TCHAIKOVSKY VÀ BRAHMS, ĐỒNG CẢM VÀ KHÁC BIỆT
Peter Feddersen
xúc của Tchaikovsky về Wagner hay Beethoven thường mang tính nước đôi, vừa căm ghét vừa đam mê, và trong thời kỳ cuối là vừa thấu hiểu vừa kính sợ. Trong khi đó, quan điểm của Tchaikovsky về âm nhạc Brahms, với những chứng cứ chúng tôi có, dường như không rõ ràng.
Trong một bài bình luận về Brahms viết năm 1872, Tchaikovsky khẳng định Brahms là "một nhà soạn nhạc tầm thường", không phải là vị cứu tinh như hy vọng. Và trong một bài phỏng vấn với báo "Đời sống Saint Petersburg" năm 1892, Tchaikovsky đánh giá Brahms khó có thể đóng góp được nhiều cho lâu đài âm nhạc Đức. Có vẻ như nhận định của Tchaikovsky về Brahms vẫn không có gì thay đổi sau hơn 20 năm. Tuy nhiên sự thật không phải như vậy.
Làm thế nào để hiểu được những đánh giá của Tchaikovsky về Brahms khi trong nhật ký ngày 9 (lịch cũ 21)-10-1886 (không dành cho xuất bản), Tchaikovsky đã đưa ra một từ gay gắt nhất về Brahms, gọi ông là "một tên vô lại". Nhưng hai năm sau đó, trong bức thư đề ngày 2 (lịch cũ 14)-10-1888 gửi Đại công tước Konstantin Konstantinovic, ông gọi những nỗ lực trong âm nhạc của Brahms là "sự tinh khiết cao quý"? Việc giọng điệu của Tchaikovsky về Brahms thay đổi đột ngột, liệu có phải là do cuộc gặp mặt đầu tiên giữa hai nhà soạn nhạc vào ngày 1-1-1888.
Tchaikovsky miêu tả cuộc gặp mặt này trong chương 5 cuốn tiểu sử tự thuật về chuyến biểu diễn ở nước ngoài năm 1888. Nhưng chúng ta có thể tham khảo một nguồn khác từ lời kể của Anna Brodsky, vợ nghệ sỹ violon nổi tiếng, cũng có mặt ở ngôi nhà nổi tiếng ở Leipzig, nơi diễn ra cuộc gặp gỡ đáng ghi nhớ này. Thoạt đầu Tchaikovsky có vẻ miễn cưỡng đi vào căn phòng có Brahms đang tập luyện bản trio piano số 3 cùng Adolph Brodsky. Nhưng ngay sau đó ông đã bước ra ngoài và vị khách lẫy lừng từ nước Nga phải qua một hồi được thuyết phục mới chịu theo Adolph Brodsky vào phòng. Anna Brodsky mô tả những gì diễn ra sau đó:
"Tchaikovsky và Brahms chưa từng gặp mặt nhau. Thật khó mà tìm được hai người nào khác nhau đến vậy. Tchaikovsky, một người quý phái bẩm sinh, có phong thái hoàn toàn tao nhã, thanh lịch và cử chỉ rất lịch sự. Còn Brahms với dáng vẻ thô ráp hơn là bệ vệ và cái đầu xù xì, là một hình ảnh của sức mạnh và năng lượng; ông cũng từng thú nhận mình là kẻ thù của những thứ vốn gọi là "phong cách đẹp". Cách biểu lộ của Brahms có vẻ hơi châm biếm. Khi Adolph Brodsky giới thiệu họ, Tchaikovsky nói với giọng mềm mại du dương: "Ồ tôi không làm phiền ông chứ?" "Không hề chút nào", Brahms đáp lễ với giọng nói khàn khàn kỳ dị, "Nhưng tại sao ông lại nghe tác phẩm này thế? Nó không hề thú vị chút nào đâu."
aikovsky ngồi xuống ghế và chăm chú lắng nghe. Theo nhận định riêng của Brahms, như ông kể lại với chúng tôi sau đó, Tchaikovsky có ấn tượng tốt về tác phẩm nhưng nhà soạn nhạc Nga có vẻ không thấy thoả mãn với nó. Khi bản trio kết thúc, tôi nhận thấy rằng Tchaikovsky dường như không thoải mái. Sẽ tự nhiên hơn nếu như Tchaikovsky có thể nói một vài câu. Tuy nhiên ông ấy không thể thốt ra những lời khen vô thưởng vô phạt như người khác. Tình hình có vẻ như hết sức căng thẳng nhưng vào khoảnh khắc đó, cánh cửa đã bất ngờ mở tung và bước vào là những người bạn thân thiết của chúng tôi: Grieg và vợ. Như cách họ vẫn thường làm, nhà soạn nhạc Na Uy đã đem mặt trời lại với chúng tôi."
Chắc chắn nguyên nhân chính khiến Tchaikovsky ác cảm với Brahms trước khi gặp mặt là do ảnh hưởng bởi các nhà phê bình âm nhạc Đức, và trên tất cả là từ nhà phê bình Eduard Hanslick (1825–1904), người tuyên bố rằng Brahms đã trở thành người bảo vệ cho di sản của trường phái Cổ điển do Beethoven truyền lại để chống lại xu hướng "suy đồi" của Liszt và Wagner. Hoàn toàn không thích phong cách rất đỗi giản dị của Brahms, Tchaikovsky đã tức giận bởi cách những nhà phê bình lờ đi hoặc chê bai những tác phẩm của ông trong những lần hiếm hoi được trình diễn ở Đức và thay vào đó là ca ngợi sự mẫu mực trong cách viết giao hưởng (vào năm 1876, Brahms đã hoàn thành bản giao hưởng đầu tiên của mình, hay còn gọi là bản giao hưởng số 10 của Beethoven như cách gọi ở Đức). Như lời thú nhận của Tchaikovsky trong bức thư gửi ngày 19 (lịch cũ 31)-3-1878 tới Nadezhda von Meck, ông thanh minh vì sao ông không muốn là người đại diện cho đất nước mình tại Cuộc triển lãm quốc tế tại Paris: âm nhạc Nga vẫn còn ít được biết đến ở phương Tây, điều đó có nghĩa là nếu gặp gỡ bất kỳ "người châu Âu nổi tiếng nào", ông cũng cảm thấy e ngại rằng mình sẽ phải nhún mình. Việc đó quả là khó khăn vì tính kiêu hãnh của ông.
Tchaikovsky tất nhiên không phải là kẻ đạo đức giả, bởi ngay cả trước nghệ sỹ piano và nhạc trưởng xuất sắc Hans von Bülow, người đã nhiệt tình giới thiệu âm nhạc của Brahms cho ông, ông cũng không giấu giếm sự thờ ơ của mình với âm nhạc Đức.
Tchaikovsky lần đầu gặp Hans von Bülow trong chuyến lưu diễn tại Nga của ông vào năm 1874 và vui mừng khi tìm thấy một người giới thiệu âm nhạc của mình ở phương Tây và Mỹ, nơi Bülow. Bülow là người nổi tiếng với nhận định về bộ ba âm nhạc "Bach – Beethoven – Brahms"! Khi chuẩn bị cho chuyến lưu diễn tại Nga lần thứ hai trong mùa diễn 1884–1885, Bülow đã kiên quyết "đem lại thành công ở Nga cho Maestro Brahms, người chưa được chấp nhận tại đây". Tại buổi hòa nhạc tổ chức ở Hội âm nhạc Nga, Saint Petersburg vào ngày 12 (ngày 24 lịch cũ)-1-1885, ngoài tổ khúc số 3 của Tchaikovsky được công diễn lần đầu, ông cũng trình diễn và chỉ huy bản Piano Concerto số hai của Brahms. Đó là thời điểm âm nhạc của Tchaikovsky chia sẻ thành công với Brahms qua những tràng vỗ tay của khán giả và các nhà phê bình. César Cui hết sức tán dương tổ khúc mới của Tchaikovsky nhưng lại cho rằng với tác phẩm của Brahms, ông chỉ quan tâm đến phần kỹ thuật. Trong buổi diễn tập tổ khúc số 3, Bülow đã nói với Tchaikovsky về Brahms, và khi nhạc sỹ Nga thẳng thắn nêu quan điểm của mình về Brahms, ông đã cho rằng một ngày nào đó, Tchaikovsky cũng sẽ nhìn thấy ánh sáng và chuyển hướng sang Brahms. Tchaikovsky đã hồi tưởng lại trong chương 5 cuốn tiểu sử tự thuật, và ghi rằng thật đáng tiếc là "sự phát hiện này" đã không đến.
Tuy nhiên việc âm nhạc của Brahms được đón nhận nồng nhiệt tại Nga trong chuyến lưu diễn của Bülow đã khuyến khích Tchaikovsky nghiên cứu nghiêm túc âm nhạc Đức trong những năm tiếp theo. Sau này Nikolai Kashkin kể lại rằng mỗi khi đến Maidanovo giữa những năm 1885 và 1888, ông và Tchaikovsky thường xuyên chơi piano duet các bản chuyển soạn tác phẩm của Brahms: "Tchaikovsky đã kính trọng thật sự sự chân thành, nghiêm trang và tính khiêm tốn của nhà soạn nhạc Đức sau tất cả những thành công ông đã nhận được. Dường như Tchaikovsky đã có chút cảm tình với các tác phẩm của Brahms, vốn trước đây ông vẫn thường chê rằng nó quá lạnh lẽo và khô khan. Tchaikovsky có xu hướng gán sự thiếu thiện cảm của mình với Brahms vì mình thiếu sự am hiểu về âm nhạc của nhà soạn nhạc Đức, nhưng ngay cả khi ông nghiên cứu và chơi chúng một cách kỹ lưỡng thì tình cảm lúc đầu của ông về chúng cũng không hề thay đổi".
Cũng không đáng ngạc nhiên khi Tchaikovsky tới Đức vào cuối năm 1887 trong chuyến lưu diễn đầu tiên ở phương Tây, những "câu hỏi gây đau đớn" về vị trí của Brahms tại đất nước này tiếp tục giày vò Tchaikovsky, như lời ông viết trong chương 11 cuốn tiểu sử tự thuật. Hiểu biết về Brahms đã nhanh chóng xua tan quan niệm sai lầm về nhà soạn nhạc Đức. Bây giờ Tchaikovsky đã nhìn thấy sự khiêm tốn và nhún nhường trong tính cách Brahms và điều quan trọng là dưới vẻ cộc cằn bề ngoài của Brahms, ông cảm nhận được nét gì đó dễ bị tổn thương kiểu con trẻ, thứ khiến cho những người hiểu Brahms, đặc biệt là Clara Schumann, quý mến ông.
Tchaikovsky quan sát tất cả điều đó với sự ân hận như ông đã viết trong bản tiểu sử tự thuật rằng ông và Brahms không phải là những người bạn thân thiết như trong trường hợp với Grieg. Có lẽ, đây là một trường hợp đặc biệt bởi ngoại trừ những đặc điểm khác biệt giữa hai người, thì trong cả con người Brahms và Tchaikovsky chắc chắn đều có chung một nỗi sầu muộn, và có thể hiểu được vì sao cuối cùng sự hân hoan và ngây thơ của Grieg và Nina, vợ ông, lại được Tchaikovsky yêu thích hơn cả. Và Tchaikovsky đã thất bại khi cố gắng trở thành bạn tốt của Brahms (tuy có tham gia vào tất cả các cuộc "chè chén vui vẻ kiểu bạn bè") bởi mỗi người đều nghi ngại về âm nhạc của người khác.
Theo cách đó, khi nghe hai tác phẩm mới của Brahms (bản tam tấu piano số 3 và double concerto), Tchaikovsky cũng không thay đổi quan niệm của mình. Trái lại, ông đã viết trong cuốn tiểu sử tự thuật rằng những giai điệu đẹp trong tác phẩm Brahms hoàn toàn thiếu vắng và về tổng thể âm nhạc Brahms "có gì đó khô khan, lạnh lẽo, u ám và mơ hồ khiến trái tim Nga phải cự tuyệt". Những giá trị ít ỏi mà Tchaikovsky công nhận ở Brahms chủ yếu là sự tiết chế những hiệu ứng hào nhoáng của dàn nhạc, tính "anh hùng" khước từ mọi sự nhân nhượng với trường phái Wagner.
Dù tỏ ra hết sức lịch thiệp với Brahms nhưng Tchaikovsky không che giấu cảm giác thật sự của mình với những người ông gặp ở Đức. Ví dụ, Anna Brodsky kể lại rằng sau buổi diễn tập bản piano trio mới của Brahms và sau khi tác giả đã ra về, chồng bà đã hỏi Tchaikovsky rằng ông nghĩ gì về tác phẩm này. "Đừng cáu với tôi nhé, ông bạn thân mến của tôi," Tchaikovsky trả lời, "nhưng tôi không hề thích nó một chút nào". Adolph Brodsky hết sức thất vọng, bởi ông ấy nuôi hy vọng rằng buổi biểu diễn bản trio với sự tham gia của Brahms sẽ đem lại ấn tượng đặc biệt và giúp Tchaikovsky thấy được sự xuất sắc trong âm nhạc Brahms một cách nguyên vẹn. Tchaikovsky không có nhiều cơ hội nghe nhạc Brahms và đó là nguyên nhân duy nhất giải thích vì sao nó lại ít gây ấn tượng với ông như vậy.
Ngay cả buổi trình diễn bản double concerto của Brahms tại Gewandhaus cũng "thất bại khi không đem lại những ấn tượng dù mong manh nhất" trong con người Tchaikovsky, như ông thú nhận trong cuốn tiểu sử. Trong quan điểm của Brahms về Tchaikovky như ta biết từ phần cuối tiểu sử tự thuật thì Brahms cũng thích chương 1 trong tổ khúc số 1 của nhà soạn nhạc Nga nhưng không thích những phần tiếp theo, đặc biệt là chương 4 Marche miniature.
Dẫu giọng điệu Tchaikovsky dùng để thảo luận với Brahms trong cuốn tiểu sử đã nhiều thân thiện và kính nể hơn nhưng vẫn sót lại chút gì đó bất bình và cay đắng trước sự sùng bái Brahms tại Đức, vẫn còn lờ mờ trong lời lẽ ông kể về buổi hòa nhạc do chính ông dàn dựng tại Hamburg vào ngày 20-1-1888 (Brahms đã không tới dự buổi hòa nhạc này). Tchaikovsky đã mỉa mai nhận xét rằng chương Tema con variazioni trong tổ khúc thứ 3 không được hồ hởi đón nhận vì "sự hào nhoáng của phần phối khí" đã phải hứng chịu sự nguyền rủa từ những thị dân tốt bụng của thành phố quê hương Brahms.
p mặt lần đầu tiên với Brahms rõ ràng đã khiến Tchaikovsky phải xem xét lại những tuyên bố của mình trước đây và dường như cảm thấy đáng tiếc cho những dòng nhật ký đầy giận dữ năm 1886. Nhưng điều đó vẫn chưa đủ để Tchaikovsky thay đổi quan điểm của ông về âm nhạc Đức đương đại, vốn được thể hiện rõ ràng trong hai bức thư đầy lôi cuốn gửi đại công tước Konstantin Konstantinovich mùa thu năm 1888. Tchaikovsky đã đi quá xa khi miêu tả Brahms là "bức tranh biếm hoạ của Beethoven" nhưng ít nhất ông cũng bày tỏ được với đại công tước (người hình như rất thích âm nhạc của Brahms) rằng ông mong đợi được nghiên cứu tổng phổ Ein deutsches Requiem một cách cẩn thận.
Tchaikovsky gặp Brahms lần thứ hai tại Hamburg vào ngày 12-3-1889, khi ông thực hiện chuyến lưu diễn thứ hai tại phương Tây. Tchaikovsky tới Hamburg vào ngày 11-3 và hài lòng khi sáng hôm sau phát hiện ra rằng Brahms cũng đang ở cùng khách sạn và chính Brahms cũng đã hoãn lại chuyến đi để tham dự buổi tập dượt đầu tiên bản giao hưởng số 5 của Tchaikovsky với Philharmonic Orchestra.
Nikolai Kashkin kể lại trong hồi ký rằng khi trở lại Nga, Tchaikovsky thường xuyên nhớ lại cuộc gặp gỡ lần thứ hai với Brahms: "Brahms đã mời Tchaikovsky ăn trưa, thết đãi ông ấy một bữa tiệc thịnh soạn, trong cuộc trò chuyện đầy thân thiết bên bàn ăn, Brahms đã thú thật rằng ông không thích bản giao hưởng một chút nào. Theo lời Tchaikovsky, điều đó được nói ra một cách chân thành và giản dị và không phải là ông không bị xúc phạm bởi lời phê bình cứng rắn nhưng ngay lập tức, ông có sự đồng cảm lớn lao với sự thẳng thắn của người nghệ sỹ này, người khiến ông thực sự kính trọng.
Tchaikovsky đã trình bày quan điểm của mình về phạm vi sáng tác... của người đối thoại nổi tiếng. Và cuối cùng họ chia tay nhau như hai người bạn thân thiết, dẫu sau đó họ không bao giờ gặp nhau nữa".
Brahms không ở lại Hamburg để dự buổi hòa nhạc của Tchaikovsky vào ngày 15-3-1889. Đây chính là buổi hòa nhạc do nhà soạn nhạc Nga đích thân chỉ huy và là buổi trình diễn thứ hai ngoài Nga của tác phẩm, sau buổi trình diễn tại Prague vào ngày 30-11-1888. Một điều đáng ngạc nhiên là tại thành phố quê hương của Brahms, bản giao hưởng số 5 đã được chào đón nồng nhiệt trong khi buổi ra mắt của nó tại chính Saint Petersburg vào năm trước lại không được thành công như vậy.
Trong bức thư Tchaikovsky gửi NXB Jurgenson từ Leipzig vào ngày 17-2 (lịch cũ 1-3)-1889, Tchaikovsky kể rằng ông đã thành công khi mời Massenet, Dvorák, và Klindworth tới Moscow, dàn dựng nhiều bản giao hưởng trong mùa diễn 1889–90. Tchaikovsky hy vọng là sẽ mời được Brahms tham gia: "Tôi sẽ cố gắng mời Brahms. Bây giờ điều đó sẽ thật thú vị!" Ngay tại bữa ăn trưa ngày 12-3 ở Hamburg, Tchaikovsky hiển nhiên đã chộp lấy cơ hội và nhân danh Hội Âm nhạc Nga mời Brahms tới Nga vào cuối năm đó.
Hai nhà soạn nhạc đã không gặp nhau thêm lần nào nữa. Dù vào tháng 9-1889, NXB Đức Daniel Rahter của Tchaikovsky gặp Brahms tại Hamburg, và ông đã kể lại cho Tchaikovsky lúc đó đang ở Nga: "Câu đầu tiên mà Brahms hỏi tôi là Tchaikovsky đang ở đâu, ông ấy như thế nào. Sau đó Brahms nhờ tôi chuyển những lời chúc tốt đẹp nhất cho bạn". Tuy nhiên một lần nữa, hành động thiện ý này không phải là căn nguyên làm ấm lên thái độ của Tchaikovsky với âm nhạc Brahms. Điều đó có thể đến vào một trong hai chuyến lưu diễn cuối cùng của Tchaikovsky tới thành phố Hanseatic vào tháng 1-1892 và tháng 9-1893. Nhà phê bình âm nhạc Josef Sittard đã nhắc lại điều này trong lời cáo phó của ông về cái chết của Tchaikovsky: "Trong trường hợp của Wagner, do tất cả những nhận thức sâu sắc của tài năng, ông ấy đã nhìn thấy sự sụp đổ của thứ âm nhạc nguyên chất, còn với trường hợp Brahms, "nhà toán học của âm thanh" như một lần ông ấy đã miêu tả với tôi, ông ấy chỉ thuần phục duy nhất khả năng nổi bật về phát triển chủ đề. "Ông ấy không có cảm hứng, không có cảm xúc", Tchaikovsky đã nói như vậy khi tôi cố gắng thuyết phục ông ấy tìm thấy thêm một điều gì đó ở Brahms".
MOZART VỚI TCHAIKOVSKY
Thứ hai, 03/01/2011
Liudmila Korabelnikova
Tchaikovsky, âm nhạc của Mozart giống như hiện thân của cái đẹp thiêng liêng trong thuộc tính của con người, thứ luôn là cảm hứng của tình yêu, hơn là nỗi kính sợ (như với trường hợp của Beethoven).
Không chỉ yêu, mà là tôn thờ
Trong nhật ký ngày 29-9-1886 (lịch mới là 2-10), Tchaikovsky ghi: "...Mozart thực sự là một thiên thần và trẻ thơ bởi âm nhạc của ông luôn ngập tràn trong cái đẹp thiêng liêng. Đó chính là niềm tin khiến tôi nghĩ rằng Mozart là đỉnh cao của cái đẹp mà âm nhạc có thể chạm tới. Không ai có thể khiến tôi khóc, khiến tôi tiến gần tới lý tưởng sống như cách Mozart đã đem lại. Tôi yêu tất cả những tác phẩm âm nhạc của Mozart, nhưng tôi cũng không đòi hỏi rằng mọi tác phẩm của ông là kiệt tác. Không, tôi biết rằng nhiều sonata của Mozart không phải là kiệt tác nhưng tôi vẫn yêu tất cả các bản nhạc ấy bởi vì đó là âm nhạc của Mozart, bởi vì vị Chúa của âm nhạc đã chạm vào nó với đôi bàn tay rạng rỡ của mình. Trên tất cả, tôi yêu Don Giovanni, tôi muốn cảm ơn chính tác phẩm này vì đã khiến tôi tìm thấy âm nhạc là gì. Đến tận lúc đó (khi tôi 17 tuổi), tôi mới chỉ biết một phần từ thứ âm nhạc Italia vui vẻ dễ thương. Tất nhiên, dù tôi yêu tất cả mọi thứ của Mozart".
Những tình cảm tôn thờ mà Tchaikovsky dành cho Mozart có từ ngày thơ ấu, khi ông mới 5 tuổi và từng khóc lên vì xúc động khi nghe đoạn trích Don Giovanni, đặc biệt là aria "Vedrai, carino" của cô gái Zerlina. Cậu bé Petr đã bị thôi miên bởi giai điệu này, ngay cả khi nó đến từ một thứ "dụng cụ cơ khí kém sức sống". Sau đó, mẹ của Petr đã chứng kiến cảnh con trai mình tập chơi giai điệu đó trên cây đàn piano. Lắng nghe âm nhạc của Mozart luôn khơi dậy cho Tchaikovsky "sự tôn thờ cuồng nhiệt với nhà soạn nhạc thiên tài" và cảm xúc ấy đi suốt cuộc đời ông, như lời kể của em trai Modest trong cuốn sách tiểu sửCuộc đời Tchaikovsky.
Tuy nhiên, không thể bỏ qua chi tiết rằng trong một cuốn tự truyện ngắn xuất bản năm 1889, Tchaikovsky đã tự thú rằng có thời kỳ, ông quá say mê các vở opera belcanto Italia đồng thời với việc ông thiếu hiểu biết về âm nhạc cổ điển Đức, nên có lúc đã nghi ngờ chính Mozart. Quan niệm ấy hoàn toàn thay đổi khi Tchaikovsky, lúc ấy chừng 16, 17 tuổi, xem vở Don Giovanni. Ông nhớ lại cảm xúc ấy trong cuốn tự tryện: "Tôi không thể miêu tả cảm xúc, sự say mê choáng ngợp mà tôi có được. Suốt trong nhiều tuần lễ sau tôi đã không thể làm được gì ngoại trừ chơi chính vở opera ấy qua các trang tổng phổ viết cho piano, thứ âm nhạc thiêng liêng ấy đến với tôi ngay cả trong giấc ngủ. Trong số những thiên tài, Mozart là người cuốn hút tôi nhất; và nó luôn luôn như thế. "Sự khám phá" về âm nhạc trong Don Giovannitrong ngưỡng cửa của tuổi thanh xuân đã đưa ông đến quyết định sẽ trở thành nhà soạn nhạc trong vài năm sau.
Trong bức thư gửi người bạn, nhà bảo trợ Nadezhda von Meck vào năm 1878, ông viết: "Tại sao bà lại không yêu Mozart? Với Mozart, rõ ràng là chúng ta đã không có cùng chung một ý nghĩ, bạn thân mến của tôi ạ. Tôi không chỉ yêu Mozart – tôi tôn thờ ông ấy. Với tôi, vở opera tuyệt vời nhất đã từng được viết chính là Don Giovanni. Với sự nhạy cảm của mình, bà phải yêu người nhạc sỹ thuần khiết đến lý tưởng này chứ. Sự thật, đôi lúc Mozart đã viết những thứ không theo cảm hứng của mình. Dẫu vậy, hãy đọc cuốn tiểu sử đã được viết một cách tuyệt diệu bởi Otto Jahn về Mozart, và bà sẽ hiểu rằng vì sao ông ấy đã phải làm như thế. Vả lại, Beethoven và Bach, cũng từng viết nhiều tác phẩm quá ư mờ nhạt so với nhiều kiệt tác của họ vì sự bắt buộc của hoàn cảnh, vì để kiếm sống. Nhưng hãy nhìn vào các vở opera, hai hoặc ba symphony cuối cùng, Requiem, sáu tứ tấu đàn dây đề tặng Haydn và bản tứ tấu cung Đô thứ của ông. Chẳng lẽ bà không tìm thấy bất cứ điều gì đẹp đẽ từ những tác phẩm ấy? Sự thật là Mozart không phải sâu sắc như Beethoven nhưng trong suốt cuộc đời mình ông là một đứa trẻ vô tư lự, vì vậy âm nhạc của ông không tồn tại những tấn thảm kịch, thứ được bộc lộ một cách mạnh mẽ và uy quyền trong âm nhạc của Beethoven. Dẫu vậy, điều đó cũng không ngăn cản Mozart miêu tả sinh động qua âm nhạc một hình thái giàu tính nhân đạo.
Âm nhạc từ vở opera Don Giovanni là thứ âm nhạc đầu tiên đem lại những ấn tượng mãnh liệt. Qua thứ âm nhạc này tôi đã bước vào thế giới của thứ nghệ thuật đỉnh cao mà chỉ có những thiên tài cư ngụ. Tôi biết ơn Mozart và vì điều đó mà tôi đã dâng tặng cả cuộc đời mình cho âm nhạc. Ông ấy đã khiến tôi yêu âm nhạc hơn bất cứ điều gì trên trái đất này".
Trong một bức thư khác gửi Nadezhda von Meck đề ngày 16-3-1878 (tức là ngày 28-3-1878), Tchaikovsky viết: "Trong bản ngũ tấu cung son thứ, Mozart đã quyến rũ người nghe bởi sự tinh tế, bởi vẻ đẹp đầy kinh ngạc của thanh âm chủ đạo, khiến sẽ có nhiều lúc trong đôi mắt của bà những dòng lệ dâng trào. Không ai trước và sau ông có thể thể hiện được vẻ đẹp của buồn đau bằng âm nhạc như ông. Khi Laub chơi khúc Adagio, tôi đã phải thường ngồi ở một góc khuất trong phòng hòa nhạc bởi tôi không muốn người nào thấy những tác động của âm nhạc Mozart lên bản thân tôi".
Mozart - Tchaikovsky
Về bản giao hưởng cuối cùng của Mozart, Tchaikovky viết trong một bài phê bình âm nhạc: "Jupiter của Mozart là một trong những bản giao hưởng kỳ diệu, đặc biệt là chương kết, nơi thể hiện thiên tài của nhà soạn nhạc vĩ đại, người có khả năng xây dựng những tòa lâu đài khổng lồ từ những vật liệu bình thường nhất. Điều đáng chú ý là mặc dù sự phức tạp của âm nhạc đối âm, chủ đề của bản giao hưởng đã được phát triển với sự giàu có vô song của sự tương phản với một dàn nhạc có quy mô khiêm tốn không thể tin nổi. Dàn nhạc trong bản giao hưởng của Mozart chỉ bằng một nửa về số lượng nhạc cụ so với dàn nhạc của thời đại chúng ta nhưng ông đã đạt được điều đó bằng sự tinh thông và sức mạnh của sáng tạo trời cho, thứ mà một dàn nhạc ngày nay với tất cả những chiếc kèn trumpet, cornet, trombone, ophicleide và bombardon mới có thể làm được".
Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1892, Tchaikovsy đã khiến chính người phỏng vấn mình ngạc nhiên khi nói rằng làm việc 6 tiếng đồng hồ mỗi ngày: "Nhiều bạn trẻ bây giờ cứ ngồi chờ đợi cảm hứng sẽ đến với họ, nhưng tôi nghĩ rằng đó là một nhận định sai lầm. Ngay cả Mozart, người đã qua đời khi còn quá trẻ, sẽ không thể có được nhiều kiệt tác nếu ông ấy cũng ngồi chờ cảm hứng đến".
Một cách tự nhiên, sự trẻ thơ và sự thuần khiết trong tinh thần của Mozart là những phẩm chất khiến Tchaikovsky ngưỡng mộ ông và không ngạc nhiên khi nói rằng cuốn tiểu sử Mozart của nhà văn Otto Jahn, theo lời kể của Laroche, không bao giờ rời khỏi chiếc bàn làm việc của Tchaikovsky.
Vào năm 1875, Tchaikovsky đã dịch libretto của vở Le Nozze di Figaro sang tiếng Nga cho một buổi biểu diễn của sinh viên Nhạc viện Moscow, và bản dịch này cuối cùng đã được Petr Jurgenson, nhà xuất bản và người bạn thân thiết, cho in vào năm 1884, cùng với phần âm nhạc cho piano và giọng hát của vở opera này. Tchaikovsky còn say mê Figaro và nghe vở này ít nhất ba lần trong suốt thời gian ở Paris năm 1883. Trong bức thư gửi nhà soạn nhạc, nhà lý luận âm nhạc Sergei Taneev, người cũng hết sức ngưỡng mộ Mozart, Tchaikovsky đã ghi lại ấn tượng về một buổi trình diễn: "Ôi Chúa ôi, thứ âm nhạc thiên thần này mới giản dị làm sao!".
Lễ kỷ niệm 100 năm ngày ra mắt vở Don Giovanni đã được diễn ra khắp châu Âu vào năm 1887, nhưng nhiều năm trước đó, Tchaikovsky đã có nhiều dự án về Mozart. Tuy kế hoạch cùng Herman Laroche đón chào sự kiện này ngay từ mùa hè năm 1884 không thành nhưng Tchaikovsky vẫn muốn làm điều gì đó để kỷ niệm sự ra đời của Don Giovanni. Ông được thúc đẩy bởi cuộc gặp gỡ với Pauline Viardot tại Paris vào ngày 12-6-1886, khi nữ nghệ sỹ cho ông xem nguyên bản viết tay vở opera này bằng chính nét chữ của Mozart. Từ bức thư mà Tchaikovky gửi, Taneev thấy rằng có tới ba "món quà" mà Tchaikovsky dành cho lễ kỷ niệm đáng nhớ này: một tổ khúc kiểu Mozart, một bản dịch libretto Don Giovanni và một tiểu luận. Cuối cùng, chỉ có một dự án có kết quả, đó là tổ khúc số 4 mang tên Mozartiana.
Mối tình suốt đời
Sự ngưỡng mộ Mozart của Tchaikovsky đôi khi không lý giải nổi. Trong bức thư gửi Nadezhda von Meck vào ngày 11 (23)-1-1883, Tchaikovsky viết: "Tôi mới trở về từ nhà hát Opéra-Comique tại Paris, nơi tôi đã xem Le Mariage de Figaro tới hai lần và nếu như vở đó còn tiếp tục được trình diễn, tôi vẫn sẽ đi tiếp. Tôi biết rằng sự sùng kính của mình với Mozart gây ngạc nhiên cho bà, bà bạn thân mến của tôi ạ. Nhưng sự thật là tôi cũng ngạc nhiên rằng điều đó không làm mất đi ở tôi những âm thanh riêng biệt của bản thân mình khi lắng nghe Mozart, người không có được chiều sâu hay sức mạnh của Beethoven, không có được sự nồng ấm và xúc cảm nồng nàn của Schumann, không huy hoàng tráng lệ như Meyerbeer, Berlioz, Wagner... Thật khó chuyển tải nổi chính xác những gì Mozart đem lại cho tôi nhưng trong suốt cuộc đời mà tôi sống, trong những gì mà tôi biết về ông ấy, tôi càng thấy yêu ông hơn".
Trong chuyến đi thăm Prague đầu tiên vào tháng 2-1888 nằm trong tour diễn tại Tây Âu, Tchaikovsky đã tới biệt thự Bertramka ở ngoại ô thành phố và ngắm nhìn căn phòng mà Mozart đã từng ở trong nhiều năm. Cuối năm đó, khi Tchaikovsky đã ổn định cuộc sống của mình ở ngôi nhà mới tại Frolovskoe, Jurgenson đã đề nghị ông dịch sang tiếng Nga cuốn tiểu thuyết ba tập Nouvelle biographie de Mozart(1843) của Aleksandr Ulybyshev. Tchaikovsky cũng đã bắt tay vào công việc này nhưng do thời gian không cho phép, ông đã đề nghị Jurgenson chuyển công việc này cho em trai mình là Modest, và hứa sẽ biên tập thật chính xác những thuật ngữ âm nhạc nhắc đến trong tác phẩm. Ông còn nhận viết phần lời nói đầu của cuốn tiểu sử này nhưng cuối cùng do không đủ thời gian, cuối cùng Laroche đã đảm nhiệm phần việc này. Trong món quà Giáng sinh năm 1888, Jurgenson đã gửi đến Frolovskoe toàn tập tác phẩm của Mozart mới xuất bản. Tchaikovsky vui mừng khôn xiết và gửi cho người bạn thân thiết những lời cảm ơn của mình bởi đó chính là "những gì đẹp nhất, những giá trị lớn lao và những món quà tuyệt vời nhất mà tôi có thể hy vọng sẽ nhận được... Vị Chúa của tôi, thần tượng của tôi hiện diện trong những sáng tác thần thánh của mình. Tôi vui sướng như một đứa trẻ. Cám ơn anh, cám ơn, cám ơn!"
Khi đến thăm nhà soạn nhạc tại Maidanovo vào tháng 2-1892, luật sư Vladimir Nápravník, con trai của nhạc trưởng Eduard Nápravník, nhận thấy rằng "Petr Ilich tôn thờ Mozart" và khi cùng lắng nghe chương Andante từ bản piano fantasia số 4 của Mozart, Tchaikovsky nói rằng sẽ lấy cảm hứng từ đây để sáng tác một tứ tấu lộng lẫy cho giọng hát. Tchaikovsky đã theo đuổi ý tưởng này suốt trong năm đó và cuối cùng, từ cơ sở là chương Andantino bản Fantasie cung đô thứ cho piano (KV 475) của Mozart, Tchaikovsy đã viết một tứ tấu cho giọng hát với tên gọi Đêm với phần lời do chính ông viết. Đêm lần đầu tiên được trình diễn tại nhạc viện Moscow vào ngày 9 (21)-10-1893. Cũng có mặt trong đêm ra mắt này, Nikolai Kashkin, người bạn đúng một tháng sau sẽ viết bản cáo phó cho nhà soạn nhạc, đã kể lại: "Tại nhạc viện, ông ấy nói với tôi rằng vẻ đẹp của giai điệu do Mozart viết luôn quyến rũ ông ấy, và ông ấy không thể giải thích hết được sự hấp dẫn không thể cưỡng lại được trong giai điệu quá đỗi bình thường của tứ tấu. Tất nhiên, chúng tôi không nghĩ rằng mình sẽ không còn được nhìn thấy ánh sáng của âm nhạc Nga thêm một lần nữa. Ông ấy đã hẹn chúng tôi sẽ gặp lại tất cả trong một buổi hòa nhạc cũng trong tháng 10".
Tình yêu với Mozart đã đi suốt cuộc đời Tchaikovsky và góp phần làm nên âm nhạc Tchaikovsky.
CÂU CHUYỆN TÌNH LÃNG MẠN NHẤT TRONG LỊCH SỬ ÂM NHẠC
Thứ sáu, 24/12/2010
Henry T.Finck
tình yêu khác thường của nhà soạn nhạc Robert Schumann đối với người vợ tài năng và chung thủy Clara Schumann là một minh chứng đẹp nhất về sự gắn bó giữa tình yêu và âm nhạc cổ điển.
Năm 18 tuổi, Robert Schumann tới Leipzig với mục đích học luật. Nhưng trong khi ông bắt đầu trở thành một sinh viên luật siêng năng thì cũng là lúc tình yêu với âm nhạc ngày càng lớn dần.
Robert Schumann quyết định đi tìm giáo viên dạy piano và chọn Fried-rich Wieck, không chỉ vì danh tiếng của ông mà bởi Wieck có một cô con gái mới 9 tuổi nhưng đã bộc lộ những tài năng âm nhạc khác thường.
Schumann cho rằng, nếu một người cha đã đem lại những thành công bước đầu cho con gái của mình ắt hẳn sẽ là một giáo viên giỏi. Chàng thanh niên 18 tuổi hết sức quan tâm đến cô bé tài năng sáng chói mang tên Clara này và thường ở bên cô bé nhiều giờ để kể cho cô nghe những câu chuyện thần tiên.
Đó là điểm bắt đầu của một cuộc tình lãng mạn nhất trong số các chuyện tình.
Schumann không chỉ theo học Wieck mà còn sống hai năm dưới chung mái nhà với thầy và được đối xử như một thành viên của gia đình. Khi Clara biểu diễn tại Zwickau, Schumann đã viết thư gửi mẹ mình, trong đó không tiếc lời ca ngợi cô bé thần đồng 13 tuổi.
Và khi mẹ của Schumann gặp Clara, hai người cùng đứng bên cửa sổ nhìn Robert đi ngang qua, rồi bà mẹ siết lấy cô bé trong vòng tay và thì thầm: "Cháu có thể sẽ trở thành vợ của con trai bác trong một ngày nào đó".
Khi Clara mới 14, Robert Schumann 23 tuổi, đã dành cho cô một tình yêu thật lãng mạn: "Ngày mai, đúng lúc 11 giờ, anh sẽ chơi khúc adagio trong Variations của Chopin và chỉ chăm chú suy nghĩ về em. Anh cầu xin em cũng làm như vậy, vì thế chúng ta vẫn có thể gặp gỡ và thấy nhau về mặt tinh thần".
Tình địch của Clara
Để thay đổi cảm xúc của chúng ta trong một tác phẩm âm nhạc cần phải có chút nghịch tai cũng như sự hòa âm của âm thanh ngọt ngào. Tiến trình của tình yêu đích thực không bao giờ được vận hành một cách êm ái, nhiều nhà thơ vĩ đại đã nói như vậy; tất nhiên là Clara và Robert cũng không thoát khỏi điều đó. Nốt nhạc nghịch tai đầu tiên đã xuất hiện dưới bóng dáng của một tình địch.
Trong một chuyến lưu diễn, Clara đã gặp lại người quen là Ernestine von Fricken, cô gái từng theo học với Clara trong lớp học của ông Wieck. Sau đó không lâu, ông Wieck đã gửi Clara tới Dresden theo học lý thuyết âm nhạc với Reissiger.
Trong suốt thời gian Clara vắng mặt, Robert đã bắt đầu có mối quan tâm khá lớn tới Ernestine. Robert miêu tả cô như “một cô gái ngây thơ đầy hấp dẫn, một tâm hồn trẻ thơ, mềm yếu và không kém phần sâu sắc, gắn bó với tôi và tất thảy vẻ đẹp được tạo bởi tình yêu chân thành nhất, đặc biệt là âm nhạc – nói tóm lại là một cô gái tôi có thể ao ước lấy làm vợ”.
Robert đã trao nhẫn cho Ernestine trước khi cô rời Leipzig, nhưng ngay sau đó, ông mới nhận ra đó chỉ là sự mê say ngắn ngủi, “một giấc mộng đêm hè”. Robert nhận ra sự tương phản giữa họ, và ông thấy rằng, Clara mới là cô gái ông yêu đích thực.
Với Clara, cô tuyệt vọng khi trở về nhà và biết rằng, Robert đã đính ước với Ernestine. Cô bắt đầu một tour diễn khác nhưng trái tim của cô thì không còn tha thiết với chuyến biểu diễn. “Clara biểu diễn một cách miễn cưỡng và dường như không muốn làm bất cứ điều gì nữa”, cha của cô viết từ Hamburg như vậy.
May mắn thay, cơn si cuồng với Ernestine cũng đã qua và kết thúc nhanh chóng. Trong nhật ký của mình, Robert đã ghi lại rằng, ông nhận được nụ hôn đầu tiên từ Clara vào tháng 11/1835, cô đã đón nhận tình yêu của ông.
Sự giận dữ của người cha
Tiếng sấm giữa bầu trời xanh đã đột ngột đến khi cơn giận dữ của Wieck bùng lên: ông phát hiện ra mối tình của cô con gái qua lời mách bảo của những người quen biết. Ông giải quyết mọi chuyện theo cách riêng của mình, dọa bắn Schumann trừ khi Clara gửi lại tất cả những bức thư Schumann đã gửi cô.
Wieck đã cố gắng làm tất cả để cố gắng tạo ra cảm tưởng rằng, Clara đã từ bỏ Robert. Khi Robert lén lút gửi cho Clara bản piano sonata Fa thăng thứ, tác phẩm ông đề tặng cô, và ông từng nói rằng “một trái tim đau khổ khóc than vì cô” nhưng ông đã không nhận được bất cứ sự hồi âm nào.
Một năm sau, Clara chơi tác phẩm này tại một buổi biểu diễn ở Leipzig. Schumann bí mật tới dự buổi biểu diễn để lắng nghe tác phẩm này. “Anh có đoán được, sau này Clara đã viết thư cho ông, rằng em đã chơi tác phẩm này bởi vì em không còn cách nào khác để bộc lộ cho anh thấy rõ nội tâm của em không? Em đã bị cấm làm điều đó, vì thế em chỉ còn cách đó để công khai tình cảm của mình.
Cô gái đang yêu đã có một cách làm tuyệt vời. Cô đã nhờ một người bạn thân thiết, rằng cô khẩn cầu Robert hãy gửi lại cô những bức thư mà cha cô một năm trước đây đã bắt cô phải trả lại Robert.
Trái tim của Robert rung lên mãnh liệt khi nhận được thông điệp này. Điều đó tác động mạnh hơn cả bản sonata, bởi chứng tỏ thật sự rằng, Clara còn yêu ông. Robert trả lời lại rằng ông sẽ vẫn giữ những bức thư cũ nhưng cô sẽ có thể có nhiều bức thư mới rồi gửi một thông điệp cùng với một bó hoa.
Trong bức thư này, ông yêu cầu cô chỉ cần viết một từ “Vâng” và cô đã trả lời “Chỉ đơn thuần từ “vâng” mà anh đã hỏi em ư? Đó là một từ ngắn ngủi nhưng quan trọng biết bao! Tất nhiên, một trái tim tràn ngập tình yêu không thể nói lên lời. Từ sâu thẳm tâm hồn mình, em thì thầm với anh mãi mãi: Vâng”.
Tình yêu và âm nhạc
Trong một bức thư, Schumann viết “Nếu như anh ứng tác bên cây đàn piano, nếu như anh sáng tác mà không phải suy nghĩ, thứ anh thiết tha muốn vẽ lên tất cả với một chữ cái lớn và hợp âm duy nhất – Clara”. Và Clara, cũng trong vòng xoáy ấy, chỉ có duy nhất ý nghĩ về Schumann khi chơi đàn.
Sau khi miêu tả về sự phấn khích cô đem lại trong một buổi hòa nhạc tại Prague, cô viết trong bức thư gửi Schumann: “Em nghĩ về anh trong khi em chơi đàn và khi nhận được sự tán thưởng của khán giả, vì vậy toàn bộ khán giả cũng trở thành đồng cảm sâu sắc với em”. Trong bức thư khác viết từ Vienna, cô thổ lộ: “Mặc dù hoàng đế, hoàng hậu và những người khác trò chuyện với em, nhưng điều em cần nói với anh là em muốn trò truyện với anh biết nhường nào”.
Wieck không phải là người đánh giá thấp tài năng của Schumann, ngược lại, ông là một trong những người đầu tiên hiểu rõ giá trị của thiên tài. “Cha em đã nói về anh, Clara viết, với mọi người với nhiệt tình sôi nổi, và hỏi em có thể chơi một vài tác phẩm của anh không. Trong một dịp ông tổ chức một bữa tiệc lớn (trong bữa tiệc có những nhà thơ hàng đầu Vienna tới dự) chỉ để mọi người nghe em chơi “Carnaval” và trong tháng hai vừa qua ông đã bảo em chơi “Toccata” và “Etudes Symphoniques” của anh”.
Cuối cùng, Wieck đã miễn cưỡng đồng ý để Robert cưới Clara với điều kiện cặp vợ chồng trẻ không được ở tại Leipzig, nơi hoàn cảnh khiêm tốn của họ sẽ tương phản quá nhiều với sự giàu có của Mendelssohn và David. Về điểm này, Clara không đồng ý với cha mình. Cô từng viết thư cho Schumann rằng cô không thèm muốn những tàu ngựa và kim cương, cô chỉ ao ước cảm thấy sự tin tưởng rằng cuộc sống được đảm bảo mà không ảnh hưởng gì đến con đường nghệ thuật của mình.
Công việc của một người vợ đằm thắm và một người mẹ hiền đối với Schumann dường như còn cao hơn cả sự nghiệp của một nghệ sỹ và một người dạy nhạc, ông đã từng viết cho Clara: “Em hãy chuyên tâm cho những buổi học thật tốt, nhưng khi em trở thành vợ anh, em không cần phải làm thêm bất cứ điều gì khác, bởi vì đó sẽ là công việc của anh”.
Schumann không chia sẻ quan điểm coi thường vị trí và quyền lực của phụ nữ trong xã hội thời kỳ đó. Ông không ngăn cản nỗ lực sáng tác của Clara mà còn khuyến khích cô, kết quả là cô đã sáng tác được nhiều ca khúc nghệ thuật có giá trị mà chưa bao giờ một nhà soạn nhạc nữ có được, những tác phẩm mà oái oăm thay lại phản chiếu tinh thần của Mendelssohn hơn là tinh thần của Schumann.
Vào năm 1839, cô viết một cách đầy khiêm tốn: “Thời gian trước đây em vẫn nghĩ rằng em có tài năng về sáng tác, nhưng em đã thay đổi quan điểm này của mình. Một người phụ nữ không cần phải có nhu cầu sáng tác. Em có nên tiếp tục sáng tác nữa không? Em nghĩ rằng đó có thể là sự trưng bày của tính kiêu ngạo, thứ mà cha em trước đây vẫn thường khuyến khích em”.
Nhiều nốt nghịch tai
Wieck đã đề nghị hoãn đám cưới lại hai năm và Clara cũng ưng thuận; vì vậy Robert đã ấn định đám cưới vào dịp lễ Phục sinh năm1840, nhưng một điều bất ngờ đã xảy ra trong quãng thời gian chờ đợi này.
Wieck đã giới thiệu những người đàn ông khác với Clara trong hy vọng rằng cô có thể từ bỏ Robert nhưng vô hiệu. “Thật kỳ lạ, cô viết, nhưng không một người đàn ông nào làm em cảm thấy hài lòng, em không màng đến họ, bởi vì chỉ một người khiến cho em được sống – Robert của em”.
Khi Wieck nhận thấy rằng mọi phương pháp đều vô hiệu, sự phẫn nộ càng tăng lên. Clara thấy cha mình ghi “không bao giờ tôi ưng thuận”, và gạch đậm hai gạch dưới dòng chữ này; rồi cô viết thư cho Robert: “Em khiếp sợ đến nhường nào với những điều đã xảy ra đó, em phải làm những việc không được sự cho phép của cha, không được cha mẹ ban phúc lành. Điều đó mới đau đớn làm sao! Nhưng em có thể không làm điều gì vì anh ư? Tất cả mọi thứ, mọi thứ”.
Nếu đó là trường hợp này, Robert hồi đáp, nếu cha em không bao giờ đồng ý, tại sao không chờ hai năm nữa – tại sao không giữ lấy luật pháp trong đôi tay chúng ta và tổ chức đám cưới bất ngờ? Schumann đã chuyển nhà và tờ “Tạp chí âm nhạc mới” ra hằng tuần của ông, để tới Vienna, bởi vì Wieck đã hứa sẽ đồng ý cho phép Schumann lấy Clara ở bất kỳ nơi nào trừ Leipzig; nhưng bây giờ ông mới phát hiện ra rằng, đó chỉ là phép “câu giờ” của Wieck.
Wieck trở nên hết sức kích động, ông đe dọa rằng nếu Clara không khước từ Schumann thì có thể sẽ tước quyền thừa kế của cô và sẵn sàng chuẩn bị cho một vụ kiện kéo dài từ bốn đến năm năm.
Robert đã buộc phải thảo một văn bản tới Wieck, trong đó yêu cầu ông chính thức “trả tự do” cho con gái: “Chúng tôi cần một cơ sở vững chắc để tin cậy sau những điều khủng khiếp đã xảy ra, ông nợ điều đó với chính bản thân ông, với Clara và cả tôi”.
Wieck đã đưa ra sự ưng thuận của mình phụ thuộc vào 6 điều về quá trình cư trú, tài sản của Clara và quyền thừa kế của cô, những điều kiện khiến không thể nghĩ rằng đó là một sự thỏa hiệp thực sự.
Robert viết thư cho Clara, “Ông ấy, sau tất cả mọi điều, sẽ là cha của anh, và anh hứa với em rằng sau khi chúng ta thành hôn, anh sẽ làm tất cả để giảng hòa với ông ấy”.
Chương cuối
Khi Clara từ chối chấp nhận những điều kiện của cha mình, ông trở nên giận dữ hơn bao giờ hết. Ông khước từ việc bàn giao tiền cho Clara, những đồng tiền cô thu được từ những buổi recital, trong lý lẽ rằng, cô còn nợ ông tiền cho hàng ngàn bài giảng.
Những hành động sau đó của Wieck giống như một kẻ điên dại hơn là một người cha. Wieck đã quay ra ủng hộ Kamilla Pleyel, một nghệ sĩ pianist, hỗ trợ các buổi biểu diễn của cô và tự cho phép làm tất cả những điều khác để làm tổn thương con gái mình. Ông cáo buộc Schumann là một kẻ nghiện ngập – một gánh nặng sai lầm gây tổn thương cực độ cho Clara.
Chứng điên cuồng này đã lên tới đỉnh điểm trong một bức thư mạo danh, Wieck viết gửi Clara tố cáo sự hung bạo của Schumann. Ông xếp đặt bức thư này đến tay cô chỉ trước khi bắt đầu một buổi recital quan trọng đầu tiên tại Berlin với hy vọng sẽ đưa cô đến sự suy sụp tinh thần. May mắn sao, buổi recital đó đã được hoãn lại bởi vì một chấn thương tay nhỏ của Clara.
Toà án mà Wieck lựa chọn đệ đơn đã bãi miễn vụ việc, sau một năm trì hoãn. Không có điều gì có thể ngăn cản được đám cưới, cuối cùng cũng được tổ chức một cách lặng lẽ vào ngày 12/9/1840. Schumann cho rằng “sự nhẫn nại siêu phàm” của họ đã được đền đáp bằng một liên kết hạnh phúc trên cả phương diện hôn nhân lẫn nghệ thuật. Khi tạm ngưng các bổn phận gia đình, Clara tiếp tục biểu diễn, giới thiệu với thế giới những kiệt tác của chồng mình bằng cảm hứng lấy từ trái tim đồng cảm của mình như ngày họ mới yêu nhau. Wieck đã giảng hòa và hạnh phúc thực sự đã tràn ngập trong gia đình họ.
Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, Robert Schumann đã tìm thấy nàng thơ của mình. Những sáng tác với cảm hứng từ tình yêu của họ như các tập ca khúc nghệ thuật “Frauenliebe und leben”, “Liederkreise Op.24”, “Liederkriese Op.39”, “Diechterliebe Op.48”, những tác phẩm thính phòng và giao hưởng khác đã trở thành kiệt tác.
Thế nhưng bất hạnh đã đến trong nhiều năm sau đó, chứng mất trí nhớ, nỗi ám ảnh thường trực về cái chết, sự suy sụp về tinh thần luôn giày vò Schumann. Vào một đêm lạnh tháng 2/1854, Schumann đã bí mật rời khỏi nhà và lao mình xuống dòng sông Rhine. Tuy được cứu sống nhưng Schumann đã rơi vào trạng thái điên loạn hoàn toàn khiến Clara buộc phải gửi ông vào một bệnh viện tâm thần ở gần Bonn.
Hai năm sau, Schumann qua đời vào ngày 29/7/1856, để lại Clara góa bụa và 8 con nhỏ. Trong suốt những năm tháng còn lại của cuộc đời, Clara đã tiếp tục sự nghiệp biểu diễn với những kiệt tác của người chồng thiên tài.
“Clara đã sáng tác một chuỗi những tiểu phẩm, trong đó thể hiện một thứ âm nhạc đầy nhạy cảm, tinh tế hơn bất kỳ những tác phẩm cô ấy sáng tác trước đó. Nhưng việc có những đứa con, và một ông chồng luôn luôn sống trong vương quốc của huyễn tưởng, không thể duy trì công việc sáng tác. Cô ấy không thể sáng tác một cách thường xuyên, và tôi vẫn thường bối rối nghĩ rằng có biết bao ý tưởng sâu sắc đã bị đánh mất bởi nó đã không được viết ra” - Robert Schumann đã ghi lại điều này trong nhật ký chung của ông và Clara.
ROBERT SCHUMANN - MỘT SỐ KINH NGHIỆM ÂM NHẠC
NHỮNG NGƯỜI TÌNH CỦA CHOPIN
Sopanh (Frederic Chopin), nhà soạn nhạc thiên tài Ba Lan, là người của đam mê - đam mê âm nhạc và đam mê... phụ nữ. Có thể nói nhạc sĩ vĩ đại này đã sống chết với âm nhạc, sống chết với những mối tình si dành cho phái đẹp.
Frederic Chopin đã say viết từng nốt nhạc với niềm mê đắm để dành tặng những "nàng thơ" của mình. Ngay cả với những tình cảm không được đền đáp, âm nhạc của ông vẫn tuôn trào thành những giai điệu ảo diệu. Thậm chí buồn khổ vì thất tình còn trở thành "nguồn cơn" cho những kiệt tác của Chopin. Các bản mazurkas, waltz, polonaises... của ông đều đầy ắp cảm xúc chân thành và lắng đọng những trải nghiệm sâu sắc.
Chopin đã nếm trải cả hạnh phúc lẫn khổ đau trong các mối quan hệ với đại diện của phái đẹp. Nhưng dù thế nào thì những người phụ nữ ấy cũng luôn đánh giá cao sáng tác của Chopin, ngưỡng mộ tài năng của nhà soạn nhạc vĩ đại này.
in hẳn là có cung "đào hoa chiếu mệnh" nên ông rất được phụ nữ cưng chiều và luôn có một mối ràng buộc không thể tách rời họ. Diện mạo và tính cách của Chopin cũng có cái gì đó rất gần với phái đẹp – ông tinh tế, đa tình, dịu dàng và cực kỳ lãng mạn.
Tính cách mềm mỏng dịu dàng của nhạc sĩ được thừa hưởng từ bà mẹ người Ba Lan, còn niểm si mê đối với phái đẹp – hẳn là từ ông bố người Pháp. Chopin còn có ba chị em gái đều là những người rất trí tuệ.
Ngay từ thuở ấu thơ, phụ nữ đã có ảnh hưởng lớn đến cậu bé Frederic. Khi 9 tuổi cậu đã khiến họ phải ngạc nhiên và thán phục với khả năng âm nhạc thần đồng tỏa sáng trong các phòng khách quý tộc ở Varsava. Và chính từ các phòng khách ấy Chopin đã học được phong thái tao nhã làm bao người đẹp sau này phải say lòng.
Constance Gladkovskiy, mối tình đầu của Chopin.
Niềm đam mê đầu – một "ước nguyện" không thành
Trong chòm sao nữ bao quanh cuộc đời Chopin có thể nói nữ ca sĩ Constance Gladkovskiy là một trong những ngôi sao sáng nhất. Mùa xuân năm 1829 chàng trai Frederic 19 tuổi, đã gặp cô ca sĩ trẻ này tại một buổi hòa nhạc của sinh viên Nhạc viện Varsava. Vóc dáng mảnh mai, mái tóc đen huyền và giọng nói mượt như nhung của nàng đã lập tức chinh phục chàng. Ban đầu Frederic chỉ "kính nhi viễn chi" trước Constance xinh đẹp luôn được vây quanh bởi đám đông hâm mộ. Nhưng rồi niềm đam mê âm nhạc đã kéo họ xích lại gần nhau.
Bị cuốn hút bởi Constance, Frederic đâm ra thờ ơ với mọi sự quan tâm của rất nhiều bóng hồng xung quanh. Trong thư viết cho một người bạn, ông phân trần: "...Bởi vì trong tôi, có lẽ, thật tiếc là đã có ý trung nhân cho riêng mình, đó là người tôi đã âm thầm và chung thủy tôn thờ gần nửa năm nay, người mà tôi luôn gặp trong những giấc mơ, người mà trong tâm trí tôi luôn hiện ra như một giai điệu khoan thai của khúc hợp tấu...".
Với tình yêu nồng nàn ấy, thời kỳ này nhà soạn nhạc trẻ tuổi đã viết nên một trong những bài hát hay nhất của mình, bài "Ước nguyện". Thời đại lãng mạn của thế kỷ XIX cùng với tuổi trẻ đầy đam mê đã đem lại cho Chopin những cảm xúc mãnh liệt để ông thể hiện chúng một cách tài năng trong những tuyệt phẩm âm nhạc của mình.
Tuy không muốn rời xa Constance, nhưng vì công việc, Chopin buộc phải đến Vienna (Áo). Vào một đêm trước lễ Giáng sinh Chopin đã viết cho một người bạn của mình rằng chàng thường hôn lên chiếc nhẫn mà Constance tặng lúc chia tay trong lúc soạn các bản nhạc.
Nhưng, như người ta vẫn nói, chẳng có gì trên đời này là vĩnh cửu cả. Ngay cả mặt trời còn dần dần lụi tắt thì tình cảm cũng có lúc phải nguội đi. Sau Vienna, Chopin lại sang Paris với hy vọng sẽ kiếm được nhiều tiền để chuẩn bị kết hôn. Nhưng tại Paris, một ngày kia, dù chưa quên lời thề nguyền với Constance về một tình yêu vĩnh hằng, Chopin đã không thể cưỡng lại sự quyến rũ của một quý bà tuyệt đẹp và trải đời tên là Dolphins Pototskaya. Sau người đàn bà Ba Lan kiều diễm vốn thay người tình như thay áo đó, Chopin còn vướng vào vài cuộc tình nho nhỏ với những người đẹp khác cũng chẳng mấy đoan trang.
Hẳn là biết người yêu thay lòng đổi dạ, Constance đã quyết định kết hôn với Joseph Grabovski - một người "ngoại đạo" đối với nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng. Grabovski thậm chí đã phản đối việc vợ mình xuất hiện trước công chúng và nữ ca sĩ tài năng này đành phải từ bỏ nghiệp cầm ca. Năm 30 tuổi nàng bị mù, và mãi đến cuối cuộc đời dài gần 80 năm của mình nàng mới đốt đi những lá thư da diết bên dưới ký tên Frederic Chopin.
Về phía Chopin, chàng đã bị sốc trước tin Constance kết hôn. Chàng bị dày vò bởi sự thiếu bản lĩnh của mình, bởi chàng không thể làm gì để thay đổi tình hình. Chopin cho rằng nếu không phải bôn ba kiếm tiền thì hạnh phúc đã không vuột khỏi tay chàng!
Nỗi muộn phiền mang tên Maria
Nhưng rồi, chính Frederic cũng không thể tin rằng chàng lại có thể quên đi mối tình đầu nhanh đến vậy. Một bóng hồng khác đã xuất hiện và cuốn hút chàng chẳng khác gì Constance trước đây. Đó là Maria, cô em gái của anh em nhà Vodzhinski (một gia đình quý tộc Ba Lan) mà chàng quen biết.
Maria Vodzhinskaya nhỏ hơn Chopin chín tuổi. Thiếu nữ Ba Lan này không xinh đẹp nhưng có sức hút riêng. Từ nhỏ cô đã say mê hội họa, âm nhạc, am tường văn chương. Cô còn giỏi ngoại ngữ, biết làm thơ và hát cũng không tồi. Và Chopin đã bị chinh phục bởi vẻ khả ái toát lên từ tâm hồn phong phú của "Maryni bé bỏng".
Chopin năm 25 tuổi, thời kỳ quen biết Maria
Đã biết tiếng tăm của Chopin, cả gia đình Vodzhinski đều khuyến khích chuyện tình cảm của chàng với Maria mà chẳng đòi hỏi gì. Cuối cùng Maria cũng đáp lại tình cảm của Chopin khiến chàng rất hạnh phúc. Thời kỳ ấy nhà soạn nhạc đã viết những bài thơ, những dạ khúc, những điệu mazurka tuyệt vời. Tình yêu và nỗi khát khao đã kiến cảm hứng dâng trào trong Chopin.
Tại Dresden, tháng 9/1835, Chopin chính thức ngỏ lời xin cưới Maria và được mẹ cô vui vẻ chấp thuận. Bà thậm thậm chí còn gọi chàng là con, nhưng yêu cầu trước mắt hãy giữ bí mật việc chàng sẽ đính hôn với con gái bà.
Đầy phấn khích và rạng ngời với hạnh phúc, Chopin trở lại Paris. Nhưng chỉ vài tháng, chàng hay tin vị hôn thê của mình đã kết hôn với một bá tước.
Trước đó không lâu, Chopin bị một đợt cảm nặng. Chàng ho như cuốc và trông thảm hại đến nỗi có tin đồn rằng khéo mà người nhạc sĩ trẻ tuổi này sẽ chết yểu. Hẳn là nhà Vodzhinski cuối cùng đã thấy rằng thật chẳng khôn ngoan khi để Maria gắn kết cuộc đời với một người đàn ông ốm yếu. Còn chi tiết của sự tuyệt giao này thế nào thì không ai rõ.
Sau khi Chopin qua đời, trong giấy tờ của ông người ta tìm thấy một bọc thư và một bông hồng khô héo đề tặng Maria. Bên ngoài bọc thư ấy có dòng chữ viết tay của Chopin: "Nỗi muộn phiền của tôi".
Cô gái kém nhan sắc nhưng thông minh này còn làm tổn thương một thiên tài Ba Lan khác - nhà thơ Slovaski. Với Slovaski, cô thậm chí đã từ chối mọi sự săn sóc khiến chàng vô cùng đau khổ.
Tượng đài Chopin tại Varsava
Người đàn bà "hủy diệt"
Cú thất tình thứ hai không chỉ làm tan nát trái tim nhà soạn nhạc mà còn thúc đẩy chàng tìm đến một cuộc gặp gỡ mới với nhiều muộn phiền hơn. Định chôn vùi nỗi đau buồn, sự tuyệt vọng bằng tình yêu mới, nhưng hóa ra tránh vỏ dưa, Chopin lại gặp vỏ dừa.
Một buổi tối u ám, mưa dầm dề, nhà soạn nhạc buồn bã và muốn đi đâu đó cho khuây khỏa. Chẳng suy nghĩ lâu la, chàng quyết định đến nhà một nữ bá tước quen biết – nơi đang diễn ra một cuộc tiếp khách định kỳ. Bước lên cầu thang, chàng có cảm giác như theo sau lưng mình là một... cái bóng ngạt ngào mùi hoa đồng thảo.
y đã khá muộn nên trong phòng khách chỉ còn một nhóm quý tộc là bạn bè thân thích nhất của chủ nhà. Chopin cảm thấy hưng phấn. Chàng đã ngồi vào đàn piano và bắt đầu ứng tấu. Khi bản nhạc kết thúc, Chopin ngước lên. Trước mặt chàng, đứng dựa ngay bên cây đàn là một người phụ nữ trong bộ trang phục đơn giản. Từ nàng, mùi hoa đồng thảo tỏa ra ngạt ngào. Nàng nhìn chàng bằng đôi mắt đen sáng rực như thể muốn thấu suốt tâm can chàng.
Lúc sửa soạn ra về, Chopin lại bắt gặp ánh nhìn của người đàn bà "đồng thảo" ấy. Rồi nàng cùng với nữ chủ nhà đến bên chàng và hết lời tán dương bản nhạc tuyệt vời vừa rồi. Chopin cũng có nghe loáng thoáng về người phụ nữ này. Rằng nàng là một nữ sĩ nổi tiếng, rằng nàng có rất nhiều nhân tình... Tóm lại, nàng là một phụ nữ khác thường. Nhưng Chopin khá là dửng dưng với nàng – chàng vốn không ưa dạng phụ nữ "hủy diệt đàn ông".
Trong thư gửi cho cha mẹ Chopin viết: "Con đã gặp một người rất nổi tiếng, nữ văn sĩ George Sand; nhưng con không có thiện cảm với gương mặt cô ta, nói chung là không thích. Ở cô ấy thậm chí có cái gì cứ đẩy con ra xa".
Nhưng đàn bà đâu chỉ có một thứ vũ khí là sắc đẹp. Chẳng bao lâu, Chopin - chàng trai trẻ với tâm hồn mong manh, dễ vỡ - đã phải lòng George Sand, người đàn bà phì phèo thuốc lá, ăn mặc như đàn ông, nói chuyện suồng sã và sống rất phóng túng.
Tháng 10/1837, Chopin đã thuộc về George Sand hoàn toàn, và theo như lời F. Jullian, nhà soạn nhạc đương thời, thì bởi vì: "Cô ấy biết bao bọc Chopin y như một em bé bị gói chặt trong tã bằng sự chu đáo của tình mẫu tử".
Sau đó đôi uyên ương đi nghỉ ở đảo Balearic rồi định cư tại Paris. Nhưng họ đã thuê hai căn hộ riêng vì Chopin nhất định đòi như vậy. Trong khi "lãnh địa" của nhà soạn nhạc tĩnh lặng (chỉ có học trò ghé đến học nhạc) thì căn hộ của George Sand luôn ồn ã với đủ loại khách khứa. Như thường lệ, vẫn có rất nhiều đàn ông vây quanh cô. Và bọn họ chẳng ngại tỏ tình với nữ chủ nhân ngay trước mặt Chopin.
"Cô ấy là một con quái vật, tôi ghét cô ta, cô ta đang giết tôi", Chopin đã than phiền như vậy. Nhiều lần chàng nổi cơn ghen tuông nhưng người đàn bà vốn dạn dày trong tình trường này luôn tìm được cớ để thanh minh. George Sand gọi người tình trẻ tuổi của mình bằng đủ những cái tên âu yếm: Chopinchik, Chopinetta,... hòng xoa dịu chàng chứ hoàn toàn không quan tâm đến nỗi băn khoăn, tuyệt vọng của chàng.
Chopin vào năm cuối cùng của cuộc đời (39 tuổi)
Cuối cùng, vào mùa hè 1846 hai người cũng chia tay nhau. Thực ra nguyên nhân chính khiến George Sand "ngãng ra" là cô thấy Chopin có những dấu hiệu của bệnh lao, nhưng người đàn bà này đã dùng một cách thức khác còn nhẫn tâm hơn để thúc đẩy cuộc chia tay...
Đó cũng là cách George Sand vẫn hành xử với những người tình khác trong giới văn nghệ sĩ mà cô muốn chấm hết. Cô đã viết một cuốn tiểu thuyết (có nhan đề là "Lucrezia Floriani") mà trong đó cô và Chopin là nhân vật chính nhưng ẩn dưới những cái tên khác. Trong cuốn sách ấy, cô suy tôn mình lên tận mây xanh đồng thời dìm người tình của mình xuống tận bùn đen.
Nhưng đã không có giông tố hay cuồng nộ từ phía Chopin. Ngược lại, ông còn lần lữa mãi mới ra đi. Ông không muốn chia tay với George Sand ngay sau khi cuốn tiểu thuyết được xuất bản để trở thành minh chứng cho những lời đàm tiếu đang lan truyền trong thiên hạ. Ông muốn vớt vát một chút, nhưng đã chẳng ích gì. Sau 10 năm, quan hệ "già nhân ngãi non vợ chồng" của họ cuối cùng họ đã kết thúc.
Một năm sau, khi tình cờ gặp lại nhau tại một cuộc họp mặt, hẳn là hối hận về những trang viết tàn nhẫn và bất công của mình, nữ văn sĩ như muốn giảng hòa. Cô đã bước đến bên người tình cũ, kéo tay ông. Nhưng Chopin vội né người, không nói một lời và bước nhanh khỏi căn phòng.
Những bóng hồng cuối cùng
Nhưng sự đổ vỡ với George Sand cũng không phá hỏng mối quan hệ của Chopin với phụ nữ. Lúc lâm chung, số phận đã ban cho ông một cuộc gặp gỡ bất ngờ với nữ hầu tước Marcelina. Nàng đã chăm sóc cho Chopin những ngày cuối đời, trở thành nữ hộ lý tận tụy và trung thành của Chopin.Delphine Potocki, một nữ hầu tước khác, khi biết Chopin nguy kịch đã vội vàng đến Paris, tới tận nhà nhạc sĩ để hát cho ông nghe những bài hát mà ông yêu cầu.Cây đàn của Chopin hiện đang đặt tại bảo tàng Varsava, Ba Lan Sau khi ông chết, Cô Stirling, người Scottlen, một nữ sinh viên đồng thời là người hâm mộ âm nhạc Chopin, đã mua toàn bộ đồ đạc trong hai căn phòng mà nhạc sĩ vĩ đại đã sống để đem về London đặt trong một bảo tàng mang tên Frederic Chopin mà cô lập ra.
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
TÊN TÀI LIỆU
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ÂM NHẠC
GIÁO TRÌNH MÔN MÚA
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM ÂM NHẠC
GT LỊCH SỬ ÂM NHẠC THẾ GIỚI PHẦN CHÂU ÂU QUYỂN 1
GT LỊCH SỬ ÂM NHẠC THẾ GIỚI PHẦN CHÂU ÂU QUYỂN 2
MÔN HÒA THANH
MÔN HÁT DÂN CA
DOWNLOAD
GT LÝ THUYẾT ÂM NHẠC HỆ ĐẠI HỌC SPAN
CHỈ HUY HỢP XƯỚNG
9
10
MÔN XƯỚNG ÂM
11
CHIỀU HẢI CẢNG
12
13
14
15
16
17
18
19
Chopin_Prel_Argerich_01
Chopin_Prel_Argerich_02
Chopin_Prel_Argerich_03
Chopin_Prel_Argerich_04
Chopin_Prel_Argerich_05
Chopin_Prel_Argerich_06
Chopin_Prel_Argerich_07
Beeth_Son-08_Horowitz_1p
20
Beeth_Son-08_Horowitz_2p
Beeth_Son-08_Horowitz_3p
21
STT
1
2
3
TÊN TÀI LIỆU
BỘ MÔN NHẠC CỤ 2
BỘ MÔN THANH NHẠC 2 QUYỂN I
BỘ MÔN THANH NHẠC 2 QUYỂN 2
DOWNLOAD