartre lại không có cơ sở gì cho bước nhảy này. Không có Thượng Đế thì không thể có ý nghĩa cho cuộc đời. Chương trình của Sartre thật ra là việc làm tự đánh lừa bởi vì đâu phải tôi cho vũ trụ một ý nghĩa vì nó mang ý nghĩa. Cũng dễ nhận ra điều này, giả như tôi cho vũ trụ một ý nghĩa, và ban cho nó một ý nghĩa khác. Ai đúng đây? Câu trả lời dĩ nhiên là chẳng có ai đúng cả. Vì vũ trụ không có Thượng Đế vẫn cứ vô nghĩa cho dù chúng ta quan niệm nó ra làm sao. Chẳng khi nào Sartre nói: “Chúng ta hãy giả bộ như là vũ trụ có mang ý nghĩa” Và điều này là tự đánh lừa. Vấn đề là: Nếu không có Thượng Đế thì cuộc đời vô nghĩa, nhưng con người không thể sống kiên định và hạnh phúc được khi nhận biết cuộc đời là vô nghĩa, thế cho nên để được hạnh phúc con người cứ vờ là cuộc đời mang ý nghĩa. Dĩ nhiên điều này hoàn toàn bất kiên định vì không có Thượng Đế con người và vũ trụ không mang ý nghĩa.
b. 2.13322. Giá trị cuộc sống.
Chúng ta hãy quay sang vấn đề giá trị. Nó cho thấy những cái bất kiên định rõ ràng nhất. Trước tiên những nhà nhân văn vô thần hoàn toàn bất kiên định khi đẩy giá trị về tình yêu và tình huynh đệ. Camus đã bị phê phán chính xác vì bất kiên định khi đeo đuổi quan niệm về sự vô lý của cuộc đời và luân thường đạo lý của tình yêu và tình huynh đệ. Cả hai đều rõ ràng không tương hợp. Bertrand Russel cũng bất kiên định, mặc dầu là vô thần nhưng lại là một nhà phê phán xã hội thẳng thắn, lên án chiến tranh và những hạn chế về tự do luyến ái. Russel nhận rằng ông không thể sống làm như cái giá trị đạo đức chỉ là vấn đề sở thích cá nhân và ông cũng công nhận là ông nhận thấy quan niệm của mình “quá quắc”. Ông xác nhận “Tôi chẳng biết được giải pháp”. Vấn đề là nếu không có Thượng Đế thì cái đúng và sai tuyệt đối không thể nào tồn tại. Như Dostoyevski có nói: “Mọi sự đều được phép”.
Nhưng Dostoyevski cũng cho thấy con người không thể sống như thế này. Con người không thể sống như binh lính mà tàn sát trẻ em vô tội cũng là điều hoàn toàn đúng lẽ phải thôi. Con người không thể sống làm như coi đó là phải lẽ để cho các chế độ chuyên quyền độc tài theo đuổi một chương trình có hệ thống để tra tấn nhục hình tù chính trị. Con người không thể sống vì coi đó là lẽ phải khi các lãnh tụ như Idi Amia hay Pol Pốt tiêu diệt hàng triệu đồng bào mình. Mọi thứ trong con người kêu lên rằng những hành động như vậy là sai, là trái lẽ. Nhưng nếu không có Thượng Đế thì con người không làm được điều này. Thế nên con người thực hiện một bước nhảy bằng niềm tin và khẳng định các giá trị. Làm như vậy con người cho thấy tính chất không thỏa đáng của một thế giới không có Thượng Đế.
Sự ghê rợn của thế giới thiếu giá trị đến với tôi bằng một cường độ mạnh mẽ hơn khi mới đây tôi xem một phim tư liệu trên vô tuyến truyền hình đài BBC tựa đề “Cuộc hội ngộ”. Phim này nói về cuộc đoàn tụ tại Giê-ru-sa-lem của những người đã sống sót sau cuộc tàn sát khủng khiếp. Tại đây họ đã tìm lại được tình bạn đã bị đánh mất và chia xẻ những kinh nghiệm. Trước kia tôi có nghe kể về cuộc tàn sát và thậm chí có tham quan các trại Dachay và Buchenwald, và tôi tưởng nếu nghe thêm được những câu chuyện khủng khiếp này thì cũng chẳng thấy xúc động chi nữa. Nhưng không phải thế, có lẽ tôi đã nhạy cảm hơn vì tôi có một cháu gái mới sanh và khi nghe kể lại những câu chuyện này trên truyền hình đó lại liên tưởng đến con gái tôi. Thế này, một nữ tù nhân vốn là y tá đã thuật lại về việc bà được cắt đặt làm bác sĩ phụ khoa tại trại Auchwitz. Bà để ý thấy rằng các phụ nữ mang thai được phân chia thành từng nhóm theo lệnh của bác sĩ Mengele và ở trong cùng một nhà trại. Một thời gian sau, bà để ý thấy rằng những người phụ nữa này không còn thấy ở đâu nữa. Bà liền đi dọ hỏi: “Ủa chứ mấy phụ nữ mang thai ở trong nhà trại kia đâu mất cả rồi?” “Bà chẳng nghe gì sao? Họ đã bị bác sĩ Mengele làm vật để giải phẫu sống”.
Một phụ nữ khác kể lại rằng bác sĩ Mengele đã thắt vú của bà lại để bà không còn khả năng cho con mình bú. Tên bác sĩ này muốn tìm hiểu xem nếu không được dinh dưỡng thì đứa trẻ sơ sinh sống được bao lâu. Trong cảnh tuyệt vọng, phụ nữ này đã tìm cách nuôi đứa bé bằng những mẫu bánh mì nhúng trong cà phê nhưng không mang lại kết quả. Đứa bé mỗi ngày đều sụt cân, một thực tế mà tên bác sĩ Mengele rất muốn theo dõi. Thế rồi một cô y tá lén lút đến bên người phụ nữ này và bảo: “Tôi đã sắp đặt cho chị trốn thoát khỏi đây nhưng chị không thể đem con mình theo. Tôi có đem đến cho chị một mũi tiêm Morphin để chị tự kết liễu cuộc đời của con chị”. Người phụ nữ tỏ ra phản kháng quyết định này nhưng cô y tá vẫn không thay đổi ý kiến. “Chị nghe đây, đàng nào con chị cũng chết. Vậy thì ít ra cũng cố cứu lấy chị đi”. Người phụ nữ này đã chính tay giết con mình. Tên bác sĩ Đức nổi cơn thạnh nộ khi biết được chuyện này vì tên này đã bị mất vật mẫu đang làm thí nghiệm và tên bác sĩ này đã lục lọi trong đống xác chết để tìm xác đứa bé hầu ghi lại số cân nặng lần cuối.
Khi nghe những câu chuyện này lòng tôi tan nát. Một vị giáo sĩ Do-thái giáo còn sống sót đã phát biểu về trại tập trung tại Auschwitz rằng tại đây giống như một thế gíi mà tất cả mười điều răn đều bị đảo ngược. Loài người hẳn chưa bao giờ nhìn thấy một địa ngục như thế.
Thế đấy, nếu không có Thượng Đế thì nói theo một nghĩa, thế giới của chúng ta là một trại Auschwitz, không có cái gì gọi là đúng hoặc sai tuyệt đối cả, mọi việc đều có phép làm, nhưng chẳng có người vô thần nào, người theo phái không thể biết nào lại có thể sống kiên định bằng quan niệm như vậy được. Bản thân Metzsche, người vốn cho rằng nhu cầu sống là nằm ngoài cái thiện và cái ác, đã cắt đứt quan hệ với nhà soạn nhạc. Richard Wagner về vấn đề bài Do-thái và chủ nghĩa Đức quốc xã. Sartre cũng thế, sau thế chiến thứ hai ông đã lên án chủ nghĩa bài Do-thái, cho rằng một chủ nghĩa dẫn đến việc tiêu diệt không chỉ là một ý kiến hay một sở thích cá nhân”. Trong tiểu luận quan trọng nhan đề: “Chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân văn”. Sartre đã nỗ lực vô ích để lãng tránh giá trị có sẵn mang tính chất thần hựu và ước vọng của ông để khẳng định giá trị của con người. Giống như Russel ông không thể sống bằng chân giá trị tuyệt đối việc chối bỏ những chân giá trị tuyệt đối của đạo đức.
Vấn đề thứ hai là nếu không có Thượng Đế và không có sự bất diệt thì mọi hành động tàn ác của con người sẽ qua đi mà không hề có sự trừng phạt và tất cả sự hy sinh của những con người cao cả đều qua đi không được ân thưởng gì cả? Nhưng ai có thể sống bằng quan niệm như vậy? Richard Wurmbrand, người vì niềm tin của mình đã bị nhục hình trong ngục tù cộng sản đã phát biểu:
Sự tàn ác của chủ nghĩa vô thần thật là khó có thể tin được khi con người không còn niềm tin về việc ban thưởng cho điều kiện và trừng phạt đối với điều ác. Không có gì để làm con người cả. Không có giới hạn về chiều sâu của điều ác ở trong con người, những người tra tấn cộng sản thường nói “Không có Thượng Đế, không có đời sau, không có trừng phạt đối với điều ác. Chúng ta muốn làm gì thì làm”. Tôi còn nghe một tay tra tấn nói “Ta mang ơn Thượng Đế, mà ta tin là không có, vì ta được sống đến giờ phút này là giờ phút mà ta có thể biểu lộ tất cả điều ác trong lòng của ta”. Và trên này đã biểu lộ điều này qua tính cách cực kỳ hung ác và tra tấn các phạm nhân.
Hồng y Newman, nhà thần học người Anh nói rằng giá như ông tin rằng mọi điều ác và bất công trên đời này xuyên suốt cả lịch sử nếu không được trình ra trước mặt Thượng Đế ở đời sau thì thà rằng tôi làm người điên. Đúng vậy.
Những hành động hy sinh cũng thế thôi. Mấy năm trước, vào giữa mùa đông có một tai nạn hàng không, một phi cơ vừa rời phi trường Washington D.C. đã đâm vào chiếc cầu bắt ngang sông Potomac và bổ nhào xuống dòng nước lạnh đang đóng băng. Khi các phi cơ trực thăng cấp cứu đến nơi, người ta chú ý đến một người đàn ông đã đẩy thang dây cấp cứu sang người hành khách khác thay vì đón lấy thang dây cho mình. Và liên tục sáu lần như thế. Khi các phi cơ cấp cứu trở lại thì họ không còn nhìn thấy người này nữa. Ông ta đã hy sinh mạng sống của mình để những người khác được sống. Cả nước tập trung chú ý đến con người này với lòng kính phục vì hành động quả cảm, vị tha. Nếu người vô thần là đúng thì người đàn ông này không có gì là cao thượng cả, ông ta đã hành động hết sức dại dột.
Lẽ ra ông ta phải dành lấy thang dây trước tiên và nếu cần thì đẩy những người khác ra xa để mình được sống. Thế nhưng chết thay cho người mà mình chẳng quen biết, kết thúc cuộc đời ngắn ngủi của mình để làm gì? Đối với người vô thần thì chẳng có lý do gì cả. Ấy thế, người vô thần, giống như chúng ta, với bản năng đã phản ứng bằng sự ca ngợi hành động vì người khác của người đàn ông này. Thật thế chúng ta rất có thể là chẳng bao giờ tìm thấy một người vô thần sống kiên định với hệ thống của chính mình. Vì một vũ trụ mà không phải trả lời về mặt đạo đức và thiếu hẳn giá trị thật là khủng khiếp không thể tượng tượng.
c. 2.13323. Mục đích của cuộc đời.
Sau cùng chúng ta hãy xem xét vấn đề mục đích của cuộc đời. Phương cách duy nhất mà hầu hết những ai đã chối bỏ mục đích cuộc đời để sống hạnh phúc thì một là tạo nên một mục đích nào đó, kết quả là tự lừa dối mình như chúng ta nhìn thấy trong thân phận của Sartre, hai là không đưa quan niệm của mình đến những kết luận hợp lý. Lấy ví dụ vấn đề sự chết, theo Ernst Bloch, phương cách duy nhất mà con người hiện đại đương đầu với sự chết là bằng cách trong tiềm thức vay mượn niềm tin về sự bất diệt theo quan niệm của tổ tiên mình dẫu rằng mình chẳng có cơ sở gì cho niềm tin này hết, vì rằng không tin Thượng Đế. Bloch nói quan niệm cho rằng chết là hết khó mà khiến ta ngẩng đầu lên và làm việc y như thể không có kết cuộc. Và theo Bloch qua vay mượn những dấu vết của niềm tin nơi sự bất diệt con người hiện đại không cảm nhận được vực thẳm bao quanh anh ta. Qua những dấu vết còn lại này, con người giữ lại được nét đặc trưng của chính mình. Qua những dấu vết này đã nảy lên cảm giác rằng con người không phải đang bị hủy hoại nhưng một ngày kia con người không còn nhìn thấy thế giới nữa. Bloch kết luận: “Tính dũng cảm nông cạn này giống như sống nhờ vào một thẻ tín dụng vay mượn. Sở dĩ tồn tại được là nhờ vào niềm hy vọng và khả năng bảo đảm có từ trước”. Con người hiện đại mất quyền thừa hưởng khả năng bảo đảm này vì đã khước từ Thượng Đế. Nhưng để cho cuộc sống có nghĩa và mục đích, con người đã thực hiện một bước nhảy bằng niềm tin để khẳng định một duyên cớ cho cuộc sống.
Chúng ta cũng thường gặp tính bất kiên định như thế ở trong những con người cho rằng con người và vũ trụ ngẫu nhiên mà có, chẳng có mục đích duyên cớ gì cả. Không thể nào sống trong một thế giới phi nhân mà mọi thứ trong thế giới này, vũ trụ này là sản phẩm của sự ngẫu nhiên mù tối, những người này bắt đầu quy cá tính và động cơ thúc đẩy cho quá trình vật chất. Đây là một lối nói nghe lạ lùng và nó nói lên một bước nhảy từ tầng dưới lên tầng trên. Chẳng hạn Zeldovivh và Novikov, hai nhà vật lý tên tuổi người Nga, khi quan sát tính chất của vũ trụ đã đặt câu hỏi tại sao 'Thiên nhiên' lại tạo dựng nên vũ trụ như thế này mà không như thế khác. Ngôn ngữ này thật khó mà tin được đối với các nhà khoa học Mác-xít vốn được coi là vô thần 'Thiên nhiên' hiển nhiên trở thành một cái gì thay thế Thượng Đế, thực hiện vai trò và chức năng của Thượng Đế. Francis Crick, hơn nửa tác phẩm nhan đề “Nguồn gốc của một di truyền” đã viết hoa chữ Thiên nhiên và ở những chỗ khác ông nói đến sự đào thải thiên nhiên là khéo léo và biết suy nghĩ. Fred Hoyle, nhà thiên văn học người Anh coi vũ trụ là phẩm chất của Thượng Đế. Đối với Carl Sagan, chữ Cosmos (vũ trụ) luôn được viết hoa và cho thấy vũ trụ đóng vai trò của một Đấng thay thế Thượng Đế. Dầu rằng tất cả những con người này xưng nhận là mình không tin Thượng Đế nhưng họ đã lén lút đưa vào cái thay thế Thượng Đế bởi vì họ không thể nào sống trong một vũ trụ mà mọi thứ điều là kết quả ngẫu nhiên của các lực phi thân vị.
Thật là lý thú khi nhìn thấy nhiều nhà tư tưởng đi ngược lại quan niệm của mình khi họ bị thúc ép phải đi đến kết luận hợp lý. Chẳng hạn những người đề xướng quyền phụ nữ phản kháng dữ dội chống lại tâm lý này mang tính chất sô-vanh và hạ nhục phụ nữ. Một số nhà tâm lý học đang bó tay và xét lại các lý thuyết của mình. Tất cả những điều này điều hoàn toàn mang tính chất bất kiên định. Nếu tâm lý học của Freud thật sự là đúng thì nó có làm giảm trị phụ nữ hay không cũng chẳng quan hệ gì. Bạn không thể nào thay đổi chân lý chỉ vì bạn không thích mục tiêu của nó. Nhưng con người không thể sống kiên định và hạnh phúc trong một thế giới mà những người khác bị làm giảm giá trị. Thế đấy, nếu không có Thượng Đế thì chẳng ai mang giá trị nào cả. Chỉ khi nào có Thượng Đế thì con người mới kiên định bênh vực cho quyền phụ nữ. Vì nếu không có Thượng Đế thì sự lựa chọn thiên nhiên bảo rằng giống đực phải là giống trội và mạnh bạo. Phụ nữ chẳng có quyền gì cả không khác gì một con gà mái hay con dê cái. Thiên nhiên thế nào đều đúng cả. Ai có thể sống bằng quan niệm như vậy?
Hay thuyết quyết định sinh học của Francis Crick. Kết luận theo logic là con người giống như bất kỳ mẫu thí nghiệm nào. Thế giới lấy làm kinh tởm khi biết được các trại tập trung như Dachau của Đức Quốc Xã đã dùng tù nhân làm sinh vật sống để thí nghiệm về y khoa nhưng có gì là sai? Nếu không có Thượng Đế thì chẳng có ai phản đối việc dùng con người làm những vật thí nghiệm như những con chuột của phòng thí nghiệm. Một đài tưởng niệm tại Dachau có viết hàng chữ Nie Wieder - “không bao giờ tái diễn” - thế nhưng sự việc này vẫn đang tiếp diễn. Gần đây có tin tiết lộ rằng tại Hoa-kỳ một vài người đã bị tiêm một loại thuốc làm mất khả năng sinh đẻ để nghiên cứu mà chính những người này không biết, chúng ta không được quyền phản đối điều này là sai lầm hay sao - tức là con người phải hơn một cổ máy điện hóa? Cứu cánh của quan niệm này là hạn chế dân số mà trong quá trình này người ốm yếu và thừa đều bị tiêu diệt để dành chỗ cho người khỏe mạnh. Nhưng đường lối duy nhất để chúng ta chống lại quan niệm này là nếu như có Thượng Đế chỉ khi nào Thượng Đế hiện hữu thì cuộc đời mới có mục đích.
Bạn có nhìn thấy lý do tại sao nếu như Thượng Đế chết thì con người cũng chết? Con người không thể sống kiên định khi xem cuộc đời là vô nghĩa, không có giá trị và không có mục đích. Thế giới quan vô thần không hội đủ điều kiện để duy trì một cuộc sống hạnh phúc và kiên định.
2.134. Sự thành đạt của Cơ Đốc giáo theo Thánh Kinh.
Nếu như chủ nghĩa vô thần thất bại trong lãnh vực này, thì Cơ Đốc giáo theo Thánh Kinh như thế nào đây? Theo thế giới quan Cơ Đốc thì có Thượng Đế và cuộc đời con người không phải chấm dứt ở nấm mồ. Trong thân xác của sự sống lại con người được hưởng sự sống với Thượng Đế. Vì thế Cơ Đốc giáo theo Thánh Kinh đưa ra hai điều kiện cần thiết cho con người để có được một cuộc sống có ý nghĩa, giá trị và mục đích: đó là Thượng Đế và sự bất diệt. Nhờ điều này con người có thể sống kiên định và hạnh phúc. Do vậy, Cơ Đốc giáo theo Thánh Kinh đạt được vào chỗ mà chủ nghĩa vô thần tan vỡ. Chủ nghĩa vô thần không thể đưa ra một thế giới quan cho phép con người sống kiên định và hạnh phúc và hạnh phúc được.
2.135. Kết luận
Đến đây tôi muốn nói rõ rằng tôi chưa chứng tỏ Cơ Đốc giáo theo Thánh Kinh là đúng. Nhưng tôi đã trình bày sự lựa chọn một trong hai. Nếu không có Thượng Đế thì cuộc đời là hư không. Nếu có Thượng Đế như trong Thánh Kinh thì cuộc đời mang đầy ý nghĩa. Chỉ có sự lựa chọn thứ hai cho phép con người sống kiên định và hạnh phúc. Thế nên theo như tôi thấy thì cho dù bằng chứng dành cho hai sự lựa chọn này hoàn toàn ngang bằng như nhau đi nữa thì con người có lý trí chọn Cơ Đốc giáo theo Thánh Kinh. Theo tôi thì hoàn toàn vô lý khi chọn lựa sự chết, hư không, và sự hủy diệt đối với cuộc sống, ý nghĩa và hạnh phúc. Như Pascal có nói, chúng ta chẳng mất gì, lại được cái vô hạn.
2.14. Áp dụng thực tế.
Phần trình bày vừa rồi cho thấy rõ vai trò của biện giáo văn hóa theo như tôi nhìn thấy: đây không phải toàn bộ biện giáo nhưng đúng hơn là phần làm quen với luận chứng tích cực. Điều này có tác đụng trình bày một cách sâu sắc những sự lựa chọn đối với người chưa tin với mục đích tạo ra một nhu cầu cảm nhận được trong người ấy. Khi người này nhận chân được bi kịch của mình thì sẽ thấy lý do tại sao Phúc âm đối với anh ta lại có tầm quan trọng như vậy và nhiều người ngoại đạo được thôi thúc bởi những lý lẽ này sẽ trao cuộc đời mình cho Đấng Christ.
Khi chia xẻ tài liệu này với người chưa tin, chúng ta cần phải thôi thúc anh ta đi đến những kết luận hợp logic đối với địa vị của mình. Nếu tôi đúng thì không một người vô thần nào hay người theo quan niệm bất khả tri có thể sống kiên định bằng quan niệm của mình. Bằng cách nào đó, họ khẳng định ý nghĩa, giá trị hoặc mục đích không dựa trên một cơ sở hoàn chỉnh nào. Công việc của chúng ta là khám phá những lãnh vực này và dịu dàng trình bày cho họ thấy những chỗ nào họ tin là thiếu cơ sở, chúng ta không cần thiết phải công kích những giá trị của họ, vì những giá trị này phần lớn rất có thể là đúng, nhưng chúng ta có thể đồng ý với anh ta đối với những giá trị này và rồi chỉ ra cho anh ta thấy rằng anh ấy thiếu nền tảng cho các giá trị đó, còn người Cơ Đốc lại có một nền tảng như vậy. Do vậy chúng ta không cần phải đưa anh ta vào thế phòng thủ khi tấn công trực diện đối với các giá trị của bản thân anh ta, thay vì thế chúng ta đưa ra một nền tảng cho các giá trị anh ta đã có.
Khi xử lý với người chưa tin, điều quan trọng là phải tự hỏi xem phần nào trong lý lẽ của mình sẽ bị phản bác. Do đó nếu đối tượng của mình nói rằng giá trị chỉ là quy ước xã hội được áp dụng một cách giáo điều để bảo đảm sự sinh tồn. Điều này có dụng ý phản bác cái gì? Không phải cuộc sống không có giá trị, vì điều này phản bác được. Vì thế, thật là sai lầm khi phản ứng lại bằng cách lý luận rằng giá trị không phải là quy ước xã hội, nhưng được đặt nền tảng vào Thượng Đế. Đúng hơn, sự phản bác là nhằm vào luận điệu cho rằng người ta không thể nào sống làm như không có sự tồn tại của giá trị. Sự phản bác này cho rằng con người có thể sống chỉ bằng những quy ước xã hội. Tuy nhiên, xem xét dưới ánh sáng này thì sự phản bác này hoàn toàn không có vẽ hợp lý vì chúng ta đã lập luận rằng con người không thể nào sống làm như sự bất diệt chỉ là vấn đề quy ước xã hội. Có người tin rằng một số hành động nào thì rõ là đúng còn một số thì rõ là sai, vì vậy chúng ta nên đáp ứng lại với người về vấn đề này bằng cách nói: 'Bạn nói đúng: nếu không có Thượng Đế thì giá trị chỉ là quy ước xã hội nhưng điểm mà tôi muốn nói là không thể nào sống kiên định và hạnh phúc bằng một thế giới quan như vậy'. Trình bày cho anh ta nhìn thấy những cuộc tàn sát hoặc một vấn đề đang gây quan tâm như chạy đua vũ trang hay hành hạ trẻ thơ. Làm cho anh ta nhận thấy rõ điều này và nếu anh ta thành thật còn bạn thì không dọa dẫm thì chắc anh ta sẽ nhận rằng anh ta quả thật có quan niệm về một số cái tuyệt đối. Do đó rất là quan trọng để phân tích chính xác những phản bác của đối tượng trước khi giải đáp.
Tôi tin phương thức biện giáo như thế này rất có hiệu quả góp phần đem nhiều người về với Đấng Christ vì phương thức này không quan tâm đến các vấn đề chung chung nhưng đi thẳng vào cốt lõi của tình trạng hiện hữu của người chưa tin. Tôi nhớ có lần khi tôi có những bài nói chuyện tại Đại học tổng hợp Birmingham ở Anh quốc thì đêm đầu tiên khán thính giả rất hung hăng và thù địch. Đêm thứ hai tôi nói chuyện về sự vô lý của cuộc đời nếu không có Thượng Đế. Lần này cũng chính đám khán thính giả đó hoàn toàn bị khuất phục: sư tử trở thành hiền lành như chiên con, và thế là các câu hỏi, các thắc mắc của họ không còn mang tính chất công kích nữa mà chân thành và mang tính chất tìm tòi Sự thay đổi kỳ lạ này là do thực tế thông điệp đã xuyên thủng bề mặt tri thức của họ và chạm ngay vào cốt lõi hiện hữu của họ. Tôi khuyến khích bạn nên xử dụng tài liệu này trong các cuộc họp mặt truyền bá Phúc âm ở các trường đại học, ở đó có thể buộc người ta phải suy nghĩ đến bi kịch nhân loại mà mọi người đều cùng chung số phận.
LUẬN VỀ THƯỢNG ĐẾ
3.1. SỰ HIỆN HỮU CỦA THƯỢNG ĐẾ
Chúng ta thấy rằng nếu Thượng Đế hiện hữu thì mới có thể có hy vọng cho một giải pháp đối với bi kịch con người. Thế cho nên vấn đề nêu ra về sự hiện hữu của Thượng Đế có tầm quan yếu đối với con người hiện đại. Về điểm này có rất nhiều người ngày hôm nay rất có thể đồng ý rằng vấn đề này quả có ý nghĩa to lớn về tính chất hiện hữu nhưng đồng thời họ cũng phủ nhận rằng đâu là vấn đề mà lập luận hữu lý không được xem là xác đáng. Nhiều người cho rằng không thể nào chứng minh sự hiện hữu của Thượng Đế và vì thế họ nói rằng nếu có ai muốn tin Thượng Đế thì người ấy phải lấy niềm tin để cho rằng Thượng Đê hiện hữu. Tôi có nghe nhiều sinh viên nói lên điều này và lấy đó làm một cớ để không chịu tin Thượng Đế “chẳng ai chứng minh được rằng Thượng Đế hiện hữu và cũng chẳng ai chứng minh ngược lại được là Ngài không hiện hữu”, họ mĩm cười và nói rằng “Vì tôi không tin Thượng Đế”. Tôi cũng đã lập luận rằng một thái độ bình thản như vậy không biết thấu đáo được chiều sâu của tấn bi kịch tồn tại của con người hiện đại trong một vũ trụ không có Thượng Đế. Con người có lý trí phải tin Thượng Đế cho dù bằng chứng đưa ra đều có giá trị như nhau, hơn là có thái độ ngược lại.
Nhưng có thật là chẳng có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy có một Đấng Tối Cao hiện hữu? Đây không phải là ý kiến của các trước giả Thánh Kinh. Tác giả Thi thiên có nói “Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Thượng Đế, bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm” (Thi Tv 19:1), sứ đồ Phao-lô viết “Bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bản tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài cho nên họ (con người) không thể chữa mình được” (RoRm 1:20). Cũng không thể nói rằng bằng chứng này rất mơ hồ không thể nào chấp nhận lời giải thích đối lại cũng mang tính chất hợp lý như nhau vì lúc ấy con người sẽ không phải là 'không chữa được'. Thế nên con người không bào chữa được cho lý do mình không tin vào sự hiện hữu của Thượng Đế không những vì có sự chứng nhận bên trong của Đức Thánh Linh nhưng cũng vì có bằng chứng bên ngoài của thiên nhiên. Tôi cho rằng có những lý do chính đáng để tin rằng Thượng Đế hiện hữu. Theo đó trong lãnh vực này chúng ta sẽ xem xét một số lập luận nó đến sự hiện hữu của Thượng Đế.
Vấn đề này có tầm mức rất là quan trọng ở vào thời đại này của lịch sử. Chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa bất khả tri đang phổ biến tại châu Âu và rất có ảnh hưởng tại Hoa-kỳ nữa nhất là trong các trường đại học. Hầu hết các nhà triết học chắc chắn trung thành với một trong những thế giới quan này. Chủ nghĩa nhân bản càng lúc càng mạnh mẽ tại Hoa-kỳ với lòng cuồng nhiệt gần như là truyền bá Phúc âm. Tôi không có ý nhắc tới các nhà vô thần ít học như Madeleine Murray Ó Hare nhưng muốn nói đến các nhà nhân bản trí thức là những người chống lại chủ nghĩa hữu thần và Cơ Đốc giáo bằng lý lẽ. Không những họ xuất bản một số sách báo mang truyền thống tự do tư tưởng như tờ 'nhân bản' (The Humanist) hay 'Người hoài nghi đặt vấn đề' (The Stoptical Inquirer) nhưng họ cũng lập nên một nhà xuất bản mệnh danh là nhà xuất bản Prometheus nhằm phân phát những tài liệu chống hữu thần. Khi đọc qua các sách của nhà xuất bản Promatheus được trưng bày ở các hội nghị triết học, tôi nhận thấy một chiến lược rất tinh vi: họ xuất bản sách chống hữu thần nhằm phá đổ niềm tin nơi Thượng Đế, những sách đạo đức về tình dục và tình yêu nhằm hạ giá đạo đức và những bán tâm lý học nhằm đưa ra một thứ thay thế tôn giáo mang tính thần bí. Tôi lấy làm buồn khi nhìn thấy rằng thậm chí họ còn cho xuất bản sách tập đọc cho trẻ em nhằm triệt tiêu và phân lập đứa trẻ với niềm tin vào Thượng Đế. Tôi lấy làm đau lòng khi nhìn thấy một phụ nữ đã mua một cuốn sách như vậy đem về nhà cho con cái của mình. Phương pháp của họ mang tính chất lập luận dựa trên lý lẽ. Là tín đồ Cơ Đốc chúng ta không thể thờ ơ, đứng nhìn trong khi lại hô hào người khác hãy tin Thượng Đế mà không chịu đương đầu với vấn đề này trên bình diện lý luận.
Lập luận dựa vào lý lẽ dĩ nhiên không cứu được ai nhưng theo như J.G.Machen nhận xét, điều này tạo ra một khung cảnh văn hóa tri thức qua đó Phúc âm không bị gạt bỏ ra ngoài vì bị coi là phi lý và do đó tạo cơ hội thật sự cho người khác nghe. Có những dấu hiệu cho thấy hướng chúng ta phải uốn nắn lại môi trường tri thức của chúng ta. Cách đây không lâu tờ 'Thời báo' (Time) đăng một bài báo khá dài về mối quan tâm được khơi dậy giữa các nhà triết học trong những lập luận truyền thống nó đến sự hiện hữu của Thượng Đế. Đây là một dấu hiệu đầy khích lệ cho thấy vấn đề Thượng Đế hiện hữu sẽ không bị làm ngơ đối với người vô thần.
3.11. Tài liệu trích dẫn hay đề nghị.
3.111. Bối cảnh lịch sử (trang 58)
3.112. Đánh giá (trang 59)
3.12. Bối cảnh lịch sử.
Kể từ thời Plato, con người đã nỗ lực đưa ra một cơ sở lý luận cho niềm tin nơi Thượng Đế. Trong phần này chúng ta sẽ lướt qua một số luận cứ hữu thần của một số nhà tư tưởng.
3.121. Luận cứ bản thể học.
Luận cứ bản thể học nhằm chứng minh dựa vào nhận thức về Thượng Đế rằng Thượng Đế hiện hữu: Nếu Thượng Đế có thể nhận thức được thì Ngài phải hiện hữu. Luận cứ này do Anselm đưa thành hệ thống và được Scotus, Descartes, Spinoza, Leibniz bênh vực, thời cận đại thì có Norman Malcolm, Charles Hartshone và Alvin Platings cùng một số người khác. Chúng ta sẽ xem xét luận cứ của Anselm.
3.1211. Anselm, người vùng Canterbury.
Anselm (133-1109) muốn tìm ra một luận cứ duy nhất để chứng minh không những Thượng Đế hiện hữu mà còn chứng minh Ngài có tất cả các thuộc tính tuyệt đối mà giáo lý Cơ Đốc giáo nói về Ngài. Khi gần như phải bỏ cuộc thì ông tình cờ tìm ra lý luận sau đây: Thượng Đế là hữu thể vĩ đại nhất có thể nhận thức ra được. Điều này hẳn là đúng theo định nghĩa bởi vì nếu chúng ta nhận thức được một cái gì đó lớn hơn, vĩ đại hơn Thượng Đế thì cái đó là Thượng Đế. Do đó không thể nhận thức được thực tại có giá trị hơn là hiện hữu trong tâm trí. Anselm đưa ra ví dụ về bức tranh. Cái nào có giá trị hơn? Nhận thức ra bức tranh của họa sĩ hay chính bản thân bức tranh khi nó hiện hữu thực sự. Hiển nhiên là cái thứ hai, vì chính bức tranh không những hiện hữu trong trí óc nhà họa sĩ mà còn hiện hữu trong thực tế nữa. Tương tự, giả như Thượng Đế chỉ hiện hữu trong trí óc mà thôi thì phải có cái gì lớn hơn Ngài có thể được chúng ta nhận thức ra, nghĩa là sự hiện hữu của Ngài không những trong trí óc mà còn trong thực tại nữa. Nhưng Thượng Đế là hữu thể lớn nhất có thể nhận thức ra được. Do vây Ngài không thể nào hiện hữu trong trí óc mà thôi nhưng trong thực tại nữa. Do đó Ngài hiện hữu.
Theo Anselm, có thể nói cách khác như sau: một hữu thể mà sự không tồn tại không thể nào nhận thức được thì có giá trị hơn một hữu thể mà sự không tồn tại lại có thể nhận thức được. Nhưng Thượng Đế là hữu thể lớn nhất có thể nhận thức được nên sự không tồn tại hay sự không hiện hữu của Ngài tất không thể nhận thức được. Không có mâu thuẫn trong khái niệm này, cho nên Thượng Đế phải hiện hữu. Luận cứ đơn giản dễ làm cho lầm lẫn này hiện nay vẫn còn trong vòng tranh cãi.
3.122. Luận cứ theo quan điểm vũ trụ.
Trái với luận cứ bản thể học, luận cứ vũ trụ học giả định rằng một cái gì đó hiện hữu và lý luận từ sự hiện hữu của cái đó lẫn đến sự hiện hữu của nguyên nhân đầu tiên hay nguyên nhân có thẩm quyền của vũ trụ. Luận cứ này có gốc rễ từ Plato và Aristolle và được các nhà tư tưởng Cơ Đốc giáo, Do-thái giáo và Hồi giáo thời Trung cổ làm cho hoàn chỉnh. Luận cứ này được các nhà tư tưởng lớn bênh vực như Plato, Aristolle, abn Sina, al-Ghàzàlì, ibn Rushd, Maimonides, Anselm, Aquinas, Scotus, Descartes, Spinoza, Berkeley, Locke và Leibniz. Luận cứ vũ trụ học đúng ra là một họ gồm nhiều chứng cứ khác nhau có thể tiện sắp xếp thành ba nhóm chính.
3.1221. Al-Ghàzàlì:
Luận cứ vũ trụ học Kalàm phát xuất từ những nỗ lực của các nhà tư tưởng Cơ Đốc giáo nhằm bác bỏ học thuyết của Plato nói đến vĩnh cửu của vũ trụ và được các nhà thần học Hồi giáo thời Trung cổ phát triển thành luận cứ trình bày sự hiện hữu của Thượng Đế. Chúng ta cùng nhau xem xét sự hình thành luận chứng này do al-Ghàzàlì (1058-1111). Ông ta lý luận: 'Mỗi một hữu thể ra đời đều có một nguyên nhân đưa đến sự ra đời đó, thế thì thế giới là một hữu thể được ra đời, vậy nó phải có một nguyên nhân đưa đến sự ra đời ấy'. Để lập luận cho tiền đề thứ nhất, mỗi hữu thể ra đời đều có nguyên nhân dẫn đến sự ra đời ấy, Ghàzàlì lý luận: bất cứ cái gì bắt đầu hiện hữu thì bắt đầu vào một thời điểm nào đó nhưng vì rằng trước khi có điểm đều như nhau, vị tất phải có một nguyên nhân nào đó quyết định cho hữu thể đó hiện hữu vào thời điểm nhất định đó, chứ không sớm hơn hay muộn hơn. Do đó bất cứ cái gì hiện hữu phải có nguyên nhân.
Tiền đề thứ hai, thế giới hay vũ trụ đã bắt đầu hiện hữu. Lập luận cho tiền đề này Ghàzàlì lý luận rằng không thể nào có một thực tế là có sự đi ngược thời gian vô hạn định của các biến cố, nghĩa là các biến cố trong quá khứ là một chuỗi không có khởi đầu. Ông đưa ra một số lý do cho lời kết luận này Một là, chuỗi liên tục các biến cố ở quá khứ lại chấm dứt ở hiện tại - nhưng cái vô hạn không có tận cùng. Có thể nêu ra rằng mặc dầu chuỗi biến cố có một đầu tận cùng ở hiện tại thì ở đầu kia vẫn có thể là vô tận vì nó không có khởi đầu. Nhưng quan niệm của Ghàzàlì có thể là nếu chuỗi này ngược về quá khứ là vô tận thế thì làm sao có được hiện tại? Vì không thể nào vượt qua cái vô tận để đến được ngày hôm nay. Nên ngày hôm nay không thể nào đến được, ấy lại là phi lý vì chúng ta đang hiện diện đây! Hai là nếu một số biến có quá khứ là vô tận, thì điều đó sẽ đưa đến những cái vô hạn có tầm cỡ khác nhau. Vì giả định rằng sao Mộc đi vòng quĩ đạo là mười hai năm, sao Thổ có quĩ đạo là ba mươi năm và đường đi của các định tinh là ba mươi sáu ngàn năm, nếu vũ trụ là vĩnh cửu thì mỗi một thiên thể này đã đi quanh quĩ đạo một số lần vô hạn ấy thế lại có thiên thể đã đi được gấp đôi so với thiên thể khác vốn đã đi được hàng ngàn lần quanh quĩ đạo, điều này lại phi lý. Cuối cùng nếu chúng ta lấy số lần đi quanh quĩ đạo của một trong những thiên thể này, chúng ta có thể hỏi số lần đã đi quanh quĩ đạo là số chẵn hay lẽ. Tất nhiên phải là một trong hai, ấy thế thật là phi lý khi nói cái vô hạn là chẵn hay lẽ. Vì những lý do trên mà vũ trụ hẳn phải có khởi đầu.
Cho nên vũ trụ phải có nguyên nhân cho sự khởi đầu mà Ghàzàlì gọi đó là Thượng Đế, Đấng Vĩnh Cửu.
3.1222. Thomas Aquinas:
Luận cứ vũ trụ học của Aquinas dựa vào tính chất bất khả hữu nói đến việc lùi về quá khứ vô hạn của những nguyên nhân tác động đồng thời. Luận cứ này nhằm tìm đến Nguyên nhân Đầu tiên, không phải theo nghĩa thời gian nhưng theo nghĩa thứ bậc hay nguồn phát xuất. Mặc dầu Thomas Aquinas (1225-74) không khởi đầu đường lối lý luận này nhưng ông được biết đến nhiều qua phần đúc kết luận cứ này bằng năm cách của ông chứng minh rằng Thượng Đế hiện hữu. Chúng ta sẽ xem xét ba cách đầu tiên, vốn là những cách giải thích khác nhau cho luận cứ Nguyên nhân Đầu tiên.
Cách thứ nhất là chứng cứ Tác nhân Cố định hay Tác nhân không bị tác động dựa trên sự chuyển động. Trên thế gian này chúng ta thấy mọi sự vật đều chuyển động. Nhưng bất cứ cái gì chuyển động đều được một cái khác tác động vào. Vì một sự vật có tiềm năng chuyển động không thể biến tiềm năng của chính mình thành hiện thực, phải có một cái gì khác hơn khiến sự vật đó chuyển động. Nhưng chính cái gì khác hơn này cũng được một cái gì khác tác động vào và cứ tiếp tục như thế. Thế thì một dãy liên tục các sự vật được các sự vật khác không thể kéo dài mãi cho đến vô cùng. Vì trong một dãy như vậy thì các nguyên nhân trung gian tự bản thân không có một lực nào hết nhưng chỉ là những công cụ của một nguyên nhân ban đầu. Cần phải nhớ là Aquinas ở đây đang nói đến các nguyên nhân đều tác động đồng thời với nhau giống như các bánh xe răng cưa trong một cổ máy chứ không phải kế tiếp nhau các con cờ đô mi nô được xếp cho ngã. Cho nên nếu lấy đi nguyên nhân ban đầu thì bạn chỉ còn lại những nguyên nhân công cụ bất lực. Giả như bạn có một chuỗi vô cùng những nguyên nhân như thế thì cũng không quan trọng. Những nguyên nhân này vẫn không thể tạo nên cái gì. Thực tế Aquinas lập luận rằng một chiếc đồng hồ nếu không có giây cót thì không chạy được cho dù nó có vô cùng tận bánh xe hay một đoàn tàu hỏa nếu không có đầu máy thì cũng không chạy được cho dù nó có vô số toa xe. Phải có một nguyên nhân đầu tiên tạo ra chuyển động trong bất kỳ một dãy nguyên nhân nào. Đối với tất cả sự vật tự chuyển động - kể cả con người, thú vật và thảo mộc. Đây có thể là linh hồn riêng biệt. Nhưng chính linh hồn được ra đời rồi lại mất đi, do đó không thể là lý do giải thích sự chuyển động trường cửu của các thiên thể. Để giải thích cho sự chuyển động vũ trụ này chúng ta phải đặt ra một Tác nhân tuyệt đối không bị tác động, nguyên nhân Đầu tiên của mọi chuyển động và đấy là Thượng Đế.
Cách thứ hai nhằm chứng minh sự hiện hữu một Nguyên nhân Đầu tiên đưa đến sự hiện hữu dựa vào quan hệ nhân quả trên thế giới. Chúng ta nhận xét thấy các nguyên nhân được sắp xếp thành từng dãy liên tục. Để ý rằng chẳng có sự vật gì tự mình được sinh ra cả vì như thế sẽ tự tạo ra sự hiện hữu cho mình, là điều không thể được, Mọi sự vật được sinh ra tất được sinh ra bởi một sự vật khác. Ở đây Aquinas cũng nói đến các chuỗi nguyên nhân đồng thời như ở cách thứ nhất, chỉ khác là các nguyên nhân ở đây đưa đến sự hiện hữu chứ không phải chuyển động. Sự hiện hữu của bất kỳ một sự vật tùy thuộc vào toàn bộ sự sắp xếp của các nguyên nhân cùng thời và các nguyên nhân này nghịch lại tuỳ thuộc vào các nguyên nhân khác và cứ như thế không thể tiếp diễn đến vô cùng vì lý do tôi đã nói ở trên. Cho nên phải có một nguyên nhân Đầu tiên đưa đến sự hiện hữu của mọi sự mà nguyên nhân này thì không phải do cái khác sinh ra và mọi người gọi điều này là 'Thượng Đế'.
Cách thứ ba là chứng cứ về một Hữu thể Tất yếu không thể không có, đặt nền tảng trên các hữu thể khả hữu. Chúng ta nhìn thấy trên cõi đời này các hữu thể mà sự tốn tại hay hiện hữu của chúng không phải là không thể không có nhưng chỉ là có thể có được. Nghĩa là những hữu thể này không bắt buộc hải hiện hữu vì chúng ta thấy chúng sinh ra rồi lại mất đi. Nếu chúng cần thiết thì chúng luôn luôn hiện hữu. Nhưng tất cả hữu thể không thể nào chỉ là những hữu thể khả hữu, nếu vậy thì vào một thời điểm nào đó không còn cái gì tồn tại nữa. Ở điểm này Aquinas giả định trước tính vĩnh cửu trở về trước của thế giới và có ý muốn lập luận rằng với thời gian vô hạn thì mọi trường hợp khả hữu đều thành hiện thực. Do đó giả như mỗi hữu thể thì có khả năng là chẳng có gì tồn tại cả. Vậy, nếu thời gian thuộc về quá khứ là vô hạn thì khả năng này là hiện thực và chẳng có gì hiện hữu cả vì cái không sinh ra cái không. Điều này rõ là phi lý, không phải mọi hữu thể bắt buộc phải là hữu thể khả hữu. Một hay một số hữu thể nào đó là hiện hữu tất yếu. Thực tế Aquinas tin rằng có nhiều hữu thể tất yếu như các thiên thể, thiên thần, thậm chí vật chất nữa. Ông lại đặt tiếp câu hỏi: Thế thì từ đâu các hữu thể tất yếu này có được tính chất tất yếu, tự mình hay từ một hữu thể khác? Ở đây Aquinas phân biệt giữa sự tồn tại (hay hiện hữu) và thực chất của một thực thể. Thực chất của một thực thể là bản chất của thực thể đó quy định cái tính chất nó phải có để cho thực thể đó trở nên như nó đang hiện hữu. Thí dụ tính chất của con người là 'con vật có lý trí'. Nếu bất cứ thực thể nào thiếu một trong những tính chất này thì không phải là con người. Sự hiện hữu của một thực thể là tính thực hữu của nó. Thế thì nếu một thực thể mà bản thân nó không phải là tất yếu thì có nghĩa là tính chất của nó khác biệt với tính hiện hữu của nó. Sự hiện hữu của nó không lệ thuộc vào bản chất. Thí dụ tôi có thể có những ý nghĩ về bản chất khác với hiện hữu. Do vậy nếu một thực thể như vậy muốn hiện hữu thì phải có một cái gì kết hợp một tác động hiện hữu vào tính chất của nó thì nó mới hiện hữu vào tính chất của nó thì nó mới hiện hữu. Nhưng không thể nào có một sự trở lùi vô cùng tận về việc các thực tế tất yếu được một thực thể khác tạo ra sự hiện hữu (tương tự như vậy lý luận của cách thứ nhất). Vì thế phải có một Thực Thể Đầu Tiên mà bản thân là tất yếu hơn hết. Trong thực thể này không có sự phân biệt giữa bản chất và tính hiện hữu, một cách huyền bí, bản chất của thực thể này là sự hiện hữu. Vậy theo Aquinas, Thượng Đế là một thực tế thuần nhất và là nguồn gốc sinh ra sự hiện hữu của mọi sự mà bản chất của chúng không lệ thuộc vào tính tồn tại.
3.1223. G.W.F.Leibniz:
Luận cứ vũ trụ học Leibniz do nhà toán học và triết học người Đức tên là G.W.F.Leibniz đề ra (1646-1716) và thường bị nhầm lẫn với luận cứ của Aquinas. Thế nhưng Leibniz không lý luận về sự tồn tại của một Tác nhân không bị tác động mà là về sự tồn tại của một Nguyên Cớ Hữu lý đối với vũ trụ. Chúng ta sẽ thấy rõ sự khác biệt này.
Liebniz viết 'Thắc mắc đầu tiên nên là: Tại sao phải có cái gì hơn là không có cái gì' nghĩa là tại sao mọi thứ lại tồn tại, phải có giải đáp cho thắc mắc này bởi vì 'chẳng có sự việc gì xảy ra nếu không có một nguyên cớ hữu lý'. Nguyên lý về Nguyên cớ hữu lý được nhiề người biết đến này của Liebniz cho rằng phải có một lý do hay sự giải thích hữu lý về sự tồn tại của trạng thái sự việc hơn là cái gì khác. Tại sao vũ trụ tồn tại? Nguyên cớ không thể tìm thấy trong bất cứ cái gì có trong vũ trụ bởi vì bản thân chúng là ngẫu nhiên không bắt buộc phải tồn tại. Cũng không thể tìm thấy Nguyên cớ trong toàn bộ tập hợp của những hữu thể như vậy, vì thế giới chỉ là tập hợp của những hữu thể ngẫu nhiên này nên thế giới bản thân là ngẫu nhiên. Cũng không thể tìm thấy Nguyên cớ trong các tiền nguyên nhân của sự vật vì cũng chỉ là các trạng thái đã qua của vũ trụ và cũng không giải thích được lý do tại sao có những trạng thái hoặc vũ trụ như vậy được cả. Liebniz bảo chúng ta hãy hình dung rằng một chuỗi sách hình học được sao chép từ đời trước trở về sau mãi mãi, một sự trở lùi vô hạn như thế cũng chẳng giải thích được tại sao, lý do nào các sách này tồn tại, những hình thái trong quá khứ của thế giới cũng thế, cho dù các hình thái này đạt đến con số vô hạn trở về quá khứ thì cũng chẳng có nguyên cớ hữu lý nào nói lên sự tồn tại vĩnh cửu của vũ trụ. Do đó, nguyên cớ noí lên sự tồn tại của vũ trụ phải được tìm thấy bên ngoài vũ trụ, trong một hữu thể mà nguyên cớ hữu lý của hữu thể này là tự mình mà có, hữu thể này là nguyên cớ hữu lý của chính mình để tồn tại và là lý do nói lên sự tồn tại của vũ trụ. Nguyên cớ hữu lý của mọi sự vật là Thượng Đế mà sự tồn tại của Ngài chỉ được giải thích bằng chính Ngài, nghĩa là Thượng Đế là một hữu thể không thể thiếu được về mặt siêu hình.
Cách chứng minh này rõ ràng là khác với luận cứ của Aquinas. Không nhắc đến sự phân biệt giữa tính chất và sự tồn tại, hoặc lập luận để phủ nhận sự trở lui vô hạn của nguyên nhân. Thật thế, Leibniz không phải đi tìm nguyên nhân nhưng là lý do để giải thích thế giới. Aquinas đi đến kết luận về một Tác nhân không bị tác động, còn Leibniz về một Hữu thể tự mình là đầy đủ. Nhiều nhà triết học lẫn lộn những luận cứ này và kết luận thượng Đế là một hữu thể tự sinh ra, mà cả Aquinas lẫn Leibniz đều không ai đưa ra.
Như vậy có nhiều luận cứ vũ trụ học khác nhau cần phân biệt rõ vì có những luận cứ có tác dụng với lối giải thích này lại không có tác dụng với cái khác.
3.123. Luận cứ theo thuyết mục đích:
Có lẽ luận cứ xưa nhất và phổ biến nhất nói lên sự tồn tại của Thượng Đế là luận cứ theo thuyết mục đích. Đây là luận cứ nổi tiếng căn cứ vào sự kiến tạo, nói đến một nhà kiến tạo có trí thông minh giống như chúng ta nói đến một nhà kiến tạo thông minh đối với bất kỳ một sản phẩm nào, qua đó chúng ta thấu hiểu những chứng cứ về việc dùng phương tiện để đạt đến mục đích.
3.1231. Plato và Aristôt:
Các triết gia Hy-lạp thời cổ lấy làm sững sờ vì trật tự có mặt khắp cả vũ trụ và có nhiều người cho rằng trật tự đó là công việc của trí tuệ. Ca1c thiên thể vận hành không ngừng trong khoảng không gian cao kia đã làm cho người thừi cổ kinh ngạc. Các môn đệ của Plato đã tốn nhiều thời gian và trí óc để nghiên cứu thiên văn bởi vì theo Plato, đó là ngành khoa học sẽ khiến cho con người nhận thức ra định mệnh thiêng liêng của mình. Theo Plato: có hai điều khiến con người tin đến các thần: luận cứ đặt nền tảng trên linh hồn và luận cứ dựa vào trật tự chuyển động của tinh tú và trật tựcủa tất cả mọi thứ dưới quyền chi phối của trí tuệ đã tạo ra vũ trụ. Thật là một lời phát biểu rất hay nói đến sự sáng tạo Thần hựu đâu đâu cũng nhìn thấy khă1p vũ trụ. Plato đã sử dụng cả hai lý lẽ này để bác bỏ thuyết vô thần và đi đến kết luận rằng phải có một 'linh hồn hoàn thiện nhất' là đấng 'tạo ra và cha đẻ của mọi sự vật' là 'Vua', đấng đã khiến cái hỗn độn nguyên sơ thành hệ thống hài hòa hữu lý mà chúng ta nhìn thấy hiện tại.
Một phát biểu còn tuyệt vời hơn nữa về thuyết mục đích thần hựu được tìm thấy trong một phần của tác phẩm bị thất lạc của Aristot nhan đề 'Luận về triết học'. Aristot cũng lấy làm kinh ngạc bởi vô vàn thân thể nhìn thấy trên bầu trời vào ban đêm. Ông nói, triết học bắt đầu bằng cảm xúc kinh ngạc về thế giới như sau:
'Vì chính sự kinh ngạc mà con người thời bấy giờ cũng như thời xa xưa bắt đầu suy luận, con người ngạc nhiên về những cái khó hiểu trước mắt rồi dần dần tiến ến những điều nan giải trong các vấn đề lớn hơn như các hiện tượng về mặt trăng và mặt trời, về các vì sao và căn nguyên vũ trụ'.
Bất cứ ai đã ngắm nhìn bầu trời đều phải đồng cảm lắng nghe người xưa, họ đã chiêm ngưỡng bầu trời đêm lúc ấy bầu khí quyển chưa bị ô nhiễm và chưa bị ánh sáng đèn điện của thành phố làm cản trở, họ ngắm nhìn sự chuyển động chậm tãi của vũ trụ với muôn vàn hành tinh, ngôi sao, các chòm sao quen thuộc, đi ngang qua bầu trời và họ thắc mắc. Tất cả những điều này do đâu mà ra? Aristot kết luận rằng nguyên nhân sinh ra là do ở trí tuệ thần hựu. Ông ta hình dung đến tác động mà hình ảnh của thế giới ảnh hưởng đến những con người trước kia sinh sống trong hang động phía dưới mặt đất và chưa bao giờ chiêm ngưỡng bầu trời.
'Nếu như họ đột nhiên nhìn thấy hình ảnh của đất, biển và bầu trời, nếu họ thấy được nét hùng vĩ của các đám mây, sức mạnh của gió, nếu họ ngắm nhìn mặt trời và biết được nắt đẹp đẽ và oai nghi cũng như năng lực tạo nên ban ngày bằng cách tỏa sáng qua bầu trời và nếu như khi bóng đêm bao trùm cảnh vật và họ được ngắm nhìn bầu trời lấp lánh các vì sao, nếu như họ nhìn thấy ánh sáng thay đổi nơi mặt trăng khi đầy khi khuyết các thiên thể mọc rồi lặn, chúng di chuyển qua lộ trình cố định trong suốt vĩnh cửu, nếu như họ chiêm ngưỡng được tất cả những điều này thì hẳn họ sẽ cho rằng có các vị thần tồn tại và tất cả tuyệt tác này là công việc do chính bàn tay các thần tạo nên'.
Trong tác phẩm 'Siêu hình' Aristot lập luận rằng phải có một Tác Nhân Không Bị Tác Động Đầu Tiên, là Thượng Đế, là hữu thể sống động, có trí năng, vô hình, vĩnh cửu, hoàn toàn nhất và là căn nguyên của mọi trật tự trong vũ trụ. Do đó, từ thời xa xưa, con người, mặc dù thiếu sự mặc khải Thánh Kinh đã khẳng định sự tồn tại của một trí năng thần hựu dựa trên cơ sở kiểu mẫu sáng tại ra vũ trụ.
3.1232. Thomas Aquinas: Chúng ta đã bằng ba cách đầu tiên Thomas Aquinas đã lý giải về sự tồn tại của Thượng Đế qua luận cứ vũ trụ. Tuy vậy cách thứ năm lại tiêu biểu cho luận cứ theo thuyết mục đích. Ông nhận xét rằng chúng ta nhìn thấy trong vũ trụ tất cả mọi sự vật đều hoạt động hướng đến một mục đích nào đó cho dù các sự vật đó thiếu ý thức vì hoạt động của chúng hiếm khi thay đổi và hầu như lúc nào cũng đạt kết quả, điều đó cho thấy rằng chúng hướng đến một mục tiêu chứ không phải ngẫu nhiên gặp mục tiêu đó. Ở điểm này Aquinas bày tỏ niềm tin nơi vật lý học Aristot cho rằng mọi vật không những bị một nguyên nhân tác động mà còn hướng đến một nguyên nhân cuối cùng nữa. Ví dụ hạt thóc luôn luôn mọc thành cây lúa hay hạt dẻ mọc thành cây sồi. Thế rồi Aquinas lý luận rằng bất cp1 cái gì không có ý thức đều không hướng đến mịc tiêu được trừ phi chịu sự chi phối bởi một ai đó có ý thức và trí khôn. Thí dị một mũi tên không thể bay hướng đến hồng tâm của một cái bia nếu như người bắn cung không nhắm vào đích, cho nên mọi sự trong thiên nhiên phải được một ai đó có trí khôn hướng dẫn đến mục tiêu của mình và chúng ta gọi Đấng đó là Thượng Đế.
3.1233. William Paley: Hiển nhiên, đỉnh cao của sự phát triển luận cứ theo thuyết mục đích là do William Paley trong tác phẩm sáng giá của ông tựa là Thần học Tự nhiên xuất bản năm 1804. Paley đã tìm tòi trong tất cả các ngành khoa học thời đó để tìm ra những chứng cứ về sáng tạo trong thiên nhiên và đã đưa ra một bản liệt kê khá nhiều về những chứng cứ dựa trên chẳng hạn như trật tự nhìn thấy được ở xương, bắp thịt, mạch máu, cơ thể học đối chiếu và các cơ quan đặc biệt trong thế giới động và thực vật. Chứng cứ của Paley thật đầy đủ, đầy tính thuyết phục đến nỗi Leslie Stephen trong tác phẩm 'Lịch sử Tư tưởng Anh trong thế kỷ 18' đã nhận xét cách miễn cưỡng như sau 'nếu như không có sơ hở bên trong của lối lý luận này thì không thể nào hiểu được là không chỉ làm thế nào chống lại mà còn là làm sao người ta lại không nhìn thấy được bằng chứng này'. Mặc dầu phần đông các nhà triết học, hẳn là chưa đọc tác phẩm của Paley bao giờ, đều tin rằng đường lối lý luận này đã bị một đòn chí tử qua sự phê phán về luận cứ theo thuyết mục đích của David Hume, luận cứ của Paley, vốn được viết ra gần ba mươi năm sau khi tác phẩm phê phán của Hume, trên thực tế không bị công kích bởi các phản bác của Hume. Paley mở đầu bằng cách nói theo lý giải nhà chế tạo đồng hồ rất phổ biến:
'Khi đi ngang qua một bãi đất hoang, giả như bàn chân tôi chạm phải một cục đá và có người hỏi tôi rằng làm thế nào cục đá ấy lại hiện diện ở đấy, có thể tôi trả lời rằng biết đây nó hiện diện ở đấy cả ngàn năm rồi cũng nên, và cũng không dễ gì chứng minh tính vô lý trong câu trả lời như vậy, Thế nhưng giả sử rằng tôi nhặt được một chiếc đồng hồi rơi dưới đất và lại được chất vấn làm thế nào chiếc đồng hồ lại có mặt ở đấy được, thì tôi khó có thể trả lời như lúc nãy, nghĩa là hồi nào tới giờ nó vẫn cứ nằm ở đấy. Thế thì tại sao cùng một giải đáp như vậy lại không có tác dụng đối với chiếc đồng hồ nhưng lại có hiệu lực đối với cục đá? Tại sao trường hợp thứ hai lại không thể chấp nhận như trường hợp đầu tiên. Vì lý do như thế này, không còn lý do nào khác, tức là khi chúng ta xem xét chiếc đồng hồ, chúng ta cảm nhận được rằng (cái mà chúng ta không cảm nhận nơi cục đá) tất cả mọi bộ phận được bố trí và lắp đặt để dành cho một múc đích, tức là chúng được kiếnt ạo và điều chỉnh để tạo ra sự chuyển động, và từ sự chuyển động ấy được điều khiển để chỉ giờ giấc, và nếu như các bộ phận khác nhau ấy lại mang hình dạng khác, có kích thước khác, lăép đặt một cách khácm theo một trật tự bất kỳ nào khác với trật tự cố hữu thì chẳng có sự chuyển động nào được tạo ra trong chiếc máy hoặc chẳng đáp ứng được mục đích sử dụng như bản thân chiếc đồng hồ đang có. Xem xét một vài bộ phận rõ nét nhất cùng cái chức năng của chúng, tấtc ả đều hướng đến một kết quả: chúng ta thấy một hộp nhỏ hình trụ chứa một dây lò xo xoắn hay còn gọi giây thiều, khi dẫn ra thì tự xoay quanh chiếc hợp đựng nó. Kế tiếp chúng ta nhìn thấy một sợi dây co dãn được (đã được, trui rèn để tạo ra tính chất co dãn) dùng để chuyển động từ dây thiều sang bộ phận bánh côn. Thế rồi chúng ta lại nhìn thấy một số bánh xe răng ăn khớp với nhau, chuyển động nhịp nhàng được tính toán và điều chỉnh sao cho bánh xe có kim trên mặt đồng hồ chuyển động đều đặc từng nác một tương ứng với một thời gian nhất định. Chúng ta cũng để ý thấy các bánh răng làm bằng đồng thau để không bị rĩ, dây cót bằng thép để có độ co dãn tốt, trên mặt đồng hồ có kính trong suốt, một vật liệu mà không nơi nào trong chiếc máy đồng hồ được sử dụng, và nếu nó không trong suốt thì không thể xem giờ. Cơ chế này (cần phải quan sát chiếc máy, có một số vốn kiến thức về đồng hồ để cảm nhận và thông hiểu) khi được quan sát thì điều suy luận là rõ ràng tất yếu, tức là chiếc đồng hồ phải có người làm ra nó, và tại một thời điểm nào đó, tại một không gian nào đó đã có sự hiện hữu của người hay nhiều người phát minh ra chiếc đồng hồ, là người đã chế tạo ra nó dành cho mục đích mà chúng ta nhìn thấy qua chiếc đồng hồ, là người hiểu rõ cấu trúc bên trong, và tạo ra công dụng của nó.
Theo Paley thì kết luận như thế này cũng không bị yếu đi cho dù tôi chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy chiếc đồng hồ được chết ạo như thế nào hau là tôi không biết cách thức chế tạo ra nó. Vì chúng ta công nhận các đi tích của nghệ thuật cổ đại là sản phẩm của trí tuệ mà chúng ta không cần phải tận mắt nhìn thấy được tạo ra như thế nào và chúng ta cũng biết các sản phẩm hiện đại là kết quả của trí tuệ cho dù chẳng biết tí gì về quy trình chế tạo cả. Kết luận của chúng ta cũng không thể coi là vô giá trị nếu như thỉnh thoảng chiếc đồng hồ chạy sai giờ. Mục đích của cơ chế vận hành là rõ ràng cho dù chiếc máy chạy không đúng. Hay luận cứ của chúng ta là vô căn cứ nếu như chúng ta khám phá ra một vài bộ phận nào đó không có mục đích gì cả, vì điều này không phủ nhận sự sáng tạo mang tính mục đích ở các bộ phận khác. Hoặc cũng khôn ai nghĩ rằng để giải thích cho sự tồn tại của chiếc đồng hồ là bằng cách cho rằng chiếc đồng hồ này kết quả của một trong muôn vàn sự biến đổi của vật chất và một sự biến đổi khả hữu nào đó của vật chất đã tồn tại nơi mà chiếc đồng hồ được tìm thấy. Cũng không thể nào cho rằng trong mọi sự vật có một nguyên lý trật tự tồn tại và nguyên lý về trật tự tồn tại và nguyên lý về trật tự này đã tạo ra chiếc đồng hồ, vì như vậy chẳng ai biết đồng hồ làm ra để làm gì và khái niệm về nguyên lý trật tự không mang tính trí tuệ xem ra không có ý nghĩa gì lắm. Cũng không thể cho rằng chiếc đồng hồ này là do chiếc đồng hồ khác sinh ra và chiếc đồng hồ khác này lại do một một chiếc đồng hồ trước đó nữa sinh ra, cứ như thế trở lui về cho đến vô cực. Vì như vậy cũng không giải thích được sự thiết kế, vì mỗi một chiếc trong chuỗi đồng hồ vô cùng tận ấy đều cho thấy thiết kế giống nhau, cho dù người ta có trăm ngàn hay vô số đồng hồ thì cũng cần phải có người thiết kế ra nó trước hết.
Điểm tương đồng về chiếc đồng hồ là thế này: chúng ta suy luận nhà chế tạo ra đồng hồ là người thiết kế ra đồng hồ thế nào thì chúng ta cũng nên suy luận ra một đấng thiết kế khôn ngoan tạo ra vũ trụ.
'Mỗi một bộ phận, mỗi một mẫu thiết kế tồn tại trong chiếc đồng hồ thì cũng tồn tại trong các tác phẩm của thiên nhiên, ở mức độ vĩ đại hơn, nhiều hơn, vượt hơn mọi tính toán, Tôi muốn nói rằng sản phẩm thiên nhiên trội hơn sản phẩm nghệ thuật về tính phức tạp, khéo lép và lạ lùng ở cơ chế vận hành, vược qua về số lượng và đa dạng, ấy thế trong cô số trường hợp chúng đóng vai trò của các bộ phận, phục vụ cho một mục đích, thích ứng với chức năng của mình chẳng kém chi các sản phẩm hoàn hảo nhất do tài khéo léo của con người'.
Paley ở đây mở đầu liệt kê các sắp đặt của thiên nhiên chứng tỏ có sự sáng tạo thần hựu. Ông kết luận rằng có một Đấng khôn ngoan tạo dựng nên vũ trụ và kết thúc bằng một bài nói đến các thuộc tính của Đấng tạo dựng nên vũ trụ.
3.124. Luận cứ luân lý:
Luận cứ luân lý bênh vực cho sự tồn tại của Thượng Đế lý luận về sự tồn tại của một hữu thể là hiện thân của cái thiện tối hậu, đó là nguồn gốc của các giá trị đạo đức khách quan mà chúng ta kinh nghiệm được trên đời này. Đường lối lý luận của luận cứ có gốc rễ từ thời Platon là người cho rằng sự vật đều có tính chất Thiện nếu như chúng có mối quan hệ với cái Thiện, mà cái Thiện này tư nó tồn tại. Với đà phát triển của thuyết hữu thần Cơ Đốc giáo, cái Thiện này được đồng hóa với Bản thân Thượng Đế.
3.1241. Thomas Aquinas:
Phương cách thứ tư của Aquinas là một hình thức luận cứ luân lý hay đạo đức. Ông nhận xét rằng chúng ta khám phá ra trên đời này có một nấc thang giá trị, có những cái tốt hơn, trung thực hơn, cao cả hơn v.v... những cái khác. Những từ so sánh như vậy chó thấy những mức độ khác nhau để sự vật tiến đến một tiêu chuẩn cao nhất, cái tốt nhất, đúng nhất, cao cả nhất v.v... Tất nhiên phải tồn tại một cái gì đó tốt nhất, đúng nhất, cao cả nhất. Aquinas tin rằng bất cứ cái gì chứa đựng một tính chất đầy đủ hơn tất cả các cái khác chính là nguồn gốc của tính chất đó trong các cái khác. Do đó có một hữu thể là nguồn gốc của sự tồn tại, cái tốt và những đặc tính hoàn thiện khác trong các thực thể hữu hạn, hữu thể này được chúng ta gọi là Thượng Đế.
3.1242. William Sorley:
Có lẽ luận cứ đạo đức do William Sorley đề ra là phức tạp nhất (1855-1935), ông là giáo sư triết học đạo đức tại đại học Cambridge ông giảng dạy ở đây đến năm 1933. Trong những bài thuyết giảng của ông có tựa đề 'Giá trị đạo đức và Quan niệm về Thượng Đế (1918) Sorley tin rằng đạo đức học là chìa khóa đi đến khoa học siêu hình, ông cho rằng Thượng Đế với cương vị là nền tảng của các trật tự thiên nhiên và đạo đức thể hiện rõ ràng nhất một quan niệm đồng nhất của hữu lý về thực tại. Ông mở đầu bằng cách lập luận rằng thực tại có đặc điểm là có một trật tự đạo đức khách quan, vốn có thật và không phụ thuộc vào nhận thức của chúng ta cũng giống như trật tự thiên nhiên vậy. Ông thừa nhận rằng, về một nghĩa nào đó không ai có thể chứng minh rằng các giá trị khách quan tồn tại nhưng ông cũng nhấn mạnh rằng cũng không ai có thể chứng minh thế giới bên ngoài tồn tại củng theo ý nghĩa ấy. Do đó trật tự đạo đức và trật tự thiên nhiên có vị trí ngang nhau. Trên cơ sở nào mà chúng ta thừa nhận thực tạo của thế giới sự vật thì chúng ta cũng thừa nhận thực tạo về trật tự đạo đức mang giá trị khách quan thể ấy. Hiển nhiên Sorley không có ý nói rằng chúng ta cảm nhận giá trị bằng giác quan như cảm nhận sự vật hữu thể. Chúng ta nhận biết giá trị bằng một cách nào đó không phải bằng kinh nghiệm, chúng ta tỏ ra hữu lý để thừa nhận rằng có một trật tự thiên nhiên khách quan nào đó ẩn trong giác quan thì chúng ta cũng hữu lý để thừa nhận rằng có một trật tự đạo đức khách quan nào đó ẩn trong cảm quan của chúng ta về giá trị.
Cảm quan của chúng ta đối với lãnh vực giá trị khách quan theo Sorley không có nghĩa là mọi ngườo đều một sự hiểu biết chính xác và mang tính bẩm sinh đối với những giá trị đạo đức cụ thể. Trong tác phẩm Đạo Đức học của Chủ nghĩa Tự nhiên (1885). Sorley đã bài bác đường lối tiếp cận với Đạo đức học mang tính chất lịch sử và tiến hóa và giờ đây ông lại quay sang phủ nhận những cách giải thích về giá trị mang tính chất xã hội và tâm lý. Cái sai lầm cơ bản của nh4ưng phương pháp này là chúng làm lẫn lộn giữa nguồn gốc khách quan về cách đánh giá theo phương diện đạo đức của chúng ta và giá trị khách quan mà sựa vào đó để đánh giá. Không phải nguồn gốc của việc đánh giá đạo đức của chúng ta được lý giải dựa theo lịch sử và xã hội cho nên không có những giá trị khách quan tương ứng ở trong thực tế. Thực ra Sorley lập luận rằng cái nhìn về mặt đạo đức của chúng ta không có sự lầm lẫn và rằng chúng ta không nhận biết được cái đích thực của lý tưởng đạo đức mà chúng ta đang tìm cách đạt đến.
Thế thì giá trị đạo đức khách quan ở đâu đây? Sorley đáp: Trong con người. Thực thể duy nhất mang giá trị đạo đức nội tại là con ngườo, những vật không mang tính người chỉ có giá trị mang tính công cụ trong mối tương quan với con người. Chỉ có con người mới có giá trị nội tại bởi vì hành vi đạo đức có ý nghĩa đòi hỏi mục đích và ý muốn. Phần phân tích vừa rồi về giá trị đạo đức tạo nên cơ sở cho luận cứ đạo đức của Sorley để nói đến Thượng Đế. Chúng ta thấy rằng trật tự thiên nhiên và trật tự đạo đức là một phần của thực tế. Thế nên vấn đề là: Thế giới quan nào có khả năng phối hợp hai trật tự này lại thành một hình thức chặt chẽ rõ ràng nhất? Theo Sorley có ba thế giới quan có khả năng: hữu thần, đa nguyên và nhất nguyên.
Trước tiên quay trở về với thuyết hữu thần, Sorley tin rằng sự phản bác quant rọng nhất đối với thế giới quan này là vấn đề cái ác. Xét theo cơ bản, vấn đề ở đâu là trật tự tự nhiên và trật tự đạo đức xem ra có những hoạt động trái nghịch nhau: trật tự tự nhiên không thực hiện được cái thiện đáng nên thực hiện. Tuy vậy Sorley cho rằng điều phản bác này có thể giải quyết được. Theo ông, điều phản bác này có khuynh hướng lầm lẫn giữa mục đích đạo đức và niềm hoan hỉ cá nhân, bởi vì niềm hoan hỉ cá nhân thường không đạt được nên người ta qui rằng mục đích đạo đức đã bị mất tác dụng. Thế nhưng Sorley nêu ra rằng không thể đồng hóa với việc thực hiện niềm hoan hỉ cá nhân. Nói cách khác, đâu phải chúng ta không được hoan hỉ về một tình huống nào đó nên tình huống đó không nên tồn tại. Nói chung Sorley cho rằng sự đau khổ và điều ác là khả hữu trong thế giới quan hữu thần nếu như những đầu óc hữu hạn dần dà nhận biết được cứu cánh đạo đức để họ tự do chấp nhận hay khước từ.
Thật vậy, Sorley cho rằng lối giải thích hữu thần về các trật tự tự nhiên và đạo đức là thế giới quan ưu việt hơn vì chúng ta nhận thấy rằng giá trị hoặc lý tưởng đạo đức là một phần thực tại khách quan và chúng tồn tại bên trong con người. Vấn đề là chưa từng có con người hữu hạn nào nhận thức đầy đủ tất cả giá trị đạo đức. Không có nơi nào trên thế giới hữu hạn này lý tưởng đạo đức hiện thực, mặc dầu hiện tại nó có giá trị, tức là có tính rằng buộc đối với thế giới hữu hạn. Nhưng làm thế nào một cái gì đó có thể khách quan và có giá trị nếu như nó không tồn tại? Ngược lại, những định luật vật lý đều được thực hiện trên thế giới nên không cần phải giải thích thêm giá trị hiệu lực của chúng. Cho nên nếu muốn lý tưởng đạo đức có giá trị trên thực tế thì điều này phải được thực hiện trong một hữu thể tồn tại mang cả hai tính chất con người và vĩnh cửu, tức là Thượng Đế.
Sorley tiếp tục bài bác hai quan niệm còn lại: đa nguyên và nhất nguyên. Đối với đa nguyên vốn cho rằng lý tưởng đạo đức tồn tại trong nhiều hữu thể hữu hạn thì Sorley cho rằng giá trị đạo đức có giá trị vĩnh viễn nên không thể tồn tại trong con người hữu hạn về thời gian. Đối với thuyết nhất nguyên vốn cho rằng vũ trụ này được cấu thành bởi một thực tế không mang tính người mà trí óc chỉ là dạng thức (mode) thì Sorley cho rằng thuyết này gạt bỏ tự do thật hay sự phấn đấu có mục đích, bởi vì 'là' và 'phải là' đều là một và mọi sự thế nào thì cứ thế ấy.
Cho nên mặc dù không phải là một lối chứng minh cứng nhắc nhưng lối lý luận này, theo Sorley, đã cho thấy rằng thuyết hữu thần đã đưa ra lối giải thích về thực tại thống nhất và hợp lý nhất. Trật tự đạo đức là trật tự của một Trí Tuệ vô hạn và vĩnh cửu, là nhà sáng tạo nên thiên nhiên, và mục tiêu đạo đức của Đấng này con người và vũ trụ đang dần dần hoàn thành.
3.13. Đánh giá
Tất cả những luận cứ trên đã được các nhà triết học hiện đại phê phán cũng như bênh vực. Luận c1 theo thuyết bản thể thì bị Immanuel Kant bác bỏ và có nhiều nhà tư tưởng cũng theo khuynh hưởng của ông. Mặt khác Alvin Plantinga bênh vực cho luận cứ này để đối nghịch lại với Kant thông qua khái niệm những thế giới khả hữu. Plantinga lập luận rằng Thượng Đế, theo định nghĩa là một hữu thể tồn tại tối thượng trong mọi thế giới khả hữu, với tầm cỡ vô hạn, vì rằng thế giới thực là thế giới khả hữu nên Thượng Đế là khả dĩ thì Ngài phải tồn tại.
Luận cứ theo thuyết mục đích thì bị Hume phản bác, kèm theo thuyết tiến hóa của Darwin coi như có tác dụng đưa luện cứ này gần đến chỗ chết hơn nữa. Thế nhưng mặc dù nhận thức rõ những phản bác của Hume, hai ông F.R.Tennent và Stuart Hackett lập luận rằng dựa vào chính giả thuyết của thuyết tiến hóa, có một thuyết mục đích vũ trụ cho thấy một Đấng kiến tạo thần hựu. Hơn nữa, tính chất thay đổi dần dần trong thuyết tiến hóa cổ điển, dựa trên cơ chế tiểu đột biến và lựa chọn tự nhiên đã bị nhiều nghi vấn bởi các đề xướng về 'tình trạng quân bình bị đứt khúc', họ cho rằng không thấy có những dạng chuyển tiếp trong vật hóa thạch bởi lẽ chúng không hề tồn tại. Đúng hơn, những người này nói, sự tiến hóa xuất hiện theo hiểu nhảy vọt, từ dạng này sang dạng khác. Nếu như thuyết này và không giải thích được bước nhảy vọt này và bắt buộc phải cầu cứu đến các 'quái vật đem hy vọng' - đột biến vĩ mô, ồ ạt tạo ra những dạng sống mới không cần phải qua dạng chuyển tiếp - thì giải thích về sự sáng tạo lại tỏ ra hợp lý hơn. Trên bình diện rộng hơn, khoa học đương đại đang đánh vật với cái được gọi là 'nguyên lý vị nhân' theo đó cả vũ trụ và lịch sử được hiệu chỉnh thật chính xác để sản sinh ra con người trên trái đất. Những quan niệm vũ trụ này cũng đã thở một luồng hơi mới vào luận cứ dựa theo sáng tạo.
Tuy nhiên về phần tôi, tôi thấy luận cứ theo vũ trụ học nói đến nguyên nhân pah1t sinh đầu tiên tạo nên vũ trụ tính theo thời gian là luận cứ hữu lý nhất khi nói đến sự tồn tại của Thượng Đế. Tôi đã bảo vệ luận cứ này trong hai tác phẩm 'Luận cứ theo vũ trụ học' và 'Sự tồn tại của Thượng Đế và khởi đầu của vũ trụ'. Tôi xin giải thích và bổ sung những gì tôi đã trình bày trong các tác phẩm này. Luận cứ cơ bản là như sau: Cả lối lý luận triết học lẫn chứng cứ khoa học cho thấy vũ trụ có bắt đầu sự tồn tại. Bất cứ cái gì bắt đầu sự tồn tại đều phải có nguyên nhân phát sinh ra sự tồn tại ấy. Vì vậy vũ trụ phải có một nguyên nhân phát sinh. Luận cứ này có thể lập thành ba bước đơn giản như sau:
- Bất cứ cái gì bắt đầu sự tồn tại đều có nguyên nhân phát sinh.
- Vũ trụ có bắt đầu sự tồn tại.
- Do đó vũ trụ có một nguyên nhân phát sinh.
Cái lôgíc của luận cứ này có căn cứ và rất đơn giản. Cũng giống như chúng ta lý luận 'Mọi người ai cũng chết, Socrat là người, vậy Socrat cũng chết'. Vì vậy vấn đề là có đủ lý do vững vàng hay không để tin rằng mỗi một bước trên là đúng? Tôi nghĩ là có.
3.131. Bất cứ cái gì bắt đầu sự tồn tại đều có nguyên nhân phát sinh.
Bước đầu tiên này theo trực giác thì quá hiển nhiên đến độ theo tôi nghĩ út có ai cho đó là không đúng, cho nên nếu đưa ra lập luận ở giai đoạn này sẽ không được thích đáng cho lắm vì bất kỳ chứng cứ nào cho nguyên tắc này hẳn sẽ không chứng minh rõ ràng hơn là chính bản thân nguyên tắc ấy. Theo như Aristôt nhận xét là không nên chứng minh cái rõ ràng bằng cái kém rõ ràng. Phương ngôn từ bao đời 'cái không đến từ cái không' lúc nào cũng không cần giải thích thêm. Về một phương diện nào đó tôi nhận thấy lối lập luận này có nét hấp dẫn vì nó tạo cơ hội cho người vô tần có một lối thoát, người ấy bao giờ cũng có thể phủ nhận tiền đề thứ nhất và khẳng định rằng vũ trụ tự dưng hình thành, tự dưng tồn tại từ cái không. Qua đó anh ta tự cho thấy rằng mình chỉ quan tâm đến việc phản bác luận cứ này theo lối kinh viện, lý thuyết chứ không phải thực tâm tìm tòi chân lý về vũ trụ.
J.L.Mackie, đã quá cố, xem ra chúnh là con người này. Khi phản bác luận cứ theo vũ trụ học, ông đã tấn công vào bước đầu tiên như sau: 'Tiên nghiệm không có lý do chính đáng nào cho thấy tại sao sự khởi thủy của sự vật, không do cái gì qui định, lại không được chấp nhận trong khi sự tồn tại của một vị thần (sic) có khả năng tạo ra cái có từ cái không lại được chấp nhận'. Quả thật, sự sáng tạo từ cái không gây nên một số vấn đề: (i) Giả như Thượng Đế có khởi điểm của sự tồn tại vào một thời điểm nào đó thì điều này lại lạ một vấn đề nan giải không kém gì khởi điểm của vũ trụ. (ii) Hay giả như Thượng Đế tồn taị không có khởi điểm thì lập luận tương tự áp dụng cho sự tồn tại của Thượng Đế cũng áp dụng cho thời gian vô hạn của vũ trụ. (iii) Nếu như nói rằng Thượng Đế là ngoài thời gian thì theo Mackie, điều này lại là một điều kỳ bí vô cùng.
Lưu ý là Mackie không hề phủ nhận nguyên tắc bất cứ cái gì có khởi điểm đều có nguyên nhân sinh thành. Đúng hơn ông ta chỉ yêu cầu là tiên nghiệm cần có lý do xác đáng để chấp nhận điều này, chúng ta hẳn có thể quan niệm được cái khởi-điểm-tồn-tại-trong-tương-lai không có nguyên nhân sinh thành của một vật thể, nếu điều gì chúng ta quan niệm được nhưng thế nào đó lại mang tính bất khả thì điều này cần phải được chứng minh'. Theo như nhiều nhà tư tưởng đã phát biểu, luận cứ của Hume không có cách nào chứng minh là hữu lý khi cho rằng một caí gì đó có khả năng bắt đầu sự tồn tạo mà không cần có nguyên nhân sinh thành. Không phải vì tôi tưởng tượng một vật nào đó, con ngựa chẳng hạn, tự thinh không xuất hiện thì lại là cách chứng minh rằng con ngựa có thể xuất hiện bằng cách ấy. người bênh vực cho luận cứ theo vũ trụ học muốn nói rằng đích thực không thể nào có một cái gì phát sinh từ cái không mà không có nguyên nhân sinh thành. Có thật Mackie thực tâm tin là mọi vật có thể bỗng dưng hình thành từ cái không? Có ai sáng suốt, tỉnh táo lại tin rằng, lấy ví dụ, một con cọp dữ tợn, bất chợt, tự dưng xuất hiện không có nguyên nhân sinh thành, xuất hiện từ cõi không không, ngay trong phòng mình, ngay giờ phút này không? Vũ trụ cũng thế: Giả như khởi thủy chỉ có cõi không không tuyệt đối - không có Thượng Đế, không có không gian, thời gian - thì làm thế nào vũ trụ lại tồn tại được?
Thực tế, việc Mackie nêu Hume ra ở tại điểm này tỏ ra có tính chất đối tác hiệu quả. Bản thân Hume cũng tin vào nguyên tắc nguyên nhân sinh thành. Năm 1754 ông có viết cho John Stewart như sau: 'Xin phép được nhắn với anh rằng tôi không hề khẳng định một Mệnh đề nào phi lý như mệnh đề Bất cứ cái gì cũng co khả năng xuất hiện mà không cần có nguyên nhân sinh thành. Tôi chỉ cho rằng sự tin chắc nơi tính chất sai lầm của mệnh đề này bắt nguồn không phải từ trực giác hay chứng minh nhưng từ một nguồn khác'. Thậm chí Mackie còn thổ lộ 'Dầu sao nguyên lý nguyên nhân sinh thành này cũng chứa đựng ít nhiều sự hữu lý ở chỗ nó thường xuyên được khẳng định qua kinh nghiệm của chúng ta (cũng như dùng để diễn đạt kinh nghiệm)'. Thế thì tại sao lại không chịu coi sự thật về nguyên lý nguyên nhân sinh thành là hữu lý hơn là phủ nhận nó?
Bởi vì, theo Mackie, trong trường hợp đặc thù này, thuyết hữu thần, được hiểu ngầm qua việc khẳng định nguyên lý trên, lại tỏ ra khó hiểu hơn là việc bác bỏ nó. Có đúng là như vậy không? Dĩ nhiên người đề xướng luận cứ theo vũ trụ học không có ý cho rằng (i) Thượng Đế có khởi điểm tồn tại hay (ii) Thượng Đế đã tồn tại từ thời gian vô hạn. Nhưng có gì là trục trặc với (iii) khi cho rằng Thượng Đế, không có thời gian trước khi sáng thế? Tôi có thể lập luận rằng trước khi sáng thế Thượng Đế tồn tại ngoài thời gian và sau sáng thế Ngài tồn tại với thời gian. Điều này có thể là 'kỳ bí' theo nghĩa 'tuyệt diệu' hay 'lạ lùng', nhưng không là khó hiểu và Mackie cũng không nêu ra lý do nào cho thấy là khó hiểu. Do đó, theo tôi, Mackie không minh chứng được mình khi bác bỏ bước một của luận cứ này, coi đó là bất hợp lý, không rõ ràng về mặt trực giác.