CHÉN TÔI ĐẦY TRÀN
Ngọn Đuốc Cháy Rực
Dân Làng Thành Bê-tha-ni
Bươn Tới Phía Trước
Ngọn Đuốc Cháy Rực
Đó là một đêm mưa tháng Năm, 1998. Tôi ngồi trước một nhóm những Tiến sĩ đầy hiểu biết trong một phòng học nhỏ tại Đại học Han Dong ở Đại Hàn.
Tôi chỉ là một đầy tớ Chúa tuổi cao sức yếu đến từ Hoa Kỳ. Tôi không biết phải nói những gì với nhóm người có bằng Tiến sĩ giỏi giang này. Tôi chỉ muốn trở nên một chứng nhân cho Ngài, Đấng tôi đã gặp năm tôi hai mươi ba tuổi. Trong gần hai giờ liền, Ngài phán với họ qua tôi. Thậm chí tôi không uống một ngụm nước.
Ngài hỏi từng thính giả trong phòng một cách công khai, “Con yêu dấu, Chúa Giê-xu có thật sự là Chúa của con không? Con có đang hầu việc Ngài không? Hay con chỉ hầu việc Ngài qua Trường Đại Học và Viện Trưởng Kim? Nếu con tin rằng Ngài thật là Chúa hằng sống thì con có thể chịu đựng được những thử thách đang chờ con ở đằng trước không? Nếu Ngài thật đã chịu khổ, đã đổ huyết để chết cho tội của con thì con xem việc mình được dự phần trong sự đau khổ của Ngài là một sự vinh hiển không? Hay đó là nỗi đau đớn của con? Nếu con tin Chúa Cứu Thế Giê-xu thật sự là Đức Chúa Trời thì con phải biết rằng không có sự đau đớn và chịu khổ nào cho Ngài là đủ cả.”
Khi Ngài hỏi họ điều này để đi đến kết luận thì có một sự yên lặng kéo dài.
Điều đó là sự thật. Ngài chính là Đức Chúa Trời chân thật đã mang hình người để đến thế giới tội lỗi này. Ngài hy sinh trên thập tự giá để cứu chúng ta khỏi tội lỗi và những điều phạm phép. Và nếu chúng ta thật sự tin điều đó thì chúng ta không thể ta thán khi hoàn cảnh xung quanh trở nên bất lợi và những điều xảy đến làm phật ý chúng ta. Những bệnh nhân phung ở trại “Sự Sống Mới” tại Myang đã ca ngợi Chúa với cả tấm lòng của họ. Chúng ta có phước hơn những người phung đó rất nhiều. Chúng ta khỏe mạnh và hưởng được nhiều điều bằng nhiều cách khác nhau.
Nhưng nếu chúng ta không có tấm lòng thật sự biết ơn Ngài thì chúng ta chẳng đáng đem so với những người phung kia. Nếu như những người đói khát, cô đơn, lạnh lẽo có thể yêu thương và ca ngợi Ngài với cả tấm lòng của họ thì tại sao chúng ta là những người sống trong sự thoải mái và ấm cúng, có sức khỏe và thức ăn lại không thể làm điều tương tự? Chẳng lẽ chúng ta không thể ca ngợi Ngài nhiều hơn những con người ấy sao? Những đứa con vô ơn, không biết trân trọng những gì mình được hưởng như chúng ta mới thật sự là những tội nhân rẻ mạt nhất. Tôi đau đớn về những tội lỗi của mình, và một lần nữa tôi gục đầu xuống trước Ngài.
Đầu năm 1998, tôi nhận được một cú điện thoại từ Đại Hàn. Như đã nói trước đây, tôi có một miếng đất ở Bugok, Đại Hàn bị nhà nước hạn chế sử dụng. Bây giờ tôi được báo là lệnh hạn chế đất đai được bãi bỏ theo như kế hoạch mở rộng đô thị của Chính phủ. Người ta dự định sẽ xây dựng một xa lộ công ngiệp băng ngang thành phố. Vì thế, chủ miếng đất sẽ được Chính phủ bồi thường một số tiền. Họ gọi tôi về để nhận số tiền ấy. Tuy vậy, lúc ấy tôi chưa sẵn sàng cho một chặng đường dài quay trở về Đại Hàn nên tôi đã hoãn chuyến đi lại.
Một hôm nọ, trong lúc đang nghe một cuộn băng mà một Trưởng lão trong nhà thờ đã tặng cho tôi, tôi được nhắc nhở lại một việc mà tôi lãng quên trong bốn mươi năm. Khi chồng tôi cùng chú tôi thành lập Trường Đại Học, tôi đã cố gắng sửa soạn cho họ những sinh viên trẻ tuổi được trang bị không những với kiến thức mà còn có cả Tin Lành nữa. Qua việc làm này, tôi muốn họ yêu mến đất nước và dân tộc của họ.
Lúc ấy, chồng và chú tôi là người chưa tin Chúa. Nên điều duy nhất mà tôi có thể làm là thuyết phục chồng tôi xây một nhà nguyện trong khuôn viên trường. Tim tôi đập mạnh và nước mắt tôi trào ra. Cuối cùng, Ngài cũng đã xây Trường Đại Học Han Dong, ngôi trường chắc chắn rất quý báu trong mắt Ngài. Ngài hẳn lấy làm vui lòng lắm.
Tôi hết lòng ao ước được tuyên dương và ca ngợi những người ở Trường Đại Học. Tôi không thể chờ đợi lâu hơn nữa cho nên dù chưa hỏi ý các con, tôi đã đặt vé máy bay và chuẩn bị giấy tờ cho việc sang tên chủ quyền đất. Tôi rời Hoa Kỳ về Đại Hàn trong lúc các tín hữu trong Hội Thánh bắt đầu kiêng ăn cầu nguyện.
Vừa về đến Đại Hàn, tôi liền đến Tòa Thị sảnh Bugok để lo những giấy tờ cần thiết. Qua Mục sư Ha ở nhà thờ Onnuri, tại Seoul, tôi gặp bà Kim, vợ ông Viện Trưởng Trường Đại Học. Ngay ngày hôm sau, tôi tìm đến Trường Đại Học tại Pohang.
Cơn mưa đầu xuân khiến cho thành phố Pohang trở nên ẩm ướt. Công việc xây dựng nhà nguyện đang được xúc tiến ở gần cổng trường Đại Học. Tôi có thể cảm nhận từng giọt mồ hôi và lời cầu nguyện của nhiều người trong từng viên gạch.
Lòng tôi rộn lên vì sung sướng khi tôi nhìn thấy những khuôn mặt sinh viên trẻ tuổi đang tươi cười trên khuôn viên ẩm ướt của trường Đại Học. “Chúa ơi! Cuối cùng Ngài đã làm công việc của Ngài. Ngài khởi sự thực hiện công tác cứu rỗi của Ngài tại Đại Hàn và trên toàn thế giới.”
“Ngài đem sự sáng đến cho bóng đêm
Ngài đem hy vọng trong sự tuyệt vọng
Ngài đem an ủi trong sự đau đớn
Ngài giơ cao ngọn đuốc rực sáng.”
Nước mắt tuôn dài xuống mặt tôi như những giọt nước mưa. Tôi được dẫn tới văn phòng Viện Trưởng, Tiến sĩ Y. K. Kim. Người đàn ông cao ráo tóc bạc này đang chờ đón tôi. Sau khi chào hỏi lẫn nhau, tôi lấy ra tờ giấy sang tên chủ quyền đất mà tôi đã giữ trong 40 năm và đưa cho ông.
Tôi cảm thấy ngượng ngùng vì đây chỉ là một sự đóng góp nhỏ nhoi. Nhưng đó là tất cả những gì còn lại trong tay người góa phụ đã 30 năm nay. Nó giống như hai đồng xu cuối cùng mà tôi có thể dâng cho Ngài. Ngài yêu tôi và đã vì tôi mà từ bỏ mạng sống của mình.
Khi tôi trình bày mục đích của chuyến viếng thăm và bày tỏ tấm lòng của tôi đối với Trường Đại Học, Tiến sĩ Kim rút khăn tay ra lau nước mắt mình.
Mọi giấy tờ cho việc sang tên chủ quyền đất được hoàn tất trong vòng hai tiếng đồng hồ.
Tiến sĩ Kim mời tôi nói chuyện với các Giáo sư tối hôm đó. Đó là lý do tôi đang đứng trước nhóm Giáo sư hiểu biết sâu rộng này. Đêm đó, Ngài đã dùng môi miệng của người đầy tớ cao tuổi này để đem lời Ngài đến cho họ. Sau này, tôi được kể lại lúc đó Trường Đại Học đang ở trong thời điểm gay go nhất. Các Giáo sư và nhân viên không nhận được hai tháng lương của mình. Người ta bắt đầu nghi ngờ kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho họ. Linh của sự tối tăm cấu xé tâm hồn họ.
Thế rồi một ngày không ai để ý tới, có một nữ Mục sư cao tuổi ở tận bên kia Thái Bình Dương bỗng nhiên xuất hiện ở Trường Đại Học ở Pohang, nằm tận cùng bán đảo Triều Tiên. Sau khi hoàn tất thủ tục sang tên chủ quyền đất, tôi nói với họ, “Đức Chúa Trời Toàn Năng rất yêu thương anh em. Ngài đã lập nên Trường Đại Học này vì sự vinh hiển của Ngài. Vì thế, Ngài sẽ giúp đỡ anh em trong mọi khó khăn nếu anh em bền lòng tin cậy Ngài và bước đi với Ngài cho đến cuối cùng.”
Sau khi họ nghe thông điệp của Ngài được phán qua tôi, họ tin chắc rằng Đức Chúa Trời đang hiện diện tại ngôi Trường Đại Học này. Đêm đó, ước nguyện cuối cùng của tôi là được thấy họ hầu việc Chúa đã xuyên thấu tâm hồn của các Giáo sư và nhân viên ở đó. Đó là thời điểm họ bắt đầu suy nghĩ về mối liên hệ giữa họ với Đức Chúa Trời và với những người khác. Bằng lời hằng sống đầy sự an ủi và tính thuyết phục của mình, Ngài đã đảm bảo với họ là Ngài sẽ giúp đỡ họ trong cơn tuyệt vọng.
Đêm hôm ấy, Ngài đã đem đến cho họ sức sống mới và bổ lại tâm linh họ. Kể từ đó, họ có thể bước gần hơn với Ngài. Chuyện là như thế đó. Đó là sự khôn ngoan và quyền năng của Ngài. Ngài biết những nhu cầu của con người và Ngài khiến mọi việc hiệp lại để phục vụ cho một mục đích tốt đẹp. Tôi dâng lời cảm tạ lên Ngài, Đấng sáng tạo nên muôn loài vạn vật.
Nếu tôi có được lời ước cuối cùng thì đó là từ Trường Han Dong mà Ngài đã xây cho chính Ngài, sẽ dấy lên nhiều thanh niên nam nữ trẻ tuổi cho tương lai của Đại Hàn. Ngôi Trường sẽ trở nên một nơi gây dựng đức tin mà từ đó nhiều con cái Chúa sẽ bước ra. Bất cứ nơi nào họ đặt chân đến, họ cũng sẽ trở thành ánh sáng thật và muối của thế giới xấu xa này.
Dân Làng Thành Bê-tha-ni
“Ôi Mục sư! Đã bao năm trôi qua kể từ lúc bà đi khỏi đây trong hàng nước mắt. Tôi đã cầu xin Chúa cho tôi được gặp lại bà và cầm tay bà trước khi tôi chết.”
Bà Hong chạy ra ôm chầm lấy tôi trước khi chiếc taxi còn chưa dừng hẳn. Chao ôi! Tôi đã ao ước gặp họ biết chừng nào. Họ là những người con yêu dấu của Ngài. Tôi nhìn kỹ họ và để ý thấy có nhiều vết nhăn hằn sâu trên khuôn mặt của họ. Một thời gian dài đã trôi qua. Tôi rời khỏi thị trấn nhỏ này trong nước mắt đã 25 năm. Tôi đã vô cùng thất vọng trước việc người ta lừa đảo để chiếm lấy các bất động sản. Tôi còn nhớ lúc đó tôi đi dọc theo con đường nằm dọc theo ruộng lúa và khóc. Tôi tự hứa với mình chỉ sẽ quay trở lại nơi này trước lúc nhắm mắt.
Tôi ngồi trong phòng khách và thấy càng nhiều khuôn mặt quen thuộc xuất hiện. Khuôn mặt họ đã thay đổi cùng với thời gian nhưng một điều mà tôi thấy không hề thay đổi, đó là tình yêu của họ đối với Ngài và đối với tôi sau bao nhiêu năm trường.
Từ đằng xa, con gái bà Hong đến chào tôi dù rằng cô đang phải chống nạn vì bị tai nạn xe hơi. Đêm trước đó, cô đã chuẩn bị cho tôi những món ăn thật ngon miệng. Ở đâu tôi có thể tìm thấy tình yêu quý báu và chân thật dường ấy? Thức ăn của họ là lương thực từ trời, giống như ma-na vậy. Đó là bữa ăn trong tình yêu và nước mắt. Đó quả là một thời gian quý giá vô ngần.
Ồ, tôi nghĩ đây chính là lý do tại sao Chúa tôi muốn ở cùng với người nghèo. Những người ngồi quanh chiếc bàn này là những người đã hứa nguyện yêu Ngài cho đến cuối cùng khi ngôi nhà nguyện trên núi này được xây cất cách đó đã lâu lắm.
Sau khi dùng bữa trưa, tôi hỏi họ liệu có thể lên núi thăm lại ngôi nhà nguyện không, nhưng họ đề nghị tôi không nên đi vì nó sẽ làm tôi đau lòng. Nhưng đó là chuyến đi cuối cùng của tôi, nên tôi muốn được nhìn thấy ngôi nhà nguyện. Tôi đến nơi và thấy đó là một nơi hoang vắng tiêu điều. Nhà nguyện lẫn hồ cá đều không còn nữa. Không còn lại gì cả. Tôi đi xuống núi và gặp ông Lee, ông nài nỉ tôi đến nhà ông. Bây giờ mọi chuyện đã thuộc về quá khứ và tôi muốn quên hết mọi sự.
Một lát sau, con gái của ông và vị Mục sư của cô bước vào. Tôi tiếp họ và chào hỏi họ. Ông Lee bây giờ đã già. Tôi cầm tay ông và hỏi thăm tình hình của ông. Nhưng ông không thể ngẩng đầu nhìn thẳng vào mắt tôi. Nếu ông còn cảm thấy xấu hổ trước một phụ nữ cao tuổi như tôi thì làm sao ông có thể đứng trước Ngài, Đấng nhìn thấu tấm lòng của mỗi người với đôi mắt rực lửa của Ngài.
Tôi thấy xót xa cho linh hồn của ông và tôi cầm tay ông rồi cầu nguyện cho ông. Tôi cầu xin lòng thương xót và ân huệ của Ngài giúp ông ăn năn để ông không phải hổ thẹn khi đứng trước mặt Ngài.
Tôi trở lại nhà bà Hong và sẵn sàng cho việc trở lên Seoul. Mỗi người tặng tôi một món quà nhỏ, gồm có dầu mè, dầu perrila, bột trái đấu, tiêu xay và nhiều thứ khác. Tất cả đều là những món quà của tình yêu thương. Tôi nắm tay từng người chào tạm biệt và hẹn gặp lại trên thiên đàng. Bà Hong đứng đó trên đường lau nước mắt của mình. Bà vẫy tay chào khi chiếc xe ô-tô phóng ra khỏi lối vào thị trấn cũ kỹ ấy. Tôi không nhìn thấy nhưng chắc là bà đã khóc nhiều lắm những ngày sau đó.
Tình yêu đối với đồng loại thật là một điều đẹp đẽ và quý giá biết bao trong mắt Ngài! Họ là những người không có lấy một lời giả dối và sự giả hình. Họ không có sự giàu có của trần gian nhưng họ có tình yêu thương. Đức Chúa Trời sẽ vui mừng đón họ khi họ đến vương quốc của Ngài. Họ không học cao và không có nhiều tài sản. Họ không tự hào về chính mình. Họ chỉ là những người dân quê nghèo nàn và bình dị. Nhưng kho báu của họ rất quý giá và mắt họ ngời sáng như mắt đàn nai. Họ là những người có thể tha thứ cho kẻ thù của mình, bao phủ kẻ thù bằng sự cầu nguyện và thậm chí yêu thương kẻ thù. Sự bình an của Ngài tuôn tràn trong những con người xinh đẹp ở thị trấn nhỏ bé yên tĩnh này. Họ thật sự là những người hạnh phúc đang bước đi trên đường hẹp của cuộc đời.
Bươn Tới Phía Trước
Vậy là đã 25 năm trôi qua kể từ khi tôi rời ngôi nhà thân thương của tôi tại Bu Am Dong. Cái cổng bằng thép và những bức tường đá vẫn còn đó. Tôi mở cổng và bước vào bên trong. Mọi vật thật tĩnh lặng. Tôi bước lên những bậc thang để đến sân giữa. Những ký ức ngày trước ùa về như thể mọi chuyện vừa mới xảy ra ngày hôm qua. Tôi nhìn vào bên trong từ cánh cửa để mở và nhìn thấy những bức tường, những cây cột, các bố trí…rất đỗi quen thuộc. Thậm chí căn phòng hấp quần áo vẫn ở nguyên vị trí ở bên kia cầu thang.
Sau khi chồng tôi qua đời, tôi phải tranh đấu để có thể giữ lại ngôi nhà rộng lớn này cùng với một chú chó chăn cừu. Giờ đây, phần đất được hiến tặng và những tòa nhà xung quanh được dùng làm trụ sở chính của tổ chức Chiến Dịch Sinh Viên Vì Đấng Christ. Căn nhà cũ của tôi được dùng làm nơi tiếp khách. Hôm đó là ngày Chúa Nhật; có nhiều sinh viên đi lên đồi. Thật là một cảnh tượng đẹp đẽ trong mắt Chúa.
Một sinh viên hỏi tôi, “Bà đang tìm ai vậy?” Tôi trả lời, “Tôi là khách mới đến, chỉ muốn ngắm nhìn một chút.” Khi tôi nhìn thấy nhiều sinh viên trẻ tuổi đi lên đồi, tôi thầm nguyện trong lòng xin Chúa ban phước cho họ.
Tôi nhìn lên và bắt gặp cây thập tự trên nóc nhà thờ Samae (ba tình yêu thương) nằm trên đồi. Đây là ngôi nhà thờ mà nhiều năm trước tôi đã dâng hiến cho Chúa trong nước mắt. Tôi muốn đến thăm nhà thờ trước khi quay về Los Angeles. Ngọn đồi hẹp và dốc dẫn đến nhà thờ vẫn y nguyên như thời điểm 30 năm về trước. Điểm khác biệt duy nhất là giờ đây có nhiều căn nhà mọc lên dọc theo sườn đồi. Tôi đã từng đi lên ngọn đồi này, đầu đội bữa trưa cho các công nhân xây dựng. Còn giờ đây, tôi cần có người giúp đỡ và không thể đi liền một mạch lên đồi được nữa.
Tôi lên đồi trước giờ thờ phượng sáng Chúa Nhật. Tôi nhìn xung quanh sân nhà thờ và thấy cây liễu nơi tôi đã từng ngồi khóc vì không có tiền trả lương cho công nhân. Tôi đi đến sờ vào thân cây và hồi tưởng lại quá khứ. Nhà thờ được trang hoàng lại rất đẹp mắt. Từng viên gạch của nhà thờ dường như đều chứa đựng nước mắt của tôi.
Tôi ngồi yên lặng ở hàng ghế cuối cùng và dâng lên Ngài lời cảm ơn chân thành nhất. Buổi lễ chấm dứt, lúc tôi sửa soạn rời khỏi nhà thờ thì bỗng bắt gặp một khuôn mặt quen thuộc. Tôi không chắc lắm nhưng cứ lên tiếng hỏi, “Bà là bà Lee phải không?” Bà quay đầu lại và nhận ra tôi ngay lập tức.
Bà thốt lên trong tiếng khóc, “Ôi, bà Yoo đây mà! Phải chăng đây là giấc mơ. Tôi đã cầu nguyện rằng tôi muốn gặp lại bà trước khi tôi qua đời. Ngài đã đáp lại lời thỉnh cầu bé nhỏ của tôi. Tôi muốn biết tin về bà đến nỗi hễ có ai sang Mỹ là tôi liền nhờ họ tìm giùm bà Yoo. Từ lúc bà ra đi, tôi luôn hy vọng một ngày nào đó bà sẽ trở lại và tôi đã đợi tại ngôi nhà thờ này đã 30 năm.”
Bà khóc thổn thức như một đứa trẻ. Mọi người nhìn chúng tôi với ánh mắt chứa đầy sự thắc mắc. Vị Mục sư Quản Nhiệm đến hỏi tại sao bà khóc. Bà giới thiệu tôi cho ông trong nước mắt. Ông hỏi tôi, “Vậy ra bà là bà Yoo à? Hằng năm, cứ vào lễ cảm tạ, chúng tôi đọc lại lịch sử nhà thờ và có tên bà Yoo. Phải đó chính là bà không?" Các bà trung niên vây lấy tôi và nhận ra tôi. Khi tôi còn ở nhà thờ thì họ mới là những thiếu nhi. Chúng tôi ăn trưa rất ngon và sau đó đi đến tư thất Mục sư. Tôi nghĩ tư thất Mục sư phải nằm cạnh nhà thờ nhưng chúng tôi phải đi qua một dãy nhà trước khi đến chỗ của ông. Bà Lee cùng đi với chúng tôi; bà nắm chặt lấy tay tôi như thể sợ tôi sẽ chạy mất. Chúng tôi bước vào nhà; bà rút ra quyển sổ địa chỉ và bắt đầu gọi cho những người bạn cũ.
“Đúng rồi! Bà Yoo đang ở nhà Mục sư. Hiện nay bà đã là Mục sư rồi. Tôi đã nói là bà sẽ về lại mà! Hãy đến đây mau.” Trong lúc bà đang gọi điện thoại thì tôi nghe lại một giọng nói quen thuộc ở trước cửa, “Bà Yoo, bà Yoo!” Người phụ nữ ấy đang khóc. Tôi nhận ra bà ngay. Vào thời điểm đó, Bu Am Dong đầy dẫy những người nghèo. Tôi đặc biệt gần gũi với người phụ nữ này và chia sẻ tình yêu của Ngài cho bà. Bà chạy ùa vào phòng, nước mắt ràn rụa. Tôi nhận thấy khuôn mặt xinh đẹp của bà đã có nhiều thay đổi với nhiều nếp nhăn xuất hiện theo năm tháng.
Bà ôm lấy cổ tôi và thổn thức khóc lớn tiếng. “Ngay cả khi mẹ ruột tôi sống lại, tôi cũng không thể hạnh phúc như thế này. Tôi còn nhớ trước khi bà sang Mỹ, bà đã đến thăm khu phố tồi tàn của chúng tôi lần cuối cùng. Bằng tiền máy bay của mình, bà đã mua cho chúng tôi một bao gạo và ra đi trong nước mắt sau đó. Từ lúc ấy trở đi, cứ mỗi lần tôi vo gạo nấu cơm, tôi lại nhớ đến bà và không kìm được nước mắt của mình."
Tình thương mà họ dành cho tôi không đến từ con người. Khi bạn cũ gặp lại nhau thì tình cảm tràn trề nhưng khi xa nhau thì tình cảm ấy cũng biến mất. Đó là bản chất của con người. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình thậm chí cũng trở nên nhạt nhẽo dần sau một khoảng thời gian sống xa nhau. Nhưng tình thương mà họ dành cho tôi được đâm rễ trong tình thương bất diệt của Đức Chúa Trời.
Ba mươi năm trôi qua mang đến nhiều thay đổi ngoại trừ một điều, đó là tình yêu mà Ngài dành cho tôi. Tình yêu của Ngài dành cho tôi thật sâu rộng và cao cả vượt quá sự tưởng tượng của chúng tôi. Những mối liên hệ sản sinh ra bởi tình yêu của Ngài vẫn tỏa mùi thơm tươi mới trước sự thách thức của thời gian.
Tôi cảm giác như mình đang say trong niềm vui và niềm hạnh phúc. Tôi hỏi họ, “Tại sao tư thất Mục sư lại bị dời đi? Nó đã từng ở bên hông nhà thờ mà?”
Bà vợ vị Mục sư trả lời, “Vị Mục sư đầu tiên nói bà Yoo đã bán căn nhà cho ông khi bà đi sang Mỹ, và ông đã cho thuê căn nhà ấy. Khi ông đi khỏi nhà thờ, ông đã mang theo luôn số tiền nhà. Tôi đã sống trong tầng hầm của nhà thờ trong 15 năm. Các con tôi không có đủ chỗ vì ở đó quá chật chội, vì thế năm ngoái nhà thờ cho chúng tôi mướn căn nhà này và chúng tôi chuyển đến đây.”
Khi tôi nghe lời giải thích ấy, tôi sực nhớ lại một chuyện. Vị Mục sư đầu tiên đi khỏi nhà thờ và sau đó ông sang Mỹ trước tôi. Tôi gặp ông ở Los Angeles và ông giúp các con trai tôi học hành cũng như kiếm việc làm. Một thời gian sau, tôi nghe tin ông nằm bệnh viện nên đến thăm ông. Ông cầm tay tôi nói, “Xin hãy tha thứ cho tôi.” Tôi đáp, “Tôi không có quyền tha thứ cho người khác. Chính tôi đây cũng là một tội nhân cần được tha thứ. Đấng duy nhất có thể tha thứ cho chúng ta là Đức Chúa Trời vì Ngài là Đấng vô tội." Ông qua đời chẳng bao lâu sau hôm tôi đến an ủi ông tại bệnh viện. Sự việc này hiện lên tích tắc trong trí tôi như một thước phim ngắn.
"Thưa bà (tôi dùng chữ Samonin trong tiếng Đại Hàn để xưng hô với bà vợ của vị Mục sư), chắc là có sự hiểu lầm nào đó ở đây. Tôi đã cung hiến nhà thờ cùng tư thất Mục sư cho Ngài thì làm thế nào tôi có thể lấy lại được?” Mọi người đều gật gù như thể đã tìm ra được lời giải đáp cho một câu đố hóc búa.
Hội Thánh nhóm lại vào buổi chiều để dự lễ cung hiến của nhóm phụ nữ. Họ mời tôi giảng và tôi cầu xin Ngài giúp đỡ. Trong lúc đứng tại nơi bục giảng, tôi cảm nhận được sự hiện diện của Ngài ở giữa vòng hội chúng.
Ngài đã giữ lời hứa của Ngài và đáp lời cầu xin của tôi. Ba mươi ba năm trước khi tôi ra đi, trong nước mắt tôi đã cầu xin Ngài giữ gìn Hội Thánh này. Giờ thì bông trái đã xuất hiện. Họ đã được chăm sóc chu đáo bởi Đấng Chăn Hiền Lành và đang trưởng thành về mặt thuộc linh. Các Trưởng lão, các Chấp sự cam kết phục vụ một cách trung tín Thân thể Ngài và đền thờ Ngài.
Tôi dâng lên Ngài sự ca ngợi và lời cảm tạ chân thành nhất từ trái tim tôi. Làn gió đầu mùa hạ thật trong lành và tươi mát vô cùng. Nắng chiều rực rỡ chiếu qua khung cửa sổ nhà thờ giống như tình yêu của Ngài đang phủ che cả Hội chúng.
Ba mươi ba năm trước tôi rời ngôi nhà thờ này trong nước mắt. Còn bây giờ, người phụ nữ hạnh phúc nhất thế giới này đã trở lại để chia sẻ mười hai giỏ đựng đầy niềm hạnh phúc của mình. Bà đang đứng đó trong những giọt nước mắt vui mừng của một đầy tớ Chúa cao tuổi. Chính sự sáng của Ngài đã xây dựng chiếc cầu muôn đời của sự tha thứ và sự hòa giải giữa chúng ta với Ngài. Cơn mưa ngày hôm qua khiến cho khung cảnh bên ngoài nhà thờ tươi hơn, xanh hơn trong muôn sắc màu của đầu mùa hạ.
Khi được ánh sáng của Ngài chạm đến thì vật thọ tạo của Ngài, thiên nhiên và con người đều trở nên những hình ảnh đẹp đẽ và tràn trề hạnh phúc như Ngài đã định sẵn từ buổi sáng thế. Tâm hồn tôi sải cánh trong niềm ao ước sâu xa về sự hiện diện vĩnh cửu của Ngài, như những đợt sóng không ngừng xô trên dòng sông sự sống, đức tin, hy vọng và tình yêu thương.
“Ôi! Quả thật tôi là người đàn bà hạnh phúc.”
* * *
Thời tiết ấm áp ở Los Angeles cùng cơn mưa gần nhất khiến cho cây tử đinh hương nở hoa sớm. Mùi thơm của hoa tử đinh hương lan tỏa đến cửa sổ của phòng cầu nguyện nhỏ của tôi ở trong góc nhà thờ. Mùi thơm thật êm dịu, như chính Ngài vậy.
Hôm nay là ngày Chúa Nhật, ngày của Đức Chúa Trời.
Tôi sửa soạn chính mình bằng lời cầu nguyện, và tôi cảm thấy phấn chấn khi biết mình sắp gặp lại gia đình đức tin yêu dấu của mình. Mỗi lần tôi chia sẻ về tình yêu kỳ diệu của Ngài là mỗi lần lòng tôi và chén tôi đầy tràn niềm hạnh phúc trong Ngài. Hôm nay tôi đứng trước gia đình để chia sẻ không chút ràng buộc về kho tàng “Hạnh Phúc” quý báu trong lòng tôi.
Tôi cầu nguyện để những người bền lòng và qua thời gian sẽ tìm được hạnh phúc thật và qua họ niềm hạnh phúc đó sẽ được chia sẻ cho những người khác nữa. Nếu có ai đó tìm được niềm hạnh phúc này nơi bạn thì đó sẽ là phước hạnh lớn lao của cả hai chúng ta.
Làn gió mùa xuân quyện cùng mùi thơm của hoa tử đinh hương. Và một lần nữa lòng tôi ngập tràn niềm hạnh phúc.
Lời Cuối
Giăng Buồm Trên Dòng Sông Hạnh Phúc
Từ ban đầu,
Trước khi thế giới nầy
Được Lời Ngài sáng tạo
Có một loại sinh vật duy nhất
Trong muôn loài vạn vật
Đã được Ngài chúc phước
Đã được Ngài nhận làm con
Theo hình ảnh của Ngài
Khiến Ngài rất vui lòng.
Nhưng trước khi được Ngài cống hiến niềm vui
Hay chia sẻ sự giàu có
Trong vương quốc vĩnh cửu của Ngài
Những con cái của Ngài
Đã theo kẻ tối tăm
Họ ra đi biệt tăm
Khỏi Thiên Phụ trên trời
Nguồn của mọi ánh sáng
Nguồn hạnh phúc, tình yêu
Một ngày kia lạ lắm
Chính Ngài là nguồn sáng
Đã từ giã thiên đàng
Xuống trần gian tội lỗi
Tìm kiếm đứa con hoang
Ngài hy sinh mạng sống
Để trả nợ yêu thương
Cho tội lỗi hoang đàng
Những người con đã phạm
Bây giờ đang hư mất
Bệnh hoạn và nghèo thiếu
Khổ đau và lang thang
Ngài đã mở con đường
Để người con đi hoang
Trở về cùng Thiên Phụ
Đầy ánh sáng chứa chan
Hạnh phúc và yêu thương.
Giờ người Cha nhân từ
Đang rộng vòng tay đón
Đang nóng lòng kêu gọi ,
"Hãy trở về với Ta,
Hãy tin tưởng nơi Ta,
Hỡi những ai nhọc mệt
Và nặng gánh ưu tư
Ta sẽ cất gánh nặng
Ta ban tặng tự do."
Hãy trở về nguyên trạng
Ngài yêu bạn thiết tha
Hãy trãi lòng mình ra
Với nổi buồn, ăn năn
Với thời gian vắng xa
Ngài hứa sẽ lấp đầy
Tràn ngập niềm hạnh phúc
Bạn không còn thất vọng
Ngài hứa, Ngài giữ lời.
Hãy kêu cầu Danh Chúa,
Giê-xu là Con đường
Giê-xu là Chân Lý
Giê-xu là Sự sống
Giê-xu là Tình thương."
"Người Đàn Bà Hạnh Phúc" Chia Sẻ Hạnh Phúc Thật
Trước hết, tôi muốn chúc mừng việc ấn hành quyển sách "Người Đàn Bà Hạnh Phúc," một quyển sách ghi lại lời làm chứng bản thân của Mục sư Yoo.
Từ đáy lòng tôi rất vui khi thấy nhiều người sẽ đọc được lời làm chứng nầy vì Mục sư Yoo có mối quan hệ đặc biệt với Viện Đại Học Han Dong trong sự cầu nguyện cầu thay. Quyển sách nầy được dịch ra nhiều thứ tiếng để dùng cho công cuộc truyền bá Tin Lành. Tôi cầu nguyện Đức Chúa Trời ban phước lành cho công tác tốt đẹp nầy.
Quyển "Người Đàn Bà Hạnh Phúc " giải đáp cho câu hỏi làm thể nào để trở thành một người đàn bà hạnh phúc thông qua những kinh nghiệm đau khổ và gian lao trong cuộc đời Mục sư Yoo kéo dài suốt 75 năm.
Câu giải đáp trước sau như một từ đầu cho đến cuối sách đã nói đến Ngài tức là Đức Chúa Giê-xu Christ. Nhờ Ngài mà bao nhiêu cuộc đời bất hạnh đã biến thành hạnh phúc. Những người đó bao gồm người cha trong gia đình, người vợ bị chồng bỏ, người phụ nữ bị chính cha mình phản bội, một người làm điệp viên cho Bắc Hàn bị án tù chung thân. Khi những người như thế tìm được và nhận lãnh câu trả lời kỳ diệu là "Ngài", thì họ tất cả đã trở thành những người hạnh phúc nhất thế gian.
Bạn có đang hạnh phúc không? Quyển sách nầy sẽ cung ứng câu giải đáp đúng đắn và bằng chứng thực sự về bí quyết để được hạnh phúc thật. Tôi cầu nguyện để nhiều người sẽ trở thành người hạnh phúc sau khi tìm được câu trả lời đúng đắn trong quyển "Người Đàn Bà Hạnh Phúc" nầy.
Gởi những độc giả được chúc phước
Đó là bảy tuần lễ lạ thường.
Từ lúc bắt đầu viết bản thảo của quyển sách, chúng tôi đã phải trải qua một cuộc chiến thuộc linh. Trong vòng một tháng, năm tai nạn xe hơi xảy ra ở nhà thờ là một trong số những thí dụ. Nhưng Đức Chúa Trời đã ban thiên sứ Ngài để bảo vệ mạng sống chúng tôi. Là một Trưởng lão trong Hội Thánh, tôi đã chứng kiến tất cả các phép lạ một cách riêng tư.
Không phải do khả năng con người mà tôi có thể dịch được quyển sách này sang tiếng Anh. Chính Ngài là Đấng đã ban cho tôi sức mạnh, sự khôn ngoan, sự hiểu biết và thời gian. Ngài đã ban cho tôi 28 tiếng đồng hồ trọn như một phép lạ của mười hai giỏ đầy trong lúc tôi bận rộn với công việc trọn thời gian, học kỳ cuối tại Đại Chủng Viện, bài thi thu hoạch, công việc Hội Thánh cùng trách nhiệm làm chồng, làm cha.
Xuyên suốt quá trình biên dịch, nhiều lần tôi cảm thấy không phải mình đang làm công việc ấy. Tôi luôn luôn cảm thấy có một sự rờ đụng thiêng liêng vô hình trên tôi.
Thật là một phước hạnh cho tôi khi được đồng hành với cuộc đời của Mục sư Yoo trong một thời gian ngắn. Việc viết quyển sách không phải là ý tưởng của bà. Chính Chúa đã muốn bà làm như thế và điều đó đã được xác nhận lại bằng nhiều cách khác nhau: khải tượng trong những giấc mơ, lời dự đoán của một nữ tiên tri người Nga và Lời của Ngài.
Khi bản tiếng Anh của quyển "Người Đàn Bà Hạnh Phúc" đang được chuẩn bị cho việc xuất bản thì chúng tôi đã nhận được nhiều bản tường trình cùng hồi âm từ bản dịch tiếng Đại Hàn. Toàn bộ quyển sách sẽ được đưa lên trang Web trên mạng Internet để mọi người có thể vào xem miễn phí.
Tôi muốn có lời cảm ơn ông Jim Bramlett, một anh em yêu dấu trong Đấng Christ, ban Thanh niên của nhà thờ tôi và Nina, người đã giúp tôi trong việc đọc và sửa bản in. Tôi cũng không quên sự kiêng ăn và cầu nguyện của các chiến sĩ cầu nguyện trong nhà thờ tôi. Tôi cũng cảm tạ Chúa vì tiện ích lớn lao của thư điện tử, mà nhờ đó nội dung quyển sách được truyền bá từ châu lục này đến châu lục khác.
Trong tuần này, bản dịch tiếng Nga do Tania Lee thực hiện đã được hoàn tất và đang trong giai đoạn biên tập.
Tôi tin rằng quý vị sẽ được chúc phước như chính tôi đây. Hãy tiếp tục tìm kiếm Ngài, là Đức Chúa Giê-xu Christ, Chúa chúng ta vì Ngài là nguồn hạnh phúc duy nhất cho chúng ta. Hy vọng được sớm gặp lại quý vị trong sự hiện diện của Ngài.
Maranatha! (Nguyện Chúa mau đến!)
Xin Chúa ban phước cho quý vị.
Tâm Tình Gởi Quí Độc Giả
Thật là một vinh dự lớn lao cho tôi khi được đóng góp một phần nhỏ nhoi vào công tác chuyển dịch quyển sách tuyệt vời này sang tiếng Anh.
Đó quả là một phước hạnh cho tôi. Tôi chưa từng gặp Mục sư Yoo một cách cá nhân. Nhưng từ khi bắt đầu đọc câu chuyện của bà, tôi cảm thấy như cả đời mình tôi đã biết về bà. Dường như tôi đang thật sự sống cuộc đời bà cùng với bà và đang cùng bà học biết về Cứu Chúa tuyệt vời, là Đấng không có giới hạn trong mọi đường lối của Ngài.
Và đó là đường lối dành cho tất cả những ai đặt lòng tin cậy nơi Ngài và ở trong vương quốc đời đời của Ngài. Dù chúng ta, tôi và quý vị, các độc giả yêu dấu, không biết mặt nhau, nhưng nếu các bạn biết Ngài thì một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ biết nhau. Và tất cả chúng ta có cảm tưởng như thể đã quen biết nhau lâu rồi. Chúng ta sẽ biết mặt nhau!
Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời về Mục sư Yoo, về ân huệ và lòng thương xót của Ngài đối với cuộc đời của bà, về cách Ngài sử dụng bà để cảm động vô số cuộc đời và về sự bước đi theo Ngài trong sự vâng phục của bà. Bà là một tấm gương cho tôi; bài làm chứng của bà thật sự đã khích lệ tôi rất nhiều. Tôi tin rằng quý vị cũng sẽ có cảm nhận ấy.
Khi những điều này được viết ra thì chúng ta đang ở gần thời kỳ mà Ngài đã nói đến. Chúng ta đang gần thời kỳ chung kết của những lời tiên tri trong Thánh Kinh, gồm có cơn Đại Nạn và sự Trở Lại lần thứ hai trong đám mây và trong quyền năng của Đấng đã giáng thế như Chiên Con chịu chết gần 2000 năm về trước.
Xin đừng xếp sách lại và cất quyển sách này trước khi quý vị cầu nguyện với Ngài và đặt lòng tin cậy mình nơi Ngài, Đấng đã chết để quý vị được sống.
Ngài chỉ ở cách các bạn một lời cầu nguyện mà thôi. Bằng từ ngữ của chính mình, bạn hãy cầu xin Ngài, là Đức Chúa Giê-xu Christ bước vào lòng bạn để làm Cứu Chúa và Chủ Tể của đời sống bạn. Kinh Thánh chép rằng không ai đến được cùng Đức Chúa Trời mà không bởi Ngài và ai kêu cầu danh Ngài thì sẽ được cứu. Tôi đang cầu nguyện cho quý vị nếu như quý vị chưa thực hiện điều đó. Hãy kêu cầu Ngài ngay hôm nay.
Cùng với Mục sư Yoo, tôi hy vọng gặp mặt quý vị nơi thiên đàng. Chúng tôi sẽ trông chờ quý vị!
Nguyện Chúa ban phước cho quý vị.
Jim Bramlett