“Sức Mạnh của Tình Yêu”
Cô Bạn Betty Của Tôi
Vào dịp Valentine năm nay, Tiếng Nói Phúc Âm đã cống hiến cho quý thính giả và đọc giả câu chuyện có thật "Sức Mạnh của Tình Yêu" do đề đốc Robert Ziemer làm chứng tại hội đồng thường niên của giáo hạt Tin Lành Việt Nam Bắc Mỹ vào năm 1999 (Chúng tôi cũng có phần audio của bài làm chứng này). "Sức Mạnh của Tình Yêu" là câu chuyện của một trong số sáu giáo sĩ bị thảm xác ở Ban mê thuộc vào dịp Tết Mậu Thân 1968. Nhưng đó là phân nửa câu chuyện. Trong biến cố đó, có ba giáo sĩ tại trung tâm truyền giáo ở Ban mê thuộc bị bắt đem đi. Hơn ba mươi năm qua, người tín đồ Việt nam ở tại Việt Nam và trên khắp thế giới chỉ biết việc sáu giáo sĩ bị thảm xát. Còn số phận của ba vị giáo sĩ bị bắt đem đi như thế nào? Nói theo cách của cố ký giả nỗi tiếng của Mỹ Paul Harvey, ‘Here is the rest of the story' (đây là phần còn lại của câu chuyện).
Đang khi có nhiều lực lượng quân sự Mỹ đỗ bộ vào Việt Nam, nhất là tại Đà Nẳng, chúng tôi được quen với nhiều quân lính Mỹ rất tốt. Chúng tôi cũng bận rộn việc học tiếng Việt mỗi ngày sáu tiếng, cùng với các sinh hoạt tại hội thánh và việc thăm viếng; nhưng việc quen biết với những quân nhân Mỹ là dịp cho chúng tôi nói tiếng Anh với người đồng hương, và quan sát Đà Nẳng với một nhận định khác. Mấy ông mục sư tuyên úy thích thăm viếng chúng tôi để tìm hiểu xem họ có thể giúp gì cho đồng bào Việt Nam, tiện thể đi ra khỏi căn cứ và thăm viếng một gia đình trong dịp đó. Lòng hão tâm của họ được biểu hiệu qua những dự án do họ bảo trợ khắp cả nước Việt Nam trong suốt thời gian binh vụ của họ tại đó. Đối với quân lực Mỹ, Việt Nam được coi là nơi hẽo lánh, vì thế không có gia đình binh sĩ Mỹ theo cùng, và trong những năm đầu, không có binh sĩ phái nữ trong quân đội Mỹ phục vụ tại đó, và binh sĩ phái nam phải sống trong tình trạng sẵn sàng để chiến đấu.
Các quân lính GIs Mỹ ít khi được phép ra khỏi căn cứ ngoài trừ ở những nơi được canh giữ cẩn thận và coi người Việt Nam như "có thể là địch". Chúng tôi sốt sắng giới thiệu cho họ nhiều gia đình Việt Nam thật đạo đức trong vòng các tín hữu tại các nhà thờ ở khu vực Đà Nẳng; một nhà thờ cùng với trường học nằm ở cuối đường bay của một căn cứ không quân Mỹ, và một nhà thờ thật lớn ở Đà Nẳng và nhà mục sư chỉ ở xuyên qua bên kia đường lái xe vào nhà của chúng tôi.
Vì các nhà thờ ở Việt Nam không có nhóm họp vào buổi tối Chủ Nhật, và chúng tôi không có nhiệm vụ chánh thức lúc đó, chúng tôi và một số bạn đồng lao liên kết với mấy mục sư tuyên úy để tổ chức nhóm họp tại căn cứ không quân mỗi tối Chủ Nhật mà chúng tôi gọi là "Hội Thánh Quê Hương." Gini chơi đàn organ còn chúng tôi hát những bài Thánh Ca cổ truyền với cả tấm lòng. Một vài người lính Mỹ đứng lên làm chứng rồi một trong số các giáo sĩ giảng dạy. Cộng đồng nho nhỏ nói tiếng Anh trong khu vực cùng với gia đình của họ cũng đến nhóm lại, và buổi nhóm như vậy trở nên phổ thông với các quân nhân không quân và ngay cả các binh sĩ Mỹ từ các căn cứ khác chung quanh Đà Nẳng, và không phân biệt giáo phái. Đây thật là được hương vị quê hương.
Vào những ngày lễ đặc biệt của Mỹ như Lễ Cảm Tạ và Năm Mới, chúng tôi thường có ba bốn gia đình dân sự Mỹ từ các nhóm truyền giáo khác và vài quân nhân Mỹ đến nhà chúng tôi ăn potluck và chơi flag football trong sân cỏ nhỏ hẹp của chúng tôi. Người Việt Nam không có đánh giá trị cho cỏ khi nó mọc ven đường, vì thế cỏ được coi như thứ cỏ dại. Họ nhổ bất cứ cái gì xanh như cỏ, dọn dẹp mấy đống đất, và dùng mấy cái chậu cây để chưng trong vườn nhà của họ. Họ có những chậu hoa và hàng rào đẹp, và lấy làm tự hào về nhà cửa đất đai của họ, nhưng trong thành phố hầu như tất cả mọi căn nhà đều xây ra tận đường phố; thông thường có những quán hay tiệm tùng dịch vụ ở tầng trệt, còn mấy tầng trên làm chỗ ở. Vì thế cái mảnh đất nho nhỏ còn lại một chút cỏ của chúng tôi, được mấy người làm công cắt bằng tay, và mấy người khách Mỹ của chúng tôi thưởng thức nó như là một óc đảo hay một sân banh nhỏ. Mấy quân nhân trong căn cứ cung cấp cho chúng tôi những món đồ cho ngày lễ vì họ có thể mua những thứ đó đầy tràn tại chợ PX trong căn cứ; một cách mĩa mai là những đồ dùng vào dịp Giáng Sinh như giấy gói quà, cây Giáng Sinh, đồ trang hoàng, và những thức ăn đặc biệt cho ngày lễ thường sung túc ở Đà Nẳng hơn là khi chúng tôi còn ở bên nhà, do lòng hão tâm của mấy ông GIs.
Khi quân đội Mỹ đến Đà Nẳng nhiều hơn, giới trách quân sự xây một tòa nhà USO - nơi nâng đỡ người lính Mỹ về tinh thần, luân lý, xã hội và giải trí - ở ngay trung tâm thành phố như là ngưỡng cửa cho các quân nhân; họ có bán hamburgers và milkshakes, có bàn chơi bi-da và bàn đánh ping-pong, và phòng để xem phim. Nhưng họ không có mấy bà USO để giúp đỏ, do đó họ tuyển mộ mấy bà giáo sĩ đến giúp vào ngày thứ Bảy. Chúng tôi chiên thịt làm bánh hamburgers, nói chuyện với các quân nhân, và khuyến khích họ hay giúp đở họ viết thư về thăm gia đình (lúc đó chưa có emails hay là gọi điện thoại được). Chúng tôi còn được gán cho danh hiệu "Doughnut Dollies," có lẻ đó là danh hiệu dùng cho mấy bà phục vụ trong USO thời thế chiến thứ Hai. Có lẻ mấy bà mẹ và mấy bà vợ của mấy ông GIs ở Đà Nẳng vừa thắc mắc vừa thỏa lòng khi biết được mấy ông này chuyện vản với mấy bà giáo sĩ. Vào lúc đó có một cô gái độc thân ở trong chung cư của chúng tôi theo học ngôn ngữ ở đó và cô ta cũng cùng theo với chúng tôi phục vụ tại USO. Sự hiện diện của Betty thay đổi động lực phục vụ tại đó một chút, và chúng tôi có được nhiều sự vui đùa trong sự khiếp đảm của Betty.
Một tuần lễ kia một nhà bình luận nỗi tiếng trên các nhật báo Mỹ gặp Betty ở toà nhà USO tại trung tâm thành phố Đà Nẳng. Ông ta rất ngưỡng mộ lòng quyết tâm phục vụ trong lãnh vực y tế của Betty, đặc biệt nhất là cho những người bị bệnh Hansen hay là bệnh cùi. Ông viết một bài báo có tựa đề, "Betty, the Belle of Danang - Betty, người đẹp Đà Nẳng." Ông viết bài bình luận tâng bốc cô gái tóc đỏ, mắt xanh, uyển chuyển đáng yêu với một lời kêu gọi không lay chuyển được, người mà ông đã gặp được ở trung tâm USO. Chằng bao lâu cô nhận được hàng ngàn bức thư từ khắp nơi trên đất Mỹ, và những nhóm "chiến binh cầu nguyện" của phụ nữ khá lúng túng về sự mô tả cô của nhà bình luận này, và làm kinh ngạc nơi đã gởi cô đi làm công việc Chúa này. Chúng tôi còn được vui nhộn hơn nữa khi cô nhận được một điện tín từ tuần báo nỗi tiếng Paris Match của Pháp, yêu cầu cô chụp một tấm hình trên bãi biển China Beach để hình bìa. Chúng tôi khuyến khích cô viết thư về việc đó cho tổng hội để xin phép, nhưng cô không thích.
Thật ra tôi biết Betty nhiều năm trước khi cô đến Việt Nam, tôi đã gặp cô ta trong thời gian tôi theo học ở trường Nyack ở New York. Cô đã hoàn tất việc huấn luyện để trở thành y tá và tôi thay thế cô ta để làm y tá cho chung cư sinh viên Boys' Club ở Simpson Hall. Betty sinh năm 1934 và lớn lên ở Tây Phi Châu, là con gái của giáo sĩ ở đó. Khi tôi gặp cô ta, cô ta rất cay đắng về hoàn cảnh trong cuộc đời cô ta và đang bị bối rối tình cảm. Cô ta thề rằng cô ta không bao giờ trở thành người đi truyền giáo, và cuộc đời đó không thể nào sống và nuôi nấng một gia đình. Cô ta nói chuyện một cách cay đắng; cắt đứt và cộc lốc trong sự nhận xét khi cô nói chuyện với người khác, ngay cả khi nói với tôi. Tôi hoàn toàn mất liên lạc với cô ta khi cô rời trường Nyack.
Khi chúng tôi đang học ngôn ngữ chừng nửa năm ở Đà Nẳng, bạn đồng lao của chúng tôi, Orrel va Gini, nói cho chúng tôi biết sẽ có một sinh viên đến học ngôn ngữ với chúng tôi, tên cô ta là Betty Olsen. Woody và tôi nhìn nhau; không lẻ là cùng một người mà chúng tôi biết; chắc chắn tên đó rất phổ thông. Nhưng khi cô ta đến nơi, quả đúng là Betty Olsen, nhưng hoàn toàn không phải là con người Betty cũ.
Betty nói cho chúng tôi biết cô đến Chicago để làm việc với tư cách là một y tá nhưng hoàn toàn bại hoại với tư cách là một Cơ Đốc nhân và thật là chán đời. Sự chán nản quá đổi của cô làm cho cô tính tới việc tự tử, nhưng sau đó cô được rất nhiều sự giúp đở nhờ sự tương tác của một người tham vấn ở nhà thờ cô có tên là Bill Gothard. Thậm chí cô còn tiếp đó làm việc cho Bill, người tổ chức một mục vụ rất phổ biến và thành công có tên là Căn Bản Thanh Niên Xung Đột, đặt nền tảng qua kinh nghiệm tham vấn cho Betty. Trong thời gian đó, cô nhận được sự kêu gọi và dâng cuộc đời cô để phục vụ người dân tộc Việt bị bệnh cùi.Tuy nhiên, cô bị bắt buộc trước hết phải bỏ một năm để học tiếng Việt, vì thế cô di chuyển đến một phòng trong chung cư bên cạnh chúng tôi.
Betty và tôi trở thành bạn thân; cô ta vẫn còn cái tật cắt cụt ngủng đang khi hội thoại, nhưng chúng tôi bỏ nhiều thời giờ thảo luận với nhau những khái niệm như tha thứ, ân điển, thất vọng và hôn nhân. Cô bị ảnh hưởng rất nhiều qua những tác phẩm của Madame Jeanne Guyon - một người Pháp theo phái bí ẩn thần bí vào khoảng đầu thập niên 1700s - và kể cho tôi nghe làm thế nào Madame Guyon đã tha thứ cho chồng và mẹ chồng bà về việc bỏ bà vào trong tù và đối xử bà một cách thậm tệ vì đức tin của bà. Đây là một học tốt cho Betty.
Sau một năm học ngôn ngữ chúng tôi di chuyển về tỉnh Quảng Ngải và làm việc với người Việt còn Betty di chuyển đến vùng núi đồi của Ban mê thuộc, nơi đó cô làm việc trong một bệnh viện cùi và học ngôn ngữ của dân địa phương, tiếng Ra-đê. Betty đến thăm viếng chúng tôi trong dịp Giáng Sinh năm 1967, vui đùa với Stewart - đứa con mới sanh của chúng tôi và kể cho chúng tôi nghe về cuộc sống của cô đang hiện sống và yêu thích. Khi chúng tôi đề cập đến cao độ của tình trạng chiến tranh, Betty mạnh dạn trả lời, "Vâng, Chúa kêu gọi tôi đến Việt Nam; Ngài không có nói gì về việc trở lại."
Sáu tháng sau đó, trong cuộc tổng tấn công vào Tết 1968, sáu vị giáo sĩ bị giết ở Ban mê thuộc, Betty bị bắt làm con tin trong cuộc tấn công vào trụ sở truyền giáo đang khi cô can đảm cứu cấp những người bị thương tích. Hank Blood, một giáo sĩ của hội kinh thánh Wycliffe, và Mike Benge, một nhân viên của USAid, cùng bị bắt làm con tin với cô. Vào khoảng chừng một tháng sau đó, Mike Benge, Hank Blood và Betty Olsen bị giam giữ ở trại tù binh chiến tranh ở tỉnh Darlac, chừng một ngày đường bộ từ Ban mê thuộc. Họ bị nhốc trong những cái chuồng không có cho ăn gì ngoài từ củ sắn nấu. VC di chuyển tù nhân luôn; dấu họ ở nơi rừng rú và núi non. Khu trại tù được quét sạch lá cây để tránh ruồi, có thể được quan sát rõ ràng từ trên không trung. Có một lần, Mike Benge tường trình cho biết, một máy bay của Mỹ tiến đến rất gần trại tù mà anh có thể thấy khuôn mặt của người phi công. Nhưng người phi công chỉ lượn cánh máy bay rồi bay đi mất. VC lo sợ việc giải thoát các tù nhân và bị Mỹ dội bom nên tiếp tục di chuyển.
Hằng nhiều tháng, Betty Olsen, Hank Blood, và Mike Benge bị xiềng bằng xiềng sắt chung với nhau và bị hướng về phía bắc từ chỗ tạm trú này đến chỗ tạm trú khác, di chuyển khoảng 200 dặm qua những dẫy rừng núi. Chuyến đi đầy khó khăn, nhọc nhằn, và ảnh hưởng đến tù nhân. Họ bị kiệc sức về phần thể xác, bị bệnh hoạn từ bệnh lỵ tới bệnh thiếu ăn, lại thêm bị lát da, nhiễm trùng, đỉa cắn, và lở loét viêm mủ. Mike Benge bị bệnh sốt rét não đến gần chết. Ông mang nợ Betty Olsen giúp ông còn sống. Cô ta buộc ông phải tỉnh dậy từ mê sảng của mình để ăn, uống nước và ăn cháo. Mike Benge mô tả Betty giống như "kiểu nữ tài tử Katherine Hepburn trong phim ảnh...mà còn một dữ dằn hơn."
Vào mùa hè năm 1968, các tù nhân, vẫn còn đi lê thê trên các con đường mòn, bị bỏ ngoài trời vào giữa mùa mưa. Hank Blood bị bệnh sưng phổi, suy yếu dần dần, và cuối cùng chết vào tháng Bảy năm đó. Ông ta được chôn cất trong một cái mộ đào sơ xài dọc bên con đường mòn; Betty làm lễ chôn cất. Mike Benge và Betty Olsen bị tiếp tục dẫn đi. Khắp cơ thể của họ bao phủ với những vết lỡ loét, và họ đã bị chảy mủ vì bệnh thủng do sự thiếu chất bổ dưỡng trầm trọng. Các răng của họ bị lung lây và nướu răng của họ bị nhiểm độc. Họ bị bắt buộc di chuyển mỗi hai hay ba ngày, xuyên qua ít nhất ba tỉnh. Betty bị yếu dần, và VC bắt đầu đá và kéo lê cô ta để bắt cô ta phải tiếp tục đi tới. Mike, cố gắng bảo vệ cô ta, bị đánh đập bằng báng súng trường.
Ngay trước khi sắp băng qua biên giới Kampuchia, Betty yếu đuối đến cái độ cô ta không thể nào di chuyển được nữa. Trớ trêu thay, trong khu vực gần các nhánh của sông Cửu Long, có đầy dẩy cá và thú vật, ngay cả có một khu vườn, nhưng các tù nhân bị từ chối không cho ăn. Mấy người bắt họ cho phép họ lượm măng tre nhưng không nói cho họ biết phải nấu măng như thế nào. Măng tre cần phải nấu chin bằng hai lần nước để trích xuất chất acid từ măng ra. Không biết về điều này, Betty và Mike nấu thức ăn của họ chỉ một lần và bị trỉu nặng với chứng đau bụng dữ dội chỉ trong khoảng nửa giờ; sau đó họ bị tiêu chảy nặng. Betty bị yếu nhiều hơn nữa và cuối cùng chết vào ngày 29 tháng Chín, năm 1968; Mike Benge chôn cô ta ở trong rừng.
Mike Benge phải cam chịu cảnh giam cầm tàn nhẩn ngay cả ở Kampuchia và Việt Nam trên ba năm, trong đó có hai mươi bảy tháng bị biệt giam. Khi được phóng thích, ông tường trình và xác nhận cái chết của Hank Blood và Betty Olsen. Khi nói về Betty, ông biểu lộ một cách hết sức ngạc nhiên lòng yêu thương và thái độ tha thứ đối với những người bắt cóc cô; trên thực tế, cuộc đời và cái chết của cô dọc theo con đường mòn Hồ Chí Minh đã đánh dấu một sự khác biệt sâu sắc về cuộc đời, về đức tin, cũng như triển vọng về cõi đời đời của ông. Trớ trêu thay, Betty gởi một bức thư cảm ơn đến chúng tôi sau cuộc thăm viếng vào dịp Giáng Sinh và trước khi những ngày Tết. Thư được gởi qua bưu điện Việt Nam nhưng chúng tôi không có nhận được mãi đến tháng Năm năm đó. Bên ngoài bìa thư, sở bưu điện có ghi chú hàng chữ, "Thư đến chậm vì tình trạng chiến tranh." Bên trong Betty có viết ở cuối bức thư ghi chú, "Hãy có một cái Tết tốt đẹp. Đừng để VC bắt các bạn." Ồ, Betty thân thiết ơi, họ cũng không bắt được cô bạn!"