NĂM MỚI ÂM LỊCH
Sẽ bắt đầu vào nửa đêm ngày 13/02/2010
Đó là ngày Tết, hay đầu năm của người Việt và người Hoa.
TẾT CANH DẦN
Đây là dịp để mời các bạn tham-dự một cuộc hành-trình nhỏ trong thời-gian và không-gian, để nhớ lại các tập quán, phong-tục cũng như phong-vị quê-hương của ngày Tết, vì đó là lúc thích hợp nhất để cho ta sống lại một lễ-hội đầy âm-thanh, hương-vị, và màu-sắc. Nhưng trên hết, Tết là một lễ cho gia-đình, cho niềm hi-vọng và cho sự tưởng-nhớ đến ông bà tổ-tiên đã khuất.
Các nghi-thức bắt đầu từ 7 ngày trước Tết bằng lễ cúng đưa các ông Táo, hay Táo-Quân, thần giữ nhà cửa, bếp-núc. Theo cổ-truyền thì các vị thần nầy sẽ mang "sớ" lên tâu Ngọc-Hoàng Thượng-Đế về các việc xảy ra ở cõi thế-gian và dân tình trong vùng mà các ông cai-quản.
Bàn thờ tổ-tiên được trịnh-trọng thắp nến, đốt nhang, mùi hương, mùi trầm trong lư, đỉnh tỏa khắp nhà. Các món ăn đặc-biệt cùng với rượu ngon được dâng cúng sắp-đặt một cách kính-cẩn trên bàn thờ. Sau đó là xá, lạy trước bàn thờ để cầu xin, trong Sớ Táo Quân dâng lên Thiên-Đình, được nhiều điều thuận-lợi cho gia-đình.
Để tiễn đưa các ông Táo, người ta nấu chè để cúng và đốt giấy, cắt thành hình "áo mão cân đai" của quan-lại trong triều-đình cùng các hình chim hạc và cá chép mà các vị Táo Quân sẽ cỡi để đi chầu Trời, một tràng pháo nổ vang đánh dấu lúc khởi hành. Sau khi các vị thần đã chè chén no say thì trẻ con chẳng mất công chờ đợi, nhanh tay mang xuống các thức cúng trên bàn thờ để gia-đình cùng nhau làm tiệc.
Nhưng đây chỉ mới là dạo-khúc, nhạc khởi đầu, vì trong vòng một tuần nữa thì lễ Tết sẽ kéo dài ba ngày tròn. Tất cả mọi chuyện phải được sẵn-sàng:
- Bánh tét hoặc bánh chưng, theo khuôn mẫu chặt-chẽ, được gói ghém cẩn-thận trong lá chuối hay lá dong và được đem đi nấu cả đêm. Các bà thích so tài khéo-léo trong việc làm bánh nầy.
- Thịt heo được quết giã để làm chả hay được cắt thành khứa ướp nước màu, kho cả nồi với nước dừa.
- Đánh bóng các chân đèn, lư hương bằng đồng thau.
- Nhà cửa phải sạch-sẽ ngăn-nắp không chỗ chê và được trang-trí với tất cả nghệ-thuật, được chừng nào hay chừng đó, với hoa đào ở miền Bắc hoặc hoa mai ở miền Nam. Các liễn giấy đỏ tươi mang các dòng chữ Nho hay chữ Quốc-Ngữ viết theo lối chữ Nho, nói lên các lời dạy khôn-ngoan trong dân-gian hay bày tỏ sự hoan-hỉ, hoặc lời cầu chúc trong năm mới, qua các câu đối Xuân, được treo hay dán trong gian chính của căn nhà.
- Dựng nêu: Một cây tre rất dài, róc sạch lá chỉ để lại một chùm lá ở chót đỉnh. Nơi đó có treo một lá bùa đựng trong một ống tre, kế bên là một cái khánh (chuông nhỏ) màu vàng bằng đất sét nung, để ếm trù, xua đuổi ma quỷ không cho lai vãng, trong lúc Thần Táo vắng mặt không che-chở được, và ngày rước ông bà, không cho chúng theo gót của ông bà, tổ-tiên, xâm-nhập vào nhà cửa. Cây tre đó, cây nêu, được cắm ngay trên sân trước nhà.
Ngày cuối cùng trong năm, một ngày trước Tết, đường-sá trở nên vắng-vẻ và chợ búa, tiệm buôn lần-lượt đóng cửa liên-tiếp trong 3 ngày (mặc kệ du-khách). Tất cả mọi người sửa-soạn sẵn-sàng để đón vong hồn người đã khuất trở về trần-gian, đúng vào nửa đêm. Cả gia-đình sẽ tụ-họp trước bàn thờ, sắp đầy đồ cúng, để làm lễ "rước ông bà", giữa khói nhang nghi-ngút, ngạt-ngào hương trầm tỏa ra từ các lư, đỉnh. Một vẻ huyền-bí bao phủ mọi nhà. Mỗi người bái lạy 3 lần trước bàn thờ để cúng vái ông bà trong lúc pháo nổ rền vang bên ngoài, kéo dài tận hừng-đông.
Mọi người sẽ sống trong ba ngày hết sức đặc-biệt, tất cả mọi vấn-đề, mọi lo-âu đều dẹp bỏ qua một bên. Phải tỏ ra tích-cực vì đề-cập các khó-khăn, thất-bại trong những ngày đó sẽ mang lại khó-khăn, thất-bại cho cả năm.
Ngày Mùng Một:
Từ hừng-đông, mọi người đều thức dậy. Trẻ con được chưng diện quần áo đẹp-đẽ sang trọng nhất. Chúng được cho mặc áo quần mới, cắt may khá rộng (không nên hà-tiện vải-vóc vì theo sự mê-tín thì áo quần chật sẽ làm chúng không lớn được) và chúng sắp hàng theo thứ-tự nhỏ trước lớn sau, lần-lượt quì lạy, mừng tuổi mẹ cha.
Đến phiên mình, trẻ con đều vui-vẻ làm lễ vì sau thủ-tục lễ-bái ngắn ngủi nầy, mỗi đứa trẻ sẽ được nhận một phong bì đỏ, đầy tiền "lì xì", giúp chúng thực-hiện việc mua sắm những gì cả năm mơ-ước mà không được như:
- mua pháo
- chơi đánh lúc-lắc "bầu, cua, cá, cọp" hay đánh bạc, vì các loại cờ bạc chỉ cho bọn trẻ con chơi trong ba ngày Tết, và chúng phải chụp lấy cơ-hội này. Trong khi cha mẹ đi cúng ở đền, chùa hoặc sau nầy ở nhà thờ (ở Paris, một Lễ Thánh được tổ-chức ở nhà thờ, vào ngày đầu năm và ngày Chúa Nhật kế tiếp), trẻ con có dịp ra ngoài rong chơi để xem các trình-diễn trên đường phố. Ở mỗi góc phố, ta có thể xem múa lân theo nhịp trống điếc tai và tiếng pháo rền vang.
Nhưng các cuộc vui chơi không làm ta quên các tục cúng-kiếng như:
- Mâm cơm cúng ông bà mỗi ngày vào giờ cơm. Nhiều công-sức với cả tấm lòng thành được để ra làm mỗi buổi cơm đó. Những món ăn ngon nhất được dâng cúng ông bà ăn trước.
- Lễ tạ-ơn dụng-cụ hành-nghề, mỗi ngành nghề có cách cúng-kiếng của mình:
* Nông-dân thì tạ-ơn cái cày, thợ mộc thì tạ-ơn cái cưa ... và các vị thần bảo-hộ các dụng-cụ đó đuợc dâng cúng hoa quả, rượu, thức ăn và nhang khói.
* Kẻ sĩ phu và nhà nho thì khai bút đầu Xuân bằng một bài thơ nói lên sự hân-hoan ca ngợi cảnh đẹp của thiên-nhiên mong mang lại hi-vọng và hạnh-phúc cho bà con, đồng bào.
Riêng các cuộc thăm-viếng đầu năm ta phải rất thận-trọng. Nhân-cách của người khách có tác-động và ảnh-hưởng lên vận-mạng của gia-đình chủ nhà, mà mình viếng thăm, trong suốt cả năm :
* Một người đang chịu tang hoặc một phụ-nữ đang mang thai được khuyên nên tránh xuất-hành ngày nầy.
* Chỉ những người khách được xem như đạo-đức, sang giàu mới mong mang đến một năm hạnh-phúc.
* Có địa-vị cao trong xã-hội hoặc có con cái đông là các tiêu-chuẩn đòi hỏi nơi một vị khách viếng đầu Xuân. Nhiều gia-đình "bảo-thủ cực-đoan" đi đến mức đóng chặt cửa đối với mọi người và khẩn cầu sự viếng thăm của các kẻ tai mắt, quyền-thế.
Ngày Mùng Hai:
Ngày bắt đầu các cuộc thăm-viếng xã-giao hoặc để tạo mối quan-hệ láng-giềng tốt, chớ quên mang theo các phong bì đỏ đựng giấy bạc (thật) để lì-xì cho trẻ con chạy ra mừng tuổi.
Các hội-hè và lễ-lạc được tiếp tục với điều-kiện tuân theo một số qui-tắc vì mỗi cử-chỉ và hành-động được theo dõi.
Mỗi chuyện đều được suy-diễn:
- Cấm không được gây-gổ, nói tục, vì sẽ đem lại xui-xẻo và bất-hạnh.
- Làm bể chén dĩa là điềm xấu.
- Không nên làm việc hoặc may vá, vì nó mang đến sự cực-khổ và mồ hôi cho cả năm.
- Không quét nhà vì các nhát chổi trên sàn nhà sẽ quét Thần Tài ra khỏi cửa.
- Không dùng, trong khi nói chuyện, tên của vài loại thú (như chó, heo, khỉ) mà ta thường dùng để chưởi-bới kẻ khác vì nó mang lại sự thiếu may-mắn.
- Không đi vay mượn nợ ngày đầu năm, nếu không sẽ mắc nợ quanh năm.
- Khi xuất-hành ngày đầu năm phải chọn hướng tốt, giờ tốt, hạp với tuổi của mình.
Các buổi tối sẽ kéo dài trong sự hoan-lạc của các canh bạc và của các buổi họp thi-văn, tao-đàn mà các câu đố và ngâm thơ cổ được đưa lên hàng đầu.
Các tuồng hát cổ-truyền rất được ưa-chuộng vào thời điểm đó vì mỗi khán-giả, xuyên qua vở hát, muốn tìm được một điềm-báo trước cho tương-lai, cho nên các vở hát đều được kết thúc trong sự hạnh-phúc, tốt đẹp.
Ngày Mùng Ba:
Khi hoàng-hôn buông xuống, ta cúng đưa người đã khuất. Ta đốt "giấy tiền vàng bạc" để làm lộ phí cho các vong-hồn quay lại thế-giới bên kia.
Đấy là 3 ngày Tết, ba ngày của một cuộc sống vượt mức bình thường, gần như ở sát mức và thẩm-thấu với thế-giới siêu-phàm cùng "vũ-trụ ngoại càn-khôn". Vào ngày thứ 7 sau Tết, thì các ông Táo sẽ quay trở lại trần-gian, khi đó cây nêu sẽ được hạ xuống, nhưng lễ-lạc không vì thế mà giảm xuống. Nhiều nơi tiếp-tục cho đến ... tháng Ba, bằng nhiều cách khác nhau cho đến khi cạn túi.
Danh từ Tết có từ đâu?
Đối với một số người, chữ TẾT là đọc trại của chữ TIỆC, bữa ăn uống thịnh-soạn, linh-đình. Nhưng theo ông Thái Văn Kiểm, nhà Đông-Phương học, hội-viên Viện Hàn-Lâm Khoa-Học Hải-Ngoại Pháp, chữ Tết xuất phát từ chữ TIẾT có nghĩa là "mắt tre" hay "lóng tre", đơn vị đo lường thời-gian, dựa trên sự nối tiếp đều-đặn của các "mắt".
Tết và Xuân:
Tên gọi đầy đủ "Tết Nguyên-Đán" (nguyên: khởi đầu, đán: buổi sáng sớm) chỉ ngày đầu năm Âm-Lịch, nằm trong khoảng giữa 21/01 và 20/02 Dương-Lịch, nghĩa là :
- sau Đông Chí * của Dương Lịch 1 tháng (* solstice d’hiver, WINTER SOLSTICE, đêm dài nhất ở bắc bán cầu, ngày 21/12),
- và trước Xuân Phân * của Dương Lịch 1 tháng (*équinoxe de printemps, SPRING EQUINOX, ngày và đêm bằng nhau ở bắc bán cầu, ngày 20/03).
Thí-dụ ngày đầu năm của :
- năm Kỷ Sửu (2009) là ngày 26/01 Dương Lịch
- năm Canh Dần (2010) là ngày 14/02 Dương Lịch
Theo Âm-Lịch, mùa và tiết không được phân ra giống như Dương-Lịch, cứ ba tháng là một mùa: mùa Xuân là ba tháng đầu Âm-Lịch, và 3 tháng kế đó là mùa Hạ, mùa Thu và mùa Đông. Do đó, Tết còn được gọi là Lễ Hội Mùa Xuân, xuất phát từ đó. Nhưng ở các nước Bắc Âu, Mỹ, Canada, bắc bán-cầu, ta thấy rõ Tết ở vào giữa mùa Đông, tuyết rơi, gió lạnh, chớ nào phải mùa Xuân. Ngược lại, những người Việt ở Úc, Tân Tây-Lan thì ăn Tết giữa mùa Hè.
Thường có sự lầm-lẫn khi ta dịch chữ "équinoxe de printemps" ra là Xuân Phân, vì :
- Theo chuyển động biểu-kiến của mặt trời thì équinoxe de printemps được tính đúng vào lúc 12 giờ trưa khi mà ngày và đêm bằng nhau, đó là ngày 20/03 Dương Lịch.
- Theo Âm Lịch, Xuân Phân bắt đầu cùng ngày với ngày 20/03, équinoxe de printemps, của Dương Lịch, nhưng kéo dài 14 ngày.
Lễ Tết có nguồn gốc ở Trung-Quốc. Khổng Tử đã ghi ngày nầy vào danh-sách các lễ-lạc mà việc hành lễ định kỳ bị bắt buộc phải tuân theo để nhấn mạnh vai-trò của mỗi ngưòi trong gia-đình, cũng như trong vũ-trụ theo các nguyên-tắc mà ông ta đặt ra và được xem như nền tảng của xã-hội Trung-Quốc khi xưa.
Tết không còn được xem như một ngày lễ chính-thức ở Trung Hoa lục-địa và ở Nhật Bản vì các xứ nầy đã áp-dụng Dương Lịch và bãi-bỏ Âm-Lịch xưa của Tàu.
Âm Lịch:
Đó là lịch tính theo sự chuyển động của mặt trăng, gồm có 12 tháng, mỗi tháng có 29 hay 30 ngày. Do đó, một năm Âm-Lịch chỉ có trung-bình 354 ngày. Muốn bắt kịp lịch Grégorien thì cứ 3 năm phải thêm nguyên một tháng, tháng nhuận (mois intercalaire - intercalary month).
Mỗi năm được gán cho tên một con thú, theo thứ-tự của 12 địa chi của bản tử-vi:
Tí, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
kết hợp với một chữ trong 10 thiên can :
Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí.
Sau 12 năm, con thú (địa chi) sẽ quay lại, nhưng được ghép với một chữ (thiên can) khác. Xin nhắc là tên các con thú có thể thay đổi tùy theo xứ, nhưng không thay đổi đặc-tính của vận hạn của mỗi tuổi. Thí dụ: Sửu có thể là trâu hay bò; Mão có thể là thỏ rừng hay thỏ nhà; Mùi còn được gọi là trừu và Hợi thì có thể là heo nhà hay heo rừng. Năm nay ứng với dấu hiệu thứ ba của bản tử-vi, con Hổ đã quay lại kết hợp với chữ Canh.
Tục-ngữ Tàu có câu: "Tối đi ngủ với Cọp, sáng dậy không biết nó sẽ liếm mình hay sẽ nuốt mình."
Trong câu tục-ngữ đầy bóng gió nầy, cái ẩn-ý của sự khôn-ngoan khi xưa nhắc ta về sự quan-hệ mà tất cả chúng ta nên duy-trì với những khả-năng giới-hạn của bản-thân chúng ta.
Chỉ có sự cố-gắng liên-tục để cải-thiện, sửa đổi bản-thân thì chúng ta mới mong làm bạn với con Cọp ở trong chúng ta, vì người bạn đường tệ-hại nhất và nguy-hiểm nhất là chính bản-thân chúng ta.
Xin cầu chúc mỗi chúng ta, trong năm nay, "cỡi Cọp một cách thắng lợi, vinh-quang"
NHÂN DỊP XUÂN CANH DẦN
XIN CẦU CHÚC MỌI NGƯỜI
PHƯỚC, LỘC, THỌ
- Bác-sĩ Phạm văn Thanh
- Trần Hữu Chí