Sự vận động của khí trong cơ thể được gọi là khí cơ. Khí có bốn hình thái vận động cơ bản đó là thăng, giáng, xuất, nhập. Trong cơ thể, khí vận động theo chiều lên xuống gọi là thăng giáng, còn nếu khí giao hoán giữa phía trong và phía ngoài thì gọi là xuất nhập. Các tạng, phủ, kinh lạc và các cơ quan tổ chức đều là nơi khí thăng giáng xuất nhập, cho nên <Tố Vấn- Lục vi chỉ đại luận> viết rằng: “để thăng giáng xuất nhập thì phải có cơ quan tổ chức” (Thị dĩ thăng giáng xuất nhập, vô khí(khí trong” khí quan” không phải “khí huyết”) bất hữu ). Vận động thăng giáng xuất nhập của khí là cơ bản của hoạt động sinh mệnh cơ thể , loại vận động này một khi dừng lại, cũng có nghĩa là hoạt động sinh mệnh kết thúc. Lục vi chỉ đại luận cũng viết: “cho nên nếu không có xuất nhập thì sinh mệnh chẳng có sinh, trưởng, tráng, lão, dĩ; không có thăng giáng thì vạn vật chẳng có sinh, trưởng, hóa, thu, tàng”
Vận động thăng giáng xuất nhập của khí trong cơ thể chỉ có thể biểu hiện thông qua các hoạt động sinh lí của các cơ quan tổ chức như tạng phủ, kinh mạch. Ví dụ như trong chức năng sinh lý phế chủ khí, ty hô hấp, hô khí( thở ra) là xuất, hấp khí( hít vào) là nhập; tuyên phát là thăng, túc giáng là giáng. Lại như trong chức năng tiêu hóa của chỉnh thể tỳ vị, đại tiểu trường, sự sinh hóa, đưa lên và phân bố tinh vi thủy cốc được gọi là “ tỳ chủ thăng thanh”; quá trình dẫn đồ ăn qua ống tiêu hóa và sự bài tiết phân, được gọi chung là “Vị chủ giáng trọc”. Quá trình chuyển hóa nước trong cơ thể lại được khái quát qua các công năng: sự tuyên phát và túc giáng của phế, sự thăng thanh và vận hóa của tỳ, sự chưng đằng khí hóa của thận. Tóm lại trong mỗi một hoạt động sinh lý của cơ quan tổ chức tạng phủ, kinh lạc, đều thể hiện sự vận động thăng giáng xuất nhập của khí.
Hoạt động sinh mệnh của cơ thể chủ yếu lấy ngũ tạng làm trung tâm, do đó vận động của khí cơ (thăng giáng xuất nhập) cũng lấy ngũ tạng làm trung tâm. Tức là nói rằng ngũ tạng là 5 cái cơ quan quan trọng của sự vận động khí cơ trong cơ thể. Đem năm cái cơ quan này nối liền thông suốt lại, về cơ bản sẽ thể hiện được sự chỉnh thể của vận động thăng giáng xuất nhập trong các cơ quan tổ chức. Thăng và giáng, xuất và nhập của khí là vận động mẫu thuẫn đối lập mà thống nhất, cũng có thể nói nó là một loại khái niệm tương đối. Như lấy ngũ tạng mà nói thì chẳng có tạng nào có sự cân bằng về thăng giáng xuất nhập, mà có sự thiên nặng về một hướng vận động nào đó. Ví dụ như can khí, tỳ khí, thận khí thì lấy thăng làm chủ, phế khí, tâm khí thì lấy giáng làm chủ.
Vì đâu lại nói khí của can tỳ thận đều chủ thăng, còn khí của tâm phế đều chủ giáng? Đó đều là do vị trí của chúng quyết định, đồng thời cũng có quan hệ nhất định với con đường tuần hành kinh lạc sở thuộc của chúng. Ngũ tạng đều nằm ở các khoang bên trong cơ thể, lấy cơ hoành để chia thành hai phần chính là khoang ngực và khoang bụng. Hai tạng tâm phế nằm trong khoang ngực ở phía trên cơ hoành, nên gọi là dương tạng; ba tạng can tỳ thận nằm trong khoang bụng ở dưới cơ hoành, nên gọi là âm tạng (cách gọi theo âm dương này chỉ tương đối). Căn cứ theo đặc tính sinh lý của ngũ tạng và thuộc tính âm dương của kinh mạch sở thuộc của chúng,trong mỗi loại tạng âm dương lại phân chia âm dương. Chính như trong <Tố Vấn- Kim quỹ chân ngôn luận> có nói: “Bối vi dương, dương trung chi dương tâm dã; bối vi dương, dương trung chi âm phế dã. Phúc vi âm, âm trung chi âm thận dã; Phúc chi âm, âm trung chi dương can dã; Phúc vi âm, âm trung chi chí âm tỳ dã.” Trong < Tố vấn- Lục tiết tạng tượng luận> gọi tâm là “thái dương trong dương”, phế là “thái âm trong dương”, thận là "thiếu âm trong âm” , can là “thiếu dương trong âm”, tỳ là “chí âm trong âm”.
Khí cơ thăng giáng của ngũ tạng, thật giống như sự thăng giáng của khí trong trời đất, tức là thứ nằm trên cao vị trí ở phía trên thì khí của nó nên giáng xuống, nếu nằm ở thấp vị trí phía dưới thì khí của nó nên thăng lên, cho nên gọi “ cái giáng khí xuống là thiên, cái thăng lên là địa” (giáng giả vị thiên, thăng giả vị địa). Hai tạng tâm phế là dương tạng nằm trên cơ hoành, vị trí của chúng ở nơi cao, cho nên khí của hai tạng này lấy hạ giáng làm thuận, tức là phế khí nên túc giáng, tâm hỏa nên hạ hành. Kinh mạch của tâm phế đi từ ngực ra tay, sự tuần hành khí huyết của hai tạng cũng thể hiện sự giáng xuống. Ba tạng can tỳ thận đều nằm ở dưới cơ hoành, tức là âm tạng, vị trí của chúng nằm ở thấp, cho nên khí của ba tạng đều lấy thượng thăng làm thuận. Kinh mạch của ba tạng này đều đi từ chân lên bụng, khí huyết của chúng tuần hành cũng theo hướng thăng lên.
Trong cơ thể, tâm hỏa hạ giáng, thận thủy thượng giao, hình thành nên trạng thái âm dương hiệp điều có tên là “ Thủy hỏa kí tế” trong cơ thể; phế khí chủ túc giáng, can khí chủ thăng phát, hai tạng có tác dụng điều tiết quan trọng đối với khí cơ toàn thân. Phế nằm ở vị trí cao, cổ nhân gọi là Hoa cái( cái lọng che của vua), khí của nó túc giáng, mới có thể đem thanh khí (khí trong lành) đưa đến các cơ quan tổ chức tạng phủ toàn thân. Can là tạng dương trong âm, “thể âm nhi dụng dương”, khí của nó lấy thăng phát làm chủ, khí huyết của ngũ tạng lục phủ đều nhờ vào khí của can đởm thăng lên( can đởm đều thuộc mộc, khí của chúng tương đồng), cho nên Lục tiết tạng tượng luận viết “mười một tạng đều được quyết ở đởm” (thập nhất tạng giai thủ quyết vu đởm). Tỳ và vị đều nằm ở trung tiêu, hai tạng phủ này có màng ngoài kề cận nhau, ngũ hành đều thuộc thổ. Nhưng tỳ là tạng thuộc âm, vị là phủ thuộc dương, cho nên tỳ khí chủ thăng( thanh) mà vị khí chủ giáng (trọc), phân ra thành công năng thu nạp nấu chín thủy cốc (vị) và công năng vận hóa thủy cốc (tỳ), công năng tỳ vị phối hợp với nhau trở thành nguồn sinh hóa khí huyết, là gốc của hậu thiên (hậu thiên chi bản).
Trong ngũ tạng, chỉ có tỳ nằm ở trung ương, nhưng tỳ lại tương hợp với vị, một thăng một giáng, cấu thành chỗ bản lề xoay trở trong sự thăng giáng khí cơ của ngũ tạng. Như vậy, vận động của khí trong ngũ tạng, thì lấy tỳ (vị) làm chỗ bản lề xoay trở( khu nữu), tâm hỏa tiềm xuống (hạ tiềm), thận thủy bốc lên (thượng đằng), phế khí đi xuống mát lành( túc giáng), can khí thăng lên tỏa ra (thăng phát), hình thành nên vận động khí cơ lấy ngũ tạng làm trung tâm trong cơ thể, chính nhờ đó mà hoạt động sinh mệnh của cơ thể được tiến hành một cách bình thường. Nhưng sự vận động hoặc thăng hoặc giáng của khí mỗi một tạng không phải là tuyệt đối,mà là sự vận động liên tục không ngừng “thăng đủ thì giáng, giáng đủ thì thăng” (thăng dĩ nhi giáng, giáng dĩ nhi thăng), hình thành nên vận động mẫu thuẫn đối lập mà thống nhất. Cho nên ”Không thể không xuất nhập, không thể không thăng giáng” (Vô bất xuất nhập, vô bất thăng giáng) , “phế đi sự xuất nhập thì sinh cơ về chỗ diệt, ngừng đi sự thăng giáng thì khí liền vào chỗ đơn độc nguy vong” (xuất nhập phế tắc sinh cơ hóa diệt, thăng giáng tức tắc khí lập cô nguy).
-Nguyễn Đức Huệ Tiên-