Nói đến đi câu, ai mà không ham. Câu thì phải có cần, có lưỡi, có nhợ, có cước.Chỉ có một người câu không lưỡi mà vẫn dính cá to như thường, đó là Lã Vọng, cầnkhông lưỡi mà câu được con cá to tổ bố: cá Tể Tướng.
Câu có nhiều loại, câu cá, tôm, cua, lươn. Thời còn trai trẻ thì đi “câu gái”; câu được thứ gì cũng hấp dẫn cả ngoại trừ “câu gái” thì chỉ ôm hận thương đau, ê chề ...
Ngày còn nhỏ, một cây trúc, vài thước nhợ, năm mười lưỡi câu, xế chiều đến chạng vạng tối, ngồi bên bờ hồ Xuân Hương Đà Lạt, vừa ngắm những cặp tình nhân đi dạo đồi cù vừa chờ cá cắn câu. Khi thì trúng vài chú cá chép, cá lóc loại nhỏ (người miền Trung gọi là cá tràu), chạng vạng tối thì thường dính cá trê (catfish), đôi khi gặp được chiếc giày, v.v...
Đồi cù Đà Lạt ngày xưa còn nhiều bụi cây, nơi hẹn hò rất ư là lý tưởng cho nhiều cặp mà xuân tình đang phơi phới. Những bụi ngũ sắc rậm, cao, là những mái lều lý tưởng. Thằng bạn tui, không biết giống gì, hôm đó đi câu mà bị táo bón, chọn một bụi ngũ sắc để giải quyết bầu tâm sự. Cũng vì chuyện này mà xúi quẩy, hôm đó không có con cá nào cắn câu, vác cần về tay không!
- Mình yêu nhau như thế này. Sau này mà không lấy được nhau, chắc em chết mất! (hai cô cậu đang tâm tình)
- Ông đang bị táo bón. Nếu mà không ra được ông cũng chết luôn với chúng mày! (thằng bạn bị táo bón của tui)
Tui ham câu đến độ tui đi tứ xứ: Hà Tiên, Rạch Giá, Tân Châu, Châu Đốc, Bến Tre, Mỹ Tho, cầu Sài Gòn, rạch Bến Cát, Gò Công, sông Hương, núi Ngự ... Nơi nào có tình, có cá là tui vác cần đi câu. Đi đêm thì có ngày gặp ma! Đi câu hoài hoài thì cũng có ngày được cá. Tui câu được con cá “mập” ở Đại Học Khoa Học Sài Gòn. Tui treo cần, tui giải nghệ câu.
Mùa lạnh ở Canada thường kéo dài trên sáu tháng. Đồ đạc bị mốc, da dẻ thiếu vitamin D, thiếu Iode, hàng hóa cần xả đá, nên phải tìm về vùng biển. Tui đến Cape Cod, Virginia Beach, Myrtle Beach, Nags Head, để tắm biển. Đến nơi, sắp đặt xong xuôi là cùng bạn bè vác cần đi câu, khi thì cá, khi thì cua, mười lần như chục chỉ vác cần không về. Những lần sau đi tắm biển, tui chỉ đi câu tại vựa cá, vựa tôm.
Hai năm một lần, chuyển hướng đi câu, từ miền Đông tui qua miền Tây. Cứ khoảng năm giờ rưỡi sáng, anh em dẫn nhau đi câu. Khi thì Monterey, khi thì Vịnh San Francisco, $50 mỗi người là có một ngày giựt cá đã tay. Câu deep sea nếu hên thì được King fish hay Blue fish, thường là cá hồng, cá lưỡi trâu. Có năm, không thích câu deep sea thì vào gần bờ câu cá hồi, mỗi người có thể câu hai con. Đi chừng năm người thì thường có được vài ba con đem về làm sushi. Có năm phải ghé bờ mua vài con vì mấy bả đang đợi ở nhà, không đem cá về thì tốt hơn hết là trốn luôn.
Câu gần bờ phải quen sóng. Thường đi năm người, thì hết ba tay cho cá ăn chè. Nhớ có lần giao cho thằng em cột chèo, dân Nha Trang, quen nghề đi biển giữ túi đồ ăn cho chắc là trưa có gì lót bụng. Vừa ra cửa biển, thằng em nhắm mắt ngủ, che nắng bằng túi đồ ăn. Đến chừng cần cà phê, bánh mì thì ối trời ơi, ông thần ông địa ơi, mình đâu có mang soup đi đường đâu mà nó đưa lại cho tụi này toàn là soup nó tự nấu. Soup mà nó hâm nóng trong bụng nó, ai dám dùng. Ngày hôm đó đành nhịn đói, chịu lạnh cho tới lúc vào bờ.
Hết câu biển thì đi câu hồ, hồ nhân tạo, hồ cá salmon giống, cá loại này đem về lấy trứng, ướp bột chiên bơ, thêm một ngụm rượu thì thấy đã hết chỗ nói. Sacramento, California, đâu có giới nghiêm. Chờ đến giờ Tý, vắng người, ít người câu, thì yên chí có cá. Đi câu mà còn đem theo bia rượu, định nếu dính con nào thì làm cá nướng trui tại chỗ.
Lần đầu đi câu đêm kiểu này mới thấy hào hứng. Vừa ném cần câu xuống nước là dính cá ngay. Một sợi cước mà gần năm lưỡi câu, không dính cá thì đừng bao giờ đi câu nữa. Cá đầy mặt hồ, đâu cần mồi. Có lưỡi câu là có cá, cá không ăn bằng miệng mà cá ăn bằng lưng. Phen này tha hồ mà nhậu. Chưa kịp kéo con nào thì đèn pha rọi sáng. Con kiến còn thấy huống chi là con người! Thằng nào thằng nấy tướng như trâu, quần áo rằn ri, súng ống đầy người, ào ào tấn công tụi này. Nào là trình giấy tờ, nào là thổi hơi để đo độ rượu, nào là gom cần câu.
Cả bọn phải úp mặt vào thành xe, chưa hiểu chuyện gì mà sấm sét ùn ùn kéo đến như vậy. À, hiểu ra rồi! Tụi này là Fish and Game, giống như kiểm lâm ở Việt Nam, nhưng ở Mỹ, tụi này dữ đứng hàng thứ nhì, chỉ sau thuế vụ. Tụi tui là dân lương thiện, làm gì đối xử như đi bắt ăn cướp không bằng! Ba thằng cầm cần câu, nộp phạt mỗi thằng $500. Bốn thằng không cầm cần câu phải về trạm cảnh sát thở cho hết rượu, kèm $100, hai giờ sau được về.
Ai đời đi câu mà đến hồ cá giống của chính phủ tiểu bang Cali để câu. Đã câu “trộm” mà còn bảo tụi Fish and Game nó phải đối xử tử tế với mình, trời ơi !!!!!. Lần này không ăn được cá mà bị cá ăn. Lớn đầu còn tin thằng em, nó bảo là nó câu hai ba lần rồi, có khi nào bị bắt đóng phạt đâu? Đừng tin những gì mà mấy thằng đi ăn trộm cá nói.
Ai bảo đi câu là khổ
Đi câu sướng lắm chứ
Cầm cần câu ta ...
Địa bàn câu rất rộng, câu bờ, câu bụi, câu biển, câu hồ. Lần này chưa bỏ câu, lên tận Oregon, chỉ hai giờ là ra đến bờ biển câu cua. Ghé mua lòng gà, ruột cá. Lên tàu của thằng bạn, chạy vòng vòng cách cầu tàu vài trăm thước rồi thả giỏ. Chạy giáp vòng trở lại, kéo thật nhanh giỏ câu lên tàu. Vừa lựa cua, vừa đo. Con cái ném lại xuống biển, con đủ kích thước cho vào cooler. Nếu có sẵn bếp gaz, luộc cua cái tha hồ. Nhớ đừng mang cua cái lên bờ, nó kẹp đấy, nó kẹp tờ con công xanh $500 một con đấy.
Ngày hôm đó mười thằng ôm về cho gia đình mười con cua. Mấy bà chê ít, nhưng mỗi bà chỉ xài có nửa con rồi chạy làng. Đúng là con mắt to hơn cái bụng! Còn này nữa, khi mua lòng cá đầu cá, tụi Mỹ dễ thương chi lạ, biếu thêm cái đầu cá mú. Da đầu cá xanh rêu rất đẹp, đẹp hơn tượng “nữ thần tự do” ở New York. Tụi này định đem về ướp khô làm kỷ niệm chuyến đi câu cua.
Gần đến nhà, phone về nhà chuẩn bị bạc hà, cà chua, hành ngò, rau thơm và luộc bún. Đám đàn ông sẽ trổ tài phục dịch các bà bữa ăn tối. Tui mượn ông anh vợ cái búa bửa củi, hì hục, mười lăm phút sau bửa được một phần tư đầu cá, ba phần còn lại đen chôn. Cái đại gia đình ngày hôm ấy hì hục với nồi canh chua nấu xổi, chỉ với một phần tư đầu cá, thịt trắng phau, thơm, ngọt ơi là ngọt. Con cá này là cá hoàng hậu chứ không phải cá thường. Riêng có cái đầu mà hai anh em phải khiêng thì đủ biết nó to cỡ nào! Cua ngọt, canh ngon, mấy bà tưởng bở dễ làm, nhờ tui làm sạch ba phần tư đầu cá còn lại để ngày hôm sau chén tiếp. Không! Không! Tui không làm nữa! Nhìn hai con mắt cá nhìn mình, tui chịu thua, tui sợ gặp Hà Bá lắm vì con cá này là vợ của vua biển.
Hết câu biển thì câu sông, cũng tại Oregon. Dòng sông Columbus có giống cá làm gỏi cũng ngon, làm cà-ri cá cũng tuyệt. Riêng cá này làm chả cá Lã Vọng (Hà nội, Thăng Long ...), ướp nghệ, gia vị, nướng lên rồi rắc vài cọng thì là, chưa có tiệm Việt Nam nào trên đất Mỹ sánh kịp (bảo đảm trăm phần trăm). Ai không tin tui kêu luật sư kiện đấy. Sturgeon (esturgeon), con cá không xương, chỉ có sụn.
Có tàu, có đi câu là có cá, nhưng có điều luật lệ thì rõ ràng. Cá ngắn hơn 42 inch không lấy, dài hơn 72 inch cũng thả. Có lần thằng em cột chèo của em vợ tui câu được con dài hơn 72 inch. Nó tính gọn, cắt bớt phần dư ném đi, ráp lại cho nhỏ hơn rồi chở về nhà bỏ tủ đá, để dành lai rai. Tổ trác, mười lăm phút sau, cũng tụi Fish and Game vào nhà làm thằng nhỏ đóng phạt mệt nghỉ vì đâu phải lần đầu nó làm ảo thuật đâu, biến cá dài thành cá đúng size. Bà con đi câu trên dòng sông này nên lưu ý, dân ngồi trên bờ thường đặt ống dòm theo dõi mà mình không biết. Đừng tham mà dính chấu đó bà con. Sống trên đất Mỹ, làm bạn với ai cũng tốt, nhớ đừng mời thuế vụ và kiểm lâm Mỹ vào nhà nhậu.
Dòng sông Columbus, Oregon, mùa xuân, trời lành lạnh, đi câu thì còn gì bằng. Ngược lại đi câu mà câu được mùa xuân, tui nói sai rồi, đâu có giống gì, con gì tên là “mùa xuân”, cá, tôm, cua, mực, con gì tên “mùa xuân”? Thôi tạm ngừng viết, phone thằng em cột chèo. Nó dân biển, nhà nó có tàu đánh cá, chắc nó biết con “mùa xuân” sống dưới nước ... Nó cũng chịu thua! Quái ác thật, dân Khoa Học làm báo mà ra chủ đề là mùa xuân làm tui tẩu hỏa nhập ma. Hồi nào tới giờ có bao giờ bị nghẹn như lần này đâu! Văn đâu có xương mà bị mắc cổ ... Xuân ơi là xuân, xuân đâu hỡi xuân?...
Năm giờ chiều, 63 con người và hai cái 1/2 (hai bà bụng bầu) đặt chân lên cầu Bornholmer Strasse. Sung sướng hết biết! Ba ngày bốn đêm lênh đênh trên biển, cả bọn được đến đất tự do. Tui lại lộn nữa rồi, cầu Bornholmer Strasse, điểm giao tiếp được mở cửa tự do đầu tiên ngày 9 tháng 11 năm 1989 giữa hai miền Đông và Tây Đức chứ ở đâu xứ Thái! Hơn nữa, mình đến Thái trước ngày bức tường Bá Linh sụp đổ mà. Thôi không viết nữa! Ngoài trời mùa đông mà ngồi viết mùa xuân ... tui chịu thua Ban Báo Chí Xuân Khoa Học rồi! Tuyết đầy đường không lo ủi tuyết mà ngồi đó tưởng tượng cỏ non, mạ mướt, cỏ rậm, mạ trổ đòng đòng.
Đảo “Kô Kốt”, hòn đảo thuộc Thái Lan, cạnh biên giới Cam Pu Chia, nó thanh bình làm sao! Dân tình dễ thương chi lạ, cho nước, cho cà phê, cho bia ... Đàn bà con gái đến đâu cũng không quên sửa sắc đẹp, tranh giành tắm rửa cho hết mùi cá ươn trên tàu. Tui thì kiếm xin ít trái dừa tươi cho bà xã uống để da dẻ bả trơn tru lại, cho bả rửa mặt vì mấy ngày trên biển da mặt bả nhám rì còn hơn da cá óc nóc.
Dân Thái, tám mươi phần trăm theo đạo Phật. Người dân hiền hòa, nhưng nó phải đề phòng người Việt, một dân tộc đã có thời đánh họ chạy tơi bời khi mà Thái Lan mang tên là Xiêm. Cho nên chúng tập trung tụi này lại, không cho xí xô xí xào với các cô gái trên đảo.
Khoảng tám giờ tối, một chiếc tàu hải quân Thái đậu ngoài xa, cho tàu nhỏ vào bờ.Mỗi lần chở chừng mười anh hùng “biển lộ” ra tàu lớn. Chúng thả dây kéo từng người lên, rồi đón tiếp như những anh hùng từ mặt trận trở về. Ai cũng đi qua giữa hai hàng lính chào. Chúng nó chào tụi này bằng hai tay, chào như “xoa mạc chược”. Nó xoa từ đầu đến chân, áo quần túi xách lột ra dồn đống. Nhưng tụi nó cũng dễ thương chỉ lột mấy thằng đàn ông con trai.
Lết đến đầu tàu, được ngồi, bây giờ mới tỉnh hồn. Vợ ngồi đó, Lập ngồi đó, còn mình cũng đó. Gió biển lồng lộng, mát lạnh, rồi run ... Mả cha tụi nó, tui chỉ còn cái quần xà lỏn. Phải chi bây giờ tui trở thành tụi nó, tui lột truồng tụi nó luôn, cho tụi mày lỡ lạnh cho lạnh luôn, lỡ teo cho teo luôn.
Tội nghiệp Lập. Bây giờ cậu ta định cư ở Úc. Có còn nhớ tụi anh không hả Lập?
Lập vừa khóc vừa nói:
- Làm sao lên đảo sống đây anh?
- Ai sao mình vậy mà em ...
Tụi này biết Lập vì cùng đi trong chuyến tàu vượt sóng. Tàu chạy khoảng chừng đâu một ngày, Lập móc túi mười lạng (tui dùng tiếng Bắc đấy nhá) Kim Thành nhờ bà xã tui giữ dùm. Tên Lập này cũng thông minh vì biết bà xã tui mang bầu, nhiều chỗ giấu. Đến đảo, bà xã tui đưa lại cho Lập. Tui chợt nghĩ chắc em này bị tụi hải quân Thái xoa sạch rồi nên an ủi:
- Còn sống là được rồi em ơi. Đừng khóc, đừng tiếc, chuẩn bị làm lại từ đầu đi ...
- Mười lạng là chuyện nhỏ đó anh. Trước khi đi má em đoán biết em qua xứ người không học hành, cần sống. Bả thức đêm may cho em cái áo Jean, tự tay làm nút, trong bỏ toàn hột xoàn. To cỡ nào em không biết, nhưng bả bảo: “Vốn má làm ăn mấy chục năm, con qua tới đâu thì dùng nó mà sinh mà sống.”
Em Lập ơi, mấy chục năm rồi! Hết vàng, hết hột, em sống bằng cách nào? Em liên lạc với tụi anh đâu như hai ba lần gì đó rồi em bặt tin luôn. Anh cố tìm mãi nhưng chẳng thấy em hồi âm, sao không thấy hồi âm ... em ơi!
Hai giờ sáng, tàu cặp cảng. Lại cái màn lục xét, điền giấy tờ. Ba giờ sáng đoàn quân anh dũng đi bộ về đồn cảnh sát và được ngủ dưới gầm nhà sàng, chỗ mà trước đây, tụi nó dùng làm chỗ nuôi heo gà. May là gặp được bà con Việt Nam đến trước. Họ chia mùng, chia chiếu nên được ngủ ngồi. Trước khi ngủ, họ căn dặn tấn mùng cho kỹ không thì “xe tăng” nó tấn công. Mấy cha nội này riễu dở, dân tị nạn không vũ khí, còn cái quần xà lỏn, mà phải dùng xe tăng tấn công hay sao?
Bà con ơi, sáng rồi, “xe tăng” tấn công! Số là cảnh sát ở đây sợ dân tị nạn trốn nữa nên cho tụi này giải quyết nợ đời ngay tại chỗ. Tụi nó đào cái hố, trên gác hai tấm ván, cách chỗ nằm khoảng ba thước, ai cần thì ra đó xổ bầu tâm sự. Lâu ngày, “xe tăng” sinh sôi nẩy nở, con nào con nấy lớn bằng đầu đũa, dài hai lóng tay, da bóng lưỡng. Mặt trời lên là “xe tăng” dàn trận. Chưa từng thấy con giòi nào lớn bằng giòi Thái Lan, giòi này phải đưa vào sách kỷ lục.
Hay thật, không biết bả nhét ở đâu mà bả moi ra được một tờ 10 màu xanh của Hiệp Chủng Quốc. Nhờ biết ngoại giao bằng tay chân, tui cầm đưa cho bả một xấp tiền Baht, tui đi mua hai chai Coke cho bả và cho Lập. Phần tui một ly cà phê xay chừng, không đường không sữa. Lúc tới đảo Kô Kốt, dân Thái có cho cà phê nhưng đâu được uống. Bây giờ an nhàn hưởng lạc, ly cà phê nó ngon làm sao, nó thơm làm sao, nó phê làm sao! Quá đã, đã hết chỗ chê! Dân Việt mình xài chữ tuyệt cú mèo, “cà, cà ... phê, càng cà ... càng phê”!
Bà xã mua ba cái xà rông. Một để quấn tắm, một để thay, cái thứ ba, bả cắt xén sao đó may thành bốn cái quần xà lỏn. Tui hai cái, ông cậu hai cái. Ông cậu này cũng vui đáo để. Cậu này là em ruột của vợ bác thứ tư của tui. Tui bao thầu cho ổng vượt “trường hà” (vì vượt Trường Sơn thì đâu tốn xu nào). Cách đây vài năm tui biết ổng qua Mỹ nhưng ổng chả thèm phôn cho tui. Cậu ơi là cậu! Chỉ vì ba cái lá kim, lá mộc, mà cậu thành thủy, thành thổ, thành hỏa. Vì hai cái quần xà lỏn mà cậu lơ tụi này! Tui có bao giờ hỏi đòi cậu đâu? Nếu có đòi nợ, tui chỉ xin cậu trả lại hai cái quần xà lỏn, phần kia tui biếu cậu đó. Hay ở Úc, làm ăn khó khăn, cậu lơ tụi này? Không có đâu, tui biết cậu ngon lành mà. Ngày xưa đi học, Tây có dặn tui, đừng bao giờ cho bạn bè, bà con mượn tiền mượn bạc. Tui cãi lời thầy dạy nên mất bạc, mất tình, mất chì, mất chài, ... Tui quên cậu rồi, chỉ viết vài dòng vì phải viết cho trọn tập “Mảng đời không bình thường” của tui mà thôi.
Một tuần sau, bảy giờ sáng, bà xã kêu đau bụng. Tui cầm chai dầu xanh bảo bả xoa cho ấm. Dầu này thứ thiệt, sổ mũi, nhức đầu, đau bụng, xoa chút xíu là hết ngay, hơn hẳn “xuyên tâm liên” của xứ mình nhiều. Bả vẫn tiếp tục đau bụng. Tui chạy qua đồn cảnh sát kêu cứu. Tụi nó thương tình cho tui dẫn bà xã ra nhà thương. Nhà thương cách đó một cây số rưỡi. Càng đi bả càng đau. Tui định cõng bả nhưng làm sao cõng được. Ai đời mà cõng bà bầu! Mãi rồi cũng lết đến bịnh viện. Tay chỉ lên trời, tay vạch đất, bà xã vạch bụng, con y tá vạch mắt khám. Nó bảo không sao đâu, nó đưa vài viên thuốc trị tiêu chảy và bảo đi về đồn cảnh sát. Con này thuộc loại y tá miệt vườn, chắc ngày xưa trên đường ra mặt trận, nó giựt được cái bằng y tá ở trường đào tạo Thốt Nốt?
Bà nội ơi! Bị táo bón thì có, làm gì có tiêu chảy! Ba ngày, bốn đêm trên biển, thiếu nước, ăn toàn dưa hấu nuốt luôn hột, ông còn chưa cho ra được. Huống chi bà bầu, sợ cái đám “xe tăng”, làm sao không bón cho được. Tay chỉ vào hậu môn, tay kia múa Tài Chí, phồng mang trợn má, tui nói cho nó biết là tại cái đó không chịu ra đấy. Nó chả hiểu gì cả, đuổi tụi này về. Đau quá bà xã ngồi ỳ lại. Một lúc sau bà bác sĩ đến, lại cái màn múa tay, múa chân. Bà bác sĩ lại khám, khám xong bả bảo bà xã tui lên giường nằm. Chuyện gì đây, tui ra dấu nhờ bà bác sĩ giải thích lại dùm căn bịnh của bà xã chứ hồi nãy giờ bả nói tiếng Thái, tui tự dịch ra tiếng Việt nên mù tịt. Ai đời bác sĩ trông coi một bịnh viện mà không biết tiếng gì khác ngoài tiếng Thái! Tiếng không nói được thì tay chân nó nói dùm. Cuối cùng tui cũng hiểu bà ta nói gì.
Bây giờ là ba giờ chiều. Bà xã kêu đói, tui bảo nằm chờ tui, tui chạy ngược về trại, lấy ít đồ đạc, chạy ra chợ mua cái gì cho bà xã ăn chứ tui với bả từ sáng đến giờ có ăn uống gì đâu. Luôn tiện có anh người Miên, biết tiếng Việt và Thái, tui kéo đi làm thông dịch chứ tay chân tui làm sao nói lại bà bác sĩ. Nếu tấp vào Cam Pu Chia thì tui đâu có lo. Sáu Chi, bạn tui, ổng làm thông dịch thì quá ngon lành. Tiếng Cà Tha ổng làu thông kinh sử (tui viết cái này không xin phép anh nghe anh Sáu, ngon cứ chửi, chửi không đã cứ việc tuôn võ Miên, tui sẽ xài võ Tào Tháo). Một hộp phó mát đầu bò, một lon Coke, nửa ký nho, bà xã tui ăn không hết, mà cho đến giờ bả cứ mè nheo tui vì cái lần đi chợ đầu đời trên đất Thái của tui: đang đói, đang đau ai mà ăn được ba thứ thập cẩm này!
Bà xã rên, bà bác sĩ xí xô xí xào, anh chàng người Miên luyện bùa Lỗ Ban ở miệt Tân Châu, Châu Đốc đứng thập thò không chịu ra mặt. Chả nói với tui chả tránh nơi dơ dáy vì chả luyện bùa, sợ bùa hành, nên chả đứng ngoài cửa thông dịch là tốt rồi. Tui mà không nhờ chả thông dịch thì tui dộng chả rồi.
Bà bác sĩ hét:
- A Ả Ớ U I O, Ư Ơ ÔN, EN, MỆ ...
- Cha Miên hét ...
Tui hét theo ... cha Miên:
- RĂNG NHƯ ĐI CÂU, RĂNG NHƯ ĐI CÂU, răng như đi câu ...!!!!!!!!!!!
- RĂNG NHƯ ĐI CÂU, RĂNG NHƯ ĐI CÂU, răng như đi câu ...!!!!!!!!!!!
- RĂNG NHƯ ĐI CÂU, RĂNG NHƯ ĐI CÂU, răng như đi câu ...!!!!!!!!!!!
- RĂNG NHƯ ĐI CÂU, RĂNG NHƯ ĐI CÂU, răng như đi câu ...!!!!!!!!!!!
Bà xã tui “đi câu” bà con ơi!
Bốn giờ rưỡi chiều, nhờ bà xã, tui câu được cá trên đất liền bà con ơi! Tiếng khóc chào đời của cô con gái, “mùa xuân” của tui đây rồi! “Mùa xuân” nở trên đất Thái, bịnh viện Klong-Yai. Trên giấy khai sanh của con tui còn ghi rành rành, tên dài thòng thọc: “Thùy Dương - Trùng Dương -Thanh Bình - Thái Lan - Klong-Yai”. Hồi còn nhỏ tui nói nó là dân Thái, nó cãi tui, nó bảo nó dân Việt.
Đố các bạn nó dân gì ...? Con ai ...? Cháu ai ...?
Dân gì?...
Cháu ai?...
Con của ... T.T. Thích Sang Ngang (TSN)
Cám ơn bà nhà tui, bả đi câu “mùa xuân” dùm tui đó các bạn. Thoát nợ, trúng đề, đậu rồi! Cái đề thi Xuân Khoa Học quái ác thật nhưng cũng an ủi mình. Được đậu mà đậu vớt và được cùng bạn bè nhậu mừng ngày mình thi đậu là lên hương rồi.
Cám ơn anh bạn Miên, cám ơn y tá, bác sĩ bịnh viện Klong-Yai.
Ai bảo đàn bà không thích đi câu? Ha ... ha ... ha ... !
TB:
- Răng như đi câu:“rặng như đi cầu”, đẻ mà làm như là “tứ khoái” của VN: ăn, ngủ, ..., ỉa không bằng.
- Trích một phần trong tập hồi ký “Những mảng đời không bình thường”. Những mảng đời không bình thường là phần tiếp theo của tập “Những mảng đời thường” của văn sĩ Na Uy.
- Tặng bà xã cùng tất cả các bạn bè. Câu chuyện này đã được kể nhiều lần nhưng đến nay mới được phổ biến trên trang giấy.
- Tui chịu trách nhiệm tên tuổi những người tui viết ra là hoàn toàn thật. Ai phiền trách xin tiếp xúc trực tiếp.
- Dành cho báo Xuân Khoa Học, thích đăng thì toàn quyền.
Nguyễn Thúc Soạn
Canada, 5 December 2009