CUỘC CHIẾN NÔ DỊCH CON NGƯỜI VÀ MỘT SỐ NGUY  CƠ TỰ DIỄN BIẾN, TỰ CHUYỂN HÓA

Bài này tôi viết vào khoảng tháng 3/2022 và được chỉnh sửa, bổ sung thêm cuối tháng 5, đầu tháng 6 năm nay, 2023.

Xã hội loài người trải qua nhiều hình thái phát triển. Hiện nay với sự tiến bộ nhanh chóng của KHKT và Công nghệ, cuộc đấu tranh giai cấp giữa các thế lực tư bản bóc lột và người lao động, sau khi phe XHCN đứng đầu là Liên Xô tan rã, đã biến tướng trở thành cuộc chiến nô dịch toàn cầu với hình thức đặc biệt tinh vi.

Bài viết với mục đích giao lưu, trao đổi sự nhìn nhận, đánh giá của cá nhân.

Xin giới thiệu cùng các bạn đã từng ghé quá trang của tôi và có thể còn ghé qua nữa.

************

Như ta biết, kinh tế và chính trị, luôn gắn liền với nhau. Khởi đầu sự gắn kết nêu trên trong phát triển văn minh nhân loại được xác định bởi tiến bộ KHKT và công nghệ. Thực tế, trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ đã càng ngày càng tiến bộ, ở một số vấn đề có vẻ còn lấn lướt, thay thế vận mệnh của đấng sáng tạo – Tự nhiên.

Ngày nay chúng ta đang sống trong một cuộc chiến thực sự mà tôi tạm gọi là chiến tranh tổng hòa công nghệ nô dịch con người. Chiến tranh này là của những “chủ nô” nhằm nô dịch tận gốc những “nô lệ” – là phần còn lại của nhân loại trên thế giới.

Mục tiêu của cuộc chiến này là làm biến đổi con người thành “nô lệ tự giác” bằng cách sử dụng công nghệ nô dịch tác động đến tất cả các lĩnh vực: Giáo dục, văn hóa, kinh tế, quốc phòng an ninh, v.v. làm tất cả suy yếu, mất sức đối kháng và chuyển biến theo hướng có lợi cho các “chủ nô”.

Ở nước ta, tôi không thấy những nghiên cứu, thảo luận về chủ đề này.

Trước hết, chúng ta thống nhất khái niệm công nghệ nô dịch.

Theo Wikipedia mở [1], công nghệ là một tập hợp các phương pháp và công cụ để đạt được kết quả mong muốn; theo nghĩa rộng là việc vận dụng tri thức khoa học để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Công nghệ bao gồm các phương pháp làm việc, chế độ, trình tự hành động của nó [2],[3],[4]. Nô dịch là quá trình biến một con người thành nô lệ, phụ thuộc vào người khác, khi một người trở nên phụ thuộc vào người khác, anh ta bị tước cơ hội hành động khác đi. Người nô lệ là người không có sức mạnh để chống lại ý chí của người khác. Chế độ nô lệ là hoạt động buộc con người phải phục tùng ý chí của người khác, hình thành việc không thể tự do thể hiện ý chí của mình [5].

Như vậy, công nghệ nô dịch là các phương pháp, công cụ, chế độ làm việc và trình tự hành động nhằm nô dịch con người, biến con người thành nô lệ. Người thực hiện nô dịch gọi là chủ nô. Người bị nô dịch gọi là nô lệ.

Theo tôi, hiện nay cuộc chiến nô dịch tinh vi của các “chủ nô” đang ở giai đoạn nguy hiểm. Đó là nô dịch cộng đồng dân cư một cách trực tiếp dẫn đến tình trạng thuộc địa hóa quy mô toàn cầu. Nô dịch thông thường trước đây đã được thay thế bằng nô dịch tinh vi, đánh dấu bằng sự ra đời và hoàn chỉnh công nghệ nô dịch.

Trước đây, sự nô dịch được bắt đầu và thực hiện chủ yếu bằng quân sự. Hiện nay nô dịch được thực hiện theo công nghệ với đầy đủ các phương pháp, chế độ và trình tự hành động.

Cần nói rằng, mọi phát minh Khoa học, Kỹ thuật, Công nghệ, v.v. đều là những tiến bộ của trí tuệ con người. Việc sử dụng chúng cũng là con người, do vậy phụ thuộc quyết định vào ý chí và mục đích sử dụng chúng của chính con người.

Ví dụ, Internet là một phương tiện và công cụ được sử dụng để nô dịch.

Internet là gì? Là một “ngục tù” kỹ thuật số. Ngục tù đúng nghĩa, tuy rằng không giống như ngục tù trước đây – nơi giam chúng ta khi bị bắt.

Ở đây, chúng ta “bị tống vào tù” một cách tự giác. Chúng ta tự nguyện “vào tù” vả cảm thấy thoải mái trong đó. Mọi người được tuyên truyền rằng không cần Bách khoa toàn thư nữa, mọi thứ đều có thể tra cứu trên Internet, rằng không còn bất cứ câu hỏi hóc búa nào cần tư duy giải quyết nữa. Với luận điểm và suy nghĩ này, chúng ta sẽ tự nguyện chung tay xây dựng một xã hội tiêu dùng thụ động cho những người không có tư duy, trong đó có chính chúng ta.

Internet là phát minh của các nhà khoa học, phục vụ cho hoạt động khoa học nhưng đã được phát triển để đưa thành công nghệ nhận thức nhằm kiểm soát ý thức của đại chúng.

Đầu tiên, ta sẽ bị thuyết phục bởi ứng dụng internet trong hệ thống giáo dục. Để trả lời các bài kiểm tra, học sinh chỉ cần sử dụng điện thoại thông minh và mạng internet. Sau này, việc sử dụng internet của mọi người sẽ được ghi nhớ vào phần cứng của hệ thống và ý thức của chúng ta sẽ bị kiểm soát và dẫn dắt tinh vi một cách có chủ ý.

Một khi mạng internet bị trục trặc, không hoạt động, chúng ta sẽ cảm thấy bất lực, bị vô hiệu hóa. Các hoạt động kinh tế, thương mại, an ninh quốc phòng cũng ngừng trệ đáng kể khi chúng ta đã quen làm việc với hệ thống thông tin hành chính được số hóa.

Trong tay những kẻ “chủ nô”, Internet đã trở thành phương tiện nô dịch.

Gần đây, việc phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo – AI, hứa hẹn một bước nhảy vọt trong phát triển Cách mạng công nghiệp 4.0. Với công nghệ này, mỗi chúng ta được cam kết rằng sẽ có thể tự mình đứng trên vai toàn bộ nhân loại. Không những chẳng cần Bách khoa toàn thư, mà không cần cả học hành nữa. Chỉ cần học cách sử dụng AI và làm sao không để AI điều hành ngược lại con người là xong. Rằng con người được giải phóng khỏi mọi lao động nhọc nhằn, rằng đã có các cỗ máy thông minh làm thay mọi việc !!!

Chủ nghĩa phát xít đã trỗi dậy với một hình thái mới, được che đậy và nhân danh xu thế thời đại, rằng thế giới phẳng là tất yếu của phát triển.

Trong quan hệ quốc tế, chúng thực thi và tuyên truyền cái gọi là quan hệ dẫn dắt, hỗ trợ "từ thiện", cho vay ưu đãi, thúc đẩy hệ thống các giá trị, v.v. giữa "Các nước Phát triển" với "Các nước Đang phát triển" và với "Các nước còn lạc hậu". Đồng thời tạo ảo tưởng rằng "Các nước Đang phát triển" dần dần sẽ trở thành "Các nước Phát triển" ? và "Các nước lạc hậu" sẽ dần dần tiến lên thành "Các nước Đang phát triển" ?

Thử hỏi căn cứ vào đâu để phân chia thế giới thành "Các nước phát triển"; "Các nước Đang phát triển" và "các nước còn lạc hậu" ?

Chúng phân chia để tiện bề thực thi chính sách 2 mặt. Vừa dụ dỗ bằng các chính sách ưu đãi trong thuế quan các hàng hóa mà chúng khuyến khích xuất khẩu, vừa thúc ép chuyển đổi theo yêu cầu của chúng, chẳng hạn để được chúng công nhận có nền kinh tế thị trường, có nhân quyền và dân chủ thực sự, v.v. 

Ví dụ, ngày 9/6/2023, Mỹ loan tin đã thông qua luật tước vị thế “nước đang phát triển” của Trung Quốc. “Các nước đang phát triển” khác hãy lấy đó làm gương !

Trong một thông cáo công bố vào mùng 8/06/2023, một ngày trước cuộc Đối Thoại Nhân Quyền Liên Hiệp Châu Âu-Việt Nam tại Hà Nội hôm 09/06, tổ chức bảo vệ nhân quyền Human Rights Watch, trụ sở tại Hoa Kỳ, đã kêu gọi EU gây áp lực để buộc Việt Nam chấm dứt các hành động “vi phạm nhân quyền một cách có hệ thống”.

“Hỡi nhân dân VN, chúng tôi luôn thường trực bảo vệ quyền con người của các vị” !?

Còn nhớ cựu ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger từng tuyên bố:

"Những gì mà mấy chục năm nước Mỹ không làm được trên đất nước này thì con cháu của các ngài, thế hệ trẻ Việt Nam trong tương lai sẽ giúp nước Mỹ thực hiện giấc mơ của người Mỹ. 

20 năm sau chúng tôi sẽ trở lại Việt Nam ! Không phải với xe tăng, đại bác, chiến hạm hay pháo đài bay mà bằng nhiều xấp đôla. Khi đó cờ Mỹ sẽ bay không chỉ ở Sài Gòn, mà còn hiên ngang giữa lòng Hà Nội. Những gì bom đạn không thể làm được thì sức mạnh của đồng đôla sẽ giải quyết. 

Người Việt Nam sẽ đón chúng tôi như những ân nhân !" 

(hiện nay những lời của Kissinger có vẻ manh nha trở thành sự thật!).

 ************

Thực ra bản chất được che giấu là quan hệ nô dịch của "Các nước chủ nô" với "Các nước đang phấn đấu thành nô lệ tự giác" và với "Các nước nô lệ".

Chủ nô là ai? Họ rất ít và tất cả những người còn lại sẽ là nô lệ.

Tại sao?

Bởi vì chủ nô cần lao động phục vụ họ.

Đến đây, tôi lại nhớ tới luận điểm về “thặng dư” của Mark và Ăng ghen. Luận điểm của họ đã từng đúng nhưng trong điều kiện nô dịch bằng công nghệ ngày nay đã không còn đúng nữa. Tư bản thời Mark và Ăng ghen đến nay vẫn không thay đổi bản chất bóc lột nhưng trước đây họ bóc lột tinh vi thông qua bóc lột giá trị thặng dư thì nay đã thay đổi về công cụ và hình thức.

************

Sự bóc lột của chúng – những “chủ nô” – ngày một tinh vi hơn

Chúng làm cho “nô lệ” lầm tưởng rằng họ đang làm chủ vận mệnh của mình, được chia sẻ và hưởng thụ trực tiếp thành tựu của nền văn minh, của lao động tự thân không hề bị bóc lột tàn nhẫn. Những “nô lệ” trước đây nay đều đã thay đổi thân phận. Họ có của cải, có xe hơi và nhà ở tiện nghi, được lựa chọn những kỳ nghỉ tiện ích và thư giãn ở Arap Siaodi, ở  Thổ Nhĩ Kỳ hoặc ở các khu tiện nghi khác, v.v.

“Chủ nô” hiểu rằng, “nô lệ” là người. Họ giống nhau về mặt sinh lý với “chủ nô”. Khi đó,  thực hiện giấc mơ thống trị thế giới sẽ là đưa phần lớn nhân loại có nhận thức hạn chế về bản thân trở thành “nô lệ tự giác”.

Khi Hitler tấn công Liên Xô, chúng muốn gì? Chúng muốn lấy đi tài nguyên, đất đai, dầu, khoáng sản và sau đó chúng đưa những người đàn ông khỏe mạnh đến Đức để làm việc, tuyển chọn và đưa những phụ nữ khỏe mạnh đi nơi khác để sinh ra những người lao động khỏe mạnh mới, nhưng là để phục vụ tình dục, nấu ăn, dọn dẹp, phục vụ cho người Đức đẳng cấp cao hơn !!!

************

Ngày nay, lần đầu tiên trong lịch sử, kể từ khi chú cừu Dony ra đời năm 2001, khả năng nhân bản vô tính “con người phục vụ” đã xuất hiện bởi công nghệ chỉnh sửa bộ gen. Hãy tưởng tượng một lò ấp những nữ hoàng nhân tạo – như gà ấp trứng – cho ra những người mang bộ gen di truyền các năng lực lao động, phục vụ vô điều kiện !.

Đây là thực tế không còn bàn cãi. Tôi đoan chắc rằng, mặc dù nhân bản vô tính con người đang bị cấm, nhưng ở những phòng thí nghiệm sinh học đặc biệt, công nghệ này đang được hoàn thiện và trong số hơn 7 tỷ sinh linh trên trái đất chắc đã có mặt sản phẩm của công nghệ nhân bản này.

Cùng với thời gian, công nghệ này càng trở nên khả thi và luôn luôn bị nắm giữ trong tay những kẻ “chủ nô”.

CIA đã tạo ra Walt Phelps – một tổ chức y tế chữa bệnh cho mọi người và để kiểm soát sức khỏe của thế giới, tác động đến loài người bằng cách tiêm chủng đủ thứ trên đời.

Tổ chức y tế này được thành lập bằng tiền của Rockefeller. Cộng sự thân cận nhất của ông là Cheese Holmes đã nói: để đến với một chính phủ toàn cầu, cần phải trục xuất ý thức của con người, tính cá nhân của họ, sự gắn bó với truyền thống gia đình, quốc gia, lòng yêu nước và giáo điều tôn giáo, cần phá hủy các khái niệm lâu nay về sự thật và dối trá - vốn là nền tảng cho giáo dục các thế hệ trẻ.

Thay thế niềm tin vào kinh nghiệm lâu đời, những gì nêu trên được thay thế bằng tư duy hợp lý (!), bằng cách đưa ra các mục tiêu cần thiết để thay đổi hành vi của con người. Điều này được xác nhận trong bản ghi nhớ từ những năm 1948. Sau đó, năm 1974 bản ghi nhớ an ninh quốc gia về chính sách dân số trở nên rất quan trọng đối với việc tuân thủ các lợi ích kinh tế của Hoa Kỳ, tạo ra các điều kiện tiên quyết về xã hội và tâm lý cho sự tụt giảm tỷ lệ sinh được cho là tự phát. Những điều này giúp ta hình dung được các “chủ nô” đã gợi ý cho các “nô lệ” phải làm gì để phát triển hướng đến những mẫu thức như các “chủ nô”. Ví dụ, đối với Châu Á và Châu Phi, Mỹ ra sức vận động áp dụng các giá trị phương Tây như tự do luyến ái đồng tính, tự do chuyển đổi giới tính, v.v.

Một tên vài sẻ. 

Vừa phá vỡ giá trị truyền thống, vừa cổ súy cho tự do cá nhân, lại vừa được coi là các biện pháp hỗ trợ giảm tỷ lệ sinh một cách nhân quyền và tự giác.

Một số tổ chức phi chính phủ được Mỹ và phương Tây tài trợ đã nhiệt tình cổ vũ cho các giá trị dân chủ trong nỗ lực xây dựng xã hội tương lai. Hãy nhìn vào cách thức hoạt động của những tổ chức này. Điều quan trọng nhất cần chú ý là phá vỡ hệ thống các nguyên tắc đạo đức cơ bản, áp đặt các lựa chọn thay thế cho các chuẩn mực đạo đức phổ quát, chẳng hạn về lòng tự tôn dân tộc, về truyền thống gia đình, hôn nhân, v.v.

Một khi hệ thống cơ bản về chuẩn mực giá trị và đạo đức nói trên bị phá vỡ, nảy sinh tư tưởng tuyệt đối hóa tự do cá nhân. Sự diễn biến này rất từ từ, êm ái, rất tinh vi và rất nguy hiểm.

************

Ngay ở nước ta, nhiều nhà trẻ được treo các băng rôn – được coi là phương châm giáo dục đối với các cháu nhỏ mới cai sữa mẹ – ví dụ như:

“Người lớn luôn sẵn sàng giúp trẻ khi trẻ cần sự giúp đỡ và 

đứng ngoài lề khi trẻ đã tìm thấy mọi thứ”

Thành thật, nay tôi đã 70 tuổi cũng thấy quá rắm rối và không hiểu được.

Bác Hồ từng viết:

“Trẻ em như búp trên cành,

biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”.

Chúng cần được nuôi dưỡng, dạy dỗ một cách phù hợp với tâm sinh lý của trẻ chứ không cần sự sẵn sàng giúp đỡ của “người lớn” ! Biết khi nào trẻ nhỏ cần sự giúp đỡ? Biết khi nào trẻ nhỏ đã tìm thấy mọi thứ để “người lớn” đứng bên lề? “Người lớn là ai? “Người lớn” là những người đủ tuổi công dân của toàn xã hội chăng? Vị trí của các thày cô giáo đâu? vị trí của cha mẹ đâu? Chương trình giáo dục đâu?

Hay cái này:

“Thuốc thử cho sự đúng đắn của phương pháp giáo dục

là niềm hạnh phúc của trẻ nhỏ”

Hạnh phúc của trẻ nhỏ được nhận biết và đo lường thế nào để thử hay không thử? Mang trẻ nhỏ ra thử các phương pháp giáo dục ư? v.v.

Tất cả những điều này tạo ra tâm lý xem nhẹ sự quan trọng của các thày giáo, cô giáo trong nhà trường, của cha mẹ trong gia đình. Tâm lý này dần dần sẽ chuyển hóa sang xem nhẹ quyền lực, chủ quyền Nhà nước lúc nào không hay. Kết quả cuối cùng – tuyệt đối hóa tự do cá nhân – sẽ là quả búa tạ chia rẽ và phá nát sức mạnh dân tộc.

Ở Việt Nam, nhiều nỗ lực cải cách giáo dục được thực hiện, nhưng cuối cùng kết quả nhanh chóng và thấy rõ hơn cả lại là nhiều giá trị truyền thống bị mai một và mất dần. Chẳng hạn, quá coi trọng kỹ năng ngoại ngữ trong khi xem nhẹ hiểu biết về tiếng mẹ đẻ; toan tính bỏ dạy môn lịch sử (trước tiên, họ đưa môn lịch sử trở thành môn học tự chọn và đem sách giáo khoa môn Lịch sử ghép với sách giáo khoa môn Địa lý trong bộ sách giáo khoa cho học sinh phổ thông). v.v.

Mới hay: mũi nhọn nô dịch con người là tấn công thẳng vào môi trường giáo dục. Các chủ nô ra sức tuyên truyền dịch vụ giáo dục đỉnh cao làm nhiều người xiêu lòng, quên đi chức năng cơ bản và chủ yếu của các nhà trường là giáo dục trí tuệ và nhân cách con người (không phải dịch vụ kiếm tiền!!!). Các cuộc thí nghiệm cải cách giáo dục theo mô hình phương Tây đang tạo ra những hỗn loạn về giá trị trong nhận thức của xã hội và giới trẻ thực dụng. 

Henry Kissinger tin rằng chỉ cần 20 năm là thay máu được hoàn toàn thế hệ trẻ của một đất nước như Việt Nam ta ?!

Thậm chí trong xã hội Việt Nam đã từng tấy lên câu hỏi ngờ vực cuộc đấu tranh chính nghĩa chống xâm lược Mỹ của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ ! 

Chúng tuyên truyền cái gọi là "Cuộc chiến tranh Việt Nam" hòng xóa nhòe ranh giới giữa quân xâm lược, đô hộ, phản quốc với nhân dân chiến đấu giành độc lập tự do !

Xóa bỏ lịch sử là đích. 

Tuyên truyền, đổi trắng thay đen, ngụy biện lợi ích phát triển, lợi ích hợp tác và hội nhập, ngụy trang bằng hỗ trợ nhân đạo Y tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật,  bảo vệ môi trường, xóa đói giảm nghèo, v.v. là phương thức và công cụ.  

Hiện thực này có nguyên nhân chủ quan, do không nhận thức đầy đủ và yếu kém trong đội ngũ lãnh đạo ngành Văn hóa? ngành Giáo dục? hay chỉ là sự mất cảnh giác trước những diễn biến, tác động của thực tiễn bị thao túng?

Có phải cán bộ ngành Văn hóa, ngành Giáo dục quên mất lời dạy [6] của Hồ Chủ Tịch? Có học mà không hành theo tấm gương đạo đức, tác phong của Người?

Hậu quả của cuộc chiến nô dịch toàn cầu

Thế giới phẳng cho ai? Phẳng cho cái gì?

1/ Phẳng cho dòng chảy tư bản đầu tư bóc lột và thu lợi toàn cầu của Tư bản cá mập;

2/ Phẳng cho cạnh tranh giữa các nước gọi là “đang phát triển” trong cung ứng nguyên, nhiên vật liệu và hàng hóa cho các nước gọi là “Phát triển” với các điều kiện của họ cũng như mở cửa cho hàng hóa các nước thành viên của tổ chức gọi là tự do thương mại – WTO);

3/ Phẳng cho khai thác dòng nhân công chất lượng nhưng rẻ mạt, khai thác tài nguyên mà không phải lo giải quyết hậu quả về sinh thái, môi trường;

4/ Phẳng cho tuyên truyền các giá trị gọi là “dân chủ” của các nước “chủ nô”;

5/ Phẳng cho việc cuốn hút, lôi kéo nhân tài của toàn thế giới về phục vụ vị thế độc tôn của các nước “chủ nô”;

v.v.

Biểu hiện cụ thể là:

Các nước “chủ nô” bây giờ không phải đi xâm lược nữa, không phải tổ chức đào bới tài nguyên khoáng sản ở các nước “nô lệ” để đem về nước nữa. Họ cho các nước "nô lệ" những viên "đạn bọc đường". 

Các nước “nô lệ” ra sức “phát huy thế mạnh” và lấy làm vinh hạnh được làm ăn, xuất khẩu sang cho “chủ nô” những hàng hóa đúng với yêu cầu đặt hàng với năng suất cao nhất, giá thành cạnh tranh nhất (kể cả được ưu ái áp dụng chế độ tối huệ quốc về thuế quan) và vì vậy không thể thắng được những nước “nô lệ” khác trong những lĩnh vực (mình chưa “giỏi” nhưng lại cần cho sự độc lập, tự chủ đúng nghĩa về công nghệ, kinh tế và chính sách đối ngoại, v.v.) mà họ “giỏi” hơn mình. Kết quả là luôn luôn ở tình trạng phải ra sức kiếm tiền bằng cách xuất khẩu tài nguyên và tất cả những gì có thể để nhập khẩu những hàng hóa cần thiết mà không thể tự làm rẻ hơn.

Đứng được vào “chuỗi giá trị” là một thứ gì đó mê hoặc. Tiện ích thị trường đã làm cho giá trị của vàng không phụ thuộc nhiều vào tuổi vàng, mà phụ thuộc vào hình thức của vỏ bao gói được quy định một cách cưỡng bức.

Các nước “chủ nô” ăn trên ngồi trốc bằng lao động của các nước “nô lệ”, có thời gian và nguồn lực để lôi kéo, tập trung nhân tài toàn cầu vào nghiên cứu các công nghệ tiên tiến và tiếp tục đưa vào vòng lặp nô dịch các nước “nô lệ” với vị thế của các nước “Phát triển” dẫn dắt nền văn minh.

Các nước “chủ nô” ra sức thúc đẩy xã hội tiêu dùng ở chính quốc và trên toàn thế giới. Một mặt, điều này làm gia tăng nhanh chóng lượng của cải vật chất, năng lượng tiêu dùng trên đầu người, vượt qua những ngưỡng tối ưu, hợp lý về nhu cầu vật chất nhân sinh, dẫn đến hậu quả là không ngừng làm kiệt quệ tài nguyên thế giới. Mặt khác, họ đóng vai kẻ chỉ bảo, dẫn dắt thế giới “nô lệ” một cách tinh vi bằng các chính sách hỗ trợ bảo vệ môi trường, kinh tế xanh, năng lượng xanh, vỗ về “nô lệ” bằng các tuyên bố tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ và sự khác biệt về chính trị, v.v.

Các nước “nô lệ” được đầu tư để yên tâm làm ăn với các nước “chủ nô”. Trải thảm đỏ cho tư bản nước ngoài vào đầu tư bóc lột nhân công và hủy hoại môi trường, đổi lấy lợi ích giải quyết công ăn việc làm cho người lao động và nhà nước "nô lệ" chỉ cần chăm lo tận thu thuế, phí về ngân sách, từ đó câu kết và gắn bó tất yếu lợi ích của giới cầm quyền với lợi ích của tư bản trong nước và tư bản nước ngoài.

Về Nhà nước – công cụ đảm bảo quyền, lợi ích và nghĩa vụ của công dân – nay được hỗ trợ và bị tha hóa từ bên ngoài. Tự suy thoái, tự diễn biến theo hướng xa rời lợi ích đất nước, dân tộc là quá trình tự nhiên của giới cầm quyền trong hoàn cảnh nô dịch nêu trên. Thay vì xây dựng mô hình lồng ghép lợi ích để vận hành hoạt động thì phương châm “hài hòa lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể và lợi ích tư nhân” đã làm tê liệt hoạt động của đội ngũ cầm quyền cũng như đông đảo người lao động, một khi họ không thấy lợi ích cá nhân của mình. Việc “đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết” cũng trở thành giáo điều, đòi hỏi sự hy sinh nào đó trong điều kiện nô dịch vật chất của xã hội tiêu dùng.

Quá trình thúc đẩy số hóa không kiểm soát, số hóa bằng phương tiện và phần mềm của "thiên hạ" sẽ làm cho "Chính phủ số hóa" rơi vào tình trạng lệ thuộc và "vạch áo cho người xem lưng". Chúng ta hãy tưởng tượng hoạt động hành chính, thông tin chỉ đạo và vận hành bộ máy bị phụ thuộc vào tình trạng của cáp internet dưới đáy biển (!), hay phụ thuộc vào băng tần truyền từ vệ tính thu phát sóng phủ các phần lục địa theo chủ ý của "chủ nô"?   

Về văn hóa cộng đồng, sự tự do buông thả, sự hỗ trợ cái xấu, cái lười … bằng chính sách hỗ trợ người được coi là “nghèo” – nhưng thực chất là lười biếng, không chịu lao động, học hỏi vươn lên – bị méo mó dưới vỏ bọc nhân đạo, nhân văn.

Ông cha ta có câu, “cái nết đánh chết cái đẹp”, “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, nhưng ở thời nô dịch tinh vi hiện nay, bản chất và vẻ đẹp tự nhiên bị các tiêu chí về hình thức làm cho thay đổi. Các tiêu chí hình thức này được hỗ trợ bằng việc lan truyền khả năng can thiệp phẫu thuật trang điểm, phục vụ con người. Thậm chí thay đổi cả những gì tạo hóa và cha mẹ sinh ra. Việc lai căng những giá trị “dân chủ” còn thể hiện ở chỗ khai báo thủ tục hành chính còn có mục: giới tính “khác”, ngoài “nam” hoặc “nữ”.

Gia đình – tế bào của xã hội – nơi nuôi dưỡng các giá trị truyền thống như “tôn ti trật tự”, “kính trên, nhường dưới”, “quý trọng con người”, “tự tôn, tự cường”, “không lùi bước trước khó khăn”, “yêu quý thiên nhiên”, v.v. bị tác động tiêu cực bởi xu thế tuyệt đối hóa tự do cá nhân – tự do của những trẻ em đang tuổi ăn học để trưởng thành trong cái gọi là “quyền trẻ em” – bị hiểu và áp dụng một cách lệch lạc.

Hôn nhân là thủ tục pháp lý thừa nhận việc tự nguyện xây dựng gia đình giữa một người nam giới và một người nữ giới, trong đó việc sinh đẻ và nuôi dưỡng các thế hệ con cháu, giữ vững và phát triển dân số là một thiên chức không thể hình dung khác đi, cho dù đã có những thành tựu nhất định về công nghệ nhân bản sinh học. Thế nhưng hiện nay, thế hệ trẻ sống quen hưởng thụ, cho rằng sinh đẻ và nuôi dạy con cái là vất vả, khó nhọc. Không chừng chả bao lâu nữa sẽ có luật thừa nhận hôn nhân đồng giới, gia đình không cần sinh con nữa !

Chúng ta không phê phán sự đa dạng trong hệ thống giá trị, nhưng chúng ta không thể xa rời, hơn nữa còn phải kiên quyết bảo vệ, gìn giữ các giá trị truyền thống. Không ai buộc chúng ta cổ súy cho những biểu hiện lệch lạc khỏi bản sắc văn hóa dân tộc ngoài chính chúng ta, khi chạy theo những cám dỗ vật chất và ru ngủ tinh xảo của giới “chủ nô”.

Một số tổ chức phi chính phủ được các nước “chủ nô” thành lập và hỗ trợ đang thực hiện những hoạt động “khai hóa” bên trong các nước “nô lệ” dưới chiêu bài hợp tác văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường, v.v. phi lợi nhuận. Thực chất họ hoạt động rất tinh vi, tác động làm biến đổi nhận thức của cộng đồng, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa còn khó khăn, nghèo đói. Internet lồng ghép với truyền thông đại chúng đã góp phần nhanh chóng nhân rộng các tác động “nhân đạo” đó.

Trong giáo dục, nhiều nhà trường ở Việt Nam có khẩu hiệu: “Tiên học Lễ, hậu học Văn”. Tuy vậy khẩu hiệu đó được thực hành ra sao? Không rõ.

Thực tế là các thày cô giáo không rèn giũa, dạy học sinh “làm người”, không coi trọng dạy học sinh lòng kính trọng, hiếu đễ với mẹ, cha mà nặng về nhồi nhét kiến thức “hót” hoặc chỉ để trả bài kiểm tra, bài thi. Cha mẹ có biểu hiện khoán trắng việc dạy dỗ con cháu cho nhà trường, không coi trọng dạy con trẻ kính trọng thày, cô giáo một cách đúng đắn. Thậm chí coi việc dạy học của các thày cô giáo là hoạt động thị trường, dịch vụ giáo dục, bán chữ kiếm tiền, vô tình làm cho con trẻ cũng coi thường thày cô giáo và thiếu đi đạo đức làm trò.

Nhà nước là công cụ duy nhất đảm bảo quyền tự do cá nhân. Nhờ công nghệ nô dịch mà quyền này dần dần được tuyệt đối hóa. Kết quả là công nghệ nô dịch giúp cho Nhà nước “nô lệ” có thêm công cụ quản lý cá nhân và phần lớn dân chúng. Đồng thời làm cho Nhà nước “nô lệ” đó phụ thuộc vào ma trận công nghệ tương tác. Nhà nước “nô lệ tự nguyện” này đinh ninh rằng mình độc lập, tự chủ nhưng là độc lập tự chủ lựa chọn và làm theo ý chí dẫn dắt của các Nhà nước “chủ nô”.

Có thể nói, diễn biến hòa bình vừa là quá trình, vừa là kết quả thực thi công nghệ nô dịch, và ngược lại.

Tự chuyển hóa, tự diễn biến trong đội ngũ cán bộ đảng viên và trong xã hội cũng chính là kết quả của quá trình nô dịch toàn cầu của các nước “chủ nô” – là Mỹ và các nước phương Tây.

Thay cho lời kết

Quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt của Đảng ta là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nền văn hóa và con người Việt Nam,... kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”.

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc T11/2021, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hóa còn thì Dân tộc còn,...” [7].

Tuy nhiên, sau vấn đề “mất hay còn” là vấn đề “còn như thế nào”.

Đoàn kết xung quanh đảng CSVN, chúng ta cần tỉnh táo, sáng suốt:

1. Nhận diện được rủi ro bị nô dịch và cần phải hành động để không bị sa vào bẫy của các nước “chủ nô”, thậm trí có thể “tương kế tựu kế” để xây dựng tiềm lực thực sự cho phát triển đất nước. Đoạn tuyệt với sự phụ thuộc của Việt Nam ta đối với các “nguồn lực” từ bên ngoài;

2. Xây dựng chiến lược phát triển đất nước với bản sắc văn hóa Việt Nam được gìn giữ và vun đắp ngày một tốt đẹp, nhân văn, trong đó bảo vệ, giữ gìn và không ngừng nâng cao giá trị con người thông qua thực thi các chính sách đúng đắn về văn hóa, giáo dục, y tế, về an sinh xã hội. Xây dựng và phát huy động lực phát triển nội sinh;

3. Xây dựng mô hình phát triển đất nước riêng của Việt Nam ta, trong đó đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc đồng nghĩa với đảm bảo lợi ích của mọi công dân lao động chân chính;

4. Không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, lý tưởng cách mạng cho đội ngũ cán bộ đảng viên, các thế hệ thanh thiếu niên để có đủ nguồn nhân lực xây dựng đất nước, góp phần đưa văn minh nhân loại tới những giá trị đích thực, hài hòa và bền vững với Tự nhiên, làm thất bại mọi mưu toan nô dịch của các “chủ nô”.

Tài liệu tham khảo

1. https://ru.wikipedia.org/wiki/технология

2. Technology Архивная копия от 22 апреля 2016 на Wayback Machine // Encyclopædia Britannica. Encyclopædia Britannica Online. Encyclopædia Britannica Inc., 2016. Web. 08 янв. 2016

3. Salomon J. What is Technology? The Issue of its origins and definitions // Historiy of technology. 1984/ Vol. 1. P. 113—156.

4. Технология. Глоссарий.ru. Дата обращения: 2 сентября 2017. Архивировано 5 октября 2017 года.

5. https://iling-ran.ru/library/psylingva/values_russian_culture/Poraboshchenie.htm

6. Hồ Chí Minh, Bài nói chuyện với bộ đội, công an và cán bộ trước khi vào tiếp quản Thủ đô, 5/9/1954. Tài liệu lưu tại Cục lưu trữ Văn phòng TƯ Đảng, cpv.org.vn.

7. Nguyễn Phú Trọng, Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Bài phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, 24/11/2021.

Cuộc chiến nô dịch Con Người và một số nguy cơ tự diễn biến tự chuyển hóa-Version 10-7-2023.pdf