Người Đàn Bà Gieo Giống
Bánh Ma-na
Dâng Sinh Tế Sống
Sống Lại Từ Cõi Chết
Bánh Ma-na
Buổi sáng mùa thu bầu trời trên công viên Griffith ở Los Angeles đặc biệt sáng và xanh. Bầu trời xanh lơ chiếu sáng giống như mái nhà của ngôi thánh đường có tấm lợp trắng phủ trên nền bằng cỏ xanh khi người ta cùng nhau tụ họp để thờ phượng Đức Chúa Trời trong ngày thánh nhật.
Mãi về sau mỗi tín hữu mới nhận biết rằng đó là ý Chúa và kế hoạch kỳ diệu của Ngài. Họ không thể nào hiểu được tại sao họ phải rời những nhà thờ mà họ đã từng phục vụ khá lâu.
Tuy nhiên, đó chính là kế hoạch ẩn giấu của Ngài về một Hội Thánh Truyền Giáo Thế Giới phải được khai sinh qua quá trình của sự đau khổ và giải cưú. Ngợi khen và vinh hiển qui thuộc về Ngài! Buổi nhóm đầu tiên thờ phượng Ngài ở công viên thật là một hình ảnh đẹp.
Có một bài thơ mà tôi yêu thích phát xuất từ đáy lòng tôi:
"Như đóa hoa bị gai đâm và gió thổi,
Nỡ nụ cười tươi và lan tỏa hương thơm theo gió.
Đức Chúa Trời đón nhận con và khen ngợi con.
Phước hạnh của sự phục sinh sẽ đến sau thập tự giá.
Khi hạt giống chết đi, cây lúa mới có kết qủa.
Hãy chiến thắng khó khăn và không hề lui bước.
Chúa sẽ ban cho con mão triều đắc thắng."
Mỗi khi tôi cảm thấy cô đơn, Ngài nhắc lại bài thơ nầy và khích lệ tôi, "Đừng bỏ cuộc. Đừng chán nãn, đừng để kẻ thù thắng trận." Ngài thường phán, "Đây là con đường dẫn đến Thiên đàng."
Tuần thứ nhì ngày 15 tháng Mười Một năm 1992, chúng tôi tổ chức lễ tạ ơn cho Ngài tại nhà Chấp sự Lee. Đó là một phòng cao như đã được mô tả trong sách Tin Lành Mác. Trong khi mấy tín hữu ngợi khen và thờ phượng Ngài thì Đức Thánh Linh Ngài giáng xuống và đầy dẫy căn phòng. Chúng tôi tất cả đều đồng thanh cầu nguyện cảm tạ về tất cả ân điển và sự bảo vệ Ngài đã tiếp trợ chúng tôi.
Ngay giữa buổi cầu nguyện, Ngài phán với tôi bằng một giọng nói nghe rất rõ ràng trong lỗ tai, "Hãy xây dựng thân thể Ta." Tôi lắc đầu dường như tôi nghe lộn. Nhưng Ngài đã nói lại bằng giọng nói rõ ràng, "Hãy xây dựng thân thể Ta và Ta sẽ lãnh đạo dân của Ta." Lời Ngài rất kiên định. Làm sao tôi có thể bất tuân mà nói không được với Ngài?
Thế là một nhóm nhỏ người đã hiệp lại và xây dựng Hội Thánh của Ngài. Chúa Giê-xu Christ đã kêu gọi mười hai sứ đồ và lập họ làm nền cho Tin Lành trên toàn thế giới. Sau buổi lễ tôi đã can đảm nói lại tiếng phán của Chúa cho các tín hữu nghe. Tất cả đều nói A-men và dâng vinh hiển cho Ngài.
Sau bữa ăn trưa, chúng tôi họp lại và thảo luận về cái tên cho Hội Thánh mới thành lập. Lúc đó, Ngài lại phán với tôi lần nữa bằng một giọng nói rõ ràng trong lỗ tai tôi, "Bánh Ma-na." Tôi vô cùng kinh ngạc. Cái tên nghe đẹp lạ lùng!
Mặc dầu sống trên đất, chúng ta đang thuộc về Thiên đàng. Chúng ta đang ăn thức ăn thiên đàng vĩnh cửu. Chúng ta là những con người của lớp sương mai trên mặt đất giống như bánh ma-na. Đó là giờ phút chúng tôi run sợ khi chúng tôi tin thân thể Ngài đã được xây dựng. Chúng tôi cùng nhau cúi đầu và thờ phượng Ngài.
Dâng Sinh Tế Sống
Đã sáu năm rồi kể từ ngày Ngài bắt đầu xây dựng thân thể của Ngài qua chúng tôi. Ông bạn người Lỗ-ma-ni của chúng tôi, Mục sư Dumitru Duduman, đã đến thăm và nói tiên tri về Hội Thánh chúng tôi. Ông nói, "Chúa sẽ lay động các bạn và thanh tẩy các bạn ba lần để xây dựng thân thể của Ngài."
Quả nhiên Ngài đã làm như vậy. Nhiều người đã đến với Hội Thánh Truyền Giáo Manna (Manna Mission Church) của chúng tôi, nhưng nhiều người cũng bỏ đi trong những lò lửa thử thách. Chỉ có một số ít người còn ở lại và đã được thanh tẩy đức tin trở nên như vàng ròng.
Ngài đã kêu gọi chúng tôi vào trong đồng vắng và dạy chúng tôi về đức tin thật như thể nào khi trải qua gian khổ và đau đớn. Ngài dạy chúng tôi cách chiến đấu chống lại những con rắn độc dữ trong sa mạc. Ngài đã dạy chúng tôi cách tin cậy Ngài. Chúng tôi đã tạ ơn Ngài sau khi chúng tôi học biết ý nghĩa của sự từ bỏ mình vác thập tự giá mình đi theo Chúa trải qua tất cả những thử thách đớn đau.
Sứ đồ Phao-lô đã viết, "Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống không phải là tôi sống nữa, nhưng là Đấng Christ sống trong tôi. Nay tôi còn sống trong xác thịt là sống bởi đức tin đặt nơi Con Đức Chúa Trời là Đấng đã yêu tôi và phó mình vì tôi." Chúng tôi đã quì gối xuống, xưng nhận những lời nầy. Chúng tôi trở nên những môn đồ của Ngài.
Thật ra, đã hai năm qua Ngài đã khởi sự thành lập thân thể nầy. Chính nhóm người bé nhỏ nầy đã được Ngài sử dụng theo mục đích của Ngài. Ngài đã làm ứng nghiệm những lời Ngài và những lời tiên tri ở những nơi chốn và thời điểm khác nhau để đem dân Ngài về đất của Ngài trong thời đại cuối cùng.
Từ khi Liên Bang Sô-viết sụp đổ năm 1989, nhiều người Do Thái đã rời bỏ Nga để về nước Israel. Đó là cuộc Xuất Hành lần thứ hai. Kết quả là có nhiều người Do Thái Nga, bao gồm những Khoa học gia, những Kỹ sư, những Bác sĩ và những Nghệ sĩ đã nhập cư nước Israel. Nhóm nhỏ của chúng tôi đã khởi sự giúp đỡ họ qua một người Mỹ gốc Do Thái tên là Steve Lightle. Chúng tôi cũng giúp đỡ Hội Thánh của Mục sư Duduman ở Lỗ-ma-ni.
Khi Hội Thánh Truyền Giáo Manna ra đời, Ngài đã giao cho chúng tôi một sứ mạng khác. Ngài đã dẫn chúng tôi đến công tác ấn hành quyển Kinh Thánh Tân Ước tiếng Do Thái tại nước Israel. Chúng tôi đã trải qua nhiều chiến trận thuộc linh trong khi hoàn thành kế hoạch của Ngài dành cho chúng tôi, nhưng thân thể Ngài đã chiến thắng nhờ sự bảo vệ của Ngài như lời Ngài đã hứa.
Nhiều lần tôi kêu khóc với Ngài, "Chúa ôi, con không thể!" khi tôi dẫn một con chiên đi qua con đường núi hẹp. Một ngày kia, tôi hỏi Ngài, "Lạy Chúa, con quá mệt rồi. Con đã trên 70 tuổi. Xin hãy đưa con về nhà."
Ngài lại phán, "Hãy làm một sinh tế sống." Chăn chiên không phải là việc dễ dàng. Bệnh tiểu đường và áp huyết cao của tôi càng nặng hơn do sự mệt mỏi tạo ra. Mắt tôi không còn nhìn thấy rõ. Tôi mệt và yếu, nhưng vì bệnh tiểu đường, tôi không được phép giải phẩu mắt.
Lần đầu tiên năm 1995, tôi đã không dự được lễ đón Giáo Thừa. Tôi nằm trên giường mắt mờ, sức yếu. Thậm chí tôi không thể uống được một ly nước lạnh. Tôi phải vào bệnh viện vào tháng Giêng. Huyết áp của tôi trên 300. Dù uống thuốc huyết áp cũng không giảm. Các Bác sĩ đã khám bệnh và xét nghiệm tôi nhưng họ đã không tìm được nguyên do, ngoại trừ bệnh tiểu đường. Tình trạng còn tệ hơn khi hôm sau mí mắt tôi không nhấp nháy được. Tôi cố mở mắt nhưng không mở được. Họ thử áp lực mắt của tôi và các sóng trong óc tôi nhưng họ thấy không có gì sai trật cả.
Sau khi thử nghiệm rất kỹ, Bác sĩ mắt của tôi đã nói với tôi, "Dây thần kinh thứ ba trong mí mắt trái của bà bị tê. Vì cớ tuổi già, hầu như bà không thể hồi phục dây thần kinh đó."
Điều gì đã xảy ra cho tôi? Mắt trái của tôi bị mù và huyết áp của tôi vẫn còn cao. Tôi nghĩ đây là lúc Ngài đưa tôi về nhà.
Từ bệnh viện tôi về nhà vào ngày 6 tháng Giêng. Đầu tôi bị đau do áp huyết cao, cứ vẫn trên 300. Tôi đã chườm bao nước đá trên đầu suốt đêm để làm giảm cơn đau. Vào rạng sáng, tôi bò khỏi giường và quì gối trước Ngài. Tôi thưa, "Lạy Chúa, xin hãy cất con đòi già yếu của Ngài đi. Con quá yếu. Mắt trái của con đóng lại và mắt phải của con không thấy đường. Bệnh tiểu đường và cao huyết áp đã đến mức tệ nhất. Con quá mệt. Lạy Chúa, con bỏ hết mọi sự. Nếu Ngài muốn giao cho con việc gì nữa, xin hãy ban cho con sự sống. Nếu không, xin hãy cất con đi. Con đau quá, Chúa ơi."
Tôi nhìn lên tủ thuốc bằng mắt phải. Tôi chỗi dậy và lấy hết thuốc ra khỏi tủ, đó là thuốc trị cao huyết áp, thuốc trị bệnh tiểu đường và thuốc chữa mắt. Tôi ngước lên nhìn Ngài với cả tấm lòng và linh hồn của tôi.
Buổi sáng Chúa nhật hôm đó, tôi đặt một miếng băng lên mắt trái của tôi và có hai nữ Chấp sự đến giúp tôi bước lên các bậc thang của nhà thờ. Khi tôi vừa khóc vừa bám lấy tòa giảng, chân của tôi run rẩy, tôi nghe Ngài phán, "Hãy làm một sinh tế sống."
Sống Lại Từ Cõi Chết
Tôi đang bất tỉnh. Tôi cảm thấy thân thể của tôi từ từ rơi xuống như chiếc tàu đang chìm. Tôi nghĩ tâm linh tôi sắp rời thân xác tôi. Tôi nghe những tiếng cầu nguyện nức nỡ. Tôi không thấy rõ nhưng biết rõ những đứa con gái thuộc linh của tôi đã đến quanh giường để cầu nguyện cho tôi mỗi ngày. Sự cầu nguyện tha thiết nầy đã chạm đến ngai của Ngài. Từ từ, tôi tỉnh lại.
Tối thứ Sáu cũng trong tuần đó, tôi đến nhà thờ với sự giúp đỡ của những cô con gái thuộc linh của tôi. Tôi nằm xuống trước tòa giảng. Tất cả các tín hữu trong Hội Thánh chúng tôi đã hiệp lại xung quanh tôi và khởi sự cầu nguyện tha thiết xin Chúa chữa lành cho tôi bắt đầu từ 8 giờ tối cho đến 8 giờ sáng hôm sau. Họ khóc lóc cầu nguyện, nài xin Chúa đổi thân thể và đôi mắt của họ thế cho tôi để tôi được chữa lành. Không chút sợ hãi, họ hứa sẽ dâng hiến cho Ngài chính đời sống họ nếu Ngài mở mắt trái của tôi.
Những lời cầu nguyện nầy tiếp tục vài tuần mãi cho đến ngày 15 tháng Hai, đúng vào ngày thứ 40. Vào ngày đó, mắt trái tôi mở ra. Tất cả các tín hữu Hội Thánh của tôi đã nhìn thấy bàn tay lạ lùng của Ngài và hết lòng ngợi khen Ngài. Qua biến cố nầy, bệnh tiểu đường và bệnh cao huyết áp của tôi đã được chữa lành mà không cần bất cứ thuốc men nào. Cho đến nay, tôi không uống bất cứ loại thuốc nào.
Qua biến cố thách thức nầy cả Hội Thánh của tôi đã nhận được ân tứ và quyền năng để trở thành những chiến sĩ cầu nguyện. Đức tin của họ tăng lên và họ bắt đầu tin cậy chỉ một mình Ngài mà thôi. Tôi là một nhân chứng sống của tất cả những phép lạ.
Rồi từ công tác truyền giáo cho nước Israel, Ngài đã dẫn Hội Thánh chúng tôi cho công cuộc truyền giáo thế giới. Lúc nầy chúng tôi đang thuê tầng hai của một toà nhà thuộc một Đại Chủng Viện và một trong những sinh viên của Đại Chủng Viện Thế Giới Thứ Ba ở trọ tại tầng dưới. Khoảng một năm, Hội Thánh chúng tôi đã giúp đỡ Đại Chủng Viện và các sinh viên bằng sự cầu nguyện và của cải của chúng tôi.
Vào tháng Mười Hai năm 1996, một Trưởng lão của Hội Thánh chúng tôi đã đem đến cho tôi một quyển sách nhan đề, "Một Sự Mặc Khải Thiên Thượng Về Hoả Ngục" viết bởi Mary Baxter. Sau khi đọc xong trong bản dịch bằng tiếng Đại Hàn, tôi nhận thấy đây là quyển sách tốt có mục đích truyền giáo nhằm giải thích về sự thực của hỏa ngục. Sau khi cầu nguyện, chúng tôi học biết rằng đó là ý Ngài muốn dùng quyển sách nầy để mở mắt thuộc linh của tôi. Chúng tôi đã cầu nguyện suốt hai tháng trong cuộc chiến thuộc linh.
Hội Thánh đã mua một số lượng lớn sách nầy bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Đại Hàn. Chúng tôi đã gởi nhiều quyển cho các Giáo sĩ Đại Hàn khắp nơi trên thế giới. Chúng tôi đã cầu nguyện và gieo giống để ít ra một linh hồn được đến với Ngài qua quyển sách nầy. Chúng tôi vâng theo ý muốn Ngài. Chúng tôi tin tưởng Ngài sẽ tưới bón và gặt hái trong mùa của Ngài.
Sau đó Hội Thánh chúng tôi đã mua thuốc men và gởi đến cho các Giáo sĩ khắp nơi trên thế giới để giúp họ duy trì sức khoẻ. Họ cần những thân thể khoẻ mạnh để truyền bá Tin Lành.
Ngài có một mục đích đặc biệt cho những tôi tớ của Ngài. Ngài dùng Hội Thánh chúng tôi liên hệ với những tôi tớ khiêm tốn của Ngài khắp nơi trên thế giới là những người đã sẵn sàng hy sinh đời sống vì cớ Chủ của họ trong thời đại cuối cùng. Ngài dùng chúng tôi như một trung tâm hổ trợ những vị Giáo sĩ nầy qua sự cầu nguyện và sự dâng hiến tài chánh.
Tháng Mười năm 1997, một năm rưỡi sau, mí mắt bên phải của tôi đã đóng lại y như trước đây. Tôi lại muốn biết lý do tại sao? Tôi đã tìm kiếm Ngài và cầu nguyện tha thiết xin Ngài bày tỏ ý Ngài. Cả Hội Thánh lại bắt đầu kiêng ăn, ăn năn về sự bất trung và sự thiếu vâng lời. Họ đã ăn năn về đức tin nửa chừng của họ và họ đã tái dâng mình cho Chúa là Đấng đã phó mình vì họ.
Lạ lùng thay, mí mắt bên phải của tôi đã mở ra trở lại vào đúng ngày thứ 40! "Mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời là những kẻ đã được gọi theo ý muốn Ngài đã định." Điều đó đúng như lời Chúa hứa với chúng tôi. Ngài đã dựng nên loài người từ bụi đất và ban cho họ hơi sống. Loài người trở nên loài có sanh linh. Thậm chí Ngài điều khiển cả những tư tưởng của họ. Không một con chim sẻ nào rơi xuống đất mà không theo ý của Ngài.
Tôi đã nhìn vào gương soi và kinh ngạc mở mắt phải ra. Ngài lại đến và phán với tôi lần nữa, "Hãy làm chứng nhân cho Ta cho đến tận cùng trái đất." Ngài đã phán cũng những lời đó với tôi 33 năm về trước trong một phòng khách sạn tại Đài Loan. Lúc đó tôi còn trẻ, khoẻ và giàu có với một người chồng hết mình ủng hộ tôi. Vì thế tôi đã can đảm trả lời vâng.
Lần nầy cũng vậy, tôi đã trả lời vâng, nhưng bây giờ tôi không có gì cả. "Con không có gì cả. Con quá già và quá yếu..." Tôi nghĩ mình giống như bà Sa-ra và mĩm cười. Năm sau, tôi được giải phẩu cườm mắt và thị lực của tôi được cải thiện rất nhiều. Bây giờ tôi thấy được bình thường. Thậm chí tôi có thể đọc Kinh Thánh mà không cần kính. Tôi đã ăn năn vì không biết tạ ơn về việc Ngài cho tôi sáng mắt suốt đời tôi. Ngài đã cho tôi tất cả cách miễn phí vì cớ tình yêu vô điều kiện của Ngài. Ngài đã chăm sóc tôi và bảo vệ tôi trong mọi chi tiết nhỏ nhặt của đời tôi.
Như một người tớ già 75 tuổi đã bước đi qua trũng bóng chết, tôi phủ phục trước chân Ngài và thờ phượng Ngài với tất cả tâm thần và linh hồn của tôi.