Cổ nhân có thuyết rằng: “ Ất quý đồng nguyên, can thận đồng trị” , Lý Trung Túy giải rằng: “ Hành mộc phương đông không hư không thể bổ, bổ thận tức là bổ can; hành thủy phương bắc, không thực không thể tả, tả can tức là tả thận.” Nhưng can thận đồng trị không phải hạn trong hai loại can hư và thận thực, cũng không phải câu nệ vào hai pháp “ làm mạnh nguồn của thủy, thì mộc được nhờ đó mà tươi tốt” ( Tráng thủy chi nguyên, mộc lại dĩ vinh) , “ Dẹp đi cái thế xâm phạm của Can, thì thủy được nhờ đó mà an ổn” ( phạt mộc chi can, thủy lại dĩ an), chính như trong “ Thiên kim phương” lại có phép bổ can để ích thận: “ Người có thận tạng lao suy, bổ vào can để ích thận, can mà vượng thì mạnh được thận vậy” (thận lao bệnh giả, bổ can khí dĩ ích chi, can vượng tác thịnh vu thận hỉ).
Hai tạng can thận chính là thủy mộc cùng chỗ, vì thận tàng tinh, can tàng huyết, tinh với huyết lại cùng nguồn; thận có mệnh môn tướng hỏa, can lại có quyết âm tướng hỏa kí vào. Âm tinh và tướng hỏa của can thận đều cùng nguồn. Mà can thể âm dụng dương, tính thích điều đạt; thận là tạng gồm thâu cả thủy hỏa, tính của nó chủ sự bế tàng, mặt khác hai tạng can thận lại luôn kiềm chế lẫn nhau, do đó mới viết rằng “ Can thận đồng trị”, vừa có thể cùng bổ lại cũng có thể cùng tả, lại cũng có thể bổ một tạng tả một tạng, miễn hướng chúng đến sự cân bằng( tương đối), phép trị can thận rất nhiều, nhưng nhìn chung quy nạp lại bốn loại sau:
Loại thứ nhất là can thận đồng ích( cùng bổ can thận). Ất quý đồng nguyên là phép tắc thường dùng trên lâm sàng, các phép như là tư can thận âm (bài Nhất quán tiễn), tinh huyết cùng ích ( bài tả quy ẩm hợp đương quy dưỡng huyết), hoặc là phép bổ thận dưỡng can đối với người bệnh can khí hư cũng đều thuộc loại điều trị này( can thận đồng ích). Tác giả trước đây đã từng trị một case suy giáp, lúc mới đầu bệnh nhân là “ cường giáp”, nhưng sau khi điều trị xạ trị thì chuyển thành “ suy giáp”, biện chứng rằng lúc đầu là dương khí cang vượng, can tạng vốn hữu dư, sau khi xạ trị thì nhiệt cực hóa hàn, từ thực thành hư, khí của can thận đều suy yếu, liền chọn phép can thận đồng ích để điều trị. Dùng các thuốc: Hoàng kì, Thố ty, Nhục thung dung, Tỏa dương, Ba kích thiên, Tiên linh tỳ, Câu kỉ tử, Ngũ vị tử, Hà thủ ô, Đương quy, Tây tiểu hổi, Tang kí sinh, Lộc giác phiến, lấy những thuốc này để ôn bổ thận dương, phấn chấn can dương, đồng thời thêm các thuốc có tính ôn nhuận trợ âm và tân sơ thăng tán, sau hai tháng điều trị, các triệu chứng suy giáp đều biến mất đồng thời bệnh nhân cũng khỏe mạnh trở lại.
Loại thứ hai là can thận đồng tả ( cùng tả can thận). Can thận đều có tướng hỏa kí vào, tướng hỏa lúc vọng động lên thì chính là quân giặc đối với nguyên khí, tướng hỏa cháy bốc lên trên thì gây các triệu chứng mắt đỏ miệng khô; tướng hỏa cháy lan xuống thì sinh các chứng như mộng tinh, sưng đau bộ phận sinh dục. Có một bệnh nhân mắc hội chứng Behcet( bệnh tự miễn, còn có tên là hội chứng da niêm mông mắt, hội chứng Adamantiades), lúc phát bệnh thấy các triệu chứng như mặt đỏ mắt đỏ, nhìn như mắt hạc, miệng lưỡi lở đứt, mùi hôi khó thể ngửi, da vùng dương vật và bìu dái lở loét, tiểu tiện vàng đỏ, đại tiện khô táo, rêu vàng mạch huyền. Sau nửa điều trị bằng thuốc thang với các vị Hoàng liên, Hoàng bá, Tri mẫu, Hoàng Cầm, Sài hồ, Sinh địa, Mộc thông, Trạch tả, Xích thược, Bạch thược, thì các triệu chứng mắt đỏ, lưỡi nứt rách, lở loét vùng sinh dục đều từ từ biến mất, về sau dùng thêm thuốc tư thận bèn thu công.
Loại thứ ba là bổ tả đồng trị( bổ tả cùng dùng). Can là tạng cương( cương trong cương ngạnh), thận là tẫn tạng( tẫn là chỉ giống cái); can chủ sơ tiết, thận chủ bế tàng, trên lâm sàng thì can dương thường dễ cang vượng lên, thận thủy lại dễ bị suy hư, cho nên trong vấn đề “can thận đồng trị” thì cũng thường dùng các phép như tư âm giáng hỏa, tư thủy hàm mộc, tư âm tiềm dương, phạt can hộ thận. Tương ứng với các kinh nghiệm điều trị lâm sàng quen thuộc như dùng bài thuốc Đại bổ âm hoàn có tác dụng tư âm giáng hỏa để trị chứng sốt âm; dùng bài thuốc Nhị tiên ẩm có tác dụng tư thủy hàm mộc để trị bệnh cao huyết áp, hội chứng tiền mãn kinh; dùng bài thuốc Kỉ cúc địa hoàng hoàn có tác dụng tư âm tiềm dương để trị chứng Huyễn vựng( hoa mắt chóng mặt).
Tác giả đã từng dùng phép Phạt can hộ thận để trị một bệnh nhân nam vô sinh do cường tính dục làm tinh tiết quá mức và tinh dịch ít, bệnh nhân này lúc thường ngày tính tình nóng nảy dễ giận, sau khi kết hôn mà chưa có con nên trong lòng rất mong muốn vợ có thai dẫn đến phòng sự tần suất quá nhiều, tăng cường số lần quan hệ, nhưng tinh dịch lại ít, tinh hoàn phát chướng, kèm theo lưng ê mỏi, lưỡi vàng ít, chất lưỡi hơi đỏ, mạch đi huyền tế, đây là do can hỏa thiên vượng mà thận tinh suy hư. Điều trị dùng các thuốc như Long đởm thảo, Chi tử sao, Sài hồ, Chỉ xác, Thạch xương bồ, Chích viễn chí, Thố ty tử, Phúc bồn tử, Câu kỉ tử, Khiếm thực, Cấp tính tử, Vương bất lưu hành tử, điều trị hết trăm ngày, can hỏa đã được bình, nửa năm sau vợ bệnh nhân đó liền mang thai.
Loại thứ tư là sơ điều can thận. Can chủ sơ tiết, điều đạt, thận chủ thủy, tàng tinh, nếu mà muốn tiết tinh, tả thận thì nên trọng vào sơ điều( chớ nên ham tả thẳng), nếu như can uất mất sơ tiết, thận mất khai hạp thì tạo thành bệnh tật. Cho nên khi dùng phép sơ điều, chủ yếu là sơ tiết can khí, phụ thêm điều sướng thận khí, phép này thường dùng cho bệnh phụ nữ, bởi vì phụ nữ lấy can làm tiên thiên, thiên quý lại lấy thận làm nguồn gốc, cho nên gặp chứng thống kinh, kinh bế thì thường dùng phép này, vô sinh mà có bệnh cơ do uất trệ ủng tắc thì cũng dùng phép này. Bệnh nhân nữ họ Diệp, kết hôn nhiều năm mà vẫn chưa có con, khám sản khoa được chẩn đoán dính ống dẫn trứng, , hỏi bệnh thì biết kinh nguyệt thường đều, chỉ là sắc kinh ám tối, đau ngực vú trước kinh kỳ, hành kinh bụng đau, kèm theo miệng khô mà đắng, chất lưỡi bệu mà rêu trắng dày, đây là do can kinh khí uất, xung nhâm thất điều, cho dùng bài Tiêu dao tán gia vị để điều trị, lấy Tiêu dao sơ can để tiêu trừ nguyên nhân bệnh, gia thêm Câu kỉ, Thố ty để tư thận nhằm ích xung nhâm, lại thêm Mộc thông, Ty qua lạc để thông kinh mạch, phụ thêm Hoắc hương, Thần khúc để hóa thấp trọc, sau khi dùng thuốc bệnh nhân hành kinh được thông suốt, sang năm sau liền vui mừng sinh được một bé gái.
Tóm lại, có rất nhiều ý nghĩa tiềm ẩn trong thuyết ” Ất quý đồng nguyên”. Can thận đồng trị cũng chẳng bị bó trong nghĩa hẹp của lí luận sinh khắc ngũ hành như “ Hư thì bổ mẹ, thực thì tả con” (hư tắc bổ kì mẫu, thực tắc tả kì tử). Nghiên cứu sâu vào cơ chế sinh lí bệnh lí của can thận, thì sẽ vận dụng linh hoạt được “ Ất quý đồng nguyên, can thận đồng trị”.
- Phan Văn Khuê.
- Biên dịch: SV năm 6 Huệ Tiên