Làm Sao Tha Thứ

"Tha thứ để chữa lành - Chữa lành để tha thứ"

Nguồn: http://www.simonhoadalat.com

Jean Monbourquette

Vài Nét Về Tác Giả : Cha Jean Monbourquette OMI là giáo sư Mục Vụ ở Ðại Học Saint-Paul ở Ottawa - Canada, Ðiều phối và huấn luyện viên Trung tâm Gia Ðình và Cộng đồng. Cử nhân Thần học, Cao học Triết, Cao học về Giáo dục ÐH Ottawa, Cao học Tâm lý lâm sàng ÐH San Francisco, Tiến sĩ Tâm lý ÐH Los Angeles. Tác giả cuốn sách bán chạy nhất Aimer, Perdre et Grandir.

Lm. Trần Minh Huy Chuyển ngữ

LỜI TỰA

Làm sao tha thứ ? Ðó là một vấn nạn tôi quan tâm từ 10 năm nay. Chính tôi đã vấp phải sự khó tha thứ và tôi cũng đã gặp cùng vấn đề đó nơi các đọc giả, bệnh nhân và những người tôi tháp tùng thiêng liêng.

Tác phẩm nầy là kết quả của một cuộc nghiên cứu và suy tư lâu dài được nuôi dưỡng đồng thời bởi những kinh nghiệm lâm sàng bên cạnh nhiều người và những kiến thức về tâm lý và thiêng liêng của tôi. Ý hướng của tôi khi viết tác phẩm nầy thật rõ ràng : cung cấp một chỉ dẫn thực hành để học tha thứ theo tiến trình 12 giai đoạn.

Nhiều người hỏi tôi : "Nhưng tại sao lại 12 giai đoạn ? Nhiều quá !" Ðúng vậy, tôi công nhận như thế. Bởi vì các bạn nghi ngờ, tôi không đi vào ngay. Ðó là kinh nghiệm tôi đã khám phá được rằng một số người dù rất muốn tha thứ lại cảm thấy bị ách tắc vào những thời điểm nhất định trong tiến trình của họ.

Phải đọc tác phẩm nầy thế nào ? Trước hết, điều quan trọng là đọc giả phải chú ý đến tiến trình cá nhân và cách thức tha thứ của mình. Có những người sẽ đọc lướt qua cả cuốn sách ngay một mạch. Một số khác lại thích nhặt lấy đó đây những chỉ dẫn theo nhu cầu mỗi lúc của họ. Các chương nầy có vẻ đã được đọc qua rồi, trong khi những chương khác có vẻ mới và chưa hề đọc. Nếu đọc giả nhận thấy một chương nào thích hợp, thì hãy để thời giờ học hỏi cặn kẻ hơn và đem ra thực tập. Ðọc giả sẽ có thể biết rõ hơn các trạng thái tâm hồn của mình, xác định các ách tắc, tìm được phương thế giải quyết chúng và đi từ thành công nầy đến thành công khác. Như thế, tôi có thể nói với mỗi người : "Chúc may mắn suốt cuộc hành trình nội tâm nhằm khám phá một sự tha thứ chữa lành và giúp lớn lên".

Cuốn LÀM SAO THA THỨ nầy nhắm đến ai ? Nó cố ý được viết cho số lớn đọc giả có thể, dù họ là tín hữu hay không. Bạn sẽ nhận thấy gợi hứng kitô giáo trình bày trong đó rất rõ. Có thể một số người không sử dụng từ ngữ "Thiên Chúa" khi mô tả khía cạnh thiêng liêng của sự tha thứ. Họ cứ thoải mái dùng từ ngữ nào cảm thấy thích hợp nhất tùy theo định hướng thiêng liêng của mình, chẳng hạn "Ðấng Siêu Việt", "Siêu Ngã", "Suối Nguồn hay Năng Lực Thần Linh", "Tình Yêu Vô Ðiều Kiện" v.v...



PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG SUY TƯ VÀ ÐỊNH HƯỚNG VỀ BẢN CHẤT CỦA THA THỨ

Giới thiệu tổng quát

"Anh tìm dạy cái gì về mình khi viết một cuốn sách về tha thứ ?" Câu hỏi nầy của một người bạn mà tôi vừa thổ lộ dự tính của mình đến với tôi thật bất ngờ và đã bắt tôi suy nghĩ. Cho đến lúc đó, tôi cứ tưởng là mình đã quyết định viết cho những người khác về tha thứ. Nhờ suy nghĩ, tôi nhận thấy rằng tôi dấn thân vào cuộc phiêu lưu nầy trước hết là cho chính tôi. Suốt ba năm, tôi đã vật lộn không thành công trong việc muốn chữa lành một vết thương tình cảm. Tôi tưởng tìm được trong một sự tha thứ nào đó thuần túy do ý chí một giải đáp phép lạ cho mọi nỗi cay đắng của mình. Không có trường hợp đó. Tôi đã không đạt được sự bình an nội tâm hằng tìm kiếm.

Khám phá nầy là một trong những biến cố chính thúc đẩy tôi thực hiện và theo đuổi cuộc nghiên cứu về trạng thái động của tha thứ. Bấy giờ tôi tự hỏi tại làm sao tôi đã không thoát khỏi được mối oán hận của mình, mặc dầu đã rất thiện chí và nhiều cố gắng. Tôi có cảm tưởng như đã phung phí thời gian và nghị lực trong những nghiền ngẫm vô ích về quá khứ.

Tôi càng muốn tha thứ thì lại càng ít thành công. Tôi chìm đắm trong vũng lầy các cảm xúc trộn lẫn sợ hãi, mặc cảm tội lỗi và tức giận. Ðôi khi giữa sự hổn loạn nội tâm đó nẩy lên những nhiệt tình nhân hậu ngắn ngủi và những lúc được giải phóng nội tâm thoáng qua. Lúc khác, tôi cảm nhận niềm hy vọng vượt thắng được lòng muốn báo thù của mình, nhưng niềm hy vọng ấy mau chóng bị dập tắt bởi những đợt bột phát của bạo lực và tự ái bị tổn thương. Bấy giờ tôi hiểu được rằng mình đang còn ở giai đoạn tập tễnh trong nghệ thuật tha thứ, mặc dầu đã trải qua nhiều năm dài đào tạo tôn giáo, triết học, thần học và mục vụ. Do đó tôi bắt đầu đọc về đề tài nầy, cật vấn kinh nghiệm riêng của tôi cũng như kinh nghiệm của những người tôi hướng dẫn và của các bệnh nhân của tôi. Tôi muốn dứt khoát khám phá ra cái gì làm ách tắc tiến trình tha thứ của tôi. Liệu cuối cùng tôi có thể nhìn thấy được cuối đường hầm không ?

Một biến cố khác trở nên quyết định : Tôi chứng kiến một sự chữa lành tâm lý, kể cả thể lý, bất chợt xảy đến theo sau một cuộc tập luyện tha thứ. Tôi đã nhận vào tâm lý trị liệu một người đàn ông 55 tuổi, là một giáo sư đại học, có một niềm tin tôn giáo sâu sắc. Niềm say mê công việc và những vấn đề gia đình của ông đã làm cho ông suy sụp trong sự trầm uất, dẫn đến bệnh loét bao tử. Sau mười lần gặp, bệnh nhân của tôi đã học được tự giải thoát mình khỏi nỗi đau bằng cách diễn tả ra cách minh bạch sự thất vọng, bị tước đoạt và tức giận đối với người vợ say rượu, đứa con trai nạn nhân của ma túy và đứa con gái say mê điên khùng một chàng trai mà ông ghét cay ghét đắng. Sự hồi thức tiến dần lên nầy, dựa trên sự chấp nhận những tình cảm tiêu cực của mình đã cung ứng cho ông một nâng đỡ rõ rệt. Sau một chuỗi trị liệu mà tôi cảm thấy dường như hết cách, tôi đã nghĩ đến kỹ thuật chiếc ghế trống, hay đúng hơn là những chiếc ghế trống, mà mỗi chiếc thay thế cho một thành phần trong gia đình của ông. Tôi gợi ý ông tha thứ cho mỗi người trong bọn họ. Ðó là một cuộc gặp gỡ rất cảm kích. Nhiều lần, bệnh nhân của tôi đã khóc nức nở lúc nói lên lời tha thứ của mình. Và cách tự phát, chứ chẳng phải xin xỏ gì, đến lượt mình, ông đã xin mỗi người trong bọn họ tha thứ cho ông về sự vắng mặt quá nhiều và sự thiếu quan tâm nói chung của ông. Hai tuần sau buổi trị liệu ấy, ông báo cho tôi hay rằng các vết loét dạ dày của ông đã liền sẹo. Tôi tự hỏi không biết cắt nghĩa làm sao sự tha thứ đã có thể có hậu quả chữa lành ngay cả những bệnh thể lý ?

Thỉnh thoảng có những người viết chia sẻ với tôi các khó khăn họ cảm nhận trong việc tha thứ. Mọi người đều đồng ý về vẻ đẹp và sự cần thiết của tha thứ, nhưng luôn tự hỏi làm sao để đạt tới được lý tưởng đó. Chúng ta gặp biết bao nhiêu người thất vọng trước sự không thể tha thứ của họ. Họ có cảm tưởng như đang tiến về một ngôi sao, mà họ càng tiến lại gần thì nó lại càng đi xa ra.

Cái thường làm gay gắt thêm cảm giác bất lực như thế, chính là việc trình bày những gương tha thứ đáng ngưỡng mộ hơn là bắt chước được. Làm sao dám nghĩ mình có thể bắt chước Ðức Thánh Cha Gioan-Phaolô II tha thứ cho kẻ ám sát mình, hay Ghandi dạy bất bạo động và tha thứ đối với những kẻ bách hại mình, hoặc hơn nữa Ðức Giêsu bị đóng đinh nài xin Thiên Chúa tha thứ cho các lý hình ? Bên cạnh những con người tha thứ vĩ đại ấy, không ai nghĩ mình có tầm cỡ đó. Người ta thấy mình như được sai đi câu cá voi mà chỉ trang bị bằng một cần câu yếu ớt.

Tuy nhiên, sự tha thứ chiếm một chỗ trung tâm trong nền tu đức của các tôn giáo lớn, đặc biệt là kitô giáo. Tôi không dám tự phụ rằng việc tôi đang suy tư sẽ tìm được ngôn ngữ tinh tế và chính xác cuối cùng cho vấn đề tha thứ. Chủ tâm của tôi thật khiêm tốn. Trước hết tôi muốn vạch rõ một số quan niệm sai lầm về sự tha thứ. Người ta đặt vào dưới từ ngữ "tha thứ" nầy những thực tại xa lạ với nó, đến đổi nhiều người quá vồn vả tha thứ cảm thấy bị rơi vào những ngõ cụt tâm lý và thiêng liêng.

Bạn sẽ tìm thấy trong phần thứ nhất những ý niệm lý thuyết về bản chất của sự tha thứ để khỏi rơi vào bẩy của những sự tha thứ giả tạo và sai lầm, đồng thời để giúp bạn hiểu được hành vi tha thứ của bạn. Trong phần thứ hai, tôi xin đề nghị một lối sư phạm về tha thứ theo một tiến trình 12 giai đoạn. Tôi xác tín rằng một diễn tiến như thế sẽ dẫn đưa các cõi lòng bị tổn thương khám phá được trong sự tha thứ nguồn bình an và giải thoát nội tâm hằng mong ước.


Chương I : Tầm quan trọng của sự tha thứ trong đời sống chúng ta

Bạn muốn luôn luôn được hạnh phúc ? - Hãy tha thứ.

Henri Lacordaire

Dù sao đi nữa, những biến cố trong cuộc sống hàng ngày chứng tỏ rõ ràng rằng sự tha thứ và hòa giải cần thiết biết bao cho sự canh tân cá nhân và xã hội. Ðiều này không chỉ đúng trong quan hệ giữa cá nhân với nhau mà còn trong phạm vi các cộng đồng và các dân tộc.

Gioan Phaolô II

Tha thứ vẫn luôn có tính cách thời sự, cả trong thế giới tục hóa của chúng ta. Không cần phải mất nhiều thời gian lắng nghe người khác thổ lộ mới nhận ra sự cần thiết nóng bỏng của tha thứ. Quả thực, chẳng ai thoát khỏi những tổn thương do mất mát, chán nãn, phiền muộn, đau buồn vì tình, phản bội, v.v... Những khó khăn trong cuộc sống chung được tìm thấy rất nhiều ở khắp mọi nơi : những xung đột giữa vợ chồng, trong gia đình, giữa những người yêu phải chia tay, giữa vợ chồng ly thân - ly dị, giữa chủ và thợ, giữa bạn bè, giữa láng giềng, giữa các chủng tộc hay quốc gia. Một ngày nào đó, tất cả đều cần đến sự tha thứ hầu tái lập hòa bình và tiếp tục chung sống với nhau. Trong cuộc lễ kỷ niệm 50 năm thành hôn, có người hỏi bí quyết của đôi vợ chồng. Người vợ trả lời : "Sau một cuộc cải vả, không bao giờ chúng tôi đi ngủ mà không xin lỗi lẫn nhau".

Ðể khám phá ra tất cả tầm quan trọng của tha thứ trong các mối tương quan nhân loại, chúng ta hãy thử tưởng tượng một thế giới không có tha thứ sẽ như thế nào. Ðâu là những hậu quả trầm trọng của nó ? Có lẽ người ta sẽ bị kết buộc trong bốn chọn lựa sau đây, mà chúng ta sẽ khảo sát cặn kẻ hơn :

Duy trì mãi trong mình và trong kẻ khác sai trái đã phải chịu,

Sống trong sự oán giận,

Bám chặt vào quá khứ,

Trả thù.

1. Duy trì mãi trong mình và kẻ khác sự dữ đã phải chịu :

Khi ai bị tác hại đến toàn bộ thể lý, tinh thần hay thiêng liêng, thì có cái gì đó nghiêm trọng sản sinh nơi người ấy. Một phần hữu thể của họ bị va chạm, xé nát, bị hoen ố và xúc phạm, dường như sự độc ác của kẻ tấn công đã động đến cái tôi thâm sâu của mình. Họ trở nên có khuynh hướng bắt chước kẻ xúc phạm đến mình, dường như bị lây nhiễm phải một thứ vi trùng truyền nhiễm. Căn cứ vào một thứ bắt chước ít nhiều có ý thức đó, họ bị đun đẩy, đến phiên mình, tỏ ra độc ác, không những chỉ đối với kẻ xúc phạm, mà cả đối với chính mình và kẻ khác. Một người đàn ông sống với một người đàn bà mới ly dị ít lâu chia sẻ với tôi những khó khăn ông ta cảm thấy trong cuộc sống chung của họ. Ông nói : "Ðôi khi tôi có cảm tưởng như nàng bắt tôi phải trả giá cho những điều bậy bạ mà người chồng cũ của nàng đã bắt nàng phải chịu đựng".

Sự bắt chước kẻ tấn công mình là một cơ chế tự vệ rất phổ biến trong khoa tâm lý. Bởi một phản xạ sinh tồn, nạn nhân đồng nhất hóa với tên lý hình. Trong cuốn phim Ðan Mạch tuyệt vời Pélé, le conquérant, người ta không trình bày rõ làm sao một đứa trẻ dịu dàng như Pélé lại thích thú lấy roi quất túi bụi đứa bạn chậm trí của nó. Mọi sự trở nên rõ ràng khi nhớ lại rằng Pélé chỉ tái diễn trên một đứa trẻ vô tội cái lối ứng xử của thằng giữ trang trại đã hạ nhục Pélé với những lằn roi trong quá khứ. Chúng ta cũng tìm thấy cùng hiện tượng đó trong phim sinh học của Lawrence d'Arabie. Chúng ta chứng kiến sự thay đổi tận căn tính tình của vị anh hùng. Sau khi bị tra tấn, ông ta trở nên một người hoàn toàn khác. Từ một tính tình ôn hòa và nhân ái, ông trở nên hung hăng và tàn bạo. Biết bao kẻ tấn công tình dục và lạm dụng thô bạo chỉ là lặp lại những hành động hung bạo mà chính họ đã phải gánh chịu trong thời thơ ấu chăng ? Trong việc điều trị có tính cách gia đình, chúng ta thường nhận thấy rằng trong những hoàn cảnh bị ứng suất, trẻ con chấp nhận theo những lối ứng xử tương tự với những lối ứng xử của cha mẹ chúng. Cũng thế, chúng ta có trước mắt gương của những nước sử dụng cho các dân tộc khác chính những sách lược phi nhân mà chính họ đã phải chịu đựng trong thời gian bị bách hại.

Tôi không có ý nói ở đây về sự trả thù chính hiệu, nhưng muốn nêu rõ những phản xạ tiềm ẩn trong vô thức cá nhân hoặc tập thể. Chính vì thế, trong việc tha thứ, chúng ta không chỉ dừng lại ở chỗ không trả thù, nhưng còn phải dám đi cho tới tận gốc rễ của những khuynh hướng bạo lực lệch lạc để đánh bật chúng ra khỏi mình, và để chận đứng các hậu quả tàn phá của chúng trước khi quá muộn. Bởi vì những thiên hướng thù nghịch và thống trị kẻ khác như thế có nguy cơ được truyền chuyển từ thế hệ nầy qua thế hệ khác, trong các gia đình cũng như trong các nền văn hóa. Chỉ có sự tha thứ mới có thể bẻ gãy những phản ứng dây chuyền nầy, chận đứng những hành vi lặp đi lặp lại của việc trả thù, hầu biến đổi chúng thành những hành vi sáng tạo sự sống.

2. Sống trong một mối oán giận thường kỳ :

Biết bao nhiêu người đau khổ phải sống trong một mối oán giận thường kỳ. Hãy lấy trường hợp của những người ly dị. Những cuộc nghiên cứu mới đây về các hậu quả về lâu về dài của việc ly dị đã minh chứng rằng một số lớn những vợ chồng đã ly dị, đặc biệt các bà vợ, vẫn còn tiếp tục nuôi dưỡng trong lòng nhiều nỗi oán giận đối với người phối ngẫu cũ, ngay cả sau mười lăm năm chia tay. Trong kinh nghiệm lâm sàng của tôi, tôi năng có cơ hội để nhận thấy rằng một số phản ứng tình cảm quá trớn chỉ là sự phục hoạt của một tổn thương quá khứ không được chữa lành cho đúng.

Quả thế, sống buồn giận, dù là cách vô thức, làm tiêu hao nhiều nghị lực và nuôi dưỡng cơn ứng suất thường kỳ. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn cái gì xảy ra nếu nhớ luôn trong trí sự khác biệt giữa sự oán giận sản sinh ra ứng suất và sự tức giận không làm điều đó. Sự tức giận là một xúc cảm tự nó vô thưởng vô phạt và sẽ biến tan một khi đã được bộc lộ ra, trong khi đó sự oán giận và thù nghịch tồn tại như một thái độ tự vệ luôn luôn cảnh giác chống lại mọi sự tấn công có thực hoặc tưởng tượng. Như thế kẻ bị chế ngự và hạ nhục trong buổi thơ ấu sẽ trở nên nhất quyết không bao giờ để bị ngược đãi nữa. Nó thường xuyên đề cao cảnh giác. Hơn nữa, nó có khuynh hướng phát minh ra những chuyện âm mưu hay tấn công khả dĩ chống lại nó. Chỉ có sự chữa lành được thực hiện sâu xa bởi việc tha thứ mới có thể mang lại phương dược cho tình trạng căng thẳng nội tâm nầy.

Sự oán giận mưng mủ từ một thương tổn không được chữa lành đúng cách cũng có những hậu quả gây hại khác. Nó là nguyên do của nhiều chứng bệnh tâm thể lý. Sự ứng suất tạo nên bởi oán giận tấn công ngay vào hệ thống miễn dịch. Hệ thống miễn dịch luôn luôn ở tình trạng báo động sẽ không còn biết khám phá ra kẻ thù nữa. Nó không còn nhận ra các tác nhân gây bệnh nữa. Nó còn tấn công ngay cả các bộ phận lành mạnh mà nó được coi như phải bảo vệ. Người ta giải thích như thế về sự phát sinh nhiều chứng bệnh như chứng viêm khớp, chứng xơ cứng động mạch, chứng xơ cứng từng mảng, những bệnh về tim mạch, tiểu đường, v.v… Giữa những chiến lược tự vệ chống lại những hậu quả có hại của sự oán giận, bác sĩ Redford khuyên thực tập thường xuyên tha thứ trong cuộc sống mỗi ngày.

Sau khi mô tả các cuộc nghiên cứu khoa học khác nhau về mối liện hệ nhân quả giữa các trạng thái tình cảm tiêu cực và sự xuất hiện bệnh ung thư, bác sĩ Carl Simonton dành cả một chương sách Guérir envers et contre tous chứng minh rằng sự tha thứ vẫn là phương tiện tốt nhất để vượt thắng nỗi oán giận gây hại của mình. Nhờ một kỹ thuật tranh ảnh tâm thần, ông mời những người bị ung thư cầu chúc điều tốt lành cho ông hay bà nào đã làm họ bị tổn thương. Những ai sử dụng một kỹ thuật như vậy đã cảm nhận một sự giảm bớt rõ rệt cơn ứng suất của họ. Họ cảm thấy mạnh mẻ hơn để chống lại bệnh hoạn của mình. Thật là ngạc nhiên một tiếp cận đơn giản như thế với sự tha thứ lại có thể làm phát sinh những hậu quả sinh phúc dường ấy.

3. Bám chặt vào quá khứ :

Người không muốn tha thứ hay không thể tha thứ sẽ sống thời khắc hiện tại một cách khó khăn. Y khư khư bám chặt vào quá khứ, và bởi chính sự kiện đó, tự buộc tội mình làm hỏng hiện tại, hơn nữa làm ách tắc tương lai của mình. Trong vở diễn Le voyage dans la nuit của Eugene O'Neill, Mary Tyrone bị kiệt lực vì cứ nghiền ngẫm không ngừng một quá khứ nặng nề và khép chặt với tha thứ. Nàng trở thành một gánh nặng và một nguồn phiền muộn cho các phần tử trong gia đình. Chồng nàng khổ sở van xin : "Maria ơi, vì tình yêu thiên đàng, xin em hãy quên quá khứ đi!". Nàng đốp lại : "Tại sao ? Làm sao em có thể quên đi được ? Quá khứ, chính là hiện tại, không. Quá khứ, cũng chính là tương lai. Chúng ta đều cố gắng thoát ra khỏi đó, nhưng cuộc đời lại không cho phép mình". Trước sự bất lực tha thứ của mình, đời sống nàng bị đông cứng. Việc nhớ lại quá khứ trở về làm tăng thêm nỗi đau khổ cố hữu của nàng. Thời khắc hiện tại bị tả tơi trong những sự nghiền ngẫm vô ích : thời gian trôi đi không hạnh phúc, niềm vui có thể có được từ những quan hệ con người bị mờ nhạt. Tương lai bị bít lại và đe dọa : không còn những mối liên hệ tình cảm mới, không còn những dự tính mới… Cuộc sống đóng neo trong quá khứ.

Kinh nghiệm lâm sàng của tôi với những người đau buồn vì cái chết hay sự chia ly với một người thân yêu chứng minh cho tôi thấy rằng sự tha thứ là đá thử vàng cho phép kiểm chứng xem sự thanh thoát đối với một người yêu mến đã đạt tới cùng chưa. Sau khi giúp người đó nhận ra vết thương, lau chùi vũ trụ tình cảm và khám phá ra ý nghĩa vết thương của y, tôi mời y thực hiện một cuộc tha thứ : tha thứ cho chính mình, để loại bỏ nơi y mọi dấu vết của mặc cảm tội lỗi, và tha thứ cho người thân yêu đã khuất, ngõ hầu xua đuổi mọi nỗi oán giận còn lại gây nên bởi sự chia lìa. Trong động thái của tang chế, sự tha thứ phô bày một giai đoạn quan trọng và quyết định. Chính nó chuẫn bị cho tâm hồn bước sang giai đoạn kế tiếp, đó là giai đoạn thừa kế di sản mà người thọ tang lấy lại được tất cả những gì nó đã yêu quí nơi người kia. Sau nầy tôi sẽ mô tả cặn kẻ hơn giai đoạn thừa kế nầy cũng như nghi thức cho phép nhận lãnh di sản ấy.

4. Trả thù :

Những di hại đầu tiên của cuộc sống không tha thứ chẳng mang lại gì làm thỏa lòng cả, như chúng ta vừa nhận định. Ðâu là di chứng của sự trả thù ? Nó có đưa ra những viễn ảnh triển nở hơn không ? Chắc chắn nó là câu trả lời có tính cách bản năng nhất, tự phát nhất đối với điều lăng nhục. Tuy nhiên, JM. Pohier viết rằng tìm bù trừ nỗi đau khổ của mình bằng cách gây đau khổ cho kẻ xúc phạm mình, chính là nhìn nhận cho sự đau khổ một tầm mức thần diệu mà còn lâu nó mới có. Dĩ nhiên việc nhìn thấy kẻ xúc phạm mình bị hạ nhục và đau khổ tạo nên cho người trả thù một vui khoái say mê. Nó thoa một thứ dầu thơm tạm thời lên nỗi đau riêng tư và lên nỗi nhục nhã của y. Nó làm cho người bị xúc phạm có cảm giác như không còn cảm thấy cô đơn trong nỗi bất hạnh nữa. Nhưng sẽ phải trả giá nào ? Ðó là một sự thỏa mãn ngắn ngủi không có triển nở thực sự và không có tính sáng tạo trong các mối quan hệ.

Một cách nào đó, trả thù là một thứ công lý có tính cách bản năng đến từ các thần linh sơ khai của vô thức. Nó nhằm tái lập một sự bình đẳng đặt nền tảng trên nỗi đau khổ gây ra cho cả hai bên. Trong truyền thống Do Thái giáo, luật phạt bằng ngang danh tiếng "mắt đền mắt, răng đền răng" có mục đích quy định việc trả thù. Nó muốn giảm nhẹ những lời nói của Lamek, con trai Cain, đã tuyên bố với các bà vợ : "Ta đã giết một mạng người vì một vết thương, một đứa trẻ vì một sầy sướt. Phải, Cain sẽ được trả thù gấp bảy lần, nhưng Lamek sẽ được bảy mươi lần bảy!" (Stk.4, 23-24). Bản năng trả thù làm mù quáng kẻ nhượng bộ nó. Làm sao có thể lượng định được giá trị chính xác của một đau khổ để đòi hỏi người có lỗi phải chịu một đau khổ tương đương ? Quả thực, kẻ xúc phạm và người bị xúc phạm đều không ngừng leo thang, khiến càng ngày càng khó phán đoán sự ngang nhau của các thương tổn. Hãy lấy ví dụ cổ điển nợ máu của người đảo Corse trong đó cái chết của những người vô tội cứ kế tục từ thế hệ nầy sang thế hệ khác. Dĩ nhiên những sự trả thù trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta ít đẫm máu hơn. Nhưng không phải là ít thiệt hại hơn đối với các mối quan hệ giữa người với người.

Khi ở trong bầu khí trả thù, người ta thường quên đi tác động phá hoại của sự trả thù trên toàn thể môi trường. Chẳng hạn, ở một học hiệu kia, sự xung đột cá nhân giữa vị giám đốc và một giáo sư đã biến thành một trận chiến giữa hai lập trường của đoàn giáo sư. Nhiệt độ ngờ vực và ứng xử không công minh lan ra cả nơi các học viên. Bầu khí làm việc và học tập vì thế mà ngày càng trở nên nặng nề và khó nhọc. Cũng cần phải ghi nhận tầm quan trọng tiên quyết của một thái độ tha thứ nơi các nhân vật nắm giữ quyền bính. Nếu họ để bị lôi kéo bởi tinh thần trừng phạt nhân danh xã hội của mình thì sự xung đột sẽ đạt tới những tầm mức kinh khủng và không thể kiểm soát được nơi những người thuộc quyền của họ.

Thỏa mãn mà sự trả thù mang lại kéo dài rất ngắn ngủi. Nó không thể nào bù trừ nổi các thiệt hại mà nó sẽ gây nên trong hệ thống các mối quan hệ giữa người với người. Ngoài ra, sự trả thù sẽ phát động những chu kỳ bạo lực khó mà bẻ gãy. Nỗi ám ảnh phục thù chẳng đóng góp gì để chữa lành vết thương của người bị xúc phạm, song hoàn toàn ngược lại, nó đầu độc y. Hơn nữa, không nên nghĩ rằng chỉ nguyên quyết định không trả thù kiến tạo được sự tha thứ. Tuy nhiên, nó vẫn là bước đầu tiên quan trọng và có tính cách quyết định để dấn thân trên con đường tha thứ.


Chương II : Một chuyện ngụ ngôn về sự tha thứ : Alfred và Adèle

Làm cách nào để nhận thức một sự thay đổi nghiêm túc đời sống? Trước hết, ta phải mở lòng ta cho những sứ điệp đánh động tâm linh của phụng vụ. Thời kỳ dẫn đến Mùa Phục Sinh đem lại cho ta một món quà quý giá của Chúa và một cơ hội hiếm có để đưa ta lại gần Ngài, thay đổi nội tâm và lắng nghe tiếng Ngài từ trong ta.

Gioan Phaolô II

Ở bìa một ngôi làng nhỏ êm đềm nổi lên một trang trại mà nhà cửa mới sơn quét. Ðó là trang trại của Alfred, một con người tự hào, thanh liêm và hơi ba hoa. Thân người to lớn nhưng gầy, cằm thon, mũi khoằm, ông được dân chúng vừa kính trọng vừa sợ. Hơi ba hoa, nhưng khi ông nói là để tuyên bố những câu châm ngôn về giá trị của công việc hay sự nghiêm túc của cuộc đời.

Bà Adèle, vợ ông, luôn có nụ cười niềm nở và giọng nói duyên dáng. Dân chúng thoải mái khi có mặt bà. Bà âm thầm đau khổ bên cạnh một người chồng dè sẻn lời nói và vuốt ve. Nàng nuối tiếc trong lòng là đã cưới một người quá ham việc, vốn đã từng làm cho người cha quá cố của nàng ngưỡng phục. Chắc chắn Alfred đã làm cho nàng sống thoải mái và hằng trung thành với nàng, nhưng vì quá bù đầu vào công việc, chàng chỉ dành cho nàng quá ít thời gian thân mật và vui thú.

Một hôm, Alfred quyết định rút ngắn ngày sống. Thay vì làm việc đến tối mịt, chàng trở về nhà sớm hơn dự tính. Trước sự sửng sốt, chàng bắt được quả tang Adèle với một người đàn ông láng giềng ngay trên giường ngủ của vợ chồng chàng. Người đàn ông mau lẹ nhảy qua cửa sổ chạy trốn, còn Adèle lúng túng qùy sụp dưới chân Alfred van xin tha thứ. Alfred đứng khựng như một pho tượng : mặt trắng bạch vì phẩn nộ, môi thâm lên vì giận dữ, nhưng nén giữ được làn sóng cảm xúc tấn công mình. Thấy mình bị cắm sừng như vậy, tình cảm của chàng đi từ bị lăng nhục đến tức giận, qua một nỗi đau sâu xa. Không phải là người lớn tiếng, chàng chỉ biết im lặng. Nhưng ông nghĩ ngay rằng thái độ im lặng sẽ làm cho Adèle bị một sự hành hạ lớn hơn mọi lời nói hay cử chỉ bạo lực.

Không hiểu vì sao vụ việc Adèle được lan truyền trong làng và những kẻ "xấu miệng" tha hồ mà tán hươu tán vượn. Người ta đoán trước rằng Alfred sẽ đòi chia tay. Nhưng, để làm thất bại những chuyện ngồi lê đôi mách đó, thì nầy đây vào lễ trọng ngày Chúa nhật, Alfred đi vào lối giữa, đầu ngước cao, với Adèle bước lon ton theo sau. Là một tín hữu tốt, ông dường như đã hiểu những lời của Kinh Lạy Cha : "Xin tha thứ cho chúng con như chúng con tha thứ cho những kẻ xúc phạm chúng con". Nhưng cái vinh quang tha thứ của Alfred được kín đáo nuôi dưỡng bởi sự xấu hổ của Adèle.

Ở nhà, Alfred tiếp tục khơi lửa hiềm thù, bằng thái độ câm lặng và những cái liếc nhìn đầy khinh miệt đối với nữ tội nhân. Tuy nhiên, trên trời không để bị giễu cợt bởi những vẻ bên ngoài của nhân đức, nên vội vả sai một thiên thần đến vực dậy tình trạng nầy. Cứ mỗi lần Alfred phóng cái nhìn cứng rắn và tối tăm trên Adèle thì thiên thần để rơi vào trái tim ông một hòn sỏi to bằng cúc áo. Mỗi lần như thế, Alfred cảm nhận một nhói đau khiến mặt ông phải nhăn nhó. Quả tim ông chỉu nặng đến đổi ông phải khom người bước đi và phải khó nhọc ưỡn cổ ra để thấy rõ phía trước.

Một hôm đang cắt lúa, Alfred nhìn thấy một nhân vật sáng láng đứng tựa vào hàng rào bảo ông : "Alfred, ngươi xem ra quá đọa rồi." Bất thần nghe một người lạ gọi tên mình, Alfred hỏi người là ai và muốn gì. Thiên thần nói với ông : "Phải, ta biết ngươi đã bị vợ lừa dối và sự sĩ nhục hành hạ ngươi. Nhưng ngươi đang thực hiện một sự trả thù tinh vi, mà nó làm cho chính ngươi phải suy sụp tinh thần". Alfred cảm thấy mình bị đoán đúng nên cúi đầu xuống thú nhận : "Tôi không thể lấy ra khỏi đầu óc cái tư tưởng bị nguyền rủa nầy : làm sao nàng đã lừa dối tôi, một người chồng trung thành và quảng đại như thế ? Ðó là một con đĩ, nàng đã làm nhơ bẫn cái giường của vợ chồng !" Nói những lời đó, Alfred nhăn mặt đau đớn. Bấy giờ thiên thần đề nghị giúp đỡ ông, nhưng Alfred quả quyết rằng không ai có thể nâng đỡ ông khỏi gánh nặng của mình : "Hỡi người lạ mặt, dù ông có thể toàn năng đi nữa, ông sẽ không bao giờ có thể xóa đi cái gì đã xảy ra được". Thiên thần bảo ông : "Ngươi có lý, Alfred ạ, không ai có thể thay đổi được quá khứ, nhưng từ bây giờ ngươi có khả năng nhìn quá khứ một cách khác. Ngươi hãy nhận diện vết thương của mình, chấp nhận sự tức giận và sĩ nhục của ngươi. Rồi từ từ, ngươi hãy bắt đầu thay đổi cái nhìn của ngươi trên Adèle. Phải chăng chỉ một mình nàng là có lỗi ? Hãy nhớ lại sự dững dưng của ngươi đối với nàng. Hãy đặt mình vào hoàn cảnh của nàng. Ngươi cần những con mắt mới và thần diệu để nhìn nỗi bất hạnh của ngươi dưới một ánh sáng mới".

Alfred không thực sự hiểu, nhưng ông tin tưởng vào thiên thần. Làm sao ông chọn lựa làm khác được với gánh nặng thiêu đốt trái tim ? Thiếu phương tiện, ông hỏi vị khách làm sao có thể thay đổi cái nhìn của ông. Thiên thần bắt đầu chỉ dẫn cho ông thế nầy : "Trước khi nhìn Adèle, hãy làm giản ra các nếp gấp trên trán, những nét nhăn quanh miệng và những thớ thịt khác nơi khuôn mặt ngươi. Thay vì nhìn thấy nơi Adèle một người đàn bà xấu xa, hãy thấy một người vợ đang cần sự dịu dàng. Hãy nhớ lại ngươi đã đối xử lạnh nhạt và cứng cỏi với nàng như thế nào. Hãy nhớ lại lòng quảng đại và nhiệt huyết của nàng mà ngươi rất yêu quí ngay buổi đầu hai người yêu nhau. Ðổi lại mỗi cái nhìn được đổi mới, ta sẽ cất khỏi trái tim ngươi một cục sỏi".

Alfred chấp nhận cuộc trao đổi trong khi biện hộ cho sự vụng về tự nhiên của mình. Từ từ từng chút, cách chậm chạp, nhưng không phải là không cố gắng cách ý thức, ông chuyên chú nhìn Adèle với những cái nhìn mới. Nỗi đau trong lòng ông mờ nhạt đi dần dần. Adèle xem ra được biến đổi trông thấy : từ người vợ bất trung, nàng trở thành một con người dịu dàng và đáng yêu mà ông đã biết vào mùa xuân tình yêu của họ. Chính Adèle cũng cảm nhận được sự thay đổi. Ðược nâng đỡ, nàng tìm lại được tính khí tốt lành và nụ cười tươi vui của mình. Ðến lượt mình, Alfred tự cảm nhận đã hoàn toàn thay đổi. Con tim còn sây sướt vì các hòn sỏi đi qua tràn ngập một sự dịu dàng sâu xa. Cảm xúc mới mẻ ngập tràn còn làm chàng lo sợ. Nhưng một chiều nọ, đầm đìa nước mắt chàng ôm Adèle trong vòng tay, không nói một lời. Phép lạ tha thứ vừa được hoàn tất.


Chương III : Vạch trần những quan niệm sai lầm về tha thứ

Chúng ta tha thứ quá ít và lãng quên quá nhiều.

Bà Swetchine

Kêu cầu sự tha thứ của Thiên Chúa cho Giáo Hội và cho tội lỗi của con cái Giáo Hội. Chúng ta đều biết rằng tội lỗi của các Kitô hữu đã nhuộm đen khuôn mặt không tì vết. Tuy nhiên, cậy trông vào lòng thương xót Chúa, không nhớ đến tội của hối nhân, chúng ta sẽ có thể quay lại chính đạo với lòng tự tin.

Gioan Phaolô II

Trước khi nghĩ đến tha thứ, điều khẩn thiết là phải cởi bỏ khỏi chúng ta những ý tưởng sai lầm về tha thứ. Chúng ta ngụp lặn trong văn hóa kitô giáo, nên, vì thiếu biện phân, một số giá trị bị lây nhiễm bởi những lối giải thích ý nhị nhưng không quan trọng. Sự tha thứ cũng không thoát khỏi méo mó đó, nhưng còn trầm trọng hơn : một số "thầy tu đức" bảo dưỡng bằng chữ viết hay lời nói những ý tưởng sai lầm về sự tha thứ. Ðáng tiếc là như vậy, trong khi tha thứ, yêu cận nhân, và nhất là yêu kẻ thù chiếm chỗ trung tâm trong giáo huấn Phúc Âm và các truyền thống tu đức khác. Chính vì thế, điều cấp bách là phải tố cáo những quan niệm sai lầm người ta đã tạo ra quanh sự tha thứ hay sự sử dụng tha thứ. Nhờ đó, chúng ta có thể tránh được những ngõ cụt thuộc lãnh vực tâm lý và thiêng liêng : những chán nãn, bất công, ảo tưởng thiêng liêng, phản bội chính mình, ách tắc trong phát triển nhân bản và tôn giáo.

Ðọc chương nầy, có thể một số đọc giả cảm thấy bị đảo lộn trong cách thức họ quan niệm và thực hành tha thứ. Thật khó khăn để khám phá được là mình đã bị lầm về bản chất của tha thứ, và đáng buồn là điều đó lại kéo dài trong nhiều năm. Nhưng ta có thể nào đổ rượu mới vào bầu da cũ ? Xây một tòa nhà mới mà không dọn mặt bằng và đào lỗ để đặt nền móng vững chắc ?

Biết bao lần chúng ta đã nghe những lời như thế nầy : "Tôi không thể tha thứ cho nó, bởi vì tôi không thể quên đi được", hoặc là "Anh hãy quên tất cả chuyện đó đi", "Chị hãy lật sang trang mới", "Ðừng thèm dừng lại ở điều lăng nhục đó, hãy tiếp tục cuộc đời của bạn". Kiểu nói và hành động như vậy là không lối thoát. Lý do thật đơn giản : Việc quên đi biến cố đau thương, dù có thể quên được đi nữa, sẽ cản trở việc tha thứ, bởi vì chúng ta không còn biết mình tha thứ cái gì. Hơn nữa, nếu tha thứ có nghĩa là quên, thì cái gì sẽ xảy đến cho những người được phú bẩm một trí nhớ tuyệt vời ? Sự tha thứ không có lối vào tới họ được. Do đó, tiến trình của tha thứ đòi hỏi một trí nhớ tốt và một ý thức thật rõ ràng về điều xúc phạm ; nếu không, việc mổ xẻ con tim mà tha thứ đòi hỏi sẽ không còn có thể được nữa.

Dùng sự quên đi để thử nghiệm tha thứ là một sai lầm. Thật ra là ngược lại. Sự tha thứ giúp ký ức chữa lành. Với sự tha thứ, hoài niệm về thương tổn sẽ mất đi tính cay độc của nó. Biến cố đau thương sẽ dần dần bớt có mặt và ám ảnh ; vết thương sẽ dần dần liền sẹo ; sự gợi lại điều xúc phạm không còn gây đau đớn nữa. Chính vì thế, ký ức đã được chữa lành tự giải phóng và có thể đầu tư vào một cái gì khác hơn là tư tưởng làm tinh thần suy sụp của điều xúc phạm.

Vậy những người khẳng định "Tôi tha thứ, nhưng tôi không thể quên đi được" chứng tỏ họ có một sức khoẻ tâm thần thật tốt. Họ đã hiểu được rằng tha thứ không đòi hỏi chứng quên điều xúc phạm. Trái lại, khi nói như thế, họ muốn chỉ rõ là họ quyết định không còn tin tưởng và ở lại thường xuyên với những canh chừng của họ, đó là bằng chứng họ đã không chấm dứt tiến trình tha thứ của họ.

1. Tha thứ không có nghĩa là phủ nhận :

Khi nhận một cú đau, một trong những phản ứng thông thường nhất là làm cho mình ra dạn dày với đau đớn và cảm xúc dồn dập. Phản ứng tự vệ nầy thường mặc lấy hình thức của một sự cự tuyệt không nhận điều xúc phạm. Nếu phản xạ tự vệ vẫn tồn tại thì cuối cùng nó sẽ trở thành bệnh hoạn. Người bị tổn thương sẽ cảm thấy bị ứng suất, băng giá trong lòng, không biết gì xảy đến cho mình trong phần lớn thời gian. Y thường không cảm thấy cần được chữa lành, cũng chẳng cần đến tha thứ. Rõ ràng lúc ấy, nổ lực tha thứ không phát huy được hiệu quả, bao lâu mà người trong cuộc từ chối nhìn nhận điều xúc phạm với di chứng đau đớn của nó.

Tôi rất ngạc nhiên thấy những "thầy tu đức" không nhận có một trở ngại nào đối với sự tha thứ. Trái lại, họ kiếm tìm một con đường duy nhất phải dẫn đến tha thứ. Edith Stauffer là một thí dụ. Trong cuốn Amour inconditionnel et pardon, bà lấy hứng từ Bộ Luật Essénien để định nghĩa tha thứ : "Tha thứ, chính là hủy bỏ mọi yêu sách, điều kiện và chờ đợi khỏi trí khôn, vì chúng làm ách tắc thái độ của tình yêu". Phải chăng bà muốn nói rằng để tha thứ, trước hết phải chối bỏ một phần chính mình ? Một sự tha thứ tương tự không chỉ tương đương với một dồn nén tâm lý với tất cả những hậu quả mà chúng ta đã biết sao ? Dù được tác động bởi "Tình yêu vô điều kiện", sự tha thứ đòi hỏi một sự dồn nén hay cắt cụt một phần của chính mình đối với tôi xem ra rất nguy hiểm.

Phải chăng đó là một tiếp cận quá thiêng liêng hóa sự tha thứ không để ý đến vai trò của tính xúc cảm ? Tôi đã nhận thấy những hậu quả tai hại trong trường hợp của Claudette. Người đàn bà nầy có những triệu chứng trầm uất : ứng suất, lo âu, mất ngủ, biếng ăn, mặc cảm có lỗi. Chồng bà ngang nhiên đi lại công khai với một tình nhân trẻ. Claudette và các con bà cảm thấy bị nhục nhã sâu xa. Ðầy khiếm nhã, người chồng đã rút hết tài khoản gia đình để sống cuộc đời ngông cuồng với người bạn gái mới. Khi tôi hỏi Claudette về tình trạng cảm tính của bà, bà trả lời ngay rằng nhờ vào những gì một vị hướng dẫn thiêng liêng viết, bà đã tha thứ cho chồng bà.

Luôn luôn theo lời khuyên của vị hướng dẫn đó, bà cố gắng cho chồng bà đầy "những điều tích cực" để đối nghịch lại những xúc cảm "tiêu cực" của bà, trong đó sự tức giận có thể hủy diệt bà. Tôi buộc lòng nói ngược lại những lời khuyên của vị hướng dẫn bà và tôi đã mạnh mẻ khích lệ bà không được không biết tới sự xấu hổ và tức giận của bà, nhưng phải tìm ra cho chúng những cách thế có thể chấp nhận được để bộc lộ ra.

Bấy giờ, Claudette mới hiểu rằng bà chưa ở trạng thái có thể tha thứ được. Trước hết cần phải tôn trọng xúc cảm của bà. Theo lời khuyên của tôi, bà tìm được phương thế cáng đáng nỗi tức giận và sự xấu hổ của mình : bằng cách làm việc nhà, bà lợi dụng để đập thật mạnh vào những tấm thảm, vừa để bay bụi ra, vừa để tiêu hao lượng arênalin thặng dư. Sự chấp nhận tiệm tiến nỗi tức giận, rồi sự xấu hổ thấy mình bị chồng hạ nhục cho phép Claudette được giải thoát khỏi những tấn công của lo âu và mặc cảm có lỗi cách bệnh hoạn.

2. Tha thứ yêu sách nhiều hơn một hành vi ý chí :

Ðây là hai cảnh quen thuộc. Cảnh thứ nhất : một đứa con trai bị nhốt trong nhà bắt phải xin lỗi chị nó vì đã lục lọi nhật ký rồi sau đó chọc ghẹo những cuộc tình chóng qua của chị. Cảnh thứ hai : một cô giáo tách riêng hai đứa trẻ đang cải nhau trong sân chơi và buộc chúng lập tức phải tha thứ lẫn cho nhau. Phải chăng ý tưởng đầu tiên của chúng ta về tha thứ cũng sinh ra từ kinh nghiệm tương tự của trẻ con ?

Một số nhà giáo dục của chúng ta đưa ra sự tha thứ như một công thức thần diệu có khả năng sửa chữa hết mọi lỗi lầm. Chẳng hề lưu ý đến kinh nghiệm sống cảm tính của trẻ, sự tha thứ bị giản lược vào một hành vi đơn giản của ý chí có khả năng thu xếp mọi xung đột một cách tức thời và dứt điểm. Vào thời đại nầy, chúng ta không thể không hoài nghi giá trị của một sự tha thứ giả tạo như thế. Miệng nói tha thứ nhưng mà lòng thì không có đó. Nó được dùng để làm dịu đi nỗi lo lắng của nhà giáo dục hơn là giáo dục đứa trẻ.

Chúng ta khó mà thoát khỏi sự tha thứ ma thuật và tức thời tuổi ấu thơ. Cái ảo tưởng nầy cho chúng ta một thứ cảm giác toàn năng trên vũ trụ cảm xúc của mình ! Về sau chúng ta đã phải xuống nước. Chúng ta đã cảm thấy rất thất vọng và ngay cả có lỗi khi không còn có khả năng tạo ra cùng một ma lực thần diệu như thế. Sai lầm vẫn là coi tha thứ như một hành vi ý chí đơn thuần, thay vì xem tha thứ như là kết cuộc của tập luyện. Một sự hoàn thành như thế lâu hay mau tùy theo sự thương tổn, những phản ứng của người gây ra xúc phạm và các nguồn năng lực của người bị xúc phạm. Dĩ nhiên ý chí được mời gọi đóng vai trò rất lớn trong việc nầy, nhưng nó không kiện toàn được một mình công việc của tha thứ. Tất cả mọi quan năng đều được huy động trong việc tha thứ : cảm tính, con tim, trí tuệ, phán đoán, trí tưởng tượng, đức tin, v.v…

3. Tha thứ không thể bị truyền khiến :

Hoặc tha thứ là tự do và tự nguyện, hoặc không có tha thứ. Nhưng cơn cám dỗ thật lớn lao, nhất là nơi một số nhà giảng thuyết, là bắt buộc người ta tha thứ một cách tự do ! Bà mẹ gia đình nầy không lý luận tốt hơn khi bà hỏi tôi làm thế nào bà có thể ép buộc con của bà học hành một cách tự do. Một hôm, tôi nghe bài giảng của một vị Giám mục trong thánh lễ truyền hình ngày Chúa nhật. Lúc đầu vị mục tử giải thích rằng tha thứ là một hành động cao cả của lòng quảng đại, nhưng sau đó lại bắt đầu trượt xuống bằng cách nhấn mạnh sự bắt buộc của kitô giáo trong việc tha thứ. Bài diễn văn của ngài được đánh dấu bằng những thành ngữ như "phải tha thứ", "ta phải tha thứ cho kẻ khác", "giới răn yêu thương kẻ thù", "qui tắc công giáo"… Hình ảnh thu trên cử tọa chứng tỏ thính giả khó chịu. Người ta đoán họ đang có cuộc tranh cải nội tâm : ý muốn tha thứ vấp phải những tình cảm và cảm xúc không bộc lộ ra nhưng cũng đòi phải được lắng nghe.

Không nên giản lược sự tha thứ, cũng như bất cứ thực hành đạo đức nào, vào một bó buộc luân lý. Làm như thế là liều đánh mất đi đặc tính nhưng không và tự phát của tha thứ. Tuy nhiên đó là cái mà một số thực hành kitô giáo thừa nhận. Ðây là một bằng chứng hiển nhiên nhất : các tín hữu công giáo, nam cũng như nữ, hằng ngày đọc Kinh Lạy Cha, nhưng chẳng hề ý thức rằng một sự giải thích sai lầm câu "xin tha thứ cho chúng con, như chúng con tha thứ cho những kẻ đã xúc phạm chúng con" đồng hóa sự tha thứ với một hành động công lý được đòi hỏi. Họ nghĩ rằng nhất thiết họ phải đặt ra một cử chỉ tha thứ trước khi chính họ được Thiên Chúa tha thứ. Họ quên đi rằng sự tha thứ của Thiên Chúa không bị điều kiện bởi những sự tha thứ nghèo nàn của con người. Họ tạo ra cho mình hình ảnh thảm hại nào về Thiên Chúa thế ? Ðó là hình ảnh một con người tính toán kiểu buôn bán, lệ thuộc vào luật có đi có lại.

Còn hơn thế nữa, sự "bó buộc" tha thứ trong Kinh Lạy Cha còn để hiểu ngầm rằng trong trường hợp không có sự tha thứ về phía mình thì con người phải gánh chịu hình phạt là đến lượt nó không được tha thứ. Lúc ấy chúng ta nghĩ rằng mình ở trong tinh thần giới răn Cựu ước hơn theo lời kêu gọi yêu thương tự phát và nhưng không của Tám Mối Phúc Thật. Ðể tránh sự hàm nghĩa trong công thức "Xin tha thứ những xúc phạm của chúng con như …", tôi đọc trong ý nghĩa những lời của thánh Phaolô : "Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy làm như vậy" (Cl.3,13). Trong cùng cảm hứng ấy, một người bạn nói lên công thức mình thích hơn sau đây : "Xin tha thứ cho chúng tôi những xúc phạm của chúng tôi, ngõ hầu chúng tôi có thể tha thứ cho những người đã xúc phạm đến chúng tôi ".

4. Tha thứ không có nghĩa là tìm lại được mình như trước khi bị xúc phạm :

Khi tôi kể cho một người bạn gái là nhà tâm lý rằng tôi đang viết một cuốn sách về tha thứ, thì nàng rất đổi tư lự. Nàng thú nhận rằng nàng cảm thấy bất lực không thể tha thứ cho một người bạn gái đã phản bội lòng tin của nàng vì đã thổ lộ những lời tâm sự của nàng ra. Nàng nói : "Tôi không thể tha thứ cho cô ta được, bởi vì tôi cảm thấy bất lực không thể lại trở nên cùng một người bạn như cũ đối với cô ta". Dưới con mắt nàng, tha thứ có nghĩa là hòa giải và hòa giải có nghĩa là "trở lại như trước". Chúng ta thường lẫn lộn tha thứ với hòa giải, dường như hành động tha thứ hệ tại việc tái lập các mối quan hệ giống hệt những mối quan hệ chúng ta đã có trước khi lầm lỗi. Trong những liên hệ thân mật ruột thịt, chung sống và làm việc, thì hòa giải phải là hậu quả bình thường của tha thứ. Nhưng tự bản chất, tha thứ không đồng nghĩa với hòa giải, bởi vì tha thứ có lý do hiện hữu của nó mà không có hòa giải.

Chẳng hạn chúng ta có thể tha thứ cho một người vắng mặt, đã chết hay không hề biết mặt. Hiển nhiên trong trường hợp nầy, sự hòa giải là không thể có được. Tôi biết có những cha mẹ đã tha thứ như thế cho kẻ sát nhân giết chết con của họ, mà họ chẳng hề trông thấy, cũng chẳng hề biết mặt kẻ giết người ấy. Trong những trị liệu về tang chế, thực hành thông dụng là xin người chịu tang tha thứ cho người thân đã khuất. Khi liên quan đến những lạm dụng và hãm hiếp, người ta khuyên nạn nhân chấm dứt quan hệ với kẻ tấn công để tự bảo vệ mình. Ðiều đó không có nghĩa là loại trừ việc tha thứ trong một tương lai có thể.

Nhưng là sai lầm khi nghĩ rằng một khi đã tha thứ thì có thể tìm lại mình như trước với kẻ xúc phạm mình. Sau khi đã làm món trứng tráng, người ta có thể thu hồi lại những quả trứng được sao ? Sau khi đã nướng bánh, người ta có lại bột sao ? Không thể nào trở lui lại đàng sau, sau khi đã chịu một lầm lỗi. Hoặc là người ta cố gắng làm cho mình tin rằng đã không có gì xảy ra và như vậy người ta tái lập quan hệ trong sự dối trá, hoặc là người ta lợi dụng xung đột để duyệt xét lại phẩm chất của mối quan hệ và lại đưa ra mối quan hệ với những nền tảng mới vững chắc hơn.

5. Tha thứ không đòi hỏi người ta phải từ chối quyền lợi của mình :

Sau một cuộc diễn thuyết trong đó tôi đã nói về tha thứ như một giai đoạn quan trọng trong động thái tang chế, một bà Do Thái đến nói với tôi : "Cha nên thận trọng khi nói về tha thứ. Thật là nguy hiểm và ghê tởm nữa khi tha thứ cho những kẻ bất lương, chẳng hạn cho những kẻ bạo lực tấn công tình dục. Như thế chẳng phải là một cách nào đó khuyến khích chúng tái phạm sao ?" Ðối với bà nầy và nhiều người thì tha thứ có nghĩa là từ chối các quyền lợi của mình và việc công lý được thực hiện. Xét về hậu quả thì như thế hóa ra xui khiến những kẻ xúc phạm và những kẻ độc ác tiếp tục mãi những bất công của chúng. Bernard Shaw đã chẳng nói tha thứ là "chỗ ẩn núp cho những kẻ bất lương" sao ? Ðôi khi các kitô hữu cũng bị trách cứ một điều tương tự, là đồng hóa tha thứ với một hình thức thoái lui trước những yêu sách của công lý, nhất là khi họ có khuynh hướng quá dễ dàng đưa ra cả "má bên kia".

Vấn đề nổi bật ở đây là những tương quan giữa công lý và tha thứ. Chúng ta sẽ đi thật xa, nếu muốn bàn đến cách thích hợp. Chỉ cần báo hiệu rằng tha thứ trước hết phát xuất từ lòng khoan dung nhưng không, trong khi công lý nhằm tái lập trên nền tảng khách quan các quyền lợi của người bị thiệt hại. Ðiều đó không có nghĩa là trong khi tha thứ là người ta từ chối áp dụng công lý. Ðó là điều tôi đã làm cho một người đàn bà hiểu, khi bà viết thư nói cho tôi hay chồng bà đòi ly dị mà từ chối mọi bù đắp cho bà về hai mươi năm làm việc trong đời sống vợ chồng. Dù với một bất công tỏ tường như thế, bà sẵn sàng tha thứ tất cả cho ông ta. Bà viết : "Ngay cả khi tôi đã nuôi dạy các con và làm việc rất thành công trong nghề ngoại giao, tôi không muốn gây cho chàng thiệt hại nào. Tôi tha thứ cho chàng đã bỏ rơi tôi không có một xu, bắt các con tôi đi và ngay cả vất bỏ tôi để đến với một người đàn bà khác trẻ hơn".

Theo ý tôi, một thái độ như thế, dù xem ra đẹp đẻ và quảng đại đấy, che đậy nhiều nỗi sợ hãi và hèn nhát trước người đàn ông được giả thiết là "đại nhân" đó. Tôi đã trả lời cho người đàn bà đó rằng : "Bà đã lẫn lộn tha thứ với công lý. Bà hãy chọn cho bà một luật sư giỏi. Hãy làm cho các quyền lợi của bà được tôn trọng. Và sau đó, bà sẽ quyết định xem bà có còn thực sự muốn tha thứ không". Bà đã làm như vậy.

Sự tha thứ không chiến đấu chống bất công là một dấu hiệu yếu đuối và dung thứ sai lầm, và còn lâu mới là dấu hiệu của sức mạnh và can đảm. Cái đó chỉ khuyến khích sự tồn tại của tội ác thôi. Ðó là cái mà một số người có trách nhiệm đã không hiểu khi đã được thông tin đầy đủ về những lạm dụng tình dục về phía "chức sắc" mà các ngài đã không can thiệp đúng lúc và hữu hiệu, kể cả trong các tôn giáo.

6. Tha thứ cho kẻ khác không có nghĩa là biện giải cho y :

"Tôi tha thứ cho ngài, đó không phải là lỗi của ngài". Ðó là một quan niệm sai lầm khác về sự tha thứ. Sai lầm, bởi vì tha thứ không tương đương với biện giải cho người khác, nghĩa là cất đi cho họ khỏi mọi trách nhiệm luân lý. Các lý do viện cớ không thiếu để biện minh cho việc làm đó : ảnh hưởng của di truyền, của giáo dục, của môi trường văn hóa, v.v… Nếu xét như thế, thì có lẽ không ai phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình hết, bởi vì chẳng ai hưởng được một tự do thật đầy đủ cả. Phải chăng vẫn còn trong chiều hướng lệch lạc đó mà người ta thường giải thích câu nói bình dân "Hiểu hết là tha thứ hết" ? Rồi cứ thế mà quyết định lờ đi mọi tội ác.

Lời biện giải sai lầm thường mang dáng dấp một thủ đoạn khéo léo và che đậy mà người ta sử dụng để làm nhẹ đi nỗi đau của mình. Bị thuyết phục rằng kẻ xúc phạm không có trách nhiệm sẽ ít nặng nề để chịu đựng hơn là biết rằng nó đã gây ra điều sai lỗi với tất cả sự hiểu biết và tự do. Nhưng sự biện giải dễ dàng có thể trở thành con dao hai lưỡi. Nếu đàng nầy nó làm giảm nhẹ, thì đàng kia nó hạ giá và khinh bỉ chính kẻ gây ra xúc phạm. Nó lén lút khẳng định : "Mầy không đủ thông minh để gây nên một lỗi lầm như thế đâu". Nói chung lại, nó góp phần hạ nhục hơn là giải thoát. Gabriel Marcel minh họa rõ ràng điểm đó trong vở kịch sân khấu La Grâce. Franoise, người vợ bất trung, không còn có thể chịu đựng được lời giảng giải của Gérard, chồng bà, đang cố gắng minh oan cho bà khỏi tội cách vô ích. Gérard nói với vợ : "Anh không phải tha thứ cho em… lý do các hành động của em là ở ngoài em mà". Franoise, nhục nhã, bác lại : "Không, không phải như vậy !… Tôi thà chết còn hơn !"

7. Tha thứ không phải là minh chứng mình trội hơn về mặt luân ly :

Một số loại tha thứ hạ nhục hơn là giải thoát. Cái gì xảy ra trong những trường hợp đó ? Sự tha thứ có thể được biến thái thành một cử chỉ tinh vi của sự trội hơn về mặt luân lý, "một sự ngạo nghễ thượng đẳng". Dưới dáng vẻ bề ngoài của lòng hào hiệp, nó có thể che đậy một bản năng quyền lực. Làm sao giải thích rằng kẻ tha thứ tìm cách mang lấy những dáng vẻ của sự cao thượng giả dối ? Chính là việc y cố gắng che đậy điều đê tiện sâu xa của mình. Y cố tự bảo vệ mình khỏi sự xấu hổ và bị loại bỏ đang xâm chiếm y. Y cố che đậy sự sĩ nhục của mình dưới vị thế trên trước của kẻ cả bị tổn thương, nhưng đầy quảng đại và bao dung.

Cám dỗ tha thứ để loè quần chúng thật lớn lao. Kẻ tha thứ phô trương sự cao cả luân lý của mình là kẻ bị xúc phạm để làm nổi bật hơn sự hèn hạ của kẻ gây nên xúc phạm. Vậy, càng sử dụng sự tha thứ vào những mục đích ấy thì càng rõ ràng tự châm biếm mình. Sự tha thứ đích thực của cõi lòng được kiện toàn trong sự khiêm tốn và mở ra con đường hòa giải chân thực. Ngược lại, sự tha thứ giả tạo chỉ duy trì một tương quan giữa kẻ thống trị và người bị trị. Chính là để chống lại sự tha thứ cao ngạo đó mà Edmée, nhân vật của vở kịch Un homme de Dieu của Gabriel Marcel, đã phản kháng. Nàng đã thất trung với chồng, là một mục sư Tin Lành. Sau khi đã chịu đựng sự tha thứ cao ngạo đó kéo dài nhiều năm tháng, nàng không còn chịu đựng được nữa và thét lên : "Thứ cao thượng tâm hồn rẻ tiền đó làm tôi ghê tởm". Và Claude đáp lại : "Rẻ tiền ư ! Nhưng khi anh đã tha thứ cho em …". Edmée cắt ngang : "Nếu anh đã không tha thứ cho tôi vì yêu tôi, anh muốn tôi làm chi với sự tha thứ của anh ?"

Sự tha thứ chỉ dùng để chứng minh vẻ trịch thượng luân lý được thực hành bởi ba kiểu "chuyên nghiệp". Trước hết, cái không đừng được : tha thứ đối với những lỗi nhỏ mọn nhất. Hai là mặc cảm có lỗi. Nó đầu độc hoàn cảnh để thích thú tỏ ra khoan hồng và đè nặng lên người khác bằng sự tha thứ. Ba là nạn nhân chung thân mà thí dụ thông thường nhất là vợ của người chồng nghiện rượu. Bà tính lôi kéo thiện cảm và vinh dự nơi những người chung quanh là bà đã hy sinh sống với người đàn ông ghê tởm đó và không ngừng tha thứ cho chàng cứ say sưa mãi như vậy.

Do đó, không phải là một biểu dương quyền lực, sự tha thứ đích thực là một dấu hiệu của sức mạnh nội tâm. Quả thực, cần phải có sức mạnh nội tâm để nhận biết và chấp nhận sự dễ bị thương tổn của mình và không muốn che đậy nó dưới những dáng vẻ của lòng từ tâm giả dối. Có thể lúc khởi đầu, người ta có thể bị tác động bởi nhu cầu tỏ ra thượng phong bằng cách tha thứ. Nhưng suốt trong tiến trình tha thứ, người tha thứ có nhiều cơ hội tỏ ra cảnh giác để thanh tẩy các động lực làm hỏng mọi nổ lực quảng đại của mình.

8. Tha thứ không hệ tại việc trút đổ cho Thiên Chúa :

"Tha thứ thuộc về Thiên Chúa". Chắc bạn đã từng nghe giải thích câu châm ngôn nầy dường như con người không có gì phải làm cả trong hành động tha thứ. Ðó là một viện cớ để trút đổ vào Thiên Chúa trách nhiệm của chính mình ! Nhưng như thế là sai, bởi vì trong lãnh vực tha thứ cũng như trong mọi lãnh vực khác, Thiên Chúa không làm thay cho chúng ta điều gì xuất phát từ sáng kiến của con người.

Mới đây có người nói với tôi rằng việc tha thứ đối với y rất dễ dàng : "Nếu người nào làm tổn thương tôi, tôi vội vàng cầu xin Chúa tha thứ cho người đó. Như vậy tôi không phải để mình bị hành hạ bởi mọi thứ cảm xúc phiền não, nổi nóng, oán giận hay sĩ nhục". Lời tuyên xưng đức tin đó tuyệt diệu thay, nhưng tôi không khỏi tự hỏi về sức khoẻ tâm thần của một con người như thế. Thay vì cáng đáng kinh nghiệm sống nặng nề đó của mình, y đã trút đổ cho Thiên Chúa. Tôi tin vào sự cần thiết phải chạy đến với siêu nhiên như một yếu tố thiết yếu của sự tha thứ, nhưng tôi cũng tin không kém rằng trước hết người ta phải tự chuẫn bị mình trên bình diện con người cho việc đón nhận ân sủng của Chúa. Sự tha thứ cùng lúc vừa là hoạt động của con người vừa là hoạt động của Thiên Chúa. Tự nhiên và ân sủng không loại trừ nhau, trái lại chúng hợp tác với nhau và kiện toàn nhau.

Những biếm họa về tha thứ như thế không phải là giả tưởng mà là rất thật. Trong cuốn Is Human Forgiveness Possible?, John Patton cho rằng những sự méo mó trong việc tha thứ như thế khiến ông thất vọng về khả năng tha thứ nơi con người. Ông nghĩ rằng tốt hơn nên ký thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa là Ðấng duy nhất có thể tha thứ. Chính vì vậy, thay vì tự làm khổ mình vì muốn tha thứ, người bị xúc phạm phải tập trung nghị lực mình vào việc ý thức rằng "sự tha thứ đã được thực hiện nơi Ngài". Lập trường của John Patton đối với tôi xem ra quá đáng và không thể giữ vững được. Nó không lưu ý chút nào về sự đóng góp của con người trong việc tha thứ, dù khiêm tốn mấy đi nữa.

Cuối cùng, chúng ta phải nhớ rằng nếu dấn thân vào con đường tha thứ đích thực đòi hỏi nhiều can đảm, thì tránh nhượng bộ cho những ảo ảnh của những tha thứ giả dối cũng yêu sách can đảm không kém.


Chương IV : Tha thứ, một cuộc phiêu lưu nhân bản và thiêng liêng

Tha thứ, chính là sự cao cả trong thường nhật

Vladimir Jankelevitch

Việc từ bỏ "cái tôi" là khó khăn. Tuy nhiên, không có gì là không thể khi ta có thể tín thác vào sự trợ giúp của Thiên Chúa ban cho ta "qua sự hiệp thông với con người của Ðức Kitô.

Gioan Phaolô II

Trong một cuộc chiến tranh giữa hai nước, có tiếng đồn trại địch vừa tậu được một vũ khí đáng sợ. Bấy giờ người ta giao cho các người mù đột nhập trại địch để dò xét vũ khí bí mật đó. Nhờ tật nguyền giúp đỡ, họ có thể lại gần dụng cụ chiến tranh mới mà không gây nên nghi ngờ nào. Ðó là con voi khổng lồ mà họ mò mẫm khảo sát. Lúc trở về trại, mỗi người làm phúc trình của mình. Tên mật thám đầu tiên đã khảo sát cái lỗ tai tuyên bố : "Ðó là một vật rất lớn và sần sùi, rộng và có thể gấp được như một thấm thảm". Người thứ hai thăm dò cái vòi bác lại : "Không phải, đúng hơn là giống một cái ống rổng". Người thứ ba thăm dò một cái chân quả quyết ngược lại là một cột trụ lớn và chắn chắn. Cứ như vậy tiếp tục, mỗi người đi từ một giải thích nói ngược lại giải thích của các bạn cùng đi quan sát.

Chúng ta đã đoán hiểu cũng không thích hợp như thế khi diễn tả sự tha thứ bằng một trong những khía cạnh của nó, giống như giản lược việc mô tả con voi bằng các phần chi thể của nó. Trong khi cố gắng mô tả những thành phần cấu tạo cốt yếu của tha thứ, liệu tôi có làm tốt hơn được những người đi trước không ?

Từ ngữ "tha thứ" như quen dùng trong đời sống hằng ngày là đánh lừa. Nó không diễn dịch đúng thực tại phức tạp mà nó phải chỉ định. Ða phần nó nói đến một hành vi ý chí tức thì và biệt lập với bối cảnh của nó. Nhưng sự tha thứ đích thực là hơn như vậy ! Một đàng, nó hơn là một hành vi cố gắng của ý chí ; qui trình của tha thứ kêu gọi đến tất cả các quan năng khác của con người. Ðàng khác, không phải là một hành vi trong chốc lát, sự tha thứ được xây dựng trong thời gian và chia từng chặng dài hay ngắn. Nó bao gồm một thời gian trước, một thời gian trong và một thời gian sau.

Hành động tha thứ đòi hỏi cả một lô điều kiện cần thiết liên quan đến nhau : thời gian, nhẫn nại với chính mình, kìm nén ước muốn hiệu quả của mình, sự kiên trì trong quyết định đi cho tới cùng. Khi tìm kiếm những lối diễn tả thích hợp nhất thì những thành ngữ nầy liền đến trong đầu óc tôi : hoán cải nội tâm, hành hương tâm hồn, nhập môn vào tình yêu kẻ thù, tìm kiếm tự do nội tâm… Tất cả những thành ngữ nầy phản ánh sự cần thiết của một hành trình.

Và đây là những nét lớn những thành phần cấu tạo chính yếu của sự tha thứ :

1. Sự tha thứ bắt đầu bởi quyết định không trả thù :

Một ngạn ngữ nói : "Con đường dài nhất bắt đầu từ bước đầu tiên". Bước đầu tiên phải làm trên đường dài tha thứ là quyết định không trả thù. Không phải là một quyết định lấy theo đà hưng phấn nồng nhiệt của duy ý chí, mà là được đọc cho bởi ý muốn chữa lành và lớn lên.

Không cần trở lại với mọi nỗi thất vọng và khốn khổ mà sự trả thù sản sinh ra. Chúng nghiêm trọng đến độ chẳng ai muốn, dù bản năng mời gọi. Jean Delumeau nói lên ý nghĩ của một thi sĩ Cuba bị tù của Fidel Castro trong hai mươi hai năm : "Ðối với ông, tha thứ chính là bẻ gãy mối bạo lực chằng chịt, là từ chối chiến đấu với những khí giới hận thù của đối phương, là vẫn cứ tự do hay là trở nên tự do ngay cả khi bị xiềng xích". Trong cùng tâm trạng đó, Jean Marie Pohier viết : "Tha thứ hệ tại cái gì ?- Không bắt phải trả giá". Dù định nghĩa nầy có tiêu cực, thì quyết định không trả thù vẫn là điểm khởi hành của mọi tha thứ đích thực.

2. Tha thứ đòi hỏi một sự trở về với chính mình :

Như đạp chân vào tổ kiến, sự xúc phạm gây nên rối loạn và kinh hoàng. Sự hòa điệu an bình của người bị thương tổn vì thế mà bị xáo trộn, sự thanh tĩnh bị đảo lộn, sự toàn vẹn nội tâm bị đe dọa. Những mặt yếu cá nhân cho đến đó được che đậy nay tức khắc lộ diện. Những lý tưởng, nếu không muốn nói là những ảo tưởng về từ tâm và quảng đại bị thử thách. Bóng tối nhân cách lộ ra. Những cảm xúc tưởng là đã trị được giờ hoảng loạn và nổi lên dữ dội. Người ta đành bất lực và nhục nhã trước sự xấu hổ của mình. Những vết thương cũ không được chữa lành đúng cách góp tiếng lạc điệu với những âm hưởng xấu.

Bấy giờ cơn cám dỗ từ chối ý thức về sự nghèo nàn nội tâm và chấp nhận nó thật là lớn lao. Nhiều thủ đoạn đánh lạc mục tiêu vào cuộc để ngăn cản làm việc đó : chối bỏ, trốn chạy vào duy hoạt động, cố quên đi, đóng vai nạn nhân, tiêu phí nghị lực để tìm lại thủ phạm, tìm một trừng phạt tương xứng với điều lăng nhục, tự cáo buộc mình đến suy sụp tinh thần, làm cho mình cứng rắn lên hay đóng vai anh hùng không thể lay chuyển và hào hiệp…

Nhượng bộ cho những thủ đoạn như thế sẽ làm phương hại đến sự thành công của tha thứ, là cái đòi hỏi giải phóng chính mình trước khi giải phóng kẻ gây nên xúc phạm. Khuyên nên lặng lẽ tha thứ mà không bận tâm chi đến việc trở lại với các trạng thái tâm hồn của mình là một lời khuyên xấu, bởi vì sự tha thứ tất yếu phải ngang qua sự ý thức về mình, và bởi sự khám phá ra sự nghèo nàn nội tâm của mình: hổ thẹn, gạt bỏ, bạo lực, trả thù, ước muốn dứt đi cho xong. Một cái nhìn trong sáng và đúng đắn hơn về chính mình là một dừng chân bó buộc trên con đường khúc khuỷu của tha thứ. Thoạt đầu một cái nhìn như thế gây sợ hãi, ngay cả dẫn đến thất vọng. Giai đoạn khó khăn nhưng không thể thiếu, bởi vì sự tha thứ cho kẻ khác nhất thiết phải đi qua sự tha thứ cho chính mình.

3. Tha thứ trên đường tìm kiếm một cái nhìn mới về các mối tương quan giữa người với người :

Ðối với Christian Duquoc, tha thứ là lời mời đến với trí tưởng tượng. Chúng ta không biết nói gì tốt hơn, dù điều đó gây ngạc nhiên. Quả thực trí tưởng tượng đóng một vai trò thiết yếu trong tiến trình tha thứ. Chính tác giả nầy cũng viết : "Sự tha thứ diễn tả sự đổi mới nầy : nó tạo nên một không gian trong đó cái luận lý nội tại đòi phải có những tương đương pháp lý không thi thố được. Tha thứ không phải là quên đi quá khứ, nó là may rủi của một tương lai khác với cái tương lai được áp đặt bởi quá khứ hay ký ức". Vậy để dấn thân vào con đường tha thứ, điều quan trọng là phải ước mơ một thế giới tốt đẹp hơn, trong đó công lý và cảm thông ngự trị. Tất cả công cuộc sáng tạo nên một thế giới mới phải chăng không bắt đầu bởi những tưởng tượng ngông cuồng nhất ?

Như vậy sự tha thứ về phe với tưởng tượng. Nó bao gồm một ý muốn sáng tạo, hay đúng hơn là tái tạo. Miguel Rubio nói lên tất cả cái độc đáo : "Tha thứ không phải là một cử chỉ của thói quen phổ biến nhất, cũng không phải là một tập quán thường ngày. Ðúng hơn đó là một cánh hoa giấu kín, độc đáo, nở ra mỗi lần trên một nỗi đau và chiến thắng chính mình".

Sáng tạo không phải là làm nên một cái gì đó từ không có gì sao ? Cái không có gì từ đó phát xuất sự tha thứ, chính là cái thiếu thốn hay cái trống rổng mà lầm lỗi đã đem vào trong các mối tương quan giữa con người với con người. Sự tha thứ đảo ngược tình thế và tạo nên một tương quan mới với người phạm lỗi. Ðược giải thoát khỏi những ràng buộc đau đớn với quá khứ, người tha thứ có thể cho phép mình sống tròn đầy cái hiện tại và tiên liệu cho tương lai những tương quan mới với kẻ gây nên xúc phạm đến mình.

Bây giờ y tập được thôi nhìn với "con mắt xấu" oán giận và bắt đầu thấy với đôi mắt mới mẻ. Lúc ấy, trong tâm lý trị liệu, người ta nói đến "đặt khung lại". Như từ ngữ chỉ định, đó là nhìn thấy biến cố đau thương trong một khung cảnh mở rộng. Cho tới lúc nầy, người ta bị giới hạn nơi thương tổn, không thể nhìn thấy cái gì khác, trái tim đầy oán giận. Bây giờ người ta ngẩng đầu lên để phê phán mọi sự trong một viễn ảnh đúng hơn và rộng lớn hơn. Tầm mắt rộng lớn và mở ra trên một thực tế rộng lớn hơn và đẩy lui những giới hạn của chân trời. Sự xúc phạm đã chiếm một chỗ xâm lấn bắt đầu mất đi tầm quan trọng trong cái nhìn của những khả thể hiện hữu và hành động mới mẻ. Nhưng công cuộc không dừng lại ở đó.

4. Tha thứ tin vào giá trị của người gây nên xúc phạm :

Ðể đạt tới tha thứ, điều thiết yếu là phải tiếp tục tin tưởng vào phẫm giá của kẻ đã gây ra thương tổn, bách hại hay phản bội. Ngay lúc đó thì chắc chắn là rất khó thực hiện. Kẻ gây ra lầm lỗi xuất hiện như một tên độc ác mà ta kết án. Nhưng một khi được chữa lành, thì giống như trường hợp Alfred, cái nhìn tác hại về người khác có thể được thay đổi. Ðàng sau con quái vật, người ta khám phá ra một hữu thể dòn mỏng và yếu đuối như chính mình, một con người có khả năng thay đổi và thăng tiến.

Hơn nữa, tha thứ không phải chỉ là được giải thoát khỏi gánh nặng đau đớn của mình, nhưng cũng chính là giải thoát người khác khỏi gánh nặng phán đoán ác ý và nghiêm khắc mà ta có về họ, chính là khôi phục người khác trước mắt mình trong phẫm giá con người của họ. Jean Delumeau đã tìm được những lời lẽ hạnh phúc để nói lên điều đó : "Tha thứ là tự do, giải phóng và tái tạo. Nó làm cho chúng ta nên mới. Nó mang lại niềm vui và tự do cho những ai bị đè bẹp dưới gánh nặng lỗi lầm của mình. Tha thứ chính là một hành động tín nhiệm đối với một hữu thể người, chính là nói "vâng" với người anh em của chúng ta".

Trong cùng hướng ấy, Jon Sobrino nhìn thấy trong sự tha thứ một hành động yêu thương đối với kẻ thù, một hành động có khả năng hoán cải chính kẻ thù đó : "Tha thứ cho kẻ xúc phạm chúng ta là một hành động yêu thương đối với người có tội mà chúng ta muốn giải thoát khỏi nỗi bất hạnh riêng của họ, là hành động yêu thương kẻ mà ta không muốn vĩnh viển đóng cửa tương lai".

Tất cả những cái đó thật đẹp đẻ, nhưng có liều lĩnh không khi muốn đi xa như thế ? Kẻ gây nên xúc phạm có gồng mình lên và từ chối sự giải thoát mà người ta hiến dâng cho y ? Ta có để làm cho mình bị tổn thương lần thứ hai vì sự từ chối được tha thứ của y ? Sự liều lĩnh là chắc chắn. Có đáng chịu như vậy không ? Sự tha thứ đích thực đòi hỏi một sự chiến thắng trên nỗi sợ bị sĩ nhục thêm một lần nữa. Chính điều đó khiến Jean Marie Pohier viết : "Chính vì thế mà tha thứ thật khó, bởi vì người ta sợ".

Ðến đó, ta có lý do không để tự hỏi là hành động tha thứ có vượt quá sức riêng con người không ?

5. Tha thứ phản ánh lòng thương xót của Chúa :

Quả thực, tha thứ thuộc về hai lãnh vực : lãnh vực của con người và lãnh vực của Thiên Chúa. Trong ý niệm về tha thứ, có hai sai lầm lớn cần phải tránh. Sai lầm thứ nhất hệ tại việc giảm trừ tha thứ vào một ứng xử thuần túy và đơn giản mang tính chất con người, được tác động bởi sợ hãi hay thương hại. Một nhà tâm lý đồng hóa tha thứ với một hình thức của thủ đoạn tự vệ. Ðối với ông, sự tha thứ giữa con người với nhau được điều khiển bởi sợ trả đũa và hủy diệt lẫn nhau. Triết gia Hylạp Sénèque thấy trong sự thương hại động lực chính của tha thứ. Ông tóm tắt tư tưởng của mình trong một công thức bất hũ : "Con hãy tha thứ cho người yếu hơn con vì thương hại y, và con hãy tha thứ cho người mạnh hơn con vì thương hại con".

Sai lầm kia là coi tha thứ như là đặc quyền của chỉ một mình Thiên Chúa. Khi ấy người ta để ít chỗ cho sáng kiến của con người. Họ khẳng định : "Chỉ một mình Thiên Chúa có thể tha thư" hoặc "Tha thứ là việc của Thiên Chúa". Ðó là những công thức để ít chỗ cho trách nhiệm của con người. Dĩ nhiên đó là việc của Thiên Chúa, nếu người ta hiểu rằng Thiên Chúa là nguồn tối hậu của sự tha thứ đích thực, như truyền thống Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo dạy. Nhưng sự tha thứ không được thực hiện mà không có sự hợp tác của con người.

Sự tha thứ nằm ở giữa bản lề nhân loại và thần linh. Ðiều quan trọng là phải tôn trọng hai yếu tố cấu thành nầy, nếu không sẽ cắt xén sự tha thứ khỏi yếu tố chính yếu nầy hoặc yếu tố kia. Cũng về điểm nầy, Jean Delumeau đã tìm được những từ ngữ chính xác. Ông khẳng định rằng sự tha thứ "thiết lập nên gạch nối duy nhất có thể có giữa con người với nhau và giữa con người với Thiên Chúa. Cái cầu vồng giữa Thiên Chúa và con người, chính là sự tha thứ".

Cho đến đây, chúng ta đã khảo sát phần của con người trong vấn đề tha thứ : quyết định không báo thù, trở về với chính mình để tự chữa lành, sáng tạo nên một trật tự mới, và cuối cùng là giải phóng người anh em hay người chị em của mình. Tất cả những phận vụ đó xem ra hầu như ở bên kia sức người. Có lý, bởi chữ "tha thứ", như nghĩa từ nguyên của nó gợi lên, có nghĩa là cho cách sung mãn, cũng như "làm hoàn hảo" nghĩa là làm cách sung mãn. Vậy tha thứ mang ý tưởng sung mãn nầy, bởi vì nó diễn tả một hình thức tình yêu đưa tới thái cực, tức yêu mến bất chấp sự xúc phạm phải gánh chịu. Ðể kiện toàn, điều đó đòi hỏi những sức mạnh thiêng liêng vượt quá sức con người.

Kinh nghiệm sống thiêng liêng trong tiến trình tha thứ được đặt vào trong một bộ ghi khác của hiện hữu và hành động. Ở mức độ nầy, cái tôi cá vị bỏ rơi sự kiểm soát cá vị trên hoàn cảnh. Nói cách khác, nó làm cho mình trở nên dễ cảm thụ với người vô danh và với cái bất ngờ, nếu nó muốn đi vào pha cuối cùng của sự tha thứ.

Chính là nhờ một "thụ động tích cực" mà nó trở nên chăm chú với hoạt động của Thần Khí, thổi ở đâu và khi nào Ngài muốn. Lúc đó, công việc nhẫn nại và tự ý của tâm lý nhường chỗ cho sự chờ đợi cởi mở và tràn đầy hy vọng của một tha thứ, không đến tự mình nhưng từ một Ðấng Khác.

Sự từ bỏ ý muốn quyền lực, nghĩa là muốn là tác nhân duy nhất của tha thứ, sẽ đi xa hơn người ta nghĩ. Các nghiên cứu trên quả quyết rằng nếu muốn thành công trong hành động tha thứ thì phải từ bỏ cả ý muốn tha thứ của mình. Thỏa lòng biết bao khi có thể khẳng định với vẻ chiến thắng "Tôi tha thứ cho anh". Nhưng sự tha thứ trong pha cuối cùng không hề biết đến một tự phụ như thế. Nó được thực hiện kín đáo, khiêm tốn, lặng lẽ. Nó không phát xuất từ cảm tính hay cảm xúc, nhưng bộc lộ sâu xa từ con người và con tim được Thần Khí tác động. Nó có một cái gì độc đáo, không có gì chung với tính đa cảm. Lewis Smedes khẳng định : "Sự tha thứ có một tình cảm, một màu sắc, một khí hậu đặc biệt, khác với mọi hành động sáng tạo khác trong danh mục các tương quan nhân bản".

Như chúng ta nhận định, sự tha thứ đặt ra một thách đố có thực. Thách đố duy trì mối căng thẳng giữa tâm lý và thiêng liêng. Vậy một sư phạm tha thứ đầy đủ và được soi sáng phải lưu ý điều đó và chính đó là cái mà tôi muốn phân bố tiến trình tha thứ ra thành mười hai giai đoạn.

Tôi không muốn kết thúc chương nầy mà không trích dẫn bản văn của Philippe Le Touzé mô tả cách tuyệt vời hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa trong việc tha thứ. Ðây là điều ông nói về các nhân vật của Bernanos, biệt danh là ngôn sứ của tha thứ : "Các thánh của Bernanos xuống tận vực thẳm của "lòng thương xót dịu dàng" nầy. Tha thứ là chính Thiên Chúa, người cha nhân hậu của đứa con trai hoang đàng, Tình Yêu nhưng không thuần túy. Tình Yêu là sáng tạo, tràn trào ra khỏi mình, và tha thứ là khí cụ của công cuộc sáng tạo được tiếp nối, phục hưng, làm mới. Ở đâu con người làm phát sinh chết chóc thì tha thứ lại tung toé ra sự sống".


Chương V : Làm sao lượng định những điều xúc phạm ?

Người ta tha thứ như họ yêu thương.

Honoré de Balzac

Người Kitô hữu cần tạo ra hòa bình ngay cả khi cảm thấy mình là nạn nhân của người sinh sự vô lý. Chúa đã hành xử như thế.

Gioan Phaolô II

Một người trong số cựu nữ sinh viên của tôi đã viết : "Thưa cha, sau khi suy nghĩ chín muồi, cuối cùng con quyết định viết cho cha để tha thứ cho cha vì đã cho con "trôi" trong cuộc thi vừa rồi". Tôi rất đổi ngạc nhiên vì sự ngây ngô và giọng điệu tự do quá trớn của nàng. Tôi không hiểu tại sao tôi lại phải được tha thứ vì một thất bại mà nàng đáng phải chịu. Bây giờ tôi mới hiểu rằng không những chỉ có những tha thứ giả trá mà cũng còn có những lý do giả trá để tha thứ nữa. Như trong trường hợp vừa trích dẫn, người ta liều mình tầm thường hóa sự tha thứ và sử dụng tha thứ cách không ý thức. Vậy cần thiết phải có biện phân rõ ràng giữa những hoàn cảnh phải tha thứ và những hoàn cảnh không có gì phải nại đến thực hành thiêng liêng trọng đại nầy.

Chúng ta hãy xem vài thí dụ trong đó sự tha thứ không có lý do gì hiện hữu, bởi vì người ta xứng đáng trả giá cho hành động của mình. Tôi lái xe vượt quá tốc độ và phải nhận một biên bản phạt vi cảnh ; tôi đánh bạc và bị thua ; tôi bị ông chủ khiển trách vì trễ giờ làm việc quá nhiều. Ðó là bao nhiêu hoàn cảnh khiến tôi phải bị thất vọng, tức giận, tổn thương trong tự ái của tôi. Nhưng chúng ta có thực sự tin rằng viên cảnh sát, chủ sòng bạc và ông chủ phải xin lỗi tôi về những điều sĩ nhục mà tôi đã tự chuốc lấy cho mình không ? Câu trả lời quá rõ ràng rồi. Sự tha thứ chỉ được thực hành trong trường hợp của những xúc phạm bất công thôi. Tuy nhiên cũng chính trong những hoàn cảnh đó, lời xin lỗi sẽ bị bắt buộc, nếu viên cảnh sát đã mắng chửi tôi, chủ sòng bạc đã gian lận và ông chủ đã sĩ nhục tôi công khai.

1. Những xúc phạm bởi những người được yêu thương :

Sự tha thứ mặc lấy những màu sắc và hình thức khác nhau tùy theo do những người thân tình hay chỉ là những khách lạ gây nên. Ai có thể làm chúng ta bị tổn thương sâu xa hơn những người được chúng ta yêu thương ? Chúng ta đã kết dệt với họ những mối liên hệ tình cảm. Một cách nào đó họ đã làm nên một phần của chúng ta. Chúng ta đã bao bọc họ bằng một vầng quang lý tưởng và rồi chúng ta nghĩ là có thể chờ đợi rất nhiều vào họ. Chính vì thế, tính nghiêm trọng của thương tổn do tính nghiêm trọng khách quan của xúc phạm được kể là nhẹ hơn so với sự cao cả của những chờ đợi, dù những chờ đợi nầy có thực hiện được hay không.

Những trường hợp chờ đợi quá mức thật là nhiều. Con cái lý tưởng hóa cha mẹ chúng như thế, rồi đòi hỏi ở cha mẹ sự bao dung và tình yêu vô điều kiện. Ðối lại, phần đông cha mẹ mong ước con cái sẽ hoàn toàn đáp ứng đúng kỷ luật của mình và thực hiện thay mình những mộng ước mà mình đã thất bại trong việc cụ thể hóa ra trong cuộc sống của chính mình. Cũng thế, tình yêu đam mê thật phong phú trong những ước mơ không thực tế. Các vợ chồng và những tình nhân hy vọng luôn luôn được đoán hiểu trong những ước muốn của họ mà không cần phải bộc lộ ra. Họ muốn luôn luôn được hiểu, được yêu mến, được tán dương, được an toàn nhờ sự hiện diện thường xuyên của người phối ngẫu. Tôi để bạn liệt kê ra những chờ đợi và hy vọng tiềm ẩn được nuôi dưỡng bởi những tình nhân, cha mẹ, con cái, chị em, anh em và bạn bè. Ðiều quan trọng phải lưu ý nơi đây là sự tha thứ đóng một vai trò không thể thiếu được trong các mối liên hệ thân tình, tùy cường độ của chúng và số lần những cơ hội va chạm nhau.

Dĩ nhiên cần phải giữ cho khỏi biến thành bi kịch những buồn chán nho nhỏ hay những nỗi thất vọng chóng qua hằng ngày : Người chồng về trễ giờ cơm chiều hay nhớ lầm ngày sinh nhật của vợ ; trẻ con làm bẩn sàn nhà vừa mới rửa xong ; người sử dụng sau cùng xe chung của gia đình đã quên đổ xăng. Lúc nầy chắc ai cũng cảm thấy khó chịu, bị tước đoạt và ngay cả bạo lực nữa. Không nên quá quan trọng hóa những rắc rối cỏn con như thế. Nhưng cũng không được hoàn toàn không biết đến. Chúng có thể là dấu hiệu của một vấn đề trong quan hệ với nhau mà ta phải xem xét, giải quyết và có thể điều chỉnh bằng một sự tha thứ. Ðó cũng là trường hợp, nếu, sau khi đã lưu ý các vị hữu trách về những sai sót của họ, mà nhận thấy không có chút thay đổi nào trong cách điều hành của họ. Lúc ấy cần xem xét hoàn cảnh và giải quyết nó, dù phải nại đến sự tha thứ, nếu cần.

Xảy ra là những sự kiện không đáng kể của cuộc sống hằng ngày có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Một bác sĩ giải phẩu tâm sự với tôi rằng ông nghĩ phải ly thân với vợ vì nàng là một người ngủ quá muộn. Thường khi vào giường là nàng đánh bật ông dậy khỏi giấc ngủ quí báu của ông. Ðôi khi còn rất sớm, nàng đã đánh thức ông dậy đòi nói chuyện, nhất là để thu xếp một bất hòa. Người đàn ông tội nghiệp lại cần những đêm nghỉ ngơi để tập trung tinh thần và sự khéo léo của đôi tay. Cứ xảy ra như vậy khiến ông đâm ghét bà vợ đến độ nghĩ rằng bà muốn hủy diệt nghề nghiệp của ông.

Có những sự thiếu quan tâm còn nghiêm trọng hơn nữa. Hãy nghĩ đến những sự phản bội và thiếu thành thật giữa những người yêu nhau. Các lầm lỗi của họ gây nên những thương tổn đau đớn và kéo dài, bởi vì người ta thường nghĩ cách tự nhiên rằng cha mẹ, bạn thân, đồng nghiệp phải về phe với mình, dù gì xảy ra đi nữa. Ðã có sự nối kết giữa họ một thứ hợp đồng mặc nhiên bảo vệ lẫn nhau, dù có mặt hay vắng mặt. Tôi cũng đã bị tổn thương và phiền muộn như thế bởi sự không kín đáo của một người bạn cũ. Trong câu chuyện thân tình, tôi đã tâm sự một điều bí mật với anh ta, thế mà anh ta lại vội vả thổ lộ với một người mà tôi lại rất ác cảm. Tôi phải thú thật rằng từ đó tôi chẳng còn can đảm yêu cầu anh ta giải thích về sự không kín đáo của anh ta, đến đổi tình bạn của chúng tôi bị phá hỏng nặng nề.

Phải nói gì về những sự phản bội ? Không có gì nặng nề cho bằng hay biết mình bị phản bội bởi một người mình quí mến nhiều. Chẳng hạn bạn nghe rằng một người bạn thân nói sau lưng bạn, rằng vợ bạn lừa dối bạn với một người bạn của bạn, rằng đồng nghiệp của bạn dùng bạn làm bàn đạp để mưu đồ quyền lực…

Có những sự thiếu thành thật về phía những người gần gủi mang những hình thức tinh vi hơn, nhưng cũng không kém làm mếch lòng, như cười nhạo và châm chọc cay đắng. Những thứ đó thật nặng nề để mà chịu đựng, ngay cả với những người phải chứng kiến. Tôi rất khó chịu khi có mặt trong các cuộc vợ chồng cãi cọ nơi công cộng, ví dụ một bà vợ ám chỉ những vụng về sinh lý của chồng, một người chồng dễu cợt những lỗi ngôn ngữ của người vợ người nước ngoài của mình. Những người chứng kiến cũng không chịu nổi những cảnh như vậy, huống chi đối với người phối ngẫu bị lăng nhục!

Dĩ nhiên, những hành vi bạo lực giữa những người yêu nhau phải được kể vào số những xúc phạm độc ác nhất và tồi tệ nhất. Các cuộc thống kê đưa ra những con số kinh hoàng về số phụ nữ bị bạo hành bởi chồng hay bạn trai của mình. Ngoài ra, các cuộc thống kê còn im lặng đối với những sự bạo hành bằng lời nói và tâm lý đi trước những màn thượng cẳng tay hạ cẳng chân. Sau cùng, phải nói gì về nạn dịch lạm dụng tình dục đối với trẻ em mà xã hội của chúng ta đã quyết định đưa ra công khai ?

Cho đến đây, chúng ta mới nói đến những thiếu sót trầm trọng đối với tình yêu của những người gần gủi. Một số hoàn cảnh phân ly nào đó xem ra không đòi hỏi được chăm sóc bằng một sự tha thứ, vì chúng không có chủ tâm. Hãy lấy trường hợp sự ra đi của những đứa con lớn. Ngay cả khi biết là phải lẽ đứa con phải tung cánh bay ra khỏi tổ ấm gia đình, con tim của mỗi phần tử trong gia đình vẫn se thắt đau đớn. Biết bao đám cưới mà cuộc ra đi của người con trai hoặc người con gái của gia đình buồn nhiều hơn là người ta muốn nhìn thấy.

Cuộc chia ly bởi cái chết của một người thân yêu làm chổi dậy cả một lô tình cảm, như sợ hãi, đau thương, giận dữ và mặc cảm có lỗi. Chính vì thế, trong khi trị liệu nỗi đau tang chế, tôi mời gọi những người còn sống chu toàn một nghi thức tha thứ để vượt thắng nỗi tức giận và cảm tưởng có lỗi của họ. Trong khi xin lỗi người thân yêu quá cố, họ tự giải thoát khỏi sự buộc tội chính mình là đã không yêu thương người thân hơn được. Và trong khi tha thứ cho người thân yêu quá cố, họ loại bỏ được nỗi tức giận của họ là đã bị người thân yêu bỏ rơi.

2. Những xúc phạm bởi những người xa lạ :

Một người lái xe ẩu tả cắt ngang đường của bạn, một khách hàng vội vả dành mất chỗ xếp hàng của bạn trước quầy trả tiền, một người tài xế xe buýt trả lời bạn cách thô lỗ, một điện thoại viên trả lời bạn bằng tiếng Anh trong khi bạn xin được phục vụ bằng tiếng Pháp. Dĩ nhiên đó là những buồn chán không đòi hỏi những tiến trình tha thứ dài dòng. Ngay lúc ấy, bạn cảm thấy bực bội khó chịu, nhưng rồi bạn sớm quên đi ngay những hỗn xược đó. Bạn tự nhủ rằng đó là những kẻ xa lạ.

Vậy sự xúc phạm đến từ một người xa lạ phải nghiêm trọng hơn thế để làm bạn mất sự an bình nội tâm. Sự xúc phạm đó phải biểu lộ một đụng chạm đến toàn thể vật lý, tâm lý, xã hội hay luân lý. Chẳng hạn như trường hợp một vụ trộm bẻ khóa đột nhập gia cư. Chắc chắn người ta tiếc sự mất mát các đồ vật bị đánh cắp, nhất là nếu liên quan đến những đồ vật quí báu vì giá trị tình cảm mà người ta gắn bó với chúng. Nhưng điều va chạm sâu xa nhất, chính là ý thức về sự xâm phạm lãnh địa của mình. Sự xúc phạm càng đụng đến con người, người ta càng bức xúc : những hành vi xúc phạm đến những người được yêu mến, tấn công thanh danh họ, tàn nhẫn đối với thân thể, sờ mó tình dục, hảm hiếp, v.v… Sự an toàn bản thân bị đe dọa, những giới hạn của con người mình bị xâm phạm, một cách nào đó bị bóc trần và phó mặc cho người khác. Sự xấu hổ và kinh hoàng do đó mà ra gây nên trở ngại rất lớn cho việc tha thứ, như chúng ta sẽ thấy. Cuối cùng chúng ta ghi nhận rằng tính nghiêm trọng của thương tổn thường gặp thấy rất nặng nề vì những gợi nhớ không được chữa lành đúng cách của thời thơ ấu.

Ðiều lăng nhục do một người xa lạ trở thành gây chấn thương hơn khi người ta không thấy được lý do. Làm sao bạn muốn tha thứ cho những tên khủng bố chính trị đã bắt đi, hành hạ và giết chết các phần tử của gia đình bạn ? Francine Cockenpot, một nữ nhạc sĩ kiêm thi sĩ người Pháp đã thử tha thứ. Sau khi thoát chết khỏi tay một kẻ bạo hành vô danh, nàng cảm thấy buộc lòng phải thiết lập một mối tương quan với kẻ hoàn toàn vô danh đó. Ðể đi vào liên lạc với nó và xua đuổi nỗi quẫn bách của mình, nàng bắt đầu viết cho nó, biết rất rõ rằng các thư của nàng sẽ không bao giờ đến tay người nhận. Nàng nói : "Ngay khi về tới nhà, như để trừ khử nỗi kinh hoàng của mình, tôi chụp ngay cây viết chì và xấp giấy rồi bắt đầu viết. Cho đến năm hay sáu lá thư mỗi đêm, không thể đọc lại, vì tôi đã bị mất một con mắt. Tôi viết cho kẻ bạo hành tôi, kẻ vô danh mà tôi chẳng biết chút gì về nó, ngay cả giọng nói của nó, bởi vì nó không trả lời cho tôi khi tôi la lên "nhưng tại sao ông muốn giết tôi ?"

3. Những xúc phạm đã mất đi trong quá khứ :

Dù sự xúc phạm đến từ một người thân yêu hay bởi một kẻ hoàn toàn xa lạ, luôn luôn cần phải nhớ rằng nó có khả năng động viên các hoài niệm và gợi lên một phản ứng giây chuyền. Những vết thương cũ mà người ta tưởng là đã bị dồn nén và chôn chặt nay lại tĩnh thức, cùng lúc gia tăng nỗi kinh hoàng và hổn loạn. Bấy giờ sự xúc phạm được nhận ra qua cái nhìn sợ sệt và phóng đại lên của đứa trẻ đang sống trong chính mình.

Ðó là điều đã xảy ra với một cán sự xã hội, khi điều trị, đã kể lại với tôi rất nhiều khó khăn trong quan hệ y gặp phải với các cấp trên thuộc nam giới của y. Y nhấn mạnh đến sự thiếu ngay thẳng của các cấp trên đó, là điều xem ra giải thích sự ít tín nhiệm của y đối với họ. Mệt mõi vì những xung đột thường xuyên với ban điều hành, y xin tôi giúp y khám phá ra cội rễ của thái độ ngờ vực của y đối với các cấp trên của y. Y đã lâu dài tìm kiếm nguyên nhân bằng những cố gắng nội quan, nhưng y vẫn có cảm tưởng lẫn quẫn trong vòng tròn.

Bấy giờ tôi xin anh ta sống lại hiện trường tình cảm ngờ vực của anh, và từ lúc đó trở đi, anh dần dần lùi lại quá khứ của mình và vạch ra tất cả những biến cố trong đó anh đã cảm nhận sự nghi ngờ đối với các quyền bính. Anh đã phải bắt đầu lại nhiều lần trước khi được thành công, bởi vì biến cố đầu tiên vẫn bị che giấu kỷ. Trong một lần kia, anh đột nhiên bắt đầu khóc nức nở : Anh vừa sống lại biến cố bất hạnh. Lúc lên bảy tuổi, sau khi anh bị cắt bỏ hạch hạnh, lúc tỉnh dậy anh thấy chỉ có một mình cô độc và đau đớn trong một phòng bệnh viện. Anh đã hết sức hoảng sợ. Ba của anh đã không đến thăm anh lúc anh tĩnh lại như ông đã hứa. Anh đã chờ đợi suốt cả buổi chiều, rồi suốt cả buổi tối, nhưng vô ích. Hơn nữa, bác sĩ giải phẩu cũng đã hứa đem cho anh kem lạnh, nhưng cũng chẳng thấy đâu. Cô y tá cũng chỉ viếng thăm vài lúc ngắn ngủi. Trong khi cảm thấy bị bỏ rơi như thế, cậu bé con đã lấy quyết định sẽ không còn tín nhiệm vào các người lớn nữa, nhất là những người đàn ông. Sau khi đã khóc rất nhiều, cuối cùng anh hiểu ra được do đâu mà đến sự ngờ vực đối với những người đàn ông có quyền bính hằng ám ảnh anh. Bấy giờ, anh có thể tha thứ cho bố của anh và bác sĩ giải phẩu vì đã không giữ lời, đồng thời sống lại những cuộc xung đột khác trong quá khứ với các cấp trên hầu tháo gỡ chúng đi.

Câu chuyện của người đàn ông nầy không phải là duy nhất đâu. Trong phần lớn trường hợp, sự không thể tha thứ tìm thấy nguồn gốc của nó trong những vết thương cũ hoặc những mất mát của tuổi thơ ấu.


Chương VI : Tha thứ cho ai ?

Người ta không thể sống chung với nhau nếu không tha thứ lẫn cho nhau và nhìn nhận mỗi người chỉ là cái mà mình là.

Franois Varillon

Kêu cầu sự tha thứ của Thiên Chúa cho Giáo Hội và cho tội lỗi của con cái Giáo Hội.

Gioan Phaolô II

Những mối quan hệ giữa con người với con người sẽ trở thành không thể, nếu không có sự tha thứ. Nhưng tha thứ cho những ai ? Trước hết là tha thứ cho chính mình, tiếp đến là tha thứ cho các thành viên trong gia đình mình, tha thứ cho láng giềng, tha thứ cho bạn bè, nhưng cũng tha thứ cho những người xa lạ, những thể chế, những kẻ thù truyền thống, và sau cùng là "tha thứ cho Thiên Chúa". Ðây là một liệt kê không đầy đủ những thí dụ về những hoàn cảnh phải tha thứ.

1. Tha thứ cho những thành viên trong gia đình mình :

Quan trọng nhất là tha thứ cho các thành viên trong gia đình mình, bởi vì những quan hệ thân thiết có khả năng làm phát sinh những xung đột thường xuyên :

Tha thứ cho cha mẹ vì đã làm bạn thất vọng khi bạn nhận ra khuyết điểm của các ngài.

Tha thứ cho người cha ghen tuông sự thành công của con trai mình.

Tha thứ cho bà mẹ luôn o bế không để cho bạn được lớn lên.

Tha thứ cho người cha thường xuyên vắng mặt và im lặng.

Tha thứ cho cậu em hay cô em đã dành mất địa vị của bạn trong gia đình.

Tha thứ cho người anh em từ chối giúp đỡ trong lúc bạn túng quẫn.

Tha thứ cho người anh đã không muốn cho bạn nhập vào nhóm bạn của anh.

Tha thứ cho ba hay mẹ nghiện ngập làm bạn phải xấu hổ.

Tha thứ cho chồng bạn vì tính ưa mèo mỡ.

Tha thứ cho vợ bạn vì đã lừa dối …

Tha thứ cho mẹ chồng đã nghĩ là bạn cướp mất con trai của bà.

Tha thứ cho ông bố chồng vì những cử chỉ tán tỉnh cầu thân...

Tha thứ cho con bạn đòi được quan tâm hơn mà bạn không thể.

Tha thứ cho cậu con phạm pháp làm bạn phải nhục nhã.

Tha thứ cho cô con gái không chịu khép mình dưới kỷ luật của bạn.

Tha thứ cho các con bạn vì đã không tôn trọng các giá trị của bạn và đã phá hủy những ước mơ của bạn về chúng.

….

2. Tha thứ cho bạn bè và những người gần gủi :

Thường người ta đặt để những kỳ vọng lớn nơi bạn bè thân thiết và những người quen biết. Chính đó là một nguồn thất vọng bao la :

Tha thứ cho những người bạn đã làm bạn tổn thương cách bất công.

Tha thứ cho thằng bạn thân đã để mặc bạn qụy ngã vào lúc bạn cần đến nó.

Tha thứ cho con bạn thân đã không kín đáo và đã tiết lộ bí mật của bạn.

Tha thứ cho thằng bạn đã không nhìn nhận bạn trước mặt những nhân vật quan trọng.

Tha thứ cho người thân thiết đã bỏ rơi bạn trong khi dọn đi nơi khác hay chết.

Tha thứ cho người bạn chóng quên lời hứa...

Tha thứ cho người bạn gái thủ lợi đã gài bẩy mai mối cho bạn làm bạn khó xử và nguy hiểm.

Tha thứ cho những thầy cô kém cỏi và cố chấp làm bạn phải mất thời giờ quí báu ở trường.

Tha thứ cho ông giám đốc cần khẳng định mình bằng cách hạ nhục bạn.

Tha thứ cho thằng bạn đồng nghiệp đã gièm pha bạn với thượng cấp.

Tha thứ cho thượng cấp đã có những lời quở trách làm mếch lòng bạn trước mặt mọi người.

….

3. Tha thứ cho những người xa la :

Các hoàn cảnh cuộc sống áp đặt cho bạn những con người khó ưa gây nên cho bạn những thiệt hại bất ngờ và không lường trước được :

Tha thứ cho tên lái xe ẩu tả say rượu cán chết con bạn.

Tha thứ cho thầy thuốc đã chẩn đoán sai khiến bạn phải mất thời gian, tiền bạc và sức khoẻ của bạn.

Tha thứ cho kẻ làm hư xe bạn mà không nói.

Tha thứ cho tên trộm đã cướp đi sự kín đáo tư riêng của nhà bạn.

Tha thứ cho người bán hàng tráo đổi hàng bạn đã chọn lựa.

4. Tha thứ cho các cơ chế :

Vì sự vô danh của chúng, thật ra khó tha thứ cho các cơ chế hay hiệp hội. Nhưng chúng còn có những người đại diện mà bạn có thể tha thứ cho họ :

Tha thứ cho hiệp hội đã sa thải bạn sau nhiều năm dài phục vụ trung thành.

Tha thứ cho Nhà Dòng nễ người quyền thế, ép kẻ cô thế.

Tha thứ cho hội đồng cố vấn địa phận vì thành kiến và thiếu thông tin chính xác đã có những quyết định bất công và oan ức…

Tha thứ cho tòa giám mục đã để xảy ra những lạm dụng mà không can thiệp kịp thời và hữu hiệu.

Tha thứ cho Giáo Hội vì chậm trễ cất đi những vạ oan…

5. Tha thứ cho những kẻ thù truyền thống :

Thoạt đầu xem ra phóng đại, cường điệu khi nói tha thứ cho những kẻ thù của quê hương qua dòng lịch sử. Có lẽ người ta sẽ tự biện minh cho mình, lấy cớ không thể đặt mình vào địa vị của các nạn nhân. Giải thích nầy khó được chấp nhận, vì vẫn còn ký ức tập thể qua đó một dân tộc vẫn giữ sống động những thương tổn đã gây nên cho tổ tiên của họ. Ký ức đó duy trì những thành kiến và ngờ vực khi nó không xúi giục sự thù ghét hoặc không kích động những cuộc tấn công bất công chống lại hậu duệ của những kẻ thù nầy. Trong mức độ người ta còn cảm thấy uất ức về những sĩ nhục quá khứ được ký ức chuyển giao từ thế hệ nầy qua thế hệ khác thì việc chạy đến tha thứ chữa lành trở nên một sự cần thiết :

Tha thứ cho những nước đã đánh bại tổ tiên bạn.

Tha thứ cho dân tộc đã lăng nhục dân tộc bạn bằng cách không cho dân tộc bạn được nói tiếng nói của mình và thực hành tôn giáo của mình.

Tha thứ cho kẻ chiến thắng đã sử dụng sách lược đồng hóa dân tộc bạn.

Tha thứ cho nòi giống đã thực hành chính sách diệt chủng hoặc toan tính làm như vậy đối với dân tộc của bạn.

6. "Tha thứ cho Thiên Chúa"

Xảy ra ngay cả Thiên Chúa cũng bị đưa ra hàng bị cáo. Ðề tài tế nhị để đề cập đến khi có kẻ tranh luận vấn đề gai góc về sự cùng tồn tại của sự dữ trong thế giới và lòng tốt của Thiên Chúa. Vấn đề quá phức tạp để bàn đến cách thỏa mãn ở đây. Tôi chỉ xin được phép báo hiệu cho người nào muốn tiến bộ trong đời sống thiêng liêng và củng cố thêm khả năng tha thứ của mình rằng Thiên Chúa, thay vì muốn hay cho phép sự dữ trong thế gian, thì lại là nạn nhân đầu tiên của sự dữ, nếu nghĩ đến Ðức Giêsu Kitô. Bấy giờ tôi bằng lòng đặt ra ở đây một câu hỏi đơn giản, ý thức rằng không mang lại một câu trả lời thích đáng : "Người ta phải tha thứ cho vị Thiên Chúa nào đây ?" Vị Thiên Chúa toàn năng mà người ta qui cho nhiều sai lầm không phải là vị Thiên Chúa bất lực và khiêm tốn mà Ðức Kitô đã dạy :

Vì Ngài để cho trẻ con phải đau khổ và phải chết.

Vì Ngài nói là yêu tôi mà không đến giúp tôi trong những lúc khó khăn nặng nề.

Vì Ngài coi như ở khắp mọi nơi mà tôi chẳng thấy Ngài.

Vì xem ra Ngài không trả lời những kêu xin của tôi.

Vì Ngài không ban cho tôi hạnh phúc mà tôi có quyền được hưởng vì đã chu toàn các bổn phận tôn giáo của tôi.

Vì sau khi cho tôi biết một chút về thiên đàng bởi một tình yêu lớn lao thì Ngài lại đến tìm đem đi người tôi yêu.

Vì Ngài để người ta lạm dụng, ngay cả trong Giáo Hội, mà không can thiệp.

Vì Ngài vẫn phán xét tôi không ngừng.

Vì tôi không thể đạt tới sự trọn lành mà Ngài buộc tôi nhắm đến.

7. Tha thứ cho chính mình :

Tôi để sự tha thứ cho chính mình đến cuối bảng liệt kê, thực ra trong tiến trình tha thứ, nó phải được đặt lên đầu hết. Quả thật, sự tha thứ cho người khác mà không được đi trước bởi một sự chấp nhận cảm thông chính mình và sự nghèo nàn của mình thì chỉ là một sự tha thứ hời hợt giả tạo bên ngoài. Nhưng phải tự tha thứ cho mình về cái gì ? :

Vì đã đặt mình vào một hoàn cảnh khiến mình bị tổn thương.

Vì đã không biết phải làm gì hay nói gì.

Vì để bị rơi vào tương tư mà không suy nghĩ.

Vì để mình bị suy sụp bởi những lời lăng mạ của kẻ nọ người kia.

Vì đã tự oán trách mình và đã hùa theo kẻ xúc phạm mình.

Vì đã kéo dài quá lâu một mối quan hệ xấu.

Vì cảm thấy mình bị tổn thương mà vẫn còn muốn yêu.

Vì tính ưa hoàn hảo đến không chấp nhận một sai sót nào của mình.


Chương VII : Một kinh nghiệm tha thứ thực sự

Tha thứ để giải phóng nơi bạn những sức mạnh của tình yêu.

Martin Gray

Thiên Chúa lớn hơn lòng của chúng ta...Tha thứ là niềm vui của Thiên Chúa, trước khi là niềm vui của con người... Chúa Giêsu mạc khải cho tất cả chúng ta gương mặt của Thiên Chúa, sẵn sàng vui mừng vì sự trở về của đứa con hoang đàng.

Gioan Phaolô II

Ðọc một tác phẩm về tha thứ có thể là một việc rất hữu ích, nhưng không gì có thể thay thế được kinh nghiệm. Ðể thực hành, tôi đề nghị một kinh nghiệm dưới hình thức suy niệm. Trong sự tha thứ cũng như trong mọi thực hành đạo đức khác, như nguyện ngắm hay cầu nguyện, người ta không ứng biến, mà phải chuẫn bị trước. Tôi thực sự không biết từ đâu ra cái ý tưởng là người ta có thể thành công trong việc tha thứ ngay lập tức mà không có luyện tập trước.

1. Những chỉ dẫn để sống tốt một kinh nghiệm tha thứ :

Ðây là vài chỉ dẫn liên quan đến việc suy niệm giúp bạn thành công trong việc tập luyện nầy :

Ðiều cốt yếu của kinh nghiệm hệ tại việc chăm chú theo dõi các chuyển động của con tim bạn, học hỏi những điều về bạn và chấp nhận bạn đúng như bạn đang là trong tiến trình của bạn. Trước hết, bạn hãy tránh việc bắt buộc mình tha thứ với bất cứ giá nào. Có thể sự tha thứ sớm rơi vào tâm hồn bạn như một trái chín, và như vậy càng hay. Cũng có thể bạn cảm thấy con tim bạn khép kín trước mọi cảm thông, và cũng tốt thôi. Bạn hãy chấp nhận mọi chuyển động nội tâm, dù thuộc loại gì đi nữa. Hoàn toàn quyết định thuận với kinh nghiệm, bạn hãy tự cho phép mình hõan nó lại ngay khi bạn cảm thấy cần.

Ðể tập luyện việc nầy, tôi khuyên bạn chọn một sự xúc phạm nhè nhẹ. Cũng như trong thời gian đầu các cuộc tập luyện thể lực, không ai liều lĩnh nâng cao một trọng lượng năm mươi kilô, hay chạy marathon ngay, thì đối với tha thứ cũng như vậy. Vậy bạn đừng bắt đầu muốn tha thứ ngay những xúc phạm nặng nề, như sự xúc phạm của tên bợm đã làm bạn tan nát cuộc đời hay sự xúc phạm của người bạn cũ đã tàn nhẫn với bạn suốt nhiều năm tháng. Tốt hơn bạn hãy chọn sự xúc phạm của của tên tài xế bạt mạng, của thằng bé nổi loạn hay của ông chủ cục cằn.

Hãy ghi âm bài suy niệm vào một cuộn băng để giúp bạn tập trung hơn.

Cuối buổi suy niệm, sẽ hữu ích cho bạn là nên viết một bài về các cảm tưởng của bạn. Lợi ích hơn nữa là chia sẽ các cảm tưởng đó với một người bạn. Việc đó sẽ giúp bạn đẩy xa hơn nữa những suy nghĩ của bạn.

Buổi suy niệm kéo dài khoảng hai mươi phút. Ðể công việc được diễn tiến dễ dàng, bạn hãy loại bỏ tất cả những gì có thể làm bạn chia trí, chuông diện thoại reo chẳng hạn. Giữ một tư thế thoải mái. Thích hợp hơn là nên ngồi, hai chân chạm đất và hai mắt nhắm lại.

2. Diễn tiến của buổi suy niệm :

Thong thả đi vào chính mình.

Từ từ tập trung chú ý tới những chuyển động của con tim.

Cảm nhận rõ những nhịp đập và nhiệt huyết của nó.

Rồi tự đặt cho mình những câu hỏi : "Sự tha thứ thể hiện cái gì cho tôi ? Nó có thể mang lại cho tôi phẩm chất mới mẻ nào của cuộc sống ?"

Hãy nhớ lại một kinh nghiệm hạnh phúc trong đó chính bạn đã được tha thứ.

Hãy để thời giờ thưởng thức niềm vui được tha thứ đó.

Hãy tưởng tượng ra một thế giới được làm nên bởi những tương quan hạnh phúc và tha thứ.

Bây giờ, hãy để trổi lên trong bạn gợi nhớ về con người mà bạn cảm thấy oán giận. Hãy nhìn con người đó. Hãy nghe con người đó. Tiếp tục cảm nhận những gì trổi lên trong bạn, trong tất cả sự thật.

Hãy để con người mà bạn đã vất bỏ khỏi trái tim đó tiến lại gần bạn, có mặt với kinh nghiệm sống và với nhiều tế nhị đối với bạn.

Ý thức những ách tắc có thể phát sinh trong tâm hồn bạn vào lúc nầy. Hãy để trào ra những xung động và tình cảm đang làm bạn sôi nổi. Hãy thong thả nhận dạng và chấp nhận chúng.

Nếu những cảm xúc của bạn quá mạnh, thì đừng đi xa hơn nữa. Hãy thong thả chịu đựng và đồng hóa chúng trước khi tiếp tục.

Nếu bạn cảm thấy dễ chịu, hãy tiếp tục để cho con người mà bạn muốn tha thứ đến gần. Tiếp tục quan sát những gì xảy ra trong bạn.

Khi bạn cảm thấy đã sẵn sàng, hãy để con người đó đi vào con tim bạn. Bạn hãy thỏ thẻ với y : "Tôi tha thứ cho bạn". Hãy nói với con tim của y và trong ngôn ngữ riêng của bạn, theo cách của bạn, hãy lặp lại với y : "Tôi tha thứ cho bạn tất cả những gì bạn đã làm trong quá khứ, cố ý hay vô tình, làm tôi đau đớn hay bị thiệt hại : những lời nói, những cử chỉ hay ngay cả những ý nghĩ của bạn. Tôi tha thứ cho bạn. Tôi tha thứ cho bạn".

Hãy ý thức đến độ chính con người đó đang đau khổ, sợ hãi và bị tổn thương.

Hãy để thời gian cho y đón nhận sự tha thứ của bạn và bị xúc động.

Thật cảm động, thật trọng đại, thật an ủi khi nhận thấy hai cõi lòng gặp lại nhau trong kính trọng và bình an !

Bạn sẽ thực hiện cho mình rằng sự xúc phạm đã hết, đã chấm dứt, đã được điều chỉnh và không còn đè nặng trên bạn nữa. Cái gì còn có thể oán giận bị xóa đi với sự tha thứ, bởi vì hai con tim đã gặp nhau, nhìn nhận nhau với nhiều thiện cảm.

Phải, mọi sự đã hết với sự tha thứ.

Rồi, với sự chúc lành của bạn, hãy để con người đó bây giờ ra đi như một con người đã được giải phóng, biến đổi, tươi trẻ lại với sự tha thứ của bạn. Bạn hãy để con người đó tiếp tục con đường của y, cầu mong y được hạnh phúc lớn nhất có thể.

Bạn hãy cho mình thời gian hưởng nếm sự chữa lành nầy và hãy cảm tạ Chúa đã ban cho bạn ân sủng nầy.


3. Những hậu quả theo sau buổi suy niệm :

Bạn hãy để một lúc suy nghĩ hầu gặt hái những hoa quả, hoặc chia sẻ với một người nào, hoặc ghi lại các cảm tưởng của bạn vào trong nhật ký. Ðến đó, những câu hỏi nầy có thể hữu ích cho bạn :

Bạn đã sống điều gì trong suốt buổi suy niệm ?

Nếu bạn cảm thấy được giải thoát, hãy khen ngợi bạn và chúc mừng sự tha thứ đó.

Nếu bạn đã gặp phải những trở ngại, hãy khen ngợi sự can đảm của bạn và để thời gian nhận dạng rõ chúng.

Cái gì còn ách tắc ở trong bạn ? Hãy thong thả chấp nhận bạn trong sự ách tắc ấy.

Bạn phải làm gì để tháo gỡ ách tắc hay những ách tắc nầy ?

Bạn phải làm gì để tiến triển trong sự tha thứ ?

Sau khi đã biết những giai đoạn khác nhau phải vượt qua để tha thứ, bạn hãy tự hỏi xem bạn đã đạt tới giai đoạn nào rồi.



PHẦN THỨ NHÌ: MƯỜI HAI GIAI ÐOẠN THA THỨ ÐÍCH THỰC

GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT

Thật ngạc nhiên khi nhận thấy rằng những sách tâm lý viết về khả năng trị liệu của tha thứ quá hiếm hoi. Theo sự hiểu biết của tôi, không một trường tâm lý trị liệu nào đã thử cố gắng đưa ra một lời giải thích về tính chất chữa bệnh của sự tha thứ. Hơn nữa, họ chẳng nghĩ đến việc dành cho tha thứ một chỗ trong quan niệm của họ về nhân cách. Làm sao cắt nghĩa sự thiếu sót nầy ? Chắc chắn lỗ hổng nầy đến do khuynh hướng của họ giảm trừ sự tha thứ vào một hoạt động thuần túy có tính cách tôn giáo. Nếu như vậy thì đó là một sai lầm nghiêm trọng, bởi vì như chúng ta đã thấy, tha thứ đụng đến tất cả mọi chiều kích của con người, từ những chiều kích thiêng liêng đến những chiều kích sinh học và tâm lý.

Ngày nay, tha thứ có một tính thời sự rất lớn. Lợi ích gộp lại của nó được phát triển như một nhân tố quan trọng của sức khoẻ thể lý, tâm lý và thiêng liêng. Các nhà thần học, chuyên gia tâm lý, bác sĩ và các nhà liệu pháp điều trị vừa bắt đầu khám phá được giá trị trị liệu của tha thứ. Tại sao có lợi ích bất thần nầy ? Có lẽ bởi vì người ta bắt đầu từ bỏ dần dần cái quan niệm ma thuật hay duy ý chí của một sự tha thứ được thực hiện theo yêu cầu. Thay vì nhìn thấy trong sự tha thứ một thứ ma thuật hay một cố gắng đơn giản của ý chí, dần dần họ nhận thấy rằng không phải muốn tha thứ là tha thứ được đâu. Sự tha thứ phải tuân theo những định luật phát triển của con người và phải thích ứng với những chu kỳ trưởng thành của nhân vị. Còn lâu mới là kết quả của một động tác ý chí, tha thứ phát xuất bởi một qui trình đòi hỏi sự dấn thân của tất cả mọi khả năng của con người và theo một lộ trình chia ra nhiều giai đoạn.

Những giai đoạn nầy nhiều ít tùy theo tác giả. Ðối với tôi, dưới ánh sáng kinh nghiệm bản thân, lâm sàng và đọc sách, tôi đi đến kết luận rằng có mười hai giai đoạn cần thiết để đạt tới sự tha thứ đích thực. Tại sao lại mười hai ? Vì những lý do sư phạm. Khi phân chia sự khó tha thứ thành nhiều giai đoạn, tôi muốn sáng tạo một khoa sư phạm riêng về tha thứ, làm cho sự tha thứ khả dĩ đạt đến số đông người nhất có thể. Tôi cũng phân phối công việc tha thứ thành những nhiệm vụ xem ra có thể thực hiện được. Dĩ nhiên tha thứ không phải như một cái máy có thể tháo ráp lúc nào muốn cũng được. Tôi hoàn toàn không nghĩ đến việc phát minh ra một công thức không sai lầm về tha thứ. Tuy nhiên tôi xác tín về lợi ích của những cột mốc nầy, dù xem ra quá nhiều, trên con đường tha thứ luôn luôn bấp bênh nầy.

Chúng ta hãy xem các giai đoạn tha thứ được tổ chức như thế nào.

Ngay từ đầu, một đàng tiến trình được khởi sự với quyết định vững chắc không trả thù và đàng khác khiến kẻ gây nên xúc phạm phải thôi đi những hành động xấu của nó. Ðó là giai đoạn đầu tiên.

Ba giai đoạn tiếp theo nhằm săn sóc các thương tổn : nhận ra vết thương, chia sẻ vết thương bằng cách mở lòng ra với người nào đó để xác định nó và đành chịu thương tổn.

Giai đoạn thứ năm hệ tại việc chấp nhận nỗi tức giận và ước muốn báo thù của mình.

Giai đoạn thứ sáu hệ tại một khúc quặt lớn trên con đường tha thứ, là tha thứ cho chính mình.

Một khi cố gắng chăm sóc chính mình, người ta quay về kẻ xúc phạm mình để cố gắng hiểu y. Ðó là giai đoạn bảy.

Rồi người ta sẽ đi tìm ý nghĩa mà tổn thương có thể mang đến trong đời sống mình. Ðó là giai đoạn thứ tám.

Ba giai đoạn kế đó sẽ mặc lấy một tính chất thiêng liêng hơn : biết mình xứng đáng với sự tha thứ và đã được đặc xá rồi, thôi làm khổ mình để tha thứ, mở ra với ân sủng tha thứ.

Giai đoạn thứ mười hai và là giai đoạn cuối cùng liên quan đến những hậu quả mà người ta muốn mang lại cho sự tha thứ đã được thực hiện. Người ta tự hỏi xem đàng nào tốt hơn cho mình : cắt đứt liên hệ hay làm mới nó lại.

Vậy đây là bảng liệt kê các phận vụ phải chu toàn, hầu đạt được một sự tha thứ đích thực :

Quyết định không báo thù và khiến thôi những cử chỉ xúc phạm.

Nhận ra thương tổn và nghèo nàn nội tâm của mình.

Chia sẻ thương tổn với một ai đó.

Xác định rõ mất mát của mình để đành nhận chịu.

Chấp nhận nỗi giận và lòng muốn báo thù của mình.

Tha thứ cho chính mình.

Bắt đầu tìm hiểu kẻ xúc phạm đến mình.

Tìm ra ý nghĩa của thương tổn trong cuộc sống của mình.

Biết mình đáng được tha thứ và đã được đặc xá.

Thôi tự làm khổ mình vì muốn tha thứ.

Mở lòng ra với ân sủng tha thứ.

Quyết định chấm dứt quan hệ hay đổi mới quan hệ.

Ðó là con đường đã được vạch ra. Dĩ nhiên mỗi người sẽ sử dụng theo ý mình tấm bản đồ đi đường nầy trong cuộc hành hương tha thứ của mình. Người ta sẽ quyết định lướt nhanh qua một số giai đoạn nào đó, trong khi nghĩ là lợi ích hơn phải chậm lại lâu ở những giai đoạn khác trình bày một thách đố đặc biệt cho mình. Một cuốn nhật ký sẽ giúp đỡ lớn lao trong việc ghi nhận các tiến bộ của mình.

Cho mỗi giai đoạn, chúng ta sẽ tìm thấy một bài thực tập hay một bản câu hỏi giúp đánh dấu việc chu toàn nhiệm vụ đòi hỏi trước khi bước sang giai đoạn kế tiếp. Kiểu cách cho các áp dụng nầy thay đổi bất ngờ, nhằm mục đích cho đọc giả thực sự sống một tiến trình tha thứ và đi theo lối ấy. Cũng có một số bài tập được làm sẵn để đọc cho nghe.


Giai đoạn một : Không trả thù và khiến thôi đi những cử chỉ xúc phạm

Bạo lực không bao giờ chấm dứt được bạo lực mà chỉ có bất bạo lực mới chấm dứt được bạo lực thôi. "Dĩ oán báo oán, oán trập trùng ; dĩ ân báo oán, oán tiêu tan"

Kinh Phật

Ngay khởi đầu cuộc hành hương nội tâm tiến đến tha thứ, tôi đề nghị với bạn hai quyết định trọng đại : quyết định không trả thù và quyết định bắt phải chấm dứt những cử chỉ xúc phạm. Chuyển động tha thứ không thể kết nối được bao lâu bạn muốn làm thỏa mãn lòng báo thù của bạn, vì bạn sẽ kiệt sức trong một tình trạng nạn nhân.

1. Quyết định không báo thù :

Trước hết, chúng ta hãy bàn đến sự báo thù, một chuyển động bản năng được cảm nhận theo sau một sự xúc phạm oan. Lòng khao khát báo thù là một cố vấn xấu. Tránh đi lòng khao khát báo thù là bạn tránh được cho mình cả một lô phiền muộn, như một câu châm ngôn Trung Hoa nói : "Kẻ báo thù sẽ phải đào hai cái huyệt". Nhưng còn hơn thế nữa : đòi "nửa cân thịt người" bù lại cho những sĩ nhục đã phải chịu sẽ an ủi bạn trong chốc lát oán giận trong lòng, nhưng sẽ không dập tắt được nó. Trái lại, sự trả thù sẽ lôi kéo đến với bạn cả một chuỗi những cay đắng và bất hạnh mà tôi sẽ liệt kê sau đây. Trước khi bạn biết chúng, tôi xin báo cho bạn hay rằng bản liệt kê đó không được gợi hứng bởi một thứ luân lý cấm đoán, nhưng từ ý hướng tốt muốn kiếm tìm hạnh phúc của bạn. Ðó chính là cái mà người ta gọi là trãi ra với trị liệu thực tại, nghĩa là một trị liệu nhằm đến cái có thực và sự thoải mái của bạn.

Trước hết hãy để thời giờ đọc và suy niệm những lý do bênh vực cho sự không trả thù, rồi bạn hãy tự hỏi : "Sau khi xét qua tất cả những lý do đó, hỏi tôi có còn thực sự muốn báo thù nữa không ?"

Sự báo thù hướng chú tâm và nghị lực của bạn lui về quá khứ. Hiện tại của bạn không còn chỗ nữa và tương lai của bạn trống rổng các dự án thích thú.

Tinh thần trả đũa khơi sâu thêm vết thương của bạn bằng cách không ngừng nhắc đến nó. Nó ngăn cản bạn vui hưởng sự bình an và yên tĩnh cần thiết cho sự chữa lành vết thương và liền sẹo.

Ðể có thể thỏa mãn lòng báo thù của bạn, bạn sẽ phải bắt chước kẻ xúc phạm đến bạn, dù bạn không muốn và bạn để mình bị lôi đi trong cái vòng địa ngục của nó. Không những bạn sẽ làm bạn bị tổn thương hơn nữa khi làm điều đó, mà rồi bạn còn bị giảm giá trị.

Sự trả thù xui khiến tác giả của nó làm lại những cử chỉ độc ác cản trở việc tăng trưởng nhân cách của mình, vì bóp nghẹt hết mọi sáng kiến sáng tạo.

Trừng phạt người nào để bạn được vui thú trả thù sẽ sản sinh ra nơi bạn một tình cảm sâu xa là mình có lỗi. Bạn sẽ cảm thấy có tội đã sử dụng đau khổ của một người khác để xoa dịu sự sĩ nhục của bạn.

Tinh thần trừng phạt tội ác nhân danh xã hội thúc đẩy kết án không thương xót kẻ mắc lỗi, nhưng còn sợ rằng phê phán làm giảm uy tín bạn ném xuống trên người ấy sẽ quây trở lại chống đối chính bạn. Lúc đó bạn sẽ cảm thấy bị ám ảnh bởi nỗi lo sợ bị những người khác bắt bạn phải trả chính cái giá ấy trong một tương lai gần.

Miếng đánh trả mà bạn cho là đích đáng sẽ tạo nên trong bạn một trạng thái sợ hãi và lo âu thường xuyên. Bạn sẽ không ngừng e sợ cái ngày mà kẻ thù của bạn sẽ tấn công trả đũa lại bạn.

Sự trả thù sẽ nuôi dưỡng trong lòng bạn sự oán giận, hiềm khích và tức giận, là tất cả những thứ tình cảm gây nên ứng suất. Chắc bạn biết rõ những hậu quả tác hại của ứng suất. Nó tấn công hệ thống miễn dịch và như vậy gây nên cả một lô bệnh về thần kinh thực vật.

Một Ðấng bậc nọ quá sính quyền bính và cầu toàn phải chịu nhiều ứng suất, gây tổn thương tâm thần và cả thể lý, vì dù đã dùng nhiều biện pháp trả đũa vẫn không khuất phục được những người "bất tâm phục". Càng dùng biện pháp càng sa lầy trong sóng ngầm "bằng mặt mà không bằng lòng". Sự tức giận và nhu cầu trừng trị có hậu quả "gậy ông đập lưng ông".

Ðó là những nỗi bất hạnh theo sau sự trả thù. Hy vọng chúng nổi bật lên cho bạn thấy để chống lại sự trả thù. Bấy giờ bạn có thể thích hơn giải pháp ít đắt giá hơn mà lại triển nở nhất, đó là giải pháp tha thứ. Nếu, sau khi đã suy nghĩ về những lý do không nên trả thù, mà bạn không thành công trong việc chế ngự được các xung năng, thì tôi khuyên bạn lập tức qua ngay giai đoạn thứ năm, là nơi bạn sẽ học được cách thức thuần hóa cơn tức giận và ý thích trả thù của bạn.

2. Khiến thôi đi những cử chỉ xúc phạm :

Một người kia lưu ý tôi thế nầy : "Kêu gọi kẻ thù mình chấm dứt những cử chỉ xúc phạm không phải là một hình thức che đậy của sự trả thù sao ?" Thưa, khiến thôi đi những hành động xúc phạm bằng cách sử dụng tất cả sức mạnh của mình không có gì giống với trả thù hết. Trái lại, đó chính là tự trọng không tấn công kẻ xúc phạm. Có thể lời kêu gọi mặc lấy dáng dấp của một lời nói cộc lốc hạ nhục, nếu nó được làm trong ý hướng tấn công hay cố gắng tạo nên nơi kẻ xúc phạm một mặc cảm có lỗi. Như vậy thật rất quan trọng trong cách can thiệp khiến thôi đi những cử chỉ xúc phạm, cũng như giữ mình trong thái độ không trả thù.

Bao lâu cách ứng xử xúc phạm còn tiếp tục thì việc nghĩ đến muốn tha thứ là vô hiệu. Làm sao người ta có thể làm việc đó, ngay cả nghĩ đến làm việc đó, khi mà còn chịu khuất phục dưới một bạo lực thường xuyên ? Tha thứ trong những hoàn cảnh như vậy là tương đương với việc từ bỏ quyền lợi của mình và là bằng chứng của hèn nhát. Ghandi, vị đại tông đồ của bất bạo động, cũng không nghĩ khác đi khi khẳng định : "Nếu phải lựa chọn giữa bạo lực và hèn nhát, thì tôi không ngần ngại khuyên chọn bạo lực".

Hạnh phúc thay còn có những chọn lựa khác để chấm dứt bất công, chẳng hạn chọn chạy đến công lý. Tôi biết có những phụ huynh đủ sức mạnh làm việc đó : được nhóm tương trợ nâng đỡ, họ có can đảm tố cáo với cảnh sát chính con trai họ buôn bán ma túy ; những người vợ bị đánh đập đã lướt thắng sợ hãi và đã kêu gọi tới công lý để tự vệ chống lại sự bạo hành của chồng. Dĩ nhiên ý hướng tác động những người nầy không phải là trả thù, nhưng là để bắt chấm dứt khủng bố và bất công, và đồng thời để chữa trị kẻ bạo hành.

Xét như vậy, phải chăng là không có ý nghĩa gì việc Ðấng dạy chúng ta tha thứ kẻ thù lại chính Ngài đã không nghĩ đến tha thứ cho những kẻ buôn bán trong Ðền Thờ trước khi đuổi chúng đi ? Ngài đã xét thấy là đúng và cấp bách việc trước hết bắt phải thôi đi sự xúc phạm Ðền Thờ. Ðó là thái độ ứng xử tương tự mà tôi đã khuyên một người đàn ông nọ trong các thủ tục ly hôn có vấn đề phân chia của cải và nuôi giữ con cái. Ông ta hỏi tôi trong những hoàn cảnh như thế làm sao ông có thể tha thứ cho vợ ông. Tôi đã trả lời là trước hết ông phải tiến hành vụ kiện với sự ngay thẳng nhất có thể, và rồi sau đó, nhưng chỉ sau đó mà thôi, ông sẽ tập trung nghị lực để tha thứ cho vợ ông.

Tôi muốn minh họa hơn nữa điểm nầy dựa vào một kinh nghiệm bản thân. Tôi nghe từ hai nguồn khác nhau rằng một trong những đồng nghiệp tu trì của tôi, mà tôi luôn duy trì những tương quan thân ái, đã nói xấu tôi. Trong khi vắng mặt tôi, người anh em đó đã tố cáo tôi với các đồng nghiệp là tôi đã yêu sách quá đáng tiền của nhà trường, nơi chính anh ta làm việc. Tôi cảm thấy buồn phiền và tức giận hay rằng thanh danh của tôi bị bôi nhọ vì những lời nói xảo trá như vậy. Phản ứng đầu tiên của tôi là không để cho những lời vu cáo đó tiếp tục, nhưng nhớ lại điều tôi dạy người khác là cấp thiết phải bắt thôi đi những cử chỉ xúc phạm, tôi cầm bút và viết cho ngài : "Thưa cha, tôi nghe rằng cha đã nói sau lưng tôi về những đòi hỏi tiền bạc quá đáng của tôi. Ðiều đó đúng hay sai ? Nếu sai, nghĩa là cha không nói, thì cha chỉ đơn giản vất lá thư nầy vào xọt rác. Nhưng nếu đúng là cha đã nói như vậy, thì tôi yêu cầu cha chấm dứt việc loan truyền những lời như thế về tôi. Nếu cha cần giải thích, tôi sẵn sàng cung cấp cho cha theo ý cha, ngay cả vấn đề lương bổng của tôi chẳng liên quan chút nào đến cha". Ông cha chấm dứt ngay những lời bép xép và tôi cảm thấy vui vẻ hơn để lờ đi câu chuyện ấy.

Những thí dụ nầy chứng tỏ rằng tha thứ không chước miễn phải có can đảm chất vấn một người xúc phạm và nại tới công lý, nếu cần thiết. Ðức Gioan-Phaolô II tha thứ cho kẻ ám sát ngài là Aga, nhưng ngài đã không bao giờ xin cho anh ta thoát khỏi công lý.

3. (Bài tập)

Ðể điểm lại tình hình về hoàn cảnh nạn nhân của mình :

Ðây là một bản câu hỏi giúp điểm lại tình hình về một hoàn cảnh trong đó mình là nạn nhân. Tôi không phải nhắc lại rằng sự tha thứ vẫn không thể được bao lâu người ta để cho kẻ xúc phạm mình tiếp tục mãi những cử chỉ xúc phạm.

1) Bạn làm gì trong những hoàn cảnh mà bạn là nạn nhân của những thủ đoạn của một cá nhân ?

Bạn thử cố quên đi.

Bạn để mặc cho tình hình xấu đi.

Bạn tự nhủ là không có gì phải làm cả.

Bạn sợ những phản ứng mà kẻ xúc phạm sẽ có nếu bạn đòi anh ta chấm dứt những xử sự phá hoại ấy.

Bạn để nỗi oán giận lớn lên.

Bạn chờ lúc để báo thù.

Bạn sợ nổi nóng lên và trở nên bất công.

2) Bạn dự tính can thiệp một cách thế nào cho có hiệu quả mà không rơi vào sự báo thù ?

3) Bạn có thể nói với người nào về tình hình để làm nhẹ đi nỗi sợ hãi và tính bạo lực của bạn, hầu tìm được chiến lược can thiệp thích hợp nhất và hiệu quả nhất ?

4) Cách nào bạn muốn chất vấn kẻ bách hại bạn ?


Giai đoạn hai : Nhận biết thương tổn và sự nghèo nàn của mình

Sự Thật sẽ giải thoát các con.

Phúc Âm theo thánh Gioan

Một nhà tâm lý trị liệu già dặn kinh nghiệm tâm sự với tôi : "Tôi đã đi đến xác tín rằng đa số những bệnh tâm thần đều có nguồn gốc ở một sự phủ nhận hoặc không có khả năng chịu đau khổ". Quả thực, nếu sau khi bị một xúc phạm mà bạn không thuận tình nhận biết và thừa nhận nỗi đau của bạn thì bạn sẽ liều không bao giờ đạt tới sự tha thứ đích thực được. Sự tha thứ mà bạn tưởng cho đi đó cuối cùng sẽ là một hình thức tự vệ chống lại đau khổ.

Bạn sẽ không bao giờ thành công trong việc tha thứ được, nếu bạn vẫn cứ khăng khăng phủ nhận việc bạn đã bị xúc phạm và tổn thương, đồng thời sự nghèo nàn nội tâm của bạn đã bị bóc trần. Do đó, một trong những phận sự đầu tiên của bạn sẽ là sống biến cố bị xúc phạm. Nhưng lần nầy, bạn sống biến cố bị xúc phạm với một niềm tín nhiệm lớn lao ở bạn, nhất là nếu bạn được tháp tùng trong cuộc chinh phục nội tâm nầy. Nỗi đau gây nên bởi sự xúc phạm nầy, bạn sẽ học chấp nhận nó, chữa lành nó và biến đổi nó cho lợi ích của bạn. Phải xử sự với điều xúc phạm cũng giống như đối với một lưỡi câu đâm vào ngón tay : bạn không thể lấy lưỡi câu đi bằng cách lôi nó ra được, nhưng bạn phải đẩy lưỡi câu sâu vào trong thịt để rồi lôi cái đầu lưỡi câu ra bên kia.

Bài tập tập trung mà tôi đề nghị ở cuối chương nầy sẽ giúp bạn thực hiện việc trở về với chính bạn. Nó sẽ dạy bạn phải xử sự làm sao để tiến bộ trong pha xúc cảm nầy của sự tha thứ. Nhưng trước đó, điều quan trọng là bạn ý thức về hiện tượng các cơ chế tự vệ được sử dụng để chống lại đau khổ.

1. Hiện tượng các cơ chế tự vệ :

Tâm thần con người được tổ chức tốt để tự vệ chống lại sự xâm nhập của một đau khổ quá lớn lao. Khi nỗi đau trở thành không thể chịu đựng được thì tâm thần con người tìm cách làm giảm nhẹ sự va chạm của nó bằng nhiều phương tiện khác nhau. Trên bình diện sinh học, nó điều động các hóc-môn tự nhiên chống lại đau đớn. Trên bình diện tâm lý, những cơ chế tự vệ hay kháng cự hành động theo cách thức các cầu chì chảy đi để ngăn cản một dòng điện quá mạnh làm cháy mạch điện. Một cách chính xác hơn, chúng làm tê liệt các hậu quả tác hại của những cảm giác quá mạnh ngõ hầu toàn bộ cơ thể có thể tồn tại.

Một số tác giả tâm lý học xem ra không tán dương đúng mức sự lợi ích của các cơ chế tự vệ. Theo ý họ thì phải loại bỏ chúng đi, sớm chừng nào có thể. Nhưng xem ra họ quên đi rằng có một sự khôn ngoan được ghi khắc trong những cơ chế tự vệ sinh lý và tâm lý. Những cơ chế tự vệ sinh lý và tâm lý nầy cho phép những người bị tổn thương được sống còn và rồi theo đuổi các hoạt động của họ mà không phải suy sụp hoàn toàn. Phải chăng là nhờ các cơ chế tự vệ nầy mà người lính bị thương tìm được sức mạnh vượt qua những đoạn đường dài đi bộ để được chăm sóc ? Mà người mẹ gia đình phải buồn phiền sâu xa vì cái chết của chồng sẽ nén lặng nỗi khổ đau của mình để tiếp tục chăm sóc con cái ? Mà nhà kinh doanh bị đe dọa một cuộc phá sản sắp xảy ra tìm được can đảm để theo đuổi những công việc thường ngày không để cho mình bị quật ngã ?

Tuy nhiên, những cơ chế tự vệ nầy sẽ tỏ ra vô ích và ngay cả nguy hại, nếu chúng cứ tiếp tục bảo vệ một người nào đó, một khi đã qua đi cơn nguy hiểm. Con người nầy sẽ giống như một cảnh sát viên cố chấp cứ mặc chiếc áo chống đạn sau khi thi hành công vụ, để được an toàn trong nhà ở của mình.

Chúng ta hãy đi thêm một bước và khảo sát gần hơn những hình thức khác nhau mà các sức kháng cự tâm lý nầy có thể mặc lấy. Như thế sẽ nhận diện chúng tốt hơn. Chúng thuộc về hai phạm trù lớn : những sức kháng cự do khả năng nhận thức và những sức kháng cự do cảm xúc.

2. Những sức kháng cự do khả năng nhận thức :

Tôi sẽ đụng đến một tí ở đây đề tài về những sức kháng cự do khả năng nhận thức, bởi vì tôi đã nói ở chương III. Chúng ta hãy nhớ lại rằng sự cự tuyệt có tính cách nhận thức hệ tại việc chối bỏ sự xúc phạm hoặc cố giảm nhẹ sự va chạm của xúc phạm. Những sức kháng cự nầy mặc lấy nhiều hình thức.

Trước hết là hình thức của sự quên : lúc ấy người ta dám chắc rằng sự quên đi điều xúc phạm hoặc tác động của nó trên mình sẽ là lý tưởng để theo đuổi trong hành động tha thứ.

Tiếp đến là hình thức của sự xin lỗi : lúc ấy người ta sẽ gắng sức phát minh ra đủ thứ lời xin lỗi giả trá nhằm gỡ bỏ trách nhiệm cho kẻ xúc phạm.

Cuối cùng, chúng ta hãy nhớ lại một cạm bẩy tương tự nhằm xoá đi một xung đột của một tha thứ nhanh chóng và bề ngoài.

Ðể biện minh cho sự cự tuyệt do khả năng nhận thức, các lý do không thiếu. Chúng còn cấp bách hơn nữa khi liên quan đến những sự phản bội hoặc là những bất công trầm trọng đến từ những người thân cận. Chúng được xem như là những xúc phạm hết sức đau đớn và đe dọa mà người ta muốn không biết đến chúng thì hơn. Như thế, nên, mặc dù có nhiều dấu hiệu, người chồng không chịu rằng vợ mình không trung thành với mình ; người mẹ không tin rằng con trai bà dùng ma túy, ngay cả khi bà nhận thấy nơi con bà tất cả những cách xử sự của một người nghiện ma túy ; ông chủ không nghĩ là người thợ của ông tận tụy như thế lại ăn trộm. Dĩ nhiên một chiến lược đà điểu không dám nhìn thẳng vào nguy hiểm như thế giảm nhẹ nỗi đau và thất vọng, nhưng về lâu về dài sẽ phải cay đắng nhiều khi ý thức.

Ðôi khi, sự kháng cự do khả năng nhận thức dẫn đến việc quên đi trọn vẹn một biến cố. Nhưng biến cố đó vẫn làm phát sinh hậu quả tai hại của nó trên thái độ ứng xử, ngay cả sau nhiều năm. Ðó là điều xảy ra cho một cán sự xã hội mà tôi đã kể cho bạn câu chuyện. Biến cố đau thương ở bệnh viện cũng như quyết định trẻ con không còn tín nhiệm vào người lớn đã bị quên đi hoàn toàn và chôn vùi trong vô thức. Làm sao ông ta có thể thực hiện một tiến trình tha thứ, nếu ông ta đã không phát hiện ra được nguồn gốc sự mất mát và xấu hổ đã dẫn ông đến chỗ không còn tín nhiệm vào các cấp trên thuộc phái nam của ông ?

3. Những sức kháng cự do cảm xúc :

Những nghiên cứu mới đây về những sự lệ thuộc tạo nên do rượu và ma túy mạc khải rằng sự xấu hổ không được sống tốt đóng một vai trò quyết định trong sự cự tuyệt có tính cách cảm xúc. Vậy người ta khó nhọc bắt đầu khảo sát tỉ mỉ cảm giác xấu hổ và những cơ chế tự vệ dùng để che đậy nó. Cho đến đó, cảm giác xấu hổ thường bị lẫn lộn với cảm giác có lỗi. Nhưng cảm giác nầy không phải là cảm giác kia. Chúng không có cùng nguồn gốc, mà cũng không có cùng phận sự. Cảm giác có lỗi trổi dậy từ ý thức đã vi phạm một luật hoặc một nguyên tắc luân lý trình bày một lý tưởng cá nhân hoặc xã hội phải thực hiện. Sự xấu hổ là tình cảm mà cái ngã sâu thẳm bị bóc trần và phơi bày ra ánh sáng. Sự xấu hổ làm cho người ta khám phá thấy mình quá dễ bị tổn thương, bất lực, bất tài, không thích hợp và lệ thuộc. Người mắc phải cảm giác có lỗi sẽ nói : "Tôi đã làm điều xấu, tôi có lỗi và tôi cảm thấy mình là thủ phạm", trong khi người cảm nhận sự xấu hổ sẽ khẳng định : "Tôi là người xấu và chẳng đáng chi. Tôi rất sợ rằng người ta sẽ loại bỏ tôi".

Cảm giác có lỗi đến từ ý thức đã không đạt tới lý tưởng của mình, trong khi cảm giác xấu hổ sinh ra từ ý thức sâu sắc về những suy yếu và tính cách dễ bị tổn thương của cái ngã sâu thẳm. Người xấu hổ có cảm tưởng rằng những yếu đuối của mình bị trưng bày ra trước mắt mọi người. Y luôn luôn cảm thấy đe dọa bị người ta chê cười và loại bỏ.

Một số người sẽ tự hỏi : "Tại sao quá nhấn mạnh như thế đến mối tương quan giữa sự xấu hổ và sự tha thứ ?" Chính là vì có mối tương quan chặt chẻ giữa sự xấu hổ và sự cự tuyệt do cảm xúc, và do đó với sự tha thứ. Một cách chắc chắn, sự xúc phạm gây nên một cảm giác sĩ nhục và xấu hổ. Cảm giác nầy còn lớn lao hơn nếu sự xúc phạm phát xuất bởi một người được yêu mến hay kính trọng mà người ta lệ thuộc vào. Sự lệ thuộc của y đối với một người khác và những nhu cầu khác nhau ít nhiều ấu trĩ của y bấy giờ bị phát giác. Sự thất vọng còn thấm thía hơn nữa khi người ta cảm thấy bị lăng nhục bởi chính con người mà mình chờ đợi tình thương yêu và sự kính trọng.

Muốn tha thứ mà không ý thức đến sự sĩ nhục và xấu hổ đi theo sự xúc phạm nầy là tiến đi trên một con đường mìn bẩy và ngõ cụt. Ý muốn tha thứ, dù có quảng đại đi nữa, sẽ che đậy một nhu cầu tự bảo vệ chống lại sự xấu hổ cảm thấy mình "thấp kém".

Thách đố lớn hơn phải lấy đi trong suốt pha cảm xúc của tha thứ, chính thực là nhìn nhận tình cảm xấu hổ sâu xa của mình để chấp nhận nó, tương đối hóa nó, tiêu hóa nó và sáp nhập nó. Một khi được thuần hóa, tình cảm xấu hổ đó không những trở nên có thể chịu đựng được, mà nó còn làm cho con người ý thức hơn về sự bất lực và hữu hạn chung của tất cả mọi người. Nhưng tình cảm xấu hổ không tự để bị khám phá ra cách dễ dàng đâu. Chúng ta cần phải nhận ra các mặt nạ mà nó ẩn núp bên dưới : sự tức giận, ý muốn quyền lực, óc luân lý biệt phái, mặc cảm nạn nhân vĩnh viễn và chủ nghĩa cầu toàn.

Sự tức giận và nhu cầu trả thù thường được sử dụng để che đậy sự xấu hổ. Thay vì chấp nhận nó, người bị xúc phạm lấy làm xấu hổ và bị sĩ nhục phản ứng lại bằng cách muốn đến phiên mình sẽ hạ nhục kẻ xúc phạm. Trong nổ lực tự giải thoát khỏi sự xấu hổ của mình, người bị xúc phạm phóng chiếu sự xấu hổ đó lên kẻ xúc phạm, hầu thấy nó cũng phải đau khổ vì cùng một sự dữ. Nơi một số người, đôi khi sự tức giận và nhu cầu trừng trị có hậu quả "gậy ông đập lưng ông". Sau khi đã kiềm chế mọi tình cảm bạo lực, họ quây lại chính mình sự tức giận và ước muốn trả thù đó. Lúc ấy sự xấu hổ được che đậy ở đàng sau những tình cảm lo âu và có lỗi tự trừng phạt. Cái đó càng làm cho nó khó mà nhận ra được.

Trong chiều hướng đó, có thể nói là người ta thích cảm thấy mình có lỗi hơn là cảm thấy xấu hổ và bất lực. Một số sự tha thứ được ban ra sau khi tức giận đã đời được làm thành bởi những sự trả thù tinh vi. Ðiều đó giải thích tại sao người được hưởng một sự tha thứ như thế lại cảm thấy một sự khó chịu sâu xa : thay vì cảm thấy một tình cảm giải thoát thì lại cảm thấy xấu hổ và lắm khi bị sĩ nhục.

Dù xem ra thật mâu thuẫn, một số người bị sĩ nhục lại chấp nhận những thái độ quyền lực và kẻ cả. Do đó họ tìm cách tránh kinh nghiệm sự bất lực phát sinh do sự xấu hổ về chính mình. Ðể phản ứng lại, họ sẽ phóng đại tầm quan trọng của họ, họ xem người khác kém hơn họ về mặt hiểu biết, về phẩm chất luân lý và về quyền bính. Nói theo ngôn ngữ của phân tích thỏa hiệp, những người đó tự tuyên bố là mình "nghiêm túc" và cho những người khác là "không nghiêm túc". Trong cùng vết chân ấy, họ chấp nhận những cung cách ngạo nghễ của kẻ cả và hiểu biết mọi mặt. Tất cả những cái đó là vì sợ trực diện với sự nghèo nàn nội tâm mà chỉ nghĩ đến thôi họ đã cảm thấy lo âu rồi. Quan niệm của họ về tha thứ đã bị hỏng và họ sử dụng nó như một phương thế bảo đảm cho sự chế ngự vượt trội của họ.

Ý muốn quyền lực là một hình thức khác của sự che đậy xấu hổ. Nhìn trong một viễn tượng luân lý, nó mặc hình thức của một sự cao thượng luân lý giả dối mà người ta có thể gọi tên là não trạng biệt phái. Người bị xúc phạm, không có khả năng chấp nhận sự sĩ nhục của mình, sẽ sử dụng sự tha thứ như một phương tiện làm nhục kẻ đã gây ra thiệt hại cho mình. Người đó có vẻ như muốn nói : "Anh thấy đó, tôi trổi hơn anh và tôi sẽ chứng minh điều đó bằng cách tha thứ cho anh". Thật quá rõ ràng là thứ tha thứ nầy che đậy nhiều tự ái và lòng khinh bỉ kẻ khác.

Ðối ngược lại não trạng biệt phái với thứ luân lý ngạo nghễ là người đóng vai nạn nhân vĩnh viển. Ðảo ngược lại chiến lược, người đó học được cách rút phần lợi của sự xấu hổ về mình để lôi kéo lòng thương hại của những người khác : người đóng vai nạn nhân vĩnh viển biết cách khai thác những lầm lỗi của kẻ bách hại cho lợi ích của mình. Y luôn than phiền về kẻ bách hại và những hành động xấu của kẻ bách hại, y nói về nỗi đau khổ của mình cho người nào muốn nghe, y khéo léo trưng bày những hành động tàn nhẫn y phải chịu đựng. Ðồng thời y khêu gợi lên sự tức giận nơi các thính giả đối với kẻ bách hại. Cũng vậy, khi người phải chịu đau khổ triền miên đó khẳng định bỏ qua những lầm lỗi người ta đã phạm đối với y, thì y chỉ tìm cách tỏ ra là mình xứng đáng được ngưỡng vọng và ca tụng.

Cuối cùng, chúng ta hãy xem cái mặt nạ hoàn hảo mà người tha thứ có thể mặc cho mình. Lúc là con trẻ, người cầu toàn thường đã phải chường mặt ra với nhiều xấu hổ. Sự giáo dục gia đình đã khắc sâu vào lòng y bằng những lời quở trách khiến y phải xấu hổ. Hoặc có lẽ y đã phải sống nhiều xấu hổ đối mặt với những ứng xử thất thường của một người cha say rượu. Còn là trẻ con, y đã có thể thề rằng sẽ không bao giờ làm điều chi sai lỗi để không phải xấu hổ nữa. Ðể được như vậy, y cố gắng trở nên không gì chê trách được trong mọi sự và ở khắp mọi nơi. Là gương mẫu về nhân đức, y tự bắt buộc mình phải tha thứ. Sự tha thứ giúp y bảo vệ cái bề mặt mỏng dòn mà y muốn cho nó không thể bị tấn công được.

Ðó là vài cái bẩy tâm lý có thể gây trở ngại cho việc mổ xẻ cõi lòng con người, là thành phần của động lực tha thứ. Những cái bẩy tâm lý nầy thường nhằm che đậy cảm giác sĩ nhục và xấu hổ bởi một sự tha thứ giả dối. Và như thế chúng sẽ ngăn cản sự tha thứ trở thành một cử chỉ giải thoát và triển nở. Do đó mà có nhu cầu trước hết phải tẩy rửa lãnh vực cảm xúc của mình trước khi đạt tới sự tha thứ đích thực.

4. (Bài tập)

Ðể nhận biết thương tổn và sự nghèo nàn của mình:

Mục đích bài tập nầy là để loại bỏ những sức kháng cự đau khổ và xấu hổ đã trở nên vô ích và ngay cả tác hại. Nó giúp thực hiện chân lý và chuẫn bị cho giai đoạn kế tiếp hệ tại việc chia sẻ với một người khác.

Như chúng ta vừa thấy, tâm thần con người không dễ để lộ ra ý thức trọn vẹn những kinh nghiệm đau thương. Nó tự bảo vệ chống lại đau khổ và nhất là sự xấu hổ. Vậy vấn đề không phải là cày sâu những sức kháng cự tâm lý nầy hoặc ngay cả tháo gỡ chúng đi, nhưng trái lại, trước hết phải ý thức chúng, chấp nhận chúng và để chúng tự tan rả đi.

Phương thế tốt nhất để đạt được điều đó là đi đón gặp chúng ở bất cứ đâu mà chúng đang phục kích, nghĩa là trong thân thể mình. Thân thể đã ghi lại tất cả và giữ như in trong ký ức sự xúc phạm và những hậu quả vật lý và tâm lý của chúng. Những sự căng thẳng, xơ cứng, đau đớn, ngay cả một số bệnh tật thể xác phản ánh sự đau khổ tâm lý đã không được bộc lộ ra. Chúng báo hiệu có một vết thương cần được chữa lành.

Nếu bạn sẵn sàng bắt đầu bài tập luyện, bạn hãy chú tâm tạo một bầu khí thật yên tĩnh chung quanh bạn. Hãy liệu đừng để bị quấy rầy trong chừng hai mươi phút. Hãy giữ một tư thế thoải mái. Tránh đừng mặc những quần áo quá chật.

Hãy để một lúc để đi vào nội tâm bạn.

Hãy đặt mình bạn trước sự hiện diện của Chúa hay suối nguồn thiêng liêng khác quan trọng đối với bạn. Nhờ đó bạn sẽ có can đảm hơn để bắt liên lạc với thương tổn và sự nghèo nàn nội tâm của bạn.

Bạn hãy bắt đầu bằng việc nhắc lại kinh nghiệm về sự xúc phạm, trong khi vẫn chăm chú vào các phản ứng cơ thể của bạn. Nếu bạn không nhớ ra, bạn hãy ý thức về những căng thẳng, xơ cứng và cả những triệu chứng cơ thể của bạn. Hãy chú ý đặc biệt những gì diễn ra trong con tim vật lý của bạn.

Nếu có nhiều phản ứng cơ thể xảy đến trong cùng lúc, bạn hãy chấp nhận tất cả những phản ứng ấy trong vài chốc lát. Rồi bạn hãy cố tập trung tinh thần trên phản ứng nào xem ra quan trọng nhất, trung tâm nhất đối với bạn.

Bạn hãy hiện diện với sự căng thẳng hay nỗi đau của bạn mà không muốn thay đổi gì hết, cũng chẳng tìm một lời giải thích. Bạn hãy tiếp đón với nhiều tế nhị và thiện cảm cái phần đau khổ đó của bạn.

Vẫn luôn luôn với sự tử tế đó, bạn hãy hỏi sự căng thẳng của bạn : "Mầy đang duy trì ẩn giấu cái gì đó ? Cái gì đang diễn ra ? Tao sẵn sàng lắng nghe mầy đây". Bạn cũng có thể nói thẳng với lòng bạn : "Mầy đang giữ cái gì của sự xúc phạm để nó ngăn cản mầy sống một cách trọn vẹn ?"

Bạn hãy tiếp tục giữ liên lạc với sự căng thẳng và nỗi đau của bạn. Bạn hãy chuẫn bị đón tiếp những gì sắp lộ ra mà không phê phán gì cả. Bạn hãy để cho các hình ảnh, các lời nói và ngay cả những cảm giác khác trổi dậy mà không tìm giải thích, thay đổi hay loại bỏ chúng đi.

Bạn cũng có thể nói lại trong ngôn ngữ của bạn những sứ điệp chảy dồn tới dưới hình thức những hình ảnh, những lời nói hoặc những cảm giác. Hãy hỏi cái phần đó của bạn : "Tao có hiểu rõ cái kỷ niệm hay hình ảnh nầy mà mầy giao cho tao không ? Ðó có phải là những lời mầy muốn nói với tao không ? Cái cảm giác kia đến từ mầy hay từ một nguồn nào khác ?" Chính như vậy mà bạn tỏ cho nó thấy sự chấp nhận thuần túy và đơn giản những gì xảy đến ở trong bạn mà không phê phán, không cắt nghĩa và cũng không muốn thay đổi.

Nếu không có gì vươn lên ý thức, bạn hãy tiếp tục nhẫn nại giữ liên lạc với thân xác bạn. Nếu bạn sốt ruột, bạn hãy tập trung vào sự mất nhẫn nại đó và để nổi bật lên sứ điệp mà cái lúc sốt ruột nầy mang lại cho bạn.

Khi bạn bằng lòng với cái bạn vừa học được, bạn hãy cám ơn cái phần đau khổ của bạn vì đã muốn thông hiệp với bạn. Bạn hãy cho nó một cuộc hẹn khác và chuẫn bị để từ giả nó.

Khen ngợi bạn vì đã can đảm trở lại gặp gỡ cái phần bị tổn thương của bạn và đã có thể nhìn thẳng mặt sự nghèo nàn nội tâm của bạn. Bạn nên bắt đầu lại cuộc tập luyện. Hiếm khi vô thức mạc khải tất cả mọi sự trong một lúc. Nó sẽ để bạn tiêu hóa vài nhúm nhỏ mà nó đã cho bạn.

Cuối cùng, điều quan trọng là bạn ghi lại trong nhật ký những mạc khải đã nhận được trong buổi tập luyện.


Giai đoạn ba : Chia sẻ thương tổn của mình với một người nào đó

Nếu tôi được lắng nghe, chỉ được lắng nghe thôi, tôi có được tất cả không gian cho tôi, tuy nhiên, vẫn có một người nào đó.

Maurice Bellet

Có nhiều phản ứng có thể có đối với một lăng nhục, một sự phản bội hay một bạo lực. Giữa phản ứng tự vệ của một người tự cô lập mình và phản ứng tự vệ của một người bị bắt nạt đóng vai tử đạo, có một chọn lựa lành mạnh hơn và hứa hẹn hơn cho việc chữa lành : bạn chia sẻ đau khổ của bạn cho một người nào đó biết lắng nghe bạn mà không phê phán bạn, không dạy luân lý cho bạn, không đè nặng lên bạn bằng lời khuyên bảo, ngay cả không cố gắng nâng đỡ nỗi đau của bạn. Sự thành công của pha cảm xúc của việc tha thứ tùy thuộc phần lớn vào sự cởi mở chân thành của bạn với người đối thoại chăm chú nầy.

1. Tại sao phải chia sẻ nội tâm bị thương tổn của bạn ?

Một trong những khía cạnh khó kham nhất của vết thương bạn, chính là cảm giác phải mang vác gánh nặng nầy một mình đơn độc trên đời. Vì thế, khi bạn kể câu chuyện của mình ra với người nào đó chấp nhận lắng nghe bạn thì bạn không còn đơn độc nữa. Có người nào đó không những chia sẻ nỗi thầm kín của bạn, mà còn chia sẻ gánh nặng khổ đau của bạn.

Ngoài ra, việc bạn tâm sự với người nào đó sẽ làm cho bạn sống lại biến cố thương tổn cách bình tĩnh hơn. Bạn sẽ tận dụng điều đó để ý thức những cảm xúc còn canh cánh trong lòng. Quá khứ chổi dậy và trở thành hiện tại. Bạn sẽ sống lại thảm kịch của mình, nhưng lần nầy trong bối cảnh được an lòng hơn. Bạn sẽ thủ đắc được một bảo đảm lớn lao hơn nhờ lòng tín nhiệm mà bạn đã đặt để nơi người tâm phúc của bạn. Quan niệm của bạn về sự xúc phạm sẽ thay đổi. Bạn sẽ thấy nó bớt đe dọa hơn và có thể chịu đựng được hơn.

Chắc chắn bạn đã kinh nghiệm được rằng dễ tìm được giải pháp cho các vấn đề của người khác hơn là của mình. Ðó quả thật là cái xảy đến với bạn khi bạn thổ lộ tâm tình với người nào đó đóng vai làm chiếc gương phản chiếu hoặc thùng dội âm cho bạn. Tiếp đến, bạn sẽ bắt đầu giữ khoảng cách với những khó khăn của bạn và sẽ thấy những khó khăn đó trong một viễn ảnh rộng lớn hơn. Kết quả là bạn sẽ chế ngự chúng cách tốt đẹp hơn.

Lợi ích sau cùng bạn có thể rút ra được từ những cuộc trao đổi của bạn với một người khác : sự chấp nhận vô điều kiện của họ sẽ bắt đầu dần dần có ảnh hưởng trên bạn. Từ sự kiện người đó đã đón nhận bạn với lòng trắc ẩn, bạn sẽ sẵn sàng hơn để đón nhận chính mình với lòng bao dung. Tôi bảo đảm với bạn rằng sự đón nhận chính bạn nầy sẽ mang lại cho bạn bình an và yên tĩnh nội tâm.

Những hậu quả tốt lành của việc chia sẻ các trạng thái tâm hồn với một người bạn tri âm là không thể chối cải được. Người ta có thể chờ đợi những hậu quả của một cuộc chia sẻ như thế với chính người gây nên xúc phạm chăng ?

2. Chia sẻ với chính kẻ gây nên xúc phạm :

Nhà tâm lý trị liệu lâm sàng từng trải kinh nghiệm James Sullivan khẳng định trong cuốn Journey to Freedom rằng sự thành công của việc tha thứ có tính cách xúc cảm tùy thuộc vào ba điều kiện cốt yếu sau đây về phía người gây nên xúc phạm :

- Nhìn nhận lầm lỗi của mình,

- Biểu lộ sự ân hận của mình,

- Quyết định không tái phạm nữa.

Chính tôi đã có kinh nghiệm sống một tình huống tập trung cả ba điều kiện đó. Ðó là một việc tầm thường xảy ra, nhưng đã biến thành cuộc xung đột tiềm ẩn thường xuyên. Tôi ngồi nghe tin tức truyền hình cùng với mươi tu sĩ đồng nghiệp. Một người trong họ khám phá thấy một cái chai rổng để gần một chiếc ghế. Tin chắc tôi là tác giả của sự cẩu thả đó, người ấy đứng dậy đầy phẩn nộ, cầm cái chai đưa về phía tôi và nói với tôi bằng giọng càu nhàu và cáo buộc : "Cái chai nầy của ai ?" Không cần phải thêm rằng sự va chạm của cử chỉ nầy tăng gấp mười vì sự hiện diện của những người chứng kiến. Ðồng thời không phải là tôi không nhận ra những tiếng cười phía các đồng nghiệp. Có thể nói rằng họ chỉ chờ việc xảy ra đó để xác nhận thành kiến của họ là tôi hay chểnh mãng.

Tôi cầm lấy cái chai không nói một lời, nhưng sục sôi tức giận. Cho tới lúc đi ngủ, tôi nghĩ ra đủ thứ biện pháp trả thù tinh tế. Vào giờ nguyện gẫm ban sáng, tôi ngạc nhiên về tầm quan trọng mà tôi đã đem vào mình do cuộc đối đầu hôm trước. Trong khi kiếm tìm nguyên nhân của một mối xúc cảm như thế, tôi khám phá ra được rằng những vết thương cũ đã bị mở ra lại và ngay lập tức tôi đã quyết định đẩy xa mọi ý nghĩ trả thù và sẽ gặp người đồng nghiệp cáo buộc ấy.

Tôi đợi lúc thuận tiện chỉ có một mình tôi với người anh em. Tôi chia sẻ với y sự sĩ nhục và cơn tức giận của tôi do những lời nói của y. Tôi hết sức ngạc nhiên là người bạn đồng nghiệp đã khiêm tốn xin lỗi, viện dẫn sự mệt mỏi hết sức của anh như lý do cách ứng xử của anh. Rồi anh bắt đầu thổ lộ với tôi suốt một giờ những sự khó khăn riêng của anh. Xem ra sự cởi mở của tôi đã khơi ra sự cởi mở của anh. Một sự thân tình mới đã được tạo lập giữa hai chúng tôi.

Chính lúc ấy tôi hiểu được hơn câu ngạn ngữ cũ : "Lỗi lầm đã thú nhận được tha thứ một nửa rồi", bởi vì vào lúc anh thú nhận và tỏ ra ân hận thì lập tức tôi cảm thấy trong mình tan biến mất tất cả oán giận. Dù chẳng nghĩ tới làm việc đó, tôi đã tha thứ cho anh ta rồi.

Cũng nên ghi nhận rằng trước khi chất vấn người bạn đồng nghiệp, tôi đã chuẫn bị kỷ : tôi đã cầu nguyện, đã cẩn thận cân nhắc từng chữ tôi sẽ chất vấn, tôi đã cho anh ta trước hình thức của một sứ điệp không cáo buộc. Tôi đã muốn tránh đi mọi cáo buộc chống lại gây tổn thương. Như thế, tôi đã cho anh ta phản ứng xúc cảm của tôi một cách đơn giản và không tấn công. Hơn nữa, tôi đã sẵn sàng lắng nghe anh và theo đuổi cuộc đối thoại với anh cho đến khi chúng tôi có thể cùng nhau làm sáng tỏ được tình cảnh.

3. Khi sự chia sẻ với kẻ gây xúc phạm là không thể được :

Nhưng cái gì xảy ra nếu người có lỗi không muốn nói đến, mà cũng chẳng muốn nghe nói đến sự xúc phạm, như trường hợp của thiếu nữ kia là nạn nhân một vụ lạm dụng tình dục về phía dượng ghẻ của cô. Sau một thời gian dài trị liệu, cô cảm thấy nhu cầu phải nói với ông về những hậu quả tác hại do những lạm dụng tình dục ông đã làm cho cô phải chịu đựng. Cô cảm thấy thời gian cấp bách, vì dượng cô đã bị ung thư tới giai đoạn cuối. Về phía mình, người dượng ghẻ luôn luôn tránh đề cập tới vấn đề đó. Không thể đối thoại được với dượng, cô nghĩ rằng không thể tha thứ cho ông.

Tôi đã khuyên cô sử dụng ngôn ngữ thinh lặng của tâm hồn để nâng đỡ nỗi đau và bạo lực của ông, và liệu tình hình mà tha thứ cho ông. Ðó là điều cô ta đã làm. Trong những lúc thinh lặng ở bên giường bệnh của dượng cô, cô đã tạo nên một tương quan sâu xa với ông bằng cách làm cho nhịp thở của cô đồng điệu với nhịp thở của dượng cô, rồi cô đã kể trong lòng cô cho dượng cô tất cả những đau khổ mà "việc ấy" đã gây nên nơi cô. Sau nhiều lần cô để cho con tim mình nói lên, cô cảm thấy sự tha thứ trổi dậy trong cô và lúc ấy cảm thấy được nâng đỡ sâu xa. Ðiều lạ lùng là dượng cô xem ra yên tĩnh nhiều hơn.

Tình trạng sẽ phức tạp khi kẻ gây nên xúc phạm từ chối nhìn nhận lầm lỗi của mình, hoặc kẻ gây nên xúc phạm vắng mặt, không thể gặp được, lạ mặt hay đã chết. Trong một hoàn cảnh tương tự, James Sullivan gợi ý cho người cố vấn đóng vai kẻ gây nên xúc phạm, nhân danh kẻ gây nên xúc phạm để nhìn nhận lỗi lầm của y, bộc lộ sự hối hận và quyết tâm của y.

Ðể minh họa chủ định của mình, ông thuật lại câu chuyện của một nữ tu bị trầm uất thường xuyên vì trong thời thơ ấu đã bị mẹ ruồng bỏ. Một khi hiểu rằng nữ tu ấy đã chuyển vị hình ảnh của mẹ nàng sang ông, James Sullivan chấp nhận đóng vai mẹ nàng. Ông đã xin lỗi vì đã lãng quên nàng trong tuổi thơ ấu của nàng. Rồi ông biểu lộ niềm vui mừng khám phá lại được nàng và có thể học yêu thương nàng trở lại. Theo vị chuyên gia tâm lý nầy, những trao đổi đó thật hết sức sinh phúc, chúng khiến vị nữ tu đã có thể gặp lại đứa bé gái bên trong của mình, cho phép nàng sống lại và bộc lộ những xúc cảm mà mãi cho tới lúc ấy đã bị băng giá trong lòng nàng. Nàng đã khóc thật nhiều, đã tỏ ra giận dữ, nhưng cuối cùng đã tha thứ cho mẹ nàng.

Sự giúp đỡ của người cố vấn sẵn sàng đóng vai nhân vật gây nên xúc phạm không phải luôn luôn là có thể được. Trong trường hợp đó, phải chạy đến với các phương tiện thay thế. Chẳng hạn, viết những bức thư mà không gởi đi, đối thoại với một chiếc ghế mà tưởng tượng rằng kẻ gây nên xúc phạm đang ngồi ở đó.

Ðối mặt với một kẻ gây nên xúc phạm không hối cải và ngoan cố, phương thế cuối cùng là giao phó y cho Chúa, như một khoản luật Do Thái muốn : "Nếu kẻ xúc phạm đến ngươi không muốn sửa chữa, ngươi hãy giao phó nó cho sự công bằng của Thiên Chúa". Ðó rõ ràng là điều vị giám đốc một học hiệu quan trọng đã làm. Khi ông biết ý định của tôi là viết về sự tha thứ, ông đã kể lại cho tôi câu chuyện của ông, dĩ nhiên là với ý hướng, dù không nói ra, là để tôi làm ích cho các đọc giả của tôi.

Là nạn nhân của những âm mưu bất chính của hai đồng nghiệp, ông đã bị mất một địa vị hành chánh cao và đã thấy sự nghiệp của mình bị gãy đổ. Lúc đó ông đã bị trầm uất nặng, nhưng ông đã thoát ra được nhờ một lời khuyên được tìm thấy trong tác phẩm của Michael Murphy về tha thứ. Nhiều lần trong ngày, ông đã lặp đi lặp lại lời nguyện vắt tắt sau đây : "Lạy Chúa, trong sự bất lực của con, con xin trao phó các đồng nghiệp của con (ở đây, ông kể tên họ ra) cho lòng nhân hậu lớn lao của Chúa, ngõ hầu Chúa biến đổi điều thiệt hại họ đã làm cho con thành lợi ích, và chớ gì ý Chúa được hoàn tất như vậy". Ông bảo đảm với tôi rằng sau ba tháng cầu khẩn như thế, ông không còn cảm thấy trong mình dấu vết nhỏ mọn thù hận và oán giận nào nữa. Vào một dịp hội nghị, gặp lại những kẻ gièm pha cũ, ông ngạc nhiên thấy mình tự phát đưa tay ra bắt tay họ.

4. Ðể chia sẻ thương tổn của mình :

Giữa những phương thế chia sẻ đã được khuyên trong chương nầy, bạn có tìm kiếm phương thế nào thích hợp nhất cho tiến trình tha thứ riêng của bạn không ?

Nói với chính kẻ xúc phạm bạn, sau khi đã chuẫn bị cuộc can thiệp của bạn như thế nầy : quyết định nói với y điều bạn đã cảm nhận nhờ những sứ điệp bắt đầu bằng "tôi", lắng nghe lời giải thích của kẻ xúc phạm và đi cho đến cùng cuộc trao đổi.

Tìm một người nào đó biết lắng nghe mà không phê phán bạn.

Thực hành thứ "ngôn ngữ của con tim" trong những hoàn cảnh khó khăn.

Giao phó kẻ xúc phạm bạn cho Chúa trong lời cầu nguyện.


Giai đoạn bốn : Xác định rõ mất mát của mình để đành nhận chịu mất mát

Tôi đã chịu một xúc phạm, nhưng tôi đã không bị xúc phạm ở thâm sâu hữu thể mình.

Vô danh

Trên con đường dài của tha thứ, bạn đã bắt đầu nhận ra thiệt hại mà sự xúc phạm đã gây ra nơi bạn và bạn đã nói về điều đó với một người nào rất có cảm tình. Hoàn cảnh của bạn đưọc làm sáng tỏ và gánh nặng xúc cảm của bạn được vơi đi. Vậy bây giờ bạn đang trên đường được chữa lành trọn vẹn. Trong suốt giai đoạn thứ tư nầy, tôi đề nghị với bạn làm một bản kiểm kê cụ thể những sự mất mát gây nên bởi sự xúc phạm đó. Sự ý thức nầy sẽ giúp bạn đành chịu những mất mát đó. Bởi vì nếu bạn không đành chịu những gì bạn đã mất, bạn sẽ không thực sự tha thứ được.

1. Xác định rõ sự mất mát của mình :

Chính là khởi đi từ một kinh nghiệm bản thân mà tôi đã hiểu được tầm quan trọng của việc xác định rõ thương tổn của mình trước khi có thể chữa lành nó. Hôm đó, tôi nhận được một lá thư của một thanh niên muốn ghi danh vào Ðại học nơi tôi đang dạy. Cậu ta xin tôi cung cấp cho cậu những chỉ dẫn về một chương trình học mà tôi phụ trách. Thế mà anh chàng sinh viên đã quên không cho tôi địa chỉ. Tôi đoán chừng và nghĩ rằng anh ta đã đăng ký vào một phân khoa khác trong cùng Ðại học nên anh ta không cần cung cấp những chỉ dẫn đó nữa. Thực sự tôi đã quyết định đến hỏi viên thư ký, công việc tôi cho là thông thường. Nhưng tôi vừa xin thì viên thư ký đã có vẻ gay cấn và sau khi bảo tôi "đưa câu hỏi" thì thẳng thừng từ chối cung cấp thông tin tôi xin. Còn tệ hơn, y cáo buộc tôi ăn trộm tài liệu học viện và tống tôi ra khỏi văn phòng.

Vừa bị va chạm, tôi không rõ cái gì xảy ra, rồi một cảm giác tức giận tràn ngập lấy tôi. Vậy tôi bắt đầu viết cho ông giám đốc để đưa viên công chức vô lễ và khinh người nầy vào khuôn phép. Tôi vừa viết xong lá thư với giọng điệu đầy chua cay thì một đồng nghiệp bước vào văn phòng của tôi. Tôi kể cho anh bạn nghe trường hợp khó xử của tôi. Anh ta chăm chú lắng nghe tôi rồi đột ngột hỏi : "Tôi thấy anh tức giận lắm. Nhưng tôi tự hỏi không biết điểm nhạy cảm nào mà viên thư ký đã có thể đụng đến ở anh ?" Ngay lúc đầu, tôi thấy câu hỏi của anh ta không hợp thời, cũng chẳng thích hợp nữa. Tuy nhiên khi suy nghĩ lại, câu hỏi đó đã làm tôi khám phá ra hai việc nầy : người thư ký đặt vấn đề về sự thẳng thắn nghề nghiệp của tôi. Y cũng đã đánh thức trong tôi một nỗi đau khổ cũ mà tôi tưởng đã quên đi. Sự ý thức nầy về các lý do sự phẩn nộ của tôi làm phát sinh trên tôi một hậu quả hết sức bất ngờ : tôi rất ngạc nhiên, cơn nóng nảy và cảm giác oán giận của tôi tan biến đi đến độ tôi không còn muốn gởi lá thư cho ông giám đốc nữa.

Làm sao một sự thay đổi bất thần như vậy đã có thể được thực hiện nơi tôi ? Ðây là giải thích tôi đã tự cho mình. Ngay khi sự việc khó chịu xảy ra, tôi đã có cảm giác rằng tất cả nhân cách của tôi đã bị đặt vấn đề. Rồi tiếp đó, tôi hiểu rằng viên thư ký đã nghi ngờ một phần của tôi, tức sự thẳng thắn nghề nghiệp của tôi. Khám phá nầy giúp tôi có một cái nhìn mới trên thương tổn của mình. Trước hết, tôi thấy nó không quá lớn. Thứ đến, tôi khám phá ra rằng sự giao động của tôi đến do cuộc cải vả với viên thư ký ít hơn là từ một hoàn cảnh nặng nề mà tôi đã chưa dàn xếp được.

Bài viết của Trotter về kết quả các nghiên cứu của chuyên gia tâm lý Martin Saligman soi sáng cho tôi hơn nữa về những gì đã xảy ra cho tôi. Chuyên gia tâm lý nầy chủ trương rằng người ta bị tổn thương nhiều do sự giải thích của chính mình về một biến cố khó chịu hơn là do chính biến cố đó. Theo ý kiến của ông, người nào tự cho mình là nguyên nhân trọn vẹn, duy nhất và thường trực của một biến cố bất hạnh thì kẻ đó tự kết án đánh giá thấp về mình, và tức khắc bị rơi vào sự bất lực để phản ứng lại. Ðể nắm bắt tốt hơn ý nghĩa của những chữ "trọn vẹn, duy nhất và thường trực", chúng ta chỉ cần lắng nghe cuộc đối thoại nội tâm mà một cá nhân nói về sự thiệt thòi của y, hầu giải thích những nỗi cay đắng của mình. Y có khuynh hướng tự chê trách mình một cách trọn vẹn và triệt để, dường như đó là một khuyết điểm bẩm sinh vậy. Y nói "từ lúc nào, tôi luôn luôn sai trái và bất lực" thay vì tự khích lệ mình bằng cách sau đây : "Tôi đã làm một điều lỗi, nhưng hoàn toàn có thể sửa chữa được". Tiếp đến, y tự nhận về mình tất cả trách nhiệm của lầm lỗi. Y nghĩ rằng "tôi là người duy nhất chịu trách nhiệm về nỗi bất hạnh của tôi", trong khi nhận định rằng y không phải là người duy nhất có trách nhiệm về hoàn cảnh và còn có những người chủ chốt khác trong thử thách nầy. Sau cùng, y tự coi mình như nạn nhân vĩnh viễn của số phận. Y than phiền "cái đó luôn luôn xảy đến với tôi" thay vì tự nhủ "đó là hậu quả của một thời cơ chóng qua".

2. Ðể thôi tự chê trách mình :

Sự kiện lấy làm thích thú trong tình trạng nạn nhân chỉ có thể phá hoại ngầm các nghị lực của mình. "Tự đánh đòn" mình luôn luôn là một lời khuyên xấu và cản ngăn tiến bộ trên con đường tha thứ. Ðể ra khỏi sự trì trệ đó, tôi đề nghị những tập luyện sau đây :

a) Bạn hãy tự hỏi xem phần nào của bạn đã bị đụng tới. Bạn đã bị mất mát cái gì ? Bạn cảm thấy bị tấn công hay bị nhạo báng trong những giá trị nào ? Những chờ đợi nào hay những mộng ước gì đã bất thần bị hủy hoại ?

Ðây là vài giá trị có thể phải chịu thiệt hại : sự tự trọng của bạn, thanh danh của bạn, lòng tín nhiệm ở chính mình, lòng tin vào tha nhân, sự gắn bó của bạn với người thân, lý tưởng của bạn, mộng ước hạnh phúc của bạn, những của cải vật chất của bạn, sức khoẻ của bạn, sắc đẹp của bạn, hình ảnh của bạn trong xã hội, những chờ đợi của bạn đối với quyền bính, nhu cầu cẩn mật đối với các bí mật của bạn, sự ngưỡng vọng của bạn đối với những người bạn yêu thương, tính ngay thẳng của bạn, v.v…

Sau khi đã nêu lên và gọi tên sự mất mát của bạn, bạn hãy ý thức rằng đó không phải là tất cả hữu thể của bạn đã bị xúc phạm, nhưng chỉ một phần của bạn mà thôi. Thật sinh phúc cho bạn khi lặp đi lặp lại : "Không phải tất cả con người tôi đã bị đụng tới, nhưng đó là (ví dụ) thanh danh của tôi đã bị thiệt hại". Cách đây ít lâu, tôi đã nghe trên truyền hình chứng tá của một người đàn bà nạn nhân của một cuộc cưỡng hiếp. Bà ta khẳng định : "Tôi bị cưỡng hiếp, nhưng tôi không không đáng khinh". Bằng những từ ngữ khác, bà nói : "Quả tim của tôi vẫn an lành và trọn vẹn, bất chấp sự cưỡng hiếp, và tôi đã không mất đi khả năng tự chữa lành".

Khi nói đến những tai ương xảy đến cho tôi, tôi dùng động từ "có" hoặc tất cả các thì kép khác của trợ động từ nầy, chẳng hạn "tôi đã có nhận một sự lăng nhục", tôi không diễn tả cùng một việc nếu tôi dùng động từ "là", ví dụ "tôi bị lăng nhục". Có một sự khác biệt rất lớn trong quan niệm về sự xúc phạm. Khi tôi nói "tôi có một tổn thương", tôi để người ta hiểu rằng có một khoảng cách giữa tôi và vết thương, điều nầy cho phép tôi phản ứng và tự chữa lành. Trái lại, khi tôi khẳng định "tôi bị tổn thương" là tôi đồng hóa mình trọn vẹn với sự tổn thương và như vậy tôi bất lực phản ứng lại.

b) Cần thiết bạn nên nhắc lại cho bạn rằng bạn không phải là người duy nhất chịu trách nhiệm về biến cố nặng nề hoặc về sự xúc phạm. Trong một buổi thuyết trình cho những người ly thân hoặc ly dị, tôi nói với họ rằng họ không phải là những tác nhân duy nhất của sự thất bại về hôn nhân của họ. Người phối ngẫu, cha mẹ, xã hội, v.v… cũng có một phần trách nhiệm. Nghe những lời nầy, một nữ thính giả đầm đìa nước mắt. Tôi hỏi nàng cái gì đã xảy ra, và nàng đã trả lời tôi rằng lần đầu tiên nàng ý thức mình không phải là "con mụ độc ác" duy nhất có trách nhiệm về sự thất bại hôn nhân của nàng.

c) Sau cùng, điều quan trọng là bạn phải xác tín rằng một lầm lỗi không bao giờ là không thể sửa chữa được. Bạn không bị kết án phải sống lại không ngừng lỗi lầm đó mãi hoặc bị kết án phải luôn luôn gánh chịu những hậu quả của nó. Nếu bạn cứ tưởng tượng bạn luôn luôn bị theo đuổi bởi rủi ro hoặc bởi số phận xấu, bạn sẽ tự vạch chương trình cho những thất bại mới một cách không sai chạy đâu cả.

Vậy thay vì tự dằn vặt mình trước một thất bại, bạn hãy tìm khám phá ra tất cả bài học mà bạn có thể rút ra từ thất bại đó. Biết bao nhiêu thất bại là cơ hội cho những kinh nghiệm phong phú, những khởi hành mới và những thành công trong cuộc sống. Cuối cùng đây là một khía cạnh tích cực khác của những sai lầm của bạn : chúng sẽ làm cho bạn trở nên bao dung hơn đối với những người khác.

3. Chữa lành những tổn thương thời thơ ấu :

Những thương tổn khó nhận biết và xác định rõ nhất là những thương tổn lần lên trong quá khứ xa xăm của thời thơ ấu. Người ta không còn nhớ đến những thương tổn đó, cũng như các hoàn cảnh đã gây nên những thương tổn ấy. Cái còn lại từ những thương tổn đó thường chính là những sự cứng cỏi trong ứng xử và những phản ứng tự vệ, phản ánh các chấn thương cũ của tâm hồn mà một xúc phạm nhỏ đã đủ để khơi dậy.

Những mối thất vọng của thời thơ ấu vẫn tiếp tục làm cho người ta cảm nhận được hậu quả của chúng một cách vô thức nhiều năm sau. Tôi thường gặp những con người, dù rất thiện chí, bảo rằng họ không thể tha thứ được cả những lỗi lầm rất nhỏ. Sự bất lực của họ trong việc tha thứ sĩ nhục họ và thường làm cho họ cảm thấy rất có lỗi. Một người vợ trẻ thổ lộ với tôi rằng chị không thể tha thứ được cho bố chồng của chị. Cái lỗi "kinh khủng" của ông là đã ở lại hai ngày tại nhà con dâu, trong khi ông chỉ được mời ăn bửa cơm tối gia đình thôi. Chỉ với ý nghĩ tha thứ cho ông, chị đã vấp phải sự từ chối nội tâm dai dẵng. Chị cũng tự trách mình đã làm lớn lầm lỗi một cách quá mức. Chị tự nhủ "đó là một việc tầm phào, ta phải thôi không nghĩ đến nữa". Thất vọng không biết làm sao, Chị xin gặp tôi. Tôi mời chị định nghĩa thật chính xác, chừng nào có thể được, bản chất của thương tổn. Chị trả lời tôi : "Con có cảm giác rằng con chẳng quan trọng gì trước mắt ông, bởi vì ông đã chẳng thèm biết đến lời con ghi trong giấy mời". Lúc ấy, tôi đề nghị chị cứ ở vậy với cái tình cảm "không có gì quan trọng", rồi đem tâm trí về lại trong quá khứ, để trổi lên trong chị cái gì đã tự phát liên kết với cái tình cảm ấy. Chị ta bị xúc động đến phát khóc, vì nhớ lại một biến cố trong thời thơ ấu, và chị thuật lại cho tôi rằng lúc lên tám tuổi, mẹ chị đã hứa với chị trong suốt cả một năm trời là sẽ dẫn chị đi tham dự thánh lễ nửa đêm. Thế mà khi chị thức dậy thì đã là buổi sáng lễ Giáng Sinh ! Chị đã khóc và mẹ chị bảo là chị còn bé quá để tham dự thánh lễ nửa đêm ! Sự chán nản trẻ con nầy, dù chị đã hoàn toàn quên đi rồi, nay lại đến, như một tiếng vọng xa xăm, làm ách tắc ước muốn tha thứ cho bố chồng của chị. Như thế, chính sau khi đã họa lại dấu vết nguồn gốc của tình cảm "không quan trọng" mà chị đã đạt tới được việc tha thứ, trước hết là cho mẹ chị, rồi sau đó cho bố chồng của chị.

4. Ðể chữa lành một tổn thương thời thơ ấu :

Kinh nghiệm tâm lý trị liệu của tôi dạy cho tôi biết rằng một sự ách tắc "ngoại lý" của một dự tính tha thứ thường đến từ một tổn thương cũ hãy còn linh hoạt, dù vô thức. Chính vì thế, tôi đề nghị thực hiện một cuộc suy niệm về ách tắc làm cản trở tha thứ.

Bạn hãy lấy một tư thế thoải mái. Hãy gạt xa bạn mọi thứ có thể làm bạn chia trí trong vòng hai mươi phút.

Bạn hãy để thời gian đi vào nội tâm bạn, như bạn đã làm trong các thực tập suy niệm khác.

Bạn hãy đặt mình lại trong tình trạng gây nên bởi sự xúc phạm và hãy để bạn sống lại những gì đã xảy ra cho bạn. Bạn hãy để thời gian xác định và gọi tên cách rõ ràng tổn thương.

Cứ giữ liên lạc với cảm xúc hoặc toàn bộ những cảm xúc hiện đang trào ra nơi bạn.

Rồi, khởi đi từ cảm xúc được nhận diện hoặc khởi đi từ sự phức tạp của các cảm xúc của bạn, bạn hãy lùi lại trong quá khứ, dường như bạn lật lại từng trang tập ảnh kỷ niệm. Luôn được hướng dẫn bởi cùng cảm xúc đó, bạn hãy để trổi lên trong bạn những hình ảnh, những kỷ niệm, những lời nói gắn chặt với những thời kỳ khác nhau của cuộc sống quá khứ của bạn.

Khi bạn bắt gặp lại kỷ niệm xa xưa nhất, bạn hãy để một ít thời gian xem lại và sống lại quang cảnh đã diễn ra. Bạn bao nhiêu tuổi ? Ai ở với bạn ? Cái gì xảy ra ? Bạn phản ứng lại thế nào ? Bạn quyết định gì theo sau biến cố đau thương đó ?

Hãy xem lại đứa trẻ là bạn lúc đó. Nó ăn mặc thế nào ? Nó ở đâu ? Bạn có thể vẽ nó ra thế nào ? Bạn hãy quan sát cái gì nó nhìn thấy, dường như nó đang có đó, hiện diện ở trước mặt bạn.

Bây giờ, vận dụng tới tất cả kinh nghiệm người lớn của bạn, sự từng trải của bạn, sự hiểu biết của bạn về tâm lý trẻ con, bạn hãy bắt đầu nói với nó, trấn an nó, xin lỗi nó vì đã bỏ quên nó quá lâu như thế. Bạn hãy giải thích cho nó tất cả những gì đã xảy ra. Bạn hãy làm cho nó yên lòng bằng cách hứa với nó rằng bạn sẽ không quên nó nữa.

Khi bạn chắc chắn đã thuần hóa được đứa trẻ của bạn và nó chấp nhận để bạn tiếp cận nó, bạn hãy đứng lên, rộng tay ôm lấy nó, đặt nó ngồi lên đầu gối bạn, rồi siết nó thật chặt bằng cách quàng tay bạn trước ngực nó.

Bạn hãy để thời giờ cảm nhận sự hiện diện của nó, để nó tự trấn tĩnh và giúp nó tự chữa lành. Nếu bạn nghĩ rằng nó đã sẵn sàng, bạn có thể gợi ý với nó bắt đầu tha thứ cho người đã xúc phạm nó. Nếu bạn cảm thấy nó kháng cự lại, thì bạn đừng thúc ép nó. Bạn tiếp tục đơn giản có mặt và an ủi nó. Bạn biết lòng quảng đại của đứa trẻ của bạn. Bạn hãy tín nhiệm nó. Khi nó sẵn sàng, nó sẽ tha thứ.

Trước khi từ giả đứa trẻ của bạn, bạn hãy trấn an nó bằng cách nói với nó rằng bạn sẽ không bỏ rơi nó nữa, rằng bạn sẽ trở lại nói chuyện với nó và săn sóc nó.

Hoan hô ! Bạn vừa đi một bước lớn trên con đường chữa lành và tha thứ có tính cách cảm xúc.


Giai đoạn năm5 : Chấp nhận nỗi giận và lòng muốn báo thù của mình.

Phải là nhà tâm lý trị liệu để biết được có bao nhiêu bạo lực bị dồn nén dưới sự tha thứ giả dối.

Paul Tournier

Thường xảy ra là từ ngữ "giận dữ" gợi lên nơi người ta những cảnh bạo lực ghê gớm. Do đó nó hình thành nơi họ một nỗi sợ lớn lao khi cảm nhận mối xúc cảm nầy. Một số nhà tu đức rất khó nhận thấy trong nỗi giận và lòng muốn báo thù những thực tại tâm lý lành mạnh tự nó. Căn cứ vào một quan niệm bị cắt xén về tình yêu, họ xét đoán rằng phải dồn nén mọi chuyển động của bạo lực.

Ðây là câu chuyện của một cuộc cải cọ giữa tôi và một vị tuyên úy của một nhóm đôi bạn. Trước sự hiện diện của ngài, tôi đã thuyết trình về hiệp thông cho một nhóm các đôi vợ chồng. Tôi đã giải thích làm sao cuộc sống lứa đôi mang lại, cùng với những niềm vui của nó, cả một lô những tước đoạt, mất mát. Sự tích lủy của những mất mát theo sau những va chạm nhỏ và những bực tức do đó mà ra, theo ý kiến của tôi, tạo nên một trong những trở ngại lớn nhất cho sự hiệp thông tốt đẹp ở đôi bạn. Tôi cũng khuyên các đôi vợ chồng đừng để chết đi trong mình những cơn giận nhỏ, nhưng nên bộc lộ chúng ra một cách có tính cách xây dựng nhất có thể được. Bởi vì tôi nghĩ rằng cái hủy diệt tình yêu không phải là sự tức giận, nhưng chính là nỗi sợ mở lòng mình ra và sự dửng dưng. Ngay lúc đó, tôi thấy vị tuyên úy nhảy ra khỏi ghế. Bằng một giọng giận dữ, ngài hét lên với tôi : "Nầy cha, đáng ra cha phải biết rằng hờn giận là một trong bảy mối tội đầu chứ !" Ngài lập tức đi ra, đóng sầm cửa lại.

Rõ ràng là chúng tôi đã không có cùng một định nghĩa về sự tức giận. Tôi dùng từ ngữ nầy để diễn tả tình trạng bức tức bên trong được gây nên bởi một sự trái ý, một tiếng chưỡi hay một sự bất công. Ngài thì lại cho từ ngữ "tức giận" ý nghĩa của sự thù hằn và oán giận, là những tình cảm có mục đích làm hại người khác hoặc ngay cả hủy diệt họ nữa.

Thường xảy ra là các vị giảng thuyết, những thầy dạy tu đức đặt đối nghịch tha thứ và tức giận. Ðối với họ, để đi đến tha thứ, trước hết phải dập tắt hết mọi chuyển động của tức giận và xua đuổi hết mọi ý nghĩ trả thù. Nói chung, họ khuyến khích sự trấn áp mọi tình cảm được gọi là "tiêu cực". Tiến trình nầy đối với tôi xem ra không có lối thoát. Bởi vì sự tha thứ không thể nào được trao ban, nếu nó đã không được đi trước bởi sự ý thức và chấp nhận sự xấu hổ của mình ; cũng thế sự tha thứ là không thể, nếu người ta kềm chế nỗi giận và lòng muốn báo thù của mình. Không nhận biết và chấp nhận nỗi giận và lòng muốn báo thù của mình, viện lý là muốn tha thứ, chính là tự lừa dối mình, và hơn nữa là bóp méo tha thứ thành sự giả dối có tính cách xã hội.

Nhưng hãy coi chừng ! Ở đây không có vấn đề khuyến khích hay nuôi dưỡng sự hận thù. Người ta thường quá hay lẫn lộn cái xúc cảm tự phát của tức giận với mối hận thù. Trước hết cần phải phân biệt xúc cảm chóng qua của tức giận với lòng muốn báo thù của tình cảm kiên quyết và được nuôi dưỡng bởi lòng căm ghét hay sự hận thù. Biết rằng tức giận là một chuyển động bạo lực của tâm hồn, nó chứa đựng những yếu tố tích cực, bất chấp những vẻ bề ngoài của nó. Nó là một phản ứng bình thường đối lại một hành động bất công, là một sự kiếm tìm sự trung thực và là một nổ lực cất đi chướng ngại cản trở tình yêu tha nhân.

Ngược lại, mối hận thù nhập vào lòng người như một ung thư. Nó che đậy một cơn giận câm nín và bền bĩ chỉ hết đi khi kẻ gây nên xúc phạm bị trừng phạt hoặc bị hạ nhục. Nó có thể mặc lấy những hình thức khác nhau : lời châm chọc mĩa mai cay độc, hận thù dai dẳng, những thái độ khinh miệt, sự cừu địch triệt để, chỉ trích chê bai và tính thụ động bạo lực giết chết mọi niềm vui có thể có trong mọi quan hệ. Bao lâu người ta không muốn nhìn nhận sự tức giận của mình và rút ra lợi ích tốt nhất có thể, thì có mối nguy hiểm là nó sẽ bị hỏng đi bên trong mình và biến thành oán giận và hận thù.

1. Những hậu quả tai hại của cơn giận bị dồn nén :

Kìm nén cơn giận của mình, chính là dấn sâu trong một vũng lầy không có hy vọng thoát ra được. Khi một xúc cảm bị dồn nén vì bị xã hội kết án là không thể chấp nhận được, thì sớm muộn gì nó cũng trổi dậy dưới những hình thức lệch lạc. Bởi vì người ta không thể kìm hãm năng lực cảm xúc được. Nó luôn luôn được bộc lộ ra một cách giả tạo và lừa dối. Ðể chỉ phẩm chất những lệch lạc cảm xúc nầy, trường phái tâm lý phân tích có tính cách dàn xếp (thỏa hiệp) đã tạo ra thành ngữ "tình cảm bịp bợm". Chúng ta xem xét kỷ những "tình cảm bịp bợm" gây ra do sự dồn nén không lành mạnh của tính bạo lực.

Cơn giận bị kiềm chế có thể đổi chỗ và tấn công những hữu thể vô tội - có thể là những đồ vật, cầm thú hoặc những con người. Có ai chẳng bao giờ nhìn thấy một người nào đó đá một đồ vật hoặc ngay cả một con vật để nguôi đi cơn giận trong lòng không ? Người ta cũng tìm thấy những phản ứng tương tự đối với những con người ("giận cá chém thớt"). Người ta đã dám cả quyết không phải không có lý rằng một người chồng đánh vợ mình là đang cố tự giải thoát mình khỏi hình ảnh của người mẹ một cách tuyệt vọng. Tôi đã thấy một thằng bé sau khi bị mẹ la mắng đã cho thằng em nó một cái tát nên thân !

Thường xảy ra rằng những thúc đẩy không thể kiểm soát được của bạo lực có nguồn gốc là sự tích lủy của các cơn giận bị dồn nén. Một khách hàng có nụ cười cố định đến tìm tôi hỏi cách chế ngự những cơn bạo lực bằng lời nói của y. Ông chủ đe dọa thải hồi y và vợ y thì lại đòi ly dị. Tôi từ chối giúp y tấn công cơn giận của y, vì tôi không muốn thất bại như vị linh hướng của y, khi đã cố tìm mọi cách ngăn cản y không được nổi cáu. Ðúng hơn, tôi đã quyết định giúp y thuần hóa cơn giận của y. Tôi đã không xin y kiềm chế cơn giận của y, nhưng lại để cho nó nổi lên, nhận biết nó xuyên qua những căng thẳng tiêu biểu của thể xác, chấp nhận nó và tìm cho nó những lối thoát có thể chấp nhận được như chơi thể thao, bửa củi và những tập luyện mạnh mẻ khác.

Một trong những hậu quả thông thường nhất của sự dồn nén cơn giận là khuynh hướng gán cho người khác chính tình cảm tức giận của mình. Người không ý thức về nỗi giận của mình sẵn sàng chuyển nổi giận đó sang người khác. Lúc ấy chính y cảm thấy bị đe dọa bởi các mặt nạ của cơn giận của chính y nên qui nó cho một số người nào đó. Thí dụ sau đây chứng tỏ rõ ràng điều tôi muốn nói. Một bà có trình độ văn hóa cao và một cảm thức thiêng liêng lớn đã viết cho tôi để chia sẻ những xao xuyến của bà việc tự tử của con trai bà. Bà kể cho tôi làm sao bà đã sớm tha thứ cho con bà về sự khốn khó và buồn phiền mà sự tự tử của nó đã gây ra cho bà. Tuy nhiên, bà không thể tự giải quyết được ý nghĩ làm sao Thiên Chúa có thể tha thứ một cử chỉ rất đáng trách như vậy cho con bà. Tôi nghĩ rằng bà không thể cáng đáng nổi giận bà đã cảm nhận đối với con trai bà và bà đã phóng chiếu nỗi giận đó lên Thiên Chúa. Ðiều làm cho tôi quả quyết về sự đúng đắn của giả thuyết tôi đưa ra, chính là những lo âu và nghi ngờ của bà cứ tiếp tục dày vò ray rứt bà, dù những cố gắng của các chủ chăn để bảo đảm với bà về lòng tốt và tình thương xót của Thiên Chúa.

Ðây là câu trả lời của tôi cho lá thư của bà : "Thưa bà, không có lúc nào tôi đã dám nghi ngờ sự thành thật của ước muốn tha thứ cho con trai của bà. Tuy nhiên bà cho phép tôi ngạc nhiên về thời gian quá ít bà đã cống hiến để chăm sóc cho nỗi đau của bà, trước khi trao ban sự tha thứ của bà. Bà có tin rằng nỗi buồn tang chế của bà đã đủ chín muồi và vết thương lớn lao của bà đã đủ lành da, để thực sự nghĩ tới việc tha thứ cho cậu nhà ? Kinh nghiệm của tôi bên cạnh những người phải đau buồn vì việc tự tử của một người thân yêu cho phép tôi khẳng định rằng những người còn sống cần phải có rất nhiều thời gian để cho những tình cảm tức giận và có lỗi được bộc lộ và biến đổi. Bà sẽ được lợi ích khi đặt mình lắng nghe các xúc cảm của bà. Như vậy bà sẽ có thể đón nhận trong lòng những xúc cảm chưa tìm ra được cách bộc lộ đầy đủ". Ít lâu sau, tôi nhận được một lá thư trong đó bà nói với tôi rằng tôi đã thấy cách chính xác trường hợp của bà và bà đã tìm được cho mình một nữ cố vấn tốt để giúp bà đảm trách các tình cảm có lỗi và tức giận của bà.

Một lệch lạc khác của tức giận hệ tại việc quay nó lại chống chính mình. Nó phát sinh nơi những kẻ tự cấm đoán mình không được có một chuyển động tức giận nhỏ nhặt nào và tự cho mình là có lỗi khi thấy biểu hiện đầu tiên của tức giận. Bấy giờ họ tự cáo bộc mình, tự trừng phạt mình, khi không bị chìm đắm trong một trầm uất thần kinh, như trường hợp cán sự xã hội kia. Một trong các khách hàng của nàng là một thanh niên mà nàng rất gắn bó đã tự tử. Nàng cay đắng tự trách mình vì đã vắng mặt hôm mà thanh niên ấy đã gọi điện thoại xin nàng giúp đỡ. Từ ngày đó, nàng đã sống với ý nghĩ rằng nàng có một phần trách nhiệm trong cái chết tự tử ấy. Nàng tự cáo buộc mình đã không nghĩ rằng tự tử là một cách giải quyết các vấn đề của khách hàng của nàng.

Sau khi đã lắng nghe nàng kể lại những xúc động của nàng, tôi gợi ý nàng tưởng tượng chàng khách hàng trẻ đang ngồi trước mặt nàng và lặp đi lặp lại với chàng : "Tôi cảm thấy mình có lỗi về cái chết của anh". Rồi tôi đề nghị nàng thay thế câu đó bằng câu sau đây : "Tôi trách anh đã tìm lấy cái chết, mặc cho tất cả sự giúp đỡ mà tôi đã mang lại cho anh". Sau nhiều do dự, nàng đã quyết định nói với anh ta sự thất vọng và tức giận của nàng. Những tình cảm thất vọng và tức giận của nàng càng mạnh khi nàng càng để bộc lộ ra. Rồi, khi nhận biết mình bất lực không thể ngăn cản việc tự tử của khách hàng, nàng bật khóc nức nở. Nàng vừa chấp nhận những giới hạn của mình. Chính lúc đó nàng mới bắt đầu tha thứ cho mình, vì đã tưởng rằng mình đủ mạnh để cứu anh ta mặc dù anh ta không muốn.

Sự tức giận bị dồn nén còn có thể mặc lấy những hình thức che đậy khác như chê bai, chỉ trích càu nhàu, thái độ lạnh lùng vô liêm sĩ, hiềm khích buộc tội hoặc hờn dỗi. Tất cả những cách bộc lộ sự tức giận bị che đậy nầy đi vào trong phạm trù các "tình cảm bịp bợm". Những tình cảm bịp bợm nầy có tính đặc trưng là dai dẵng và lặp đi lặp lại. Ngược lại, những tình cảm đích thực sẽ bị loại bỏ khi người ta bộc lộ ra. Ðó là hậu quả thông thường của sự thanh tâm thành công. Nhưng vấn đề hoàn toàn khác đối với tình cảm bịp bợm. Chúng dán chặt vào tính dễ cảm xúc của chủ thể khiến người nầy không tìm được một cách bộc lộ thích hợp. Phương cách duy nhất thoát khỏi vũng lầy xúc cảm nầy hệ tại việc nối lại với sự tức giận đã bị kiềm chế và tìm được cho nó một cách bộc lộ đúng đắn.

Sự tức giận không được thú nhận có thể là nguyên nhân của nhiều chứng bệnh tâm thể lý, vì đã quá hao tổn nghị lực và vì ứng suất do đó mà ra. Sự tức giận nầy tạo cơ hội cho một ứng suất không lành mạnh là nguồn gốc cho một số bệnh thể lý rất khác nhau. Trong cuốn La guérison des souvenirs, anh em Linn tường thuật các kết quả nghiên cứu do bác sĩ Floyd Ring hướng dẫn trong lãnh vực nầy. Ông đã nghiên cứu các chứng bệnh khác nhau gây nên bởi sự thiếu chế ngự sự tức giận, hoặc bởi một sự bộc lộ vụng về nỗi tức giận nầy.

Một đàng, ông quyết đoán rằng những bộc lộ quá mức của tức giận, dù thể lý hay lời nói, thường sản sinh ra những chứng bệnh sau đây : tắc nghẽn động mạch vành, chứng viêm khớp thoái hóa, loét dạ dày.

Ðàng khác, những người dồn nén nỗi sợ và tức giận của mình dễ bị mắc những chứng bệnh về da, thấp khớp và viêm loét đường ruột.

Cuối cùng, những người vì lẽ một sự kiểm soát quá mức thực hiện trên chính mình không bao giờ dám bộc lộ nỗi giận dữ và sợ hãi của mình, ngay cả khi họ ý thức về điều đó, có nguy cơ bị suyển, tiểu đường, cao huyết áp và chứng đau nửa đầu.

Bảng liệt kê các bệnh nầy có lẽ xem ra quá đen tối cho một số người, nhưng điều xem ra không chối cải được, chính là sự trấn áp triệt để các chuyển vận của tức giận gây nên những trạng thái bệnh lý và thần kinh như chủ thể không còn tìm được nghị lực cần thiết để dấn mình vào con đường tha thứ.

Tôi muốn kết thúc phần nầy với vài lưu ý về cách ứng xử với những cuồng tưởng của sự trả thù. Tôi đã gặp những người muốn xua đuổi ý nghĩ trả thù của họ bằng cách chiến đấu thẳng mặt. Ðó là công khó mất đi. Họ càng cố gắng đẩy lùi chúng, chúng càng trổi dậy ám ảnh hơn. Ðể chiến thắng, bạn hãy thực hiện cuộc tập luyện nhỏ nầy : bạn hãy cố đừng nghĩ đến màu đỏ. Bạn sẽ khám phá ra rằng không thể được, vì để tưởng tượng ra cái không đỏ thì trước hết bạn phải nghĩ đến cái đỏ đã. Thực tế, trí tưởng tượng không thể quan niệm cái không đỏ.

Cũng thế đối với những ý nghĩ trả thù của bạn. Bạn càng cố xua đuổi chúng đi thì chúng càng áp đặt mạnh mẻ hơn cho trí tưởng tượng của bạn. Vậy bạn hãy để cho chúng đến với bạn cách êm can và cho phép chúng diễn ra như một cuốn phim. Ngay khi bạn làm như vậy và coi chúng là của bạn, bạn sẽ thấy những cuồng tưởng đó sẽ xem ra rất phù phiếm. Vấn đề còn lại là bạn quyết định không cho chúng tồn tại nữa.

2. Những khía cạnh may lành của cơn giận :

Cơn giận được hiểu trong ý nghĩa là một chuyển động mạnh mẻ và bạo lực của tâm hồn tự nó không có gì là xấu cả. Trái lại, nó do một bản năng bổ ích của sự sống còn thể lý, tâm lý và đạo đức. Hậu quả có hại hay may lành tùy thuộc ở cách người ta sử dụng nó.

Ðược sử dụng tốt, cơn giận dùng vào cuộc vận hành tốt của các mối quan hệ nhân bản giữa các vợ chồng, những người yêu nhau, bạn hữu, cha mẹ và con cái, hoặc chủ và nhân viên. Trong những trường hợp nầy, điều quan trọng là để bảo vệ những biên giới và giá trị của mình, và đôi khi phải làm điều đó cách kịch liệt và phẩn nộ. Nghịch lại những gì xảy ra khi người ta tỏ thái dộ dững dưng hoặc bạo lực phản hồi thì sự bộc lộ đúng của cơn giận bao hàm ước muốn tái lập mối liên hệ. Sự khẳng định mình, dù có nóng nảy, luôn tìm cách cất đi những trở ngại cho hiệp thông và tình yêu.

Những hậu quả may lành khác phát sinh do bạo lực không bị dồn nén và được hấp thụ, chẳng hạn như đưa dẫn tôi khám phá những giá trị tôi lấy làm tha thiết nhất trong tâm hồn. Như vậy ở đây cơn giận có hậu quả chứng tỏ cách rõ ràng điều người ta muốn trở nên và thực hiện. Nó báo động, nó cảnh giác cho tôi về mối hiểm nguy cho phép người khác lạm dụng tôi hoặc xâm chiếm các biên giới cá nhân của tôi. Hoặc nữa, cơn giận làm cho tôi phản ứng lại trước những bất công phạm đến một con người hay một nhóm người. Nói tóm lại, nó đánh thức trong tôi nghị lực luân lý để đương đầu với sự dữ và bất công.

3. Chế ngự cơn giận để bắt nó phục vụ mình :

Nếu sự dồn nén cơn giận và lòng muốn báo thù dẫn đến những ngõ cụt một cách không thể tránh được, thì phải làm gì cho đúng ? Ðể chúng sục sôi trong lòng hay thuần hóa chúng ? Giai thoại sau đây gợi ý câu trả lời cho những vấn nạn đó. André đến trình diện với tôi sau sau một cuộc chia ly đau buồn đe dọa nặng nề sự quân bình tâm lý của chàng. Chàng vừa đến chu toàn nhiệm vụ giáo viên trong một trường cấp hai. Chàng luôn phiền muộn và tự buộc mình có lỗi về cuộc ra đi của vợ, tự trách mình đã giận dữ lớn tiếng và như vậy trong nhiều năm dài. Những sự nổi khùng đó làm anh phải sĩ nhục nhiều lắm. Có những thời kỳ, André kiềm chế được tính khí như lửa của mình nhờ những cố gắng rất lớn về ý chí, nhưng sau những lúc bình lặng, thì chỉ cần một biến cố tầm thường cũng đủ làm cho anh nổi đóa trở lại. Anh nói lên cả ngàn lời hối hận và xin lỗi, anh xưng tội và quả quyết lắng nghe những lời cảnh cáo và khuyến khích của cha giải tội, nhưng tràng chửi rủa giận dữ sau đó làm tiêu tán hết mọi cố gắng tốt đẹp của anh.

Khởi đầu cuộc trị liệu, tôi không dám đề cập với anh đề tài về cơn giận, sợ anh chưa khuây khỏa được nỗi đau chia ly. Khi tôi thấy anh đã sẳn sàng đụng tới nỗi giận bị dồn nén của anh, tôi gợi ý với anh làm việc về vấn đề nầy, nhưng xem ra anh chẳng còn quan tâm nữa. Tuy vậy tôi cũng muốn đặt ra thảm chủ đề những thúc đẩy cáu giận của anh. Anh nói cho tôi nghe là cơn giận của anh đã được đặt dưới một sự kiểm soát hoàn hảo.

Nhưng tôi không tin và một ngày kia quyết định thử thách anh xem. Tôi nói với anh về những sự bất trung của vợ anh và về cuộc ly dị nặng nề và sĩ nhục của anh. Anh vẫn thản nhiên. Tôi đi xa hơn bằng cách nhắc anh làm sao anh đã bị cắm sừng mà chẳng hay biết trong khi mọi người chung quanh anh đều tường tận hết vụ việc ấy. Khi nhìn thấy mặt anh đỏ rần lên và các nếp nhăn hằn trên trán, tôi hỏi anh cái gì đã xảy ra trong anh, nhưng anh bắt đầu chối là chẳng cảm nhận chút cảm xúc nào cả. Tôi nhấn mạnh mời anh mô tả các cảm giác anh cảm thấy trong thân xác anh. Anh thú nhận với tôi rằng có một thứ bướu lớn trong dạ dày. Tôi bảo anh cứ liên lạc với cái bướu đó, nhưng anh dứt khoát từ chối, lấy lý do là anh không muốn nổi khùng thấy làm điều đó là xấu.

Nhắc anh về khả năng đạo đức và nghề nghiệp linh mục - tâm lý gia của tôi, tôi xin anh hãy tín nhiệm ở tôi. Ðược bảo đảm, anh tập trung vào cái bướu đó và bắt đầu mô tả cho tôi cơn giận đang nổi lên và tất cả những gì anh muốn nói và muốn làm. Bấy giờ tôi gợi ý anh nói với cơn giận của anh và nói với nó là anh muốn đón tiếp nó, chấp nhận nó và cám ơn nó vì đã có mặt ở đó để che chở cho anh. Anh lại từ chối lần thứ hai. Tôi lại phải mời anh lần nữa tín nhiệm vào tôi, để cuối cùng anh thuận tình ngõ lời với cơn giận của anh, tiếp đón nó như một người bạn thân muốn bảo vệ anh, rồi anh sẽ tế nhị tuyên bố rằng ngay trong tức thời trước mắt thì anh không cần đến những sự giúp đỡ của bạn ấy. Thật là điều kỳ diệu, cái bướu trong dạ dày của anh bắt đầu tan biến và tỏa nhiệt an lành trong khắp thân thể của anh.

Khách hàng của tôi vừa hòa giải với phần tức giận của con người mình, phần mà anh đã phải chiến đấu từ nhiều năm nay không thành công. André vừa ra khỏi những diễn tiến luân phiên của trấn áp và bùng nổ đã cản trở sự tiến hóa trưởng thành xúc cảm của anh trong suốt nhiều năm. Ít bị vướng víu trong cơn giận của mình, bây giờ anh có thể nghĩ đến việc đạt được sự tha thứ đích thực.

Ít tháng sau, tôi muốn kiểm chứng xem các hậu quả của sự hòa giải của anh với cơn giận của anh. Anh thuật lại cho tôi sự kiện sau đây : "Một hôm đang dạy học, tôi cố làm cho các sinh viên của tôi nghe mình. Khó nhọc vất đi. Chúng nói to hơn tôi. Tôi cảm thấy cái bướu lập tức hình thành trong dạ dày. Tôi đang muốn đâm cho chúng một đòn tức giận khủng khiếp của mình. Bấy giờ tôi nói với chúng bằng một giọng cương quyết "Chú ý ! Lúc nầy tôi sẽ cho một cô bạn đứng lên làm cho các anh chị im lặng. Ðó là cơn tức giận của tôi. Và các anh chị biết là nó không đẹp khi nó nổ ra. Nếu các anh chị im lặng thì nó sẽ dịu đi". Quá ngạc nhiên về cách thức mới áp đặt kỹ luật của tôi, các sinh viên của tôi im lặng. Cha Jean, tôi có thể bảo đảm với cha rằng tôi đã không tỏ ra tức giận nào từ bốn tháng nay. Tôi đã học nhận biết nó và kính trọng nó như một người bạn gái".

Như chúng ta nhận định khi đọc câu chuyện nầy, không có những xúc cảm "tiêu cực" hoặc đáng khinh bỉ nào tự nó cả. Các cảm xúc tạo nên những nghị lực nhân bản tích cực. Chúng đòi được nhìn nhận, chế ngự và được sử dụng cách có ý thức. Tuy nhiên, khi chúng là đối tượng của sợ hãi và bị dồn nén trong vô thức, chúng sẽ tạo nên các trung tâm xúc cảm và hình ảnh gần như độc lập và lúc đó mang tên các "phức cảm". Theo khoa tâm lý của Jung, chất liệu bị dồn nén làm thành "bóng tối" của nhân cách. Chất liệu nầy trở thành hổn loạn bừa bãi và không thể kiểm soát được bao lâu con người từ chối ý thức và cố xua đuổi nó khỏi ý thức. Nếu người đó quyết định "ăn" dần dần cái bóng của mình, như trường hợp André hòa giải với cơn giận của mình, thì cái xem ra là một khuyết tật hủy hoại sẽ biến đổi thành nguồn nghị lực và triển nở cho cá nhân và xã hội.

4. Những lý lẽ để tách mình khỏi nỗi oán giận :

Một số người bị tổn thương từ chối bỏ rơi nỗi oán giận của mình. Quả thực, họ sợ rằng nếu họ chấp nhận biến đổi nỗi oán giận và hận thù của họ thì họ tự phản bội chính mình. Họ nghĩ một cách sai lầm rằng giữ vững nỗi oán giận của họ sẽ cứu vãn được nhân phẩm của họ và tránh cho họ khỏi chịu những sĩ nhục khác về phía kẻ gây nên xúc phạm. Dĩ nhiên, ý hướng làm cho người ta tôn trọng nhân phẩm của mình gợi lên những tình cảm cao thượng, nhưng không phải là ít chắc chắn rằng nuôi lớn sự oán giận của mình dẫn đến việc làm suy thoái bản thân và đến các chu kỳ báo thù vô ích, như chúng ta đã nói trên kia. Vậy có những phương thế khác để duy trì nhân phẩm và tự trọng, mà không để cho mình bị gậm nhấm và hủy diệt bởi chính ác tâm của mình.

Một số người khác cho rằng nỗi oán giận và hận thù có thể dùng để tác động họ chứng tỏ cho chính mình và các kẻ khác về giá trị và khả năng của họ. Ðó là điều mà một bà kia chủ trương. Bà khẳng định rằng chính là nhờ thù hận và hiềm oán của bà mà bà đã thực hiện và thành công trong việc học của bà. Bà muốn chứng tỏ cho chồng cũ của bà khả năng độc lập về tài chánh của bà. Sau khi khen bà về tính kiên trì và những thành công trong học tập, tôi hỏi bà khi nào thì bà thôi hành động theo chồng cũ của bà để đầu tư tốt hơn năng lực của bà theo chính bà và theo cái bà muốn làm về cuộc đời của bà. Sự oán giận, giống như một chiếc hỏa tiển, có thể tạo nên được lúc đầu một sức đẩy mạnh mẻ, nhưng chỉ ngắn ngủi thôi.

5. Ðể tôn trọng cơn giận và lòng muốn báo thu :

Ðây là một tập luyện khác giúp đi vào liên lạc với cơn giận ngõ hầu đón tiếp nó và học được điều nó có thể làm cho mình. Có thể trong khi tập luyện người ta đi vào liên lạc với một cảm xúc khác, chứ không phải cơn giận. Ðừng ngừng lại việc luyện tập. Ðàng sau cơn tức giận thường che giấu một đau khổ vô thức và nhiều xấu hổ.

Bạn giữ một tư thế thoải mái. Tránh xa những gì có thể làm bạn chia trí suốt trong hai mươi phút tới.

Ðể thời gian đi vào trong chính mình. Nhớ lại hoàn cảnh mà bạn đã bị tổn thương, tập trung chú ý trên thân xác của bạn. Không phê phán, hãy chấp nhận các căng thẳng, các cứng cõi, các "bướu" và ngay cả các sự khó chịu thể lý.

Khi bạn đã phát hiện một phản ứng quan trọng của cơ thể, bạn hãy chú ý đến nó với kính trọng và tế nhị, không tìm cách làm thay đổi, giải thích hay loại bỏ nó.

Tăng cường liên lạc với cảm giác đó của thân thể bạn, bằng cách hít thở trong nó dường như đó là một lá phổi mà bạn muốn làm đầy khí, rồi lại làm trống đi.

Luôn luôn tập trung vào phản ứng cơ thể của bạn, bạn làm ra vẻ như bạn vừa mới làm cho nó gồng lên và bạn thổi nó bay ra ngoài khỏi hai bàn tay bạn mở ra đưa cao ngang mặt.

Bạn càng thổi khí trong tay bạn, bạn càng bắt đầu quan sát hình thù của sức căng cơ thể bị thổi ra ngoài. Nhiều người thấy xuất hiện một đám mây mang nhiều hình thức và màu sắc. Rồi, ngay giữa đám mây, họ phân biệt được một hình ảnh thật đặc biệt.

Bạn hãy dùng thời gian cần thiết để biện phân rõ ý nghĩa của sức căng vừa lộ diện trong hình ảnh. Bạn hãy mô tả sức căng trong hình ảnh đó bằng một cái tên hay một thành ngữ.

Dù hình thức ấy tượng trưng cho bạn một xúc cảm tức giận hoặc một xúc cảm khác, bạn hãy hỏi nó : "Mầy muốn làm gì cho tao ? Mầy muốn bảo vệ tao khỏi cái gì ? Mầy muốn giúp đỡ tao thế nào ?" Bạn hãy đợi câu trả lời của nó. Rồi, bạn hãy nói lại với nó câu trả lời của nó bằng ngôn từ của chính bạn để tỏ cho nó là bạn đã hiểu. Bạn hãy tiếp tục đối thoại với cái phần nầy của bạn, bằng cách đối xử với nó như một người bạn".

Tới lúc nầy, bạn hãy nghĩ tới việc cầu khẩn Chúa và giao phó cho Ngài vết thương của bạn hoặc cơn giận được đại diện trong biểu tượng. Bạn hãy xin Chúa giúp đỡ bạn biến nó thành nguồn hiểu biết, tăng trưởng và khôn ngoan cá nhân.

Khi bạn thỏa mãn về sự biến đổi của trạng thái xúc cảm đúng như nó được diễn tả trong biểu tượng của bạn, bạn hãy lấy lại trong tay bạn cái phần đã được biến đổi như thế của bạn và bắt đầu truyền nó vào bên trong bạn bằng cách phân phối nó ra trong tất cả các phần của cơ thể bạn.

Bây giờ bạn hãy kiểm chứng xem cái phần khó chịu thể lý lúc ban đầu của bạn đã được thay đổi đến mức nào.

Nếu bạn thích, bạn hãy biểu dương sự sáp nhập mới nầy của chính bạn bằng một lời nguyện, một bài hát, một điệu nhảy hoặc giản dị là ghi vào nhật ký kinh nghiệm ấy của bạn.


Giai đoạn sáu : Tha thứ cho chính mình.

Ghét linh hồn mình, chính là không thể tha thứ cho chính mình, là không hiện hữu, mà cũng chẳng thể là mình.

Bernanos

Tha thứ cho chính mình xuất hiện cho tôi như điểm quay vòng của tiến trình tha thứ. Những sự tha thứ cho Thiên Chúa và cho tha nhân trước hết phải đi qua sự tha thứ mà bạn trao ban cho bạn. Kẻ muốn tha thứ nhưng không tha thứ cho chính mình giống như một người bơi lội mà sóng biển cứ kéo ra khơi, mãi xa bờ. Mọi nổ lực mà bạn sử dụng để tha thứ cho kẻ khác sẽ bị mất tác dụng vì sự hận thù mà bạn mang lại cho chính bạn. Ngay cả trường hợp người ta không chịu một xúc phạm hay chửi rủa đặc biệt nào, sự tha thứ cho chính mình vẫn là một trong những thực hành lớn có tính cách tâm lý và thiêng liêng để được chữa lành. Một nhà phân tâm đã nói : "Cái cốt yếu của việc trị liệu, chính là bạn học tha thứ cho chính bạn".

Khi bạn bị tổn thương sâu sắc, bạn không còn có thể do dự tha thứ cho chính mình nữa. Bằng mọi cách, bạn đã bị dồn vào đó. Một cú cay đắng đã phải nhận chịu, nhất là khi nó lại đến từ một người thân yêu, sẽ phá tan thành mãnh sự hòa điệu nội tâm của bạn. Lúc ấy, những sức mạnh đối địch sẽ được phát động lên trong bạn. Chỉ có sự tha thứ khiêm tốn mà bạn trao ban cho mình sẽ thành công trong việc tái lập trong bạn sự bình an và hòa điệu, đồng thời mở lòng bạn ra với sự có thể tha thứ cho người khác được thôi.

1. Ý thức về sự thù hận chính mình :

Sự hòa điệu nội tâm vẫn luôn luôn ở trạng thái quân bình mong manh và không bền. Một nỗi thất vọng, một sự bất công hoặc một bất hạnh bất ngờ xảy ra đủ đánh thức dậy trong mình những tiếng nói bất hòa xâm lấn hầu như cả không gian của thế giới nội tâm, đến đổi chẳng còn chỗ cho tha thứ nữa. Bị vướng trở nơi chính mình như thế, người ta trở nên không thể tha thứ cho kẻ khác được. Ðó là điều tôi đã nhận thấy sau một tuần chữa trị cho những người phân ly vợ chồng. Tôi đã xin các tham dự viên mô tả những chướng ngại ngăn trở họ tha thứ. Trở ngại chính mà họ thuật lại là do sự chỉ trích khắt khe về chính mình và sự bất lực không thể tha thứ cho chính mình. Ðây là những trích dẫn từ các chứng từ của họ :

Tôi khó tha thứ cho chính mình, bởi vì tôi đã làm gia đình tôi tan vở, đã không suy nghĩ trước khi ra đi, đã không chứng tỏ có đủ tâm hồn cao thượng để chịu đựng và dung thứ những xung đột vợ chồng, vì…

Lẽ đáng ra tôi phải thấy trước các vấn đề khi tôi cưới lấy một người đàn ông có một sự dòn mỏng tâm lý như vậy …

Tôi hận mình vì đã quá ngây thơ và đã đặt tất cả lòng tín nhiệm vào nàng …

Tôi không tha thứ cho mình được vì đã nghĩ trước khi kết hôn rằng tôi có thể làm thay đổi được người chồng rượu chè của mình …

Tôi phẩn nộ với chính mình vì đã tin vào những lời dối trá của nàng và đã kéo dài quá lâu những bất trung và những xài phí quá đáng của nàng…

Con người mà tôi cảm thấy khó nhất để tha thứ là chính tôi, một kẻ nhu nhược, vì đã ngoan cố sống trong một cuộc hôn nhân không có tương lai, vì đã quá duy vật chất…

Tôi có sự khó tha thứ cho mình vì đã không sẵn sàng tha thứ…

Những lời "tự thú" nầy chứng tỏ người ta hối hận đến độ nào khi gặp phải thất vọng lớn. Họ không tha thứ cho mình vì đã đấn mình vào những bất hạnh như thế, và xúc phạm mà họ phải chịu đựng lại phơi bày ra ánh sáng những suy sút và yếu đuối của họ. Còn hơn là bị sĩ nhục, họ cảm thấy tràn ngập xấu hổ và có lỗi, hòa lẫn với chuỗi dài những nhục nhã của quá khứ.

2. Nguồn phát sinh sự coi thường chính mình :

Người ta có thể biện phân ba nguồn chính của sự coi thường chính mình : trước hết là sự thất vọng vì đã không đạt được đỉnh cao lý tưởng mơ ước ; tiếp đến là những sứ điệp tiêu cực nhận được từ cha mẹ và những người có ý nghĩa đối với mình ; sau cùng là những tấn công của bóng tối cá nhân được hình thành trong phần lớn tiềm năng nhân bản và thiêng liêng bị dồn nén, và do đó không phát triển được.

Nguồn thù địch đầu tiên với chính mình đến từ sự kiếm tìm hạnh phúc và một sự hoàn hảo tuyệt đối, giống như các thần thánh hay tiên nữ, hoặc ít nhất như hoàng tử và công chúa. Cái ước vọng vô biên nầy luôn hành động trong mình, mặc dầu những giới hạn và bất lực của mình vốn là thọ tạo. Dần dần, ta phải học chấp nhận sự hữu hạn của mình và chịu đựng tình cảm có lỗi không hoàn hảo của mình. Việc chấp nhận cụ thể trạng thái tạo vật của mình luôn luôn được xem như một bước lớn trên con đường sức khoẻ tâm lý và thiêng liêng. Người ta gọi đó là "đức khiêm nhường". Nhân đức nầy giúp nhận lấy đúng kích thước của mình. Nó cho phép tha thứ cho mình không những vì bị giới hạn và sai lầm, mà còn vì tưởng rằng mình là toàn năng, toàn tri, không thể chê trách được và hoàn hảo về mọi phương diện.

Nguồn thứ hai buộc tội và chê ghét chính mình đến từ những sứ điệp tiêu cực về phía những nhân vật mà người ta coi là quan trọng trong cuộc đời mình. Những sứ điệp nầy thuộc trật tự không lời hay bằng lời. Trước hết, chúng ta hãy xem những sứ điệp tiêu cực không lời. Ðứa trẻ cảm nhận trong thân thể nó cả một lô những sứ điệp không lời, như những cử chỉ thiếu nhẫn nại và bạo lực của cha mẹ. Sự mệt mỏi, suy sút, từ chối vô thức của đứa trẻ, thiếu sót các chăm sóc vệ sinh, sự xâm nhập vào tính sâu kín trẻ con của nó, những hành động bạo lực, những lạm dụng tình dục, trẻ con ghi hết tất cả vào trong hệ thống thần kinh và ký ức của nó.

Về sau, sự coi thường và cả sự thù hận chính mình sẽ lớn lên theo sau những sứ điệp bằng lời có nghĩa xấu, chẳng hạn những lời nói làm mếch lòng, những phê phán ác ý, những so sánh, những chế nhạo, những biệt hiệu, v.v… Sự tích lủy các sứ điệp bất lợi tạo nên nơi con người một mặc cảm tự ti, chẳng hạn nó không ngừng tự so sánh mình với một lý tưởng không thể được vì lẫn lộn và được định nghĩa sai. Thất vọng về mình và luôn luôn thua kém, người đó càng lún sâu trong phiền muộn và những trạng thái trầm uất định kỳ, có khi bị xô đẩy tới chỗ tự tử là hình thức cao nhất của sự từ chối tha thứ cho chính mình.

Nguồn thứ ba của tình cảm có lỗi và khó chịu đối với chính mình phát sinh do "bóng tối" nhân cách. Bóng tối bao gồm tất cả mọi phương diện của mình mà người ta đã không thể hay không biết phát triển, vì nghĩ rằng chúng không thể được môi trường xã hội chấp nhận. Bị hoảng sợ trước những phần của mình mà mình cho rằng không thể đón nhận được, người ta chôn giấu chúng trong vô thức. Ðó là cái mà người ta thường làm, chẳng hạn với sự bạo lực mà người ta sợ phải đương đầu. Bạo lực nầy nổi lên ngay lúc bị xúc phạm và đòi trả chỗ cho nó. Nếu lúc ấy mà nó không được đón nhận và chấp nhận, thì sẽ có nguy hiểm là nó quay lại chống người không biết đến nó. Thay vì là liên minh, nó sẽ quay sang hàng ngủ kẻ thù để tấn công dưới hình thức tự buộc tội mình một cách bệnh hoạn.

3. Sự đồng nhất hóa với kẻ tấn công :

Theo sau một xúc phạm, một lăng nhục hay một tấn công cá nhân, một hiện tượng lạ phát sinh mà trong khoa tâm lý người ta gọi là "sự đồng nhất hóa với kẻ tấn công". Một cách nào đó, thì đó là một phương thế để sống còn. Bởi đó, người ta nhằm thoát khỏi trạng thái nạn nhân bằng cách thay thế cho chính kẻ gây nên xúc phạm. Mặc cho mình sức mạnh của kẻ tấn công như thế, nạn nhân có ảo tưởng bảo vệ được một phẩm giá nào đó hoặc một vẻ bề ngoài tự lập. Nhưng vấn đề là người ta tiếp tục là kẻ bách hại chính mình, ngay cả khi sự xúc phạm đã biến mất. Hầu hết các trường phái tâm lý đều nhìn nhận sự hiện hữu của một cơ chế tự vệ mà họ chỉ định bằng những danh từ khác nhau : siêu ngã, tâm thần tội lỗi, mặc cảm tự tôn…

Bấy giờ cái phần nầy của hữu thể tự tỏ ra bạo ngược và nhẫn tâm đối với chính mình. Nó hiển hiện ra trong một số phát biểu phản bội lại một yêu sách quá mức đối với mình, ngay cả một sự không bằng lòng triền miên. Ðây là vài ví dụ của cuộc đối thoại nội tâm đó : "Tôi cần phải…", "tôi phải…", "lẽ đáng ra tôi phải…", "lẽ đáng ra tôi cần phải…". Ðôi khi tính chua chát nầy được bộc lộ bằng những bí danh làm cho hèn hạ và những lời chửi bới mà người ta nói cho chính mình.

Một cuộc đối thoại như thế tạo nên một tính đối cực mà hai phần của chính mình đi vào xung đột. Phần nầy có khuynh hướng hà hiếp phần kia bằng những yêu sách không thể thỏa mãn được, trong khi phần kia chịu đựng đủ thứ cáo buộc và chịu sụt giá trước những thành tích nghèo nàn của mình và những lần khác thì lại nổi loạn. Từ cuộc chiến thường khi vô thức nầy phát sinh ra những tình cảm có lỗi, xao xuyến miên man và những trạng thái trầm uất.

Như vậy, mỗi khi là nạn nhân của một xúc phạm hay một bạo lực thì một phần của chính mình chịu để bị hư hỏng bởi hành động đê tiện của kẻ tấn công và tự làm cho mình thành đồng lõa với kẻ xúc phạm đến chính mình bằng cách tự bách hại chính mình. Ðiều dữ mà người ta làm cho nó thúc đẩy nó nhai lại những lời nói gây thương tổn, xem lại những hình ảnh của biến cố đau thương và làm linh hoạt trở lại những xúc cảm đã sống khi bị xúc phạm. Sự dữ thâm nhập vào mình và người bị hành hạ có nguy cơ lớn quay lại chống chính mình và chống lại các kẻ khác vì những lạm dụng mà mình đã phải gánh chịu.

Thường xảy ra trong trị liệu là người ta tự cáo buộc mình bằng chính những lời nói của kẻ tấn công họ. Một nữ khách hàng lặp đi lặp lại không ngừng "Tôi là đồ súc sinh !" Tôi xin nàng tự nói lại cho mình lời nguyền rủa ấy trong khi lắng nghe giọng điệu tiếng nói của mình để khám phá ra tiếng nói coi nàng là súc sinh đó thuộc về ai. Hết sức ngạc nhiên, nàng nhận ra trong tiếng nói của nàng giọng nói của chồng nàng, là người đã đối xử với nàng như thế khi rời bỏ nàng.

Do đó một trong những điều kiện đầu tiên để tha thứ cho chính mình hệ tại việc bắt đầu tha thứ cho chính mình vì đã đồng nhất hóa với kẻ xúc phạm mình.

4. Việc chấp nhận chính mình và sự tha thứ :

Cái giá mà người ta phải trả vì thiếu chấp nhận và quí mến chính mình là rất cao. Trong L'homme à la recherche de son âme, đại tâm lý gia Carl Jung chủ trương rằng chứng loạn thần kinh là nguồn gốc sự thiếu chấp nhận và quí mến chính mình : "Chứng loạn thần kinh là một trạng thái chiến tranh với chính mình. Tất cả những gì nhấn mạnh sự chia rẻ vốn ở trong mình làm cho tình trạng của bệnh nhân thêm trầm trọng hơn, và tất cả những gì phá tan sự chia rẻ nầy góp phần chữa lành bệnh nhân".

Cũng chính tác giả nầy nói tiếp khi đề cập đến tình yêu chính mình : "Sự chấp nhận chính mình là chính yếu tính của vấn đề luân lý và là tổng hợp của mọi viển ảnh của cuộc sống. Nếu tôi cho những người đói ăn, nếu tôi tha thứ một xúc phạm, hoặc nếu tôi yêu kẻ thù của tôi nhân danh Chúa Kitô, thì chắc chắn điều đó tạo nên những nhân đức lớn. Ðiều gì tôi làm cho kẻ bé mọn nhất trong các anh em của tôi là tôi làm cho chính Chúa Kitô. Nhưng tôi sẽ làm gì khi tôi khám phá ra rằng người bé nhỏ nhất trong mọi người, người nghèo nhất trong mọi kẻ ăn xin, kẻ tồi tệ nhất trong những kẻ đã xúc phạm đến tôi được tìm thấy ở trong chính tôi, rằng chính tôi là kẻ cần ăn xin sự dễ thương của tôi, rằng chính tôi là kẻ thù đang van xin tình thương của tôi ?"

Cần phải thú nhận rằng tất cả chúng ta đều phải tha thứ cho mình, vì chúng ta đã tưởng mình toàn năng như thần thánh, đã chen vào những thương tổn của tha nhân, đã để mình bị chê bai bởi những sứ điệp tiêu cực của cha mẹ và những người đào tạo chúng ta, đã cho phép cái bóng của chúng ta quay lại chống chúng ta, và cuối cùng, đã đồng lỏa với kẻ xúc phạm chúng ta đến độ tiếp tục mãi những cử chỉ gây xúc phạm trong chúng ta.

Trước những thách đố lớn lao như vậy của việc tha thứ cho chính mình, không có cái gì khác ngoài sự ngã lòng, thất vọng sao ? Dĩ nhiên là có. Theo vẻ bề ngoài như thực, chúng ta sẽ vấp ngã, nếu chúng ta chỉ tin vào sáng kiến và sức mạnh của chúng ta thôi. Bernanos không nghĩ gì khác hơn : "Một người bị bó buộc nhìn ra ngoài lòng thương xót dịu dàng của Thiên Chúa chỉ rơi vào sự thù hận và khinh miệt chính mình thôi".

Dù gì đi nữa, tôi hy vọng rằng mọi người đã hiểu tầm quan trọng sinh tử của việc tha thứ cho chính mình. Sự tha thứ cho chính mình nầy là điều kiện thành công cho các tha thứ khác : "Nếu một người nào độc ác đối với chính y thì người ta làm sao mà có thể chờ đợi ở y lòng cảm thông với người khác được ?"

5. Ðể giúp tha thứ cho chính mình :

a) Nhờ thực tập đầu tiên nầy, chúng ta sẽ học đối xử dịu dàng hơn với mình. Vấn đề là phải ý thức về tất cả mọi lần mà chúng ta tự cáo buộc mình và cho mình những mệnh lệnh với các thành ngữ như tôi cần phải, tôi phải, có lẽ tôi phải, tôi bị bó buộc phải … :

Bạn bắt đầu liệt kê những phát biểu của ngôn ngữ thường ngày của bạn, chẳng hạn tôi cần phải tha thứ cho bạn tôi. Rồi trong khi bạn ghi vào danh mục các "cần phải" và những công thức truyền khiến khác, bạn để thời giờ dừng lại ở mỗi thứ và cảm nhận cái gì xảy đến trong mình bạn. Chắc chắn bạn sẽ hiểu tất cả những cưỡng bức mà bạn tự áp đặt cho mình đó là nguyên nhân gây nên ứng suất như thế nào.

Một khi bản liệt kê của bạn được chấm dứt, bạn thay thế những chữ cần phải, tôi phải, lẽ ra tôi phải, lẽ ra tôi nên bằng tôi chọn…, tôi tự do để… Bạn dừng lại để thưởng thức trạng thái mới của tâm hồn được tạo nên nhờ sự thay thế đó.

b) Tập luyện nầy nhằm làm lại sự hòa điệu nội tâm đã bị phá hủy do sự va chạm của xúc phạm :

Bạn ngồi một cách thoải mái, lưng thẳng đứng, loại bỏ mọi sự chia trí trong vòng hai mươi phút. Dành vài chốc lát để đi vào nội tâm bạn.

Trước hết, bạn ý thức về hai phần của bạn : phần cáo buộc bạn và phần bị cáo buộc.

Bạn đặt hai tay lên đầu gối và tự hỏi tay nào trong hai tay có thể đại diện cho phần cáo buộc. Bạn tin chắc tay kia có khả năng đóng vai phần bị cáo buộc. Nơi nhiều người, thường chính bàn tay thuận đóng vai kẻ cáo buộc và tay kia đóng người bị cáo buộc.

Một khi đã xác định rõ hai phần rồi, đưa tay cáo buộc lên một bên quá đầu, gấp khuỷu tay lại để bạn khỏi quá mệt. Nhìn vào bàn tay dường như đó là một màn ảnh mà trên đó bạn thấy vẽ ra phần cáo buộc của bạn. Bạn sẽ vẽ nó ra như thế nào ?… Những khuôn mặt nào xem ra đang ẩn núp đàng sau cái phần đó của bạn, mà phần cáo buộc nầy tỏ ra quá yêu sách, bạo ngược và bắt lỗi ? … Nghe một hoặc nhiều giọng nói với bạn những lời khiển trách…

Bây giờ, bạn đặt các ngón tay lên vai để cho cánh tay của bạn được nghỉ ngơi.

Ðưa bàn tay bên kia lên quá đầu một chút và hơi chếch đàng sau. Bạn nhìn phần lần nầy bị cáo buộc của bạn. Nó là phần nhạy cảm, dịu dàng và dễ bị tổn thương, có khuynh hướng dễ bị suy sút tinh thần vì những lời khiển trách. Bạn sẽ mô tả nó như thế nào ? … Nó bao nhiêu tuổi ? … Bạn ngắm nhìn nó hiển hiện ra suốt trong nhiều thời kỳ khác nhau của đời sống bạn…

Bạn đặt các ngón tay lên vai để cánh tay được nghỉ ngơi.

Bây giờ trở lại với phần cáo buộc. Ðưa bàn tay lên quá đầu. Hai mắt lại chăm chú nhìn phần cáo buộc của bạn, bạn tự đặt ra cho mình những câu hỏi sau đây : Tôi có tán dương cái phần nầy của tôi không, dù nó tỏ ra quá yêu sách đối với tôi và thường năng cải lộn với tôi như thế ?… Ý hướng tích cực nào mà nó hành động với tôi như vậy ? … Cái gì sẽ xảy ra cho tôi nếu tôi thiếu mất nó ? … Dần dần bạn khám phá ra ý hướng tích cực đang tác động nó. Ngay cả khi bạn không luôn luôn tán thành những cách thức nó muốn giúp đỡ bạn, bạn ý thức rằng nó muốn điều tốt cho bạn.

Bạn đặt các ngón tay vên vai để cánh tay được nghỉ ngơi. Bây giờ sang bàn tay kia. Ðưa nó lên quá đầu một chút và hơi nghiêng về đàng sau. Tự đặt cho bạn những câu hỏi : Tôi tán dương cái gì nhất trong nó, dù tính rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương của nó ?… Ý hướng tích cực nào nó có trên tôi?… Tôi sẽ làm gì nếu không có nó ? … Dần dần, bạn ý thức về tất cả tầm quan trọng của nó đối với bạn, ngay cả khi bạn không luôn luôn sử dụng các phương tiện nó dùng để làm cho nó được yêu thương.

Cứ để bàn tay bạn nghỉ ngơi trên vai bạn. Trở lại với bàn tay kia bằng cách đưa nó lên quá đầu, về một bên và hơi nghiêng về đàng sau. Bạn xin lỗi nó về mọi lần bạn đã không tán dương nó hoặc bạn đã muốn tống khứ nó đi.

Sau khi nhận sự tha thứ của nó, bạn nói với nó rằng bạn tha thứ cho nó mỗi lần nó đã quá cứng cỏi hoặc quá vụng về đối với bạn. Bạn xin nó tìm các phương thế khác nhân bản hơn và thích hợp hơn để thực hiện những thành tích mà nó chờ đợi ở bạn.

Bạn để bàn tay và cánh tay nghỉ ngơi, rồi lại nói với phần dịu dàng và nhạy cảm của bạn. Bạn xin lỗi nó về những lần bạn xét đoán nó là quá nhạy cảm và dễ bị tổn thương, và những lần bạn đã muốn không thèm biết đến nó hoặc bạn muốn tống cổ nó đi.

Sau khi nhận được sự tha thứ của nó, bạn tha thứ cho nó về tất cả những đau khổ mà nó đã gây nên cho bạn. Bạn xin nó tìm kiếm các phương tiện khác hiệu quả hơn để bạn hoàn tất những gì nó muốn ở nơi bạn.

Bây giờ, bạn giơ hai tay ra trước mặt, cao quá đầu và cách nhau khoảng một mét. Bạn để ít khoảnh khắc ngắm nhìn hai phần của bạn mà chúng tượng trưng và tất cả những gì mỗi phần cống hiến cho bạn về sự phong phú, phẩm chất và tài nguyên.

Khi bạn cảm thấy sẵn sàng, bạn cho hai tay xáp lại gần nhau theo nhịp độ riêng của bạn. Bạn tiếp tục chiêm ngắm sự đồng nhất riêng với mỗi bên của cả hai phần. Khi chúng đụng vào nhau, bạn đan các ngón tay vào nhau và đưa hai bàn tay đan nhau đặt trên bụng bạn. Rồi bạn đi vào trong mình (nhập định) một cách sâu xa.

Không cố gắng, ngay cả không tìm cách giải thích những gì xảy đến trong bạn, hoặc thử đoán biết những gì xảy đến với bạn, bạn để cho hai phần của bạn tiếp tục gặp nhau để chúng học nhận biết nhau hơn, sáp nhập với nhau hơn, cộng tác với nhau hơn và kính trọng lẫn nhau hơn.

Như vậy là tốt. Bây giờ, bạn đi vào nội tâm mình cách còn sâu xa hơn nữa. Bạn phó mình cho sự khôn ngoan vô thức đang hoạt động trong bạn (ở đây, bạn có thể khẩn cầu nguồn linh hứng thiêng liêng của bạn). Bạn xin Chúa khai mở sự hòa điệu hai phần của bạn, ngõ hầu chúng có thể sống trong bình an, thanh lặng va trong suốt.

Bạn thưởng thức sự thanh lặng, bình an, và hiệp nhất nội tâm nầy. Ðang khi ở lại trong trạng thái thư giản nầy, bạn tưởng tượng nhìn thấy đôi mắt của người đã làm tổn thương bạn và trong ít giây, bạn ý thức tất cả những gì bạn muốn dạy dổ y. Bây giờ, bạn để đôi mắt của y ra đi. Rồi bạn trở lại thưởng thức sự bình an và hiệp nhất sâu xa mà bạn cảm nhận trong lòng. Hai phần của bạn sẽ tiếp tục hòa giải với nhau và sáp nhập với nhau trong những ngày tới, những tuần tới, những tháng tới.

Bạn tìm trong nhà một vật gì tượng trưng cho trạng thái thanh lặng, vui tươi và trong sáng mà bạn hiện đang sống. Khi bạn nhìn ngắm nó, vật biểu tượng ấy sẽ làm sống dậy trong bạn cái kinh nghiệm hiện tại về sự thanh lặng, bình an và vui tươi.

Rồi, tùy theo nhịp điệu riêng của bạn, bạn để mình trở lại với thế giới bên ngoài. Bạn đếm từ một cho đến mười để giúp bạn bắt liên lạc lại với những tiếng động, ánh sáng và màu sắc bao quanh bạn.

Cuộc luyện tập nầy tạo nên cho bạn một cảm giác lớn về bình an và hòa điệu nội tâm. Bạn có thể làm lại tập luyện nầy nhiều ngày liên tiếp. Sự hòa điệu mới mà bạn sẽ thiết lập với chính bạn sẽ giúp bạn dễ dàng trong nhiệm vụ trao ban cho người khác sự tha thứ của bạn.

c) Cuộc luyện tập trên đây nhằm thiết lập lại hòa điệu nội tâm. Cuộc tập luyện nầy sẽ giúp thực nghiệm sự tha thứ cho chính mình :

Dùng thời gian bạn muốn để đi vào trong bạn. Làm mới lại ý hướng của bạn là để cảm nhận bạn được giải thoát khỏi mọi sự coi thường và mọi hận thù đối với bạn. Bạn dọn mình để đón nhận bạn với tình yêu và cảm thông.

Bạn cầu xin Chúa đồng hành với bạn trong tiến trình tha thứ cho chính bạn, đồng thời đổ đầy tâm hồn bạn sức mạnh và tình yêu.

Ðã đến lúc để rơi rụng xuống mọi tình cảm bạo lực, coi thường và tức giận đối với bạn. Hãy để biến mất đi tất cả mọi tình cảm phá hoại.

Bạn loại trừ mọi cám dỗ hạ thấp bạn, tranh chấp, so sánh, nghĩ là bạn hơn hay thua kẻ khác.

Một lần cho mọi lần, bạn cho phép bạn được là chính bạn.

Thật nặng nề biết bao khi biết rằng bạn bị vất ném ra khỏi bạn và sống bên lề chính con tim của bạn.

Từ từ, bạn mời gọi con tim bạn đón nhận và yêu thương bạn trở lại.

Hết sức dịu dàng, bạn lắng nghe con tim bạn nói với phần không được yêu thương của bạn : "Ta tha thứ cho mầy những yếu đuối, nhân tính bị tổn thương, những ước vọng quá mức và tất cả mọi lỗi lầm của mầy. Ta tha thứ cho mầy. Ta tha thứ cho mầy".

Bạn để cho con tim bạn nói với bạn : "(Tên bạn) ơi, tôi đón nhận … trong lòng tôi. Tôi muốn dành một chỗ thật lớn ở đó cho … Tôi tha thứ cho … Tôi tha thứ cho … "

Chính như thế. Bạn xóa tan đi mọi phán đoán bất lợi và mọi cay đắng đối với bạn. Bạn để biến mất đi mọi cảm giác cứng cỏi đối với bạn.

Bạn tiếp tục đón nhận mình với tế nhị và yêu thương, dường như bạn cư xử với đứa con đã làm bạn tổn thương. Bạn dành cho mình còn nhiều chỗ hơn trong trái tim và bạn tưởng tượng nhìn thấy tim bạn được bao bọc đầy ánh sáng và hơi ấm.

Có thể bạn bất chợt thấy rằng bạn xét đoán quá bao dung đối với bạn, đến độ bạn cảm thấy bối rối. Bạn đón tiếp những ý nghĩ nghiêm khắc ngăn cản bạn tha thứ cho mình đó. Bạn đón nhận chúng và để cho chúng tan chảy trong hơi ấm nồng nhiệt của trái tim bạn.

Bạn cảm nhận rằng trái tim bạn mềm ra dần dần và trở nên dịu dàng đối với bạn.

Bạn bắt đầu thưởng thức niềm vui tha thứ cho chính bạn và sự sinh hạ của một tự do nội tâm mới. Sự an ủi mà bạn cảm thấy sẽ làm cho bạn hiểu rằng thật là phù phiếm, nếu bạn cứ hận mình lâu dài hơn.

Bạn để cho sự hiệp thông và lòng quí mến, bình an và cảm thông của con tim thấm nhuần tất cả con người bạn.

Bạn thấy cảm giác được giải thoát phát sinh do sự tha thứ cho chính mình giúp bạn tỏ ra cảm thông hơn đối với người khác và sẳn sàng tha thứ cho họ đến mức độ nào.

Cảm thông với chính mình :

Tôi muốn tha thứ cho tôi,

vì đã tìm kiếm vì sao không thể đạt tới được,

vì đã dòn mỏng,

vì đã xấu hổ về đau khổ của mình,

vì đã nhận là có lỗi trong bất hạnh của mình,

vì đã duy trì khao khát một sự hoàn hảo không thể tới được,

vì đã đồng lõa với kẻ bách hại mình,

vì đã tự đặt mình ra ngoài con tim mình,

vì đã nhớ mãi những lời cáo buộc gây tổn thương đến mình,

vì đã không có khả năng tiên liệu mọi sự,

vì đã thù ghét mình không xót thương,

vì đã cảm thấy bất lực để tha thứ cho người khác,

...

Tóm lại, tôi muốn tha thứ cho tôi, vì đã là người.


Giai đoạn bảy : Hiểu kẻ xúc phạm đến mình

Sự tha thứ dẫn tới việc ngưng lại mọi xét đoán về kẻ gây nên xúc phạm và khám phá cái Mình đích thực của y…

Joan Borysenko

Trong một buổi thuyết trình về các giai đoạn tha thứ, một bà bự lắng nghe tôi. Khi tôi đề cập đến giai đoạn hệ tại việc hiểu kẻ gây nên xúc phạm, bà lập tức ngắt ngang tôi : "Tôi nghe cha mãi cho đến lúc nầy, nhưng như thế là quá lắm rồi, tôi không muốn cố gắng hiểu người phối ngẩu cũ của tôi nữa, tôi đã mất quá nhiều thời gian vào cái trò đó". Tôi trả lời bà bốp chát : "Bà không thể nuốt hết tất cả các giai đoạn của tha thứ trong một mạch và trong cùng một buổi tối được. Có lẽ lợi hơn cho bà là trở lại giai đoạn chấp nhận cơn giận của bà". Cũng như nữ thính giả của tôi, nếu bạn cảm thấy bị ách tắc ở một giai đoạn, thì thật là hữu ích khi tự hỏi xem bạn có đốt một giai đoạn nào trước đó không? Do đó điều quan trọng là bạn tôn trọng nhịp điệu tiến triển cá nhân trong tiến trình tha thứ của bạn.

Vậy, nếu vết thương của bạn hãy còn quá mới và được chữa trị không đúng, thì bạn dấn thân vào giai đoạn nầy là vô ích. Giai đoạn nầy giả thiết rằng bạn đã thôi không quá bận tâm đến vết thương của bạn nữa. Bạn đã cảm thấy sẵn sàng ra khỏi bạn để thay đổi quan niệm của bạn về người đã làm thiệt hại cho bạn chưa ?

Có cần thiết phải nhắc lại cho bạn, trước khi đi xa hơn, rằng hiểu kẻ gây nên xúc phạm không có nghĩa là thứ lỗi cho y và càng không phải là thân oan cho y ? Hiểu kẻ gây nên xúc phạm, chính là mang một cái nhìn trong sáng hơn trên y, để nắm bắt mọi kích thước về con người của y và các lý do của lỗi lầm của y.

Ðiều hiển nhiên là bạn không thành công để hiểu hết mọi sự về y và về lối xử sự của y. Nhưng mớ hiểu biết ít ỏi về y mà bạn sẽ đắc thủ được sẽ làm cho sự tha thứ trở nên dễ dàng hơn đối với bạn. Sự tha thứ không còn xuất hiện ra cho bạn như một cử chỉ thiếu suy nghĩ hoặc mù quáng nữa, bởi vì bạn đã tìm được những cái "tại sao" cho lối ứng xử gây xúc phạm của y. Hơn nữa, bạn sẽ sẵn sàng hơn để thay đổi cái hình ảnh mà bạn đã có về y và nổ lực tha thứ nhờ đó càng được nâng đỡ. Ðối nghịch lại những người khuyên bạn cứ nhắm mắt tha thứ, tôi xin mời bạn tha thứ với đôi mắt rộng mở, để thấy rõ và để khám phá nơi kẻ xúc phạm bạn những khía cạnh mà cho tới lúc đó vẫn còn chưa biết đối với bạn.

1. Hiểu kẻ xúc phạm bao hàm việc thôi chê trách nó :

Sự sĩ nhục và đau khổ gây nên do sự xúc phạm ảnh hưởng đến quan niệm ta có về kẻ gây nên xúc phạm và có thể làm sai lạc quan niệm đó. Lúc ấy, người ta đã thấy nơi kẻ gây nên xúc phạm một con người tồi tệ, lừa phỉnh, bạo lực, bất trung, nguy hiểm, đe dọa, thù hận, vô trách nhiệm, v.v… Kỷ niệm ám ảnh của cử chỉ xúc phạm ảnh hưởng đến cái nhìn của người bị xúc phạm đến độ kẻ gây nên xúc phạm thôi không còn là một con người có khả năng tiến hóa, bởi vì y đã bị đánh dấu mãi mãi vì tội phạm của y rồi. Y thường trở thành sự ác tâm và độc dữ đã được nhân cách hóa.

Do đó mà có khuynh hướng để bị cơn phẩn nộ kéo đi và quên những lời Phúc âm : "Con đừng tự đặt mình làm thẩm phán để khỏi bị xét đoán" (Mt.7,1). Trước hết chúng ta ghi nhận thành ngữ "đừng xét đoán" không có nghĩa là "không sử dụng sự phê phán của mình", nhưng đúng hơn là không sử dụng sự phê phán của mình để "kết án" kẻ khác. Tiếp đến, mệnh lệnh Phúc âm nầy không do một bó buộc khô khan và thuần túy luân lý, nhưng nhằm theo đuổi trước hết thiện ích của chính mình. Bởi vì nếu tôi không tránh kết án kẻ khác, thì tôi cũng sẽ không tránh khi đến phiên tôi bị kết án.

Việc đó sẽ xảy ra thế nào ? Trước hết trong khi kết án kẻ khác, tôi gặp nguy cơ xao lãng chính mình trong mức độ mà tôi tập trung quá đáng trên các khuyết điểm của tha nhân. Tiếp đến sự mù quáng về con người tôi sẽ dẫn tôi dự phóng trên kẻ khác chính những lỗi lầm và yếu đuối của tôi. Vả lại, nếu tôi giữ mình không kết án kẻ khác, tôi sẽ có nhiều cơ may hơn để có một cái nhìn khách quan hơn về chính mình, và do đó, có một cái nhìn khách quan hơn về kẻ xúc phạm đến tôi. Phải chăng đó là sứ điệp Chúa Giêsu đã nói dưới một hình thức gợi hình : "Sao con nhìn cái rác trong mắt anh em con, mà cái xà trong mắt con, con lại không lưu ý ?" (Mt.7,3).

Việc kết án kẻ xúc phạm tôi một cách nào đó trở lại kết án chính tôi. Một phần lớn của cái mà tôi bài xích nơi người khác thường là một phần của chính tôi mà tôi từ chối nhận biết nơi mình. Lúc ấy kẻ xúc phạm tôi trở thành cái màn hình trên đó tôi phóng chiếu những khía cạnh của chính tôi mà tôi rất lấy làm nặng nề khi nhìn thấy. Con người bị kết án phản ánh cho tôi những phương diện khó thương của tôi. Xét về mặt nầy, thật ích lợi khi tôi qui cho mình những khuyết điểm và sai quấy mà tôi chồng chất lên kẻ xúc phạm. Ðón nhận như thế cái làm cho tôi sợ nơi tôi là thiết yếu cho sự trưởng thành của tôi. Khi lấy lại những khía cạnh của mình mà tôi cho là yếu đuối và thiếu sót, tôi trở nên đầy đủ hơn và như vậy trở nên chính tôi hơn. Vậy tôi sẽ không hiểu được kẻ xúc phạm tôi, nếu trước đó tôi đã không làm cho thích hợp với mình những yếu đuối và khuyết điểm mà tôi đã mặc cho y.

Suy nghĩ kỷ thì qui tắc không kết án kẻ xúc phạm mình lẫn lộn với qui tắc "yêu thương kẻ thù của mình". Ở đây nữa, lời dạy nầy không được khắc ghi trong một luân lý bổn phận, nhưng trong một ước muốn tăng trưởng nhân vị. Bởi vì trong bối cảnh của tha thứ, kẻ thù hoặc kẻ xúc phạm gởi trả lại cho tôi những phần khó thương tạo nên "cái bóng" của tôi. Vậy, "yêu thương kẻ thủ" trở về đón tiếp trong mình "cái bóng" của mình, nghĩa là cái làm cho sợ hoặc cái gây nên xấu hổ trong tôi. Vậy, tôi thực hành không kết án kẻ thù và yêu thương kẻ thù, chính là không kết án cái bóng của tôi và bắt đầu thuần hóa nó, yêu thương nó. Trong hành động tha thứ, một cách nào đó, sự không xét đoán dẫn đến một sự hòa giải với kẻ xúc phạm, nhưng nhất là, đến một sự hòa giải với khía cạnh bóng tối của chính mình được xác nhận là một nguồn suối nhân vị lớn lao.

2. Hiểu, chính là biết rõ những tiền sự của người khác :

Một câu ngạn ngữ xưa nói rằng : "Thiên Chúa tha thứ tất cả, vì Ngài hiểu rõ mọi sự". Chân lý sâu xa thật quan trọng phải ghi nhớ để đi qua giai đoạn hiện tại. Rõ ràng là một sự hiểu biết tốt các tiền sự về gia đình, xã hội và văn hóa của một con người sẽ giúp ta tha thứ cho con người đó. Ngay cả khi những điều kiện chung quanh đó không biện minh cho lối xử sự không tốt của người đó, thì ít ra chúng cũng giải thích được một phần.

Ðó là cái tôi khám phá được trong khi cố hiểu những cơn lo âu và nổi giận của cha tôi mà tôi cho là không thể dung thứ được. Sau một cuộc chuyện vãn với cô tôi về thời thơ ấu của cha tôi, tôi đã thay đổi triệt để thái độ bất bao dung của mình. Là anh cả của gia đình, cha tôi đã làm việc cần cù, ngay từ lúc nhỏ, cha tôi đã phải gánh vác trách nhiệm quá nặng của "người đàn ông trong nhà" suốt những thời gian vắng mặt rất dài của ông nội tôi. Do đó mà sinh ra những nỗi sợ và lo âu thường xuyên của người.

Một khi biết được sự kế thừa và lịch sử của một con người, ta dễ đặt mình vào hoàn cảnh của người đó và hiểu được những sự sai lệch trong tính tình của y. Như thế, sự kiện biết được rằng một người lạm dụng tình dục đã là nạn nhân của sự lạm dụng không giảm thiểu tính nghiệm trọng tội ác của y, nhưng làm cho người ta độ lượng hơn đối với y.

3. Hiểu, chính là tìm ý hướng tích cực của kẻ xúc phạm :

Virginia Satir, thầy thuốc điều trị tại gia trong suốt hơn bốn mươi năm, biểu lộ một sự tín nhiệm lớn lao nơi những người mà bà luôn tìm khám phá ý hướng tích cực của các hành động, dù họ là những khách hàng rượu chè trụy lạc nhất. Theo ý bà, nơi mỗi con người đều có một ý chí tăng trưởng không thể trừ khử, ngay cả trong những cử chỉ độc ác nhất. Ðối với bà, ý hướng tích cực là một nguồn mạch nội tâm phong phú cho phép bà tiếp cận khách hàng và cùng y khởi đầu một sự thay đổi ứng xử. Một khi ý hướng tích cực đã được khám phá, bà giúp khách hàng ý thức và nhận thấy tất cả vẻ đẹp của nó. Rồi bà gợi ý cho khách hàng những phương thế xây dựng để thực hiện cái ý hướng tăng trưởng đó. Chẳng hạn bà hiểu rằng ý hướng tích cực của một người tự tử là nhằm chấm dứt đau khổ ; ý hướng tích cực của một người cha bạo lực là có được sự chế ngự trên đứa con ; ý hướng tích cực của tên trộm trẻ ở quầy hàng là để chứng tỏ giá trị của nó với bạn bè ; ý hướng tích cực của cậu bé nổi loạn là để chứng minh khả năng của nó với các nhà đào tạo.

Chính với cùng ý hướng tích cực đó mà một số người nghĩ là phải làm tổn thương một người khác để thúc đẩy y tự sửa chữa và tiến bộ. Một số nhà giáo dục bắt phải chịu bao sĩ nhục với một ý muốn tuyệt vời của thế gian ? Tôi nhớ rõ ngày mà thầy coi nhà nguyện, sau một giờ tập hát, đã trịnh trọng rút ra khỏi túi một mãnh giấy, rồi trước sự hiện diện của cả ca đoàn ba mươi người, lớn tiếng đọc : "Các em André, Claude và Jean phải ra khỏi ca đoàn ngay lập tức và vĩnh viển". Lòng đầy bực tức, tôi bái gối Mình Thánh Chúa rồi lập tức rời nhà nguyện. Ngày nay tôi vẫn còn tự hỏi tại sao ông thầy nầy đã không thông báo việc đuổi chúng tôi trước giờ tập hát. Dĩ nhiên, ông đã thành công trong việc hạ nhục tôi, nhưng ông đã lầm, nếu ông muốn qua đó để dạy tôi thực hành đức khiêm nhường.

Tôi cũng thấy ông thầy Anh văn ở cấp hai khủng bố tất cả lớp với lối châm chọc cay độc của ông bằng cách đọc lớn tiếng những bài thi kém nhất. Người ta không thể nhắm mắt trước những sự vụng về như thế và những hậu quả mà chúng kéo lê trong cuộc đời của các nạn nhân. Tuy nhiên, dù các phương pháp nầy thật đáng trách, có lẽ người ta chẳng nghi ngờ gì những ý hướng tốt của các nhà giáo dục đó.

Mặt khác, nếu xảy ra là một số người làm điều sai với những ý hướng tốt, thì cũng có những người khác làm điều đó mà không muốn. Chúng ta hãy nghĩ đến những người lái xe ẩu say rượu hay ghiền ma túy đã giết chết hoặc gây thương tích cho người nào đó trong các tai nạn ; những điều dưỡng viên, vì cớ một chẫn đoán sai hoặc vì lối điều trị lầm lẫn, đã hủy hoại sức khoẻ của các bệnh nhân ; một trụ cột của gia đình, vì đã thỏa hiệp trong những cuộc làm ăn phiêu lưu, đe dọa cuộc sống sung túc thoải mái của vợ con… Trong những trường hợp nầy, các nạn nhân phải chịu những thiệt hại nặng nề. Tuy nhiên, việc biết rằng những người chịu trách nhiệm về các thiệt hại đó đã không cố tình gây nên chắc chắn không thể loại trừ các đau khổ phải chịu, nhưng ít ra cũng có thể giảm nhẹ sự chán ghét tha thứ đi.

4. Hiểu kẻ xúc phạm chính là khám phá được giá trị và phẩm giá của y :

Người ta có khuynh hướng giảm trừ kẻ gây nên xúc phạm với cử chỉ ác tâm của y và từ đó hoàn toàn coi thường y. Dầu vậy, một ứng xử lầm lỗi của kẻ xúc phạm không bao giờ là lời nói cuối cùng về y. Vì, bất chấp các lầm lỗi của y, y vẫn còn có khả năng thay đổi và trở nên tốt. Nỗi thất vọng càng sâu xa thì nó càng làm cho người ta chỉ nhìn thấy lỗi lầm của kẻ xúc phạm và muốn dìm nó xuống. Mối nguy hiểm còn lớn hơn nữa khi đó là một người gần gủi và được yêu mến.

Về vấn đề nầy, tôi nhớ là mình đã được xây dựng bởi thái độ tích cực của một người đàn bà mà cuộc sống cá nhân và gia đình bị một người chồng rượu chè say sưa làm hỏng. Bà nói với tôi rằng ngay cả khi bà đã quyết định lìa bỏ ông, bà không ngừng yêu ông bất chấp tất cả và không ngừng ngưỡng mộ sự dịu dàng, lòng can đảm, óc hài hước và niềm tin tôn giáo sâu xa của ông. Bà nói tiếp : "Không ai có thể lấy đi của tôi tình yêu và niềm vui đã sống với người đàn ông nầy cả". Hết sức ngạc nhiên, tôi nhìn bà thoát ra khỏi cuộc phiêu lưu vợ chồng với phẩm cách và trong một sự kính trọng lớn lao đối với người phối ngẩu cũ của mình. Tôi không còn nhìn thấy nơi bà một nạn nhân còn ở dưới ách một người chồng nghiện ngập nữa, mà là một người vợ tự do.

5. Hiểu, chính là chấp nhận không hiểu hết mọi sự :

Ngay cả khi người ta muốn biết mọi sự về kẻ xúc phạm mình, thì người ta cũng không bao giờ chọc thủng được hoàn toàn cái bí mật của con người y, cũng chẳng thể khám phá được mọi động lực cử chỉ của y, những động lực mà thường y cũng không biết. Người ta lại thấy mình đang đứng trước huyền nhiệm của một nhân vị sống động, đến đổi hiểu kẻ xúc phạm chính là chấp nhận không hiểu hết mọi sự. Ðó là điều mà một người thợ nọ, sau một buổi thuyết trình về tha thứ, đã đến thăm tôi để tâm sự với tôi cái triết lý sống của ông : "Nếu người nào gây nên cho con một điều thiệt hại, con thưa với Chúa : con không hiểu tại sao y làm cho con như vậy, nhưng con tin rằng Chúa biết tại sao. Và suy tư nầy đủ làm cho con giữ được sự bình an nội tâm của mình". Những lời nầy làm dội lại tư tưởng của bác sĩ Philippe Madre : "Chung cuộc, tha thứ không phải là một cử chỉ xóa sạch (trong thực tế không thể được vì điều dữ tôi tha thứ vẫn mãi mãi làm thành phần của lịch sử đời tôi), nhưng là một cử chỉ tin tưởng ở tha nhân, lòng tin tưởng xuyên qua một nỗi khổ đau nào đó, chỉ có thể có được nhờ sự giúp đỡ của Chúa".

6. Ðể hiểu kẻ xúc phạm mình :

Có cần thiết để nhắc lại rằng những luyện tập mà tôi đề nghị thực hiện được diễn ra theo một sự tiến triển nào đó không ? Nếu xảy ra là bạn cảm thấy khó chịu và không thoải mái trong một tập luyện thì không nên cứ khư khư theo đuổi nó làm gì. Vẫn cứ liên lạc với sự khó chịu hoặc phản kháng nội tâm của mình, người ta sẽ khám phá được mình đang ở đâu trong tiến trình tha thứ của mình. Sự ý thức nầy sẽ giúp bạn định vị và đánh giá tốt hơn cái buớc kế tiếp phải thực hiện trong chiều hướng tốt.

1) Bạn đi vào trong chính mình. Bạn để thời giờ nhìn thấy với đôi mắt tưởng tượng kẻ đã làm thiệt hại bạn. Bạn lược lại trong mình những gì bạn biết được về lịch sử cá nhân của y. Nếu đủ can đảm, bạn tự đặt mình vào địa vị của y và tự hỏi xem cái gì xảy đến cho bạn nếu bạn đã phải sống trong cùng những biến cố như y…

2) Sau tập luyện vừa rồi, tôi mời bạn phát hiện ra ý hướng tích cực đã tác động kẻ xúc phạm bạn trong các hành động đáng chê trách của y : ước muốn bảo vệ chính mình, ham quyền lực, cách bảo vệ phẩm giá của mình,v.v… Chúng ta ghi nhận rằng nhận biết ý hướng tích cực không có nghĩa là bạn tán thành các phương tiện kẻ xúc phạm bạn sử dụng.

3) Bạn liệt kê các khuyết điểm mà bạn nhận thấy nơi kẻ xúc phạm bạn, nhất là những khuyết điểm làm bạn khó chịu nhất, rồi bạn áp dụng cho mình từng khuyết điểm đó. Chẳng hạn sau khi đã tuyên bố tôi ghét sự bạo lực của nó, bạn tự nhủ chính tôi cũng bạo lực. Có lẽ bạn sẽ khám phá ra một phần đáng ghét của bạn bên dưới cái khuyết điểm mà bạn quở trách nơi y. Nếu trường hợp đó xảy ra, trước hết bạn nghĩ tới việc đón tiếp cái phần ấy để sáp nhập nó vào toàn thể nhân cách của bạn. Chẳng hạn tôi cần điều hòa sự dịu dàng thái quá của tôi với một sự khẳng định chính mình cách bạo lực hơn.


Giai đoạn tám : Tìm ra trong cuộc sống mình một ý nghĩa cho sự xúc phạm

Thách đố … là quấn vào nhau những sợi tinh tế của một cuộc đời tan nát để làm thành một công trình giàu ý nghĩa và ý thức trách nhiệm.

Gordon Allport

Tiến trình tha thứ của bạn đã qua nhiều giai đoạn. Sau khi đã quyết định không trả thù, bạn đã nghĩ đến làm một cuộc trở về can đảm với chính mình và bạn đã cảm nhận rằng vết thương của bạn đang trên đường được chữa lành. Nhờ những sự ý thức liên tiếp và nhờ sự chấp nhận đau khổ nội tâm của bạn, bạn đã nhận ra bạn sẵn sàng hiểu kẻ xúc phạm bạn. Như vậy bạn đã đặt được các nền móng và các điều kiện tâm lý cho sự tha thứ của bạn. Suốt trong giai đoạn thứ tám, tôi mời bạn vượt quá quan điểm thuần túy tâm lý để khám phá ra ý nghĩa tích cực của sự xúc phạm đã nhận chịu hoặc để mang lại cho nó một ý nghĩa. Bạn học được cái gì từ lời chửi mắng nầy, từ sự xúc phạm nầy, từ sự phản bội nầy, từ sự bất trung nầy ? Bạn tính sử dụng nó thế nào để trưởng thành và để thực hiện chính mình cách sâu xa ?

Ðiều mà tôi xin bạn, chính là phát hiện ra những hậu quả tích cực có thể có mà sự xúc phạm sản xuất ra trong cuộc đời bạn. Bạn sẽ sử dụng thất bại nầy cho lợi ích của bạn thế nào ? Những hậu quả độc hại chỉ tồn tại cho những kẻ chọn không tiến lên phía trước và than vãn cho số phận của mình. Thay vì nhượng bộ cho cơn cám dỗ nầy, điều quan trọng là nhớ lại rằng không có sai lầm và thất bại nào không giấu ẩn những yếu tố tăng trưởng.

Tìm được ý nghĩa tích cực của thất bại hệ tại việc khám phá ra sự phong phú ẩn giấu của nó. Vậy bạn đừng để bị chận dừng lại bởi những kẻ bảo rằng : "Chẳng có gì tốt để kỳ vọng nơi một nỗi bất hạnh cả". Tôi bảo đảm cho bạn điều nghịch lại rằng thương tổn của bạn có thể trở nên nguồn suối tăng trưởng. Biết bao nhiêu người đã nhìn thấy cuộc đời của họ có một định hướng mới và hữu thể của họ được triển nở theo sau một thử thách lớn lao !

Tôi nghĩ là thích hợp để nói với bạn trước khi đi xa hơn là có thể lúc nầy bạn cảm thấy bối rối, khó chịu và phẩn nộ vì lời mời gọi tìm cho được một ý nghĩa tích cực cho thương tổn của bạn và cho các hậu quả của nó trong cuộc sống của bạn. Một phản ứng kiểu đó là dấu hiệu bạn chưa sẵn sàng để thực hiện giai đoạn hiện tại. Bạn cần trở lại các giai đoạn trước để đào sâu và hấp thụ chúng tốt hơn.

1. Sự thay đổi môi trường có lợi của xúc phạm :

Hậu quả đầu tiên của xúc phạm trên nạn nhân là hậu quả của một cú va chạm và của một sự xáo trộn sâu xa. Nạn nhân cảm thấy bị giày vò mãnh liệt. Những ý tưởng định trước, những dư luận có sẵn, những xác tín, những thành kiến cũng như những vở kịch cuộc đời của y đều bị xáo trộn. Nhưng dù hoàn cảnh có khó khăn, nó không để mất sự hứa hẹn cuộc sống. Nó có thể được biểu lộ là một thời khắc trong sáng quí báu, một cơ hội thuận lợi để thoát ra khỏi sự thiển cận thường nhật của mình.

Một trong các vị giáo sư của tôi khẳng định rằng rất ít người biết rút tỉa lợi ích từ những sự phong phú và những khả thể của thực tại. Phần đông mang những thành kiến đúc khuôn trên các biến cố. Họ nhìn thấy các biến cố ấy xuyên qua các lăng kính đã bị biến dạng của những chờ đợi, những thành kiến cá nhân và văn hóa hoặc của dư luận sẵn có của môi trường sống của họ. Không chịu cố gắng khám phá ra ý nghĩa sâu xa của một biến cố, họ bằng lòng với những phán đoán tầm thường và tổng quát kiểu điều đó tốt, điều đó xấu, cái đó trắng, cái kia đen.

Câu chuyện sau đây rút từ văn học dân gian Trung Hoa minh chứng rõ ràng tính vô ích của những phán đoán kiểu đó. Một hôm, một người chủ trang trại bị mất con ngựa đực giống đẹp nhất, con ngựa tuyệt vời đã trốn đi. Các người láng giềng đến thăm an ủi cho số phận của y : Ông thật rủi ro ! Y trả lời : Biết đâu !… Hôm sau, con ngựa đực giống lại hiện về trong chuồng có ba con ngựa cái hoang dã ở bên cạnh. Các người láng giềng vội đến chúc mừng chủ trang trại về vận may của ông. Cũng câu trả lời vắn gọn đó Biết đâu !… Ngày nọ, con trai chủ trại vì muốn khống chế một trong mấy con ngựa cái hoang dã bị ngã gảy chân. Các người láng giềng lại chạy đến thương xót cho nỗi bất hạnh của ông. Nhưng chủ trang trại vẫn có cùng phản ứng đó Biết đâu !… Ít ngày sau, một toán lính tới động binh bắt buộc các thanh niên tại chỗ. Tuy nhiên họ không muốn nhận người thanh niên tật nguyền. Các người láng giềng lại la lên May mắn thay ! Và chủ trang trại đáp lại Biết đâu !…

Vì những thành kiến và và dư luận định trước về người và các biến cố, chúng ta thường gặp phải thất vọng và mất mát. Chúng ta mang những ý nghĩ định sẵn về cách cha mẹ phải hành động đối với con cái, về cách một người phối ngẫu phải cư xử, về cách ông chủ phải đối xử với thợ, về cách Thiên Chúa phải cứu chuộc thế giới, v.v… Thế mà các sự việc không xảy ra như dự liệu trước. Và như vậy lại càng hay !

Bởi vì sự va chạm của xúc phạm lại bổ ích. Nó làm cho người bị xúc phạm loại bỏ được những thiên kiến và vất bỏ những lập trường cứng cỏi của mình. Còn thật hơn nữa đối với một xúc phạm do một người thân yêu gây nên : bị tước đoạt những chờ đợi không thiết thực của mình, người bị xúc phạm sẽ phải thanh luyện bản thân để đi tới chỗ tán dương và yêu thương người bà con hoặc kẻ gần gủi đó đúng như bản chất của họ.

2. Khám phá ra những cái thu được từ sự mất mát của mình :

Trong một số lần thuyết trình, tôi thường thúc giục các thính giả suy nghĩ về những gì kinh nghiệm bị chữi bới, lăng nhục hoặc là nạn nhân của một sự bất trung, bất công mang lại cho họ. Tôi hướng dẫn họ tự vấn như sau : "Bạn đã học được gì từ kinh nghiệm nầy ? Bạn đã lớn lên như thế nào xuyên qua thử thách nầy ? Ðời sống bạn đã có một ý nghĩa mới đến mức độ nào ?" Ðây là ít mẫu câu trả lời :

Tôi biết mình hơn nhiều lắm.

Tôi đã đạt được tự do nội tâm nhiều hơn.

Ðiều đó đã làm cho tôi ý thức về các giá trị của mình. Sau khi ly thân, tôi nhận thấy mình có thể trở nên chính mình hơn và sống theo các giá trị của tôi.

Nỗi đau vì tình đã dạy cho tôi biết mình hơn. Bây giờ, thay vì lệ thuộc vào tình thương của người khác, tôi đã bắt đầu yêu thương chính mình.

Thế là xong, tôi kkông còn để cho người khác làm tổn thương nữa. Tôi học tự bảo vệ cho mình tốt hơn.

Tôi đã học được nói "không" khi điều đó không xứng hợp với các giá trị của mình.

Khi vợ tôi ra đi, tôi tự nhủ tôi không có chọn lựa nữa, tôi sẽ phải làm nội trợ lấy. Bấy giờ, dù kiêu ngạo, tôi đã cầu xin sự giúp đỡ lần đầu tiên trong đời tôi.

Thử thách của tôi đã kết dệt cho tôi một trái tim yêu thương.

Tôi đã có lòng trắc ẩn và cảm thông nhiều hơn với tha nhân.

Tôi thôi không chạy theo những người chồng say sưa để cứu vớt họ nữa. Tôi đã ý thức rằng chính tôi là người cần được cứu giúp.

Trong cơn cùng quẩn của mình, tôi đã tìm lại được tình yêu và lòng trung thành của Chúa, sau khi tôi đã rất phẩn nộ đối với Ngài.

Khi tôi chất vấn các người như thế về những ý nghĩa mới của cuộc đời họ tiếp theo sau một xúc phạm, tôi luôn luôn ngạc nhiên về tính đa dạng và phẩm chất của các câu trả lời. Ðôi khi hậu quả tích cực của xúc phạm và sự bất công mà họ là nạn nhân xuất hiện một cách tự phát. Những lần khác, sự khám phá ra những cái tích cực thu được và ảnh hưởng của chúng trải ra trong nhiều tuần lễ, cả nhiều tháng nữa. Ban đầu, những người nầy thấy cuộc đời họ như hình ghép khó hiểu, nhưng sau khi khám phá được ý nghĩa của xúc phạm thì một viễn ảnh mới của cuộc đời họ được hình thành và xác định.

3. Sự xúc phạm dẫn đến "hãy biết mình" :

Không ai khác ngoài chính bản thân có thể đạt được việc tìm thấy một ý nghĩa cho sự mất mát mà mình vừa phải chịu, nhưng điều đó không muốn nói rằng chúng ta chẳng cần ai thúc đẩy mình làm vệc đó. Rủi thay rất hiếm có những người hướng dẫn biết đưa chúng ta đạt được một sự biết mình và đánh thức những khả năng tăng trưởng mà nỗi bất hạnh mang lại.

Một sự bất công nặng nề hoặc một xúc phạm nghiêm trọng có thể đánh dấu khởi điểm của một cuộc phiêu lưu nhân bản phong phú diễn ra trong ba thời kỳ. Trong thời kỳ thứ nhất, vấn đề là phải tống táng hoàn cảnh trước đó. Thời kỳ thứ hai, được gọi là "giai đoạn bản le" hoặc là "giai đoạn ở giữa", sẽ dành cho sự hiểu biết tốt hơn về mình và về những dự án tương lai của mình. Giai đoạn ở giữa nầy là chủ chốt và quyết định. Phải miệt mài đào sâu giai đoạn nầy trước khi dấn thân vào thời kỳ thứ ba, là thời kỳ tái tổ chức lại cuộc sống mình nhằm tới một cuộc khởi hành mới.

Cái nguy hiểm lớn ở đây là quên bỏ pha quyết định của giai đoạn ở giữa : hoặc là chúng ta bị cám dỗ trở lại đàng sau để trú đóng ở đó, hoặc là bị đẩy sang lập tức ở pha khởi hành mới của cuộc đời. Trong cả hai trường hợp, chúng ta tự kết án phải thất bại.

Nhưng tại sao lại cho pha của giai đoạn ở giữa một tầm quan trọng lớn lao như vậy ? Một khi vết thương đã bớt cay độc và làm bận lòng thì cần phải dừng lại và điểm lại tình hình của biến cố đau thương : "Làm sao tôi lại đến nước đặt mình vào một tình huống dễ bị tổn thương như thế được ?" Với sự gãy đổ mà xúc phạm mang lại, chúng ta dần dần trở nên có khả năng bỏ rơi một số ảo tưởng và chờ đợi không thể được mà chúng ta đã ôm ấp cho mình và cho kẻ khác. Hơn bao giờ hết, chúng ta phải trực diện với chính mình và nhận thấy rằng các lập trường và vai trò đã đảm nhận cho tới lúc ấy mất đi tầm quan trọng của chúng. Ðương đầu với sự trống rổng chung quanh mình, chúng ta bị bó buộc tự đặt ra cho mình câu hỏi nền tảng : "Tôi là ai ?" Không ai khác ngoài chính mình có thể trả lời câu hỏi đó, không cả chuyên gia tâm lý hoặc người đồng hành thiêng liêng. Sự chất vấn về căn tính sâu xa của mình nầy chắc chắn sẽ gây nên những lúc cô đơn, xao xuyến và sợ bị lầm. Nhưng nếu kiên trì, chúng ta sẽ thấy thời khắc suy tư nầy có thể biến đổi thành một sự hiểu biết mới mẻ và sâu xa về chính mình.

Suốt trong giai đoạn bản lề nầy, một vấn nạn thứ ba được đặt ra : "Tôi muốn làm gì với cuộc đời của tôi ?" "Tôi sẽ cho mình những lý do mới mẻ nào để sống ?" Lại một lần nữa, câu trả lời cho những vấn nạn nầy không tìm được ở bất cứ nơi đâu ngoài nội tâm của mình. Cần phải có can đảm và nhẫn nại để cho những câu trả lời đó lộ ra và đón nhận chúng.

Chịu đựng một bất công hay một xúc phạm còn lâu mới là một kinh nghiệm thú vị. Một khi chấn thương tâm thần đã qua đi, kinh nghiệm nầy sẽ dẫn bạn về với chính mình và với tự do nội tâm của bạn. Nó sẽ đặt bạn đứng trước sự chọn lựa để bạn bị quật ngã hay là tác động trở lại. Nếu bạn chấp nhận tác động trở lại, thì bạn sẽ mở ra với khả năng tìm lại được căn tính sâu xa của bạn và nối kết những giây liên lệ mới với những người khác. Lý do là vì bạn đã tìm được một ý nghĩa cho đau khổ của bạn.

Ðó là sứ điệp bác sĩ Victor Frankl nói trong cuốn Découvrir un sens à sa vie. Ông nói cách có thẩm quyền, bởi vì ông đã phải chịu đựng biết bao nhiêu đau khổ và sĩ nhục trong các trại tập trung mà không để cho mình bị quật ngã. Ông viết : "Vậy điều quan trọng là phải kêu gọi đến khả thể cao nhất của con người, đó là khả thể biến một bi kịch cá nhân thành chiến thắng, biến một đau khổ thành sự thực hiện nhân cách".

4. Ðể khám phá ra ý nghĩa tích cực của thương tổn :

Ở đây tôi đề nghị một loạt câu hỏi có mục đích giúp khám phá ra ý nghĩa tích cực của thương tổn của mình. Ðiều quan trọng là hãy để các câu hỏi nầy cật vấn mình và lưu tâm đến các câu trả lời do tiếng nói nội tâm gợi lên mà không nghĩ đến việc kiểm duyệt chúng. Một câu trả lời có thể tiến hóa và chỉ với thời gian mà chúng ta khám phá được tất cả tầm mức và ý nghĩa nó mang lại cho mình. Trong khi luyện tập, nên ghi lại vào nhật ký các suy tư của bạn.

Tôi đã học được cái gì từ sự xúc phạm đã phải chịu ?

Những hiểu biết mới mẻ nào tôi đã đạt được về chính mình ?

Những giới hạn hoặc dòn mỏng nào tôi đã khám phá được nơi mình ?

Sau đó tôi có trở nên nhân bản hơn không ?

Những suối nguồn và sức mạnh mới mẻ nào của cuộc sống mà tôi đã khám phá được ở nơi mình ?

Tôi đã đạt được mức độ trưởng thành nào ?

Thử thách nầy đã dẫn tôi đến cái gì ?

Tôi đã cho mình những lý do mới mẻ nào để sống ?

Thương tổn của tôi đã làm lộ ra chiều sâu tâm hồn đến điểm nào ?

Trong mức độ nào tôi đã quyết định thay đổi các tương quan với những người khác, đặc biệt với Thiên Chúa ?

Cách thức nào bây giờ tôi sẽ theo đuổi dòng đời của mình ?

Xúc phạm đã phải chịu đun đẩy tôi đồng hóa với nhân vật quan trọng nào hiện thời, trong lịch sử hay thần thoại ?


Giai đoạn chín : Biết mình đáng được tha thứ và đã được đặc xá

Chỉ người nào đã có kinh nghiệm về tha thứ mới có thể tha thứ thực sự.

George Soares-Prabhu

Là người hành hương nội tâm trên đường tha thứ, dần dần bạn sẽ nhận thấy rõ ràng rằng hành động tha thứ vừa là nổ lực của con người vừa là ơn ban của Chúa. Vậy sự tha thứ tỏ ra là một nhiệm vụ của con người bởi hoạt động tâm lý mà bạn triển khai và một ơn ban bởi ân sủng của Chúa bù đắp cho những thiếu thốn của bạn. Chắc chắn trong công việc tha thứ mà bạn đã thực hiện cho tới đây, bạn đã đụng tới những giới hạn cá nhân của mình và bạn đã cảm thấy cần đến một sự giúp đỡ đặc biệt.

Bây giờ bạn vào sâu hơn trong vũ trụ thiêng liêng, ở đó bạn sẽ hành động ít hơn là để bạn được tác động. Nơi đây, các nổ lực cá nhân trở nên ít quan trọng hơn là sự khiêm tốn mở ra với ân sủng và nhẫn nại đón tiếp ân sủng. Khi tiến trình tha thứ của bạn đi vào trong phạm vi thiêng liêng, bạn có ít sáng kiến và tự chủ hơn, công việc của bạn hệ tại nhiều hơn là bạn thư giản để mình được ân sủng xâm chiếm.

Mục đích của chương nầy là dẫn bạn nhận biết rằng không những bạn đáng được tha thứ mà người ta đã tha thứ cho bạn nhiều lần trong quá khứ. Sự ý thức nầy sẽ giúp bạn tha thứ, vì việc xảy đến với tha thứ cũng như với tình yêu. Kẻ không thể để cho mình được yêu hoặc nhận thấy rằng mình không thể yêu, thì sẽ không thể cho kẻ khác tình yêu. Cũng thế, nếu người muốn tha thứ mà không cảm nhận được rằng người ta đã tha thứ cho mình, thì làm sao đến lượt mình có thể tha thứ được ? Vậy bạn hãy để rơi xuống thật sâu những kháng cự của bạn, hầu để bạn được yêu và đón nhận sự tha thứ của các người khác, đặc biệt là sự tha thứ của Chúa. Ðó là thách đố mà bạn được mời gọi dấy lên.

1. Kinh nghiệm về sự tha thứ thiết yếu để tha thứ :

Câu chuyện của Corrie Ten Boom làm bật nổi sự cần thiết phải kinh nghiệm sự tha thứ của người khác, trước khi trở nên có khả năng tha thứ lúc đến phiên mình. Corrie được giải thoát khỏi trại tập trung của quốc xã một ít thời gian sau khi các Ðồng Minh chiếm được nước Ðức. Bà đã để rất nhiều thời gian để tự giải thoát mình khỏi cơn hận thù câm lặng của mình đối với các lý hình.

Một ngày kia, bà quyết định thực hiện một cuộc chữa lành bằng tha thứ. Một khi chắc chắn mình đã hoàn toàn được giải thoát khỏi lòng thù hận của mình và đã tha thứ, bà nghĩ ra một dự án lớn để chữa lành các vết thương và những hiềm khích do đệ nhị thế chiến gây nên cho các quốc gia nầy. Vậy bà đã tung ra một cuộc vận động xuyên qua nhiều nước bằng cách rao giảng ở những nơi ấy sức mạnh sáng tạo của tha thứ và của tình thương.

Bà không sợ đến nước Ðức để phổ biến sứ điệp của bà. Chiều hôm ấy, tại Munich, sau khi đã nói chuyện với một nhóm người Ðức ao ước làm cho mình được tha thứ, bà đã có một kinh nghiệm sống đau lòng thử thách chính sức mạnh tha thứ của bà. Một người đàn ông tiến về phía bà, chìa tay ra cho bà và nói : "Bà Ten Boom, tôi sung sướng biết bao khi đã nghe bà nói rằng Chúa Giêsu tha thứ hết mọi tội lỗi cho chúng ta".

Corrie đã lập tức nhận ra ngay một người trong số các lý hình của mình ở trại tập trung. Bà nhớ lại y đã lăng nhục bà và các bạn tù phụ nử của bà thế nào, khi y cưỡng bách họ tắm trần truồng trước cái nhìn khinh miệt "siêu nhân"của y. Ngay lúc y muốn bắt tay bà, Corrie bổng chốc cảm thấy bàn tay bà bị đông cứng lại phía bà. Bấy giờ bà ý thức được sự bất lực của bà để tha thứ cho y, bà vừa kinh ngạc vừa khiếp sợ vì điều đó. Dù bà đã tin chắc rằng mình đã được chữa lành khỏi vết thương, đã chiến thắng sự hận thù của mình và đã tha thứ, nhưng ngay lúc ấy, đứng trước một trong những tên lý hình, bà đã bị nắm chặt bởi khinh bỉ và hận thù. Bị đờ người ra, bà chẳng còn biết làm gì hay nói gì nữa.

Lúc ấy, bà bắt đầu cầu nguyện : "Lạy Chúa Giêsu, con cảm thấy bất lực để tha thứ cho người đàn ông nầy. Xin Chúa tha thứ cho con". Ngay lúc ấy, có cái gì kỳ diệu đã xảy ra, bà cảm thấy mình được tiếp vào sự tha thứ của Chúa Giêsu. Bàn tay của bà đưa lên và nắm lấy bàn tay của kẻ tra tấn bà trước kia. Cùng một lúc, bà vừa tự giải thoát mình vừa giải thoát tên lý hình của bà khỏi cái quá khứ khủng khiếp của mình.

Làm sao giải thích được một sự thay đổi hoàn toàn trong phút chốc như vậy ? Chúng ta sẽ đoán ra được. Phép lạ tha thứ được phát sinh nơi Corrie nhờ cái tình cảm không thể diễn tả được là Chúa Giêsu đã tha thứ cho sự bất lực không thể tha thứ của bà. Lời thú nhận bất lực của chính bà đã làm mềm lòng bà và đã làm cho bà có khả năng đón nhận ân sủng tha thứ.

2. Diễn tả cảm giác đáng được tha thứ thế nào ?

Như tôi vừa nói, tự cảm thấy mình là đối tượng của một sự tha thứ là một kinh nghiệm không thể diễn tả ra được. Ngôn ngữ không đủ để diễn tả tính chất, sự phong phú sâu xa và cường độ của nó. Kinh nghiệm đó không so sánh được với bất cứ kinh nghiệm nào khác, như những kinh nghiệm về tình yêu say đắm, về lòng biết ơn, về niềm vui, về thành công, về sự gặp lại nhau giữa bạn bè, v.v... Một cách nào đó, kinh nghiệm nầy gặp lại Cái Tôi trong sâu thẳm của nó, và chúng ta có thể đánh giá nó là kinh nghiệm nền tảng.

Lewis Smedes gọi nó là fundamental feeling. Nền tảng, bởi vì hơn mọi kinh nghiệm khác, nó cung cấp cho chúng ta cảm giác được nhận biết và quí trọng vì những gì mà chúng ta là trong sâu thẳm chính mình. Lúc ấy chúng ta cảm nhận mình được yêu thương cách vô điều kiện, bất chấp những xấu xí, khuyết điểm, thất bại và không tuân thủ. Chính lúc đó, chúng ta nói rằng cái Tôi sâu thẳm tự biết nối kết với suối nguồn tình yêu và không không tách lìa khỏi nguồn suối ấy.

Chúng ta có thể so sánh tình cảm nầy với cảm giác nồng nhiệt về an toàn và tín nhiệm của đứa bé được cha mẹ mong muốn và yêu mến vì chính nó. Mặc dù chúng ta có thể cảm thấy rất có lỗi liền sau các lầm lỗi hoặc sai sót của mình, cảm giác đã được xét đoán là đáng được tha thứ còn mạnh mẻ hơn. Cảm giác nầy đem lại bảo đảm là sẽ không bao giờ bị mất đi nguồn suối tình yêu vô tận nầy nữa. Chúng ta biết rằng trong mọi lúc mình có thể lại đến giải khát nơi suối nguồn nầy và lại thấy mình được củng cố trong tình yêu.

Tuy nhiên điều có thể xảy ra là chúng ta không còn cảm nhận được cái cảm nhận nền tảng nầy. Tìm lại được nó là một kinh nghiệm rất cảm kích. Tôi đã có kinh nghiệm đó sau một khóa nghiên cứu về việc sử dụng các câu chuyện và giai thoại nhằm mục đích mục vụ. Trong một phòng chật ních hơn bốn trăm linh mục, nan nữ tu sĩ, nhà thần học John Shea nổi tiếng vì tài kể chuyện thuật lại cho chúng tôi dụ ngôn đứa con hoang đàng.

Lúc đầu, tôi không cảm thấy chút chi hứng thú. Vậy mà rồi tôi đã để mình bị người kể chuyện bắt lấy đến độ nước mắt ràn rụa trên mặt. Và không phải một mình tôi thôi đâu ! Khi ra khỏi cơn mê hoặc, bằng một liếc nhìn vụng trộm, tôi nhận thấy hầu như cả phòng đều khóc. Ngay cả một số người còn khóc nức nở đến đổi những người ngồi gần nghĩ là nên đến an ủi họ. Nhờ tài bi kịch của mình, John Shea đã thành công trong việc làm sống lại nơi các thính giả hai tình cảm trái ngược : ước muốn mạnh mẻ biết mình được yêu thương tha thứ và niềm xác tín mình không đáng được như thế.

Tuy nhiên, chúng ta không thể dùng ý chí tự cung cấp cho mình một tình cảm như thế và không cảm nhận mình được yêu thương đến được tha thứ như mong muốn. Ðiều duy nhất chúng ta có thể làm, chính là chuẫn bị cho mình đón nhận ân sủng đặc biệt liên kết với ơn hoán cải nầy. Phúc Âm dạy chúng ta rằng những người trở lại là những ai tự để cho mình được yêu thương, mặc dù sự nghèo nàn của mình, trong khi những kẻ cứng lòng là những ai đã từ chối tình yêu và sự tha thứ. Chúng ta thấy, một bên, những nhân vật như Maria Mađalêna, Giakêu, Matthêu, người đàn bà xứ Samaria chấp nhận để cho tình yêu nhân hậu của Chúa Kitô đánh động ; còn bên kia, các luật sĩ và biệt phái, ông Simon và người mắc nợ nhẫn tâm giữa bao người khác nghĩ là mình tốt vẫn vô cảm đối với tình yêu và sự tha thứ.

3. Những trở ngại trong việc nhận biết mình được yêu thương đến tha thứ :

Tại sao có biết bao kháng cự không để cho mình đạt tới ân sủng tha thứ ? Ðể biết điều đó, chúng ta hãy xem xét bốn loại người không thẩm thấu được với sự tha thứ. Có thể chúng ta nhận ra được mình nằm trong số những người ấy chăng ?!

Chắc chắn có những người tin rằng mình không thể được tha thứ. Họ có cảm tưởng rằng lỗi của họ quá lớn đến đổi không bao giờ người ta có thể tha thứ chúng cho họ. Hình như những người thuộc loại nầy mỗi lúc một hiếm đi trong xã hội tục hóa.

Tiếp đến là những người không tin vào tính nhưng không của tình yêu. Trên nguyên tắc, họ chấp nhận có thể có một tình yêu vô điều kiện, nhưng trong thực hành thì họ chẳng tin là có thứ tình yêu ấy, bởi vì họ xác tín rằng chẳng có gì là nhưng không cả và mọi cái đều phải trả giá, vào một ngày nọ hay một ngày kia thôi, kể cả sự tha thứ. Những người nầy thường đã có những cha mẹ không bao giờ biểu lộ cho họ một tình yêu nhưng không. Họ chỉ được yêu thương như phần thưởng cho những điểm cao đạt được ở trường, cho hạnh kiểm tốt hoặc những việc phục vụ họ đã làm.

Hạng người thứ ba từ chối sự tha thứ : Họ không cảm thấy cần đến nó chút nào cả, vì xem ra họ chẳng cảm thấy chút nào có lỗi, về phương diện cá nhân cũng như về phương diện xã hội. Họ sống trong một thứ trống rổng về luân lý và thiêng liêng. Họ đau khổ vì một bệnh thần kinh thiêng liêng và luân lý làm cho họ vô cảm với mọi nhu cầu tha thứ. Phải chăng đó là thân phận của nhiều người đương thời của chúng ta ? Một số tư tưởng gia quả quyết rằng sự thiếu mẫn cảm luân lý nầy là nguyên nhân của một con số tự tử lớn lao nơi các người trẻ.

Hạng thứ tư là những người chối bỏ cách đơn giản sự có lỗi như một thiếu sót tâm lý. Một số trường phái tâm lý coi cảm giác có lỗi và nhu cầu tha thứ như một sự thiếu trưởng thành và thiếu tự lập. Người ta lẫn lộn ở đây cảm giác có lỗi bị ám ảnh và bệnh hoạn với cảm giác có lỗi lành mạnh. Trong khi cảm giác có lỗi loạn thần kinh hành hạ và nghiền tán cá nhân, thì tình cảm có lỗi lành mạnh và bình thường báo động cho người ấy về cái thực sự là nó : một hữu thể bị giới hạn và sai lầm. Cái nhìn chân lý nầy trên cá thể giải thoát nó và có thể dẫn đưa nó xác định cho mình một lý tưởng luận lý thiết thực.

Chấp nhận lãnh nhận sự tha thứ mà không cảm thấy bị nhục mạ hoặc bị hạ thấp, đó là thách đố. Nhiều người từ chối sự tha thứ đúng là để tránh sự sĩ nhục. Khi mô tả thảm kịch tha thứ của Chúa nơi các nhân vật của Bernanos, Philippe Le Touzé làm nổi bật sự từ chối đó : "Nhưng con người khép kín với tha thứ, vì tha thứ hạ nhục nó và cướp đi của nó cái ảo tưởng tự lập để giao nộp nó cho người khác muốn làm gì thì làm, do đó thời đại mới toan tính làm lại một vũ trụ không có Thiên Chúa". Một cái nhìn biến thể về tự lập đẩy tới những hành động của sự độc lập giả trá, trong khi sự tự lập đích thực tạo nên khả năng chọn lựa những sự tùy thuộc của mình.

Tóm lại, xem ra hiển nhiên rằng người nào không yêu mình và không tha thứ cho mình sẽ không còn có thể yêu thương và tha thứ cho kẻ khác nữa. Vả lại, tình yêu mình và tha thứ cho mình xem ra không thể thực hiện được và là ảo tưởng, nếu không có sự ân cần của Ðấng Khác. Bấy giờ xem ra là thiết yếu chấp nhận biết mình đáng tha thứ và đã được tha thứ để có thể tha thứ khi đến phiên mình.

4. Ðể làm cho mình có thể đón nhận sự tha thứ :

1) Ðể cho mình được yêu thương trong tha thứ không phải là việc dễ dàng. Ðể giúp bạn làm điều đó, tôi đề nghị với bạn một thực tập có khả năng đặt bạn trong tình trạng nhận lãnh cách đơn giản. Một số người hoạt động và quảng đại không bao giờ học tập để nhận lãnh, và còn ít hơn để cho mình được biệt đãi. Họ cảm thấy mình tự chủ và bảo đảm hơn về chính mình khi họ cho đi. Họ không chịu đựng được cảm giác lệ thuộc mà hành dộng nhận lãnh làm phát sinh nơi họ.

Bạn hãy sẵn sàng nhận lãnh và đón tiếp tất cả những gì mà cuộc đời cống hiến làm cho bạn cảm thấy dễ chịu hôm nay : mùi thịt quay, hương thơm cà phê, sức ấm mặt trời, nhìn thấy một quang cảnh đẹp, hình thú một ngọn cây, các màu sắc của mỗi mùa, cảm giác thoải mái trong đời, nghe một khúc nhạc hay, v.v... Bạn hãy để cho những cảm giác đó tắm gội toàn thân bạn, dù chỉ vài phút mỗi ngày.

2) Bài thực tập thứ nhì nhằm mục đích giúp gia tăng khả năng nhận lãnh của bạn :

Bạn giữ một tư thế thoải mái, rồi bạn nhớ lại những dấu hiệu quan tâm mà bạn đã nhận lãnh trong suốt cả ngày : những lời chào hỏi, những lời khen tặng, những khuôn mặt hạnh phúc khi gặp bạn, những dấu hiệu của lòng biết ơn, lá thư của một bạn thân, v.v... Bạn đã đón tiếp thế nào những quà tặng rất tầm thường nầy của cuộc đời ? Bạn có để thời giờ lắng xuống trong bạn niềm vui nhận lãnh, cho nó bắt rễ trong tình cảm của bạn và bạn có thể vui mừng vì nó không ?

3) Thực tập nầy được gọi là "Kinh cầu tình yêu", rút ra từ cuốn Aimer, perdre et grandir :

Bạn giữ tư thế thư giản và loại bỏ mọi sự chia trí. Bạn hãy bắt đầu bằng việc đọc cho mình "kinh cầu" những người, những loài vật, những cây cỏ và những đồ vật yêu thích bạn. Ví dụ : Gioan yêu tôi, mẹ tôi yêu tôi, Chúa yêu tôi, bạn Arthur yêu tôi, con chó của tôi yêu tôi, mặt trời yêu tôi, gió heo may yêu tôi, bức tranh của tôi yêu tôi, v.v... Bạn hãy lẹ lên mà không lo âu về mức độ hoặc phẩm chất của tình yêu. Ðiều quan trọng là bạn ý thức được nhiều hình thức tình yêu đang vây quanh bạn.

4) Ðể bạn biết mình đáng được tha thứ và đã được đặc xá, bạn hãy lập danh sách những người đã tha thứ cho bạn các lầm lỗi của bạn, các yếu đuối, các khuyết điểm và các lỗi của bạn trong quá khứ. Một khi danh sách chấm dứt, bạn hãy để thời gian trở về với từng sự tha thứ bạn đã lãnh nhận. Bạn hãy thưởng thức từng tha thứ một. Bấy giờ bạn hãy để tràn ngập bạn cảm giác về giá trị của bạn và không cần biết đến những cảm giác khác có thể đến làm giảm bớt nó đi.

5) Bạn hãy để thời giờ suy niệm những lời nầy của Thánh Gioan : "Trước mặt Chúa ta sẽ an tâm, vì dẫu lòng ta có trách ta đi nữa thì Chúa lớn hơn lòng của chúng ta và Ngài biết tỏ tường tất cả" (1Jn.3,19-20)


Giai đoạn mười : Thôi tự làm khổ mình vì muốn tha thứ

Ðừng theo ý muốn của mình cách khư khư và căng thẳng. Hãy thư giản, rảnh rang... Phó giao mọi sự cho Chúa.

Thomas Kelly

Cho đến đây, bạn đã dành biết bao nhiêu nổ lực để bước đi trên "con đường bấp bênh" của tha thứ, chắc chắn bạn ngạc nhiên về tiêu đề chương nầy : Thôi không tự làm khổ mình vì muốn tha thứ. Bởi vì đến lúc bạn đang trên đường dấn thân sâu hơn vào pha "thiêng liêng" của sự tha thứ, bạn nhận thấy rằng, thay vì giúp đỡ bạn, một nổ lực thuần túy ý chí có thể làm hại bạn. Ðã đến lúc bạn phải loại bỏ mọi thứ kiêu ngạo tinh tế và bản năng thống trị mà bạn đã cố nhượng bộ hầu muốn tha thứ bằng mọi giá. Tính cố chấp muốn tha thứ chỉ dựa vào những nổ lực riêng của mình phản ánh một cuộc kiếm tìm không lành mạnh chính mình. Vậy bạn phải từ chối muốn là tác giả duy nhất của sự tha thứ của bạn, và tiếp theo, là từ chối quyền lực cá nhân mà sự tha thứ đó có thể mang lại cho bạn.

Như thế, bạn sẽ giải thoát bạn khỏi mọi động lực giả trá trong việc tha thứ mà bạn có thể cho bạn. Chúng chỉ làm hỏng đi vẻ đẹp và sự chân thực của cử chỉ bạn thôi. Cùng lúc đó, bạn phải tạo nên trong bạn một sự trống rổng cần thiết cho ân sủng tha thứ ngõ hầu kiện toàn hoạt động của nó.

Trong suốt giai đoạn nầy, bạn học từ chối mọi ước muốn tự phụ không tương xứng với sự cao cả của tha thứ. Bạn cũng chuẫn bị cho mình biết từ chối cả với ý muốn hoàn hảo cá nhân, dù nó đáng ca tụng thế nào đi nữa. Tất cả những cái đó cho phép sự linh hứng của Thiên Chúa hành động cách tự do trọn vẹn. Dĩ nhiên bạn vẫn tiếp tục duy trì con tàu của bạn trên bến tha thứ, nhưng bạn thôi chèo chống hầu để cho ngọn gió nhẹ thần linh đẩy đi.

Khởi đi từ lúc quyết định tha thứ, bạn đã phải đòi buộc mình một mức lường khổ hạnh bản thân thật tốt. Nhưng tha thứ không phải là kết quả của một khổ hạnh bản thân đơn giản. Nó tùy thuộc một suối nguồn khác, suối nguồn thần linh. Bạn chấp nhận bạn không phải là tác nhân duy nhất trong sự tha thứ của bạn, song cộng tác với hoạt động thần linh. Phải chăng đó là cái mà chính Chúa Giêsu đã làm trên thập giá ? Ngài đã không muốn chính Ngài trao ban sự tha thứ cho các lý hình, nhưng Ngài đã kêu xin Chúa Cha làm việc đó cho Ngài : "Lạy Cha, xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm" (Lc.23,34).

1. Tính khư khư ngăn cản sự tha thứ đến :

Ý tưởng không cố chấp muốn tha thứ đã đến với tôi như thế nào ? Nó đã đến với tôi sau khi nghe câu chuyện của một tu sĩ truyền giáo đã miệt mài tha thứ bằng nổ lực của ý chí nhưng vô hiệu.

Là nhà truyền giáo nhiệt thành, ngài đã hiến trọn cả xác hồn cho công cuộc rao truyền Phúc Âm cho dân tộc ngài kết nghĩa. Nhưng những phương pháp tông đồ của ngài không được mọi người tán dương như nhau. Do những phương pháp đó mà ngài bị một số người vu khống. Những lời đó đến tai bề trên giám tỉnh. Bề trên giám tỉnh lo sợ và truyền lệnh cho nhà truyền giáo phải bỏ nhiệm sở và trở về cố hương trong thời gian ngắn nhất. Thật dễ hiểu rằng sau bao nhiêu năm tận tụy làm việc tông đồ, nhà truyền giáo của chúng ta phải hoàn toàn rụng rời khi nhìn thấy cả cuộc đời truyền giáo của mình bị sụp đổ trong chốc lát.

Sau ít tháng nghỉ ngơi và suy nghĩ, ngài muốn tự giải thoát mình khỏi tình cảm đau xót làm kiệt quệ, đầu độc cuộc đời ngài và ngài đã quyết định tha thứ cho cựu bề trên giám tỉnh về sự sai lầm và nỗi đau khổ đã gây nên cho ngài. Ngài bắt đầu cầu nguyện và xin người ta cầu nguyện cho ngài. Nhiều lần mỗi ngày, ngài lặp đi lặp lại với địa chỉ của cựu bề trên giám tỉnh : "Con tha thứ cho cha giám tỉnh". Nhưng khó nhọc mất đi, không có gì thành công trong việc làm vơi đi nổi cay đắng của ngài. Trái lại, sự khư khư muốn tha thứ của ngài chỉ đưa tới việc làm cho ngài chai cứng trong nỗi oán giận của mình.

Bị thất bại, vị tu sĩ nghĩ là tốt khi chạy đến phương thế tối hậu : một cuộc tĩnh tâm nhằm mục đích duy nhất là thành công trong việc tha thứ. Ngài bắt đầu nhiệm vụ ngay lúc khởi đầu cuộc sống ẩn cư : đọc nhiều về tha thứ, ở lâu giờ trong nhà nguyện và lặp đi lặp lại công thức : "Con tha thứ cho bề trên giám tỉnh". Có những lúc ngài tưởng đã đạt được mục đích. Nhưng hôm sau thức dậy vẫn với vết tổn thương đó ở trong tâm hồn.

Chiều ngày tĩnh tâm thứ tư, lúc nguyện gẫm ở nhà nguyện, ngài cầm lấy Tân Ước cách máy móc, ngài mở ra cách may rủi và gặp ngay đoạn nói về sự chữa lành người bại liệt. Lưu ý của những người biệt phái nhảy múa trước mắt ngài : "Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ được". Ngài hiểu ngay lập tức sự vô ích của việc khư khư tha thứ mà chỉ dựa vào sức riêng của mình. Cuối cùng ngài hiểu rằng chính ý chí quyền lực đã dẫn dắt ngài. Các cố gắng tốt đẹp của ngài chỉ dùng để che đậy sự sĩ nhục và cơn giận của ngài. Ngài đạt tới chỗ nhận ra ước muốn thầm kín của ngài muốn tỏ ra vượt trổi hơn cựu bề trên giám tỉnh, và cùng lúc thực hiện một sự báo thù tinh vi đối với bề trên giám tỉnh.

Khám phá nầy đã dẫn đưa ngài lại phó mình trọn vẹn cho Thiên Chúa. Ngài bắt đầu bằng việc nghỉ ngơi thư giản. Rồi ngài đặt mình trong trạng thái lãnh nhận ân sủng tha thứ, nhưng không biết thế nào, khi nào và ở đâu mà ân sủng đó được trao ban cho ngài.

Hai ngày sau, ngài có cảm giác, ban đầu không rõ, rồi dần dần rõ rệt, là có cái gì đó được tháo gỡ ở trong ngài. Khởi đi từ lúc đó, ngài cảm nhận một sự bình an xâm chiếm ngài, tâm hồn ngài trở nên bớt nặng nề và linh hồn ngài được giải thoát. Một cách lạ lùng, ngài không còn cảm thấy nhu cầu đọc lên công thức thần chú "con tha thứ cho bề trên giám tỉnh" nữa. Nỗi oán giận buông rơi, sự tha thứ ngự trị trong ngài.

2. Tránh mối nguy hiểm giảm trừ sự tha thứ thành một bó buộc luân lý :

Ðây là một lý do khác để từ chối tha thứ chỉ với sức mạnh của ý chí. Tha thứ không thể là đối tượng của một giới răn hoặc của một qui tắc luân lý. Thật dễ rơi vào sai lầm nầy và đánh mất khỏi sự tha thứ khía cạnh tự phát và nhưng không của nó. Phải chăng đó là cái mà thánh Phêrô không hiểu được khi hỏi Chúa Giêsu : "Thưa Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con sẽ tha thứ cho họ bao nhiêu lần ? Ðến bảy lần chăng ?" Phêrô, thấm đầy những mối bận tâm pháp lý, ao ước các qui tắc luân lý rõ ràng về tha thứ. Chúng ta biết câu trả lời của Chúa Giêsu. Ngài dùng cái đối nghịch của lệnh truyền Lamek đòi trả thù gấp bảy mươi lần và tuyên bố : "Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy" (Mt.18,21-22).

Câu trả lời của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rõ ràng rằng tha thứ không do một bắt buộc luân lý, nhưng do một tính nhưng không thần bí phản ánh các tương quan thân tình giữa Thiên Chúa và con người. Không phải là đối tượng của một giới răn, sự tha thứ trong tư tưởng của Chúa Giêsu bao hàm sự hoán cải tâm hồn và sự chọn lựa một lối sống phù hợp với phong cách của Thiên Chúa. Ai có thể tự phụ sống chính đời sống của Thiên Chúa mà lại không nhận lãnh ân huệ của Ngài ? Vậy chính là từ một tấm lòng tự do và tràn đầy ân sủng mới có thể phát sinh ra quyền năng tha thứ.

Khi nghe và đọc một số nhà giảng thuyết và "thầy thiêng liêng", có lẽ chúng ta bị thúc đẩy suy nghĩ ngược lại. Họ quá nhấn mạnh đến đòi buộc tha thứ đến đổi có cảm tưởng rằng tha thứ chỉ là kết quả của một ý chí quảng đại, không cần được ơn thánh Chúa nâng đỡ. Với những ý nghĩ như thế, họ duy trì các thính giả và đọc giả của họ trong một ảo tưởng lớn lao về khả năng tha thứ của họ. Chẳng lạ gì vì những thất bại liên tục trong việc tha thứ của họ, nhiều người đành để buông xuôi thất vọng.

Một số thực hành tôn giáo trong Giáo Hội đã không luôn luôn biết cách tránh khỏi cái trượt ngã nầy trong vấn đề tha thứ. Người ta nghĩ đến những chỉ dẫn ngày trước trong việc ban bố bí tích tha thứ. Những chỉ dẫn đó phản ánh một não trạng quá pháp lý và vụ luật. Người ta nói đến tòa giải tội, đến cha giải tội như một vị quan tòa, nói đến sự buộc xưng tội, nói đến sự cần thiết phải xưng thú tỉ mỉ các lầm lỗi. Cuối cùng chẳng có gì ngạc nhiên khi người ta mất đi cái nhìn về tính nhưng không của tình yêu Thiên Chúa đối với người có tội. Một nền thần học vụ luật nào đó về tha thứ đã không đóng góp một phần vào lòng đố kỵ chung chung đối với bí tích tha thứ, vì đánh giá thấp tầm quan trọng của bí tích nầy trong việc tăng trưởng thiêng liêng đó sao ? Carl Jung nói nhiều trong chiều hướng nầy khi ông viết rằng kẻ nào không còn có thể thổ lộ lương tâm mình với một người khác thì kẻ đó hiến mình cho một "sự cô độc thiêng liêng".

3. Lời cầu nguyện "khẳng định" ơn tha thứ :

Tôi đã nói trên kia rằng để tha thứ cách hiệu quả cần phải từ bỏ "ý chí quyền lực" của mình. Mà sự từ bỏ nầy chỉ có thể được trong cầu nguyện, một lời cầu nguyện được thực hiện với lòng chắc chắn được nhậm lời. Yếu tố tin tưởng được sống trong cầu nguyện trở thành nhân tố hiệu quả của nó. Thánh Marcô nhấn mạnh tầm quan trọng của nó : "Thầy bảo thật các con : Nếu ai nói với quả núi nầy "hãy cất lên gieo mình xuống biển, mà trong lòng nó chẳng chút nghi nan, nhưng tin là sẽ xảy ra như lời mình nói, thì nó sẽ được cho như vậy" (Mc.11,23). Vì thế tôi đề nghị rằng một lời cầu nguyện phải để rất ít chỗ cho nghi nan và do dự, đến đổi nó đi trước hoặc sống trước sự kiện toàn của lời cầu xin. Bằng những từ ngữ khác, tôi khuyến cáo nên coi sự tha thứ như một biến cố đã được thực hiện nơi mình rồi. Tuy nhiên, không được cảm thấy bị bó buộc chấp nhận các công thức cầu nguyện đã được gợi ý sẵn, song được hoàn toàn tự do sáng tạo ra một lời cầu nguyện khẳng định riêng của mình.

Bạn giữ một tư thế thoải mái trong một chỗ yên tỉnh.

Ðể một ánh sáng dịu bao bọc chung quanh bạn.

Ðặt mình trước mặt Chúa.

Xin Ngài cho bạn được sống sự tha thứ trong hiện tại.

Bạn đã tha thứ cho kẻ xúc phạm bạn. Bạn hãy ý thức điều đó, bạn lắng nghe mình, ngắm nhìn mình trong hoàn cảnh đó.

"Tôi cảm thấy mình đã được giải thoát khỏi mọi nỗi oán giận.

Ngực tôi được cất khỏi mọi lo âu.

Tâm hồn tôi trở nên ngày càng nhẹ nhàng và vui tươi hơn.

Hơi thở tôi sâu hơn và đôi bàn tay tôi ấm áp hơn.

Ðôi bàn chân tôi đứng vững trên đất cứng.

Tôi cảm nhận mình đã được giải thoát khỏi gánh nặng của xúc phạm.

Một cuộc đối thoại nội tâm được thiết lập ở trong tôi.

Tôi nghe những lời Chúa phán : "Con có giá trị trước mắt Ta".

Tôi thưởng thức những lời nầy. Tôi nghe Chúa nói với tôi : "Con được giải thoát khỏi mọi lo âu và đau khổ. Con bước vào một giai đoạn mới của cuộc đời con. Từ những lỗi lầm quá khứ của con, con rút ra được những bài học khôn ngoan và con học biết con được nhiều hơn. Thương tổn của xúc phạm đã chịu được biến đổi thành suối nguồn phong phú và trưởng thành".

Tôi theo đuổi cuộc đối thoại bên trong : "Tôi trở nên mỗi ngày một quan trọng hơn trước mắt tôi. Tôi chấm dứt phản bội lại mình. Từ nay tôi là người bạn thân tốt hơn của mình. Tôi yêu thương kẻ khác như chính tôi. Cả kẻ xúc phạm tôi cũng là đối tượng của tình yêu đó".

Tôi nhận thấy rằng vết thương của tôi đã trở thành sẹo được chữa lành đúng cách.

Ký ức của tôi không còn làm khổ tôi nữa. Trái lại, tôi nhớ lại mọi hoàn cảnh của xúc phạm mà không cảm thấy cay đắng.

Tâm trí tôi sẵn sàng khám phá ra vẻ đẹp nơi tất cả mọi người, kể cả nơi kẻ đã xúc phạm tôi.

Tôi thấy mình đứng thẳng, hiên ngang, tự do và được giải thoát trước mặt kẻ xúc phạm giờ đây đã trở nên cận nhân của tôi.

Tôi thấy mình ngày càng cảm thông hơn đối với mình và đối với tha nhân.

Tôi thấy và cảm nhận mình trở nên trong suốt đối với sự tha thứ của Chúa và thành người chuyển giao sự tha thứ của Ngài. Trong tôi sáng lên những tia lửa tình yêu của Ngài, cho tôi và cho kẻ đã xúc phạm tôi".

Sau khi kết thúc lời cầu nguyện của mình, bạn lấy lại dòng chảy bình thường các hoạt động của bạn, xác tín rằng thế giới đã không còn như cũ, từ lúc bạn đã kinh nghiệm được hậu quả của tha thứ ở trong bạn và ở trong người kia.


Giai đoạn mười một : Mở lòng ra với ân sủng tha thứ

Chính trong lòng sự tha thứ mà công cuộc sáng tạo tái sinh trong sự tinh tuyền ban đầu của nó.

Philippe Le Touzé

Sự trống rổng nội tâm mà bạn đã tạo ra bằng cách từ bỏ hữu thể độc nhất tác giả sự tha thứ của bạn làm cho bạn nên sẵn sàng đón tiếp tình yêu của Thiên Chúa. Bạn tự chuẫn bị mình để tha thứ dưới tác động của Chúa. Bạn đáp lại mời gọi của Chúa Giêsu : "Hãy nhân từ như Cha anh em là Ðấng nhân từ" (Lc.6,36). Không phải bạn nhằm bắt chước Chúa bằng cách cậy dựa vào sức riêng của bạn, nhưng bạn sẵn sàng đón nhận sự sống của Ngài, suối nguồn tình yêu và tha thứ.

Có thể rằng bạn còn cảm thấy do dự và bất lực để tha thứ, ngay cả sau khi đã kêu xin sự trợ giúp của Chúa. Giải thích sự ách tắc nầy thế nào ? Có lẽ nó đến từ những hình ảnh sai lạc về Thiên Chúa làm che khuất bạn khuôn mặt đích thực đầy tình yêu và trắc ẩn của Ngài.

1. Từ vị thiên chúa công lý đến Thiên Chúa chân thật :

Tuyên xưng trong lý thuyết rằng Thiên Chúa là một vị Thiên Chúa tình yêu và nhân từ là một việc khá dễ dàng. Nhưng đạt tới sống thực sự điều đó thì lại không dễ dàng chút nào. Quả thật, không dễ dàng biện phân vị thiên chúa muốn làm sáng tỏ công lý của óc tưởng tượng tôn giáo của mình với vị Thiên Chúa Tình Yêu và Nhân Hậu. Tuy nhiên, ngay lúc tha thứ, sự biện phân nầy bắt buộc phải có. Chúng ta sẽ không bao giờ thành công trong việc tha thứ thực sự, nếu trước đó đã không đi vào trong tương quan với Thiên Chúa chân thật.

Trong thực hành lâm sàng, tôi thường có cơ hội hướng dẫn các khách hàng phân biệt vị thiên chúa muốn làm sáng tỏ công lý với Thiên Chúa Tình Yêu. Câu chuyện sau đây của một nữ khách hàng của tôi có thể làm sáng tỏ những điều tôi nói.

Sau khi mẹ bà qua đời, một nữ tu nọ cứ bị ám ảnh bởi ý nghĩ rằng sự trừng phạt của Thiên Chúa vừa đổ xuống trên bà. Cùng lúc bà cảm thấy mình vừa bị bối rối vừa bị nhục nhã trở thành nạn nhân của một cơn ám ảnh như thế. Là giáo sư môn Giáo lý, bà dạy cho các sinh viên của mình một Thiên Chúa Tình yêu và Nhân hậu. Vậy mà ở mức độ "lòng dạ" của bà, bà bị đeo đuổi bởi một vị thiên chúa quấy rầy và trả thù, tất cả vì bà đã chưa là một "nữ tu tốt".

Lúc khởi đầu, công việc trị liệu nhằm ưu tiên trên cái chết của mẹ bà. Một khi khơi mào được tang chế của mẹ bà, tôi đã tìm được thời gian thuận tiện để gợi lên quan niệm của bà về vị thiên chúa trả thù và cơn khủng hoảng về cảm giác có lỗi do đó mà sinh ra. Bàg tỏ ra bực tức khi nhắc lại điều đó, nhưng bất chấp những ngập ngừng của bà, tôi đánh liều hỏi bà xem cảm giác có lỗi mà bà cảm thấy là một phản ứng riêng lẻ hay đó là một khuynh hướng thường ngày. Sau khi cho tôi biết rằng tôi quá coi trọng một biến cố không đáng kể như thế, bà đã thú nhận rằng trong những hoàn cảnh lo âu, ý tưởng về một thiên chúa trừng phạt đã đến ám ảnh bà. Bà đã tỏ bày cho các vị hướng dẫn thiêng liêng của bà, nhưng các vị nầy đã khuyên bà suy gẫm về lòng tốt lành của Thiên Chúa và đừng nghĩ là mình có lỗi nữa. Những lời khuyên nầy đã tỏ ra không có hiệu quả.

Tôi xem ra thật khẩn cấp là bà phải được giải thoát một lần dứt khoát khỏi một hình ảnh sai lầm như thế về Thiên Chúa, hoàn toàn không thích hợp với đời sống cầu nguyện và công việc dạy giáo lý của bà, điều mà bà cũng ý thức rõ. Bà cũng xin tôi giúp bà loại bỏ khỏi cuộc đời mình vị thiên chúa trừng phạt đó. Tôi biết rõ rằng không những chúng ta không thể loại bỏ khỏi một mặc cảm tâm lý trầm trọng như thế, nhưng chúng ta còn không được tìm cách làm điều đó nữa. Khách hàng của tôi phải học thuần hóa mặc cảm ấy và sống với nó. Chính vì vậy tôi xin bà bắt đầu đối thoại với nó.

Ðó là điều bà đã làm trong suốt một cuộc tĩnh tâm. Bà quá đổi ngạc nhiên, đàng sau cái hình ảnh lạ lùng về thiên chúa đó, bà nhận ra hình ảnh của mẹ bà. Mẹ bà đã khắc sâu trong trí não bà từ hồi bà còn nhỏ một nỗi sợ hãi bệnh hoạn đối với Thiên Chúa. Mẹ bà thường nói với bà về những người bà con và bạn bè đã bị Chúa phạt vì họ đã không vâng lời Ngài. Khám phá nầy, dù có tính chất giải thoát, đã làm cho bà buồn nhiều. Bởi vì cùng lúc bà nhận thấy phần lớn cuộc đời bà đã phải chịu cái hình ảnh của vị thiên chúa nghiêm khắc và đe dọa đó thống trị.

Những ngày kế tiếp, bà theo đuổi cuộc đối thoại với vị thiên chúa quan tòa và trừng phạt của mình. Bà xin vị thiên chúa nầy nhường chỗ dần dần cho Thiên Chúa Tình Yêu của Chúa Giêsu Kitô và đừng đứng ở giữa bà và Ngài nữa, nhất là trong những lúc gặp khủng hoảng. Hơn nữa, bà bảo đảm với vị thiên chúa đó rằng bà tán dương ý hướng tích cực của người muốn làm cho bà thành một người có hạnh kiểm luân lý không thể chê trách vào đâu được hết.

Câu chuyện chứng tỏ tầm quan trọng phải chăm chú khảo sát quan niệm của mình về Thiên Chúa và sửa chữa nó, nếu muốn khá phá thấy mình đáng tha thứ và chính mình trở nên có khả năng tha thứ. Chúng ta không thể cứ giữ mãi những hình ảnh trẻ con về Thiên Chúa, những hình ảnh của một quan tòa vô tâm, một người cha nghiêm khắc, một cảnh sát, một giáo sư cầu toàn, một con người vô cảm, một nhân vật ngọt ngào đầu môi chót lưỡi, một nhà luân lý sợ sệt, v.v... Những vị thiên chúa đó làm cho tín đồ của họ thành bất lực trong vệc tha thứ.

2. Trong tình yêu của Ngài, Thiên Chúa không bị giới hạn bởi những sự tha thứ nghèo nàn của chúng ta :

Nhưng đó không phải là những hình ảnh sai lầm duy nhất về Thiên Chúa cản trở việc tha thứ. Còn có hình ảnh của một vị thiên chúa mà sự tha thứ bị điều kiện bởi những sự tha thứ của con người. Thiên Chúa chỉ tha thứ cho tôi với điều kiện tôi tha thứ cho kẻ khác. Lối suy tư về tha thứ nầy rất phổ biến, tôi đã gặp nó nơi đa số các tham dự viên những khóa học về tha thứ của tôi. Họ tưởng rằng có thể biện minh cho lối suy tư đó bằng cách nêu lên những lời của Kinh Lạy Cha :"Xin tha thứ cho những xúc phạm của chúng con như chúng con tha thứ cho những kẻ xúc phạm chúng con".

Làm sao cắt nghĩa việc các tín hữu kitô đã đi đến một quan niệm như thế về sự tha thứ của Thiên Chúa ? Có nên nghĩ rằng một truyền thống kitô như thế đã đánh mất sứ điệp thứ nhất của Phúc Âm không ? Từ ý niệm về sự tha thứ nhưng không của Thiên Chúa, dần dần chúng ta đã trượt vào ý niệm của một tha thứ-phần thưởng của chính những sự tha thứ của mình. Thiên Chúa đặt giới hạn cho tình yêu của Ngài và thôi lấy sáng kiến tha thứ để chạy theo những sự tha thứ nghèo nàn của con người sao ?

Ý niệm về sự tha thứ của Thiên Chúa được xem như một thứ công bằng ban thưởng có thể tìm thấy dấu vết trong Tin Mừng theo thánh Matthêu : "Quả thực, nếu các ngươi tha thứ cho người khác lầm lỗi của họ thì Cha các ngươi trên trời cũng sẽ tha thứ cho các ngươi ; nhưng nếu các ngươi không tha thứ cho người ta, thì Cha các ngươi cũng không tha thứ cho các ngươi lầm lỗi của các ngươi đâu" (Mt.6,14-15). Các nhà chú giải giải thích định hướng nầy của Matthêu là do sự kiện Matthêu nói với một cử toạ còn thấm nhiễm Lề Luật Cựu Ước. Ngay cả trong những bản văn khác, khi khẳng định rõ ràng tính nhưng không của ơn cứu độ, Matthêu cũng khai triển cả một dòng tư tưởng rabbi bị tinh thần vụ luật chế ngự. Chính tư tưởng nầy lại được gặp thấy trong ý niệm về tha thứ. Chúng ta ghi nhận ảnh hưởng của Phúc Âm Matthêu có ưu thế trong việc đào luyện tâm thức kitô giáo, bởi vì mãi cho đến Công đồng Vatican II, chúng ta đọc hầu như mọi bản văn của Matthêu trong các phụng vụ Chúa nhật. Vậy chẳng ngạc nhiên chi khi người tín hữu nghĩ rằng có thể mua lấy sự tha thứ của Thiên Chúa bằng các công nghiệp của chính những sự tha thứ của mình. Như vậy, sự tha thứ mang hình thức của một cuộc mặc cả tinh vi giữa Thiên Chúa và con người.

Ý tưởng về một vị thiên chúa cho qua cho lại không xứng hợp với lòng nhân hậu vô cùng của Thiên Chúa. Nó tạo nên một lầm lẫn lớn và một ngõ cụt lớn hơn trong đời sống thiêng liêng, đặc biệt nơi những người cảm thấy không thể tha thứ. Ðể bảo đảm ơn cứu độ đến từ sự tha thứ của Thiên Chúa, họ phải cố gắng tha thứ bằng mọi giá, ngay cả khi cảm thấy bất lực để làm việc đó. Hoặc là họ thú nhận không thể tha thứ nên không đáng được sự tha thứ của Chúa vì sự thiếu quảng đại của họ, hoặc là họ tự dối mình trong việc thỏa thuận trao ban một sự tha thứ giả dối, hoặc ít ra là không trung thực. Chúng ta thấy những kẻ tưởng mình có thể đáng hưởng sự tha thứ của Chúa rơi vào trong một lưỡng đạo xao xuyến như thế nào !

Làm sao thoát ra khỏi con đường không lối thoát nầy ? Phương thế duy nhất là nhận rõ hai chân lý nầy.

Thứ nhất là Thiên Chúa luôn giữ sáng kiến đi bước đầu trong việc tha thứ, như chỉ Ngài mới có sáng kiến tình yêu. Thánh Gioan không do dự khẳng định điều đó : "Không phải chúng ta đã yêu mên Thiên Chúa, mà chính Ngài đã yêu thương chúng ta trước" (1 Jn.4,10).

Chân lý thứ hai phát xuất từ chân lý thứ nhất. Tha thứ không phải là hành động của ý chí chỉ tùy thuộc ở mình. Tha thứ trước hết là hoa trái của một cuộc hoán cải của tâm hồn, một sự mở ra với ân sủng tha thứ. Sự hoán cải nầy, ngay cả khi nó có thể là tức thời và tự phát trong một số trường hợp, thường sinh ra, chín muồi và tiến hóa trong suốt một giai đoạn dài hoặc ngắn.

Quả thế, nếu không xác tín về hai sự thật nầy, chỉ nên đọc lại dụ ngôn người mắc nợ không có khả năng chi trả (Mt.18,23-35). Ðó là câu chuyện của một ông chủ có sáng kiến tha một món nợ rất lớn cho một trong các con nợ của ông. Nhưng con nợ nầy không có cùng lòng khoan hồng đó đối với một người nghèo mắc nợ y một số tiền nhỏ. Chúng ta biết phần còn lại của câu chuyện : ông chủ, một khi biết được sự cứng cỏi và khắc nghiệt của người mắc nợ không có khả năng chi trả, đã sai bỏ tù anh ta cho đến khi trả hết món nợ.

Hai điểm đáng ghi nhận trong dụ ngôn liên quan đến sự tha thứ. Một đàng, chính ông chủ, trường hợp nầy là Thiên Chúa, có sáng kiến đưa ra một cử chỉ thương xót. Ðàng kia, con nợ được đặc ân không để mình bị đánh động hay chịu ảnh hưởng bởi lòng quảng đại của chủ nợ. Lòng quảng đại đáng lẽ phải dẫn anh ta tha thứ cho con nợ của mình khi đến lượt anh ta. Anh ta đã không đón nhận cách sâu xa sự tha thứ của chủ anh, đến độ để mình được biến đổi và trở nên có khả năng đưa ra một cử chỉ khoan hồng tương tự. Chính trong việc đó mà anh tự kết án mình.

Huyền nhiệm tự do của con người có thể đi tới chỗ từ chối ân sủng. Nên thêm rằng mặc dầu Ngài có sáng kiến trao ban sự tha thứ, Thiên Chúa không thể bắt ép buộc chúng ta đón nhận nó. Một cách nào đó, Chúa tự làm cho mình ra bất lực trước sự từ chối "tha nợ" - tha thứ của Ngài. Chắc chắn khác với ông chủ của dụ ngôn, Thiên Chúa tỏ ra kiên nhẫn hơn và biết chờ đợi lúc thuận tiện cho các con tim mở ra, ngay cả những tâm hồn ngoan cố nhất.

3. Sự tha thứ khiêm tốn của Thiên Chúa của Chúa Giêsu :

Nhưng ai là Thiên Chúa tha thứ đích thực ? Ðể hiểu rõ các phong cách của Thiên Chúa trong việc tha thứ, chúng ta hãy nhìn ngắm cách Chúa Giêsu đối xử với các "tội nhân". Ðối với họ, Ngài không tỏ ra một thái độ trịch thượng, dạy đời hoặc khing miệt, mà lại tỏ ra giản dị, khiêm tốn và cảm thông. Ngài có sáng kiến đi thăm những con người bị tù đày trong lầm lỗi của họ. Rồi một khi ở với họ, Ngài làm cho họ thêm giá trị bằng cách tự đặt mình trong trạng thái đón tiếp họ : Với người đàn bà Samaria, Ngài xin nước uống ; nhìn thấy Giakêu, Ngài tự mời mình đến trọ nhà ông ; Ngài để cho Maria Madalêna xức dầu hôn chân Ngài. Ngay cả trước khi nói đến tha thứ, Ngài bắt đầu thiết lập một mối tương quan giữa người với người. Vậy chính trong sự đón tiếp căn bản con người mà Chúa Giêsu biểu lộ sự tha thứ của Ngài.

"Làm thế nào mở lòng mình ra với ơn tha thứ của Chúa ? Làm sao bắt chước Ngài ?" Jean-Marie Pohier hạnh phúc trả lời : "Thiên Chúa của Kinh Thánh vừa mạc khải cho chúng ta rằng Ngài không bị tổn thương - Ngài là người cha của đứa con trai hoang đàng, là người đi tìm con chiên lạc - vừa cho chúng ta biết rằng Ngài từ chối bắt chúng ta phải trả giá. Ðó là một nghịch lý không chịu nổi đối với chúng ta. Tôi cũng nghĩ rằng người ta chỉ có thể bắt chước sự tha thứ của Chúa cách rất xa. Hy vọng rằng nhờ năng lui tới với Chúa, cuối cùng Ngài có thể ảnh hưởng trên chúng ta một chút..."

4. Ðể mở lòng ra với ân sủng tha thứ :

Như đối với các cuộc tập luyện khác, bạn giữ một tư thế thoải mái và loại khỏi bạn mọi sự chia trí.

Bạn hãy để mình được dẫn qua một bức tranh tâm trí. Trong khi lắng nghe những lời của bức tranh, bạn hãy chú ý tôn trọng nhịp điệu riêng của bạn.

Bạn hãy để thời giờ đi vào trong chính mình để đuổi kịp thế giới biểu tượng và thiêng liêng của bạn. Nhắm mắt lại nếu điều đó giúp đỡ bạn.

Bạn tìm thấy mình ở trong một cánh đồng đầy hoa, chan hòa ánh sáng mặt trời. Bạn hãy để thời gian chiêm ngắm quang cảnh ấy và thưởng thức sự tươi mát của địa phương.

Dưới kia, bạn thấy một căn nhà được bao bọc bởi một ánh sáng đặc biệt. Bạn đi về phía nó. Bạn tìm thấy ở đó một cầu thang bằng đá dẫn xuống tầng hầm. Từng bước một, bạn xuống bảy bậc. Bây giờ bạn đang đứng trước một cánh cửa dày bằng gỗ sến được chạm trổ tinh vi với những mẫu hình duyên dáng. Sự tò mò thúc đẩy bạn mở cửa ra và đi vào. Bạn ở trong một gian phòng ánh sáng kỳ lạ. Hết sức ngạc nhiên, bạn thấy một bản sao của chính bạn bị cột vào một chiếc ghế. Hãy để thời giờ khảo sát kỷ các dây buộc bạn. Những phần nào nơi thân thể bạn bị buộc chặt ? Loại dây gì trói chúng ? Các dây đó làm bằng vật liệu chi ? Bạn bắt đầu nhận thức ra sự xúc phạm đã trói buộc bạn thế nào. Bạn dần dần ý thức được chính bạn đang ở đó, bị trói chặt vào ghế. Bạn đi vào trong chính mình để chỉ làm nên một với người bị trói.

Rồi bạn nhận thấy rằng không phải chỉ có một mình bạn ở trong phòng. Bạn ngờ vực sự hiện diện của một hữu thể quyền năng. Bạn nhận ra Chúa Giêsu. Ngài hỏi bạn : "Con có muốn Ta giúp con cởi trói không ?". Ngạc nhiên về sự giúp đỡ của Ngài, bạn tự đặt lại câu hỏi : "Có phải tôi thực sự muốn được giải thoát không ? - Có phải tôi sắp thoát khỏi xiềng xích không ? - Tôi có thể chịu đựng tình trạng mới tự do không ? - Những lợi ích nào tôi có thể rút ra được từ hoàn cảnh tù ngục của tôi ?". Bạn để ít thời gian tranh luận về những câu hỏi quan trọng nầy.

Nếu bạn muốn được giải thoát, hãy trình bày ước muốn ấy với Chúa Giêsu. Hãy nói với Ngài về những sợi dây trói buộc bạn và ngăn cản bạn tha thứ cho kẻ xúc phạm bạn. Cứ mỗi lần bạn xác định rõ mỗi trở ngại cho tha thứ, bạn hãy nhìn Chúa Giêsu đang tháo gỡ dần dần những cái ràng buộc bạn.

Mỗi khi một phần thân xác bạn được giải thoát, bạn hãy dừng lại để thưởng thức sự nâng đỡ mà sự tự do mới của bạn mang lại cho bạn. Các sợi dây cứ càng buông ra thì bạn càng để cho sự hòa điệu, trong sáng và bình an xâm chiếm tất cả con người của bạn.

Trong tình trạng ân sủng mà bạn cảm nhận tình yêu Thiên Chúa cư ngụ trong bạn, bạn hãy nhìn con người xúc phạm bạn đang tiến đến gần bạn. Bạn có bắt đầu nhận ra có cái gì đó thay đổi trong bạn không ? Bạn hãy nhìn vào đôi mắt con người nầy. Bạn có thể thẳng thắn nói với y "tôi tha thứ cho anh" không ? Nếu có, thì bạn hãy làm đi. Nếu không, bạn hãy trở về với chính mình và tự hỏi những sợi dây nào còn giữ bạn lại. Bạn có thể nối lại cuộc đối thoại với Chúa Giêsu để xin Ngài giải thoát bạn khỏi những trở ngại cuối cùng đối với sự tha thứ. Bạn cũng có thể dừng lại nơi đây, dù phải làm lại sau nầy cùng một tập luyện bức tranh, ngõ hầu đi xa hơn trên con đường tha thứ. Một ngày sẽ tới, bạn sẽ hết sức ngạc nhiên thấy sự tha thứ chảy ra từ suối nguồn của trái tim bạn.

Nếu bạn đã thành công trong việc tháo cởi hết mọi dây ràng buộc bạn, bạn hãy tự hỏi bạn sẽ làm gì trong tương lai, với những sợi dây đó. Chúng sẽ được sử dụng cho bạn như những biểu tượng, nhắc nhở bạn những bài học quí giá mà bạn sẽ rút tỉa được từ kinh nghiệm của mình.

Bây giờ bạn sẽ cử hành thế nào sự giải thoát mới của bạn ?

Khi bạn cảm thấy đã sẵn sàng, bạn hãy đứng và ra khỏi phòng. Bạn mở cánh cửa sến và trèo lên bảy bậc cấp để lộ ra trong ánh sáng ban ngày. Từ từ bạn bắt lại liên lạc với bên ngoài. Bạn ý thức các tiếng động. Bạn mở to mắt. Bạn cảm thấy an tĩnh, thư giản, mát mẻ và khoan khoái.

Chắc chắn bạn muốn chia sẻ những cảm nghĩ của bạn với một người nào đó, hoặc bạn hãy ghi lại trong nhật ký.

Xin tha thứ cho chúng con những xúc phạm của chúng con.

Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con những xúc phạm của chúng con,

Không theo mức độ của những tha thứ nghèo nàn của chúng con,

Không như chúng con có thói quen tha thứ,

Không theo gương những tha thứ có tính cách thương mại và tính toán của chúng con.

Nhưng hẳn là :

để khám phá ra lòng thương xót dịu dàng của Chúa

để cảm nhận sự dịu dàng nguôi ngoai của Chúa

để dạy cho chúng con cũng tha thứ

để tha thứ cho những ai cùng chia sẻ cơm bánh với chúng con

để không rơi vào tuyệt vọng vì xấu hổ

để từ chối ước muốn tha thứ cách ngạo mạn

để lột mặt nạ những sự ngay thẳng giả dối và những phẩn nộ của chúng con

để chúng con có thể tha thứ cho chính mình

để những tha thứ của chúng con trở thành phản ánh sự tha thứ của Chúa.


Giai đoạn mười hai : Quyết định chấm dứt hoặc đổi mới quan hệ

Những tình bạn được nối lại đòi hỏi nhiều chăm sóc hơn là những tình bạn không bao giờ bị đổ vở.

La Rochefoucauld

Hoan hô ! Chúc mừng ! Bạn đã tới giai đoạn cuối cùng của tiến trình tha thứ lâu dài của bạn. Bây giờ bạn đã tha thứ cho kẻ xúc phạm bạn, việc còn lại là bạn quyết định sẽ làm gì với mối liên hệ còn nối kết bạn với y. Bạn muốn đeo đuổi mối liện hệ nầy nhằm đào sâu nó, hoặc bạn nghĩ rằng tốt hơn nên chấm dứt ?

1. Không lẫn lộn tha thứ với hòa giải :

Trong một số sách, tha thứ thường đồng nghĩa với hòa giải. Chính vì thế, nhiều người sợ tha thứ cho kẻ xúc phạm đến họ, vì do đó, họ phải hòa giải với nó và lại phải đưa thân ra hứng chịu cùng những quấy nhiễu đó từ phía nó. Ðó là trường hợp một đồng nghiệp chuyên gia tâm lý của tôi khi cô bạn thân phản bội những bí mật của bà. Bà từ chối tha thứ cho cô ta, bởi vì bà nghĩ là bà sẽ phải tâm sự trở lại với cô ta và sẽ còn phải bị tổn thương vì sự không kín đáo của cô ta. Mới đây tôi cũng đã nhận thấy cùng một nỗi sợ hải đó nơi một người. Người nầy cũng lẫn lộn hành động tha thứ với hành động hòa giải.

Ðây là điều đã xảy ra : một nữ tín đồ Tin Lành say mê vị mục sư của mình bằng một tình yêu rất mạnh. Vị mục sư cũng say đắm nàng và đã đáp trả những cử chỉ cầu thân của nàng mà không sợ làm lu mờ thanh danh của mình, vì ông đã kết hôn và là người cha gia đình. Chắc chắn về tình yêu của người đàn ông nầy, nàng rời bỏ tổ ấm gia đình để thuê một căn hộ sống một mình. Nàng đã nêu lý do cho chồng nàng rằng nàng muốn tìm lại chính mình và suy tư về định hướng cho cuộc đời nàng. Lý do thật là để có thể sống thân mật hơn với người yêu đã dự tính bỏ vợ ngõ hầu đi đến với nàng. Nhưng vợ của mục sư đã nghe phong phanh sự việc nên đã thúc đẩy chồng đi gặp một vị cố vấn hôn nhân gia đình. Cuối cùng, bà đã thành công trong việc can ngăn vị mục sư đi sống với tình nhân.

Nữ nhân vật trong câu chuyện của chúng ta sống cô đơn một mình trong căn hộ nhỏ, và sau khi suy nghĩ, nàng đã quay trở về tổ ấm gia đình. Còn bị va chạm vì đã bị bỏ rơi, chồng nàng đòi hỏi nàng phải chính thức thề hứa trung thành. Ông coi đó là điều kiện tất yếu cho sự tha thứ của ông và sự trở về tổ ấm gia đình có thể xảy ra của vợ ông. Vợ ông phản đối điều đó. Họ đang trong tình trạng ấy khi đến gặp tôi. Sau vài lần gặp gỡ, tôi đã thành công làm cho người chồng hiểu rằng ông không thể đặt điều kiện cho sự tha thứ của ông : sự tha thứ phải là trọn vẹn và vô điều kiện. Tuy nhiên, một khi ông đã tha thứ, ông có thể thương thảo các điều kiện cho cuộc trở về của vợ ông ở trong gia đình. Ông cũng đã lẫn lộn tha thứ với hòa giải.

Sự lẫn lộn nầy được tìm thấy không những nơi những con người bình thường, mà ngay cả nơi các chuyên gia về tha thứ. Một số thầy dạy tu đức và thần học gia đã làm những khẳng định như thế nầy : "Mục đích tối hậu của tha thứ, chính là sự hòa giải ; tha thứ và hòa giải là hai thực tại không thể tách rời nhau ; tha thứ sẽ không đầy đủ nếu không có hòa giải". Có thể nói rằng đối với nhiều người trong họ, tha thứ tương đương với việc quên đi tất cả, với việc làm như chẳng có gì xảy ra cả và quan hệ lại như trước khi xúc phạm. Cách nhìn nầy coi trọng tư tưởng ma thuật hơn là khoa tâm lý lành mạnh của con người. Nếu hòa giải phải là qui phạm cho tính đích thực của sự tha thứ thì chúng ta hiểu tại sao biết bao nhiêu người từ chối tha thứ. Họ có cảm tưởng như cứ giả vờ tha thứ, và cuối cùng, tự phản bội chính mình.

õ ràng phần tiếp theo thông thường và đáng ao ước của tha thứ là hòa giải. Sự hòa giải đó tốt hơn nữa đối với những người liên kết với nhau bằng những liên hệ rất chặt chẻ. Ðó là trường hợp của các đôi vợ chồng, cha mẹ, con cái, bạn thân, người láng giềng và đồng nghiệp. Nhưng, cả khi sự hòa giải có thể có được thì cũng không được tưởng tượng rằng nó bao hàm việc tìm gặp lại mình như trước khi chưa có lỗi lầm. Sau một sự xúc phạm nặng nề, chúng ta không thể lấy lại quan hệ đã qua được nữa, vì lý do đơn giản rằng nó không còn nữa và cũng không thể tồn tại nữa. Hơn nữa, chúng ta có thể nghĩ tới hoặc đào sâu quan hệ đó, hoặc cho nó một hình thức khác.

2. Tha thứ và chấm dứt một quan hệ :

Còn có một hoàn cảnh mà sự hòa giải với kẻ xúc phạm tỏ ra không thể có được. Chúng ta lấy chẳng hạn trường hợp có vấn đề với một người xúc phạm vô danh, đã chết hay không tìm thấy ; hoặc với một kẻ xúc phạm không chịu hối cải hoặc một người có lỗi đã thành cố tật và vô trách nhiệm. Có phải vì vậy mà kết luận rằng sự tha thứ là không thể được không ? Chẳng hề như thế. Sự tha thứ trước hết là một trạng thái của con tim. Do đó, không những nó có thể được trao ban, mà còn nhất thiết phải tha thứ để lấy lại sự bình an và tự do nội tâm, dù kẻ xúc phạm có sẵn sàng hay không, tới gần được hay không.

Trong những hoàn cảnh mà người tha thứ không thể bộc lộ trực tiếp sự tha thứ của mình, thì y vẫn luôn luôn còn có khả năng làm việc đó bằng một cử chỉ biểu tượng như viết một lá thư mà sẽ không gởi đi, tập hợp quanh mình một vật tượng trưng cho sự tha thứ của mình, hoặc đặt một cử chỉ hòa giải vào chỗ của một người hay của một nhóm người đóng vai kẻ xúc phạm. Ðó là cái đã xảy ra trong một giáo xứ mà người chăn chiên đã phạm những hành vi lạm dụng tình dục. Bản quyền sở tại đã cử một vị giảng thuyết đến giúp cộng đoàn tự chữa lành. Trong một cuộc cử hành sám hối, vị nầy xin các giáo dân nhìn thấy nơi ngài vị mục tử lầm lỗi của họ và đến bắt tay ngài tỏ dấu sự tha thứ mà họ trao ban cho vị mục tử cũ của họ. Tiến trình nầy tự nó rất thích hợp cho mọi hoàn cảnh. Rủi thay, đó là một cử chỉ non yểu, vì vị giảng thuyết đã không để đủ thời gian cho các giáo dân trong giáo xứ bắt đầu việc chữa lành vết thương của họ trước đã, rồi từ đó làm cho họ tiến bước trên con đường tha thứ.

Cũng có những hoàn cảnh mà các nổ lực hòa giải, dù đại độ đến đâu, sẽ tỏ ra bất cẩn và ngay cả nguy hiểm nữa. Hãy nghĩ đến trường hợp có vấn đề với những người bạo lực, với những người mắc bệnh tâm thần kinh niên hoặc với những kẻ gian lận chẳng chút ngại ngùng. Tôi không tin rằng, nhân danh một sự tha thứ toàn bộ bao gồm cả hòa giải, chúng ta phải thúc đẩy tính anh hùng đi đến chỗ sẵn sàng nhận chịu thêm nữa những hành động tàn bạo sao ? Sự tha thứ hiểu đúng không đòi hỏi đến thế đâu. Trong những hoàn cảnh nầy, các người nầy có thể vì cẩn trọng mà rút lui, sau khi tha thứ tất cả cho kẻ xúc phạm mình.

Dù cả khi sự tha thứ không luôn đạt tới hòa giải thì cũng không kém lợi ích cho người tha thứ và việc đó được biểu lộ bằng nhiều cách. Người bị xúc phạm trước hết hòa giải với chính mình ; tiếp đến không còn cảm thấy bị sự oán giận và tinh thần trả thù chế ngự mình nữa ; sẽ thành công trong việc không còn xét đoán, nhưng hiểu cho kẻ xúc phạm mình ; có thể tự trong thâm tâm, cầu mong cho nó được hạnh phúc lớn nhất có thể được ; sẽ khám phá ra được khía cạnh tích cực của hoàn cảnh khó khăn ; dĩ nhiên có thể hy vọng sự ân cần đối với kẻ xúc phạm sẽ làm biến đổi được tâm hồn y.

Ðó không phải là tất cả, vì một xúc phạm đến từ một người rất thân yêu thường cung cấp cơ hội để tự mở mắt ra trước sự lệ thuộc bệnh hoạn mà chúng ta có thể duy trì đối với y. Sự rạn nứt trong mối quan hệ, dù có nặng nề mấy, cống hiến cho người bị xúc phạm cơ hội xem xét lại tình trạng lệ thuộc và trở nên độc lập hơn. Sự tha thứ cung cấp một cơ hội lý tưởng để làm lại di sản của mình theo sau sự mất mát người thân. Việc làm lại di sản hệ tại việc phục hồi tất cả những sự lý tưởng hóa đã được phóng chiếu lên người được yêu mến. Nói cách khác, nó giúp lấy lại tất cả tình yêu, nghị lực, lý tưởng... nói tắt là tất cả sự đầu tư tâm lý và thiêng liêng mà chúng ta đã đặt để nơi người được yêu mến.

3. Sự tăng trưởng của kẻ xúc phạm trong hòa giải :

Bây giờ chúng ta hãy khảo sát những thay đổi được thực hiện trong tương quan kẻ xúc phạm - người bị xúc phạm. Trước hết, chúng ta hãy ghi nhận rằng trách nhiệm về những thay đổi không chỉ do kẻ xúc phạm như một số tác giả muốn (Smedes), nhưng cũng do người bị xúc phạm nữa, vì người bị xúc phạm phải tập không còn đặt mình vào hoàn cảnh có thể lại trở thành nạn nhân nữa. Ðể xây dựng mối quan hệ mới, cả kẻ xúc phạm lẫn người bị xúc phạm đều phải cảm nhận có liên quan.

Trước hết kẻ xúc phạm phải nhận ra phần trách nhiệm của mình trong lỗi lầm ấy ; phải tỏ ra sẵn sàng lắng nghe người bị xúc phạm cho đến cùng và phải đặt mình trong da thịt của người bị xúc phạm hầu đo lường được hơn trương độ và cường độ vết thương của y. Ngay cả khi không thể loại bỏ được đau khổ cho người bị xúc phạm, ít ra kẻ xúc phạm cũng hiểu thấu được nó. Còn về những thiệt hại và bất công mình đã phạm đụng tới các của cải vật chất, những vết nhơ cho thanh danh, những sự thiếu ngay thẳng hoặc tất cả những lãnh vực khác, kẻ xúc phạm phải sửa chữa lại theo đức công bằng, trong mức độ có thể được.

Kẻ xúc phạm cống hiến bảo đảm ngay thẳng nào trong tương lai ? Sự hối hận, lời dóc lòng, những lời hứa hẹn có đủ không ? Những ý hướng tốt không bao giờ thay thế được các hành động thay đổi cụ thể được. Vậy kẻ xúc phạm tự hỏi xem mình đã học được gì từ các việc đó về chính mình và về cách thức nối kết các mối liên hệ thân thiết với người khác. Ðó là những thay đổi thực sự được nhận thấy trong cách ứng xử của kẻ xúc phạm tạo nên những bảo đảm tốt hơn cho hòa giải thành công. Y cũng phải tự đặt ra cho mình những vấn nạn sau đây : "Tôi đã đi đến chỗ phạm phải một xúc phạm như thế cách nào ? Ðâu là động lực sâu xa của tôi ? Ðâu là những tiền sự có tính cách gia đình hoặc văn hóa đã thúc đẩy tôi có một hành động gây xúc phạm như thế ? Những ứng xử nào tôi phải học để thay đổi trong tương lai ? Sự giúp đỡ nào tôi phải cho mình để đạt được mục đích nầy ?"

Trường hợp sau đây của một người chồng bất trung minh họa rõ ràng cái mà tôi cho là những dấu hiệu tăng trưởng của một kẻ xúc phạm hối cải. Một hôm, người chồng báo cho vợ mình hay ông đã có một nhân tình trẻ. Ðể giảm nhẹ cú sốc do cái tin ấy, ông vội vàng bảo đảm rằng ông không muốn thay đổi gì cuộc sống hôn nhân đã hai mươi lăm năm qua và ông hứa với bà là bà vẫn luôn là mối tình ưu tiên của ông. Vợ ông bộc lộ cho ông nỗi đau và sự thất vọng sâu xa của bà, rồi bà báo cho ông là không có vấn đề ông sống ở gia đình trong thời gian cuộc "sống độc thân" mới của ông.

Ít tháng chung sống với người tình đủ thuyết phục người đàn ông rằng ông không thể thích hợp với tính tình của người bạn đời trẻ của ông. Nhớ lại tất cả những lợi ích mà cuộc sống gia đình trước đây đã mang lại cho ông, ông muốn quay trở về. Nhưng vợ ông không chấp thuận như thế. Bà từ chối sống chung lại với ông, bao lâu ông không thực hiện trên ông một công trình tâm lý. Bà mong muốn cách đặc biệt rằng ông ý thức được cái gì đã tác động sự ra đi của ông. Ðó là điều ông đã làm với sự giúp đỡ của một nhà trị liệu tài giỏi. Ông nhận thấy rằng trong những năm dài sống đời hôn nhân, ông đã chồng chất mất mát trên mất mát và đã dồn nén nhiều tức giận đối với vợ ông. Rõ ràng là ông đã sử dụng sự điên rồ tình yêu để trừng phạt bà. Ðẩy xa hơn suy nghĩ của mình, ông khám phá được rằng ông muốn cặp kè với một người đàn bà trẻ, chính là để quên đi nỗi sợ già và sợ chết. Theo sau những sự ý thức như vậy, ông quyết định thay đổi thái độ cần phải có. Chỉ chính lúc đó ông bắt đầu cảm thấy sẵn sàng lấy lại cuộc chung sống với vợ mình.

4. Sự tăng trưởng của người bị xúc phạm trong hòa giải :

Một người bị xúc phạm thường than : "Tại sao tôi lại bị đặt vào một tình cảm rắc rối như thế nầy ? Vấn nạn hoàn toàn thích đáng. Nó có lý nhắc lại rằng người có lỗi không một mình chịu trách nhiệm về biến cố đau khổ đó. Người bị xúc phạm cũng phải tìm làm rõ sự thật về mình và phải lợi dụng cái kinh nghiệm không may của mình hầu xem xét lại một số thái độ và cách thức đi vào các tương quan thân mật của mình.

Ở giai đoạn tám, tôi đã mời đọc giả rút tỉa những bài học hữu ích từ cuộc phiêu lưu khó nhọc của mình. Không bao giờ được quên đi rằng vết thương bị xúc phạm - đã làm xáo trộn các thói quen và làm lung lay các sự an ổn chắc chắn của mình - là lúc rất thuận lợi cho những đổi thay.

Bây giờ tôi đề nghị bạn trả lời một loạt câu hỏi để làm rõ những gì bạn đã thủ đắc được và để kiểm kê những gì còn lại bạn phải học trong lãnh vực các quan hệ nhân bản :

Tôi đã học được gì về chính tôi ?

Tôi có trở nên người bạn tốt hơn của tôi không ?

Tôi có học được nói năng dịu dàng không ?

Tôi có thay thế những cái "cần phải", "tôi phải"... bằng những cái "tôi chọn"... không ?

Tôi có khả năng từ chối đáp ứng yêu cầu của người khác, nhất là những ai tôi yêu quí, cách nào mà vẫn tôn trọng những giới hạn cá nhân của tôi không ?

Tôi có học được diễn tả cách tự phát hơn những gì tôi thấy không ?

Khi muốn can thiệp với một người để chỉ cho y biết cái gì trong ứng xử của y làm tôi phẩn nộ hoặc làm tổn thương tôi, hỏi tôi có khả năng cởi mở với y về cái tôi đã cảm nhận với những câu bắt đầu bằng "tôi" (chẳng hạn "tôi cảm thấy bực tức khi anh đến trễ"), thay vì cáo buộc y với một sứ điệp bắt đầu bằng "anh" (chẳng hạn "anh chẳng coi tôi ra gì khi đến trễ như thế").

Tôi làm gì để chống lại những lôi cuốn của tôi đối với những người có vấn đề trong các ứng xử (chẳng hạn những người say rượu, những người hay nói, những phụ nữ phụ thuộc, v.v....) ?

Tôi có khả năng nhận thấy những chờ đợi và yêu cầu không thiết thực đối với những người khác không ?

Trong tiến trình tha thứ của tôi, tôi đã thành công tới đâu để gia tăng sự quí trọng chính mình ?

Trong khi thay đổi hình ảnh vị thiên chúa công chính của mình, tôi đã tiến lại gần Thiên Chúa / Bạn tri âm đến mức độ nào ?

Chắc chắn đó là một chương trình yêu sách. Bạn không phải thực hiện nó ngay một lúc. Khi thành công trong việc chế ngự được một hay hai ứng xử mới nầy, bạn có lý để hãnh diện về bạn, bởi vì một thay đổi nhỏ trong lãnh vực các mối quan hệ nhân bản sẽ kéo theo nơi bạn những thay đổi ý nghĩa khác.

5. Thay đổi quan hệ theo sau một cuộc chia ly :

Có những hoàn cảnh không thể bỏ rơi mối quan hệ, cũng chẳng thể đào sâu được. Lúc ấy phải nghĩ đến việc tái lập những liên hệ mới. Tôi có trong đầu hai trường hợp đặc biệt. Trường hợp của những người chia ly, vì lợi ích cho con cái, vẫn duy trì những quan hệ cha mẹ và trường hợp các cha mẹ tự hỏi những ứng xử mới nào họ phải có đối với những đứa con lớn của họ đã lìa tổ ấm gia đình. Họ ý thức về thách đố phải giữ những khoảng cách, tuy nhiên không bẻ gãy các liên hệ thân mật của mình.

Trước hết, chúng ta hãy khảo sát trường hợp các vợ chồng ly thân hoặc ly dị. Thật khó mà phân chia với nhau những tập quán cũ của đời sống vợ chồng và biến đổi các mối liên hệ đôi - vợ chồng thành đôi - cha mẹ. Jeanne thú nhận với tôi sự khó khăn lớn lao nàng cảm nhận về đề tài nầy. Nàng cảm thấy bị lôi kéo giằng co bởi cả một lô tình cảm mâu thuẫn nhau đối với người chồng cũ : oán giận và có lỗi vì đã ra đi, ghen tuông đối với người bạn đời mới của chàng, nhu cầu rất mạnh muốn bảo vệ chàng và chăm chút chàng nữa. Giữa những tình cảm hổn độn đó, nàng cũng phải duy trì với chàng một quan hệ của cha mẹ chăm lo cho cuộc sống của con cái. Bấy giớ nàng phải an táng cái lý tưởng của nàng về lứa đôi để duy trì với người chồng cũ phận vụ là cha mẹ. Nàng nhận thấy rằng nàng sẽ không bao giờ thành công trong kỳ công nầy, nếu trước đó nàng không thành công trong việc tha thứ cho chàng.

Thứ hai, các cha mẹ cảm thấy cô đơn theo sau sự ra đi của những đứa con lớn cũng phải đương đầu với cùng một thách đố tương tự, dù có khác. Họ đã trải qua sự ra đi nầy cách khó nhọc và nơi cái "tổ trống" nầy họ phải làm lại đời sống làm đôi sau nhiều năm dài "làm cha mẹ". Hai vợ chồng quyết định bảo vệ bằng mọi giá sự thân mật mới mẻ của họ chống lại sự xâm lăng định kỳ của con cái họ. Các con lại không tự hạn chế cùng bạn bè chạy đến nhà cha mẹ mọi lúc, vơ vét hết tủ lạnh, chiếm cứ TV hoặc bể tắm. Trước một sự xâm lược như thế, các cha mẹ xét là cần thiết phải xác định biên giới của họ. Họ cũng nhắc nhở cho các con họ rằng chúng đã hoàn toàn muốn rời bỏ nhà nên từ nay phải xử sự như những người được mời. Chúng ta đoán được sự can đảm của những cha mẹ nầy phải cắt dây rốn một lần nữa để thiết lập một kiểu quan hệ mới với các con trưởng thành của mình.

Ðể kết luận, tôi xin phép nhấn mạnh cái mà chúng ta đã lo âu là liệu sự tha thứ có tự mình thanh toán những khó khăn trong quan hệ không, bởi vì nó không có được cái hậu quả ảo thuật mà người ta thường gán cho nó. Hơn nữa, ngay cả khi đã được trao ban, sự tha thứ không bảo đảm được là kẻ xúc phạm không tái phạm nữa. Dù thế nào đi nữa, vấn nạn quan trọng phải được đặt ra là như sau : "Sự tha thứ có sản sinh ra hết mọi hiệu quả tốt lành của nó trong tôi không ?" Nói cách khác : "Tôi có được biến đổi bởi kinh nghiệm của xúc phạm và tha thứ không ?" Một vấn nạn khác không kém phần quan trọng : "Kẻ xúc phạm đến tôi đã học được gì trong cái việc bất hạnh nầy ?" Nếu bạn muốn trả lời khẳng định cho hai vấn nạn nầy thì bạn có thể vui mừng về lối ra hạnh phúc cho cuộc phiêu lưu tha thứ của bạn.

6. Nghi thức chuyển thừa kế :

Nghi thức chuyển thừa kế là một phương thế tuyệt hảo để lớn lên theo sau một cuộc chia ly. Nó hữu hiệu nhất trong trường hợp bạn đã lý tưởng hóa con người bạn yêu thương bằng một tình yêu say đắm. Chính là bạn đã phóng chiếu thành tích cực nơi người đó tất cả những gì còn ở năng thể và vô thức nơi bạn. Ðó là một trong những hậu quả của tình yêu đam mê. Nó làm cho bạn ra khỏi mình bạn để sống trong người kia. Sau khi bạn tha thứ, nếu bạn xét là cần thiết phải chấm dứt quan hệ thì mọi sự sẽ không mất đi. Bạn còn có khả thể đòi lại đồ vật của những sự lý tưởng hóa của bạn và bạn sử dụng chúng để tiến bộ. Như vậy, bạn chấm dứt quan hệ mà không cảm thấy mình bị nghèo đi hoặc bị lừa gạt. Ðó là mục đích nhắm tới của nghi thức chuyển thừa kế mà tôi sẽ mô tả cho bạn diễn tiến.

Cũng như mọi nghi thức, nghi thức chuyển thừa kế sẽ hiệu quả hơn khi có sự hiện diện của một người hướng dẫn, một người chủ sự và những nhân chứng thiện cảm sẵn sàng nâng đỡ bạn trong tiến trình của bạn.

Ít nhất hai tuần trước nghi lễ, người hướng dẫn giúp bạn nhớ lại những đức tính nơi người bạn yêu thương đã lôi cuốn bạn. Khoảng chừng bốn đến sáu đức tính là đủ rồi. Rồi bạn tìm các đồ vật có thể tượng trưng cho chính các đức tính ấy.

Quan trọng là chính cuộc lễ được diễn ra trong một bài trí khêu gợi được mọi giác quan : hương, đèn, hoa, thảm màu trải bàn, v.v...

Chính ngày lễ, người chủ sự và người thừa kế ngồi trước cái bàn đặt các đồ vật tượng trưng cho các đức tính. Các nhân chứng ngồi vòng cung trước bàn.

Sau khi giải thích ý nghĩa của buổi lễ, người chủ sự mời người thừa kế giới thiệu người được yêu mến nhờ các đồ vật biểu tượng đại diện cho các đức tính của người đó. Sau khi chấm dứt việc giới thiệu, người thừa kế đến ngồi cạnh chủ sự. Mọi người tham dự thinh lặng suy niệm trong chốc lát.

Bấy giờ người hướng dẫn mời người thừa kế đi tìm đồ vật biểu tượng cho đức tính đầu tiên. Người hướng dẫn cho người thừa kế lặp lại công thức đòi lại của mình sau đây : "... (tên người được yêu mến), vì bây giờ chúng ta đã chia tay, tôi lấy lại ... (đức tính vừa chọn, chẳng hạn tính hài hước) mà tôi đã cho bạn mượn cách đây ... (thời gian quan hệ) năm và bạn đã làm phong phú cho ... (đức tính vừa chọn, chẳng hạn tính hài hước) của bạn".

Người thừa kế trở về chỗ của mình, giữ đồ vật biểu tượng trên ngực. Người chủ sự giúp người thừa kế tháp nhập đức tính mới vào con người mình bằng cách nói với y : "Bạn hãy cảm nhận trong mình sự có mặt của đức tính mới nầy, bạn lắng nghe nói nói trong mình, bạn nhìn thấy nó ở bên trong bạn".

Người hướng dẫn tiếp tục khích lệ người thừa kế lấy làm của mình cái đức tính mà y đã dự phóng trên người được yêu mến. Ðể công việc tháp nhập được hoàn tất trong vài phút, rồi người hướng dẫn lại mời người thừa kế đi tìm đồ vật tiếp theo tượng trưng cho một đức tính khác, và hoàn thành một tiến trình y hệt như trên. Cứ làm tiếp theo như thế với mỗi một đức tính khác.

Cuối cùng, người thừa kế đứng ở giữa mọi người, chung quanh là các vật biểu tượng. Người chủ sự nghi thức tuyên bố việc an táng đã chấm dứt, các tham dự viên chúc mừng người thừa kế và kết thức cuộc cử hành bằng một cuộc lễ thân hữu.

Ðó là sơ đồ nghi thức chuyển thừa kế. Không có chi ngăn cản bạn thêm vào những yếu tố khác có thể tăng thêm cường độ và vẻ đẹp của nghi thức.



CỬ HÀNH SỰ THA THỨ

Cái gì không được cử hành có khuynh hướng bị giảm sút và tàn lụn mà không để lại dấu vết gì.

Vô danh

Như người leo núi lên tới đỉnh núi lấy lại hơi thở và ngắm nhìn đoạn đường đã trèo lên, bạn cũng được mời gọi dừng lại ở chóp thang của bạn và phóng mắt nhìn lại con đường đã đi qua.

Ngay từ lúc khởi hành, bạn đã muốn tránh con đường không lối thoát của nỗi oán giận và lòng muốn trả thù. Mặt khác, bạn không muốn để kẻ xúc phạm quấy rầy bạn hơn nữa, bạn đã làm tất cả những gì bạn có thể để nó thôi đi mọi bất công hoặc hành vi gây xúc phạm đối với bạn.

Bạn không sợ dấn sâu vào chính bạn và đụng chạm ở đó sự xấu hổ sâu xa mà các thương tổn của thời thơ ấu và của tuổi trưởng thành gợi lên. Ðó là cái cho phép bạn khơi mào việc chữa lành của bạn.

Bạn đã giữ mình khỏi đóng kín trong một sự cô độc vô ích. Bạn đã chia sẻ gánh nặng đau khổ của bạn với một người biết mở rộng tai lắng nghe bạn. Bạn cũng đã thấy rõ hơn nội tâm của bạn.

Bạn đã thành công trong việc hạn chế phạm vi sự mất mát của bạn đến độ bạn có thể gọi tên và an táng nó.

Bạn đã đón gặp nỗi tức giận và lòng muốn báo thù của bạn để tiếp nhận chúng. Bạn đã nhận thấy trong chúng những sức mạnh tích cực sẵn sàng cứu vãn sự toàn vẹn cá nhân bạn đang bị đe dọa.

Bạn đã dần dần tập phát triển lòng tôn trọng bạn để bạn sẵn sàng tha thứ cho chính mình.

Bạn đã tìm để hiểu kẻ xúc phạm bạn. Bạn đã thôi không thấy nó với cái nhìn xấu, để nhìn nó với đôi mắt mới mẻ.

Bạn đã tự hỏi về ý nghĩa tích cực mà bạn sẽ trao ban cho vết thương của sự xúc phạm.

Bạn đã để con tim bạn mềm lòng bởi tình yêu mà người khác biểu lộ bằng những sự tha thứ của họ, và bạn đã để mình được nuôi dưỡng bởi tình cảm duy nhất và không so sánh được nầy là bạn cảm thấy bạn xứng đáng được tha thứ và bạn đã được đặc xá.

Bạn đã học giải thoát bạn khỏi ngay cả hành động tha thứ của bạn. Bạn đã chối bỏ ước muốn tin rằng bạn là người duy nhất có trách nhiệm trong sự tha thứ, và như vậy bạn đã tránh được việc tìm ở đó sự vinh danh cho bạn.

Bạn đã đặt lại vấn đề về hình ảnh của một vị thiên chúa công chính để bạn trở lại với Thiên Chúa dịu dàng và thương xót, suối nguồn linh hứng và sức mạnh cần thiết để tha thứ khi đến lượt bạn.

Cuối cùng, bạn đã quyết định xem xét các tương quan tương lai của bạn với kẻ xúc phạm. Hoặc bạn đã dự tính để cho nó ra đi và cầu chúc cho nó được hạnh phúc lớn nhất có thể có được, hoặc bạn đã ký kết một giao ước mới với nó.

Sau khi đã duyệt xét lại cuộc du lịch tha thứ của bạn như thế, bạn có lý do để bạn rất hảnh diện về bạn.

Bạn có thể chúc tụng bạn !

Bạn có thể mừng lễ bạn !

Bạn sẽ lớn lên trong tình người và trong sự thánh thiện !



PHẦN KẾT

Tới đây chúng đã ở cuối một đoạn đường dài. Tôi hy vọng không chuốc lấy nhận xét mà một nữ tu lớn tuổi đã nói với một vị linh mục trẻ vừa giảng một cuộc tĩnh tâm về những con đường thần bí : "Nầy cha, tôi ngạc nhiên thấy cha tung hứng với bao than hồng mà cha không bị đốt cháy". Viết một tác phẩm về tha thứ cũng bao hàm những nguy hiểm tương tự, bởi vì đó là một cuộc phiêu lưu liều lĩnh. Trong khi viết cuốn sách nầy, tôi cảm thấy -và còn đang cảm thấy- bị trần trụi trước sự rộng lớn, phức tạp và sâu xa của đề tài. Nói về tha thứ, chính là nói về một tình yêu rất đặc biệt, về một tình yêu sẵn sàng vượt quá mình đến đổi muốn tái tạo một vũ trụ tương quan mới.

Câu hỏi mà bạn tôi đặt ra ở lời dẫn nhập luôn luôn lẩn vẩn trong đầu óc tôi : "Bạn muốn dạy cái gì về bạn khi viết một cuốn sách về tha thứ ?" Chắc chắn tôi đã khám phá thấy những sự nghèo nàn bản thân mình trước những nhu cầu riêng để tha thứ. Ngoài những hiểu biết mới mẻ mà các nghiên cứu của tôi giúp tôi đạt được, tôi có cảm tưởng hiểu rõ hơn tầm quan trọng và những lợi ích của tha thứ trong chính cuộc đời của tôi, vừa ở quan điểm thể chất lẫn ở quan điểm tâm lý và thiêng liêng. Ðặc biệt, tôi còn tự hỏi có nên gán cho các suy tư của tôi về tha thứ một sự hạ thấp chứng cao huyết áp động mạch không ? Biết đâu ?!

Về các mục tiêu tôi đã đề nghị trong sách, tôi tự hỏi không biết đã đạt được chưa ? Nói cách khác, tôi có thành công trong việc làm tĩnh ngộ và lột mặt nạ những quan niệm sai lầm về tha thứ không ? Tôi có đặt cọc tiêu khá rõ ràng con đường tha thứ để người ta dấn thân vào cách bảo đảm mà không thải trừ đi huyền nhiệm không ? Việc tôi đã làm có tránh được cho người muốn tha thứ khỏi bị lạc mất trong một mê hồn trận, tuy hấp dẫn, mà không dẫn đến đâu cả không ? Cuối cùng, tôi có lý do để tin rằng tiến trình tha thứ mười hai điểm qui chiếu mà tôi đề nghị có mang lại tự do bên trong và bình an tâm hồn cho những ai cần đến chúng không ? Chỉ có các bạn đọc giả mới có thể nói cho tôi biết mà thôi.