Trà đạo trong tiếng Nhật được gọi là chanoyu hoặc sado. Nghệ thuật biểu diễn phương thức chuẩn bị và pha bột trà xanh matcha được gọi là otemae. Chakai là những buổi tụ họp thông thường để bày tỏ lòng trân trọng đối với nghi thức pha trà, còn chaji là từ dùng để chỉ những dịp trang trọng hơn. Một phiên bản khác ít phổ biến hơn của trà đạo chính là nghi thức sử dụng lá trà được gọi là senchado.
Hoạt động phục vụ trà được nâng tầm thành hình thức nghệ thuật tại Nhật Bản. Bắt nguồn từ Thiền tông Phật giáo
Trà đạo được xem là một trong ba nghệ thuật cổ điển thuộc tinh hoa người Nhật bên cạnh thưởng hương kodo và cắm hoa kado. Trà đạo có nguồn gốc từ Thiền tông Phật giáo vào năm 815. Lúc bấy giờ, nhà sư Eichu trở về từ Trung Quốc đã đặc biệt chuẩn bị sencha cho Thiên hoàng Saga. Tại Trung Quốc, trà là một loại thức uống có lịch sử hơn một nghìn năm.
Thiên hoàng cảm thấy thích thú và ra lệnh trồng các đồn điền trà tại vùng Kinki ở phía tây Nhật Bản. Vì thế, giới quý tộc dần hình thành thói quen uống trà. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ thứ 12 thì trà mới bắt đầu trở nên phổ biến hơn.
Trà xanh được đưa vào các nghi thức tôn giáo ở các tu viện. Từ đó, thói quen thưởng trà nhanh chóng trở thành hoạt động gắn liền với tầng lớp quý tộc của xã hội Nhật Bản. Tiệc trà trở thành xu hướng sành điệu và phần lớn những người sành trà đều công nhận rằng Kyoto là nơi trồng được trà xanh ngon nhất từ loại hạt giống được một nhà sư khác mang từ Trung Quốc về Nhật Bản.
Vào năm 1187 nhà sư Nhật Bản Myoan Eisai, đã trở về từ Trung Quốc và đã là người đầu tiên gợi ý việc xay lá trà trước khi pha trà bằng nước nóng. Tống Huy Tông – một vị hoàng đế Trung Quốc đã gợi ý việc dùng cây đánh trứng bằng tre để pha trà. Hai phương pháp này đã tạo dựng nền móng cho văn hoá trà đạo Nhật Bản được biết đến rộng rãi ngày nay.
Những năm đầu thời kỳ Muromachi 1336 - 1573 đã chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhận thức thẩm mỹ Nhật Bản bao gồm cả trà đạo. Vào thế kỷ thứ 16, thói quen thưởng trà trở thành một hoạt động phổ biến trong mọi tầng lớp của xã hội Nhật Bản.
Truyền rằng các lãnh chúa vào thời Sengoku (1467–1615) thường thưởng trà trước khi lâm trận. Matcha và những nghi lễ xung quanh nó mang lại sự tập trung tinh thần và tính kỷ luật cho các Samurai, giúp họ dũng cảm đối mặt với cái chết. Họ trở nên sáng suốt, nhận thức rõ hơn về thực tại.
Năm 1333, Mạc phủ Kamakura sụp đổ dẫn đến cuộc nội chiến xảy ra trên toàn quốc. Điều này đã hình thành một tầng lớp người mới được gọi là Gekokujou. Tầng lớp quý tộc với lối sống xa hoa thu hút sự chú ý của công chúng, họ thường tổ chức các bữa tiệc trà đãi bạn bè gọi là Toucha.
Vào cuối thế kỷ 16 (thời Azuchi Momoyama), một người Nhật Bản là ông Senno Rikyu (1522-1591) kết hợp việc uống trà với các triết lý Thiền hình thành một trường phái có cách pha và uống trà khác biệt với thông thường. Những điều này đã xây dựng nên văn hoá trà đạo ngày nay.
Sen no Rikyu được xem là nhân vật nổi tiếng nhất trong lịch sử trà Nhật với triết lý rằng con người nên trân trọng mọi dịp gặp gỡ vì chúng ta không thể nào tìm lại được toàn bộ những khoảnh khắc đó. Bên cạnh đó, ông còn xác định các nguyên tắc cơ bản cần phải được đưa vào trà đạo, bao gồm: hòa, kính, thanh, tịnh. Ở Nhật, Kyoto được xem là nơi trồng trà xanh thơm ngon nhất trên cả nước
Các trường phái trà đạo
Bất kể sự tồn tại của các trường phái trà đạo khác nhau cũng như những điểm khác biệt tinh tế giữa các trường phái, các trà sư hiện đại vẫn luôn tuân thủ tốt các nguyên tắc cơ bản.
Theo truyền thống, một buổi trà đạo sẽ diễn ra trong phòng trà chashitsu chuyên dụng với nền lò sưởi lát chiếu tatami. Các vật liệu được sử dụng trong công tác xây dựng và thiết kế đều hướng đến sự mộc mạc.
Các dụng cụ chuyên dụng được trà sư sử dụng bao gồm bát trà chawan, muỗng xúc bột trà làm từ tre và chổi đánh trà hay còn gọi là chasen cũng được đẽo từ tre.
Trà lan rộng ở Nhật Bản vào khoảng thời kỳ Kamakura. Người ta nói rằng một nhà sư tên là Eisai đã mang trà từ Sakae ở Trung Quốc.
Trong thời kỳ Muromachi, một linh mục tên là Murata Juko đã thông qua tâm linh, vì vậy ông bắt đầu sử dụng các phòng trà và dụng cụ uống trà đơn giản, và “Wabi-cha” được thành lập, đề cao sự tương tác giữa chủ nhà và khách.
Và chính Sen no Rikyu là người đã phát triển “Wabi-cha”. Sen no Rikyu cống hiến hết mình trong việc xây dựng các phòng trà và đồ dùng trà, trà đạo hiện đại đã được thành lập.
Trà được pha chế bằng các dụng cụ chuyên dụng theo Quy trình chuẩn mực
Mỗi trường phái đều có những thay đổi nhỏ trong các bước pha trà chuẩn mực cho một buổi trà đạo nhưng nhìn chung vẫn duy trì được một số nét tương đồng. Theo đó, khách thưởng trà sẽ cởi giày trước khi được dẫn vào phòng chờ của phòng trà. Sau khi khách thưởng trà được chủ quán chào đón bằng một cái cúi đầu im lặng, họ sẽ thực hiện nghi thức thanh tẩy tại một bồn đá bằng cách rửa tay và súc miệng trước khi vào phòng lát chiếu tatami. Tại đây, họ sẽ đưa ra lời bình về bức tranh giấy được treo trong hốc tường hoặc tác phẩm cắm hoa theo mùa.
Ngay khi các vị khách yên vị trong tư thế quỳ seiza, trà sư sẽ bắt đầu nghi thức bằng cách lau chùi các dụng cụ thật tỉ mỉ theo một thứ tự chính xác. Sau đó, trà sư sẽ thận trọng đặt ấm trà lên lửa than và đun trà. Trà sư sẽ rót lượt trà cuối cùng vào bát trà và trao cho vị khách đầu tiên và cũng là vị khách quan trọng nhất.
Người thưởng trà sẽ nâng bát lên để thể hiện sự tôn trọng với trà sư. Tiếp theo, họ sẽ xoay nhẹ bát trà để tránh không uống trà từ phía trước rồi nhấp một ngụm trà và khen ngợi trà sư về hương vị trà và bát trà. Sau đó, họ sẽ chuyển bát trà cho vị khách tiếp theo. Vị này sẽ lặp lại quy trình và xoay vòng cho đến mọi vị khách đều đã thưởng trà.
Theo Sen no Rikyu ta có “Bốn quy và bảy tắc” trong trà đạo
Tới thế kỷ XVI, quan niệm của Thiền tông trong trà đạo được đại sư phụ trà đạo Sen no Rikyu (1522 – 1591) thiết lập, dựa trên 4 nguyên tắc là wa (和 = hòa), kei (敬= kính), sei (清 =thanh), jyaku (寂 = tịch) tức sự hài hòa, tôn kính, thanh khiết, và tĩnh lặng, coi đó là các lý tưởng cao nhất của trà đạo.
“Bốn quy” là tinh thần của hòa bình và yên tĩnh.
① Một trái tim bình yên HÒA
② Tôn trọng lẫn nhau KÍNH
③ Trong sáng THANH
④ Có một trái tim kiên định TỊCH
①和やかな心であること
②お互いに敬い合うこと
③清らかであること
④動じない心を持つこと
7 tắc quan trọng khi đãi khách.
① Pha trà bằng cả trái tim
② Nhìn thấu bản chất
③ Xem trọng cảm giác mùa
④ Tôn trọng sự sống
⑤ Có một khoảng trống trong trái tim bạn
⑥ Có một trái tim mềm mại
⑦ Tôn trọng lẫn nhau
Ứng với những lưu ý chuẩn bị của chủ trà
1. Trà ngon như cơm áo (Lưu ý trang phục)
2. Đặt than vào nước sôi (chuẩn bị đủ than củi)
3. Mát mẻ vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông (không gian thưởng trà tạo cảm giác thoải mái)
4. Sống như thể bông hoa trên cánh đồng (cắm hoa sao cho đẹp và sinh động như còn nguyên gốc giữa cánh đồng)
5. Chú ý đến thời gian (làm mọi thứ chuẩn bị)
6. Chuẩn bị cho dù trời không mưa (chuẩn bị cho bên kia để có thể linh hoạt ứng phó bất cứ lúc nào)
7. Hãy quan tâm đến khách của bạn (quan tâm tiếp đãi mọi người khách như nhau)
Một số quy tắc của buổi tiệc trà đã được bởi giới Samurai - giai cấp thống trị Nhật Bản thời bấy giờ. Nhà sư Sen no Rikyu (1522 -1591), một trong những thương nhân giàu có đã kế thừa, sáng lập và hoàn thiện lễ nghi của một tiệc trà.
Cuối thời Edo (1603 - 1868), thưởng trà đạo chỉ là đặc quyền của nam giới.
Chỉ khi đến thời Meiji (1868 -1912) thì phụ nữ mới chính thức được tham dự tiệc trà.
Tầm quan trọng của nghi thức
Nghi thức là một bộ phận quan trọng góp phần hình thành trải nghiệm hoàn chỉnh. Vì thế, trà sư sẽ luôn mặc kimono trong lúc thực hiện nghi thức. Đối với các dịp trang trọng, khách tham dự nên mặc com-lê. Tuy nhiên, trong các nghi thức mô phỏng quy trình cho khách thưởng trà thì không yêu cầu trang phục trang trọng. Bất cứ ai có cơ hội trải nghiệm một buổi trà đạo nên cố gắng thực hiện các thao tác phù hợp. Những lỗi nhỏ trong thao tác vẫn sẽ được châm chước.
Sau đó, khách thưởng trà sẽ có cơ hội nhâm nhi những chiếc bánh ngọt nhỏ trong khi chủ quán tiếp tục chuẩn bị lượt trà thứ hai. Trong lúc này, khách thưởng trà sẽ đưa ra nhận xét về cách bày trí tài tình và mức độ tinh xảo của các dụng cụ được sử dụng để thực hiện nghi thức. Các món điểm tâm khéo léo được làm từ các nguyên liệu theo mùa sẽ được phục vụ trong quá trình thực hiện nghi thức trà đạo.
Tiêu chuẩn đúng của matcha
Mỗi tiếng một máy nghiền chỉ có thể nghiền ra được 30gr matcha mà thôi. Matcha không phải là bột trà xanh thông thường mà gọi gần đúng nhất phải là "bột trà xanh trồng phủ lưới tách gân nghiền siêu siêu mịn" . Bột trà nghiền bằng cối đá granite sẽ cho ra thành phẩm có kích thước tương đương 10 micromet, chỉ bằng 1/3 các loại bột trà nghiền bằng các loại máy kim loại thông thường.
REAL matcha phải là chủng cây đặc biệt, trồng vườn Gyokuro với thổ nhưỡng và khí hậu đặc biệt ổn định, độ ẩm không khí dao động trong mức 40-50% để lá trà không bị chuyển đổi thích nghi với tự nhiên mà bị quá dày hay quá to. Ngoài ra nó được chăm sóc ở chế độ đặc biệt và chỉ thu hoạch rất nghiêm ngặt đúng 2 hoặc cao nhất là 3 lần trong năm. Thời điểm chuẩn là sau lập xuân 88 ngày, cộng 60 ngày và thêm lần 3 là 60 ngày sau đó. Tất cả việc thu hoạch sẽ phải kết thuc vào trung tuần tháng 8.
Gyokuro là 玉露 là Ngọc Lộ. Là kiểu vườn phủ lưới tránh nắng trực tiếp từ ánh sáng mặt trời để đảm bảo cho ra những lá trà được tổng hợp vitamin C, theanin, cafein hàm lượng cao nhất nhờ quá trình quang hợp chậm. Matcha vì thế mà chứa lượng cafein cao đụng trần, cao gấp mấy trăm lần các loại trà khác. Người ta phải khuyến cáo các bà bầu không nên uống quá 10gr/ngày mà các bạn bị huyết áp thấp nên cẩn trọng khi dùng matcha.
Khi thu hoạch trà xong lá trà được hấp để giữ nguyên màu sắc và dưỡng chất. Không có phơi khô héo, mà sẽ dùng gió quạt thổi tung các lá trà trong ống cao 6m để giảm nhiệt và hong khô lá trà. Sau đó họ tách bỏ gân và sống lá. Chỉ dùng phần thịt lá nghiền dưới cối đá granite tiêu chuẩn cho ra cái gọi là Real matcha với hạt bột siêu mịn chỉ vài micromet.
Trà: tùy theo hệ phái nào mà trà được sử dụng có sự khác biệt. Matcha (まっちゃ): trà bột và Trà nguyên lá
Nước pha trà: thường là nước suối, nước giếng, nước mưa, hay nước đã qua khâu tinh lọc.
Ấm nước (お釜): dùng đun nước sôi để pha trà, thường được làm bằng đồng để giữ độ nóng cao.
Lò nấu nước (焜炉): bếp lò bằng đồng thường dùng than để nấu. Nhưng ngày nay người Nhật đã thay than bằng một bếp điện để bên trong lò đồng
Hũ đựng nước (水差し): dùng để đựng nước lạnh khi pha trà.
Chén trà (茶碗): chén dùng để dựng trà cho khách thưởng thức. Chén được làm bằng men, công phu, tỉ mỉ và mỗi chén có những họa tiết độc đáo riêng. Vì thế mà trong khi làm một buổi tiệc trà, không có hai chén trà giống nhau. Các nghệ nhân làm chén cũng đưa chủ đề thiên nhiên, thời tiết vào trong tác phẩm của mình, vậy nên có thể dùng chén phù hợp cho 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông.
Mùa xuân: chén có những hoa văn mùa xuân như hoa anh đào.
Mùa hạ: là mùa nóng nên chén trà có độ cao thấp hơn, miệng rộng hơn chén trà mùa xuân để dễ thoát hơi nóng.
Mùa thu: chén có hình dạng giống chén mùa xuân, có hoa văn đặc trưng cho mùa thu như lá phong, lá momizi.
Mùa đông: là mùa lạnh nên chén có độ dày và cao hơn các chén mùa khác để giữ nóng lâu hơn. Màu sắc của men cũng mang gam màu lạnh.
Kensui (建水): chậu đựng nước rửa chén khi pha trà, được làm bằng men và to hơn chén trà một chút.
Hũ, lọ đựng trà (なつめ): hủ,lọ dùng để đựng trà bột, được trang trí họa tiết rất đẹp, gần gũi với cuộc sống sinh hoạt nhưng cũng mang tính thẫm mĩ cao. Trên nắp hũ, đôi khi bắt gặp hình quạt giấy, hình hoa lá, tre, trúc,...
Khăn fukusa (ふくさ): khăn lau hủ,lọ trà và muỗng trà khi pha trà.
Khăn chakin (茶巾): khăn lau chén trà khi pha trà, được làm bằng vải mùng màu trắng.
Khăn kobukusa (こぶくさ): khăn dùng để kê chén trà. Khi đem trà cho khách thưởng thức, dùng khăn để lên tay, sau đó đặt chén trà lên để giảm bớt độ nóng từ chén trà xuống tay, sau đó mang chén trà cho khách.
Muỗng múc trà (茶杓): chiếc muỗng bằng tre, dài, một đầu uốn cong để múc trà.
Gáo múc nước: chiếc gáo bằng tre, nhỏ, dài để múc nước từ trong ấm nước, hủ đựng nước ra chén trà.
Cây đánh trà (茶筅): dùng để đánh tan trà với nước sôi. Được làm từ tre, ống tre được chẻ nhỏ một đầu thành nhiều cọng tre có kích thước nhỏ khoảng 1mm.
Bánh ngọt: (như là Wagashi) dùng bánh trước khi uống trà sẽ làm cho khách cảm nhận hương vị đậm đà đặc sắc của trà.
Bình trà: để pha trà lá
Tách trà nhỏ: để thưởng thức loại trà lá.
Matcha Nekome được thu mua từ vùng đất sản sinh ra phong cách thưởng trà chọn lọc phẩm chất matcha, thưởng thức trà đạo cùng bánh ngọt wagashi và kết hợp thưởng lãm trà cụ hiện nay: Fumai-ryu. Từ thời kì Edo, lãnh chúa Masudaira, vị tướng quân vùng đất này, lãnh chúa đời thứ 7 của Matsue cũng là một trong những tea master danh tiếng trong lịch sử trà đạo Nhật Bản đã mang trà đạo phổ biến cho mọi người chứ không còn bó buộc phải là quý tộc mới được thưởng tiệc trà.
Vị tướng quân danh tiếng đã khiến cho toàn dân trong vùng thưởng thức và phân loại chọn lọc trà cũng sành sõi và khắt khe như ông vậy. Chính vì thế matcha từ nơi này ra mang đặc thù riêng về chất lượng, không phải loại trà bột giá rẻ như ở các vùng khác, cũng không phải dạng chất lượng trung bình sản xuất công nghiệp đại trà giá cỡ nào cũng có như ở các tỉnh khác vùng quanh chân núi Phú Sĩ. Cuối thời Edo, các trường dạy trà đạo bắt đầu mọc lên phổ biến việc thưởng trà đến với quần chúng nhân dân, ra khỏi các tòa thành và xâm nhập vào tầng lớp thị dân (chonin) cũng như có ngày càng nhiều người nước ngoài hứng thú và đến học.
Trường phái trà đạo điển hình-Trà đạo Nhật Bản
“Urasenke”, “Omotesenke” và “Mushakojisenke” do con cháu của Sen no Rikyu tạo ra, là những trường phái đặc trưng của trà đạo được gọi là “Senke”.
① Urasenke
Urasenke là một trường phái có đặc điểm là kết hợp các xu hướng phù hợp với thời đại một cách tích cực. Vì nó là một phòng trà đối diện với con đường phía sau, nó đã được gọi là “Urasenke”. Trong Urasenke, người ta thường đọc trà đạo là “chado”.
② Omotesenke
Omotesenke là một trường phái giữ trung thành các nghi thức từ xưa. Người ta gọi là “Omotesenke” vì nó là một phòng trà đối diện với con phố chính. Ở trường phái Omotesenke, trà đạo thường được gọi là “Sado”.
③ Mushakojisenke
Mushakojisenke là một trường phái được đặc trưng bởi sự tinh gọn và động tác hợp lý. Cái tên này xuất phát từ thực tế rằng đó là một phòng trà trên đường có tên là Samurai Koji. Phòng trà của Mushakojisenke đã biến mất nhiều lần và được xây dựng lại nhiều lần. Cứ mỗi lần như vậy họ đã loại bỏ sự lãng phí trong phòng trà, bỏ qua các hành động không cần thiết và nhấn mạnh các chuyển động hợp lý.。
Trà đạo có thể được gọi là “chado” hoặc “sado”, nhưng về nguyên tắc nó được gọi là “chanoyu”.
Sự khác biệt giữa Urasenke và Omotesenke nằm ở lễ tiết
Ví dụ, khi pha trà, trà của Urasenke được đặc trưng bởi hương vị êm dịu của nó. Mặt khác, Omotesenke không đánh bông trà nên bạn có thể cảm nhận được hương vị sâu lắng của matcha.
Ngoài ra, về mặt tư tưởng, những ý tưởng mà mỗi Senke đề cao là khác nhau. Urasenke được đặc trưng bởi việc áp dụng các phương pháp mới trong khi tôn trọng truyền thống. Có nhiều dụng cụ uống trà vì họ chủ động chấp nhận cách cư xử phù hợp với thời đại. Omotesenke tôn trọng những truyền thống cổ hủ và là người bảo thủ. Omotesenke, cũng là chủ đạo của phong cách trà đạo Senke, kế thừa các nghi thức cũ.