83 Bài Suy Niệm
Lm. Nguyễn Tầm Thường
1. ANH CẢ
“Về gần đến nhà, khi nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì” (Lc 15:25).
Đó là phản ứng đầu tiên của người anh trong câu chuyện “đứa con hoang đàng” hay là “người cha nhân hậu” của Phúc Âm thánh Luca.
Tại sao không vội vã vào ngay?
Có thể anh ta đoán được chuyện gì đang xảy ra. Chuyện người em đã về.
Anh ta không muốn vào nhà vì biết đâu người em đã về thật. Anh gọi người đầy tớ ra hỏi cho chắc. Không ngờ, người đầy tớ báo tin. Trong lời báo tin này có ba sự kiện:
- Em cậu đã về !
- Cha cậu đã giết con bê béo !
- Vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ! (Lc. 15:27).
Nghe xong, anh “nổi giận”, không chịu vào nhà. Thế là hết! Ba yếu tố vừa kể trên làm anh ta đau đớn. Anh không muốn đứa em về. Không muốn người cha thịt con bê béo. Không muốn người cha nhìn đứa em mạnh khoẻ. Anh chối từ bữa tiệc. Chối từ bữa tiệc cũng là không muốn gặp mọi người hiện diện ở đó. Nếu vào nhà, gặp đứa em, anh ta làm sao chạy ra? Nếu vào nhà, bà con láng giềng chúc mừng em anh ta đã về, anh biết phản ứng làm sao? Anh không vội vã vào nhà. Anh đã tính toán khá kỹ.
Tại sao không truyền lệnh mà năn nỉ?
Có thể người đầy tớ phải vào báo cho chủ biết nên người cha mới ra gặp anh ta. Hoàn cảnh người cha rất khó xử. Nếu anh ta không vào, ông trả lời thế nào với đứa con thứ khi nó hỏi:
- Anh con đâu?
Nếu người con trưởng không vào, ông biết nói thế nào với bà con láng giềng về sự vắng mặt rất ý nghĩa này. Nếu những người giúp việc nói chuyện với nhau, họ phản ứng thế nào, vì họ không ngờ chuyện lại xảy ra như thế. Ai cũng nghĩ là một ngày vui. Rồi câu chuyện đến tai bà con lối xóm, những người dự tiệc. Bây giờ, đề tài trong bữa tiệc này chuyển hướng về đâu?
Ngày hôm nay, có bố mẹ cũng không sao sắp xếp được cho các con ngồi chung với nhau một tiệc vui. Có những anh em thề không nhìn mặt nhau. Họ nói:
- Nếu có vợ chồng chúng nó, không có con!
Vì sao người cha trong câu chuyện này không truyền lệnh mà lại năn nỉ? Ông rơi vào tình cảnh đó. Ông ở một hoàn cảnh rất thương tâm.
Phản ứng của người con thứ
Cho đến lúc này ta không nắm chắc tâm tư người con thứ và cuộc trở về của nó.
Nếu người con thứ biết anh nó đang nổi giận ngoài kia. Liệu bữa tiệc có tiếp tục vui?
Chi tiết cho hay là nó về vì đói. Luca nói rõ: Nó ước ao lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng. Nhưng không ai cho.
Điều cần lưu ý ở đây là chữ “dân”. Nó đi chăn heo cho một người “dân” trong vùng . Không phải chăn heo cho một ông chủ. Người dân này lại đang trong nạn đói “khủng khiếp”. Heo của nhà giàu, chắc ăn thức ăn khác của nhà nghèo. Đã nghèo mà lại trong nạn đói khủng khiếp. Như vậy còn gì mà ăn? Ấy thế mà nó vẫn chưa chịu về, vẫn xin đồ ăn của “heo-nhà-nghèo-trong-nạn-đói”. Giả sử người ta cho nó thứ đồ ăn đó, nó đâu có về. Bằng chứng là nó chỉ về khi người ta không cho nó. Nếu không về lấy gì ăn?
Sau cái ôm hôn, sự gặp gỡ cha có làm nó mủi lòng thật tâm trở về hay không? Phúc Âm không nói rõ. Dù nó thật tâm hay không thì người cha vẫn có bữa tiệc. Chúng ta không nắm chắc được tấm lòng người con thứ sau vòng tay của cha. Có thể nó sám hối ngày tháng cũ khi cảm thấy cha thương mình. Cũng có thể chưa. Cũng có thể lên mặt với người anh khi thấy anh nó hành xử như vậy. Luca viết đoạn văn này tuyệt với với những nét “thiền niệm” quá sâu. Luca để băn khoăn đặt ra là, nếu biết người anh nổi giận vì cuộc trở về của mình, phản ứng nó sẽ ra sao? Và điều gì xảy ra trong bữa tiệc?
Nguyên nhân của những nguyên nhân
Dựa vào bản tường thuật, sau khi chia gia tài, đứa con thứ “ít ngày sau, thu góp tất cả, rồi trẩy đi phương xa” (Lc. 15:13). Nó ở lại ít ngày, và thu góp “tất cả” rồi mới trẩy đi phương xa. Như thế, khi ra đi nó không thể bỏ cái áo “đẹp nhất” ở lại. Ngày nó về, người cha bảo các đầy tớ mau mau đem áo “đẹp nhất” ra đây mặc cho cậu.
- Áo đó ở đâu?
Khi được sai đi lấy áo, người đầy tớ không hỏi áo nào. Người đầy tớ biết rõ “cái áo”. Có một liên hệ hiểu ngầm nào đó giữa người cha, chiếc áo và người đầy tớ. Họ biết rõ về câu chuyện cái áo.
- Bắt con bê đã “vỗ” béo để làm thịt.
Không phải con bê béo, nhưng là con bê đã “vỗ” béo. Như thế ta thấy rõ cái áo từ đâu ra. Cái áo phải là chiếc ông may sẵn. Vì con bê đã được “vỗ” béo. Bắt con bê mà từ trước tới nay vẫn săn sóc đặc biệt cho nó béo. Săn sóc đặc biệt con bê cho béo để làm gì? Bản tường thuật cho thấy rõ. Ông thịt con bê đó trong ngày người con thứ trở về. Như vậy, trước khi nó về, người cha may áo mới chờ đợi, săn sóc con bê cho bữa tiệc. Tất cả những chuyện này, đầy tớ là người lo chuẩn bị. Cho nên khi công việc xảy ra, mọi chuyện đâu vào đó. Khổ một điều, tất cả chuyện này, người con cả cũng biết.
Người con cả thấy đầy tớ săn sóc con bê cho béo. Anh ta thấy may sẵn áo mới chờ ngày. Từ ngày đó, lòng anh không yên tâm. Những ngày sống của anh là giận kín trong lòng. Hồn anh là tháng năm rất âm u. Nhìn con bê, nghĩ đến bữa tiệc có ngày xảy ra. Anh sợ ngày đó. Anh lo một ngày nào đó đữa em sẽ về. Không ngờ, hôm nay nó về thật.
Dang dở ngàn trước cho đến ngàn sau
Người anh cả. Câu chuyện dang dở từ đây.
“Gọi người đầy tớ ra mà hỏi”.
Bình thường khi thấy gia đình như thế, người ta phải vội vã chạy về xem có chuyện gì mà vui vậy. Nhưng anh dè dặt, vì… nếu là tiệc cho đứa em thì sao? Nếu chạy vào mà đúng là đứa em về thì… trời ơi! Anh ta gọi người giúp việc ra hỏi, sự thận trọng đó là đúng.
Đời anh là những tháng ngày dang dở. Từ khi người con thứ bỏ nhà đi thì người cha cũng mất luôn người con trưởng, vì tấm lòng nó chật chội quá. Nó ở trong nhà, mà tấm lòng chỉ là một quán trọ tính toán giữa chợ. Căn nhà không có trái tim bao dung, buồn làm sao. Anh sống những ngày ảm đạm của một tấm lòng khoắc khoải. Nếu ngày nào đó có tiếng đàn ca thì sao, buồn quá. Anh lo cho ngày đó, anh sợ tiếng đàn vui.
Cuộc đời như vậy lặng lẽ quá nhỉ.
- Chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê con.
Thì ra thế! Thời gian những người đầy tớ “vỗ” con bê cho béo, cũng là những tháng ngày nó bị dằn vặt đau đớn. Nó thầm mong một con dê con. Ấy vậy mà bây giờ cha dám giết cả một con bê béo vì thằng em. Lòng ghen tức làm nó khổ.
Trong lúc “nổi giận” không chịu vào nhà, nó nói gì? Bản tường thuật cho thấy nỗi đau ray rứt linh hồn anh ta sâu lắm.
- Thằng con của cha đó, sau khi nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng! (Lc. 15:30).
Anh ta lại nhắc đến con bê. Con bê béo này là hình ảnh xót xa liên hệ đến con dê, vì một con dê con anh cũng không có. Rồi vì con bê ấy thúc đẩy anh dùng cụm từ này: “Thằng con của cha đó”. Anh ta nói với cha mình như vậy. Thế thì, anh ta là con ai? Đứa nào ngoại hôn? Cụm từ “thằng con của cha đó” là nỗi đau vô vàn đối với một người cha có con như vậy. Làm sao một người con có thể nói với cha mình như thế.
Đời người con cả trong câu chuyện này quá dang dở. Anh ta sống, nhưng không còn là anh ta sống nữa. Bên cạnh cha là bổn phận ngày tháng dài lê thê. Anh chưa hề trái lệnh. Chính vì chưa trái lệnh nên mới càng đau. Chưa trái lệnh mà không được một con dê con, nên cái lê thê mới dài, dài của những ngày tìm mà không gặp cái mình tìm. Lòng ghen tức, nỗi cay nghiệt, xót xa trăn trở sống trong anh ta. Thấy cha may áo chờ, biết đâu có ngày người con thứ về. Từ ngày nó bỏ đi, thì lòng người con cả rối bời, chỉ sợ ngày em nó về. Nhìn gia nhân săn sóc con bê cho béo, anh đau đớn. Nhìn con bê, nghĩ đến cái áo, anh không một ngày vui. Cuộc sống anh ta khổ quá.
Tại sao người cha không cho?
Ông còn gì đâu mà cho! “Tất cả những gì của cha đều là của con!” Như thế, có nghĩa là nó có thể giết bất cứ con dê nào nó muốn, vì tất cả là của nó! Trời ơi! Vậy mà nó không biết. Tại sao nó không hiểu điều này! Đời anh ta sao dang dở quá vậy? Anh ta sống bên gia nghiệp lớn như thế mà cứ nghèo, ao ước một con dê con cũng không được. Giữa những cơn nghèo ấy, giữa những tháng ngày khao khát ấy, thì cừu cứ từng bầy, chiên cứ từng đàn ngày ngày đi về trước đời anh. Tại sao sống bên vàng bạc lại túng thiếu, bên cánh đồng mà không đủ thóc. Tại sao suối đầy nước mà ruộng mình cứ nắng hạn. Đời anh dang dở quá. “Tất cả của cha là của con”. Câu này mang ý nghĩa là nó muốn giết con dê nào thì giết. “Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn thì anh em không còn lệ thuộc lề luật nữa” (Gal. 5:18). “Nếu gia nghiệp dành cho những kẻ lệ thuộc lề luật thì đức tin thành vô nghĩa và Lời Thiên Chúa bị huỷ bỏ” (Rom. 4:11).
Mà đời người cũng bi thương khôn cùng. Con sống bên mình mà không biết tâm tư của mình. Cha con cứ xa nhau.
Người con thứ chỉ xúc phạm cha một câu: “Xin chia phần tài sản con được hưởng”. Người con trưởng xúc phạm đến cha nhiều quá.
Không thấy người con thứ xúc phạm đến anh nó. Nhưng người con trưởng xúc phạm cả em nó. Tại sao nó đương nhiên kết luận em nó nuốt hết của cải với “bọn điếm”.
Người con thứ ra đi, cha nó thương vì có nhớ. Hoặc vì nhớ nên thương.
Người con trưởng ở nhà, nên không thể nhớ. Không nhớ, nhưng cha có thương không? Điều này chắc chắn có. Vì: “Tất cả những gì của cha đều là của con”.
Cái bất hạnh của người con trưởng là không nhận ra tình thương của cha. Trong tình yêu, khi không nhận ra thì cũng không nhận được.
Nếu người con trưởng không nhận ra, không nhận được tình thương của mình, thì tình thương của người cha lại trở về với ông ta mà thôi. Cho mà không có người nhận, đó là cô đơn.
Cuộc đời người cha trong câu chuyện này cũng quá dở dang. Một nỗi cô đơn của kẻ cho mà không có người nhận. Của kẻ gần mà quá xa.
Cha anh ta ra năn nỉ:
- Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy (Lc. 15:32).
Lời người cha nói: “Em con đây”, vừa êm ái vừa tha thiết. Nhưng với người con trưởng có là “em con đây” hay vẫn là “thằng con của cha đó”.
Câu chuyện thật là dang dở ở đoạn kết. Sau khi người cha nói với anh ta như vậy, Luca chấm dứt câu chuyện. Đọc xong rồi, người đọc băn khoăn:
- Vậy sau cùng, người con trưởng có vào nhà không?
Luca không cho người đọc biết quyết định của anh ta.
Tôi giả sử: Nếu anh vào thì mọi chuyện quá đẹp.
Nếu anh ta không vào. Bao nhiêu vấn nạn được đặt ra. Liệu bữa tiệc có tiếp tục? Tiếp tục thế nào? Chiều đến, từ xa vẫn nghe “tiếng đàn ca nhảy múa”. Các người dự tiệc sẽ hỏi gia chủ:
- Thưa ông, thế cậu hai đâu?
Người cha biết trả lời khách làm sao. Nếu chiều về, người con thứ vẫn không thấy mặt anh mình trong bữa tiệc. Người cha sẽ nói gì với nó khi ông biết rõ anh nó đang “nổi giận”, và không chịu vào nhà.
Câu chuyện thật dang dở. Liệu bữa tiệc có dở dang không?
Tại sao Luca, khi viết chuyện này không cho đoạn kết? Tại sao lại bỏ lửng câu chuyện ngang chừng? Đọc xong, người đọc không biết người con cả có vào nhà hay tiếp tục ở ngoài.
Đọc xong, ta thấy một trời bơ vơ.
Tâm trạng người cha thế nào? Nó không vào, ông trả lời khách sao đây? Ông tìm cách nào để cắt nghĩa cho người con thứ về sự kiện anh nó nổi giận không chịu vào nhà? Tâm trạng người con thứ nữa, nó có điên tiết, anh em đánh nhau ngay bữa tiệc? Lối xóm phản ứng ra sao? Câu chuyện trong bữa tiệc chuyển đề về đâu? Tất cả rối bời.
Giả sử Luca cho người con trưởng hối hận rồi nghe cha vào nhà, câu chuyện có toàn bích hơn không? Vì sao Luca không viết rõ?
Đọc xong, băn khoăn không biết hỏi ai.
Một trời bơ vơ.
Phải chăng vì tác giả biết có ngày người ta sẽ băn khoăn đặt câu hỏi. Phải chăng Luca muốn cho cái dang dở ấy hết dở dang khi người ta tự thắc mắc với chính lòng mình:
- Nếu tôi là người anh cả tôi sẽ vào hay không? Nếu tôi là người con thứ, tôi phản ứng thế nào?
Đây cũng là đường đi một mình, vì chỉ tôi biết rõ lòng tôi. Chỉ tiêng tôi có câu trả lời cho tôi.
Luca phải để cho câu chuyện dở dang, vì dở dang này chỉ chấm dứt trong tim người đọc chứ không thể hết dở dang bằng ngòi bút.
2. BÁN RUỘNG
"Chúa Yêsu lại dậy một thí dụ khác mà rằng: Nước Trời ví như người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Nhưng lúc mọi người ngủ thì có kẻ thù đến gieo cỏ lùng lẫn với lúa rồi đi. Khi lúa lớn lên và có bông thì cỏ lùng cũng xuất hiện" (Mt. 13: 24-26).
Lời Kinh Thánh trên đây nói về thửa đất đã có từ lâu. Mảnh ruộng đã mấy đời cấy cày. Một hôm, có khách qua đường dừng chân đứng ngó. Người tìm đất gian manh suy tính.
Có thửa ruộng đã 20 năm, có mảnh đất đã 40 mươi tuổi đời. Cuộc sống mỗi người là một thửa ruộng. Từ lúc chuông nhà thờ báo vui ngày tôi rửa tội, trong vườn ấy, Người trồng cây nhân ái. Từ lúc thửa đất linh hồn tôi khai sinh. Trong vườn ấy, Ngài gieo hạt giống độ lượng.
Ðã bao ngày Ngài cuốc vỡ đất bờ. Vất vả, nhưng Ngài mơ một ngày thửa vườn sai trái. Nắng có hanh nhưng lòng Ngài vẫn mát cho một chân trời hy vọng. Tôi còn nhớ ngày Ngài trao thửa vườn cho tôi. Có mát dịu bình yên đi về, có sương ẩm là những lời kinh sớm hôm phủ trên bờ đất mềm. Những hạt giống khiêm nhường, nhẫn nại, hy sinh, nhiệt thành Ngài gieo xuống hồn tôi, khoảng thời gian ấy, nhú mầm xanh đẹp làm sao. Hây hây mầu bình minh rực rỡ là lời chuông ban sáng. Êm đềm quá đỗi. Trời càng hồng, thửa vườn càng căng mầu sống. Ngài trao cho tôi, dặn dò cẩn thận, trong đôi mắt Ngài, ẩn giấu mầu hy vọng của một mùa gặt sắp tới.
* * *
Hôm nay nhớ lại thủa xa xưa đó, một hôm, có người khách lạ qua đường dừng chân đứng ngó. Hắn ta đứng nhìn thửa vườn linh hồn tôi, suy tính. Một lần, rồi một lần qua đi. Ðến một chiều hoang dại hắn ghé chơi. Tôi nghi ngại tần ngần. Hắn nhìn cây nhân ái, ướm thử cành can đảm, đo nhánh trung thành. Rồi hắn lại ghé chơi. Dần dà, đến một ngày khi bình minh và hoàng hôn đều rải nắng như nhau. Thì hắn, dường như không còn là khách lạ như xưa. Hắn ta quen thuộc ra vào thửa vườn linh hồn của tôi. Tôi chẳng còn phân biệt mầu nắng vàng đỏ của buổi chiều sắp tắt hoàng hôn và mầu cam ối khi mặt trời mọc. Khởi đầu và tận cùng dường như mù mờ lẫn lộn. Thánh thiện và tội lỗi giao thoa. Cái hiu hiu của chân trời lịm đi và cái hây hây của một bình minh đang lên nhù nhòa lẫn vào nhau.
Ngang đời, hôm nay Chúa trở về thửa vườn xưa. Ngài hỏi lại chuyện cũ, muốn thăm lại vùng đất linh hồn tôi mà Ngài đã mơ một mùa sai trái.
* * *
Cỏ cây lên như nhau mất rồi. Người khách lạ đã âm thầm làm việc, gã trồng những loại cây rừng hắn muốn. Thửa đất linh hồn tôi, không hẳn là đã bị mua vì người mua không muốn xuất đầu lộ diện. Không hẳn là bán vì tôi tiếc đất không chịu ký tên. Mơ hồ, lãng đãng. Kinh Thánh chỉ bảo "khi ngủ" thì có kẻ thù đến gieo cỏ. Hôm nay, nhìn lại, vườn không bán mà mất quyền làm chủ. Khách lạ không mua mà lại gieo được thứ nó muốn trồng. Linh hôn tôi đã một thủa bình yên. Nay dậy sóng gian nan. Cõi lòng tôi đã một thủa vườn lên màu xanh thong thả, gió về không lo âu. Tim tôi đã một thủa ươm màu hồng của nắng, màu vàng rực của trời. Giờ đây, tiếc nhìn dĩ vãng.
Ngang đời, hôm nay Chúa đến thăm linh hồn tôi, ruộng đất phai mầu chung thuỷ. Ðất nhạt muối của lòng mến. Bến bờ đợi trông một mùa lúa tốt đã bẽ bàng mất mát. Chấp nhận những ngày nắng đổ, gánh đi những sỏi đá chai cứng của một linh hồn khô cằn. Chúa đã nao nức vỡ đất nhìn về tương lai. Ngang đời, hôm nay Ngài đứng nhìn thửa ruộng mà bâng khuâng hỏi lòng. Ðất không bán, ruộng không cho thuê, sao lại loang lổ những vùng cỏ hoang dại.
* * *
Lạy Chúa, hồn con là một thửa ruộng. Chúa là người trồng. Chúa đã nhọc nhằn vỡ đất hồn con. Tại sao con lại coi thường kẻ thù phá hoại? Có sa ngã nào con vấp phạm mà đã không qua những ngày tháng mở cửa linh hồn làm quen với những dịp tội. Con có thể an ủi mình rằng làm sao mà tôi thức tỉnh được, tôi cũng thân phận yếu đuối. Tuy nhiên, con thấy khó mà chấp nhận được lời giải thích đó. Kẻ thù gieo cỏ khi con ngủ, vậy khi thức dậy con không thấy gì khác lạ sao? Từ khi cỏ mọc cho tới khi lúa trổ bông cũng cần thời gian chứ, có đam mê nào trở thành lối sống nếu con đã không cưu mang nó bằng những ngày tháng thật dài. Con không bao giờ vác cuốc thăm ruộng hồn mình để biết nắng mưa sao? Ðó là sự lười biếng của con.
Cái tinh vi của Satan là gieo cỏ lùng lẫn với lúa "rồi đi." Gieo xong, Satan không đứng đó nhưng bỏ đi. Qua đêm, thức dậy không thấy bóng dáng kẻ thù nên con tưởng rằng thửa ruộng chỉ có hạt giống tốt thôi. Trong cái thờ ơ của cuộc sống, con đã không xét mình kỹ lưỡng những công việc con làm và hồn con đã phiêu du vào những chân trời nguỵ biện. Có những việc tông đồ đã bị hương khói Satan mờ mịt mà con cứ tiếp tục đi. Nguy hiểm biết bao, xin Chúa hãy thức tỉnh con.
3. BAO DUNG
Câu chuyện người con hoang đàng trong Tin Mừng Luca (Lc. 15: 11-32) nói đến trở về. Mùa chay là mùa xám hối. Ði tìm một khoảnh hồi tâm, ta hãy đọc lại đoạn Tin Mừng.
Người con hoang đàng
Từ xưa tôi vẫn nghĩ rằng hãy trở về như người con hoang đàng. Ðứa con hoang đàng như một mẫu mực trở về. Khi thấy con về, người cha vui mừng quá làm tôi thấy sự trở về của người con như một hành động anh hùng. Ðã bao năm tháng qua, tôi vẫn được nhắc nhở rằng hãy lên đường anh hùng, dứt khoát như người con ấy.
Ðọc kỹ đoạn Tin Mừng, tôi thấy man mác đó đây một mầu tím buồn. Một giải mây tím buồn rất xa. Ở một điểm nào đó, tôi thấy sự trở về của người con có làm cho cha vui, nhưng tôi vẫn không ra khỏi giải mây tím lặng lẽ. Trong sự trở về của người con hoang đàng tôi thấy có điều không ổn. Rồi chiều nay, mùa chay lại trở lại. Tôi muốn đọc lại đoạn Tin Mừng, chậm rãi hơn, lặng lẽ hơn để đi tìm cái không ổn của mầu tím đó.
Sau khi người con ra đi, thánh Luca viết về quãng đời của nó như sau:
Khi nó tiêu sạch cả rồi, thì khắp miền đó, lại sẩy ra nạn đói kém khủng khiếp và nó bắt đầu lâm phải túng thiếu. Nó đi sống bám một người dân trong vùng ấy; và người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó ước gì có thể lấy rau heo ăn mà thốn cho đầy bụng, mà cũng chẳng ai bố thí cho nó. Hồi tâm lại, nó nói: Biết bao người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi dậy! tôi sẽ về cùng cha tôi, tôi sẽ nói với người: "Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch với Trời và trước mặt cha; con không còn đáng gọi là con cha nữa, xin cha xử với con như một người làm công của cha thôi".
Ðộng lực nào khiến nó trở về? Thánh Luca viết rõ: "Hồi tâm lại, nó nói: Biết bao người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi dậy, tôi sẽ về cùng cha tôi." Như vậy động lực khiến nó trở về chỉ vì đói. Trước khi bị đói, không bao giờ thấy nó nhớ đến cha, không thấy xám hối vì bỏ cha đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về căn nhà cũ, nơi còn có cha chẳng biết già yếu ra sao, không thấy nuối tiếc vì phá tan cả sản nghiệp của cha. Sau khi bị đói nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái tự nhủ, băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với cha nó là nó trót phạm tội nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như một người làm công. Trong tự nhủ này có một ngập ngừng không đơn giản. Tại sao nó muốn được đối xử như một người làm công? Người làm công có dư bánh ăn! Có phải, bây giờ muốn có bánh thì chỉ cần xin được làm người làm công? Tôi không muốn khắt khe xét đoán sự trở về của nó. Nhưng vẫn có một u uẩn trong lối hành văn của thánh sử Luca. Ban đầu, vì đói nó mới về. Khi hồi tâm nó nghĩ đến miếng bánh của người làm công được ăn. Những ý tưởng này cho tôi nghĩ lời nói "trót phạm tội nghịch đến Trời và trước mặt cha; con không còn đáng gọi là con cha nữa", mang một giá trị rất nhẹ của lòng xám hối.
Nếu nó được ăn rau của heo thì nó ngang hàng bằng heo. Nhưng trước mặt người ta, nó không được ăn rau của heo, nghĩa là nó không giá trị bằng heo. Cái hoang vu của mầu tím ở đây là nếu nó được ăn rau của heo thì liệu nó có trở về không? Cái dằn vặt của một mầu tím khó tìm được câu trả lời là tại sao phải đợi đến khi ngay cả rau cho heo cũng không có ăn lúc bấy giờ mới về. Ðó là cuộc lên đường về trọn vẹn sao? Ðấy là cuộc lên đường thúc đẩy từ lòng xám hối sao?
Mỗi mùa chay, nghĩ đến cuộc trở về trong Tin Mừng thánh Luca, tôi lại mơ ước một cuộc lên đường trọn vẹn. Tôi trở về trọn vẹn để xứng đáng lòng yêu thương của Chúa, hay chỉ có thể dựa vào lòng xót thương của Chúa mà tôi có thể trở về?
Thái độ của người cha
Khi nhớ thì mỗi chiều cách biệt là một quãng đời hoàng hôn xạm tím. Lần rở lại những trang đầu của câu chuyện. Ta thấy thánh sử Luca vẽ chân dung người cha bằng một sắc mầu rất đỗi chịu đựng.
Ngài còn nói: "Người kia có hai đứa con. Con thứ nói với cha: "Thưa cha, xin ban cho con phần gia sản thuộc về con!" Vậy người cha đã phân chia của cải cho chúng nó. Không mấy ngày sau, đứa con thứ thâu góp tất cả của cải mà trẩy đi phương xa. Và ở đó nó sống trác táng phá tan cả sản nghiệp".
Bắt đầu câu chuyện là đã thấy mầu tím u uẩn như những giây đàn han rỉ. Nó như những giọt mưa buồn của một từ giã nặng nề. Nó như những tiếng chuông trầm, cũng rất thong thả, rơi trong một chiều cô tịch, gõ vào lòng người cha, rất đìu hiu. Khi người con từ giã, đi xa rồi, lòng người cha ở lại nghe những tiếng chuông ấy vọng về: "Xin ban cho con phần gia sản thuộc về con!"
Tôi không thấy mầu tím buồn trong hồn người cha than vãn, nuối tiếc vì số sản nghiệp bị mang đi. Nhưng có một ray rứt không buông thả trái tim người cha già tội nghiệp. Cha mẹ chia của cải cho con cái khi biết mình sắp chết. Con cái chia nhau sản nghiệp khi bố mẹ đã qua đời. Tài sản của cha mẹ, nên chỉ khi cha mẹ gọi con cái đến chia, con cái mới được nhận, không khi nào con cái được quyền đến đòi cha mẹ phải chia cho mình. Nhưng ở đây, người con không đợi nổi đến ngày cha mình chết. Nó mong sao ngày đó chóng đến. Nhưng bao giờ? Thôi! cha cứ chia cho tôi trước đi, đợi cha chết lâu quá! Cha cứ chia đi rồi ngày nào cha chết tùy cha!
Người cha không nổi giận. Ðưa cho con gói bạc mà thực ra nó chẳng có quyền đòi. Người cha không tiếc gia nghiệp, nhưng tiếc một tình nghĩa đang mất. Tiếng nói của người con: "Xin ban cho con phần gia sản thuộc về con" như những tiếng chuông báo tử của một linh hồn sắp lìa đời đang gõ xuống lòng người cha một sự thật đau đớn không thể chối từ. Người cha nhìn về chân trời để thấy hồn mình là một nỗi sầu tím. Người cha già giữ nỗi sầu tím ấy trong im lặng.
* * *
Lạy Chúa,
Bàn thờ đã giăng lên mầu tím của mùa chay. Ngày ngày dâng lễ con thấy mầu tím nhắc nhở con trở về. Con đã được dạy hãy lấy hình ảnh người con hoang đàng trở về làm mẫu mực. Ðọc lại câu chuyện, con thấy sự trở về của nó không phải là một mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về đến từ hồi tâm của tình yêu tha thiết.
Con thấy động lực thúc đẩy người con thứ trở về là miếng ăn. Một cuộc trở về man mác buồn. Nhưng, những tối một mình trong thinh lặng, rồi, những trang Lời Chúa nói với con bằng một ngôn ngữ rất sâu. Nếu cuộc trở về của nó mà trọn vẹn đến từ nước mắt thì câu chuyện thánh sử Luca trình bầy sẽ đẹp lắm, sẽ uy hùng lắm. Câu chuyện trở nên thiên anh hùng ca, nhưng sẽ là thách đố sợ hãi cho con.
Nhìn lại những cuộc lên đường về của con, con thấy cũng giống vậy. Con lên đường về cũng vì miếng ăn. "Khi tình yêu con còn mơ, tin yêu con dệt thơ thì tình Chúa hững hờ." Con trở về khi cuộc đời dầm bập con. Nếu người cha chỉ hân hoan đón đứa con hoang đàng khi nó về với lòng xám hối ăn năn tận đáy lòng thì chắc Chúa ít có cơ hội đón con lắm. Con trở về vì con muốn thiên đàng. Con trở về vì con sợ hỏa ngục. Con trở về vì đời hắt hủi. Sự trở về của con vẫn đến từ nỗi sợ, từ sự thèm muốn, từ một cùng đường.
Cuộc trở về của đứa con hoang đàng trong Tin Mừng Luca không là mẫu mực lên đường về như một gương xám hối, mà con thấy là cuộc trở về dựa vào tình yêu của Chúa.
Làm sao định nghĩa được tình yêu. Người ta nói như thế. Người ta bảo không định nghĩa được tình yêu vì tình yêu phức tạp quá. Con không nghĩ vậy. Tình yêu khó hiểu không phải vì phức tạp mà vì nó quá sâu để hiểu. Khi tình yêu phức tạp là người ta đang đày đọa tình yêu mất rồi. Chỉ vì miếng ăn người con mới trở về mà cũng làm cho người cha quá đỗi vui mừng. Lòng xót thương của Chúa, con không hiểu được. Con không hiểu được chẳng phải tình yêu phức tạp mà vì tình yêu quá sâu.
Con không thấy người cha hỏi đến gia nghiệp nó mang đi. Con không thấy người cha thắc mắc bất cứ điều gì để làm cho tình yêu ra phức tạp. Con không thấy người cha hỏi lý do nào nó trở về. Con chỉ thấy người cha thương con của mình. Lạy Chúa, con chỉ trở về được vì dựa lòng thương xót quá bao dung của Chúa. Con sẽ chẳng bao giờ xám hối trọn vẹn được đâu, và như thế, bao giờ con về được nếu Chúa hỏi con bằng những câu hỏi phức tạp của một tình yêu phức tạp. Nhìn vào tình thương của Chúa con chỉ thấy một chiều sâu. Quá sâu. Dựa vào đó, lạy Chúa, con xin về.
4. BÊN HỒ TIBERIA
Tin Mừng Gioan ghi lại Chúa Giêsu hiện ra ở Biển Hồ Tibêria như sau:
Sau đó, Đức Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Tibêria. Người tỏ mình ra như thế này. Ông Simôn Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Simôn Phêrô nói với các ông:“Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
Khi trời đã sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giêsu. Người nói với các ông: “Này các chú, không có gì ăn ư?” Các ông trả lời: “Thưa không.”Người bảo các ông: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Jn. 21:1-6).
Phêrô đã một thời tự ý ngang dọc. Ông xách gươm. Ông kéo Chúa ra riêng một chỗ rồi lên tiếng trách Người. Bên Biển Hồ Tibêria, hồ hôm nay chỉ dật dờ một rừng lau sậy. Tôi đến đây sau trưa, bóng ngả dần về chiều. Biển xanh mơ êm đềm. Ấy thế mà một thời nổi sóng với ngôn từ của Chúa. Tôi biết, bây giờ ngó ở đâu cũng chỉ là bờ đá và rừng xanh. Nhưng tôi vẫn nhìn quanh như tìm xem bóng Chúa đâu. Phêrô từng ngồi chỗ nào. Bây giờ khách hành hương có thể xin tĩnh tâm nơi những trung tâm này. Tôi có thể dâng lễ ngay tảng đá mà chỉ vài bước chân là xuống biển hồ.
Chúa hiện ra tảng sáng và bảo Phêrô thả lưới. Người đánh cá chuyên nghiệp thì biết, không ai thả lưới lúc tảng sáng. Họ đánh lưới về đêm. Ấy thế mà Phêrô không cãi lại, ông im lặng thả lưới. Một thái độ ngược bản tính của ông. Cái ngang dọc của Phêrô hôm nay biến mất. Và quả thật, cá nhiều quá kéo lên không nổi.
Trên bờ biển hồ tôi đang đi đây, Chúa hiện ra nhiều lần với các môn đệ. Tôi xin dâng lễ ngoài trời, nơi bàn thờ đá cuối nhà thờ. Bàn thờ quay ra biển. Nơi này câu chuyện xảy ra hai nghìn năm trước như sau:
Đó là lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
“Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simôn Phêrô: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.”Đức Giêsu nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.” Người lại hỏi: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Người nói:“Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” Ông Phêrô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” Ông đáp:“Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giêsu bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Jn. 21:15-17).
***
HAI BIẾN CỐ MỘT MẶT HỒ
Ta phải đặt không gian nơi Chúa hiện ra với mẻ cá kéo lên không nổi và câu chuyện bánh hóa ra nhiều vào một liên hệ chung. Xét về địa lý thì cả hai biến cố xảy ra ở mạn Bắc Biển Hồ Galilê, vùng Tibêria. Chỗ Chúa làm phép bánh hóa ra nhiều nuôi mấy ngàn người ăn ở sát bên cạnh nơi Chúa hỏi Phêrô con có mến Thầy không. Cả hai xảy ra bên biển hồ. Ta chỉ cần đi bộ một quãng đường. Đặt vào chung một vùng đất, ta thấy những điểm trùng hợp như sau:
BIỂN HỒ GALILÊ TRƯỚC PHỤC SINH
Bên đồi cỏ
Bánh hóa ra nhiều trên đất
- Một ngày đói không đủ bánh ăn
- Một bên Chúa hỏi có mấy chiếc bánh
Cả hai bên đều trả lời không có. Cả hai bên đều thiếu.
Một bên Chúa bảo đem bánh lại đây
Cả hai bên Chúa không tự ý làm phép lạ.Cả hai đều có phần góp sức của con người.
Một bên đem ổ bánh
Chúa bảo các môn đệ lo cho dân ăn
- Chúa còn sống, thấy dân chúng thì Chúa thương.
Cả hai đều dùng hình ảnh chiên. Một bên là: “Vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.”
BIỂN HỒ GALILÊ SAU PHỤC SINH
Bên biển hồ
Cá hóa nhiều trên nước
- Một đêm hoài công không có cá
- Một bên Chúa hỏi có gì ăn không.
Cả hai bên đều trả lời không có. Cả hai bên đều thiếu.
Một bên Chúa bảo thả lưới.
Cả hai bên Chúa không tự ý làm phép lạ. Cả hai đều có phần góp sức của con người.
Một bên thả lưới
Chúa bảo Phêrô săn Giáo Hội.
- Chúa chết rồi, Chúa bảo Phêrô tiếp tục yêu thương ấy.
Cả hai đều dùng hình ảnh chiên. Một bên là: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy.”
Căn bản của những trùng hợp này là kết luận ta có thể di tới:
Như thế, biến cố bánh hóa ra nhiều là tiền thân của mẻ lưới, của cuộc hiện ra sau Phục Sinh với Phêrô. Cả hai biến cố nói lên một ý nghĩa chung là lòng thương xót của Chúa đối với dân chúng và Phêrô, kẻ theo Chúa là nối tiếp lòng thương xót ấy mà săn sóc Giáo Hội. Khi Chúa bảo các môn đệ lo cho dân chúng ăn trong biến cố bánh hóa ra nhiều, là tập cho các ông cách lo mà Chúa trối cho Phêrô sẽ lo cho Giáo Hội tương lai ở biến cố hiện ra sau Phục Sinh này.
Phêrô phải lo cho Giáo Hội như Chúa săn sóc:
- Vì lòng mến. (Con có mến Thày không?)
- Không dựa vào công lao sức mình. (Hãy thả lưới bên phải)
- Không thất vọng khi thấy không có lối thoát. (Không có gì ăn ư? ông Thưa: Không)
- Phải đóng góp sức của mình, không ỷ lại vào Chúa. (Vâng lời Thày con thả lưới)
- Chúa hành động khác cách con người. (Thả lưới lúc ban sáng!)
Ba lần Chúa hỏi Phêrô để Phêrô được ba lần rửa tội. Ba lần ông chối Chúa. Trong ba lần này Chúa chỉ hỏi về lòng mến. Điều kiện Chúa trao Giáo Hội cho Phêrô là lòng mến. Chúa không hỏi về khả năng lãnh đạo, không hỏi về khả năng kiến thức, không hỏi về khả năng tài chính, không hỏi về khả năng thu phục lòng người. Lòng mến ở đây là mến Chúa, không phải mến công việc của Chúa. Chúa nói rõ: “Con có mến Ta không”. Chúa không hỏi có mến công trình của Chúa không.
Điều khác biệt
Điều khác biệt giữa hai biến cố bánh hóa ra nhiều và mẻ lưới là lời loan báo căn tính tông đồ:“Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: Lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.”Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy” (Jn. 21:18-19). Trong biến cố bánh hóa ra nhiều, Chúa không nói với Phêrô về ơn gọi ông sẽ phải sống như thế nào. Nhưng sau khi Chúa sống lại thì Phêrô phải hiểu rất rõ về căn tính của mình là sẽ phải chết cách nào.
Điều khác biệt hơn nữa
Ông Phêrô quay lại, thì thấy người môn đệ Đức Giêsu thương mến đi theo sau; ông này là người đã nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu trong bữa ăn tối và hỏi: “Thưa Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?” Vậy khi thấy người đó, ông Phêrô nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” Đức Giêsu đáp:“Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh? Phần anh, hãy theo Thầy” (Jn. 21:20-22).
Nét độc đáo trên Biển Hồ Tibêria sau khi Chúa Phục Sinh tăng theo chiều cao của một con diều no gió, phải bay vút lên. Phêrô có người bạn thân là Gioan. Chúa nói cho Phêrô biết có thể phải chết cách nào đó, rồi hỏi ông nghĩ sao. Chúa không đề cập đến Gioan.
Phêrô quyết định theo. Nhưng còn con người trần thế, một chút yếu lòng. Ông nói với Chúa:“Thưa Thầy, còn người này thì sao?” Phêrô hỏi Chúa một lời trần tình thật tuyệt vời. Nó nói lên tất cả chiều sâu nhân tính của một thân phận làm người. Ông không là thánh. Ý ông muốn nói, xin Thầy gọi anh ta nữa, cho đi cùng với con cho có bạn. Con thấy lẻ loi khi theo Thày một mình. “Còn người này thì sao?” Phêrô “nhắc khéo” với Chúa. Không ngờ, Chúa lắc đầu. Chúa không gọi Gioan! Chúa trả lời Phêrô bằng tiếng lệnh lên đường dứt khoát: “Việc gì đến anh.”
- Phần con, con hãy theo Thầy.
Phêrô im lặng. Như thế ta có thể vẽ lên màu xanh êm ả của vùng biển hồ hôm nay một bóng hình nổi sóng vô cùng siêu bạo. Một Thầy, một trò, hai bóng người nhỏ dần khuất bóng. Cái khuất bóng chỉ có hai bóng hình trộn vào nhau làm thành vùng màu sắc táo bạo chấm dứt Phúc Âm Gioan.
Tôi muốn trở lại vùng Biển Hồ Tibêria này, ở lại lâu hơn để nghe sóng vỗ vào chân bờ đá. Những bờ đá đã có dấu chân Người một thủa đi qua. Rất hào hùng.
5. BÓNG MÁT
Bóng mát cần thiết để dừng nghỉ. Thiếu bóng mát cuộc hành trình sẽ mệt lắm. Vì bóng mát chỉ để dừng nghỉ, nên nếu ngày nào bóng mát giữ chân tôi lại không muốn tôi lên đường thì lúc đó bóng mát trở thành đánh lừa tôi. Thiếu bóng mát cuộc hành trình sẽ mệt nên tôi cần bóng mát. Trong cái cần bóng mát ấy, dễ đưa tôi đến chỗ ôm giữ bóng mát như một nuối tiếc không muốn rời bỏ.
Có những bóng mát của một ngày hành trình dài trên đường đi bộ. Nhất là, khi mồ hôi đong vào những sợi nắng chẻ tóc. Nhất là, khi gặp một trời hạ hực nắng và gió không hiền hòa. Lúc đó, tôi cần một bóng mát làm sao!
Dù là bóng mát của một quán trọ hay bóng mát của một tàng cây, bóng mát vẫn chỉ là "bóng" chứ không phải là "thực". Vì là bóng, nên bóng mát không thể là nơi tôi nương trú. Tôi chỉ dừng chân rồi đi. Cái nguy hiểm của bóng mát là có thể làm chậm trễ hành trình tôi đi tới, có thể đánh mất đường về của tôi.
Từ bóng mát trên đường đi dẫn tôi đến "bóng mát cuộc đời".
Bóng mát cuộc đời.
Có nhiều thứ bóng mát trong cuộc đời. Một ngày nào đó với lo âu trĩu nặng, rồi có một tình thân đến chia sẻ. Một ngày nào đó bơ vơ, rồi có một tâm hồn đến cho nương tựa. Ðấy đều là những bóng mát. Trong lúc cơ cực, một tấm lòng rộng lượng đến nâng đỡ. Những bóng mát như vậy cần thiết biết bao. Trong đời ai cũng cần những bóng mát như thế. Cuộc sống không giản dị êm đềm, có những quãng vắng lặng lẽ, có những khúc đi gian nan, để rồi cuộc sống cần những bóng mát cuộc đời.
Trong những bóng mát cuộc đời ấy có những bóng mát nguy hiểm, bóng mát lừa dối. Giữa những bóng mát cần thiết có những bóng mát bất chính. Người ta lẫn lộn những bóng mát ấy với nhau. Vì đặc tính của bóng mát là cho người ta "chất mát". Ðam mê và tội lỗi cũng là một thứ bóng mát. Nhiều khi tội lỗi và đam mê càng cho người ta nhiều "chất mát" hơn.
Thí dụ trong hôn nhân, thí dụ trong đời tu, vì một lúc yếu lòng, vào một mùa thu ảm đạm. Rồi, ở một nơi nào đó trong tâm hồn mình, thấy bâng khuâng gợi nhớ, thấy man mác một nỗi sầu trống vắng thiếu thốn. Người ta dễ đi tìm "bóng mát cuộc đời" bằng lỗi chung thủy.
Ðời là con đường dài. Những lúc chớm sáng bình minh, người ta hăng hái lên đường, nhưng vào trưa oi bức, người ta muốn dừng nghỉ. Những ngày hạnh phúc êm ả người ta không cần bóng mát cuộc đời. Những ngày chán nản, bơ vơ, người ta không muốn lên đường, lúc ấy, những quán hạnh phúc bên đường dễ cám dỗ mời mọc làm sao.
Bóng mát và người chăn chiên.
Người chăn chiên nhìn về cuối chân trời. Nắng vẫn hanh, nhưng trong lòng người chăn chiên, chiều đang đổ xuống rất mau. Ðường vẫn còn dài. Người chăn chiên nhủ lòng: Phải ra khỏi cánh rừng khi chiều về!
Chúa Kitô cũng vậy, thời gian đối với Ngài là mùa màng cứu rỗi. Ngài nhìn cuộc sống của tôi với chiều đi mà nôn nao, hối hả: "Bao lâu còn sáng ngày, Ta phải làm việc của Ðấng đã sai Ta. Ðêm tối đến không ai còn làm việc được nữa" (Jn. 11:10).
Người chăn chiên tính toán kỹ lưỡng. Trời còn hanh nắng đó, nhưng phải lên đường cho kịp tránh hoàng hôn. Bầy chiên nào có biết, chúng chỉ thích an nghỉ dưới tàng cây rợp bóng. Cái êm dịu của bóng mát làm chúng ngại lên đường. Chúng muốn thiu thiu ngủ hơn ra đi. Chiều cứ xuống, chầm chậm không lời báo động."Trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, lấy vợ lấy chồng cho đến ngày ông Noe vào tầu. Và lúc chẳng ai để ý gì, thì lụt đến và cuốn trôi đi tất cả" (Mt. 24: 38-39). Khi giấc ngủ vừa tỉnh, muốn lên đường thì đã muộn. Hoàng hôn xuống mà chưa ra khỏi cánh rừng là bóng tối bủa vây, là nguy hiểm rình chờ, sói rừng sẽ xuất hiện. Những bóng mát ấy là cõi chết rất êm. Những bóng mát đánh lừa.
Người chăn chiên lành nghề thì biết khúc đường còn bao lâu, quãng dài cần thiết bao nhiêu thời giờ để ra khỏi cánh rừng. Cho dù trời có nắng, mồ hôi có chảy, người chăn chiên vẫn cứ hối hả thúc chiên lên đường, không cho nó nằm nghỉ dưới bóng mát tàng cây. Nỗi tâm tư của người chăn là chiên chẳng hiểu mình. Chúng trách cứ, oán than. Trong bóng mát ấy, bầy chiên than thở, tại sao một chút hạnh phúc mà Ngài cũng lấy đi. Bao lần trong đời, con người đã nhìn hình ảnh người chăn chiên như kẻ khó tính, không cảm thông. Một chút hạnh phúc mà Ngài cũng không cho. Một chút an ủi mà Ngài ngăn cấm. Người chăn chiên biết cái rình mò của bóng đêm. Nhìn đường còn xa mà lo âu thương bầy chiên, nếu trời đổ tối mà chưa ra khỏi cánh rừng thì sao. Sói đến. Chết chóc. Ðổ vỡ. Dù chiên muốn hay không, người chăn chiên vẫn nhủ lòng: Nhất định phải bắt chúng lên đường!
Chúa Kitô cũng thế. Ngài thấy những "bóng mát cuộc đời" giả tạo của tôi mà lo âu. Ngài biết bóng mát ấy đang đánh lừa tôi. Bóng mát ấy có thể là tình cảm bất chính, là tiền bạc tôi không rõ ràng trong khi có trách nhiệm cầm giữ. Bóng mát ấy có thể là quyền hành tôi được trao phó, nhưng mà để thoả mãn hơn là phục vụ. Bóng mát ấy cũng có thể là giấc ngủ dài vì ngại ngùng khi thấy hành trình xám hối đòi nhiều cố gắng. Bóng mát ấy có thể là một thứ đam mê.
Những thứ bóng mát này có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng cùng một địa chỉ là lừa gạt tôi.
Khi nói về bóng mát (shadow), cả bốn Phúc Âm chỉ nói đến 2 lần. Và cả hai lần tiếng bóng mát đều liên quan đến sự chết. Lần thứ 1 trong Matthêu: "Kẻ ngồi trong bóng tối sự chết" (Mt. 4: 16). Lần thứ 2 trong Luca:"Kẻ ngồi trong tối tăm bóng chết" (Lc. 1: 79).
Trong khi những lời giảng dạy, nhiều biến cố quan trọng giữa Chúa và con người hầu hết đều xẩy ra trên đường đi đổ nắng chứ không ở trong bóng mát. Thí dụ:
Trên đường đi Ngài hỏi họ: Người ta nói Thầy là ai? Và Phêrô tuyên tín Thầy là Ðức Kitô (Mt. 8: 27-27).
Khi bắt đầu lên đường. Một người đến hỏi: Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sống đời đời (Mt. 10: 17).
Dọc đường lên Jerusalem, Ngài nói: Con Người sẽ bị nộp trong tay người đời, các ký lục và thượng tế... (Mc. 10: 32-34).
Trên đường đi, họ bắt ông Simon vác thánh giá đỡ cho Ðức Kitô (Lc. 23: 26).
Trên đường đi đến một làng nọ. Mười người phong cùi đến gặp Ngài (Lc. 17: 11).
Cuộc gặp gỡ sau biến cố Phục sinh cũng xẩy ra trên đường Emmaus. Hai ông kể lại chuyện xẩy ra khi các ông đi đường và các ông đã nhận ra Chúa lúc Ngài bẻ bánh (Lc. 24: 35).
Giakêu gặp Chúa cũng là gặp trong lúc đi đường (Lc. 19: 4).
Khi người chăn chiên dùng gậy đánh để bầy chiên khỏi ươn lười ngủ vùi trong bóng mát, cũng là lúc, để thức tỉnh tôi, Chúa trao cho tôi "chút bánh đau thương và ít nước khốn cùng. Nhưng Ðấng dạy dỗ tôi sẽ không bao giờ rời bỏ tôi. Khi chân tôi xiêu bên phải, vẹo bên trái, chính tai tôi nghe tiếng từ đàng sau phán: Ðây là đường hãy đi theo đó" (Isaia 30: 18-21). Chúa biết ngày nào tôi còn nằm trong "bóng mát" giả tạo ấy, tôi chỉ ôm mơ một bóng hình hạnh phúc ảo ảnh. Những êm đềm ấy chỉ lừa dối tôi thôi.
Bóng cây mát ven đường đánh lừa bầy chiên để đêm tối ập xuống thế nào thì "bóng mát cuộc đời" đam mê cũng đánh lừa tôi để tôi mất mùa ơn sủng như thế.
* * *
Lạy Chúa,
Bao lần tâm tư Chúa buồn phiền khi thấy con dại dột nằm ẩn mình trong bóng mát. Những cảm xúc ngọt ngào của bóng mát chỉ cho con hạnh phúc giả mà thôi. Nó cản đường con về đồng cỏ quê trời. Nó làm chậm chân con ra khỏi cánh rừng nguy hiểm cho linh hồn. Những ngày con sống như thế, Chúa thấy thời gian đổ vỡ đã gần kề mà con vẫn ngủ, thì con xin Chúa, như người chăn chiên tốt lành, hãy dùng gậy mà đánh, mà lùa chiên ra khỏi bóng mát.
Xin cho con nhớ lời thánh Phaolô nhắn gởi: "Hỡi con chớ khinh chê lời sửa phạt của Chúa, chớ ngã lòng khi Chúa trách mắng con. Vì Chúa sửa trị kẻ Chúa yêu và đánh phạt kẻ Chúa nhận làm con. Chúa dùng đau khổ để dạy anh chị em. Thiên Chúa đối xử với anh chị em như đối xử với con cái. Có con nào mà cha không phải sửa phạt ư? Nếu anh chị em không nhận lời răn dạy như mọi người, anh chị em là con ngoại tình chứ không phải con thật nữa. Ðàng khác cha phần xác sửa dạy ta mà ta còn tôn kính, phương chi ta càng phải vâng phục cha phần hồn là Ðấng ban sự sống cho ta. Cha phần xác sửa trị ta theo ý riêng mình và vì lợi ích tạm thời, còn cha phần hồn thì vì lợi ích thực sự là để ta được thông phần vào sự thánh thiện của cha. Thật vậy, mọi sự sửa phạt lúc đầu chỉ gây buồn tủi, chẳng có đem lại an ủi đâu, song về sau, những kẻ vui lòng chịu thử thách như vậy, sẽ được sự bằng an và sự công chính làm phần thưởng (Hipri 12: 4-11).
6. CĂN CƯỚC
Phúc Âm thánh Yoan, phần phụ chương, chương 21:
Sau đó, Ðức Yêsu lại tỏ mình ra lần nữa cho môn đệ ở ven biển Tibêria. Ngài tỏ mình ra như thế này: Tề tựu với nhau có Simon Phêrô và Tôma, nghĩa là sinh đôi, Nathanael người Cana xứ Galilê, các con ông Zêbêđê, và hai môn đệ khác nữa, Simon Phêrô nói với họ: "Tôi đi đánh cá đây". Họ nói với ông: "Chúng tôi cũng đi với ông". Họ ra đi, lên một chiếc thuyền; nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả (Jn. 21:2-3).
* * *
Cuộc đời Phêrô có nhiều sôi nổi. Gồm lại những sôi nổi, ta có thể chia đời của ông làm hai: Cuộc đời phần một, từ khi theo Thầy ở biển hồ Galilê đến lúc chối Thầy. Phần hai, từ khi theo Thầy ở biển hồ Tibêria cho đến cuối đời chết ở Roma.
Tôi chọn những lời Phúc Âm trên đây để vẽ căn cước cho ông vì trong cuộc đời phần một của ông, ông đi từ lỗi lầm này qua lỗi lầm khác. Cuối đời của Chúa, Chúa đã bị ông chối từ thê thảm (Mc. 14:66-72). Nhưng phần thứ hai trong đời ông là một thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca được mở đầu bằng những lời chứng của Yoan trên đây. Lời chứng nói về một đêm đen mờ mịt của biển hồ Tibêria, rồi đưa đời ông từ đêm đen mờ mịt ấy về một cõi trời phiêu bạt mịt mùng sương gió cho Nước Trời.
* * *
Trên biển hồ Tibêria, thẻ căn cước của ông được viết bằng một hàng chữ ngắn: Tôi đi đánh cá. Ông mở đầu cuộc đời anh hùng ca của ông bằng mấy chữ ấy. Với thẻ căn cước đó ông vẽ chân dung của ông bằng những mảng màu độc đáo. Ðời ông ra sao về sau này, tuỳ thuộc ở tấm căn cước mà ông xác định trên biển hồ hôm nay: Tôi đi đánh cá. Vậy chúng ta hãy "xét" căn cước của ông để tìm một chút thành tố căn bản cho thiên anh hùng ca đời ông.
Chấp nhận cô đơn sương gió
Trên biển hồ hôm đó, ta thấy Yoan kể về một nhóm bạn hữu. Ðếm ra ít nhất cũng bẩy người, nếu tính cả Phêrô, biết đâu còn nhiều hơn. Thầy của họ vừa mới chết. Cái tang chế u buồn như còn chít vòng khăn sô trong tim họ. Mất Thầy rồi, giờ này biết đi đâu? tương lai chúng ta ra sao? Chắc chắn họ vọng về những ngày quá khứ đi đâu cũng có Thầy với nỗi sầu muộn u hoài. Chắc chắn họ nhìn về tương lai với nỗi lo băn khoăn. Bởi đó, họ cần nhau. Ði đâu họ cũng muốn có nhau. Cho nên cái thường tình, họ ngồi chụm với nhau một đám đông là thế.
Trời xuống đêm nặng nề. Ngoài kia biển cứ mênh mông vô tâm. Họ hỏi nhau. Chúng ta sẽ đi về đâu? Chúng ta phải làm gì? Những câu hỏi ngắn thôi mà câu trả lời sao mịt mờ quá. Trong cái bơ vơ mệt mỏi để tìm một định hướng, Phêrô lên tiếng: Tôi đi đánh cá.
Ông dại dột quá, tại sao ông không nói: Chúng ta hãy đi đánh cá. Ông lỡ lời mất rồi. Ông chỉ nói: Tôi đi đánh cá. Nếu không ai đi với ông thì sao? Khi ông nói, Tôi đi đánh cá, mà không ai đi với ông thì ông phải đi một mình. Chúng ta hãy nhìn mảng màu mà ông tự vẽ cho ông. Ông đã nhìn thấy một đêm đen mờ mịt, ngoài kia gió lạnh buông theo sương. Mênh mông một mái chèo. Lặng lẽ trong khuya khoắt một nhịp sóng cô độc, lẻ loi. Nếu không ai đi, một mình một mái chèo, một mình một biển rộng hoang vu, một mình một bão tố thăm thẳm. Nếu không ai đi, gió đưa về từng con sóng bung vạt áo, một tay đỡ nhịp, một tay chống. Chắc chắn ông đã nhìn thấy ra khơi trong đêm nay là thế. Nhưng tiếng lòng của ông là căn cước của riêng ông. Nếu không ai đi ông vẫn ra đi một mình.
Từ nay, bước đường căn cước ơn gọi làm Kitô hữu của tôi là thế. Là ngược gió mà đi, là ngược theo dòng đời mà tới. Tôi chọn hàng chữ Phêrô viết trên tấm căn cước của ông: Tôi đi đánh cá. Vì tôi thấy ông có một lựa chọn dứt khoát cho một ơn gọi. Không có ai đi, tôi vẫn đi. Trên cuộc đời, có người đi ngược, có kẻ về xuôi. Nhưng đâu là con đường của tôi. Phêrô, ông đã không để đời ông nhiễm lạnh vì cái ấm cúng của một đám đông. Ông không để đời ông sợ hãi vì không có kẻ đồng hành mà ngần ngại với ơn gọi. Tôi đang nhìn thấy một Phêrô khác cũng đang vẽ căn cước cho đời mình bằng thiên anh hùng ca của biển hồ Tiberia năm xưa, đó là Yoan-Phaolô II. Người ta chống đối Giáo Hội, vì Ngài dám nói thẳng về những tệ trạng thiếu luân lý, công bình của xã hội hôm nay.
Trong ơn gọi làm Kitô hữu của mình, tôi cần viết một hàng chữ cho căn cước của tôi.
Ðặc tính của lửa
Khi Phêrô nói: Tôi đi đánh cá. Các ông khác cùng nói: Chúng tôi cũng đi với ông. Chúng ta giả sử đêm ấy Phêrô không ra khơi, chắc hẳn chẳng có ai muốn xuống thuyền. Nhưng giờ đây, ta hãy nhìn những mảng màu táo bạo Phêrô đổ xuống biển hồ. Trong cái đêm đen mênh mông ấy, khi mà thế giới say ngủ, nhóm chài lưới bẩy người ra khơi. Họ tiến vào mù mịt gió sương, họ đập chèo vào mặt sóng không sợ hãi, họ dứt khoát đi thẳng vào mịt mùng nước mênh mông. Ðẹp làm sao trong cái u hoài sầu muộn, giờ đây bừng bừng lửa, đốt thành bẩy ngọn hải đăng thiêng liêng. Mỗi con sóng đập là toé lên từng mảng mầu dũng cảm long lanh. Mỗi ào ào gió tạt là vung tay gạt thách đố. Tôi có thể nhìn thấy Phêrô đứng ở mũi thuyền, mỗi lần sóng trào lên, mắt ông ngời sáng nhìn về phía trước. Tóc ông rối bay ẩm ướt gió sương. Không phải biển hồ đe dọa nuốt ông, mà là ông đe dọa sẽ nuốt cả biển hồ.
Lửa. Một lần Ðức Kitô đã nói: "Ta đã đem lửa xuống thế gian và ta muốn lửa ấy cháy lên" (Lc. 12:49). Ðặc tính của lửa là đốt cháy. Cái mệnh đề: "Tôi đi đánh cá" của Phêrô dẫn đến mệnh đề thứ hai: "Chúng tôi cùng đi với ông". Họ đã bị Phêrô đốt cháy.
* * *
Lạy Chúa,
Cuộc đời con có nhiều khúc đường mà kẻ đi xuôi, người về ngược, kẻ bảo dừng, người phân vân. Trong cái hoang mang đó con rất dễ đánh mất căn cước ơn gọi của con. "Xét" căn cước của Phêrô, con thấy đời ông có một lý tưởng. Thiên anh hùng ca đời ông đã bắt đầu bằng thái độ dứt khoát đó. "Xét" căn cước của Phêrô, con thấy ông đã đốt cháy đời kẻ khác chung quanh ông. Dựa vào căn cước của ông con cần xét căn cước của mình:
- Trong cuộc sống, nếu con không dám trung thành với giáo huấn của Giáo Hội, nếu con tự nhủ lối sống dễ dãi của con chẳng có gì phàn nàn vì tất cả kẻ khác cũng sống như vậy. Ðấy là dấu chỉ con bỏ căn cước ơn gọi Kitô hữu của con, con đang cầm căn cước của người khác rồi.
- Lý tưởng của Phêrô đã làm thay đổi ngoại cảnh chung quanh ông. Chỉ có lửa giả mới không đốt cháy. Nếu trong bổn phận Chúa trao cho con, mà chung quanh con mọi thứ đều tà tà, chẳng có gì thay đổi, đấy là dấu hiệu con phải "xét" kỹ lại căn cước thiêng liêng của mình.
7. CHẾT
Khi tôi được sinh ra là khởi điểm tôi bắt đầu đi về cõi chết. Làm gì có sự chết nếu không có sự sống. Làm gì có ngày người ta chôn tôi nếu không có ngày tôi chào đời. Như thế, cuộc sống của tôi là chuẩn bị cho ngày tôi chết.
Ngay từ trong bào thai của mẹ, bắt đầu có sự sống là tôi đã cưu mang sự chết rồi. Kết hợp và biệt ly ở lẫn với nhau. Trong lớn lên đã có mầm tan rã. Khi vũ trụ chào đón tôi, thì cùng một lúc, tôi bắt đầu từ giã vũ trụ từng ngày, từng giờ.
Mỗi ngày là một bước tôi đi dần về sự chết. Bình minh mọc lên, nhắc nhở cho tôi một bước cận kề. Hoàng hôn buông xuống, thầm nói cho tôi sự vĩnh biệt đang đến.
Không muốn nghĩ về sự chết tôi cũng chẳng tránh đuợc sự chết.
Tôi có thể không muốn nghĩ về sự chết nhưng tôi có ghét sự chết được không? Tôi ghét sự chết là tôi ghét chính tôi. Chết ở trong tôi. Tôi đang đi về cõi chết nên ngay bây giờ sự chết đã thuộc về tôi rồi. Sự sống của tôi hàm chứa sự chết, nên tôi yêu sự sống thì tôi cũng phải yêu sự chết. Vì vậy, cuộc đời có ý nghĩa vẫn chỉ là cuộc đời chuẩn bị cho ngày chết.
Trong dòng đời, tôi không sống một mình. Cuộc sống của tôi là tấm thảm mà mỗi liên hệ yêu thương là một sợi tơ, mỗi gắn bó quen biết là một sợi chỉ, anh em, cha mẹ, người yêu. Sự chết xé rách tung tất cả để tôi ra đi một mình. Chẳng ai đi với tôi. Vì thế, chết mang mầu ly biệt.
Sống là hướng về tương lai. Tương lai là cái tôi không nắm chắc trong tay, vì vậy, tôi hay nhìn về tương lai bằng nỗi sợ bấp bênh. Càng bấp bênh thì tôi càng tìm kiếm vững chãi, càng tích lũy. Nhưng tích lũy xong, xây đắp xong, vất vả ngược xuôi để rồi ra đi trắng đôi tay thì đời tôi thành đáng thương hại. Nếu tôi không đem theo được những gì tôi tích lũy, thì những gì tôi ôm ấp hôm nay chỉ làm tôi thêm đau đớn, nuối tiếc. Nếu không muốn vậy thì chúng phải là phương tiện để chuẩn bị cho giờ ra đi của tôi.
Tích lũy cho tương lai có thể là dấu hiệu khôn ngoan đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra. Mà cũng có thể là một thứ nô lệ. Nếu suốt đời tôi lo âu tìm kiếm danh vọng, quá tham lam tiền bạc, lúc nào cũng bị vây khốn, băn khoăn thì đâu là niềm vui, tận hưởng.
Mà tận hưởng là gì? Ðâu là ý nghĩa của sự tìm kiếm? Tích lũy?
Kinh Thánh kể:
Có người trong đám dân chúng nói với Ðức Kitô: "Thưa Thầy, Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi".
Ngài đã nói cùng họ: "Hãy coi chừng! hãy lo giữ mình tránh mọi thứ gian tham, vì không phải ai được sung túc, là đời sống người ấy chắc chắn nhờ của cải".
Ngài nói cùng họ một ví dụ rằng: "Có người phú hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: ta phải làm gì? Vì ta không còn chỗ nào mà tích trữ hoa mầu nữa. Ðoạn người ấy nói: Ta sẽ làm thế này: phá quách các lẫm đi, mà xây những lẫm lớn hơn, rồi chất cả lúa mạ, và của cải vào đó, rồi ta nhủ hồn ta: Hồn ơi! mày có dư thừa của cải, sẵn đó cho bao nhiêu năm; nghỉ đi! ăn uống đi! hưởng đi! Nhưng Thiên Chúa bảo nó: Ðồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi sự ngươi đã sắm sửa, tích góp kia sẽ về tay ai? (Lc 12,13-21).
Không ai sống hộ tôi. Không ai chết thay tôi. Không ai đi cùng tôi. Tôi sẽ ra đi lẻ loi. Họ sẽ quên tôi cũng như tôi đã quên bao người. Có thể đôi khi họ nhớ tôi. Cũng như đôi khi tôi nhớ người này, kẻ kia. Nhưng nỗi nhớ chỉ là của riêng tôi, còn kẻ đã ra đi vẫn ra đi miền miệt. Thì cũng thế, chẳng ai làm gì được cho tôi lúc tôi ra đi không trở lại.
Chết là mất tất cả. Nhưng thánh Phaolô lại tuyên tín rằng chết là chiến thắng (1Cor 15,54). Chết là đi về sự sống vĩnh cửu. Chết là gặp gỡ. Gặp Ðấng tạo nên mình. Như vậy, chết là cánh cửa im lìm được mở ra để tôi về với Ðấng thương tôi. Chết là điều kiện để sống.
Chúa ơi, chết là đi về với Chúa sao con vẫn lo âu?
Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con sợ con có thể không gặp Chúa. Vì sợ không gặp nên chết mới là bản án nặng nề. Mà tại sao con lại sợ không gặp Chúa? Chúa luôn mong mỏi, đợi chờ con cơ mà. Như thế, muốn gặp Chúa hay không là do ý của lòng con. Con có quyền quyết định cho hạnh phúc của mình.
Chúa ơi, vì biết mình sẽ chết nên con băn khoăn tự hỏi bao giờ thì chuyến tầu định mệnh đem con đi. Hôm nay hay ngày mai? Mùa thu này hay mùa xuân tới? Con âu lo. Nhưng vì sao phải lo âu?
Phải chăng lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con chưa chuẩn bị đủ, là hồn con còn ngổn ngang. Có xa Chúa thì mới sợ mất Chúa. Sợ mất Chúa thì mới xao xuyến băn khoăn.
Con biết thế, con biết rằng vì không sẵn sàng, vì không chuẩn bị nên mới hồi hộp, mất bình an. Con biết thế, con biết sau khi chết là hạnh phúc hay gian nan, là núi cao với mây ngàn cứu rỗi, hay vực sâu phiền muộn với đau thương. Nhưng chuẩn bị cho giờ ra đi không đơn giản Chúa ơi. Chúa biết đó, con đi tìm Chúa nhưng là đi trong lao đao. Bởi yêu một vật hữu hình thì dễ hơn lắng nghe tiếng gọi từ nơi xa thẳm. Giầu có và danh vọng cho con hạnh phúc mà con có thể sờ được. Còn hạnh phúc của đức tin thì sâu thắm quá.
Chung quanh có biết bao mời mọc. Kinh nghiệm cho con thấy rằng đã nhiều lần con bỏ Chúa. Như vậy biết đâu con lại chẳng bỏ Chúa trong tương lai. Nếu lúc đó mà giờ chết đến thì sao?
Chúa có nghĩ rằng khi con phải phấn đấu chối từ những rung cảm bất chính để sống theo niềm tin là thánh giá của con không. Chối từ tiếng gọi của tội lỗi đã là một thánh giá. Nhưng có khi lo âu vì không biết mình có từ chối được không còn là một thánh giá khác nữa. Chính đấng thánh của Chúa mà còn phải kêu lên: "Ôi! những điều tôi muốn làm thì tôi chẳng làm, những gì tôi muốn trốn tránh thì tôi lại làm" (Rom 7,15-16). Chúa thấy đó, vị tông đồ lớn của Chúa mà còn như thế, huống chi con, một kẻ mang nhiều đam mê, yếu đuối thì đường về với Chúa gian nan biết bao.
Ðể khỏi chết khi con chết, thì con phải chết trước khi con chết.
Cái chết đó là đóng đinh đời con vào thập giá. Con không biết con can đảm đến đâu. Con chỉ xin sao cho con tiếp tục đi mãi. Ði xiêu vẹo vì yếu đuối của con, nhưng vẫn tiếp tục đi.
Thập giá nào thì cũng có đau thương.
Con không muốn thập giá. Vì thập giá làm con mang thương tích. Chúa cũng đã ngã. Nhưng nếu sự sống của con mang mầm sự chết, thì trong cái chết của thập tử nẩy sinh sự sống. Chúa đã chết. Chúa hiểu nỗi sợ hãi của sự chết. Con vẫn nhớ lời Chúa cầu nguyện: "Lạy Cha, con xin phó hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46). Hôm nay con cũng muốn nói như vậy đó, với Chúa. Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa dạy con rằng chẳng có sự sống nào mà không phải qua sự chết. Chết thì sợ hãi, nhưng nếu con yêu sự sống thì con phải yêu sự chết.
Con muốn chết để được sống.
Con sẽ đóng đinh đời con vào thập tự. Chúa ơi, Chúa có cho những lo âu của con là dấu chỉ tình yêu của một tâm hồn yếu đuối, đang thao thức đi tìm Chúa vì sợ mất Chúa không.
Lạy Cha, trong tay Cha con xin phó thác đời con.
8. CHIẾC ÁO
Sau khi ăn trái táo, Evà thấy mình trần truồng nên kết lá vả che thân (Stk. 3:1-7). T rong hình ảnh này, tội liên hệ tới áo che thân.
***
Những chiếc áo
Nhiều người tạo giá trị đời mình bằng cách sắm sửa quần áo đắt tiền. Nhiều kẻ đánh giá sai một người cũng chỉ vì áo quần người đó che thân.
Nhiều lần Chúa khó chịu vì các thầy tư tế thích trang phục cho mình những áo tua rộng, ngồi chỗ nhất trong hội đường. Có "áo tua rộng", khuynh hướng tự nhiên là `hích "ngồi chỗ nhất trong hội đường" để được chú ý. Bằng ấy năm theo Chúa, chẳng thấy Chúa may cho các môn đệ lấy bộ áo đồng phục. Chúa cứ bảo dấu hiệu người ta nhận ra các con là môn đệ Thầy, là các con hãy yêu thương nhau. Bây giờ thì khác, giáo phái nào cũng có đồng phục. Ðoàn thể nào cũng thích có áo đồng phục. Không có đồng phục, sợ rằng người ta không nhận ra mình là ai.
Bác ái vô hình quá, chứng nhân bằng bác ái khó hơn làm nhân chứng bằng manh áo. Ðối với manh áo, cứ có tiền là sắm được. Cứ mặc lên là xong, người ta nhìn thấy ngay. Có khi càng có đồng phục đẹp, càng nghĩ mình là chứng nhân trung thực. Có khi càng nghèo nhân đức càng cần tấm áo thật đẹp. Chứng nhân bằng bác ái khó lắm.
Cả đời Ðức Kitô, có một lần Phúc Âm nhắc đến áo, lại là lần mất áo. "Chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau" (Mt.27:35).
Chúa lấy nghèo khó, làm nhân chứng lòng thương xót.
Lấy can đảm, cắt nghĩa sự quý trọng chân lý.
Lấy đau khổ, diễn giải lòng trung thành.
Chúa không lấy tấm áo làm biểu hiệu chứng nhân. Biết đâu những tấm áo tôi mặc hôm nay chẳng làm tôi thành nhân chứng mà chỉ là tấm áo ẩn náu, che đi những yếu đuối vì tôi không có khả năng làm chứng nhân.
***
Có tội, Ađam - Evà mới tìm áo che thân. Như vậy, áo che thân cũng là áo che tội. Theo câu chuyện thiếu áo che thân của nguyên tổ trong địa đàng thủa xưa, áo và tội liên quan với nhau. Biết đâu, hôm nay cũng có những tấm áo chỉ để làm nổi bật sự quan trọng mà thực sự họ chẳng có. Hoặc để che đi những gì họ có mà chẳng tốt lành.
***
Người nghèo thường phải mặc áo rách. Kẻ nghèo hơn nữa thì không có áo. Hình ảnh những nô lệ, không thấy họ mặc áo. Nghèo là sự trần trụi của con người. Ai cũng cần tấm áo để che đi cái trần trụi ấy. Cái áo làm đẹp con người. Thiếu áo, khổ thật. Nó là dấu chỉ của thấp hèn, của túng thiếu. Chả ai muốn nghèo.
Ở quê hương tôi có nhiều người thiếu áo. Có những bà mẹ lam lũ mà không sắm được cho con tấm áo vào ngày đầu năm. Dì tôi ngồi ở hiên nhà nhặt những hạt đậu sâu. Bàn tay đen sậm, cáu ghét vì đồng áng lam lũ. Nắng hầm hập trên mái tôn thấp. Những sợi tóc muối tiêu vương vãi trên lưng áo im lặng. Tôi nhìn chiếc áo, áo của dì rách quá. Cái áo ấy không bằng chiếc giẻ lau ở đây. Cũng là con người, nhưng hai miền đất, hai hạnh phúc khác nhau. Tôi ở một nơi rất xa nơi dì tôi ở. Sự giàu có ở đây làm tôi khó nhớ tới những manh áo rách nơi đó.
Nếu Evà vì tội phải cần tấm áo che thân, thì mỗi manh áo tôi che trên mình đều có ý nghĩa. Manh áo ấy có nhắc tôi về tội tôi đang giấu giếm? Những tương quan của manh áo này với manh áo nọ trong cuộc đời chắc hẳn cũng có những ý nghĩa. Ðâu là ý nghĩa chiếc áo của những người nghèo như dì tôi đang mặc? Nó liên hệ thế nào với chiếc áo của tôi nơi phương trời này trong thân thể Chúa Kitô, nơi mọi người đều là anh em?
***
Chiếc áo đẹp nhất
Câu chuyện người con hoang đàng trong Phúc Âm Luca kể rằng: Anh ta còn ở đàng xa, người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh, hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa..." Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ: "Mau mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu..." (Lc. 15:20-22).
Bỏ nhà, anh ta phải đem những áo tốt nhất đi theo. Vậy sao lại còn cái "áo đẹp nhất"? Dựa theo mạch văn của bài tường thuật, ta có thể biết được nguồn gốc của cái áo ấy.
Người cha sai đầy tớ về bắt con bê đã "vỗ béo" ăn mừng. Theo bản văn, không phải bắt con "bê béo" mà con bê đã "vỗ béo". Bê đã "vỗ béo" khác con "bê béo". Vỗ béo là con bê đã được săn sóc cách riêng cho béo. Nó là con bê được nuôi nấng từ lâu cho một mục đích chờ sẵn.
Bắt con bê béo làm tiệc cũng là quý rồi, nhưng việc ấy chỉ nói lên phần đãi ngộ khi người con trở về. Còn con bê "vỗ béo" là đãi ngộ ngay khi người con chưa trở về. Có nghĩa là khi còn trong tội lỗi, người cha đã cưu mang một lòng bao dung thương nhớ con mình. Chưa trở về đã đãi ngộ bằng sửa soạn một con bê. Hai điều đó khác nhau, diễn tả hai ý nghĩa rất khác biệt.
Nếu người cha nuôi con bê cách riêng cho béo, hy vọng là có ngày người con về, thì chiếc áo kia hẳn phải là áo ông may sẵn.
Ra đi, nó không để lại những đôi giầy quý, bỏ lại những cái áo hảo hạng. Lúc ông bảo đầy tớ về lấy áo, người đầy tớ không thắc mắc chiếc áo nào, áo của ai, không thắc mắc áo của người anh hay áo của chính ông chủ, người đầy tớ hiểu đích xác chiếc áo nào. Qua cách truyền lệnh ấy, dường như giữa người đầy tớ và ông cha già đã có những lần nói chuyện về cái áo và mục đích của nó để làm gì. Bởi thế, khi nói lấy chiếc áo đẹp nhất, người đầy tớ không cần hỏi han chi, họ biết ngay áo nào rồi.
***
Sau khi bảo đầy tớ về bắt bê đã vỗ béo ăn mừng, Phúc Âm Luca kết luận: "Vì con ta đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy" (Lc. 15:24). Lời kết luận trên đây nói về một cuộc sống mới, về bình minh của phục sinh. Sự phục sinh là chiếc áo mới. Không phải đợi con về mới có chiếc áo mới. Chiếc áo ấy đã may sẵn. Như thế, trong lúc tôi phạm tội, khi tôi trong bóng tối sự chết, Chúa đã gieo mầm phục sinh cho tôi.
Lạy Chúa, nói chiếc "áo đẹp nhất", con muốn hiểu không phải đẹp trong ý nghĩa tơ lụa, mà là ngày tháng nối những ngày tháng, người cha cứ nghĩ đến đứa con. Ông nhớ nó trong những đường may nối những đường may. Con muốn hiểu tình thương của Chúa trong chiều sâu đó.
Ngày xưa, trưa hè vắng, mẹ ngồi vá áo cho con. Ngón tay mẹ đưa những mũi chỉ. Tuổi thơ chỉ thích nô đùa làm rách áo. Nhìn lại tháng ngày thơ bé ấy, bây giờ con biết mỗi mũi chỉ là mỗi tình thương. Với cái chết khổ nạn, Chúa may áo mới cho con. Biết công ơn của mẹ thì nay đã xa, con muốn cầu nguyện báo hiếu cho những ngày tuổi thơ ấy.
***
Lạy Chúa, con muốn gìn giữ chiếc áo cứu rỗi Chúa ban cho con. Tiếc làm sao nếu rách chiếc áo linh hồn.
Trong cuộc sống giữa đời thường, xin cho con thông cảm giá lạnh của những người thiếu áo.
Con cũng xin ơn đừng vì tấm áo mà làm hoen ố Giáo Hội, áo tu sĩ, áo trí thức, áo quan tòa, áo đoàn thể, áo chủ tịch. Những tấm áo chức vị ấy, những chiếc áo đồng phục kia có cần thiết để biến con thành nhân chứng? Hay nhiều khi chỉ làm hoen ố những chứng nhân.
9. CHÚC MỪNG
Có nhiều lời chúc mừng.
Có nhiều dịp chúc mừng.
Có nhiều người được chúc mừng.
Người ta chúc mừng nhau. Bằng lời nói. Bằng thư từ. Trong những lời chúc mừng, lời chúc mừng về tình yêu, về những gì liên quan đến hạnh phúc, đến giá trị thiêng liêng là lời chúc mừng bi đát nhất.
Chẳng hạn:
Kỷ niệm 25 năm thành hôn của anh chị, chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị nồng nàn như thủa mới yêu nhau.
Hoặc như:
Kỷ niệm 10 năm linh mục của Cha. Chúng con kính chúc Cha những ngày tràn đầy hồng ơn Chúa. Tâm tình Cha sốt mến như ngày Cha dâng thánh lễ mở tay.
Những lời chúc rất chân thành. Càng chân thành bao nhiêu, càng thấm thía và bi đát bấy nhiêu. Thực tế, những lời chúc này xảy ra hàng ngày, ở chỗ này, chỗ kia. Nó đến từ trái tim người cầu chúc là mong ước. Và biết đâu, từ trái tim người được cầu chúc cũng tha thiết xin được như thế. Sự bi thương nằm ở đó. Lời cầu chúc này đến từ một thực tế. Nó diễn tả cái thực trạng hàng ngày. Nó là tấm gương phản chiếu trung thực lòng khao khát của người cầu chúc, nó là ước vọng của người được cầu chúc.
Bi thương hơn nữa là đời cứ tiếp đời, lời chúc tiếp tục lời chúc đi theo thời gian.
***
Kỷ niệm 25 năm thành hôn
Chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị nồng nàn như thủa mới yêu nhau. Chúc như thế, nghĩa là, tình yêu của anh chị hôm nay mệt mỏi lắm rồi. Nó xói mòn lắm rồi, nên tôi chúc cho anh chị được như ngày đầu. Nói cách khác, tình yêu ấy cứ mỗi ngày một nhạt đi, cứ mỗi ngày một hết như thủa ban đầu. Chúc như thế, không là thành thực xót xa sao. Nếu tình yêu của người nào đó, sau 25 năm cưới nhau, bây giờ nồng nàn hơn, thì chúc như thế mang ý nghĩa gì? Nó vô duyên và vụng về biết mấy. Nhưng hôm nay, họ cứ chúc mừng nhau như vậy. Họ dựa vào kinh nghiệm thực tế mà làm nên lời chúc. Nếu vậy, mỗi lời chúc không là một lời đau thương sao?
***
Kỷ niệm 25 năm linh mục
Sau 25 là linh mục. Tôi rửa tội biết bao nhiêu người. Tôi săn sóc biết bao bệnh nhân, xức dầu Thánh cho biết bao nhiêu người trong giờ hấp hối. Trong 25 năm tôi dâng biết bao thánh lễ. Biết bao lần Mình Máu Thánh Chúa hóa thân trên tay tôi. Tôi cử hành biết bao bí tích. Như thế, sau 25 năm đôi tay tôi đã xây dựng biết bao ân sủng. Một phần tư thế kỷ sống sống đời linh mục, tôi xây dựng biết bao nhân đức. Tại sao người ta lại chúc mừng trong ngày kỷ niệm đẹp như thế bằng lời chúc bi thương?
Họ mong cho tôi dâng thánh lễ sốt sắng như ngày đầu, nghĩa là thánh lễ tôi dâng hôm nay không còn chuẩn bị như ngày mở tay. Nghĩa là hôm nay tôi dâng thánh lễ nhàm chán như chuyện phải làm. Tôi hết náo nức rồi.
***
Vì sao có những lời chúc như thế. Cũng là do thực tế mà thôi. Nó cũng đến từ một nhận thức trong sinh hoạt bình thường. Nó do kinh nghiệm, do quan sát, do thấy như vậy. Tôi gọi đó là những lời chúc bi thương. Vì nó thật nên nó bi thương. Những lời chúc ấy đến từ cảm nghiệm.
Những lời chúc như thế, là linh mục, hay tình yêu hôn nhân, nó là tiếng chuông cầu thương khó. Trước lời chúc đó, tình yêu phải nhìn lại tình yêu. Hôn nhân phải hỏi lại hôn nhân. Linh mục phải nhìn lại linh mục. Tu sĩ khấn Dòng phải hỏi lại lý tưởng. Những lời chúc ấy đến từ ước vọng. Nó vừa là tiếng lòng mong mỏi, cũng vừa là tiếng lòng đợi trông.
Thủa ban đầu có nhau lưu luyến ấy, nếu bây giờ nhạt phai, nó phải có nguyên nhân.
Nếu thánh lễ mở tay là náo nức, bây giờ chỉ còn là bổn phận, nó phải có nguyên do.
Những ngày đầu của tình yêu hôn nhân, tháng ngày ấy mới là ngưỡng cửa bước vào vườn hạnh phúc. Ðàng sau đó là một chân trời khám phá. Thì càng đi càng say chứ. Nhưng thực tế, cứ có những tiếng thở dài. Nhiều đôi hôn nhân càng đi càng mỏi.
Những ngày đầu của linh mục cũng thế. Mới lên đường mà thấy lòng rộng mở, thì càng cao, đường phải càng đẹp, càng đi lâu tâm hồn càng say mê đi tới chứ. Nhưng thực tế, không thiếu những cử hành phụng vụ chỉ là cánh cửa sổ cũ kỹ muốn đóng sập xuống cho chóng xong.
Từ những kinh nghiệm được xác định đó, lời cầu chúc ra đời. Ði tìm nguyên do, đi hỏi nguyên nhân. Kinh Thánh bảo: "Khi mọi người ngủ thì kẻ thù đến gieo cỏ lùng, rồi bỏ đi" (Mt.13: 25). Thời gian nào mà không có phấn bụi bay. Khoảnh khắc nào mà không có sương mù. Hạnh phúc rất mong manh. Tấm gương cần phủi bụi mỗi ngày. Cỏ lùng cần nhổ khi còn là mầm non. Chúa muốn nói với tôi về một tỉnh thức.
***
Là linh mục, xin Chúa cho con trước lời chúc đó là tiếng lòng cảnh tỉnh.
Con muốn sống làm sao mỗi ngày đẹp hơn.
Con muốn sống làm sao với ân sủng để mỗi ngày có thêm thiết tha đi tới chứ không ao ước quay về.
Tình yêu mà cứ mỗi thời gian đi tới, lại cứ cầu chúc nhau tìm về bến cũ, thì con đò sẽ lặng lẽ biết bao. Hôn nhân mà mỗi bình minh lên, lại cứ phải mong cho nhau như ngày xa xưa cũ thì còn đâu chân trời khám phá. Chả có sáng tạo, hôn nhân mà cứ phải nương nhờ ngày xưa thì bước đi tới nặng nề làm sao.
Lạy Chúa, con muốn nói với Chúa về một lời chúc.
Ðừng để đời linh mục con, có những lời cầu chúc như thế.
Xin cho con sửa lại lời cầu chúc bi thương.
Ngày con dâng lễ mở tay, chỉ là mở tay thôi, mỗi ngày bàn tay con phải vươn cao hơn, nhiều nhân đức hơn, chứa đựng nhiều ơn trời hơn.
Ngày đầu bước vào đời linh mục, có ngỡ ngàng, thì mỗi ngày, mỗi sáng sáng phải ngỡ ngàng hơn vì khám phá ra quá nhiều ơn sủng Cha ban.
Mỗi thời điểm về gần ánh sáng, con phải thấy hân hoan hơn, thấy mình thấm nhuần ánh sáng hơn.
Con phải quên đi những ngày đầu chập chững.
Con phải sống sao những ngày đầu chỉ là ơn sủng còn non màu mạ, mỗi thời gian đi tới là chứa chan màu vàng của lúa đơm bông.
Như cánh bướm, vì vườn hoa càng rực rỡ thì càng buông cánh vào càng duyên dáng hơn.
"Ơn sủng Cha ban thì hằng hà sa số,
Lớp lớp thời gian Cha không ngừng đổ rót.
Ðể lãnh xin, con chỉ có bàn tay bé nhỏ,
Vậy sao hồn con cứ trống và tim con còn vơi?" (Tagore)
Lạy Cha, lỗi ở con mà thôi.
Con ước muốn sửa lại lời cầu chúc trên kia.
Con muốn mỗi ngày cánh buồm đong gió ra đi là càng thênh thang, chứ đừng có lời cầu chúc tầm thường mong sao được như ngày xưa bên bến hồ nhỏ bé.
Lời cầu chúc đời ban tặng con đến từ nhận xét.
Con không thể thay đổi cái nhìn của đời được, vì con thế nào thì đời nhận xét như thế.
Lời cầu chúc đến từ cảm nghiệm.
Con không van xin đời thay đổi cảm nghiệm được, con chỉ có thể thay thế chanh chua bằng mật ong, vì đời cảm nghiệm thế nào, đời mong mỏi như vậy.
Lời cầu chúc đến từ ước mơ.
Con không cho đời hạnh phúc được nếu mơ ước kia không là sự thật.
Lời cầu chúc đến từ lòng thành thật.
Con có đau thương vì lời chúc thì cũng hãy thành thật nhận lời chúc như câu kinh.
Lời cầu chúc đến như tiếng than thở.
Con hãy quý những thở than đó vì nó là tiếng lòng nhắc nhở con về một tiếng gọi.
Lời cầu chúc đến từ thực tế.
Con không thể lặng thinh mà không hỏi lòng mình: Tại sao thế?
Lời cầu chúc có thể còn tiếp tục mãi.
Con không thể lặng thinh mà không hỏi Chúa:
- Vậy sáng mai con dâng thánh lễ ra sao.
***
Ôi! Lạy Chúa,
Mỗi lời chúc đều nói với con về một ý nghĩa.
Mỗi lời chúc đều nói với con về chính con.
Mỗi lời chúc đều nói với con về liên hệ giữa con và Chúa.
Amen!
10. CÔ ĐƠN
Cô đơn là cho đi mà không có người nhận, là muốn nhận mà chẳng có ai cho. Cô đơn là chờ đợi, mà cái mình chờ đợi chẳng xảy đến. Như hai bờ sông nhìn nhau mà vẫn nghìn trùng cách xa bởi dòng sông, nên cô đơn là gần nhau mà vẫn cách biệt. Không phải cách biệt của không gian mà là cách biệt của cõi lòng. Bởi đó, vợ chồng có thể cô đơn bên nhau.
Càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt. Đã cay nghiệt mà vẫn phải gần nhau thì lại càng cô đơn hơn.
Người ta gần nhau mà vẫn có thể xa nhau, vì trong cuộc đời, mỗi người đều có hai thế giới. Thế giới riêng trong cõi lòng tôi và thế giới ngoài vũ trụ. Thế giới tâm hồn tôi sụp đổ thì thế giới bên ngoài thành hoang vắng, vô nghĩa. “Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Vì thế, tôi có thể cô đơn giữa đám đông. Cả vườn hoa chẳng có nghĩa gì nếu không có loài hoa tôi kiếm tìm. Người đưa thư trở thành thừa thãi nếu không có cánh thư tôi đang chờ mong. Chỉ một cánh hoa của lòng tôi thôi cũng đủ làm cho cả khu đồi thành dễ thương. Chỉ một cánh thư thôi cũng đủ làm cho bầu trời xanh thăm thẳm. Làm gì còn cô đơn nữa nếu đã có bắt gặp.
Tôi cô đơn khi thấy quanh mình chỉ là những dòng sông lững lờ, chỉ là những con nước thờ ơ. Tôi có thể cô đơn vì tôi không đến được với người. Tôi cũng có thể cô đơn vì người không muốn đến với tôi. Cô đơn nào thì cũng là một hải đảo. Nhưng nỗi cô đơn bị người khác hờ hững thì cay đắng hơn. Khi tự mình không bước tới thì tôi cũng có thể tự mình bước ra khỏi hàng rào cô đơn đó. Còn nỗi cô đơn bị người khác thờ ơ thì đưa tôi vào nỗi buồn mà có khi đau đớn hơn tù đầy, có khi u ám hơn sự chết, vì đây là nỗi cô đơn tôi muốn chạy trốn mà chẳng trốn chạy được. Tôi thương, nhưng người khác có thương tôi không đấy là tự do của họ. Cho đi phần đời của mình mà không được đáp trả vì thế mới có xót xa.
Cô đơn của Chúa là nỗi cô đơn này.
Chúa đến với kẻ khác nhưng bị kẻ khác chối từ, gọi mà không có tiếng đáp trả, bởi thế, trong vườn Cây Dầu Ngài mới thấy cõi lòng trống trải. Trong cái trống trải ấy, theo Tin Mừng Máccô, Ngài tỏ lộ: “Linh hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc. 14:34).
Làm gì có cô đơn nếu có lời đáp trả. Không có lời đáp trả nên mới cứ phải chờ đợi. Đợi chờ không là khởi điểm của cô đơn sao. Đợi chờ càng lâu thì nỗi cô đơn càng dài. Chờ đợi mà chẳng bao giờ xảy tới thì nỗi cô đơn càng héo hắt. Làm gì có cô đơn nếu không có kiếm tìm. Làm gì phải kiếm tìm nếu đã đầy đủ. Vì thiếu vắng nên mới phải đi tìm. Khi sự thiếu vắng quá cay đắng thì nỗi cô đơn dẫn đến sự chết.
Sự thiếu vắng không hệ tại im lặng của không gian hoặc vắng bóng người mà hệ tại sự trống vắng của con tim. Có những quãng đời cô tịch, tôi đi một mình, nhưng càng lặng lẽ tôi càng thấy niềm vui nhiệm mầu trong hồn. Có những khúc đời chung quanh tôi tấp nập bước chân, rộn rã lời cầu chúc mà tôi vẫn nghe hiu hắt. Chúa cũng vậy, những đêm dài ở sa mạc chỉ có trăng và cỏ cây, chỉ có núi đồi và gió, nhưng Chúa không cô đơn. Chiều thứ sáu ở Jêrusalem tấp nập chân người mà cõi lòng Chúa thì hoang vắng. Trong vườn Cây Dầu có các môn đệ đi theo mà Chúa vẫn thấy lẻ loi.
Kẻ cô đơn là kẻ đi tìm niềm cảm thông nhưng chẳng gặp. Vì không gặp nên họ đành trở về thế giới nội tâm cô lẻ của riêng mình. Vì thế giới nội tâm đó đang heo hút trống vắng, nên họ chỉ bắt gặp sự thiếu thốn ở đó mà thôi. Sống trong thiếu thốn để rồi nhìn kẻ khác đầy đủ vì thế mới có nước mắt xót thương cho đời mình.
Ai cũng có lúc cô đơn vì chẳng ai đầy đủ. Ai cũng phải đi tìm vì ai cũng thiếu vắng. Nhưng có những thiếu vắng dễ tìm thấy. Có những thiếu vắng như mênh mông vô hạn. Khi Chúa mất hết tình thân, Chúa tìm đến với Chúa Cha: “Ôi! Cha cũng bỏ con sao”.
Khi lòng tôi tan nát, khi đời tôi đắng cay, tôi cũng vẫn còn hy vọng là Chúa. Nếu tôi mất Chúa thì đây mới là sự thiếu vắng hoang tàn nhất. Đây là cô đơn không còn lối thoát. Trong nỗi cô đơn của tôi hôm nay, khi mà tôi không còn tìm đâu được niềm vui, tôi cũng sẽ nói với Chúa như chính Ngài đã nói với Chúa Cha: — Ôi! Cha cũng bỏ con sao.
***
Lạy chúa, con tin là Chúa hiểu cõi lòng con. “Ôi! Cha cũng bỏ con sao?”. Đấy chính là lời nguyện của Chúa, lời nguyện của kẻ cô đơn trong giờ cô đơn nhất..
Chỉ có ai đã cô đơn mới có thể hiểu nỗi buồn, mới thấy cái hoang dại trong cuộc đời của kẻ cô đơn. Chúa đã cô đơn trên thập giá.
11. CON CẦN CHÚA
Tôi chối từ Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn hiện diện. Vì Ngài là Thiên Chúa.
Thiên Chúa không cần tôi chứng minh có Thiên Chúa.
Thiên Chúa cũng không cần kẻ khác chứng minh cho tôi biết về Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa thì không cần chứng minh.
Như mặt trời không cần ai chứng minh về ánh sáng cho người mù.
Như người dưới căn hầm, mặt trời không hiện diện với đôi mắt ấy mà thôi, mặt trời vẫn hiện diện với vũ trụ.
Từ đó,
Lạy Thượng Đế, xin cho con biết kêu lên: Con biết con cần Ngài.
***
Trong các kinh Tiền Tụng của thánh lễ, lời Tiền Tụng Chung IV là kinh rất ít khi giáo dân nghe linh mục đọc. Hầu hết các thánh lễ chỉ dùng Kinh Tạ Ơn II. Lời Tiền Tụng Chung IV đọc như sau:
Lạy Cha chí thánh
là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu,
chúng con tạ ơn Cha mọi nơi, mọi lúc,
thật là chính đáng, phải đạo
và sinh ơn cứu độ cho chúng con.
Thật ra,
Cha không cần chúng con ca tụng,
nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả,
vì những lời ca tụng của chúng con
chẳng thêm gì cho Cha
nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời,
nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Vì thế hiệp với các thiên thần và các thánh
chúng con ca ngợi Cha muôn đời vinh hiển,
và đồng thanh tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Chí Thánh.
Qua lời Kinh Tiền Tụng này, Giáo Hội chỉ rõ cho ta biết bản chất Thiên Chúa như thế nào.
Một thần linh là Thượng Đế thì không cần tiếng ca tụng của người phàm. Vì là Thượng Đế nên lời ca tụng của phàm nhân chúng ta chẳng thêm gì cho Ngài.
Trong ngôn ngữ con người, chúng ta hay nói, hãy ca tụng Chúa để Thiên Chúa được vinh danh, là lời nói có thể làm hiểu sai lạc về bản chất Thiên Chúa. Chính Sách Lễ Roma của Giáo Hội đã xác định như trên.
Vậy chúng ta chỉ còn một cách hiểu chính xác theo Sách Lễ Roma là:
Được tạ ơn Chúa là hồng ân cao cả cho chính tôi.
Lời ca tụng của chúng tôi không thêm gì cho Chúa,
nhưng đem lại cho chúng tôi ơn cứu độ.
Từ Lời Tiền Tụng trên, chúng ta hãy xin cho mình lời nguyện là:
- Lạy Thượng Đế, con biết con cần Ngài.
Nhiều người nghĩ rằng mình làm “vinh danh” Chúa bằng lời ca tụng của mình, nên khi bất mãn với Giáo Hội thì ngừng ca tụng Chúa.
Có người nghĩ rằng Chúa cần mình, nên khi “bất mãn” với Chúa thì không ca tụng để Thiên Chúa bị thiệt thòi.
Có ai cứ nhắm mắt lại để mặt trời bớt ánh sáng không.
Có ai xuống hầm tối cho mặt trời thiệt thòi không.
Khi chúng ta hiểu rõ lời ca tụng của chúng ta không thêm gì cho Chúa nhưng lại thêm cho chính mình. Khi chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không cần ai ca tụng, nhưng ca tụng Chúa lại là hồng ân cho chính mình thì chúng ta phải nghiêm chỉnh đặt vấn đề về những lời ca tụng của chúng ta.
Thái độ thứ nhất: Ao ước được ca tụng.
Lạy Chúa từ bi và nhân hậu,
Người thanh niên giàu có trong Phúc Âm đến hỏi Chúa đâu là con đường siêu thoát. Chúa cho anh ta một hồng ân là đến theo Chúa. Anh không muốn từ chối. Nhưng lòng anh quá nặng nề, sau cùng anh cúi mặt bước đi buồn rầu. Rất tội nghiệp cho anh. Tại sao Chúa không năn nỉ anh? Hình ảnh siêu bạo ở đây là Chúa không năn nỉ. Phải chăng vì theo Chúa là một hồng ân đem lại ơn cứu độ cho chính anh. Hôm nay, rất nhiều cha mẹ phải “năn nỉ” con cái đi lễ. Rất nhiều linh mục “năn nỉ” giáo dân đến nhà thờ. Trong các thánh lễ, có rất nhiều thứ “năn nỉ”. Năn nỉ đóng tiền. Năn nỉ làm việc tông đồ. Bởi đâu, lạy Chúa, chúng con có những não trạng như thế. Phải chăng chúng con đã không hiểu rằng những lời ca tụng kia là cần thiết cho chính chúng con.
Thái độ thứ hai: Khiêm tốn trong lời ca tụng.
Vì Chúa là thần linh không cần lời ca tụng của phàm nhân, nên con phải xin Chúa cho con được ca tụng. Lời của phàm nhân tội lỗi, tâm trí phàm nhân u mê, sao chúng con dám ca tụng thần linh. Bởi đó, được ca tụng Chúa là hồng ân, nên chúng con phải khiêm tốn trong mọi công việc tông đồ. Biết đâu có linh mục hôm nay rất tự hào về những công trình của mình. Từ đó, cũng biết đâu, nhiều tín hữu thấy mình quan trọng trong lời ca tụng, và việc dâng cúng. Tất cả chúng con đều lầm lẫn. Xin Chúa từ bi và nhân hậu thương xót chúng con.
Thái độ thứ ba: Chờ đợi được ca tụng.
Lạy Chúa từ bi và nhân hậu,
Vì lời ca tụng Chúa mang ơn cứu cho chính chúng con, nên chúng con phải khiêm tốn, ao ước và chờ đợi được ca tụng. Nhiều lần trong Phúc Âm, Chúa gọi các môn đệ theo Chúa. Chúa truyền cho các ông làm việc này, việc kia. Đấy là hồng ơn cao cả chứ không phải Chúa thiếu thốn. Cái thiếu thốn của chúng con là thiếu Chúa. Cái nghèo của chúng con là không được Chúa sai đi. Khi hiểu thế, chúng con phải hạnh phúc biết bao khi được Chúa kêu mời.
Lạy Chúa từ bi nhân hậu,
Xin cho con biết lắng nghe Chúa sai bảo thật tha thiết, chờ đợi như kẻ cắp rình mồi. Vì con nghèo lắm nếu Chúa không sai con đi. Nếu không được ca tụng Chúa con lấy đâu hồng ân cho hạnh phúc của con.
***
Bạn thân mến,
Công việc mục vụ của tôi là đi giúp tĩnh tâm. Có người hỏi tôi, Phúc Âm thì lần nào đọc cũng giống nhau. Đọc mãi Cha có chán không.
Lời Phúc Âm chỉ có vậy, nhưng tùy cách nghe mà lời đó khác.
Một lần kia, vì lối nói của tôi, phút đầu khai mạc làm một người bất mãn. Họ không muốn đi tĩnh tâm. Nhưng vì bị “năn nỉ” quá, sau cùng có mặt trong cuối tuần linh thao. Một cuối tuần đến retreat house – nhà tĩnh tâm như thế, ít ra cũng hết một trăm năm mươi đô la một đầu người. Hầu hết những người ngại đi tĩnh tâm là không có thời giờ, và tiếc tiền. Hầu hết cha mẹ nói với con cái, linh mục nói với giáo dân là “hy sinh” dâng cho Chúa một cuối tuần tĩnh tâm để ca tụng Chúa. Đối với tôi đấy không phải là hy sinh. Hy sinh là chịu thiệt về mình cho người khác phần lợi. Vì cách nói của tôi làm họ bực bội.
- Thưa Cha, nếu không hy sinh, con không đến đây chiều nay được. Còn biết bao công việc ở nhà nếu không hy sinh làm sao bỏ được.
Họ bực với tôi, bực luôn với những ai đã “năn nỉ” họ đi. Tôi không ngờ buổi tối khai mạc mà bầu khí không êm ả chút nào, tôi cố gắng đưa mọi người vào giờ kinh tối, rồi đi ngủ. Qua một ngày thinh lặng, tối hôm sau, trước giờ kinh tối:
- Thưa cha, con xin có đôi lời.
Người này cất tiếng. Rồi tiếp:
- Tôi xin lỗi anh chị em những gì tôi nói tối qua. Sau một ngày thinh lặng, tôi thấy có một cái gì đang xảy ra nơi tâm hồn tôi. Tôi chưa có bình an, chưa thấy Chúa đâu, nhưng có một chút gì đó làm tôi suy nghĩ.
Nhìn bóng đèn trên trần nhà. Tâm sự với mọi người:
- Có tôi hay không, thì chiều nay bóng đèn này vẫn sáng. Đâu phải thiếu tôi mà bóng đèn bớt sáng đâu.
Rồi quay nhìn ra sân tối:
- Tôi cũng xin lỗi những ai tôi xúc phạm, những ai đã khuyến khích tôi đi khóa linh thao này. Nếu tôi bỏ lò sưởi ra sân đứng thì tôi lạnh, chứ đâu phải thiếu tôi, tôi làm cho lò sưởi bớt sức nóng đâu. Thiên Chúa là như vậy. Tôi đến thì tôi ấm, tôi xa Ngài, tôi lạnh, Thiên Chúa cho tôi sức ấm chứ tôi làm sao cho Ngài thêm lửa nóng được.
***
Bạn thân mến,
Sau cùng, người này đã có những ngày tĩnh tâm – nghỉ ngơi với Chúa rất đẹp.
Chớ gì chúng ta hiểu rõ và thưa với Chúa: Lạy Chúa, con biết con cần Chúa.
Riêng với bạn đang đọc dòng này, không cùng tôn giáo với tôi. Tôi cầu chúc bạn hãy nói:
- Lạy Thượng Đế, lạy Trời Phật, con biết con cần Ngài.
Bởi, đó là con đường đi rất đẹp của một phàm nhân.
12. DANG DỞ
“Tình chỉ đẹp khi còn dang dở.
Đời mất vui khi vẹn câu thề”
Đời có thật mất vui khi vẹn câu thề? Tình chỉ đẹp khi còn dang dở hay là cho dù dở dang tình vẫn đẹp? Người ta nói chấm dứt mối tình dở dang, nghĩa là lúc tình đó đang dang dở thì bị chấm dứt. Có phải đã chấm dứt rồi thì không còn dang dở nữa?
Dường như là thế. Chấm dứt là xong, là trọn vẹn không còn gì để nói. Khi đã chấm dứt thì tình đó thuộc về dĩ vãng nguyên tuyền. Nó dang dở trong quá khứ mà trọn vẹn xong ở hiện tại. Như vậy, tình thuộc dĩ vãng không còn tiếp tục hôm nay thì còn gì là dang dở?
Xem ra là thế, tuy nhiên, thuộc về dĩ vãng chưa hẳn là thuộc về vùng đã quên. Nếu còn nhớ thì ngay khi chấm dứt tình dang dở, tình vẫn chưa hết dở dang. Chấm dứt mà còn nhớ thì chuyện tình chỉ chấm dứt trong không gian ngoại cảnh chứ chưa hết trong không gian tâm hồn. Vì lẽ ấy, cũng khá khó cho một định nghĩa tình dang dở là gì, và còn khó hơn, tình dang dở có còn đẹp?
Có thể tìm một định nghĩa dễ hơn. Tình dang dở là tình còn nhớ. Ở đây, dang dở không có nghĩa là chấm dứt lúc còn dở dang. Dang dở là chưa xong. Tình của Đức Kitô không phải là tình đã xong trong quá khứ. Tình ấy không chấm dứt ở thập giá chiều nào trên đồi Do Thái. Tình ấy vẫn hàng ngày gọi, hàng chiều chờ. Tôi gọi tình ấy là tình dang dở. Đức Kitô tiếp tục yêu và tôi chưa nhận đủ. Ngài cho tình yêu, nhưng bàn tay có nhiều khe rãnh, nên hứng lãnh mà tình ấy cứ rơi đi hoài. Vì cái dang dở ấy nên Ngài cứ băn khoăn làm sao cho tôi múc được nhiều để hồn tôi bớt trống và tim tôi thôi vơi. Và vì thế, dở dang của tình yêu ấy là dang dở đẹp. Trong dang dở của tình yêu, cho tôi thấy trái tim Người bao dung và kiên nhẫn. Nhờ dang dở ấy mà tôi thấy Ngài không mòn mỏi vì phải đợi chờ, không đếm thời gian và đưa tình yêu vào thời khóa biểu. Giữa tôi với Ngài, còn thời gian thì còn dang dở, còn thương xót.
Đức Kitô yêu tôi bằng tình trọn vẹn. Ngài là tình yêu (1 Yn. 4:16). Ngài cho tôi chính Ngài với hơi thở sau cùng trên thập tự. Nói về công việc thì xong, biến cố lịch sử trên Núi Sọ hoàn tất. Nhưng tình yêu không là biến cố lịch sử. Biến cố lịch sử chỉ là một trong những đường nét để vẽ chân dung tình yêu. Tình yêu ấy vẫn yêu tôi. Thập tự giá ngày xưa vẫn là thập tự giá hôm nay kéo dài trên bàn thờ khi tôi dâng lễ. Đức Kitô đã phục sinh, nhưng trong đau đớn của chi thể Ngài là nhân loại thì Ngài vẫn còn bị đóng đinh. Trong yếu đuối, tôi làm phai nhạt bao nhiêu chuyện tình đẹp giữa tôi và Ngài, tôi vẫn có lỗi phạm. Trong lãng quên, tôi vẫn xuôi chiều bao nhiêu cám dỗ. Vì thế, tình tôi với Ngài làm sao mà không dang dở cho được. Chỉ có tình trọn vẹn ở phía thập giá. Thập giá yêu thương nhân loại nhưng nhân loại không có tình trọn vẹn, nên khi tình trời nối với tình đất thì tình trời mang thương khó. Ngày nào còn nhân loại thì tình giữa nhân loại và thập giá còn là tình dở dang.
Không có tình yêu thì trọn vẹn cũng là trọn vẹn thiếu. Với tình yêu thì dang dở cũng là dang dở quý mến.
Có những dang dở cần thiết. Dang dở cho chuyện tình còn dài, còn nhắc nhở, còn xám hối. Có một thứ dang dở mà Đức Kitô nhất định giữ:
— Khi Ngài chữa mắt cho người mù, Ngài chỉ chữa một cách dang dở. Ngài lấy bùn thoa vào mắt người mù nhưng anh ta chẳng khỏi. Anh ta phải đi rửa ở hồ Sứ Giả. Mù làm sao mà đi dễ dàng, thế mà Chúa không chữa cho xong (Yn. 9:1-41).
— Tiệc cưới Cana cũng vậy. Chúa không làm phép cho có rượu, nhưng chỉ làm cho nước hóa rượu. Đức Kitô bảo các gia nhân: “Hãy múc nước đổ đầy các chum” (Yn. 2:7). Sao Chúa không làm cho có rượu luôn đi mà lại bảo người ta đổ nước? Chúa chỉ làm một nửa. Thương xót thì trọn vẹn, nhưng thương xót ai, bởi đó, thương xót còn hệ tại đối tượng được thương xót muốn thương xót bao nhiêu. Do đấy, có những thương xót cần dang dở để đối tượng được thương xót kia lựa chọn mức độ thương xót cho mình. Nếu các gia nhân chỉ múc nửa bình thì chắc rượu chỉ có nửa bình thôi.
— Làm phép cho CÓ BÁNH ĂN và làm phép cho bánh HÓA RA NHIỀU là hai thái độ rất khác nhau. Chiều hôm ấy, đám dân chúng đói không có gì ăn. Các môn đệ không đủ bánh, nghĩa là có nhưng thiếu, hoặc nói cách khác là có mà dở dang. Chúa không vứt vất cái dang dở ấy rồi tự mình làm phép lạ. Chúa bảo đem cái dang dở ấy đến. Sao Chúa không làm phép lạ cho có bánh, mà chỉ làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều. Sao Chúa cứ thích cái dang dở của các tông đồ làm chi (Mc. 6:35-43).
— Thấy đền thờ thành nơi buôn bán, dơ uế mất rồi, Chúa bảo phá đi rồi trong ba ngày Ngài xây dựng lại. Tại sao Ngài không phá luôn cho tiện mà chỉ xây lại khi người khác phá (Yn. 2:13-22).
Chúa thích những phép lạ dang dở. Chúa làm có một nửa nên nhân loại mới được góp phần trong công việc trọng đại ấy. Cái dang dở Chúa để xẩy ra là dang dở huyền diệu. Thiếu dang dở này con người thiệt thòi biết bao. Cần có những dang dở của Chúa để dang dở của con người hết dở dang. Con người không thể làm phép lạ tự cứu lấy mình. Chúa cũng không cứu con người khi con người không tự do nhận lãnh. Phép lạ của Chúa cần là phép lạ một nửa, phép lạ dang dở để tôi được tham dự. Cái dang dở của Chúa là chỗ trống cho tôi bước vào.
Chúa không thể nào bất toàn. Bởi đó, những gì dang dở mà Chúa để xẩy đến trong cuộc sống, tôi phải tìm hiểu. Có khi là đau khổ, có khi là những ngày chán nản. Những mũi chỉ thêu ngang dọc làm cho tấm tranh rối mù lộn xộn, nhưng nó sẽ là tác phẩm nghệ thuật khi nó hết dở dang. Con đường Hội Thánh đang đi là con đường dang dở. Công cuộc rao giảng Tin Mừng là công cuộc dang dở. Nhưng trong dang dở ấy là ngưỡng cửa hi vọng. Đời truyền giáo của tôi là một hành trình đang dang dở. Tay tôi ngắn mà cánh đồng thì mênh mông. Nhưng nối tiếp những dang dở sẽ thành hoàn hảo. Người mang hi vọng là kẻ chấp nhận những dang dở Chúa để xẩy đến, và nhìn thấy dang dở trong công cuộc rao giảng thập giá là dang dở lạc quan.
Dang dở của tình yêu giữa tôi và Chúa không là dang dở phải chấm dứt. Chúa không bao giờ chê căn nhà tôi nghèo nàn. Tôi cũng chẳng muốn bỏ Chúa. Dang dở chỉ vì yếu lòng. Dang dở vì vụng về trong những lựa chọn. Dang dở vì lấp lửng với những cám dỗ. Từ linh hồn thành thật rất sâu, tôi không muốn những dang dở này. Có băn khoăn về những sa ngã, có hối hận về những không trọn vẹn sẽ làm cho chuyện đường thập giá gồ ghề hơn. Những gồ ghề là những cản ngăn, nghĩa là đường thập giá sẽ thập giá hơn nữa. Khi đường thập giá trở nên thập giá hơn thì linh hồn gian nan hơn, nhưng vì gian nan đó cũng sẽ làm cho đường thập giá ấy ý nghĩa hơn.
Những chuyện tình gian nan bao giờ cũng là những chuyện tình nhiều kỉ niệm. Và, bởi đó, đường thập giá cho dù dang dở vẫn luôn luôn là những chuyện tình đẹp. Không phải dang dở thì mới đẹp, nhưng là vẫn đẹp khi dở dang.
***
Lạy Chúa, ngày nào còn hơi thở thì tim con còn rung cảm rực nóng. Còn rung cảm rực nóng thì còn những dang dở. Nhưng đường Chúa gọi đi là đường tình thập giá không đánh dấu bằng những lần ngã dở dang. Chúa nối những dang dở ấy thành đường thập giá. Bởi đó, con hi vọng và lạc quan trong mọi dang dở của hành trình thiêng liêng. Và con phải biết Chúa rất cần một thứ dang dở là Chúa không hoàn thành cho con tất cả ước mơ nếu con không thực sự mơ ước.
Ước mơ đẹp là mình ước mơ, còn ước mơ hững hờ là ước mơ người khác mơ ước dùm mình.
Xin cho con không bao giờ thở dài về sự dở dang trên đường thánh thiện. Không chán chường sự dở dang trong công cuộc truyền giáo rồi thôi rao giảng Tin Mừng để cho khỏi băn khoăn về những dang dở ấy.
Vâng, lạy Chúa, con không muốn làm cho chuyện tình thành dang dở, nhưng chỉ vì con yếu đuối. Chúa thương con, thì với Chúa, những chuyện tình dở dang của con trên đường theo Chúa vẫn là những chuyện tình đẹp.
13. DREAMS AND VISIONS
Vệ Tinh Truyền Hình Công Giáo cho Á Châu đã thành sự thật!
Mỗi người mơ một ước mơ thì mơ ước khó thành. Khi nhiều người mơ chung một mơ ước thì mơ ước ấy dễ thành sự thật hơn.
Ngày 11 tháng 3 năm 1996 vừa qua, trong cuộc họp tại Thailand, ban Liên Hội Ðồng Giám Mục Á Châu đã chấp nhận sự hoạt động của một kênh truyền hình Công Giáo Á Châu từ vệ tinh truyền xuống cho toàn miền Nam Á Châu.
Lễ Ðức Mẹ linh hồn và xác lên trời ngày 15 tháng 8 năm 1996 đã bắt đầu phát hình thử. Hi vọng kênh truyền hình sẽ có thể hoạt động hữu hiệu trong năm nay.
Giới truyền thông Công Giáo Á Châu, ai cũng nô nức trước biến cố rất lịch sử này. Thai Sky Cable TV đã kí với Giáo Hội Thailand cho Giáo Hội được dùng một kênh truyền hình của công ti này 24 giờ một ngày, liên tục 365 ngày một năm, trong vòng 20 năm. Lí do: vì công ti này mới hiện đại hóa dụng cụ truyền thông của họ, họ mới thiết kế một Ku-band satellite transponder. Với kĩ thuật hiện đại, hệ thống này có thể truyền đi vô vàn thông tin với một số lượng rất nhiều các channels TV. Họ nghĩ một kênh truyền hình cho tôn giáo là điều hấp dẫn cho công ti của họ nên đã ngỏ í với Giáo Hội Thailand.
Sau khi loan báo cho các Giáo Hội địa phương, từ giới truyền thông của các Giáo Hội vùng Á Châu Thái Bình Dương cho tới Roma đều phấn khởi. Tham khảo với các chuyên viên truyền thông xong, Liên Hội Ðồng Giám Mục Á Châu đã quyết định nhận kênh truyền hình như kênh TV Công Giáo cho Giáo Hội Châu Á. Các buổi hội thảo đã nhộn nhịp liên tiếp diễn ra từ mấy tháng trước. Các Giáo Hội như Korea, Philippines, Indonesia, Taiwan, Hongkong, Singapore, Japan, Malaysia, đã chuẩn bị cùng nhau sử dụng cơ hội quý báu này trong việc truyền bá Phúc Âm, thông tin tôn giáo, giáo dục nhân bản. Satellite sẽ truyền hình xuống toàn miền Châu Á Thái Bình Dương mà Việt Nam nằm dưới địa điểm rất thuận tiện.
Giáo Hội Việt Nam chúng ta đối với kênh truyền hình này như thế nào? Giáo Hội trong nước không thể làm gì hơn là chờ đợi những người Công Giáo Việt Nam hải ngoại.
Tầm mức quan trọng
Hiện nay vấn đề giáo dục nhân bản, giáo dục lương tâm, giáo dục tôn giáo là những nhu cầu cần của Giáo Hội Việt Nam. Người ta có thể xây một xa lộ siêu tốc trong vài năm là xong. Vài tháng là hoàn thành ngôi thánh đường. Nhưng xây một xa lộ lương tâm không phải dễ và mau chóng như đổ xi măng làm đường.
Chúng ta thử tưởng tượng vói những bài giáo lí, học hỏi Kinh Thánh, những khóa thần học giáo dân được đưa lên vệ tinh rồi truyền xuống khắp đất nước chúng ta từ thôn làng hẻo lánh đến thành thị, từ Nam tới Bắc. Rồi dân chúng thu lại trong video để làm bài học trong gia đình, trong các nhóm sinh hoạt thì còn lợi ích nào bằng. Chúng ta có thể đem những nghi thức phụng vụ, nghệ thuật, sinh hoạt tôn giáo ở những chân trời khác để mở ra cho Giáo Hội mình một cái nhìn rộng rãi. Ngày xưa Phanxicô phải vất vả ngược xuôi, hôm nay với kỹ thuật hiện đại, Tin Mừng có thể như những hạt giống tung gieo khắp muôn phương dễ dàng. Nó là một đại học thực tiển.
Chúng ta cùng nhau hợp tác và phục vụ
Tôi đang chuẩn bị chuyển sang tiếng Việt một số băng Video do trung tâm Truyền Hình Quang Khải Ðài Loan thực hiện để sau nầy có thể sử dụng cho chương trình tiếng Việt của Satellite Truyền Hình Công Giáo Á Châu. Tôi đã dịch xong bộ Video "In the footsteps of St. Francis Xavier". Bộ Video do trung tâm Quang Khải thực hiện, mới được tin Cha Jerry Martison từ Mỹ điện thoại báo tin, bộ phim gởi về Mỹ tham dự và được nominated hạng 3 trong những video về tôn giáo năm 1996 (trong lúc không có hạng nhất và hạng 2).
Chúng ta không thể thực hiện những công trình to lớn thì chúng ta tìm cách chuyển âm sang tiếng Việt những tài liệu nào hay để phát hình về Việt Nam. Một mình tôi không thể nào làm được, xin nhờ anh em một người một tay. Chúng ta cùng nhau hợp tác.
Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho công trình thực hiện chương trình truyền hình của chúng ta.
Ðài Loan, tháng 7 năm 1996
Lm Nguyễn Tầm Thường
Trung Tâm Truyền Hình Quang Khải, Ðài Loan
14. ĐỂ TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC HƠN
Bỗng nhác thấy bóng ngựa phóng qua. Kẻ trên lưng ngựa chính là người bạn thủa xưa cùng nhau tầm thầy học đạo. Cất tiếng gọi, mà bóng ngựa cứ nước kiệu phóng đi như bay. Băn khoăn về người bạn cũ thủa nào. Nhà đạo sĩ lên đường xuôi phương nam tìm ngọn núi có am thất của kẻ đồng môn. Tới nơi, nhân gian cho ông biết am thất không còn ai trông coi. Kẻ trụ trì đã chết rồi. Tính ra, đúng ngày mà có bóng ngựa đi qua.
Ngày xưa hai người có một lời hứa: Ai chết trước sẽ về báo cho kẻ ở lại biết thế giới bên kia thế nào. Phải chăng bóng ngựa là hồn người bạn cũ?
Ðêm đó, bên rừng am thất, bỗng có người cầm tay nhà đạo sĩ dắt đi. Quay nhìn, chính hồn người bạn cũ hiện về!
- Này, bạn cũ, xin nói cho tôi biết thế giới bên kia thế nào.
Hồn người chết lẳng lặng kéo nhà đạo sĩ theo mình. Qua khu rừng, rồi một hoang địa. Có tiếng nói từ đâu đó:
- Ði về phía đông mươi trượng, vào đường hầm. Ði xuống trăm bước. Ði lên. Về phía nam.
Thoát chốc, hồn người bạn cũ biến mất, bất ngờ như khi hiện đến.
Mơ hồ như trong giấc ngủ mộng mị. Con đường về thế giới bên kia bắt đầu. Hồn nhà đạo sĩ theo tiếng gọi huyền bí dẫn đi. Qua nhà, qua cửa. Ông nghe có tiếng cầu kinh. Trời đổ mưa. Ngoài cánh đồng có người làm việc. Hoàng hôn lên, bình minh xuống. Bé thơ ngồi xem mẹ xay bột bên khuông cửa. Êm ả, một đời sống thanh bình. Ông hỏi tiếng vọng:
- Thiên đàng đâu?
Một quang cảnh tương tự như cuộc sống bình thường chung quanh ông trên dương thế đang diễn ra. "Ðó, ông đang đi qua thiên đàng đó." Nhà đạo sĩ không thấy chi thần tiên như người ta nói, không có các vũ công vũ khúc nghê thường. Không có yến tiệc linh đình. Một sinh hoạt như cuộc
sống trên dương thế của ông thôi. Kì lạ quá. "Thiên đàng có vậy thôi sao? Còn hỏa ngục thế nào?" Ông ngạc nhiên về những hình ảnh thiên đàng, hỏa ngục mà ông vẫn dạy trong những bài thuyết giảng của mình.
Qua thiên đàng rồi, tiếng vọng dẫn ông sang một thế giới khác. Chập chờn, ông lạc vào một vùng như hoang tưởng. Chung quanh ông là những tòa nhà sang trọng. Có những toán người ca hát nhẩy múa thâu đêm suốt sáng. Yến tiệc bày biện tưng bừng. Chỗ nào ông cũng thấy xa hoa, phấn hương. "Có phải đây mới là thiên đàng chăng?" Ông ngạc nhiên không hiểu nơi này là gì mà hạnh phúc phúc thế. Nhưng có tiếng bí mật trả lời ông: "Không! đây là hỏa ngục!" Qua sảnh đường, ông nhác thấy có người quen, chính hồn người bạn cũ năm xưa! Ông ta đang ngậm miệng cố nuốt những dòng rượu chảy nhễ nhãi. Chung quanh sàn nhà cẩm thạch, đoàn vũ nữ nhẩy múa. Nhóm người khác đang chia nhau tiền bạc. Tiền đâu mà nhiều thế. Họ đếm thâu đêm suốt sáng không hết. Chỗ nọ, đoàn nhạc công mồ hôi nhễ nhãi oằn oại trên tiếng đàn. Họ ăn chơi không ngơi nghỉ. "Thế này nghĩa là gì? Ðâu là thiên đàng? Ðâu là hỏa ngục?"
* * *
Ðược giác ngộ, nhà đạo sĩ mới thấy những gì hiểu về thiên đàng, hỏa ngục của ông xưa kia non nớt quá. Ông vẫn nghĩ rằng thiên đàng là nơi không phải làm việc, chỉ có ăn chơi, tung tăng nhàn hạ suốt ngày. Hỏa ngục là nơi cực hình, không có ăn chơi, chỉ quần quật làm việc. Bây giờ trái ngược lại. Nhưng ông đã hiểu. Cái bi thương hệ tại là thiên đàng có tự do, hỏa ngục là đường một chiều, không có chọn lựa.
Ông thấy người bạn cũ sống trong căn nhà lộng lẫy, không phải làm việc gì, chung quanh là nhạc khúc dập dình. Mới đầu ông nghĩ thế thì hạnh phúc quá. Nhưng hồi lâu, lâu nữa, một ngày, hai ngày, rồi một năm, hai năm, nếu dòng rượu cứ suốt ngày đêm tuôn chảy và người bạn cũ của ông cứ phải oằn oại uống như thế suốt năm này qua năm nọ thì sao? Ông ớn đến lạnh người. Nhìn chung quanh, ông thấy quả là một thế giới kinh hoàng. Tốp người đang khiêu vũ kia cứ oằn oại trong điệu nhạc, ngày này qua ngày nọ. Họ không được đi đâu, không phải làm gì, đời họ bây giờ chỉ là khiêu vũ, ngày, đêm. Ông đứng nhìn những khuôn mặt thất thần. "Họ đã ở đây bao lâu? Họ đã phải đếm tiền thế kia từ thế kỉ nào?" Chung quanh ông không còn là hạnh phúc vì tiếng đàn, vì những khăn bàn bằng lụa quý, những chén ngà chạm vàng nữa. Ông thấy một thế giới cô độc khủng khiếp. Nhìn người bạn cũ, ông thấy đôi mắt đỏ ngàu, lờ đờ. Môi miệng sưng lên, nhưng ông ta không nghỉ được, dòng rượu cứ chảy và ông cứ ừng ực mà uống.
* * *
Những ngày còn lại cuối đời của nhà đạo sĩ, ông nhìn lại những lời giảng thuyết của ông ngày xưa thế nào là hạnh phúc, thế nào là đau khổ. Ông thấy những suy tư ấy non yếu quá. Trầm ngâm hơn, ông viết cho người môn sinh của mình về thiên đàng và hỏa ngục như sau:
Con thân mến,
Thiên đàng là nối tiếp hạnh phúc chúng ta sống trên cõi trần. Hỏa ngục là xây tiếp những nô lệ nội tâm chúng ta đang xây dở dang.
Con đừng cầu xin Thượng Ðế cho con bất hạnh đời này để được hạnh phúc đời sau. Con phải nỗ lực vươn lên mà loại bớt bất hạnh. Thượng Ðế không muốn con người đau khổ. Ðến trong trần gian, Ðức Kitô cho người đói ăn, người què đi, người mù nhìn thấy, người phung hủi được sạch, người chết sống lại. Ðau khổ, tự nó là điều xấu. Ngài không muốn. Con hãy xin Thượng Ðế cho con hạnh phúc đời này, như hình ảnh báo trước một hạnh phúc thật bao trùm đời sau. Và hãy hết sức làm đẹp thế giới con đang sống chung quanh bằng con đường xây dựng hòa bình, công chính, yêu thương để con người cảm thấy vị ngọt hạnh phúc mai sau sẽ dạt dào thế nào.
Con đừng vì lười biếng không nỗ lực xây dựng cuộc sống hạnh phúc hôm nay rồi tự an ủi hứa thiên đàng là hạnh phúc tương lai.
Hỏa ngục không là hình phạt Thượng Ðế sắm sẵn như một nhà tù xây nên rồi chờ xem ai lỗi phạm thì bắt vào. Hỏa ngục cũng giống thiên đàng, cuộc sống ấy là kéo dài những dở dang của con người trong cuộc sống hôm nay. Nếu dang dở ấy là hạnh phúc thì con sẽ hạnh phúc tiếp đời sau, đó là thiên đàng. Nếu dang dở ấy là bất hạnh thì đời sau là bất hạnh tiếp cái dang dở ấy, đấy là hỏa ngục. Con hoàn toàn lựa chọn cho mình. Căn nhà hạnh phúc con đang xây dở thì khi chết rồi, con sẽ tiếp tục xây hạnh phúc ấy. Con xây ngục thất, thì khi chết rồi con sẽ phải tiếp tục xây cái ngục tù dở dang của bất hạnh đó.
Tội là con đưa một đam mê lên thành lí tưởng để theo. Hạnh phúc là sự hài hòa của mọi thứ say mê.
Tình yêu, tình dục, lòng thèm muốn, ghen tương, nhan sắc, tiền bạc, giận hờn, sức khỏe, trí tuệ, vật chất, tinh thần... tất cả làm nên con người chúng ta. Hạnh phúc là khi ta quân bình và hài hòa nó. Chẳng hạn như nhan sắc, đó là nghệ thuật, nó đem hạnh phúc cho người, cho mình. Nhưng nó phải hài hòa trong nhân đức, thật thà, đoan trang. Khi con người để nhan sắc thành lí tưởng cao nhất để theo thì giống như một bức tranh thêu, nhan sắc sẽ tiêu diệt những đường chỉ thêu khác. Lúc ấy lòng thương xót sẽ chết trước cửa nhà người nghèo khó, lòng bao dung chìm dần, niềm tự kiêu dâng lên. Con sẽ dùng mọi tiền bạc cho tấm thân thôi, những tốn phí có thể lỗi công bình, vì con không còn lòng thương xót cho những kẻ phải sống không đúng phẩm giá con người chỉ vì nghèo. Không có một chút ghen, có lẽ cuộc sống cũng khô khan lắm. Không có tình dục, con người sẽ đi về đâu. Giận hờn cũng thế, nó cho người ta những giây phút "đau thương êm ái." Nhưng chúng phải hài hòa.
Con thấy đó, hỏa ngục là nơi không còn hài hòa. Kẻ nhẩy múa là thâu đêm suốt sáng nhẩy múa. Kẻ uống rượu là phải uống triền miên. Khi sống, họ chọn một đam mê rồi đưa lên thành lí tưởng để theo, thì khi chết họ cũng theo lí tưởng đó mà sống. Hỏa ngục hệ tại là đó.
Tội làm con người mất hạnh phúc. Nhưng mất hạnh phúc bằng cách nào? Tội là thần tượng một đam mê. Khi một đam mê lên cao thành thần tượng thì nó thống trị mọi suy tư khác. Kẻ ấy lúc nào cũng bị ám ảnh bởi đam mê đó. Ðam mê độc tài này đẩy con người vào hành động. Lúc ấy, con người mất tự do. Bị đam mê điều khiển thì cuộc sống thành đường một chiều. Trên đường một chiều này, hễ ca múa là thâu đêm suốt sáng ca múa. Hễ say đắm tình dục thì ngụp lặn trong dục tính. Hài hòa bị tan vỡ. "Nô lệ là kẻ để cho bất cứ sự gì đó thống trị mình" (2 Phêrô 2:19).
Hạnh phúc, đau khổ là những định nghĩa đơn sơ thôi. Thiên đàng và hỏa ngục ở khắp nơi trên cõi thế này. Bởi đó, con không cần mong người sau hiện về nói cho biết. Chính Kinh Thánh cũng chẳng cho ai từ cõi chết về để nói về thiên đàng, hỏa ngục. Ðây là thế giới riêng tư của mỗi người, thì làm sao con biết thiên đàng của kẻ khác được? và con cũng đâu cần điều ấy, phải vậy không? Cúi hỏi tâm hồn mình, nhìn xem có đam mê nào con đang đưa lên thống trị suy tư, hành động trong đời sống của con. Nơi đó con sẽ thấy thiên đàng hay hỏa ngục.
* * *
Khi của cải bị cô lập một mình, xa cách sự độ lượng, lòng thật thà, tâm tình bao dung, thì nó không còn bè bạn. Nó trở nên độc tài. Nó trả thù lại kẻ đã cắt đi những liên hệ mà nó phải có. Nghi ngờ đi với thành thật và độ lượng sẽ thành khôn ngoan. Có sức mạnh nhưng thiếu tâm hồn sẽ thành hung bạo. Tình dục đi với lề luật sẽ phong phú tình yêu. Tự bản chất, tất cả nó đã được sinh ra trong những liên hệ hài hòa ấy. Khi ta chọn một mà thôi đời sống sẽ nghiêng đổ.
Nhà đạo sĩ thấy nơi ông đi qua mà tiếng nói nhiệm mầu bảo ông là thiên đàng, có gì đặc biệt đâu. Cũng đồng lúa. Có mưa và nắng. Có người tát nước bên dòng sông. Chính trong cái bình thường ấy mà ông đã đi tìm định nghĩa thiên đàng như một thế giới xa lạ, rực rỡ xa hoa. Ông không nhìn thấy thiên đàng hay hỏa ngục ngay dưới chân mình. Trong cuộc đời, bao người đã đi hết miền đất này tới miền đất kia tìm thiên đàng hạ giới. Nhưng họ cứ tìm mãi mà đời cứ mênh mông, không gặp.
Bây giờ ông hiểu í sâu xa mà tiếng nói nhiệm mầu dạy ông. Thiên đàng là sự tự do nội tâm. Ông đã viết xong lời cuối, muốn gởi người môn sinh. Ông muốn nhắc cho người môn sinh hỏa ngục là tiếp tục cái thú vui độc đoán lúc còn sống, như người mê rượu sẽ suốt ngày đêm phải uống rượu tiếp, người mê nhẩy múa sẽ suốt tháng cứ nhẩy múa liên miên, kẻ mê tiền thì khi chết rồi không được làm gì cả cứ đếm tiền hết năm này qua năm nọ. Ðọc lại những gì đã viết, ông chả thấy có gì mới cả. Kinh Thánh đã nói đến rồi. "Nếu họ không tin lời của Môsê và các tiên tri, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu" (Lc. 16:31). Rồi, ông lặng lẽ cất đi những gì đã viết, không gởi cho người môn sinh nữa.
15. ĐẠO SĨ SADHU
Trong kho tàng văn chương tu đức Ấn Giáo có chuyện kể như sau: Ở một làng nọ, có vị đạo sĩ, Sadhu, tu thân lâu ngày, gần đạt đến bậc thánh nhân. Dân chúng ngưỡng mộ, quý mến nhà đạo sĩ, đến thỉnh ý, tầm thầy học đạo.
Một ngày kia, thấy vị đạo sĩ rách rưới, kẻ qua đường biếu nhà đạo sĩ manh vải che mình. Những lúc Sadhu ngồi thiền niệm, bày chuột tưởng tượng gỗ, rúc vào tấm vải gặm nhấm. Tội nghiệp, có kẻ qua đường thấy thế, biếu Sadhu con mèo bắt chuột. Dân trong làng thương tình, thay nhau đem sữa nuôi con mèo. Rồi ngày nọ, có kẻ hành hương từ phương xa, nghe tiếng thơm nhân đức, đến viếng nhà đạo sĩ. Người đàn bà giàu có ấy tặng đạo sĩ Sadhu con bò để lấy sữa nuôi con mèo. Ðể nuôi con bò, người ta làm cho nó cái chuồng. Từ dạo đó, con bò có chuồng, vị đạo sĩ không có nhà. Thấy thế không ổn, dân trong làng làm cho nhà đạo sĩ chiếc chòi lá.
Từ ngày ấy, nhà đạo sĩ không còn nhiều thời giờ tu niệm như xưa, bận rộn nuôi con bò để lấy sữa nuôi con mèo. Nuôi con mèo để đuổi lũ chuột. Phải lo sửa sang căn nhà. Dân trong làng không muốn nhà đạo sĩ mất thời giờ săn sóc con bò, họ gởi một người đàn bà đến cắt cỏ nuôi con bò, săn sóc con mèo thay cho nhà đạo sĩ có giờ thiền tu.
Nhà đạo sĩ đã có tấm vải che thân, có con mèo đuổi chuột, có con bò cho sữa, có căn nhà để ở, có người đàn bà săn sóc cuộc đời mình. Chẳng bao lâu, nhà đạo sĩ không còn thời gian tĩnh mịch nữa, ông đầy đủ hết rồi.
Ðâu là con đường tu đạo? Ông lấy người đàn bà làm vợ, thế là chấm dứt cuộc đời hạnh tu.
* * *
Tôi viết những dòng này chiều ngày mồng một tháng Giêng năm 2001, tức ngày đầu năm, thiên niên kỷ thứ ba. Tôi đến Ấn Ðộ lúc 11 giờ 30 đêm ngày 29.12.2000. Bước xuống phi trường Bombay tôi thấy ngay cái nghèo của đất nước này. Ở Bombay trọn ngày 30, hôm sau lấy xe lửa đi Poona, tiếng Anh viết là Pune, một thành phố cách Bombay bốn tiếng theo đường xe lửa về hướng đông nam. Tôi sẽ ở thành phố này hai tháng. Chiều nay, vậy là tôi đã ở Ấn Ðộ được ba ngày.
Tôi dự tính sẽ ở Ấn nửa năm. Tôi viết những dòng này, chiều nay, vì nỗi trống trải, một nỗi buồn nhớ nhà. Ðất Ấn quá xa lạ, viết để mong tìm trong dòng chữ một chút lãng quên.
Từ phi trường Singapore, một trong những phi trường hiện đại nhất thế giới, những gian hàng điện tử trưng bày sản phẩm mới nhất, văn minh nhất thời đại, chỉ sau bốn tiếng rưỡi đồng hồ, tôi đến một thế giới quá khác xa, bụi bặm, nghèo đói, dơ dáy. Cảm giác đầu tiên của tôi là muốn quay về Mỹ. Tôi đã đi nhiều nơi, thích nghi với nhiều hoàn cảnh. Những ngày ở Philippines, qua những khu nhà tồi tàn, chứng kiến đám dân nghèo sống bằng núi rác của thành phố thải ra. Nhưng mới ba ngày ở đây, tôi biết nơi đây còn nhiều cảnh nghèo hơn Việt Nam và Philippines.
Ra được khỏi phi trường, đã nửa đêm, tôi kéo chiếc va ly nhỏ theo người đón, đi bộ một quãng dài, đón chiếc xe ba bánh, một loại như Lambretta ở Việt Nam. Ðường phố bụi bặm, vỉa hè tồi tàn. Về đến nhà dòng, thất vọng biết bao với chỗ ngủ đêm nay. Tôi đã từng ngủ trọ qua đêm tại nhiều nhà dòng ở Việt Nam. Tôi chưa thấy phòng khách nào ở Việt Nam nghèo nàn như thế. Một lần nữa, như tôi viết ở trên, tôi chỉ muốn quay về Mỹ.
Trong tôi lẫn lộn nhiều cảm xúc. Mệt mỏi của một hành trình xa. Chán cái nghèo nơi đây. Nhớ nhà. Nhớ những tình cảm của người quen. Tôi đã hành hương thăm căn phòng Cha sở họ Ars ở Pháp. Hôm nay, những căn phòng này tồi tàn hơn. Trên đường bay từ Mỹ qua đây, tôi dừng lại Việt Nam mấy ngày. Ở nơi ấy, tôi thấy Việt Nam nghèo, nhưng trong tôi lúc này nổi lên mơ hồ một cảm xúc trăn trở. Trăn trở vì trong cái nghèo có gương mù, thưa kiện nhau về tiền giữa những người được coi là mẫu mực trong Giáo Hội. Trăn trở vì giáo xứ nghèo tiếp tục rách nát. Chỉ chờ xin ngoại quốc. Thiếu nâng đỡ nhau giữa các họ đạo trong một địa phận, tội nghiệp cho những linh mục vất vả suốt đời ở đó. Xin tiền không còn nói là mình kém, nó trở thành như mình có quyền nhân danh cái nghèo. Cũng như hối lộ không còn là điều làm người ta ngại ngùng mà như một thủ tục bình thường. Chứng kiến cái nghèo ở đây, tôi thấy tâm tình mình lẫn lộn hoang mang. Cái nghèo cơ sở vật chất của Giáo Hội Việt Nam đang biến đổi, sẽ hết nghèo. Nhưng đàng sau cái nghèo nhà cửa đang biến đổi kia, còn nét đẹp nghèo trong tinh thần hay đang bị ám ảnh về tiền bạc.
Tối đầu tiên ở Bombay, rất nóng, chiếc quạt trần tróc sơn, bụi cáu đen, kêu cành cạnh như muốn rơi xuống. Tường vôi loang lổ, vàng ố đen đủi như những bức tường xây từ thời Pháp thuộc ở Việt Nam. Trần nhà thấm nước mốc rêu. Chiếc giường gỗ cũ kỹ. Tấm khăn trải giường, chắc chắn lâu lắm rồi. Tôi sợ không sạch, cúi xuống ngửi, không có mùi hôi. Chỉ cũ thôi.
Hôm sau, 30 tháng 12, trọn một ngày chứng kiến những cảnh chen chúc ở sân ga, khạc nhổ, dơ dáy, bụi bặm. Rời Bombay ngày 31 đi Poona, chiều nay, ngày đầu năm vắng vẻ, nhớ về Mỹ với căn phòng sạch sẽ thật nhiều. Nhớ những cú điện thoại tiện nghi. Nhớ tình bạn. Nhớ những khoảng trời tự do cá nhân. Nhớ nhân phẩm và quyền làm người được tôn trọng. Một buổi chiều quá vắng trong sân tu viện. Trong nỗi nhớ nhà, chán cái nghèo ở đây, tôi tìm vào thư viện và đọc được câu chuyện nhà đạo sĩ Sadhu ở trên.
Câu truyện trên nằm trong cuốn sách nhỏ, cũ kỹ, bụi cũng bám ở gáy sách. Nó nằm im lặng trong kệ tủ. Nó đâu biết chiều ngày đầu năm có người khách lạ từ đâu tới mở trang sách đó. Truyện vô danh, không tác giả, chỉ đề là "an Indian story".
Ðất này nghèo, sao lại có những câu chuyện đề cao cái nghèo như thế? Có phải tác giả đề cao cái nghèo, hay con người tu đạo ấy viết câu truyện trên như chính kinh nghiệm bản thân nói tới tự do của đường vào tâm linh? Có phải họ lấy cái nghèo vật chất để nói cái giàu tâm linh, lấy cái giàu của cải để cảnh tỉnh cái mất tự do tâm hồn?
Câu chuyện bắt đầu chỉ là miếng vải che thân, rồi dần dần nhu cầu sinh ra nhu cầu, sau cùng nhà đạo sĩ mất lý tưởng hạnh tu. Làm thế nào nhà đạo sĩ Sadhu bỏ cuộc, đánh mất hành trình tu giới của mình? Của lễ, tặng vật kia êm ả quá đỗi. Nó như làn gió nhẹ mơ màng, dật dờ như dòng nước không tiếng động. Thế mà đánh đổ nhà đạo sĩ. Sự đổi mới ở đất nước tôi đang mang dáng dấp có nhà Sadhu nào sắp ngã không?
Của lễ dâng cúng không là tội. Nhưng người đạo sĩ có thể bị hủ hóa không ngờ. Lòng bao dung của tín đồ cũng phải khôn ngoan biết bao, chính họ có thể đưa con người hướng dẫn tôn giáo của họ vào tà đạo bằng của lễ ngẫu tượng.
Người ta làm chủ của cải, rồi một ngày bị của cải lấy mất tự do mà họ không ngờ. Ðể lòng mình làm chủ hay bị của cải làm chủ vẫn luôn luôn là một giằng co khốn khổ. Nó vẫn là con đường hạnh tu. Thật khó để mình chiếm hữu của cải chứ không để của cải chiếm hữu mình. Nhu cầu này sinh ra nhu cầu khác. Ta không biết đâu là bến bờ. Phương tiện nào đưa ta đạt đến mục đích, khó mà nhìn thấy.
Sống đơn giản đưa Shadu vào đời sống tu hạnh. Mất đơn giản, ông mất lý tưởng. Trong Giáo Hội, tất cả các đại thánh đều có đời sống đơn giản. Không phải trong Giáo Hội Công Giáo mà thôi, tất cả thánh nhân trong tôn giáo khác cũng vậy.
Không ngờ Sadhu đánh mất lý tưởng. Tội nghiệp ông. Tôi nghĩ, nhà đạo sĩ nào viết câu chuyện ấy, đã đạt tới bậc tỉnh ngộ rất cao như lời dạy "hãy tỉnh thức và cầu nguyện." Sau biến cố tháng tư năm 1975, hạn chế sinh hoạt tôn giáo đã đưa các tu sĩ phải học chung với nhau. Nhờ vậy, biết nhau, làm việc chung với nhau, xóa bớt cạnh tranh cục bộ. Bây giờ tấm áo che rách đang được khoác lên. Nhu cầu đang sinh nhu cầu. Sự làm việc chung ấy sẽ tiếp tục hay dần dần lại trở về cạnh tranh cục bộ với cơ sở và thế giới riêng tư. Gần mười năm trước tôi về thăm quê hương lần đầu. Vị linh mục bảo miễn sao dạy được giáo lý. Ðiều cần là giữ đức tin. Nhà thờ chỉ mong cái microphon để làm lễ. Lần này trở về, ngài hỏi ở Mỹ có cái microphon không dây nào cỡ độ năm trăm đô la không.
Ðất Ấn vẫn nổi danh với những huyền bí và những nhà đạo sĩ hạnh tu. Tôi không biết những ngày ở đây sẽ tìm được hoa trái cho đời sống tâm linh không, chứ nói về thú vui, tôi có cảm tưởng sẽ chẳng có gì vui. Ngày đầu năm, nhớ về đất Mỹ với "của cải" của mình, nhớ về Việt Nam với những diễn biến mới đang xẩy ra, trong Giáo Hội cũng như đất nước. Con đường hạnh tu của Giáo Hội đang đẹp, sẽ đẹp, hay biết đâu miếng vải che thân của khách qua đường thương tình Giáo Hội và đất nước ấy đang rét, choàng lên cho ấm, và rồi từ đấy hủ hóa, đánh mất vẻ đẹp của mình.
Ngày 5 tháng 1 năm 2001.
Tôi đã ở nhà dòng này được gần một tuần. Vẫn chưa quen. Nơi tôi đang trọ học là một nhà dòng lớn, gần hai trăm thầy với hai phân khoa triết và thần học. Tiêu chuẩn ăn của họ chỉ như tiêu chuẩn Cao Ủy phát cho thuyền nhân trong trại tỵ nạn ngày xưa. Tôi không thể ngờ mỗi ngày chưa đầy một đô la cho một thầy, trong đó tính luôn tiền gas, điện nấu ăn, tiền lương trả đầu bếp, tiền chuyên chở, tiền dụng cụ nhà bếp, bát đĩa (1US$ = 46.10 rúppi. Mỗi thầy 42 rúppi tiền ăn một ngày). Việt Nam nghèo, nhưng mỗi năm Việt kiều gởi hàng tỷ đô la về giúp, nên nhà dòng ở Việt Nam không đến nỗi nghèo như ở đây. Tôi chỉ nói một cách tương đối.
Dân nghèo bên bãi rác lấy thùng giấy, bao nhựa trùm thành như những cái ống cống cắt đôi, sống bên lề đường rất nhiều. Chung quanh nồng nên mùi khai xú uế, xác thú vật chết, bụi đường, khói xe. Ði bộ qua những nơi đó, tôi có cảm tưởng sẽ mang bịnh vì bao nhiêu thứ như vậy trôi vào phổi mình. Bây giờ tôi hiểu hơn, tại sao Mẹ Têrêsa đã chọn Ấn Ðộ. Lớp dân nghèo ở đây, họ nghèo đến độ đi qua những khu như thế tôi ngại không dám nhìn họ, vì làm sao dám nghĩ Thiên Chúa cũng hiện diện trong họ.
Dường như các thầy trong nhà dòng này đa số đến từ thành phần cũng bình thường. Quần áo họ mặc, giầy dép họ đi, tôi có để đánh giá phần nào. Không hỏi ban giáo sư, nhưng sống giữa họ, nói chuyện với họ, quan sát đồ dùng của họ, tôi biết đường hướng giáo dục ở đây đang chuẩn bị cho các linh mục tương lai này biết sống đồng hành với dân nghèo của họ. Các cha giáo cũng vậy, ăn chung cùng phần thức ăn, chung cùng bàn. Tôi chưa quen đồ ăn ở đây vì nhiều cà ri quá. Bữa cơm chiều nọ, không hiểu vì sao có một rổ cơm và duy nhất một món khoai tây nhão trộn vàng cà ri. Một cha già người ngoại quốc qua truyền giáo từ thập niên năm mươi ngồi cùng bàn với tôi nói: There is not much to eat today. Sự thường bao giờ cũng có hai món ăn. Nói về ăn uống, họ không thiếu, cơm dư, nhưng đồ ăn chỉ đủ và không ngon miệng thôi. Thí dụ sau cơm bao giờ cũng có chuối tráng miệng. Mấy hôm đầu tôi tưởng giống chuối bên đây nhỏ hơn ở Việt Nam nhưng đi chợ mới biết chuối ở chợ lớn hơn, lành lạnh hơn chuối ăn trong nhà dòng. Họ thật sự sống tinh thần nghèo. Ngay cả điện nước, các đồ dùng khác cũng thế. Cái microphon trong nhà thờ này cũ rồi, tôi nghĩ chỉ vài chục đô la thôi.
Cứ mười hai năm, Hindu, Ấn Giáo lại có một "năm thánh". Năm 2001 này là "năm thánh" đó. Ước chừng bẩy mươi triệu người sẽ về sông Ganga miền Bắc Ấn Ðộ để tắm gội tội lỗi trong sáu tuần. Ðêm ngày những chuyến lửa đầy tràn người trên mui tiếp tục đổ về sông Hằng. Báo chí ngày nào cũng đầy rẫy hình ảnh người ta chìm mình trong dòng sông, giơ tay cầu nguyện. Tìm con đường thanh tẩy thôi mà họ tha thiết như thế sao.
Trở về câu chuyện im lặng trong trang sách bám bụi tôi viết cách đây mấy ngày. Bài học đầu tiên tôi xin cám ơn đất Ấn đã có những người con đi tìm con đường tỉnh ngộ như tác giả câu truyện đạo sĩ Sadhu trên đây.
Phải chăng nước dòng sông Hằng và những mảnh đời đi tìm con đường thanh tẩy đã kết tinh thành những áng văn chương Sadhu. Hay nhờ những áng văn chương tu đức đó nhắc nhở mà dòng sông Hằng vẫn luôn có người đi tìm con đường thanh tẩy?
Nguyễn Tầm Thường
Những ngày đầu tiên ởẤn Ðộ
(Trích Những Trang Nhật Ký Của Một Linh Mục)
16. ĐỀN THỜ PHANXICÔ - GIO
Nghĩ lại câu chuyện 13 năm về trước thật kỳ thú. Ðường vào Macao đã nghẽn lối, thế mà sau cùng tôi vẫn có mặt cùng với nhóm người các cha dòng Don Bosco. Tôi sẽ kể tiếp cách nào tôi vào Macao được và những điều rất ngạc nhiên xẩy ra. Bây giờ tôi đang có mặt ở Goa, nơi lưu giữ xác thánh nhân. Hôm nay ngày 29 tháng 3 năm 2001.
Tôi không còn ở bờ biển Goa nữa. Tôi về thành phố, ở trọ nhà các Cha Dòng Tên. Các Cha rất hiếu khách, tôi xuống bếp bất cứ lúc nào đói, lấy đồ ăn tự nhiên như nhà mình. Từ cửa sổ phòng ăn, nhìn qua bên kia là nhà thờ... một công trình kiến trúc tuyệt vời theo lối Bồ Ðào Nha. Nhà thờ Công Giáo nhưng là thắng cảnh của thành phố nên nhà nước chịu phí tổn đèn điện. Từ chập tối đến mười giờ đêm, cả nhà thờ như một khối cẩm thạch trắng sáng rực. Từ mãi xa cũng nhìn thấy.
Goa còn nổi tiếng về rượu. Chỗ nào cũng có quán bán rượu. Bia và ruợu ở đây không có thuế, rẻ nhất nước. Ai cũng bảo đến Goa tha hồ uống rượu. Thành phố ngăn nắp, không có bò đi lại nghêng ngang. Phố xá sạch sẽ, có nhiều bóng dáng du khách Âu Châu. Tiếp tục thuê chiếc xe gắn máy Honda, ông thầy tôi quen ở Poonatên là Benedicto chở tôi đi khắp nội, ngoại thành của Goa. Từ trung tâm thành phố đi chừng nửa tiếng là tới nơi lưu giữ xác thánh Phanxicô gọi là Old Goa, thành phố Goa cổ.
Thầy Benedicto thật tốt lành, đang học thần học. Tôi hy vọng thầy sẽ là một linh mục tốt. Nước da của Benedicto chỉ ngăm ngăm đen thôi, dòng họ thầy không phải là người thổ dân Ấn, có thể mấy thế hệ trước đã lai gốc Âu Châu. Ngay tên gọi của thầy cũng thế, Benedicto là tên gọi rất Âu Châu chứ không phải tên Ấn Ðộ dài lòng thòng, khó phát âm. Thầy chở tôi đi khắp nơi, cắt nghĩa những thắng cảnh lịch sử của Goa. Thầy dẫn tôi vào gặp Cha giám đốc trung tâm của nhà thờ đang lưu giữ xác thánh Phanxicô. Dĩ nhiên cha cũng là linh mục Dòng Tên. Ðược biết tôi từ Việt Nam đến, không có nhiều thời giờ nên Cha cho tôi dâng lễ ngay sáng đó. Tôi còn giữ mấy dòng chữ Cha viết cho nhân viên coi phòng thánh dọn đồ lễ cho tôi: Father Joseph, Jesuit will say mass at Mausoleum.
Từ cuối nhà thờ đi vào, xác thánh nhân đặt bên cánh phải gần cung thánh, trên cao. Khách hành hương kính viếng có thề quỳ trước hòm đựng xác, có song sắt bảo vệ, không vào trong khu bàn thờ được. Thấy nhân viên bảo vệ dọn lễ mở cửa cho tôi vào dâng lễ bên trong mộ bia, mấy người hành hương cũng theo vào. Sau lễ họ xin chụp hình chung và cám ơi tôi nhiều lắm, họ nói rằng quá may mắn được có cha dâng lễ và được tham dự thánh lễ bên cạnh xác thánh, một đặc ân không ngờ trong chuyến du lịch của họ.
Xác thánh nhân còn nguyên nhưng khô lại như vỏ cây. Dĩ nhiên không còn lành lạnh tất cả. Một cánh tay đã bị chặt đưa về nhà thờ Giêsu ở Roma. Khi người ta cải mộ từ Trung Hoa đem về Roma, đi ngang qua Goa, dân chúng giữ xác lại không chịu cho đem đi. Ngay sau khi chết, Phanxicô Xavier đã làm phép lạ. Cùng lúc hiện ra những chỗ khác nhau cứu người bị bão biển. Lúc bốc xác, xác còn nguyên không bị hư nát. Vì Goa là vùng đất Ngài đã đặt chân tới lúc ban đầu nên dân chúng nhất định giữ lại. Ðối với Dòng Tên ở Roma thì nhất định phải có mặt Phanxicô ở thủ đô của Giáo Hội vì có thể nói Phanxicô Xavier là nhà truyền giáo rửa tội nhiều nhất trong lịch sử truyền giáo. Sau cùng không đem được xác về Roma thì đưa một cánh tay về. Hôm nay ai đến Roma sẽ thấy cánh tay của thánh Phanxicô Xavier được trưng bày tại nhà thờ Giêsu.
Ngày xưa xác thánh nhân được trưng bày cho tín hữu đến tận nơi chạm vào. Nhưng có người cứ muốn lấy xương thánh làm của riêng, để bảo toàn, hôm nay xác thánh nhân được đặt trong lồng kiếng. Vào dịp lễ hàng năm, mồng ba tháng mười hai, hàng trăm ngàn người hành hương đổ về Goa tham dự kiệu thánh. Chung quanh nhà thờ là một công trường mấy mươi mẫu đất, rộng mênh mông để tiếp đón khách hành hương thập phương. Bên cạnh không xa là nhà thờ chính tòa của Goa. Giữa vùng đất của các thần linh Ấn Giáo, về đến Goa ta có cảm tưởng như về Roma của Giáo Hội.
Tôi quỳ bên mộ xác Phanxicô, hình dung con người đầy dũng cảm này trong những ngày đầu tiên trên đất Ấn. Hơn bốn trăm năm về trước, Phanxicô Xavier chỉ là một người đàn ông mới ngoài tam thập, 36 tuổi, đến một vùng đất đầy chướng khí, âm u, muỗi độc, nước độc. Bấy giờ lên đường truyền giáo là vĩnh biệt quê hương, là ra đi không hẹn ngày trở lại. Thật sự là chết đi trong lòng cho một tiếng gọi cao cả. Hôm ở bến tầu Lisbon từ giã những thành phố Âu Châu, không biết Phanxicô có những xúc cản nghẹn ngào nào. Ngài có nhớ thương cha mẹ không, có biết mình ra đi không trở lại không? Thật sự là thế, chuyến tầu định mệnh ấy đem Phanxicô Xavier ra đi, và chàng trai này đã vĩnh biệt quê hương, một chuyến đi không bao giờ về. Bến cũ mênh mông trong tưởng nhớ. Làm sao mà không có lúc bùi ngùi nhớ về gia đình, bạn bè, con đường xưa?
Ðối với những con người truyền giáo này Hội Thánh là một gia đình bao trùm cả thế giới, là một vở kịch lịch sử lớn và các ngài muốn dự phần vào. Ðức Thánh Cha thời đó là Phaolô 3 bảo thánh Inhaxiô nên quên dự tính đi Jêrusalem, để ở lại Rôma vì không thiếu gì việc phải làm. Ðó là năm 1539, những tu sĩ Dòng Tên đầu tiên khấn đức vâng lời và tuyên hứa một lời thề đặc biệt là chấp nhận bất cứ sứ mạng nào Ðức Giáo Hoàng trao và sẵn sàng ra đi khắp nơi trên thế giới. Dần dần nhóm trở thành một trong những dòng tu truyền giáo lớn nhất trong Hội Thánh.
Chúa có cách dùng người khá kỳ lạ. Thánh Phaolô đã từng săn đuổi các Kitô hữu. Nhưng bất ngờ, Ngài đột ngột thay đổi hết. Sau khi ngã ngựa và hoán cải, Ngài đi nhiều nơi ở Trung Ðông, Hi Lạp và Rôma để chia sẻ kinh nghiệm về Ðức Kitô. Ngài trở nên khuôn mẫu sau này thánh Phanxicô Xavier và các vị thừa sai khác sẽ theo.
Lịch sử ghi lại Phanxicô Xavier không phải là thừa sai đầu tiên được thánh Inhaxiô cử đến với dân ngoại. Thoạt tiên thánh Phanxicô Xavier đang ở Rôma giảng trong các nhà thờ tại đây. Khi ngài phục hồi sau cơn bệnh, thánh Inhaxiô chỉ định ngài làm thơ kí, vì dòng Tên lúc ấy đang tăng trưởng, và thánh Inhaxiô cần người giúp để quản tự. Nhưng chưa được bao lâu thì năm 1540 vua Gioan nước Bồ Ðào Nha xin thánh Inhaxiô cho 2 tu sĩ Dòng Tên sang Ấn Ðộ, nơi người Bồ Ðào Nha đã đến làm ăn sinh sống và truyền giáo. Lúc bấy giờ mới có mười tu sĩ Dòng Tên thôi. Thánh Inhaxiô chỉ định 2 linh mục đi Ấn Ðộ. Nhưng ngay đúng hôm lên đường đi Lisbon, tầu sắp nhổ neo thì một người bị bệnh nặng. Thánh Inhaxiô gọi Phanxicô Xavier nói với ngài có thể lên đường đi Ấn Ðộ ngay hôm sau. Phanxicô Xavier vâng lời ngay, không hỏi lại một lời nào. Dù biết có thể không bao giờ gặp lại thánh Inhaxiô, không bao giờ nhìn lại Âu Châu, dù biết thời ấy cứ hai người vượt đại dương thì một người chết trên biển, ngài chỉ thưa thật ngắn gọn với thánh Inhaxiô: Vâng, con xin đi!
Chắc là nhớ nhà, những ngày xa quê hương, Phanxicô Xavier có một túi da nhỏ, lúc nào cũng đeo trên ngực. Mỗi lần nhận được thư từ quê nhà, Phanxicô cắt chữ ký bỏ vào túi da ấy và cứ đeo bên mình.
Phanxicô sinh ngày 7.4.1506, tầu nhổ neo rời Lisbon đi Ấn Ðộ ngày 7.4.1541, đúng ngày sinh nhật thứ ba mươi lăm. Ðáng nhẽ chuyến tầu ấy mang hai tu sĩ Dòng Tên, nhưng phút cuối người kia lại ở lại. Từ Roma, Phanxicô và Rodriguez đáp tầu về Lisbon để đi Ấn nhưng về đến nơi, tầu kia nhổ neo rồi. Hai người làm việc tông đồ ở Lisbon trong khi chờ tầu. Lúc có tầu cũng là lúc việc tông đồ đang phát triển. Vì thế mà người kia ở lại để tiếp tục. Sau cùng Phanxicô ra đi một mình. Chia tay nhau ở bến tầu, Phanxicô bước xuống nước. Sợ ra đi không có ngày trở lại, bấy giờ Phanxicô mới nói chuyện bí mật trong một giấc mơ mà người bạn cứ tò mò hỏi mãi.
Tôi trẩy đi xa anh em, chẳng còn ở chung nữa, vì tình nghĩa anh em, tôi chẳng muốn giấu gì, điều mà anh hỏi tôi nhiều lần trong đêm tôi đã kêu to: "Lạy Chúa, xin ban cho con thêm nữa." Ðêm ấy trong một giấc mơ, tôi thấy mình phải chịu nhiều gian nan vì Chúa, nhưng được Chúa ban ơn, tôi chẳng sợ gì. Nên tôi đã xin Chúa ban thêm những sự khó khăn ấy cho tôi.
Trời hôm nay rất trong và mây rất cao, Ấn Ðộ đã vào mùa hanh nắng. Tôi đang ngồi đây bên đền thờ trên đất Ấn hình dung lại những chặng đường xa xưa hơn bốn trăm năm về trước. Sau cuộc hành trình dài mười ba tháng trời, Phanxicô đến Goa ngày 6.5.1542. Tôi muốn hình dung trong tâm trí lúc thánh Inhaxiô gọi Phanxicô Xavier lại bảo ngày mai tầu nhổ neo, người Cha dự định gởi đi bị bệnh, con có thể đi thế được không. Và Phanxicô Xavier đã không hỏi lại lời nào chỉ nói: Vâng, con xin đi. Tôi cũng muốn hình dung giây phút cuối cùng, lúc tầu nhổ neo, người kia ở lại không đi nữa. Tâm trạng Phanxicô lúc đó thế nào, vì trên chuyến tầu ấy, Phanxicô ra đi một mình.
Nguyễn Tầm Thường
Goa 29.3.2001
17. ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ
Chúa đem con vào đời, nhưng mục đích chính yếu của cuộc sống lại là chờ đợi một chuyến đi. Sân ga không phải là quê hương của con để con bám víu và xây đắp, nhưng chỉ là bến tạm để đợi chờ con tàu. Khi nào thì con tàu sẽ đến để đem con đi? Khi nào con từ giã cuộc sống? Con chẳng biết được thời giờ định mệnh này. Thưa Chúa, có điều con muốn nói là trong khi chờ đợi, trong lúc nhìn thời gian tiến về điểm mốc trọng đại ấy, con luôn luôn cần hạnh phúc.
* * *
Con đã cảm nghiệm được nhiều thứ hạnh phúc. Hạnh phúc khi nhận được tin vui. Hạnh phúc đến từ một tâm hồn biết thông cảm. Hạnh phúc đến từ sự thành công trong công ăn việc làm. Nhưng, những hạnh phúc ấy vẫn chẳng làm con an lòng. Con vẫn lo âu. Những hạnh phúc ấy vẫn là bấp bênh. Quá khứ minh chứng rằng nhiều lần con đã mất hạnh phúc ấy.
Vì những hạnh phúc ấy có thể mất nên cũng có những ngày tháng con sống không niềm vui, chung quanh con là sa mạc. Mà đời người thì chẳng thể sống không niềm vui. Nên con đi tìm niềm vui mới. Có khi con oán giận Chúa, bỏ đời sống đức tin để tìm bất cứ một an ủi nào đó. Trong những giây phút ấy con thường tìm hạnh phúc trong tội lỗi. Con không nhìn thấy những tàn phá của tội mà con chỉ thấy những hứa hẹn và bóng mát của tội mà thôi. Thật sự con chẳng muốn bỏ Chúa bằng con đường chủ tâm sống trong tội. Con vẫn biết con không thể sống thiếu Chúa, nhưng trong yếu đuối của đời mình, con đã thấy quyến rũ nơi tội mạnh hơn hạnh phúc do đời sống đức tin đem lại.
Hạnh phúc thật thì chỉ có một định nghĩa. Nếu con đi tìm bất cứ hạnh phúc nào ngoài thứ hạnh phúc thật đó, con sẽ hoang mang và hụt hẫng. Hạnh phúc thật đó chỉ có Chúa mới cho con được mà thôi. Chúa là nguyên ủy của tất cả, thì hạnh phúc cũng phải do Chúa là nguyên nhân. Bởi đấy, khi con đi tìm niềm vui ngoài nguyên nhân tối thượng là Chúa, con sẽ gặp thất vọng.
* * *
Khi con phạm tội, tội cũng cho con một chút "niềm vui". Nhưng tội làm con xa Chúa. Niềm vui hay hạnh phúc là lúc trầm mình thưởng thức trong dòng nước chảy của dòng sông. Mức độ và sắc thái khác nhau của hạnh phúc tùy thuộc vào nguồn gốc của dòng sông ấy. Chúa là nguyên nhân của một thứ hạnh phúc. Tội cũng sinh ra một dòng hoan lạc. Nguyên nhân khác nhau thì hạnh phúc hay hoan lạc đến từ các nguyên nhân đó phải khác nhau. Từ sự khác nhau ấy, con chọn lựa cho mình một dòng sông. Dòng sông hạnh phúc của Chúa hay đôi bờ hoan lạc của tội.
Con là một tạo vật hữu hạn. Thứ hạnh phúc của tội cũng là một sản phẩm hữu hạn, bởi vì chính con tạo nên nó. Vì con tạo nên nó, do đấy, nó chẳng bao giờ thỏa mãn con được. Hạnh phúc của con hệ tại bám vào hạnh phúc tự thể là Chúa. Nên khi con mất cái tự hữu để ký sinh thì con chênh vênh và hao hụt ngay.
Tội làm con xa Chúa. Chúa xa con không phải vì Chúa bực mình, ghen tức. Dù con thánh thiện tới đâu đi nữa thì cũng chẳng vì thế mà sự trọn hảo của Chúa thêm trọn hảo hơn. Dù con có cầu nguyện thiết tha đến đâu đi nữa thì chẳng vì thế mà Chúa được cao cả hơn. Tự Chúa đã tràn đầy tất cả. Chúa chẳng cần gì. Nếu con cầu nguyện là con bám vào sự trọn hảo của Chúa để được thương ban mà thôi.
Tội là thái độ tự do để lựa chọn một đối tượng ngoài Chúa. Khi phạm tội là con nghe theo một tiếng gọi khác, chấp nhận một đối tượng khác. Khi con chấp nhận một đối tượng khác rồi thì lẽ dĩ nhiên là Chúa phải xa con. Chúa không áp bức con bằng sức mạnh, bằng quyền năng, nhưng Chúa kính nể sự tự do của con. Khi con phạm tội, khi con lựa chọn một đối tượng rồi thì Chúa muốn ở với con cũng không được vì con đã dành khoảng trống của lòng mình cho một chủ khác rồi.
Khi con kiếm tìm niềm vui nơi tội là con tạo nên cơn bão táp cho chính vườn rau của mình. Càng để tội lỗi làm chủ con tim mình thì Chúa càng phải ở xa. Mà Chúa càng xa thì hạnh phúc thật càng mù tăm, khuất bóng. Lý tưởng cuộc đời con là kiếm tìm và quy về nguồn cõi hạnh phúc thật đó. Do vậy, càng xa nguồn hạnh phúc thật thì con càng đánh mất ý nghĩa cuộc sống. Mà không còn ý nghĩa thì cuộc sống trở nên man dại, tính toán, lo âu, giành giật, hận thù và chán chường.
* * *
Khi con phạm tội là con phá hủy hết tất cả tự do của con. Cơn bão táp ấy xóa nhòa nhân phẩm của con. Tội là điều xấu. Con không muốn để người khác biết những điều xấu xa của con. Từ đó, con có hai khuôn mặt. Một khuôn mặt thật và một khuôn mặt để "show up", trình diễn để tha nhân nhìn vào. Khi con giấu kín khuôn mặt thật tội lỗi để phô bày khuôn mặt giả cao thượng là con xây dựng giá trị của mình trên sự lầm lẫn của tha nhân. Con lừa dối kẻ đối diện. Nếu con còn may mắn để nhìn thấy rằng mình có hai khuôn mặt mỗi khi xét mình thì con còn lương tri để biết rằng mình chỉ lừa gạt người chứ không lừa dối mình. Nhưng ngày nào đó, con lẫn lộn giữa thực và hư. Ngày nào đó, con người để trình diễn kia rợp bóng đến nỗi con chỉ thấy nó là chính mình và con tin nó là khuôn mặt thật của mình, con không còn thấy bóng khuôn mặt thật của con đâu nữa thì ngày đó con chẳng còn gì. Con đã là nạn nhân của sự giả tạo. Gian dối với tha nhân đã nên lừa đảo chính mình.
Khi tha nhân tưởng con là gương mẫu của đời mà con không là gương mẫu thì con sẽ lo âu cho cái ngưỡng mộ kia bị đổ vỡ nếu tha nhân nhận ra con người thật tội lỗi của con, cho nên con lại càng phải cất giấu con người đó kỹ hơn. Bởi đấy, tội cướp mất tự do. Sống trong tội, con phải sống trong hồi hộp, gian dối, lo âu.
Chẳng có người cha nào không mủi lòng khi thấy đứa con mình sắp xuống tắm trong dòng sông ngầu vẩn rác đục. Vì kính trọng tự do Chúa đã ban cho con, nên Chúa biết con xa Chúa là đời con sẽ chán chường, Chúa cũng đau khổ, nhưng Chúa chẳng thể cưỡng bách con chọn Chúa được. Mà thật sự con cũng không muốn mất tự do. Hành vi chọn lựa là một thú vui chan chứa của tự do. Không có tự do sẽ là gỗ đá. Nếu con không phải là gỗ đá, nếu con có tự do, thì con phải biết lo âu biết bao về sự tự do của mình.
18. ĐÔI MẮT
"Mắt em là một dòng sông
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em" (L.T.Lư)
Mắt là cảm hứng cho thi sĩ. Nhạc sĩ cũng viết thành cung đàn. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp.
Trái lại, khi Phúc Âm nói về mắt lại nói đôi mắt mù!
* * *
Mắt nhìn được ngoại vật, nhưng nó không nhìn được chính nó. Có phải đấy là điều để nhắc nhủ tôi: tôi có thể nhìn thấy nhiều thứ, nhưng sự hiểu biết quan trọng nhất là biết chính mình thì tôi lại u mê?
Mắt là để nhìn. Ðấy là bản tính của mắt. Cũng như ánh sáng là để soi tan bóng tối. Mắt không cần trang điểm, mắt vẫn nhìn thấy. Mắt không cần tô hồng, mắt vẫn là mắt. Khi người ta trang điểm cho mắt, lúc đó, mục đích không phải là để nhìn mà là để mắt được nhìn. Có khi người ta chỉ vì quá muốn mắt được nhìn, nên mắt đã không nhìn được.
Mắt là để nhìn. Nhưng cái nhìn của mắt không như chiếc máy chụp hình. Mắt nhìn để hiểu. Mắt nhìn để thông cảm. Mắt nhìn để chê bai. Nhưng để hiểu, để rung cảm, để giận ghét, để yêu thương lại là phạm vi của tâm hồn. Mắt thơ ngây, mắt bao giờ cũng vô tội. Tâm hồn là người có trách nhiệm. Vì thế, người ta không nói kẻ có đôi mắt đẹp thì tâm hồn đẹp. Nhưng là kẻ có tâm hồn đẹp thì bao giờ cũng có đôi mắt trong. Ðôi mắt của trẻ thơ đã nói lên điều đó.
Nhiều người đã sa ngã vì những đôi mắt biết dỗi hờn. Nhiều kẻ đã say những cặp mắt biết liếc nhìn quyến rũ. Sở dĩ có những đôi mắt ấy vì phải có người yêu những vẻ đẹp đó nên mới có kẻ làm khí giới tấn công. Và, nếu những xao xuyến rung động, những tình yêu chỉ vì đôi mắt ấy thì cũng giống như Evà, chỉ nhìn thấy mầu hồng của vỏ trái táo chứ không thấy bóng sâu ở trong.
Người có đôi mắt đẹp là người không đánh lừa kẻ khác bằng đôi mắt của mình. Kẻ có đôi mắt đẹp cũng không để mình bị đánh lừa bằng đôi mắt người khác. Mắt đẹp là mắt nhận ra giá trị thật và chỉ ngắm nhìn những giá trị đó.
Trong cuộc sống gia đình, nhiều đôi mắt không nhìn ra nét đẹp nơi người yêu của mình. Nhưng lại thấy vẻ đẹp nơi người yêu của kẻ khác. Thấy thèm muốn nhưng không thấy giới hạn. Nhiều đôi mắt chẳng nhận ra đâu là hạnh phúc mình phải đem đến cho người bạn đời. Nhưng lại nhìn ra những nhu cầu của mình để bắt tha nhân mang tới. Thấy đòi hỏi nhưng không thấy bổn phận.
* * *
Mắt giữ vai trò quan trọng trong lịch sử cứu rỗi của loài người. Ngay những chương đầu của sách Khải Nguyên đã nói về mắt:
Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra, và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn: quả là cây ăn phải ngon.
Sau khi nhìn rồi, Kinh Thánh kể tiếp cái nhìn của Eva:
Mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn.
Sau khi ăn rồi, Kinh Thánh kết luận về đôi mắt của cả hai người như sau:
Và mắt cả hai người mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng. (Kn 3,4-7).
Ðoạn Kinh Thánh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến mắt qua ba tiến trình:
- Rắn hứa là mắt Adong, Evà sẽ mở ra.
- Evà đã nhìn trái táo và thấy sướng mắt.
- Mắt hai người đã mở ra và thấy mình trần truồng.
Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa. Nhưng mắt đức tin của cả hai đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn nhìn sẽ đem đổ vỡ cho cuộc đời. Họ đang thấy chung quanh họ là mùa hoa rộ nở, là những đồi cỏ bình yên, là những giải nắng hiền, dòng suối êm. Nhưng chỉ vì muốn nhìn như Thiên Chúa, nên cỏ bình yên thành cỏ dại, suối hiền cạn khô, nắng thành vất vả, hoa thôi lên mầu.
Chỉ vì muốn nhìn những điều không thể nhìn được nên mắt họ đã chẳng còn nhìn thấy những điều họ đã thấy nữa.
"Mà nhìn thì đã sướng mắt". Ðó là tâm trạng của Evà. Cái nhìn ấy phải là đắm đuối. Bằng cái nhìn "sướng mắt" ấy tội lỗi đã vào thế gian. Qua một cái nhìn mà hạnh phúc thành rách nát. Lịch sử vũ trụ thay đổi. Tang thương.
Lời hứa của rắn đã hiệu nghiệm. Mắt của cả hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà để nhìn thấy mình trần truồng. Trần truồng là biểu tượng của hèn hạ, của nghèo đói, của nhục nhằn. "Mắt hai người đã mở ra". Câu Kinh Thánh thật ngắn ngủi, nhưng sự tinh tế và đau thương nằm ở đó. "Mắt hai người đã mở ra". Nhưng đồng thời cũng là giây phút đóng lại. Mở mắt để thấy trước mặt là tan tác, chia phôi. Mở mắt để thấy trước mắt là hệ lụy. Mở mắt để biết mình trơ trụi. Mở mắt để biết rằng mình không còn thấy những gì mình muốn thấy.
Adong-Evà đã mở mắt. Nhưng họ lẩn trốn không dám nhìn Chúa. Cả hai đã mở mắt. Nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Như thế, mở mắt có ích gì? Có những mở mắt nguy hiểm. Có những mở mắt gieo khổ ải. Không nhìn những điều phải nhìn là thiệt thòi. Nhìn những điều không nên nhìn cũng là mất mát như thế. Khởi đầu lịch sử nhân loại đã không phải là lịch sử có đôi mắt thơ mộng, mà là đôi mắt mù lòa.
* * *
Rồi sự mù lòa ấy chảy dọc theo thời gian. Chúa Kitô đã đến trong Tân Ước để hàn gắn sự mù lòa xẩy ra từ những trang đầu của Cựu Ước đó. Chúa không bao giờ từ chối chữa người mù. Trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng, nếu có người mù kêu xin là Chúa động lòng xót thương và chữa họ ngay. Sự mù lòa nói đến trong Tân Ước đã có nguyên do từ sự mù lòa khởi nguyên ngay ở vườn địa đàng. Chúa đến để chữa vết thương kéo dài từ biến cố đó. Ðặt những phép lạ Chúa chữa người mù trong Tân Ước với bối cảnh mù lòa khởi nguyên của Adong-Evà ta mới thấy ý nghĩa sâu xa vì sao Chúa đã đến trong thế gian. Và nếu ý thức được rằng, từ bắt đầu, dòng suối đã mù lòa thì nước ở cuối dòng làm sao trong, ta sẽ nhận ra một ý nghĩa khác, đó là ta phải chấp nhận rằng mình mù lòa, và cần Chúa chữa sự mù lòa ấy.
Phúc Âm thánh Yoan có thuật lại phép lạ Chúa chữa một người mù. Ðặc biệt Yoan kể rõ chi tiết là "mù từ lúc mới sinh". Các Phúc Âm khác chỉ nói chữa người mù, không nói chi tiết mù như thế nào. Vì sao thánh Yoan lại nhấn mạnh điểm đó? Phải chăng "mù từ lúc mới sinh" là mù từ thủa xa xưa lắm rồi, là mù từ thủa địa đàng. Là mù gốc rễ trong tâm hồn tôi. "Từ trong tà ác tôi đã sinh ra" (Tv 51,7).
Một chi tiết quan trọng khác mà thánh Yoan đã nói đến là Chúa chữa người mù "từ thủa mới sinh" trong ngày sabath. Ngày sabath là ngày không được phép làm gì cả. Ðây là luật rất ngặt của người Do Thái. Chính vì thế Chúa đã bị kết án. Có phải Chúa đã chữa mù, cho dù là ngày sabath vì mù là một bất hạnh ghê gớm, một thiệt thòi nguy hiểm? Chúa không thể chấp nhận mù! Dù bị chống đối, Chúa vẫn chữa mù! Như vậy chẳng có lý do nào Chúa lại chậm trễ chữa sự mùa lòa của tâm hồn tôi. Sứ mạng của Chúa là: "Người đã sai Lời Người đến chữa họ, và giật sinh mạng họ ra khỏi mồ chôn" (Tv 107,20).
Trong câu chuyện chữa người mù, ta thấy sự khác biệt tàn nhẫn giữa đôi mắt của người mù và đôi mắt của các thầy Pharisiêu. Ðôi mắt thân xác của người này mù, nhưng mắt tâm hồn ông ta lại sáng. Ông nhận ra Chúa là người có thể chữa cho ông, nên ông đã đến suối Siloam rửa mắt như lời Chúa dạy. Các thầy Biệt Phái đã có đôi mắt thân xác không mù lòa, nhưng đôi mắt tâm hồn đã chết. Họ đã nói với người mù về Chúa như sau: "Chúng ta biết tên đó là một người tội lỗi" (Yn 9,24).
Không có sự tối nào lại mù lòa hơn sự mù lòa của những đôi mắt sáng ấy. Bởi đó, thấy mặt trời vẫn có thể là sống trong bóng đêm. Trong bất hạnh của thân xác vẫn có thể nhìn ra chân lý. Ðiều ấy nói cho tôi biết trong đau khổ tật nguyền, hạnh phúc vẫn có thể nở hoa, kết trái xum xuê. Trong những hiểu biết trần thế, biết đâu là cả một cõi lòng khô héo ân sủng thiêng liêng. Rồi, vì thế, đàng sau những đôi mắt đẹp, có thể là một một đêm lạnh lẽo, một tâm hồn trống trải, buồn tênh.
Ðôi mắt dễ thương chỉ có nơi tâm hồn duyên dáng. Lo trang điểm cho mắt mà không làm đẹp tâm hồn là chỉ muốn người ta nhìn mắt mình, chứ mắt mình không nhìn được điều phải nhìn. Có người tốn rất nhiều tiền để làm đẹp mắt, nhưng tiếc xót gởi một thùng quà cho bạn bè nghèo khó ở bên nhà. Ngại ngùng bỏ tiền để sửa chữa một ngôi thánh đường đang sụp đổ. Quá muốn mắt mình được nhìn nên đã không nhìn thấy điều Chúa muốn họ thấy.
* * *
"Toàn thân mày, mày sinh ra trong đống tội, mà mày lại làm thầy dạy chúng ta ư!" Sau khi mắng người mù như thế, Pharisiêu trục xuất ông (Yn 9,34). Người mù đã bị đuổi ra khỏi hội đường vì dám chấp nhận Chúa là Thầy chữa cho mình. Chúa đã hỏi người mù: "Còn ngươi, ngươi có tin vào Con Người không?" Ông ta đáp lại: "Lạy Ngài, tôi tin" (Yn 9,35-38). Như vậy, để nhìn thấy Chúa, ông đã phải trả một giá đắt. Những đôi mắt dám nhìn sự thật nhiều khi là những đôi mắt rướm lệ.
Phúc Âm thánh Máccô cũng nói về mắt. Người mù lên tiếng: "Lạy Thầy, xin cho tôi thấy được". Ðức Kitô bảo hắn: "Hãy đi! lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Rồi, dòng chữ cuối cùng của một bầu trời mới, một tâm hồn vô cùng thênh thang:
Lập tức hắn đã thấy được
và theo Ngài lên đường (Mc 10,52).
Người mù đã không trở về để lập nghiệp làm ăn, nhưng lên đường theo Chúa. Lúc này là lúc Chúa đang trên đường về Jerusalem để chịu chết. Ông đã thấy gì mà dám lên đường theo một kẻ sắp bị đóng đinh.
* * *
Nói về đôi mắt, Chúa quở trách rằng: "Họ nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy.tâm hồn họ ra chai đá rồi" (Mt 13,14). Như vậy, Chúa xác định tâm hồn có trách nhiệm về cái nhìn.
Hôm nay, không thiếu bao tiếng khóc. Có tiếng khóc âm thầm. Có tiếng khóc lo âu. Tiếng khóc nghèo đói. Tiếng khóc lạc lõng trong cuộc sống. Tiếng khóc lặng lẽ của cõi lòng chán chường. Tiếng khóc che kín bằng tiếng cười ở giữa đám đông. Nước mắt ở khắp nơi.
Biết bao tâm hồn chỉ vì nghèo đói mà sống mất phẩm giá con người, Những người mẹ bên Phi Châu ngồi khóc vì đói, vì đôi vú không còn sữa cho con. Những đôi mắt trẻ thơ ruồi bu quanh. Ðấy là hình ảnh Chúa Kitô. Ngài đang lang thang và chẳng có ai nhìn.
- Có đôi mắt liếc nhìn quyến rũ.
- Có đôi mắt trang điểm.
- Có đôi mắt rình mò.
- Có đôi mắt để chọn quần áo.
- Có đôi mắt để đếm tiền.
- Có đôi mắt để nhìn người yêu.
Những tiếng khóc đau khổ vẫn không ai muốn nghe. Những nghèo đói vẫn không ai muốn nhìn. Có phải chỉ đôi mắt đức tin mới nhìn thấy Chúa Kitô đang nghèo, đang túng thiếu. Chia cái nghèo, chia cái túng thiếu, chỉ có đôi mắt tình thương mới dám nhìn.
Hai ngàn năm trước Chúa đã than thở: "Họ nghe mà không hiểu, nhìn mà không thấy vì tâm hồn họ ra chai đá rồi" (Mt 13,14). Hôm nay, nếu mắt không nhìn những điều phải nhìn. Nhìn mà không thấy những điều phải thấy. Thấy mà chẳng hiểu những điều phải hiểu thì Chúa cũng chỉ biết than thở như hai nghìn năm xưa: Vì tâm hồn họ ra chai đá rồi.
19. ÐƯỜNG ÐỜI
Tôi sống trong cuộc đời nhưng tôi có riêng đường đời của tôi. Mới hôm nào bố mẹ nhìn bầy con chung quanh mâm cơm chiều. Chỗ nào cũng là gần gũi yêu thương, từ nhà ra sân, từ ngõ đi vào.
Dòng sông lớn lên âm thầm rẽ nhánh. Tôi đi theo tiếng gọi của đời tôi. Lũ em lần lượt bước vào ngõ quanh của mỗi đứa. Bây giờ đã là xa cách. Trong cuộc đời, nhưng mỗi đứa có riêng đường đời của mình.
Kinh Thánh kể, sau khi dâng lễ ở Jerusalem về, Mẹ Maria lạc mất Chúa. Mẹ hối hả đi tìm: "Cha con và mẹ phải đau khổ đi tìm con". Chúa thưa lại: "Mẹ tìm con làm chi, vì con phải ở nơi nhà Cha con" (Lc 2,48-49). Trong cuộc đời, Chúa có đường Chúa phải đi. Mẹ Maria có lối của Mẹ.
Mỗi người có một cuộc sống riêng nên không đường của ai giống đường của ai. Tuy vậy, chỉ có một người gọi, đó là Chúa. Và cũng chỉ có một tiếng gọi, đó là tiếng gọi về Nhà Cha. Chỉ có một thứ tiếng gọi và do một người gọi, thì đường đi có khác, vẫn ở trong toàn thể. Ở trong toàn thể thì có liên hệ và ảnh hưởng. Với ý nghĩa đó, cuộc sống đức tin của người này liên quan đến cuộc sống của ngươì kia. Lối về Nhà Cha phải đi riêng đường của mình. Ðiều ấy có nghĩa là đi một mình. Ði một mình trong hàm ý là tự mình đi chứ không phải là đi lẻ loi.
Chúa Yêsu lên đường về Jerusalem để chịu tử nạn. Theo tiếng gọi, Phêrô cũng lên đường với Ngài. Nhưng trên đường đi, Phêrô gợi ý cho Chúa bỏ cuộc (Mc 8,31-33). Làm gì có Phục Sinh nếu Chúa Yêsu nghe lời Phêrô chối từ Thập Giá. Từ bỏ con đường của mình phải đi là đánh mất bản tính của mình. Nếu Chúa cũng chỉ là Chúa khi Chúa đi con đường của Chúa thì đấy phải là định luật không thể thay thế cho tôi. Tôi sẽ chẳng còn là tôi nếu chối từ con đường của mình.
***
Mỗi người có một con đường, vì sao họ lại không đi được đường của họ?
Trên đường đời, cả hai: đau khổ và hạnh phúc, đều là những tiếng gọi dỗ dành làm tôi lạc lối.
Ðau khổ dẫn tới lẩn tránh đường đi.
Phêrô đã âm thầm cảm nghiệm được một khúc đời khốn khó nếu để Chúa về Jerusalem tử nạn. Ðau đớn thường dẫn đến chạy trốn. Trên đường đi, có những quãng đời rộn rã tiếng cười như ngày Chúa long trọng vào thánh thánh: "Dân chúng rất đông đảo, trải áo choàng trên đường, nhóm khác chặt cây mà lót lối đi. Kẻ trước, người theo sau tung hô rằng: Hosanna, con vua David. Vạn tuế Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hosanna trên chốn trời cao" (Mt 21,8-9). Tưng bừng là thế đó, nhưng lại không hiểu những ngày hắt hiu: "Hồn Ta buồn quá đỗi, muốn chết được. Các ngươi hãy ở lại mà thức với Ta". Ðã chẳng ai thức với Chúa trong giờ phút lẻ loi nhất ấy: "Simon, ngươi ngủ sao? Ngươi không thể thức với Ta được một giờ ư?" (Mc 14,34-37). Có những ngã tư đông đúc, cũng có những ngõ vắng dẫn vào cô tịch đìu hiu. Ngõ vắng ấy là ngại ngùng. Cô tịch đìu hiu kia là đau khổ. "Ai bỏ tất cả mà theo Ta sẽ được gấp trăm" (Mc 10,28-30). "Ai muốn theo Ta hãy vác thập giá mà theo Ta" (Mc 8,34). Lời ban đầu là quãng đường đẹp hứa hẹn đầy mộng ước. Lời kế tiếp là khúc vắng dẫn vào đìu hiu, cô tịch.
Chúa không về Jerusalem để chết vĩnh viễn trên thập giá, mà là để đón nhận phục sinh vì hoàn tất thánh ý của Chúa Cha. Bởi đó, đường về Nhà Cha thì Nhà Cha mới là cùng đích. Nhưng cô tịch đìu hiu, những ngõ vắng nếu có trên đường đi, tôi phải chấp nhận. Chối từ phương tiện là chối từ cùng đích. Ðường của Yoan Tẩy Giả là "mọi thác ghềnh sẽ được lấp đầy, đồi cao sẽ hạ thấp, nơi cong queo nên ngay thẳng" (Lc 3,4-6), để dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến. Chấp nhận đường của mình. Yoan đã phải đi những quãng đường rất vắng vẻ, rất đìu hiu trong ngục tối vì dám làm chứng cho sự thật. (Mc 6,17-28).
Trời sa mạc rộng quá. Yoan cất tiếng kêu. Tiếng kêu trong sa mạc thì thấm vào đâu. Nhưng lối đi của Yoan là thế. Sứ mạng của sứ ngôn là lên tiếng. Không thể để cái hoang vu của sa mạc làm nản lòng. Dù không có ai nghe, người sứ ngôn vẫn phải cất tiếng. Chối từ lên tiếng là đánh mất bản tính làm sứ ngôn của mình. Bản tính đó hệ tại là người sứ ngôn có lên tiếng hay không chứ không hệ tại người nghe chối từ hay chấp nhận.
Gian nan làm người ta muốn chối từ con đường của mình thế nào thì hạnh phúc giả cũng làm người ta lạc lối như thế.
Ảo ảnh hạnh phúc dễ đưa lầm đường.
Vì đường đời đi trong cuộc đời, nên có lúc người khác đi cùng với tôi. Ði cùng không có nghĩa là đi con đường của nhau. Ðường tôi đi vẫn là của riêng tôi, nên dù không ai đi cùng, tôi vẫn phải đi. Những lúc trên đường vắng ấy, một quán hạnh phúc bên ngã rẽ dễ mời tôi tắt lối quẹo ngang. Sau những ngày ăn chay trong sa mạc, Chúa đói. Ma quỷ đã đến cám dỗ Ngài: "Nếu ngươi là con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho viên đá này thành bánh" (Mc 4,3). Luôn luôn có lời ngọt ngào bảo tôi chối bỏ con đường của tôi.
Trong hôn nhân, biết bao đổ vỡ đã đến từ những bóng mát hạnh phúc ở bên cạnh. Trong đời tu, biết bao trống trải đã ủ xuống hồn vì những lời gọi không chính đáng. Mỗi người có một lối đi. Vì cùng đi trong cuộc đời, nên sẽ thấy có người bước tới, có người quay về, có người tắt ngang. Ðiều ấy dễ gây xôn xao. Có người lấy bóng hạnh phúc của kẻ khác làm của mình, vì thế họ chẳng bao giờ tìm được hạnh phúc thật. Có người lại lôi kéo kẻ khác vào con đường của họ. Làm như thế, ngỡ là yêu thương, nhưng thật ra, họ đã tàn tật hóa con đường của nhau phải đi. Nâng đỡ nhau trên đường đi không bao giờ có nghĩa là đi con đường của kẻ khác. Yêu thương là để kẻ khác đi trên con đường của họ.
Nguy hiểm trên đường đi là sự lừa dối lương tâm của chính mình. Khi người ta gian lận nhiều lần, thì dần dà sẽ thành thói quen, nhưng thành thói quen không có nghĩa là được phép.
Cứ đi lại nhiều lần trên bãi hoang, thì tự nhiên sẽ thành đường đi, nhưng thành đường đi không có nghĩa đấy là chính lộ.
***
Lạy Chúa, hôm nay con muốn nói với Chúa về nỗi lòng của con đã thấy gì trên đường con đi. Trên đường đi, con thấy có nhiều quán trọ. Có quán cho con bóng mát. Có quán bảo con đừng đi. Mệt nhọc làm con muốn dừng nghỉ. Chống đối, hiểu lầm, ghen tỵ, kết án làm con muốn bỏ cuộc. Và dường như, nếu con càng dừng nghỉ thì con càng ngại đi. Nếu con càng làm quen với lười biếng thì con càng ngại ngùng trở về con đường Chúa muốn con sống. Rồi, đường đi cứ thế mà chậm thêm. Và, cũng trên đường đi, sao có nhiều quãng đường thật xấu, gồ ghề như quãng đường Chúa đi xưa. Hình ảnh đồi sọ làm con tính toán lưỡng lự. Có những quãng đường sao mà tối tăm làm con hồ nghi không biết có phải là đường thật không. Ðây là lúc con phân vân không biết thánh ý Chúa ở đâu. Và cũng là những lúc con bị cám dỗ nghi ngờ ơn gọi Chúa đã ban. Ði trọn tiếng gọi của mình theo Phúc Âm không dễ vì có nhiều hình ảnh đánh lừa con. Có phải vì thế mà Chúa đã dặn: "Ðường dễ dãi sẽ dẫn đến hư đi" (Mt 7,13-14).
Hôm nay, có điều con cũng muốn thưa với Chúa là dù được an ủi hay chịu đựng âm u của những ngày nặng nề, con vẫn nghe thấy tiếng Chúa khuyến khích con đi con đường của riêng con. Tuy có khó khăn nhưng con vẫn tin ở trước mặt là một bình minh rất đẹp. Ðiều ấy làm con vững tâm.
***
Trong lịch sử lầm đường, chối bỏ lối đi của mình bao giờ cũng có mặt của Satan. Khi Phêrô ngăn cản Chúa đừng chịu chết. Chúa mắng: "Satan hãy cút khỏi sau Ta vì đây không phải là đường lối của Thiên Chúa" (Mt 8,31-33).
Phúc Âm thánh Luca nói về Yuđa như sau: "Satan nhập vào hắn, và y đi thương lượng với các thượng tế để làm sao nộp Ngài cho họ" (Lc 22,3-4).
Trong sa mạc, kẻ cám dỗ Chúa đừng đi con đường của Chúa cũng là Satan (Mt 4,1-11).
Ngày xưa trong vườn địa đàng, Adong, Evà đã không đi được con đường của mình cũng vì lời ma quỷ lừa gạt. Lịch sử lầm đường là lịch sử có mặt của Satan. Ðiều ấy cho tôi tin chắc rằng khi tôi không muốn đi con đường của mình, tôi phải cẩn thận vì tiếng nói của thần dữ rất tinh vi.
Nói về hành động Yuđa đi lạc lối, Phúc Âm thánh Yoan kết luận: "Lập tức hắn đi ra và trời đã tối"(Yn 13,30). Khi nói trời đã tối, Yoan không có ý viết một bài văn chương tả cảnh hoàng hôn. Bằng ngôn ngữ thần học, rất sâu sắc, Yoan muốn nói khi con người chối bỏ ơn gọi của mình để Satan đổi hướng đời mình phải đi, đấy là lúc "người ta yêu mến bóng tối hơn sự sáng" (Yn 3,19).
Không đi đường mình phải đi, chìm vào bóng tối thì tôi tìm thấy gì trong vùng đất ấy?
Trời đã tối, tiếng than ngắn ngủi mà thăm thăm như nỗi tuyệt vọng mịt mù, buông xuống che kín một đời người. Lời thánh Yoan nhắn nhủ nghe buồn như tiếng thở dài, nhẹ mà rất sâu: "Ai đi trong tối tăm thì chẳng biết mình đi đâu" (Yn 12,35).
***
Lạy Chúa, con đường đời của riêng con. Chối bỏ con đường của mình là lừa dối chính mình và tránh mặt Chúa, kẻ đang đợi chờ con ở đầu đường bên kia.
20. ĐƯỜNG HẸP
Có lần Đức Kitô bảo muốn hạnh phúc hãy đi con đường hẹp. Đường thênh thang chỉ dẫn đến hư đi. Rồi từ đó, người ta bảo muốn theo Đức Kitô phải đi con đường gian khổ. Có người đơn giản cho rằng theo Chúa thì phải khổ. Từ đó có nhiều cái nhìn về những con đường.
Trải qua nhiều năm tháng mù mịt. Hai nghìn năm quá xa. Không biết ngày đó câu chuyện xảy thế nào. Chúa thật sự nói gì về những con đường?
Kho tàng tu đức nhà Phật có kể câu chuyện thế này.
Trải qua bao thời kỳ, cứ đến giờ tụng kinh, người ta trói một con mèo. Ngày qua ngày, tháng qua tháng. Không biết bao đời tiếp bao đời, cứ đến giờ tụng kinh, có một con mèo bị trói. Nó trở thành một nghi thức không thể thiếu trong các cuộc lễ của chùa. Đến một ngày nọ, có vị sư trẻ đến chùa, thấy sao kỳ cục quá. Nhà sư tìm về lịch sử tại sao có nghi lễ kỳ quặc thế.
Nhà sư khám phá ra. Ngày xửa ngày xưa, chùa có một con mèo. Đến giờ tụng kinh nó hay chạy nhảy lung tung. Đổ nhang, đổ nến hoa. Để khỏi chia trí, vị sư già trụ trì chùa cho đệ tử cứ đến giờ tụng kinh, trói nó lại. Rồi nhà sư già qua đời. Trải qua nhiều năm tháng. Bến mê đưa kẻ đi sau lụy hình thức mà không hiểu nghi lễ mình làm. Cứ phải tìm một con mèo trói lại mới trọn lời tụng kinh. Truyền thống dễ dãi ấy kéo dài về sau. Trong tôn giáo có những hình thức không hợp với tín điều. Có những thờ phượng lụy vào lầm lẫn. Cần có một tâm hồn để nhìn ra có những con mèo đã chết miệt từ năm tháng nào rồi mà người ta vẫn đưa vào nghi lễ.
Trở về những con đường đi.
Nhiều người cho rằng theo Chúa thì phải chấp nhận một đường đi đau khổ. Họ dễ dãi bảo đường Chúa đi là đường khổ đau. Thật sự, Chúa nói gì về những con đường?
Ta rất cần phải phân biệt, thế nào là đau khổ.
Người ta có thể đau nhưng không khổ.
Khi người mẹ sinh con thì đau đớn. Nhưng bà hạnh phúc, chứ không khổ.
Đau một lần khi sinh con, nhưng có khi khổ suốt đời vì con.
Có nhiều cuộc đau mà không khổ.
Cũng như có nhiều cuộc không đau mà khổ.
Đau khổ không là đề tài dễ dãi để suy tư một cách biếng nhác. Nó ẩn chứa quá nhiều chiều sâu. Đấy là những đau, những khổ rất bình thường. Bởi đó, làm sao ta dám dễ dãi đơn giản nói rằng theo Chúa thì phải chấp nhận đau khổ?
Có những vợ chồng chấp nhận đau thương để vượt biên tìm nhau cho đời hết khổ. Bàn chân vướng gai nào không đau khi tìm đường đến trại cải tạo thăm chồng? Vì khổ nên người ta lấy đau để hóa giải. Như thế, đau mà có thương có thể mua được hạnh phúc. Có những kinh nghiệm rất thực, có những bàn chân hôm nay không đau vì phải buôn thúng bán bưng. Có những bàn chân hôm nay hàng tuần đi mỹ viện. Nhưng họ rất khổ. Có những đau thương tìm nhau cho đời hết khổ thì cũng có những ngày hết đau vì không phải tìm nhau mà lại rất khổ vì có nhau. Đó là kinh nghiệm từ cuộc sống.
Có nhiều cuộc đau mà không khổ, như khi bà mẹ sinh con.
Cũng như có nhiều cuộc không đau mà khổ, như khi con lớn, khổ vì con.
Thì cũng có nhiều cuộc đau để hết khổ. Như vợ chồng tìm nhau.
Vậy đau khổ là gì trên con đường Đức Kitô nói hai nghìn năm xưa?
Nếu theo một người để đau khổ thì theo làm gì?
***
Thiên Chúa không bao giờ bảo con người theo Chúa để mà đau khổ.
Ta không muốn dễ dãi cột con mèo rồi bảo đó là nghi lễ.
Nhưng để hết khổ thì Thiên Chúa bảo có khi phải đau.
Cũng như người ta sẵn sàng chấp nhận đau cho một tình yêu hết khổ.
Đau để hết khổ thì vấn đề không phải là đau khổ nữa, mà là thế nào là khổ và thế nào là đau.
***
Một ngày nọ chú bé bẫy được bày chim. Con nào cũng gầy quá. Giữa tháng năm mất mùa, chẳng có lúa thóc, ngô khoai. Để đem ra chợ, cậu bé nuôi bầy chim cho béo nẫy. Ngày ngày lúa thóc đổ vào. Chỉ một vài tuần sau, con nào cũng béo mập. Nhìn những con chim khác say sưa mổ thóc, mổ gạo. Cánh chim kia đau lắm. Nó thèm thuồng làm sao. Giữa năm tháng mất mùa. Rừng khô nước, đồng khô cỏ. Con người cũng thế thôi, giữa cái chang chang của cuộc đời. Nhìn kẻ khác làm giầu bằng con đường lừa gạt, nhìn những hạnh phúc bằng mối tình rong chơi. Nhiều tâm hồn cũng xót xa cho thân phận. Tất cả giống nhau ở trong lồng và miếng ăn. Bầy chim và cuộc đời.
Ngày ngày con chim nọ rất đau nhìn bạn bè ăn. Cái đau dằn vặt. Cái đói thèm thuồng. Chỉ còn một ước mơ nuôi nó, bầu trời xanh thăm thẳm ngoài kia. Đợi ngày bầy chim béo mập, cậu bé sẽ đem ra chợ bán. Thật không ngờ, sáng nọ, nhìn bầy chim. Cậu bé thấy biến mất con chim gầy.
Ngày ngày nó đau nhìn bầy chim ăn no nê. Nó chấp nhận đau để thoát khổ. Quê hương nó là bầu trời ngoài kia. Hạnh phúc của nó là cánh rừng bàng bạt gió núi. Nó phải trở về quê hướng đó. Yêu bầu trời tự do quá đỗi. Nó không thể vì miếng ăn mà giam mình trong cũi lồng chật hẹp. Nó phải tung cánh đi tìm tự do. Mỗi lần nhìn bầy chim tranh nhau mổ thóc. Mỗi khi cậu bé đổ gạo vào lồng. Nó đau. Nó phải nhìn bầu trời mà khấn xin. Rồi ngày phải đến. Nó gầy, nó ốm lại để một bình minh kia, nó ép mình nhỏ lại, lách mình qua nan tre của chiếc lồng bay thẳng vào trời mênh mông. Chớ gì trong mỗi ơn gọi, ta nhìn bầu trời thênh thang, ngoài kia.
Đau không có nghĩa là khổ. Và có khi để thoát khổ cần phải đau.
Khi người ta đau để thoát khổ thì không còn đau khổ.
***
Đức Kitô là hạnh phúc.
Ngài nói rõ: Ta đến cho chiên được sống và sống dồi dào.
Ngài bảo Ngài dẫn chiên đi ăn,
Ngài tìm từng con thương tích mang về.
Ngài chữa lành cho kẻ bệnh tật được khỏi.
Ngài truyền cho người ta không còn bị quỷ nhập.
Ngài thương người tật nguyền.
Ngài bảo kẻ lành không cần thầy thuốc.
Ngài cứ đến nhà, ăn uống với người tội lỗi.
Đời Đức Kitô toát lên một hạnh phúc vui tươi.
Tôi không theo ai để đời tôi đau khổ.
***
Vậy đâu là con đường hẹp Đức Kitô nói đến?
ánh chim kia đã chọn con đường hẹp để tung cánh vào bầu trời.
Có những thèm muốn dang dở. Có những tham, sân, si khổ lụy.
Cái khổ lụy như mồi chài bắt bóng.
Cái bắt bóng mà khi bừng tỉnh mới thấy con đường hẹp đẹp làm sao. Cũng như khi tìm đau để hết khổ thì không còn đau khổ. Cũng thế, khi tìm đường hẹp để thấy đời rộng thì đường không còn hẹp nữa. Ta cần một tỉnh thức của tâm hồn là Thiên Chúa không bao giờ bảo ta theo Ngài để đau khổ.
Theo Ngài để hạnh phúc.
Nhưng hạnh phúc ở đâu?
Con chồn nghển đầu cố nhìn qua hàng rào. Mùi hương của mùa nho chín trong vườn làm nó chảy rãi. Qua cái lỗ nhỏ của chân tường, nó chúi đầu chui vào. Mùi mật của vườn nho làm nó càng tham, sân, si. Lầm lũi, ngày ngày nó đến ướm mình vào lỗ chui ở chân tường. Không chui nổi. Nó nhịn ăn cho đến một ngày gầy đủ để lách qua, chui vào vườn nho. Rồi một ngày hân hoan. Nó tưởng như thiên đàng bất tận. Mùa nho sai chín. Nó say xưa ăn uống cho thỏa mãn dục vọng. Bất chợt ngày kia có tiếng động rất lạ. Và dường như không còn cái bất tận của thiên đàng nữa. Nó tìm trở về góc tường ngày xưa. Than ôi, cái béo phì không đẩy được thân xác ra nữa. Mùa gặt đến. Ai sẽ cứu nó? Các tá điền bắt đầu theo chủ đi hái nho. Cái bừng tỉnh của nó, bây giờ làm sao thoát thân?
Có những thèm muốn dang dở. Có những tham, sân, si khổ lụy.
Phúc thay, trở về kinh nghiệm thiêng liêng ngày xưa. Chỉ còn con đường hạnh phúc là tìm cách chui qua lỗ chân tường. Từ ngày đó, nó lại nhịn ăn. Gầy ốm dần, tiêu đi chiếc bụng chềnh bềnh, một hừng đông kia, nó lại lách mình qua chân tường, biến ra ngoài. Hú hồn, nó thoát chết.
Cái khổ lụy như mồi chài bắt bóng.
Con chồn nhìn lại đời nó. Một đêm trăng vắng yên lặng, nó ngồi nhìn ánh trăng mênh mông, trong bóng đêm vằng vặc, nó nói với đời: Tất cả chỉ có thế. Nó hiểu thế nào là đường hẹp. Nó quý những con đường của riêng nó, những con đường mòn hạnh phúc.
***
Lạy Chúa, con cần một tâm hồn tỉnh thức. Con không thể biến tôn giáo của con thành tiếng kinh cầu ê a. Con không thể cứ đến ngày rằm là trói con mèo trong nghi lễ. Con cần một tâm hồn để hiểu Chúa là hạnh phúc. Con ước mong được đau như người lực sĩ chịu tập luyện chứ đau không là hình phạt. Con phải hiểu Chúa tuyệt vời trong tiến trình đi tìm hạnh phúc. Và phải hiểu rằng, để hạnh phúc, con phải biết yêu bầu trời tự do của lương tâm. Đau để lách vào vườn nho mồi chài bắt bóng của con chồn, khác với nỗi đau thoát khỏi cái lồng tre chật chội của cánh chim. Đau của con chồn tìm vào tham, sân, si khác nỗi đau sám hối tìm đường ra.
Con cần một trái tim dũng cảm để thoát khổ bằng nỗi đau.
Thì con cũng cần một tâm hồn để biết lựa chọn vì không phải cứ đau là thoát khổ. Con khổ vì không phân biệt được những nỗi đau.
Và khi con hiểu cuộc đời nhiều khi chỉ thoát khổ bằng nỗi đau thì con sẽ thấy con đường hẹp Chúa bảo con không phải là đường khổ đau nữa mà là hạnh phúc.
Chúa luôn luôn tuyệt vời vì Chúa hiểu thế nào là đau, thế nào là khổ. Chúa đã khổ, đã đau.
Còn con, con lẫn lộn đau khổ, lẫn lộn hạnh phúc.
Để bớt lẫn lộn, con xin dừng lại, xét lại những lời kinh, lối sống đạo, xét lại cách con hiểu Lời Chúa như nhà sư kia xét lại những nghi lễ của mình.
21. GIAN NAN CHO NIỀM TIN
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Kitô và Mai Ðệ Liên là một gặp gỡ gian nan. Một bên là tiên tri, một bên là gái điếm, cả hai đều bị xã hội kết án. Nếu Mai Ðệ Liên vì niềm tin mà gian nan thì Ðức Kitô cũng sẵn sàng gian nan cho niềm tin của kẻ tin Ngài.
Vì niềm tin mà gian nan
Trên đường đời, hôm nay Mai Ðệ Liên đã đi tìm một địa chỉ rất mới: Ðó là địa chỉ cứu rỗi. Tôi gọi vì niềm tin mà gian nan vì muốn gặp Ðức Kitô mà người phụ nữ này đã phải chấp nhận những cái nhìn xỉ nhục của người đời. Hôm nay, bà phải đương đầu với cả xã hội đang kết án bà. Ði về một địa chỉ mà đám đông là dòng sông ngăn cách, một địa chỉ phải leo qua những cây cầu mà đám đông là kết án. Cho niềm tin dẫn về địa chỉ ấy, bà chấp nhận gian nan ngược theo chiều gió mà đi.
Gian nan cho niềm tin
Dẫu người phụ nữ can đảm, nhưng sự can đảm này vẫn mang một giới hạn. Bà đã mang tiếng là người tội lỗi, còn gì danh dự để mà sợ mất, bà chỉ chấp nhận gian nan mà thôi. Do đó, vì niềm tin mà người đàn bà gian nan thì gian nan đó cũng không thể so sánh với gian nan mà Ðức Kitô sẵn sàng chấp nhận cho niềm tin của bà.
Sự kiện Chúa để cho bà công khai ngồi cạnh mình là thái độ can đảm khác thường. Nó khác thường đến độ người Biệt phái mời Ngài đã phải tự nói với mình: "Ông này, nếu quả thực là tiên tri, ắt đã biết người đàn bà sờ đến mình kia là ai, và thuộc hạng nào chứ: Một đứa tội lỗi" (Lc. 7:39).
Nhìn vào sự kiện người đàn bà tội lỗi ngồi cạnh Chúa người ta có thể đặt những nghi ngờ về Ðức Kitô như: Nếu không quen biết sao người phụ nữ này lại theo ông ấy đến đây? Ðã liên hệ từ bao lâu? Ông ấy có là tiên tri thật không? Ðức Kitô có thể bị hiểu lầm, bị mất danh dự. Ðối với kẻ tin Ngài là tiên tri thì giờ này có thể đặt nghi vấn về niềm tin của mình. Ðối với kẻ dửng dưng thì giờ này là lúc sáng tỏ cho lời xác quyết của Pharisêu: "Chúng ta biết rằng tên đó là một đứa tội lỗi" (Yn. 9:23). Ðối với kẻ chống đối thì giờ này là lúc vinh quang cho lời bảo chứng: "Nó mê ăn uống, giao du với phường thu thuế và quân tội lỗi" (Mt. 11: 19).
Trong phòng tiệc, tất cả thượng khách được mời đang ngả mình trịnh trọng trên thảm quý chằm chằm nhìn Ngài. Tại sao Ðức Kitô lại để cho một phụ nữ ngồi bên cạnh xõa tóc xức dầu thơm? Ngài không mắc cỡ trước biết bao cặp mắt nhìn về mình? Ngài không sợ mất danh dự vì gặp gỡ người đàn bà như thế? Phải chăng Ngài cũng ngượng ngùng lắm, phải chăng Ngài cũng sợ bị hiểu lầm lắm. Nhưng vì một người đã bước trong gió ngược gian nan mà gởi niềm tin thì Ngài cũng sẵn sàng gian nan đi ngược chiều gió đón nhận niềm tin ấy.
* * *
Lời con cầu nguyện
Ðã có một lần, dân chúng ùa đi theo, giữa đám người đó, có những thái độ theo dõi, có những cặp mắt tò mò, rồi họ ngỡ ngàng khi thấy Chúa dừng lại dưới gốc cây, nói vọng lên: "Giakêu, xuống mau, hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi" (Lc. 19:5). Hôm ấy, người ta cũng nói về Chúa: "Ông ấy vào ngụ nhà một người tội lỗi" (Lc. 19:7).
Bữa tiệc hôm nay nặng nề làm sao. Bao nhiêu cặp mắt đổ dồn nhìn về phía Chúa. Cái ngày Chúa tắt ngang qua Yêricô, rồi gặp Giakêu cũng vậy, cả đám đông đang theo, rồi bất chợt Chúa bỏ họ, chỉ nói chuyện với một tâm hồn. Hôm nay cũng thế, các khách tiệc trang trọng, thế mà Chúa bỏ hết, chỉ nói chuyện với một tâm hồn.
Ở cả hai hoàn cảnh, cho dù giữa đám đông, giữa một rừng người nhưng Chúa cứ đi tìm một người. Giữa một khung trời nhưng Chúa cứ chờ đợi một khung trời. Ở Chúa như có một cung đàn mà đám đông là lạc giọng. Khi đám đông đi tìm nguyên tắc thì cung đàn kia lại là lòng xót thương. Khi đám đông chờ đợi phán quyết thì tiếng lòng nọ lại là nhân từ. Khi đám đông là nghiêm phạt thì trái tim ấy lại là bao dung. Cứ như thế, họ lạc nhau.
Lúc Chúa nói với người phụ nữ: "Tội lỗi con đã được tha" (Lc. 7:48). Ðám đông đã nghĩ trong lòng: "Ông này là ai mà dám tha tội" (Lc. 7:49). Nhưng Chúa chẳng quan tâm gì đến họ. Chúa không trả lời họ. Chúa chỉ nói với người phụ nữ thôi (Lc. 7:50). Thái độ của Chúa cũng giống như ngày Giakêu đến gặp Chúa.
Người phụ nữ cứ đi gặp Chúa, chẳng bận tâm với đám đông. Ðám đông cũng chẳng thể làm Giakêu ngại ngùng. Còn Chúa, Chúa cũng là người không biết mắc cỡ trước những con mắt cợt đùa với lòng thương xót. Con thấy khi động đến lòng xót thương là Chúa bỏ tất cả những tập tục nghi thức.
Lạy Chúa, niềm tin của con là tiếng gọi tìm lòng thương xót. Lòng thương xót của Chúa là địa chỉ cho niềm tin con đi về. Niềm tin và lòng thương xót giao thoa với nhau. Nếu thế, trong đời sống của con, chỉ có niềm tin mà không có lòng thương xót thì niềm tin ấy lạc lõng biết lối nào đi.
22. GIÁO HỘI
... Nó còn ở đằng xa thì cha nó đã thấy nó, và ông chạnh lòng thương: chạy lại, ông bá lấy cổ nó mà hôn lấy hôn để. Người con mới nói với ông: Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch với Trời và trước mặt cha, con không còn xứng đáng gọi là con cha nữa. Nhưng cha của nó đã nói cùng đầy tớ mau mau mang áo thượng hạng mà mặc cho nó... (xem Lc 15,14-32).
* * *
"Nó còn ở đàng xa thì cha nó đã thấy nó". Phúc Âm không nói người cha đã thấy con trong trường hợp nào. Ngày ngày ông đứng ngóng trông trên đường? Hay vô tình ông thấy con về? Lúc gặp con, người cha chạnh lòng thương và sai gia nhân mau mau về nhà lấy áo thượng hạng mà mặc cho nó. Sai gia nhân về nhà lấy áo có nghĩa là lúc bấy giờ phải có mặt gia nhân ở đấy. Theo thứ tự thời gian, câu chuyện xẩy ra ngắn gọn như sau: --- ông ôm con --- ông truyền lệnh. Từ lúc ông gặp được con cho đến lúc ông sai gia nhân về nhà lấy áo chỉ kéo dài có khi không đầy một phút. Với thời gian ngắn như vậy, làm sao lại có thể có mặt gia nhân ở đó được? Ðiều ấy có thể tìm trong hai suy diễn:
Một là --- gia nhân đã có mặt ở đó trước khi ông tới.
Hai là --- ông thấy con rồi gọi gia nhân cùng chạy theo đón.
Nếu gia nhân thấy trước rồi về báo tin, thì vai trò của gia nhân ở đây là sứ giả đem tin vui cho chủ mình. Nếu gia nhân ghét đứa con phung phá này thì chẳng có lý do gì họ phải về báo tin cho chủ. Mặc kệ. Vì thế, hành động về báo tin là dấu chỉ họ mong chờ. Thái độ của gia nhân ở đây phản ảnh trung thực tâm hồn hiệp thông của những người thuộc về một gia đình. Hình ảnh này gợi lên trong tâm hồn tôi đây là lối sống thật của ơn gọi sống trong gia đình Chúa. Một thứ gia nhân trong gia đình Chúa có thể mang nhiều tên gọi khác nhau: giàu, nghèo, văn hóa, lập trường chính trị, Công Giáo, Tin Lành, Phật Giáo, vô tôn giáo... Là Kitô hữu mà không sống bác ái thì không bằng không là Kitô hữu nhưng sống hiệp thông trong tình thương.
Nếu người cha thấy trước, rồi gia nhân cùng chạy theo đón người con thì vai trò của gia nhân ở đây là làm cho niềm vui của người cha thêm trọn vẹn. Không có gia nhân, người cha không sai ai về nhà lấy áo thượng hạng, lấy nhẫn và giầy cho con mình được. Từ suy diễn này, mỗi phần tử trong gia đình Chúa đều mang ơn góp niềm vui cho Chúa Kitô. Ðem niềm vui cho chủ là lời cám ơn của gia nhân đối với chủ. Bởi đó, thái độ đón tiếp nhau không phải chỉ là đón tiếp riêng lẻ. Trong ý nghĩa như thế, bí tích giải tội của cá nhân trở thành bí tích hiệp thông với toàn thể Giáo Hội.
Không có gia nhân ở đó thì người con không có áo đẹp, không có nhẫn đeo, không có giầy đi, niềm vui của người con cũng kém trọn vẹn. Thế thì, vai trò của gia nhân cũng là đem niềm vui cho người con trở về. Trong ý nghĩa ấy, người con không những phải biết ơn cha mà cũng phải cám ơn gia nhân. Ðây cũng chính là thái độ sống thích đáng của Kitô hữu. Không phải tôi chỉ cần cám ơn Chúa mà thôi, nhưng phải ghi ơn cả người đồng loại. Từ điểm này, hiệp thông càng là yếu tính của Giáo Hội.
Dù với luận cứ nào đi nữa, người cha đã thấy con mình trước, hay gia nhân đã thấy trước thì việc đón người con về với gia đình vẫn là sự đón tiếp của cả người cha và gia nhân, của đại gia đình.
* * *
Nhìn hình ảnh các gia nhân cùng đi đón người con trở về, Giáo Hội mang ý nghĩa là chỉ những ai sống hiệp thông trong bác ái, mới xứng đáng gọi là sống trong Giáo Hội. Niềm vui ở đây không chỉ là của riêng người cha, mà của cả gia đình. Ý tưởng này được làm nổi bật ở cả dụ ngôn con chiên lạc, và người đàn bà tìm thấy đồng tiền đánh mất. Khi gặp lại chiên lạc, người chăn chiên đã gọi bạn bè hàng xóm đến chung vui. Khi tìm thấy đồng tiền đánh mất, bà ta mời cả chung quanh láng giềng đến ăn mừng, chứ không riêng bà.
Xét theo kỹ thuật viêt văn và trình bày của Luca trong Phúc Âm này, ta thấy trước khi kể dụ ngôn người con đi hoang trở về, Chúa kể dụ ngôn chiên lạc tìm thấy, tiếp liền sau đó là dụ ngôn đồng bạc đánh mất lại gặp. Ðặt ba dụ ngôn cùng tư tưởng thành một chùm sao rực rỡ, sống động. Luca muốn làm cháy sáng lên những ý nghĩa quan trọng mà Chúa muốn nhấn mạnh. Cả ba dụ ngôn đều nói đến niềm vui là niềm vui của toàn thể cộng đoàn, chứ khôngphải biệt lập cá nhân. Nếu niềm vui là của toàn thể, thì nỗi buồn mất mát cũng phải là nỗi buồn chung. Trong suy diễn đó, Giáo Hội không thể chỉ hệ tại lãnh thổ, văn phòng, tên gọi, mà nơi nào có hiệp thông và chia sẻ nơi đó có Giáo Hội.
* * *
Muốn tìm hiểu sâu hơn ý nghĩa của danh từ Giáo Hội, thiết tưởng, khi nhìn lại câu chuyện người con hoang đàng, ta phải xét đến một khía cạnh khác: gia nhân là ai?
Trong câu chuyện người con đi hoang trở về, ta thấy gia đình này là một thảm cảnh. Cả ba người: ông chủ, người con thứ, người con trưởng đều đau khổ.
- Ông chủ đau khổ vì người con thứ mang theo tiền bạc, bỏ nhà đi. Ông mất tiền, mất con.
- Người con trưởng đau khổ vì ghen tức mà mất tình thương với em, làm đau lòng cha, không chung nổi tiệc mừng.
Lối kết cấu của câu chuyện không nói rõ tương lai gia đình này ra sao. Nhìn vào lối kết hiện tại ta có thể thấy một suy diễn khác:
- Ông chủ vừa vui mừng khi người con thứ trở về thì ông lại mất người con trưởng vì anh ta không chấp nhận đường lối của ông.
- Người con thứ trở về, cảnh làm thuê độ nhật vừa chấm dứt thì lòng ghen tức của anh lại bắt đầu. Ðau khổ cũ vừa qua thì đau khổ mới lại nẩy sinh.
Ðiểm nổi bật trong câu chuyện là ta không hề thấy những gia nhân phải đau khổ. Họ chẳng những không đau khổ mà còn là sứ giả đem tin vui:
- Họ chạy về nhà lấy áo thượng hạng, nhẫn, giầy theo lời chủ.
- Họ là người đã hạ bò tơ, mở tiệc ăn khao.
- Họ là người đưa tin xum họp cho người con trưởng lúc đi làm về.
Ðây là hình ảnh đáng suy nghĩ khi đặt vấn đề ai là người ở trong Giáo Hội, ai là người sống Tin Mừng. Trong dụ ngôn này, kẻ chống đối chính là người trong gia đình. Khi người con trưởng đi làm về, được gia nhân báo tin là đang có tiệc mừng cho cậu em, "chàng nổi giận không thèm vào nhà". Nhìn vào lịch sử của Giáo Hội, có khi chống đối xẩy ra trong đoàn thể, trong giáo xứ, trong Giáo Hội nhiều hơn là do kẻ bên ngoài. "Và họ mở tiệc ăn khao", trong ngày vui như vậy thì chính người con trưởng lại là nguyên nhân đem đến những đám mây mù ảm đạm. Chính người con trong gia đình, ngày ngày ở bên cha lại không nhận ra nỗi héo hắt, u buồn của cha. Không nhận ra nỗi khổ tâm của cha đã là một ơ hờ. Ngăn cản niềm vui của cha thì không còn là thờ ơ nữa mà là xúc phạm.
Ðối với người con trở về, nó phải cám ơn ai? gia nhân hay anh nó? Ðối với người cha, ai là người đem tin vui? gia nhân hay con ruột?
* * *
Chương 13 của Phúc Âm Luca nói đến gia đình Chúa với ý nghĩa rất chua xót: "Sẽ có kẻ tự phương Ðông, phương Tây, từ phương Bắc, phương Nam đến dự tiệc với Abraham, Isaac trong Nước Thiên Chúa, còn con cái trong nhà lại bị loại ra (Lc 13,28-29). Trong tiệc vui, các gia nhân được tham dự hân hoan, còn chính người con trưởng trong gia đình lại không biết niềm vui là gì. Ở ngoài Giáo Hội không có nghĩa là không có sự cứu rỗi. Ở trong Giáo Hội cũng không đồng nghĩa là đương nhiên được cứu rỗi. Ðược tham dự Tiệc Thiên Chúa hay không là tùy thái độ sống hiệp nhất và loan báo tình thương. Hạnh phúc của gia nhân hệ tại là đáp lời gọi của chủ, là sứ nhân mang tin vui. Từ đó, đi tìm đặc tính của người là con Chúa, không thể căn cứ trên giấy rửa tội. Ðặc tính của người là con Chúa là lối sống trong xã hội, với ấn dấu được đóng là tình thương đồng loại.
Gia tài của Giáo Hội là các bí tích chứ không phải đền đài, dòng tu, tiền bạc. Nhìn lại dụ ngôn người con đi hoang trở về, gia tài của người cha đã bị hoang phí bởi chính người con. Gia tài của cha giàu có, nhưng bao năm anh ta phải ăn bám dân trong vùng, phải đi chăn heo, thèm ngốn rau heo cho đầy bụng mà chẳng có ai cho. Bởi đó, tôi ở trong Giáo Hội, chưa chắc tôi đã sống nhịp sống phong phú của Giáo Hội. Có thể tôi còn nghèo ân sủng thiêng liêng hơn những kẻ ở ngoài Giáo Hội.
Nếu định nghĩa Giáo Hội là những người rửa tội, nhận Chúa Kitô là thủ lãnh, sống trong xứ đạo, đi lễ, đọc kinh, kính phục Ðức Giáo Hoàng thì tôi đang ở trong Giáo Hội. Nếu hiểu Giáo Hội là nơi sống trong tình thương, là nơi không kỳ thị, là nơi nối kết nên một, là nơi những bông hoa biết cám ơn nhau vì sự khác biệt của mình đã làm đẹp vũ trụ, chứ không phải ghen tức vì duyên sắc, thì rất có thể tôi đang sống ngoài Giáo Hội.
* * *
Lạy Chúa, yếu tính của gia đình Chúa là hiệp thông trong tình thương. Nếu con hiểu Giáo Hội chỉ là nhà thờ, là xứ đạo, thì con có thể đấu tranh để bảo vệ nhà thờ, để có xứ đạo, con có thể xóa bỏ hiệp thông và bác ái để đạt mục đích. Nếu con hiểu Giáo Hội là sống trong tình thương thì con có thể hy sinh danh từ Công Giáo mà vẫn giữ được căn tính làm con Chúa. Con có thể hy sinh nhà thờ mà vẫn có chỗ cầu nguyện.
Xin Thánh Thần Chúa
- Ðổi mới tâm trí con hiểu biết sự phong phú của Giáo Hội.
- Ðổi mới lối sống đạo khô cằn, thụ động thành sáng tạo.
- Thanh tẩy những hẹp hòi, nhỏ nhen của một tâm hồn giữ luật hơn giữ tình thương.
- Xin cho con nhìn thấy mọi người đều là con Chúa. Nhà thờ là nơi hiệp thông của tình thương, không còn biên giới của văn hóa, chủng tộc và ngay cả tôn giáo.
23. GIỚI THIỆU
Mục đích của giới thiệu là để biết nhau. Muốn giới thiệu về một người thì phải biết về người đó. Tùy theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết về nhau nhiều hay ít. Nếu không biết rõ về một người thì có thể giới thiệu sai về người ấy. Trong cuộc sống xã giao hàng ngày, giới thiệu là điều rất thường tình. Có khi nào Phúc Âm cũng đề cập đến vấn đề giới thiệu?
Có ba lời giới thiệu tiêu biểu trong Phúc Âm:
- Chúa Cha giới thiệu Chúa Kitô (Mt 4,17).
- Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha (Yn 14,8-9).
- Thánh Yoan giới thiệu Chúa Kitô (Yn 1,19-34).
Chúa Cha giới thiệu Chúa Kitô. Bên bờ sông Jordan, khi Ðức Kitô nhận phép rửa, có tiếng nói từ trời: "Ðây là con Ta yêu dấu, kẻ làm đẹp lòng Ta mọi đàng" (Mt 4,17). Lời giới thiệu của Chúa Cha về Chúa Kitô rất ngắn gọn, đó là Chúa Kitô làm đẹp lòng Cha mọi đàng. Ðức Kitô đã làm đẹp lòng Cha như thế nào?
Toàn bộ Phúc Âm là tiếng nói trả lời cho câu hỏi này. Ðó là cuộc sống, cái chết của Chúa Kitô trên thập giá. Chúa Kitô làm đẹp lòng Cha bằng thái độ kết hợp với Cha, vâng lời, và vâng lời trọn vẹn. "Ðể cho thế gian biết Ta yêu mến Cha, Cha truyền sao, Ta làm vậy" (Yn 14,31). Mức độ tình yêu của Chúa Kitô đối với Chúa Cha được xác định bởi việc Ngài thi hành ý của Cha. Từ đó, cũng tùy mức độ tôi làm theo ý muốn của Chúa mà thẩm định tình yêu của tôi đối với Ngài.
Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha. Người Do Thái thắc mắc, muốn biết về Chúa Cha. Họ đã đến hỏi Chúa Kitô: "Cha ông ở đâu?" Ðức Kitô đáp lại: "Nếu các ngươi biết Ta, các ngươi biết Cha Ta" (Yn 8,19). Philip cũng hỏi Chúa cùng một thắc mắc: "Xin Ngài tỏ cho chúng tôi thấy Cha, thế là đủ cho chúng tôi". Ðức Kitô nói với ông: "Ðã bao lâu rồi Ta ở với các ngươi, thế mà Philip, ngươi không biết Ta ư. Ai thấy Ta là thấy Cha" (Yn 14,8-9). Trong cách giới thiệu này, Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói đến chính mình. Xác định mình là hình ảnh của Chúa Cha.
Thánh Yoan giới thiệu Chúa Kitô. Ngược lại với cách giới thiệu trên. Yoan giới thiệu Chúa Kitô bằng cách từ chối chính mình. "Ta thanh tẩy các ngươi bằng nước để hối cải, còn kẻ đến sau ta quyền thế hơn ta, và ta không đáng xách dép cho Ngài, Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh Thần và Lửa" (Mt 3,12). Nhiều người đã xin theo làm môn đệ Yoan. "Cả xứ Judea và dân thành Jerusalem trẩy đến với ông. Người ta nhờ ông thanh tẩy cho trong dòng Jordan mà xưng thú tội lỗi" (Mc 1,15). Hiện tượng cả xứ Judea đến với Yoan, nói lên tính cách nổi danh của ngài. Dưới mắt quần chúng, Ðức Kitô là một khuôn mặt lu mờ. Ở đây, Yoan đã giới thiệu Chúa Kitô bằng cách so sánh với vai trò của mình.
- Vai trò của Yoan
+ Khuôn mặt Ðức Kitô
- Thanh tẩy bằng nước
+ Thanh tẩy trong Thánh Thần
- Thanh tẩy để hối cải
+ Thanh tẩy để tha tội
- Không đáng xách dép
+ Người là Ðấng quyền thế
- Tôi phải nhỏ đi
+ Người sẽ lớn lên
- Kẻ dọn đường
+ Người sẽ đến
- Tôi không phải là Ðức Kitô
+ Này là Chiên Thiên Chúa
Trong khi toàn miền Jerusalem và Judea đang coi Yoan như thần tượng, thì chỉ vì để giới thiệu Chúa Kitô, Yoan giã từ sự nổi danh của mình, lặng lẽ rút lui. Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói cho người nghe hãy nhìn vào chính Ngài. Yoan giới thiệu Chúa Kitô bằng cách nói cho người nghe đừng nhìn vào mình, nhưng nhìn thẳng vào Chúa. Ðây là cách giới thiệu chính xác nhất khi con người muốn giới thiệu với con người về Thiên Chúa.
* * *
Con người giới thiệu Thiên Chúa cho con người.
Trong Phúc Âm ta chỉ thấy Thiên Chúa mặc khải, tức là Ngài giới thiệu Ngài cho con người. Không bao giờ thấy con người giới thiệu cho Thiên Chúa. Ðiều ấy hàm ý, Thiên Chúa đã biết rõ con người. Bởi thế, thái độ của con người khi nói