1. Tên gọi.
Tên khoa học Zinggiber offcinale R. thuộc họ Gừng : Zinggiberaceae
Tên khác : Sinh khương (gừng tươi)
2. Đặc điểm cây gừng.
Cây gừng là loại cây thân cỏ, sống lâu năm. Thân gừng cao khoảng 50 – 100cm, có nơi cây gừng cao đến 150cm.
Thân gừng phát triển theo hình ống, bao gồm nhiều bẹ lá ôm sát vào nhau. Lá gừng thuộc loại lá đơn, mọc so le, lá hình mũi mác thuôn dài về phía ngọn. Mặt lá nhẵn bóng màu xanh đậm, gân màu xanh nhạt. Lá gừng có mùi thơm.
Củ gừng phát triển ngầm dưới đốt củ có nhiều đốt, mỗi đốt có một vài mầm non, nếu gặp điều kiện thuận lợi những mầm đó sẽ phát triển thành chồi, thành thân mới. Củ gừng có vỏ màu vàng nhạt, thân củ gừng có rất nhiều sợi dọc, gừng già thì củ sẽ thành chất xơ.
Hoa gừng không mọc ra từ thân mà mọc ra từ củ. Cuống hoa dài khoảng 20cm, các bông hoa mọc sát nhau. Bông hoa dài khoảng 5cm, rộng 2 – 3cm, đài hoa dài khoảng 1 cm. Hoa có 3 cánh màu vàng nhạt, mép cánh hoa màu tím
3. Sử dụng:
Thông thường, gừng được sử dụng như 1 loại gia vị nhà bếp tạo vị cay đặc trưng và thơm.
Có thể dùng nước sôi để làm trả thảo dược, có thể thêm mật ong và chanh để sử dụng. Và còn có thể sử dụng với các dạng như kẹo gừng hoặc rượu gừng.
Tại Ấn Độ , Gừng là một phần trong những nguyên liệu quan trọng trong ẩm thực và cũng có vai trò quan trọng trong y học cổ truyền Ayurvedic (theo nccih.nih.gov). Tại đây gừng tươi hoặc gừng khô còn được chế biến để pha trà và cà phê.
Tại Nhật Bản, gừng được ngâm đểm làm beni shoga và gari hoặc băm nhỏ để dùng trên đậu hũ hoặc mì. Gừng còn được là thành một dạng kẹo gọi là “Shoga no sato zuke”
Tại Inđônêxia, một loại nước giải khát được gọi là “wedang jahe” được làm từ gừng và đường thốt nốt . Người Inđônêxia cũng sử dụng gốc rễ gừng, được gọi là “jahe” , như một thành phần phổ biến trong các công thức nấu ăn địa phương.
Trong ẩm thực phương Tây, gừng thường được dùng chủ yếu trong các loại thực phẩm ngọt như gừng, bánh quy, ginger snaps, parkin, bánh quy gừng, và speculaas. Một loại rượu mùi gừng có tên là Canton được sản xuất tại Jarnac , Pháp. Ginger wine là một loại rượu gừng được sản xuất tại Vương quốc Anh, truyền thống bán trong một chai thủy tinh màu xanh lá cây. Gừng cũng được sử dụng như một gia vị thêm vào cà phê nóng và trà.
Tại Việt Nam, Gừng là cây gia vị phổ biền, gừng được trồng khắp nơi và được sử dụng rộng rãi. Gừng có vị cay, thơm, chống được khí lạnh. Người ta dùng gừng để ăn cùng với các món ăn có vị lạnh như ốc, trứng vịt lộn… Gừng dùng trong việc nấu cháo chè để tăng vị thơm ngon, gừng dùng để ướp thịt bò để làm giảm mùi mỡ bò, tăng vị thơm. Gừng còn được dùng làm mứt gừng từ rất lâu đời.
Cách làm món mứt gừng ngon đúng điệu :
Chuẩn bị : Gừng tươi, đường, chanh và một ít muối
Gừng được sử dụng làm mứt gừng thì không được già quá, củ gừng sẽ bị xơ và cũng không được non quá vì gừng sẽ không có vị cay. Lựa chọn những củ gừng không bị đen, mềm úng.
Đầu tiên ta rửa sạch đất bám trên củ gừng và cạo đi lớp vỏ bên ngoài.
Tiếp theo là bào gừng thành những lát mỏng rồi rửa cho thật sạch và ngâm với nước lạnh có vắt chanh tầm 20-30 phút để cho gừng được đẹp.
Sau đó luộc qua gừng 2-3 lần và vắt chanh vào nước luộc ở lần luộc cuối cùng cho gừng được trắng, ngon hơn. Khi luộc nhớ cho thêm một ít muối
Sau khi luộc thì ta vớt gừng ra cho khô ráo, sau đó tẩm với đường theo tỉ lệ gừng : đường là 2 :1 rồi sên cỡ khoảng 1 tiếng đồng hồ cho đến khi miếng gừng đã săn lại và đường bọc vào các miếng gừng thì ra đổ ra mặt thoáng cho khô.
Thế là chúng ta đã có được món mứt gừng thơm ngon, các bạn cho vào túi và buộc kín ăn dần.
4. Về ứng dụng chữa bệnh:
a. Thành phần hóa học:
Về dinh dưỡng: Gừng nguyên liệu gồm 79% nước, 18% carbohydrate , 2% protein , và 1% chất béo (bảng). Trong 100 gam (một lượng tiêu chuẩn được sử dụng để so sánh với các loại thực phẩm khác), gừng tươi cung cấp 80 calo và chứa một lượng vừa phải vitamin B6 (12% chất lượng hàng ngày , DV) và khoáng chất trong chế độ ăn uống , magiê (12% DV) và mangan (11% DV), nhưng nếu không thì hàm lượng chất dinh dưỡng thấp (bảng).
Gừng có 2-3% là tinh dầu (α camphen và phelandren). Ngoài ra còn có chất nhựa dầu (5%), chất béo (3,7%), tinh bột và các chất cay hư zingeron, zingerola, shogaola.
b. Gừng tươi (Sinh khương)
Tính vị - quy kinh: Vị cay, tính hơi ấm. Vào ba kinh phế, tỳ và vị.
Tác dụng: Tán hàn, phát biểu, long đờm, tiêu hóa. Trên lâm sàng thường được dùng để điều trị ngoại cảm phong hàn biểu chứng, bụng đầy trướng, nôn mửa, ho.
Chủ trị - liều dùng: Trừ phong tà, rét lạnh, nhức đầu, ngạt mũi, trị ho, trị môn mửa, kích thích tiêu hóa. Ngày dùng 2-6g gừng tươi trong thuốc thang.
Cách bào chế:
Rửa sạch đất, thái lát, dùng sống vào thuốc thang.
Giã nát, ép lấy nước, sấy nhẹ cho khô, tán bột. Bột này dùng trong hoàn tán (dùng chung) hoặc dùng riêng với các thuốc khác.
Bảo quản: Gừng tươi đã thái miếng thì nên dùng ngay. Củ thì nên vùi vào cát, để nơi mát ẩm, dùng trước khi mọc mầm.
c. Gừng lùi (ổi khương)
Công dụng – liều dùng: Thuốc ôn trung tán hàn, dùng với đại táo thì hay hành tân dịch của tỳ vị mà điều hòa dinh vệ. Liều dùng hàng ngày như gừng tươi.
Cách bào chế: Lấy gừng tươi rửa sạch đất, dùng giấy bản bọc lại 1-2 lần, dấp nước vào cho giấy ướt, lùi vào tro nóng già hết cháy, vỏ vàng sẫm là được.
Dùng đến đâu làm đến đấy, thái lát mỏng hoặc giã nước.
d. Gừng khô (can khương)
Tính vị - quy kinh: vị cay, tính ôn. Vào kinh tâm, phế, tỳ và vị, thận và đại trường.
Tác dụng: Ấm trung tiêu, trừ hàn, táo thấp. Thuốc khu phong tiêu hóa.
Chủ trị - liều dùng : Trị hàn lạnh, đau bụng trướng dầy, chỉ huyết. Ngày dùng 4-20g.
Cách bào chế:
Lấy gừng sống già, ngâm vào nước 3 ngày, cạo bỏ vỏ, để vào dòng nước chảy 6 ngày, lại cạo vỏ rồi phơi khô (Theo Đào Hoàng Cảnh)
Khi cho vào thuốc thì nên sao xém (Theo Lý Thời Trân)
Theo kinh nghiệm Việt Nam: Lấy gừng sống già, rửa sạch, phơi cho ráo, đem đồ rồi phơi cho khô. Khi dùng thì rửa sạch, ủ mềm, đồ qua rồi bào hoặc thái mỏng (không cần bỏ vỏ), phơi khô.
* Các dạng khác:
Gừng khô nhúng nước (Bào khương): Vị cay, đắng, đại nhiệt. Trị trầm hàn cố lạnh trong tạng phủ, làm ấm nguyên dương can, tỳ, thận, sinh huyết, chỉ huyết, giảm đau. Lấy gừng khô thái miếng dày, sao sém vàng, lấy ra lúc còn nóng, vẩy nước vào và đậy kín ngay, để nguội lấy ra dùng.
Gừng khô sao (Tiên khương): Trị đau bụng, cầm máu. Lấy củ gừng khô, sao đen bên ngoài, ruột còn vàng là được. Bẻ ra dùng.
Gừng khô sao cháy: Chững đau bụng, cầm máu. Lấy củ gừng khô sao cháy đen tồn tính, trong còn tí vàng, ngửi còn mùi gừng thì úp vung lại, khi nào không còn khói là được. Có thể để vào chảo nhưng tốt hơn hết là lấy nồi đất, bỏ gừng khô vào, lấy đất sét trét kín chỉ để hở một hai lỗ nhỏ, đốt cả nồi đến khi nào không thấy có khỏi ra là được.
e. Kinh nghiệm dùng gừng theo dân gian:
Chữa cảm lạnh: Lấy thân củ gừng dại 30g, rửa sạch, giã nhỏ, thêm ít rượu chắt lấy nước uống, ngày 3 lần, dùng liền 2 ngày.
Kích thích tiêu hóa, ăn ngon miệng: Lấy thân rễ gừng dại xắt mỏng với lượng từ 50g tươi cho vào 650ml rượu trắng, ngâm trong 15 – 20 ngày là dùng được. Gạn lấy nước rượu uống mỗi ngày 1 lần (20ml) uống trước bữa ăn. Những người mắc bệnh gan mạn tính không dùng.
Chữa chứng tê chân do lạnh: Dùng gừng dại giã nhỏ cho chút rượu rồi chưng nóng lấy bã xoa xát khắp người.
Chữa hôi nách: Gừng dại 20g, long não 4g. Gừng dại phơi khô, tán thành bột mịn cùng với long não. Trộn đều, xoa bột vào nách ngày hai lần sau khi đã rửa sạch sẽ.
Hỗ trợ điều trị viêm gan mạn tính: Gừng dại 100g tươi, để nguyên vỏ rửa sạch, thái mỏng, cho vào ấm đất, đổ 500ml nước sắc nhỏ lửa còn 150ml cho ra, đổ thêm 400ml nước đun nhỏ lửa còn 150ml, trộn 2 thuốc với nhau, chia làm 3 lần uống trong ngày. 3 tuần một liệu trình. Chú ý, người bệnh cần phải ăn nhạt, hạn chế ăn các loại hoa quả chín giàu kali như chuối vì sẽ gây đầy bụng, kiêng rượu, bia, không ăn mỡ động vật, ăn ít dầu thực vật.
Hôi chân : Cho thêm chút muối và giấm ăn vào nước gừng nóng, sau đó ngâm chân khoảng 15 phút, lau khô, để chân thoáng mát, mùi hôi sẽ tự khắc biến mất.
Trị lở miệng : Dùng nước gừng tươi uống và súc miệng 2-3 lần mỗi ngày, những vết lở loét sẽ biến mất nhanh chóng.
Bong gân, bầm, sưng đau do ngã: Lấy gừng tươi giã nát với ít muối bó vào chỗ đau, để qua đêm sẽ khỏi. Dùng gừng tươi giã nát ngâm với rượu để xoa bóp có thể làm giảm cơn đau nhức các loại.
B1:Sơ chế gừng: Đem gừng rửa sạch, dùng bàn chải đánh răng chà sạch những kẽ bẩn
B2: Ngâm qua với nước muối để loại bỏ vi khuẩn còn tích tụ trong gừng
B3: Cạo sạch vỏ rồi ngâm nước 1 lần nữa
B4: Chế biến : Có 3 cách là giã nát, cắt lát hoặc ngâm nguyên củ
B5: Cho gừng và rượu vào bình thủy tinh theo tỉ lệ 1kg gừng 2 lít rượu trắng.
(Ngâm nguyên củ thì thời gian chờ sẽ lâu hơn hai cách còn lại)
Xoa bóp khi bị bong gân, bầm, sưng đau, đau khớp.
Sử dụng ngoài da giúp làm ấm cơ thể.
Rượu gừng còn có tác dụng thoa lên vùng bụng kết hợp massage giúp thon gọn vòng 2 cho các bà mẹ sau sinh. Nhưng lưu ý là không nên thoa vào bầu ngực vì khi bé bú sẽ bị cay và đắng.
Tài liệu tham khảo
Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Bào chế đông dược – Y Hà Nội
nccih.nih.gov
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam
Kew Science, Plants of the World Online - 2017