(21/3/1685 - 28/7/1750)
Sinh ngày 21 tháng 3 năm 1685 tại Eisenach, Đức, Johann Sebastian Bach đã nhận được những sự giáo dục âm nhạc đầu tiên từ gia đình và các nghệ sĩ chơi đàn ống trong nhà thờ. Đó là điểm bắt đầu của một mối liên hệ phổ quát giữa những kiệt tác trong sự nghiệp của Bach với âm nhạc tôn giáo, về cách thức cũng như mục đích.
Mặc dù cả cuộc đời Bach không bao giờ đi xa khỏi miền Đông Bắc Đức, âm nhạc của ông lại mang những dấu ấn có được qua tiếp cận với những nhạc sĩ, trường phái trước và cùng thời với ông khắp châu Âu, ở Hà Lan, Pháp, Ý và thậm chí ở Anh. Nhờ sự kết hợp những nét riêng này, Bach đã phát triển một cách thức sáng tác bậc thầy mà cho đến sau này không có một nhạc sĩ nào đạt được, dựa trên nền tảng một kĩ thuật đối vị đặc biệt chuẩn xác và chặt chẽ, nhưng lại có chỗ cho một sự tự do không giới hạn về màu sắc hoà âm, tiếu tấu và đường nét giai điệu. Một điều quan trọng không kém là người ta nhận thấy rằng đằng sau khối lượng đồ sộ những tác phẩm của Bach dành cho bàn phím, thính phòng hay phục vụ tôn giáo, vẫn còn có một quan niệm và niềm tin của riêng ông đối với thế giới. Với điều này, Bach không chỉ là nhạc sĩ đã đưa sự phát triển của âm nhạc thời kì Baroque lên đến mức tột cùng của nó, mà đã trở thành một trong số ít những nhạc sĩ vĩ đại nhất tiêu biểu cho nền âm nhạc nghệ thuật phương Tây.
Sự ra đi của Bach ngày 28 tháng 7 năm 1750 đã trở thành mốc đánh dấu sự kết thúc của thời kì âm nhạc Baroque và bắt đầu của thời kì Cổ điển. Từ đó cho đến tận ngày nay người ta vẫn còn thấy hình ảnh của Bach trong các thế hệ nhạc sĩ, trường phái, thậm chí cả những người tiên phong nhất.
(17/12/1770 - 26/3/1827)
Ludwig van Beethoven (17 tháng 12 năm 1770 – 26 tháng 3 năm 1827) là một nhà soạn nhạc cổ điển người Đức. Phần lớn thời gian ông sống ở Wien, Áo. Ông là một hình tượng âm nhạc quan trọng trong giai đoạn giao thời từ thời kỳ âm nhạc cổ điển sang thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Ông có thể được coi là người dọn đường (Wegbereiter) cho thời kỳ âm nhạc lãng mạn. Beethoven được khắp nơi công nhận là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại và ảnh hưởng tới rất nhiều những nhà soạn nhạc, nhạc sỹ, và khán giả về sau.
Năm 1781, Beethoven 11 tuổi, ông đã biểu diễn như một nghệ sĩ piano điêu luyện tại Hà Lan. Cũng trong thời gian này, ông cũng được cử làm phụ tá chơi đàn organ trong nhà thờ tại Bonn. Năm 1782 chính Neefe đã cho xuất bản tác phẩm đầu tiên của Beethoven, bản "Các variation cho clavecin của bản march của Ernst Christoph Dressler". Cũng chính trong năm này, Beethoven trở thành người đại diện cho Neefe ở dàn nhạc hoàng gia với vai trò nghệ sĩ đại phong cầm. Năm 14 tuổi, Beethoven giành được vị trí chính thức là nghệ sĩ chơi đại phong cầm trong dàn nhạc này. Tuy nhiên trong thời gian này ông vẫn tiếp tục luyện tập dương cầm.
Năm 1795, Beethoven bắt đầu nổi danh là một nghệ sĩ piano với bản Concerto cung do trưởng. Nhưng chẳng may từ năm 1780 ông bắt đầu bị lãng tai. Lúc đầu ông mất hết hy vọng nhưng rồi cố gắng thích nghi với điều kiện sống và bắt đầu tập trung tư tưởng tình cảm cao độ hơn bất cứ lúc nào hết trong sáng tác.
Những tác phẩm của Beethoven hoàn thành trong khoảng 1803-1805 vượt trổi hẳn những gì mà ông sáng tác trước đó. Đó là bản Sonate Kreutzar (1803) viết cho violon và piano. Bản Giao hưởng Số 3 Anh hùng ca (1804) có sức cuốn hút mạnh mẽ và gây xúc động sâu xa, lúc đầu ông đề tặng Napoléon nhưng khi Napoléon lên ngôi Hoàng đế thì ông đã xé đi lời đề tặng. Các Sonate cho piano, Bình minh (1804) và Appasionta (1805), Bản Giao hưởng Số 4 (1806), Bản Giao hưởng Số 5 Định mệnh (1808) đều có giá trị nghệ thuận lớn lao. Ông muốn lột tả trong âm thanh về một cuộc sống trong sự đấu tranh với cái chết bằng một sức mạnh khủng khiếp cuối cùng đã ca khúc khải hoàn, như nhân vật nữ trong vở Opera Fidelio (1805) ra sức bảo vệ người chồng của mình chống lại sự xấu xa bạo tàn, và trong khúc Missa Solemnis là lời cầu nguyện để giải thoát khỏi đau thương chiến tranh.
Trong số những tác phẩm lớn của ông phải kể đến các bản giao hưởng như Eroica (giao hưởng Anh hùng ca), Giao hưởng Định mệnh, số 9, The Pastoral (Giao hưởng đồng quê), các tác phẩm cho dương cầm như Für Elise và các sonata Thống thiết (Pathétique) và Ánh trăng (Moonlight)...
(8/6/1810 - 29/7/1856)
Là người kế thừa tinh thần của Bach và Beethoven, người tiên đoán về Chopin và Brahms, một nhà phê bình tận tâm và sắc sảo và một trí thức dòng giõi quý tộc cởi mở với bất cứ cái gì liên quan đến văn chương thơ phú, Robert Schumann trong hình thức âm nhạc là hiện thân của sự thăng trầm tình cảm và trí tuệ của toàn bộ trào lưu Lãng mạn Đức.
Robert Schumann sinh ra tại Zwickau ở Saxony ngày 8/6/1810, là con út trong số năm người con của gia đình. Cha ông, một nhà xuất bản và buôn bán sách, rất yêu âm nhạc và văn chương. Mẹ ông, là một nhạc sĩ nghiệp dư có tài, đã dạy cho ông những bài cơ bản về piano, vậy nên khi 11 tuổi, ông đã cố gắng để biến giấc mơ thời niên thiếu thành một tác phẩm nhỏ dành cho giọng hát và nhạc cụ dựa trên bài thánh ca thứ 150.
Ông đọc rất nhiều, và nhà văn làm ông có cảm giác ngây ngất như chính Schumann đánh giá là Friedrich Richter, nhà văn người Đức mới quá cố (1825), người lấy bút danh bằng một cái tên Pháp là Jean Paul Richter. Mặc dù rất mê âm nhạc, Schumann lại được ghi danh vào khoa Luật của trường Đại học Leipzig năm 1828. Ông đã không phản đối nhưng lại bị rơi vào một tình trạng lãnh đạm sâu sắc. Để vượt qua cú sốc đầu tiên, ông đã phải rất nỗ lực để thích nghi với nó. Ông tới các sàn đấu kiếm, thám hiểm các vùng quê xung quanh Leipzig, du lịch tới Munich và Bayreuth với bạn mình là Rosen, bắt đầu nghiên cứu về triết học của Kant, Fichte, Schelling và Hegel, học đấu kiếm, chơi piano và viết những lá thư tinh tế quen thuộc kiểu Proust.
Chuyến đi đến Leipzig của bác sĩ Carus, một người quen cũ ở Zwickau đã giúp kết thúc thời kì băn khoăn, không phương hướng này trong cuộc đời ông. Được đón chào tại ngôi nhà thân thiện, Schumann rốt cuộc cũng có thể nghỉ ngơi và nói chuyện thẳng thắn, không còn bị hạn chế bởi sự e ngại mà ông luôn cảm thấy khi có mặt những người xa lạ. Bạn bè của Carus gồm cả hai con người rất tuyệt vời là giáo sư Wieck và con gái của ông, họ đồng thời là thầy và trò. Clara Wieck, người mà Schumann sẽ gắn bó trong phần đời còn lại mình, là một cô gái rất thông minh và có tài năng âm nhạc bẩm sinh (cô đã có một buổi biểu diễn piano rất thành công khi chưa đến 10 tuổi). Schumann và Wieck ngay lập tức đã rất hiểu nhau và mối quan hệ thầy trò giữa họ không thể mặn nồng hơn thế. Dưới sự dạy dỗ nghiêm khắc của Wieck, ông đã được củng cố thêm về kỹ thuật piano mà cho đến tận lúc đó vẫn chỉ là những mảng chắp vá, và mặc dầu nghiên cứu âm nhạc chiếm gần trọn thời giờ của ông, ông vẫn tiếp tục học luật để làm vui lòng mẹ mình.
Đến cuối tháng 8/1829 Schumann khởi hành tới Italy và trở về sau hai tháng đi thăm Brescia, Milan và Venice. Rồi ông chuyển từ Leipzig tới Heidelberg, ông lại cảm thấy sự căng thẳng trước đó. Sự mặc cảm, bản năng dịch chuyển của ông không ngừng khao khát tình yêu, cái đẹp và âm nhạc và sự khủng hoảng mà đôi khi xảy ra trong ông đã đột ngột bắt đầu tại một buổi hoà nhạc Phục sinh ngoài trời ở Frankfurt ngày 11/4/1830, khi ông nghe Paganini chơi lần đầu tiên. Buổi biểu diễn đó đã làm ông loá mắt, như thể Paganini đã lột bỏ lớp mạng che của một sự thật cổ xưa, bị che giấu trong con người ông. Cho đến mùa hè năm 1830 đó, lần đầu tiên ông đã hiểu được sức mạnh ma thuật của âm nhạc.
(27/1/1756 - 5/12/1791)
Wolfgang Amadeus Mozart (27 tháng 1, 1756 – 5 tháng 12, 1791) là một trong những nhà soạn nhạc nổi tiếng, quan trọng, và có nhiều ảnh hưởng nhất trong thể loại nhạc cổ điển châu Âu. Các tác phẩm của ông được xem là đỉnh cao trong các lĩnh vực nhạc piano, nhạc phòng, nhạc giao hưởng, nhạc tôn giáo và opera. Tuy đặc điểm nhạc của ông bị một số người chê trong thời đó, ông đã được nhiều nhà soạn nhạc sau này ngưỡng mộ và các tác phẩm của ông đã trở thành một phần quan trọng trong nhiều cuộc hoà nhạc.
Thời thơ ấu
Wolfgang Amadeus Mozart sinh ngày 27 tháng giêng, 1756, tại Salzburg, Thánh chế La Mã (nay Áo). Leopold Mozart, một nhạc sĩ vĩ cầm và cũng là một giáo viên, đã đích thân giáo dục con trai của ông. Wolfgang không phải cắp sách đến trường; thay vào đó cậu được học tại nhà với cha và chị gái của cậu. Âm nhạc là môn học chính. Tuy nhiên, cậu bé Mozart vẫn được học toán, môn học cậu rất thích, và các môn khác như La tinh, tiếng Pháp, tiếng Ý và một ít tiếng Anh. Cậu cũng đọc rất nhiều văn học kịch nghệ, đó là chất liệu mà cậu sẽ dùng để viết opera sau này.
Wolfgang không thích chơi những trò chơi trẻ con bình thường, trừ phi có liên quan tới âm nhạc. Nhờ sự chăm lo dạy dỗ của người cha, vốn là một nhạc sĩ nổi tiếng của Wien, đến năm 3 tuổi đã nghe hiểu được âm nhạc, 4 tuổi đánh được đàn dương cầm cổ và organ. Cậu bắt đầu soạn nhạc cho đàn phím từ lúc năm tuổi, viết những bản nhạc hòa tấu khi cậu lên sáu. Những bản sônat cho đàn vĩ cầm được xuất bản khi cậu lên tám. Thật ra có thể nói rằng Mozart đã khởi đầu sự nghiệp âm nhạc trước thời gian cậu lên năm và theo đuổi cho đến ngày qua đời, ngót ba mươi năm âm nhạc.
Học vấn của Mozart phát triển cùng những chuyến du lịch, được xem như những cột mốc trong cuộc đời cậu. Khi cậu lên sáu, Wolfgang và người chị, lớn hơn cậu năm tuổi và cũng là một thần đồng âm nhạc, cùng đi với cha của họ đến München. Cuối năm đó họ chơi nhạc cho Hoàng hậu của Viên. Năm lên 7, cậu đã tổ chức những buổi diễn nhạc ở Paris, và được một nhà xuất bản ở đây xuất bản một tập nhạc, gồm 4 bản violon và orcgan. Sau đó, cha cậu lại dẫn cậu đi khắp các nước Ý, Anh..., gia đình Mozart nổi danh khắp những nơi cậu đến, và Wolfgang, với tài năng sớm phát triển của cậu, đã chinh phục mọi người. Quan trọng hơn, Mozart có cơ hội thưởng thức âm nhạc thịnh hành trong các thành phố này. Mozart đã gặp những nhạc sĩ khác và bắt đầu thành hình quan điểm về sự nghiệp của họ.
Mozart có ký ức chi tiết âm nhạc phi thường, ông có thể hợp nhất tinh hoa âm nhạc khác nhau của quốc gia này với quốc gia khác vào trong tác phẩm của mình. Tại Luân Đôn, Mozart gặp Johann Christian Bach, con trai của nhạc gia vĩ đạiJohann Sebastian Bach, Christian bị gây ấn tượng, đã trở thành người dẫn dắt nhạc sĩ Mozart trẻ và quan tâm theo dõi sự nghiệp của cậu. Trở về nước, Mozart nghiên cứu tổng phổ âm nhạc của J. C. Bach, và ảnh hưởng của Bach được thể hiện trong tác phẩm của Mozart vào thời gian ấy.
Sự nghiệp
Khoảng cuối năm 1769, năng khiếu âm nhạc sớm phát triển của Mozart đã bắt đầu nở rộ, tuy mới chỉ lên mười ba, cậu bắt đầu sự nghiệp sáng tác một cách nghiêm túc. Đức Tổng giám mục tại Salzburg đã chấp nhận Mozart như một nhạc trưởng, bằng cách cấp một khoản thu nhập cho cậu. Hai cha con Mozart đã thực hiện ba chuyến viễn du sang Ý để công diễn, họ đã được công nhận và gây được sự chú ý đến sự nghiệp của cậu trong giới quý tộc ở đó. Tại Milano Mozart được ủy nhiệm viết opera, vở Mitridate. Vở này sau đó, do chính Mozart chỉ huy, đã được tán thưởng nồng nhiệt. Trở về Salzburg, Mozart biên soạn một loạt symphony và nhạc phụng sự cho Giáo hội.
Việc trở về Salzburg của Wolfgang vào 1773 là một trong những cột mốc, lúc ấy có một sự bùng nổ sáng tác khác thường, và một sự chuyển tiếp ra khỏi ảnh hưởng âm nhạc Ý để thiên về phong cách âm nhạc Đức, được đại diện bởi Joseph Haydn.
Vị Tổng giám mục mới, Ngài Hieronymus, Bá tước Colloredo, không mấy hài lòng với tần suất yêu cầu của Mozart. Về phần Mozart, khi thấy mức sống của Salzburg đã tăng lên nhiều, nhưng sự yêu chuộng nghệ thuật thì xuống dốc đáng đau buồn, lúc ấy, mối quan hệ của Mozart với Bá tước Colloredo ngày càng trở nên gay gắt.
Cuối cùng, vào tháng 8 năm 1777, ở tuổi hai mươi mốt, Wolfgang xin từ nhiệm, và Bá tước Colloredo đã đồng ý. Thời gian này, Leopold quyết định rằng ông phải còn ở lại phục vụ nhà thờ. Cho nên Wolfgang cùng mẹ đã chuyển đi München, rồi đến Mannheim.
(25/10/1838 - 3/6/1875)
Vở opera Carmen, nội dung lấy theo tác phẩm cùng tên của Mérimée, ngày nay được coi như tác phẩm hay nhất của Georges Bizet và cũng là hay nhất nước Pháp thế kỷ XIX, là nổ lực cuối cùng của một tác giả đã nản lòng để giành lại sự đánh giá cao hơn của công chúng mà trước đó đã đón nhận một cách thờ ơ ghẻ lạnh những tác phẩm của mình. Thế nhưng, Carmen, lần đầu tiên được dàn dựng vào ngày 3-3-1875, cũng thất bại lúc được công diễn. Mặc dù vậy, Bizet vẫn tin tưởng rằng ông đã viết được một tác phẩm xuất sắc. Niềm tin ấy của Bizet đã được minh chứng vì ngày nay, Carmen là một trong những "vở opera nổi tiếng nhất thế giới", tác phẩm không thể thiếu vắng trong chương trình biểu diễn của nhiều nhà hát kịch trên thế giới.
Bizet, nhạc sĩ và nhà soạn nhạc Pháp lỗi lạc, một trong những nhà viết opera lớn nhất của mọi thời đại, sinh ngày 25-10-1838 tại Paris. Lên 4 tuổi, Bizet đã viết các nốt nhạc và năm 9 tuổi, bắt đầu vào học tại Nhạc viện Paris. Ở đây, ông tỏ ra là một tài năng khác thường và xuất sắc nhất nhạc viện trong gần 10 năm, đặc biệt là về phương diện sáng tác âm nhạc. Năm 1857, Bizet giành được giải thưởng lớn Rome với bản Cantat Clovis và Clotilde, đây cũng là tác phẩm tốt nghiệp nhạc viện của ông. Theo đó, ông được hưởng một chuyến du lịch 3 năm vòng quanh nước Ý.
Chuyến đi này đã làm nảy sinh ở Bizet những ý tưởng lớn lao và những nguồn cảm hứng mới. Thế là các vở opera của ông lần lượt xuất hiện. Đầu tiên là Les Pêcheurs de perles (Những người mò ngọc, 1863), tiếp đó là La jolie Fille de Perth (Người đẹp thành Perth, 1867), L'Arlésienne (Cô gái Arles, viết theo vở bi kịch của Alphonse Daudet, công diễn lần đầu tại Paris ngày 10-11-1872), là vở opera được biết đến nhiều hơn hết so với các tác phẩm khác của ông và sau cùng là Carmen,đỉnh cao của sự nghiệp sáng tác của Bizet.
Ngoài sáng tác opera, Bizet còn là nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng và là người xướng âm xuất sắc các bản đàn bè. Ông viết nhiều tác phẩm giao hưởng, các operet, các bản nhạc dành cho đàn piano và thanh nhạc. Bizet mất vì bệnh tim tại Paris ngày 3-6-1875, ba tháng sau khi vở Carmen được đưa ra công diễn, chưa tròn 37 tuổi. Với sáng tác của mình, Bizet đã đi vào lịch sử âm nhạc thế giới như là một trong những đỉnh cao nhất của nghệ thuật opera theo chủ nghĩa hiện thực Pháp và thế giới ở thế kỷ XIX.
(22/8/1862 – 25/3/1918)
Achille-Claude Debussy (22 tháng 8 1862 – 25 tháng 3 1918) là một nhà soạn nhạc người Pháp nổi tiếng. Cùng với Maurice Ravel, ông được coi như nhà sáng tác nổi bật nhất trong trường phái âm nhạc ấn tượng (mặc dù bản thân ông không thích thuật ngữ này được dùng để miêu tả những sáng tác của mình) [1] Ông là tên tuổi lớn trong nền âm nhạc châu Âu vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Ông đã để lại nhiều tác phẩm kinh điển cho âm nhạc Pháp thời kỳ này, chủ yếu là các bản giao hưởng, nhạc thính phòng và các bản solo piano.
Tiểu sử
Gia đình Debussy, một gia đình lâu đời thuộc dòng họ Burgundy, đã là nông dân từ những năm 1600. Nhạc sĩ Claude Achille sinh năm 1862 ở Saint Germain-en Laye, khi ấy gia đình cậu đang sở hữu một cửa hàng đồ sứ nhỏ. Cậu được người cô Clémentine dạy dỗ ở Paris, tại đây cô có mối quan hệ với người sưu tập nghệ thuật Achille-Antoine Arosa, cha đỡ đầu của Claude.
Người ta biết tương đối ít về thời thơ ấu của Debussy, ngoài việc lần đầu tiên cậu đến với âm nhạc trong chuyến đi Riviera, ở đó cậu được học piano từ Giovanni Cerutti, một giáo viên người Ý. Được trao học bổng nhà nước, cậu vào học ở nhạc viện Paris, ở đây, thầy giáo piano Marmontel đã nhanh chóng nhận ra tài năng âm nhạc đặc biệt của cậu. Cậu còn học hòa âm với Emile Durand và học sơ qua về organ với César Franck. Để kiếm thêm, Claude còn đi gia sư piano và đệm đàn cho những những người nghiệp dư giàu có. Quá trình làm việc trong các gia đình giàu có đã thường xuyên đưa cậu đi xa, các chuyến đi Italy và Nga đã có một ảnh hưởng đặc biệt sâu sắc đến trí tuệ và cảm xúc của cậu. Công việc là nghệ sĩ piano cho đại gia đình Marguérite Wilson–Perlouze đã đem lại cho cậu cơ hội được ở một thời gian trong một trường văn hóa nghệ thuật rất thú vị, đó là lâu đài đẹp đẽ ở Chenonceaux, cậu đã ở cùng với nhiều nghệ sĩ khác, trong đó có cả nhà văn George Sand.
Năm 1880, ở tuổi 18, Debussy bắt đầu làm việc cho Nadia von Meck, người bảo trợ nổi tiếng của Tchaikovsky, và đã cùng với bà đi vòng quanh châu Âu (ở Vienna, cậu còn được xem cả vở Tristan và Isolde của Wagner). Quá sốt ruột với những hòa âm truyền thống đang học ở nhạc viện, cậu đã bắt đầu mày mò đưa các chủ đề của De Musset vào âm nhạc và viết nên bản Trio Piano Son trưởng, đây là tác phẩm mới được tìm lại.
(11/6/1864 – 8/9/1949)
"Tôi có thể không phải là một nhà soạn nhạc ở hàng thứ nhất, nhưng tôi là nhà soạn nhạc đứng đầu ở hàng thứ hai!" - Richard Strauss
Richard Strauss sống vào thời kỳ hậu Lãng mạn, là một nhà soạn nhạc nổi bật vào lúc đó. Strauss cùng thời với Mahler nhưng không giống Mahler, người dành tâm huyết cả đời cho giao hưởng, còn ông đặc biệt quan tâm tới 2 thể loại là tone poem (thơ giao hưởng) và opera. Nổi tiếng với vai trò sáng tác nhạc, Strauss đồng thời cũng là một nhạc trưởng trứ danh, với hầu hết các tác phẩm của ông đều được ông chỉ huy trong lần đầu công diễn.
Richard Strauss sinh ngày 11/06/1864 ở thành phố Munich (lúc đó thuộc vương quốc Bavaria), con của Franz Strauss, nhạc công horn chính của Munich Court Opera. Do đó, Strauss nhận được sự giáo dục âm nhạc từ người cha ngay từ nhỏ và có sáng tác đầu tiên khi mới 6 tuổi. Bắt đầu từ đó ông sáng tác liên tục cho đến khi qua đời. Ngay từ nhỏ, Strauss có may mắn được vào xem các buổi diễn tập của Munich Court Opera, nhờ đó mà ông có thêm hiểu biết về nhạc lý và việc sáng tác cho dàn nhạc từ người trợ lý của nhạc trưởng dàn nhạc. Năm 1874, Strauss lần đầu tiên được nghe các tác phẩm của Richard Wagner như Lohengrin, Tannhäuser và Siegfried. Ngay từ lần đầu tiên tiếp xúc với những tác phẩm ấy, Strauss đã bị lôi cuốn và âm nhạc của Wagner đã lập tức thấm sâu vào ông mãi mãi. Tuy nhiên cha ông ngăn ông học tập theo Wagner. Thực chất thì gia đình ông không đánh giá cao Wagner nên việc ngăn cấm con của cha Strauss là đều dễ hiểu. Cuối đời, Richard Strauss đã bày tỏ về sự đáng tiếc ấy.
Năm 1882, Strauss vào học ở trường đại học Munich, ngành triết học và lịch sử, chứ không phải là âm nhạc, nhưng chỉ một năm sau đó ông phải bỏ dở để đến Berlin. Ở nơi ở mới, Strauss nhanh chóng được Hans von Bülow để ý và được nhận làm người trợ lý của vị nhạc trưởng tài năng này. Sáng tác của ông trong thời kỳ này không có gì đặc biệt, chúng đều tuân theo những khuôn mẫu của Robert Schumann hay Felix Mendelssohn không một chút sáng tạo, mà cha ông đã dạy ở nhà. Nổi bật trong số đó là Horn Concerto No. 1 được sáng tác trong thời gian 1882 - 1883. Phong cách sáng tác của Strauss bắt đầu thay đổi khi ông gặp nhà soạn nhạc và nghệ sĩ violin trứ danh Alexander Ritter, chồng của cháu gái Richard Wagner. Chính Ritter làm thay đổi quan điểm của Strauss và khuyến khích nhà soạn nhạc trẻ sáng tác tone poem; ông cũng giới thiệu những tiểu luận của Richard Wagner và Schopenhauer cho Strauss, từ đó giúp định hình tư duy sáng tác trong tương lai của Strauss. Strauss tiếp tục chỉ huy một trong những vở opera của Ritter và về sau Ritter đã viết một bài thơ dựa trên chính tác phẩm "Tod und Verklärung" của Strauss.
(25/3/1881 - 26/9/1945)
Béla Bartók là nhà soạn nhạc lớn người Hungrary và là một trong số những nhạc sĩ vĩ đại nhất của thế kỷ hai mươi. Bartók sinh ngày 25/03/1881 tại Nagyszentmiklós (Great St Nicholas), sau này là Sînnicolau Mare, thuộc Rumani và qua đời vào ngày 26/09/1945 tại một bệnh viện ở New York, Mỹ. Ông bộc lộ năng khiếu âm nhạc từ rất sớm và đã theo học tại Học viện âm nhạc Budapest. Sau khi tốt nghiệp, ông tham gia biểu diễn piano trong dàn nhạc và làm giảng viên piano ở Học viện trong 25 năm. Hầu hết các tác phẩm âm nhạc khiến Bartók nổi danh được sáng tác vào những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi theo lời đề nghị của các dàn nhạc nước ngoài. Bartók rất say mê các loại hình âm nhạc dân gian và ông đã nghiên cứu nhạc dân gian của Rumania, Slovakia, Serbi, Croatia, Bungaria, Thổ Nhĩ Kỳ và Bắc Mỹ. Ông là một trong số những sáng lập viên của khoa âm nhạc dân tộc, nghiên cứu về nhân loại học hay tính dân tộc của âm nhạc.
Peter Ilyich Tchaikovsky ( 1840 - 1893 )
Không giống như hầu hết những nhà soạn nhạc Nga cùng thời, Tchaikovsky không được sinh ra trong một gia đình nông thôn hay dòng dõi quý tộc. Cha của ông, ông Ilya Petrovich là một kỹ sư mỏ, làm việc tại một thị trấn nhỏ ở Votsink - nơi cậu bé Peter là người thứ hai trong số 6 anh chị em được sinh ra vào ngày mùng 7 tháng 5 năm 1840. Mẹ của ông, Alexandra Andreyevna Assier, xuất thân từ một gia đình nhập cư từ Pháp. Và theo thói quen của những gia đình khá giả ở Nga, Peter bắt đầu học các bài tập piano đầu tiên từ rất sớm. Cha của ông chuyển đến St Petersburg vào năm 1850 và Peter được chọn vào học trường Luật ở đó. Sau đó, ông vào làm thư ký ở Bộ Tư pháp.
Vốn là một người cuốn hút, lịch thiệp và có học thức, Tchaikovsky có mặt tại tất cả các phòng khách sang trọng của St Petersburg và trò chuyện dễ dàng với họ về sân khấu và văn học một cách tự tin. Công việc của ông (không phải là nghề đòi hỏi đặc biệt) chỉ là sự cần thiết về tài chính không hơn và âm nhạc cũng không phải là niềm yêu thích lẫn trò tiêu khiển duy nhất của ông.
Tuy nhiên, sự phiền muộn và chán nản đã đến với Tchaikovsky khi ông 14 tuổi, sau cái chết đột ngột của mẹ ông trong thời gian bệnh dịch tả lan truyền và nỗi buồn chán ấy đã ngày càng tăng lên. Được sự động viên của người thân và bạn bè, Tchaikovsky muốn hiểu biết sâu hơn về âm nhạc - lĩnh vực này đã trở thành niềm an ủi lớn đối với ông. Vào mùa thu năm 1861, ông đã học một lớp lý luận âm nhạc với một trong những giáo viên ngiêm khắc và kỳ cựu nhất St Peterburg, thầy Nikolai Zaremba, người đầu tiên đã nhận ra đầy đủ tài năng của Tchaikovsky và đã khích lệ ông học hành một cách nghiêm túc (dù rằng thầy Zaremba đã phải nỗ lực vượt qua sự thờ ơ của cậu học sinh mình). Tchaikovsky đã từng nói: “Giả sử tôi có tài năng thật nhưng điều đó không có nghĩa là tôi có khả năng học ngay lúc này. Tôi đã trở thành một công chức và tôi không giỏi lắm ở công việc này. Tôi đang làm tất cả những gì để mình có thể tiến bộ hơn, nhưng làm thế nào tôi có thể vừa đi làm vừa học nhạc cùng một lúc được?”. Rồi những hoài nghi cũng qua đi nhưng Tchaikovsky chẳng chứng tỏ được gì hơn là một câu học trò lười nhác. Vào năm 1862, ông đăng ký vào học tại Nhạc viện St. Perterburg mới được thành lập; tại đây, ông tiếp tục các bài học về hoà thanh và đối vị với Zaremba và soạn nhạc và phối khí với Anton Rubinstein - người đã thuyết phục được Tchaikovsky bỏ công việc cũ của mình và tìm cho ông những học sinh của các lớp học tư để ông dạy nhằm cải thiện phần nào vấn đề tài chính đang đè nặng lên vai Tchaikovsky do sức khoẻ ngày một yếu của cha ông. Niềm vui của Tchaikovsky khi từ bỏ công việc cũ đã thể hiện rất rõ trong những dòng thư mà ông đã gửi cho chị gái mình: “... Một điều mà em chắc chắn đó là: em sẽ trở thành một nhạc sỹ giỏi và em sẽ có thể tự nuôi sống bản thân mình... Khi em hoàn thành xong việc học tập, em mong rằng sẽ được ở cùng chị trong suốt một năm để em có thể sáng tác được một tác phẩm vĩ đại thực sự tại ngôi nhà yên tĩnh, thanh bình của chị. Sau đó... là đi vòng quanh thế giới!”
Tchaikovsky hoàn thành việc học tập của mình tại nhạc viện là vào năm 1965. Tác phẩm cho kỳ thi tốt nghiệp của ông là một bản catata to Joy, soạn cho các ca sĩ solo, dàn hợp xướng và dàn nhạc dựa trên lời thơ nổi tiếng của Schiller, và tác phẩm này đã đem lại cho ông huy chương bạc và rất nhiều lời khen ngợi. Tuy nhiên các sáng tác khác của ông thời kỳ này cũng chỉ giành được sự yêu thích tương đối. Vào đầu năm 1866, anh trai của Anton Rubinstein là Nikolai đã mời Tchaikovsky làm giảng viên môn hoà thanh tại một nhạc viện mà ông mới thành lập tại Moscow. Tchaikovsky đã nhanh chóng đồng ý và chuyển tới thủ đô nước Nga cổ kính này, bắt đầu cuộc sống của một nhạc sỹ chuyên nghiệp.
“Em đã dần dần quen với cuộc sống ở Moscow, nhưng sự cô đơn làm em cảm thấy buồn chán. Những giờ giảng lý thuyết của em đã thành công tới mức tất cả những nỗi lo sợ ấy giờ đây đã tiêu tan và em đã bắt đầu như một giáo viên thực thụ... Em đang sống ở nhà thầy Rubinstein. Ông ấy quả là một con người tốt bụng và hiểu biết, hoàn toàn trái ngược với người em trai khó tính của ông ấy. Ông ta cho em một phòng ở ngay cạnh phòng ngủ của ông. Khi ông ta đã ngủ, em luôn lo lắng rằng tiếng sột soạt từ cây viết của em sẽ làm phiền tới ông ấy vì bức tường ngăn cách hai phòng rất mỏng”.
Tchaikovsky tiếp tục công việc soạn nhạc một cách chăm chỉ, với sự giúp đỡ rất lớn từ những lời khuyên về chuyên môn của Nikolai Rubinstein.
Ông đã viết một overture giọng Pha trưởng vào năm 1866 và nó đã được biểu diễn ở Moscow vào ngày 16 tháng 3 năm đó. Ông cũng sáng tác một Festival Overture giọng Rê trưởng, Op. 15 (có lẽ đây là tác phẩm hay nhất của ông trong giai đoạn này) dựa trên quốc ca Đan Mạch và bản giao hưởng số 1 giọng Son thứ (Winter Daydreams).
Những tìm tòi của Tchaikovsky về nền âm nhạc Nga đã được thể hiện trong vở opera đầu tiên của ông The Voyevoda, bắt đầu viết năm 1867 với phần lời của Ostrovsky. Vở opera này đã được công diễn lần đầu tiên tại Nhà hát Bolshoi, Moscow vào ngày 11 tháng 2 năm 1869. Trong một thời gian ngắn sống ở St. Peterburg vào mùa xuân năm 1868, Tchaikovsky đã có được mối quan hệ với một nhóm các nhà soạn nhạc người Nga, được biết đến với cái tên “Nhóm 5 người” (bao gồm Balakirev, Mussorgsky, Rimsky-Korsakov, Borodin và Cui) mặc dù không có cách nào giúp Tchaikovsky có thể chia sẻ được với họ nguồn cảm hứng trong tư tưởng và tâm hồn của xu hướng dân tộc Nga. Và dẫu rằng Tchaikovsky đã sống phần lớn cuộc đời của ông tại Moscow - trái tim của nước Nga cổ kính - nhưng ông chưa bao giờ thấy thực sự cần thiết phải học soạn nhạc trong một ngôi trường truyền thống. Mối liên hệ giữa các nghiên cứu rộng lớn của ông tại nhạc viện St. Peterburg (pháo đài của nền âm nhạc phương Tây ở Nga), nguồn gốc một phần không phải người Nga của Tchaikovsky và tầm quan trọng của cô gia sư người Thụy Sỹ thời thơ ấu của ông - Fanny Durbach - đã hướng năng lực sáng tạo của ông theo hướng tân lãng mạn và trung thành với nguyên tắc: “Nghệ thuật vị nghệ thuật”. Giulio Confalonieri đã nhận xét về âm nhạc của Tchaikovsky: “Chúng ta nhận thấy một sự hiện diện liên tục, một nỗi âu sầu “nữ tính”, một sự suy nhược siết chặt lấy nỗi u uất tinh thần lẫn một dạng mơ hồ của sự chán đời. Chính sự suy nhược và âu sầu này vừa là động lực đằng sau các các tác phẩm của ông vừa là một sự thật về thẩm mĩ và con người mà người ta tìm kiếm để truyền đạt. Thực ra mà nói cái đã lôi cuốn Tchaikovsky đến với các bài hát Nga và những điệu nhảy được ưa chuộng không phải bắt nguồn từ việc phục hồi lại tính chủ nghĩa dân tộc mà từ nỗi âu sầu buồn bã, nỗi nuối tiếc của một tâm trạng khi biết một người không thể chơi một trò chơi nào đó, một hình ảnh về những điều tốt đẹp nhưng bị phủ nhận, sự mất mát từ chính lúc khởi đầu bởi sự vận hành của một số phận cá nhân bị xa lánh, khước từ, loại bỏ”.
Tiếp theo Tchaikovsky:
Mối tình thực sự đầu tiên trong cuộc đời của Tchaikovsky là với một ca sỹ người Bỉ Désirée Artôt vào năm 1868 đã có kết cục không mấy tốt đẹp. Bản thơ giao hưởng “Fate” (Định mệnh), Op.77 được sáng tác trong năm này và một năm sau đó là sự ra đời của tác phẩm quan trọng hơn Overture “Romeo và Juliet” - đây là tác phẩm đã được công diễn nhiều nhất trong số tất cả các tác phẩm của ông.
Mặc dù vở opera kế tiếp của Tchaikovsky The Oprichnik (1870 - 1872) - có một chủ đề về nước Nga rất đặc trưng, lấy bối cảnh thời đại của Ivan bạo chúa nhưng vở opera vẫn đan xen những giai điệu và vũ điệu của Nga với tính kịch của Ý. Tuy nhiên ông đã tạo ra nhiều hơn những yếu tố truyền thống trong bản giao hưởng số 2 “Little Russian” (nước Nga nhỏ) giọng Đô thứ, Op. 17, được tạo nguồn cảm hứng từ văn học dân gian Ukraine. Bản tứ tấu đàn dây giọng Rê trưởng, Op. 11, được viết vào năm 1871, chịu ảnh hưởng của “Nhóm 5 người” và đây là tác phẩm thính phòng thành công nhất của ông.
Tuy nhiên, cuộc sống của Tchaikovsky chưa bao giờ ở trạng thái cân bằng. Sự nghiệp sáng tác của ông dường như càng được toại nguyện bao nhiêu cả về tính chuyên nghiệp cũng như về mặt tài chính thì cuộc sống của ông với tư cách là một giáo viên tại nhạc viện ngày càng trở nên không chịu đựng nổi. Tuy vậy nhưng âm nhạc của ông thời kỳ này không mang tính tự sự sâu sắc như các tác phẩm sau này của ông. Trái lại, khát vọng của ông là dường như là muốn gây ấn tượng với công chúng với những tác phẩm chói sáng, có trình độ kỹ thuật cao. Và Tchaikovsky đã gặt hái được kết quả trong một số tác phẩm như: bản giao hưởng số 3 “Polish” (Ba Lan) gịong Rê trưởng, Op. 29 (1875); fantasy-overture “Francesca da Rimini”, Op.32 (1876); vở ballet The Swan lake (Hồ thiên nga), Op.20 (1875 - 1876) và bản concerto số 1 cho Piano và dàn nhạc giọng Si giáng thứ, Op. 23 (1874 - 1875).
Thông qua sự giúp đỡ của một trong những học sinh của mình - người đã tham dự những đêm diễn do Nadezhda von Meck - nguời phụ nữ quí tộc này đã bắt đầu quan tâm đến Tchaikovsky và nghe một số tác phẩm của ông. Năm 1876, bà đã nhiệt tình viết thư cho ông và mời ông làm việc. Cứ như thế bắt đầu một tình bạn thắm thiết, kỳ lạ nhất trong lịch sử âm nhạc. Họ đã duy trì được mối quan hệ thân thiết này trong suốt 13 năm mặc dù đôi bạn này chưa hề gặp mặt và thậm chí còn chưa từng nghe thấy giọng nói của nhau trong khi họ sống trong cùng một thành phố. Năm 1877, cuộc hôn nhân của nhà soạn nhạc nổi tiếng này với Atonina Milyukova thực sự là một thảm hoạ khi nó kéo dài chỉ có vài ngày và kết thúc bằng việc Tchaikovsky trở về với chị của ông tại điền trang ở Kamenta. Sự việc này đã gây chấn động mạnh tới tính cách vốn dĩ đã không ổn định của ông và đẩy ông đến sự suy sụp tinh thần nặng nề. Các bác sỹ đã lo lắng đến nỗi họ khuyên ông phải thay đổi hoàn toàn cách sống của mình và tháng 10 năm đó, ông cùng em trai mình là Anatole đã dời đến Moscow. Cuộc hôn nhân đó đã được giải quyết bằng các thủ tục ly dị.
Âm nhạc của Tchaikovsky đã thay đổi đáng kể kể từ thời điểm đó. Sự suy sụp về tinh thần và đức tin của Tchaikovsky vào năm 1877 đã được phản ánh một cách thường xuyên trong các tác phẩm đến mức mỗi nốt nhạc đều tràn ngập nỗi thống khổ của ông cả về mặt thể chất lẫn tinh thần. Điều này thể hiện rất rõ trong bản giao hưởng số 4 giọng Fa thứ được viết vào năm 1877 - tác phẩm này ông dành tặng cho Nadezhda von Meck. Tchaikovsky cũng đã đi du lịc một thời gian ở Ý và ở đây ông đã viết xong một vở opera du dương đến lạ thường - vở Eugene Onegin. Vở opera này được công diễn lần đầu tiên vào ngày 29 tháng 3 năm 1879 tại Nhà hát Malyj, Moscow. Lúc đó Tchaikovsky sáng tác rất nhanh, bà Nadezhda von Meck đã hào phóng hỗ trợ ông một khoản tiền hàng năm là 6000 rúp, điều này đã tạo điều kiện cho ông rời khỏi cái nhạc viện đáng sợ đó và bắt đầu một cuộc sống xa hoa ở Moscow và những chuyến du lịch hết đến Pháp lại đến Ý. Cuộc sống thường nhật của Tchaikovsky lúc này không có gì đặc biệt như những thành công về mặt chuyên môn trong các sáng tác của ông. Trong suốt 15 năm còn lại của cuộc đời, ông đã sáng tác được thêm 2 bản concerto cho piano và dàn nhạc: bản số 2 giọng Son trưởng, Op.44 (1879 - 1880) và số 3 giọng Mi giáng trưởng, Op. 75 (1893), một bản concerto tuyệt vời cho violin và dàn nhạc giọng Rê trưởng, Op. 35 (1878) và một tam tấu đàn dây giọng La thứ, Op. 50 - tác phẩm này đề tặng Nikolai Rubinstein.
Nhiều nhà phê bình cho rằng vở opera hay nhất của ông là vở The Queen of Spades (Con đầm bích) được sáng tác vào năm 1890 theo chủ đề Định mệnh mà ông yêu thích (tuy rằng trên thực tế thì Eugene Onegin vẫn được yêu thích hơn), được nhấn mạnh một cách ấn tượng bằng các giai điệu lặp lại mạnh mẽ. Tuy nhiên thời kỳ này tác phẩm xuất sắc nhất của ông là các tác phẩm viết cho dàn nhạc gồm có: 4 tổ khúc (trong đó tổ khúc thứ 4 Mozartina là một chuyển soạn); Capriccio Italien, Op.45 (1880); Overture 1812 Op. 49 vĩ đại (1880); thơ giao hưởng Manfred, Op. 58 (1885) và giao hưởng số 5 giọng Mi thứ, Op.64 (1888). Vở ballet nổi tiếng The Sleeping beauty (Người đẹp ngủ) được sáng tác vào năm 1890, sau đó là một vở ballet khác The Nutcracker (Kẹp hạt dẻ), Op.71 (1891 - 1892) duyên dáng nhưng cũng chỉ là một vở ballet tương tự như hai vở trước đó là The Swan Lake và The Sleeping beauty. Tuy nhiên, trong khi nét trữ tình, chậm rãi của hai vở ballet trước chỉ thường xoay quanh sự sướt mướt, uỷ mị thì vở ballet The Nutcracker này đã hoàn toàn tránh được nguy cơ đó, với một chủ đề cho phép Tchaikovsky có thể thể hiện khả năng mô tả tính cách bằng âm nhạc (tiến gần đến sự lố bịch) ở mức tự tin chói sáng nhất. Âm nhạc của Tchaikovsky dành cho vở ballet này cho thấy một tầm ảnh hưởng đáng ngạc nhiên của các sáng tác khí nhạc và sự phối âm đã đạt tới đỉnh cao trong trích đoạn “Waltz of flowers” (điệu Waltz của các loài hoa) đầy xúc động. Chủ đề Định mệnh đã quay trở lại một lần nữa trong bản giao hưởng số 6 “Pathétique” được sáng tác vào năm 1893 - tác phẩm vĩ đại và mang nhiều khát vọng nhất của ông. Trong một lá thư gửi cho cháu trai của mình Vladimir Davidov (‘Bob’) viết vào tháng 2 năm 1893, khi đang sáng tác bản giao hưởng này, Tchaikovsky đã viết: “Chú ước rằng mình có thể diễn tả hết được tâm trạng vui sướng mà chú đã gửi gắm vào trong tác phẩm mới này. Cháu sẽ hồi tưởng thấy vào một mùa thu, chú đã huỷ đi cái phần hay nhất trong bản giao hưởng mà chú vừa hoàn thành. Chú đã đúng khi bỏ nó đi vì nó chỉ là một ngón nghề, một bí quyết không mấy giá trị, một sự phô diễn trống rỗng của những nốt nhạc không chứa đựng nguồn cảm hứng thực sự. Thật tuyệt, trong suốt chuyến đi của chú tới Paris, chú đã có ý tưởng cho một bản giao hưởng mới dựa trên một chủ đề mà chú ước rằng không ai biết về nó, một chủ đề đã được giữ bí mật kỹ đến mức không ai có thể khám phá ra nó thậm chí ngay cả khi họ đã vắt óc ra để tưởng tượng. Khi nó được công diễn, chương trình này sẽ dần dần truyền tải những cảm giác riêng tư nhất của chú. Trong chuyến đi, khi phác hoạ bản giao hưởng trong đầu, chú đã hơn một lần phải bật khóc, cứ như thể bị rơi vào tình trạng tuyệt vọng hoàn toàn. Trên đường trở về, chú đã bắt đầu viết và miệt mài đến mức chú đã viết xong phần đầu trong chưa đầy 4 ngày và các phần khác đã được định hình rõ nét trong đầu chú. Về nhiều khía cạnh, bản giao hưởng này rất khác thường. Ví dụ, chương cuối là một nhịp adagio chậm thay vì nhịp allegro ầm ĩ. Cháu không thể hình dung được chú hạnh phúc như thế nào khi biết rằng chú chưa hề kết thúc, rằng chú vẫn còn có thể sáng tạo”.
Tchaikovsky đã chỉ huy buổi công diễn lần đầu tiên bản “Pathétique” này ở St Peterburg vào ngày 28 tháng 10 năm 1893 trong khi bệnh dịch tả đang hoành hành tại thành phố này. Một vài ngày sau, trong khi ăn tối cùng vài người bạn tại một nhà hàng, ông đã uống một cốc nước sông Neva (có thể đây là chủ ý của ông). Và ông đã chết trong sự đau đớn vào ngày mùng 6 tháng 11.
Frederic Chopin ( 1810 - 1849 )
Frederic Chopin Chopin sinh ra ở Zelazowa Wola, Ba Lan ngày 22 tháng 2 năm 1810. Mặc dù sinh ra ở Ba Lan, là con trai của một người Ba Lan, nhưng quê nhà thiêng liêng của ông luôn là Pháp. Thật sự thì đó chưa bao giờ chỉ đơn thuần là đất nước đã nuôi dưỡng ông, bởi vì mặc dù thực tế là trong một thời gian dài Chopin đã được công nhận là hậu duệ của một gia đình Ba Lan đã từng chuyển đến Paris, nhưng một số tài liệu lại chứng minh rằng gia đình ông bắt nguồn từ vùng Loire thuộc nước pháp và giấy khai sinh của bố ông được chứng nhận sinh ngày 15 tháng 4 năm 1771 tại một ngôi làng ở Marainville gần Nancy. Ông đã rời đến Warsaw vào năm 1787 nơi mà ông cưới bà Tekla-Justyna Krzyzanowska vào ngày mùng 2 tháng 6 năm 1806. Frédéric là một trong 4 đứa con của họ.
Chopin từ bé đã được hưởng một sự giáo dục đầy đủ và thoải mái. Bố của ông, một người đàn ông thông minh, đã rất nhanh chóng trở thành gia sư dạy tiếng Pháp ở các gia đình giàu có của thủ đô Ba Lan. Sau đó, cũng lại ở Wasaw, ông đã trở thành một giáo viên tiếng Pháp tại trường tiểu học Lyceum. Khi đó, với một khă năng tài chính vững vàng, ông đã biến căn hộ rộng lớn của mình thành một pension (tiếng Pháp có nghĩa là khách sạn nhỏ) cho những học sinh ở Lyceum, phần đông trong số họ đến từ những gia đình Ba Lan khá giả hơn.
Tính cách của Chopin đã được thường xuyên rèn đúc bởi lối sống văn hoá và lịch sự của gia đình ông. Ở một đứa trẻ thông minh và chuyên cần như ông, bố Chopin đã sớm nhận ra rằng Chopin được định sẵn để trở thành một nhạc sỹ. Và cậu bé Chopin đã nhanh chóng chứng tỏ được điều đó bằng kỹ năng chơi đàn piano của mình (dưới sự chỉ bảo của của chị ông) từ lúc 4 tuổi. Sau đó, ông được gửi đến học một giáo viên có trình độ người Bohemian để học nhạc. Tài năng của ông với tư cách một nhà soạn nhạc đã sớm được chứng minh. Bản Polonaise giọng Son thứ đầu tiên của ông được viết năm 1817, dù chưa phải là một thành quả lớn, nhưng thực sự là một thành tích vượt bậc với một đứa trẻ mới 7 tuổi. Và Chopin được nhắc đến trên tạp chí văn học của Ba Lan tháng 1 năm 1818 như sau: “Chúng ta không thể lặng thinh làm ngơ bản Polonaise viết cho đàn piano của Chopin, một đứa trẻ 7 tuổi con trai ông Nicolas Chopin, giáo viên dạy ngôn ngữ và văn học Pháp”. Sau khi hoàn thành xong khóa học piano và tham gia một loạt các buổi biểu diễn tại các phòng diễn của giới quý tộc ở Warsaw và vùng xung quanh, Chopin minh chứng nhiều hơn nữa khả năng sáng tác của mình vào năm 1821 với bản Polonaise tiếp theo, lần này là bản giọng La giáng thứ, như một món quà cho người thầy của mình. Thực tế đó là một cách lịch thiệp để tạm biệt người thầy đầu tiên, bởi vì sau khi tốt nghiệp trường Lyceum với bản Rondo giọng Rê thứ được công bố năm 1825, Chopin được chiêu sinh vào nhạc viện Warsaw, nơi anh học sáng tác ba năm tiếp theo dưới hướng dẫn thấu đáo của Jozef K.Elsner. Kỹ thuật chơi piano bậc thầy của Chopin đã được định hình, với những sáng tác đột phá với thời kỳ này, gồm các bản Những biến tấu dựa trên chủ đề Don Giovanni của Mozart, Op.2 cho piano và dàn nhạc (1827), bản Nocturne giọng Mi thứ, Op.72 số 1 (1827), bản Polonaise giọng Rê thứ, Op.71 số 1 (1827) và bản Rondeau à la Mazur, Op.5 (1827).
Trong lúc ấy, Chopin cũng làm nên tên tuổi của mình như một nghệ sỹ trình diễn piano. Kết thúc khoá học tại nhạc viện vào năm 1829, Chopin bắt tay vào hàng loạt các buổi trình diễn và những buổi trình diễn này đã mang Chopin không chỉ vòng quanh Ba Lan mà còn tới cả Vienna, nơi mà kỹ thuật phi thường của ông đã không gây được tác động mà lẽ ra nó đã đạt được do độ lớn các phòng hoà nhạc ở đây. Tuy nhiên, ở đây ông đã có những quen biết hữu ích, những người sẽ giới thiệu cho Chopin đời sống âm nhạc của thành phố, bao gồm Schuppanzigh, người đã đóng một vai trò quan trọng trong viêc làm cho những bản tứ tấu của Beethoven được biết đến ở Vienna, chủ xuất bản Haslinger, người đã in bản Variations, Op.2 của ông năm 1820, cùng Stein và Graff, những thợ làm đàn piano nổi tiếng. Chopin cũng có thể nghe tại đây các vở opera của Rossini và Meyerbeer.
Trở về Warsaw năm 1830, ông đã chơi bản Concerto giọng Pha thứ, Op.21, bản Concerto đầu tiên của ông sáng tác năm 1829 và bản Concerto giọng Mi thứ, Op.11 (1830) tại nhà hát quốc gia, nhưng chỉ thu được một chút thành công. Báo chí đã thực sự làm ngơ với sự kiện này, dù sao điều đó không đáng ngạc nhiên lắm, có thể bởi ảnh hưởng của các vấn đề chính trị thời bấy giờ.
Chopin rời Ba Lan ngày 2 – 11 – 1830 bắt đầu cho một tour học tập tại châu Âu, có lẽ cũng vì Italy như một điểm đến lý tưởng với ông. Nhưng lúc ấy, ông không thể biết rằng ông có thể sẽ không bao giờ trở lại quê hương yêu dấu của mình một lần nữa. Điểm dừng chân đầu tiên của ông là Vienna, nơi ông chỉ có một buổi hoà nhạc khá là không thành công. Sau đó, với những làn sóng náo động của cuộc Cách mạng lan từ Pháp đến Bỉ, Italy và Ba Lan, ông đã quyết định rằng London sẽ là nơi lý tưởng nhất để sống. Trên đường đi, ông được biết rằng quân đội Nga đã chiếm Ba Lan và khống chế chính phủ quốc gia từ 5 – 9 – 1831.
Ông sống tại Paris cho tới cuối tháng 9, và mặc dù mục đích cuối cùng của ông luôn là đến được London, ông đã quyết định ở lại đây để rồi đạt được những thành công ngoài sức tưởng tượng với sự giàu có lạ thường và khả năng khuấy động đời sống âm nhạc của thủ đô nước Pháp. Người nhạc sỹ trẻ tuổi có học thức và thanh lịch, người mang sắc mặt xanh xao và một vẻ vô cùng sầu muộn đã ngay lập tức được Paris sang trọng chấp nhận. Buổi trình diễn đầu tiên của ông tại Salle Pleyel vào 26 - 2 – 1832 gồm bản Concerto đầu tiên, một khúc biến tấu từ chủ đề Mozart và trong số những tiểu khúc ngắn hơn, có một Grand Polonaise cho 6 đàn piano được viết bởi Kalkbrenner, trong dịp này, do chính tác giả trình diễn cùng Mendelssohn, Chopin và các nhạc công piano khác. Tuy nhiên, một nhà phê bình âm nhạc có mặt trong buổi trình diễn hôm đó đã có bài viết chê bai khả năng chơi nhạc của Chopin, quả quyết rằng kỹ năng của ông trở nên quá mờ nhạt để trình diễn trong một khán phòng rộng. Kết quả là, Chopin không bao giờ có được sự công nhận, như ông xứng đáng, là một nghệ sỹ dương cầm bậc thầy, mặc dù thỉnh thoảng ông có chơi trong những buổi công diễn được tổ chức cho việc từ thiện hay bởi các nhạc sỹ khác.
Ông may mắn được gặp ngài Nam tước de Rothschild tại một trong những buổi trình diễn. Họ nhanh chóng trở thành bạn bè, và một quý tộc có thể mở rộng cửa của giới thượng lưu Paris cho một nhạc sỹ trẻ. Những bài giảng dạy của Chopin ngay lập tức được yêu cầu và trả lương hậu hĩ. Các bà chủ bữa tiệc của giới thượng lưu tranh nhau để có ông trong phòng khách của họ, và những buổi nói chuyện lỗi lạc của ông đã quyến rũ ngay cả những người sành điệu nhất. Cuối cùng, ông tìm được một lớp thính giả có thể đánh giá đúng giá trị của ông.
Điều đó cũng giúp âm nhạc của ông dễ dàng được xuất bản, gồm cả những bản nhạc ông đã viết trước đây. Ba bản Nocturne, Op.9, được viết ở Ba Lan trong những năm 1828 – 1830, 12 Etude Op.10 (1829) đề tặng Liszt và bản Concerto thứ 2 đều được xuât bản ở Paris thời kỳ này. Những Etude Op.10 là đặc biệt quan trọng vì trong các gam được chia nhỏ, Chopin đã mở rộng kỹ thuật và nguồn tài nguyên đáng quý của piano ở thời điểm mà nhạc cụ này đã trải qua một số thay đổi quan trọng, đáng kể nhất là sự thay đổi các khung từ gỗ sang kim loại. Điều đó đã làm cơ cấu nhạc cụ được cải thiện và đem đến cho nhạc cụ cả một tầm âm sắc mới và âm lượng cần thiết để trình diễn trong một khán phòng rộng. Chiếc piano đã chiếm ưu thế trong bối cảnh âm nhạc thời Chopin và ông là nghệ sỹ dương cầm của tầng lớp thượng lưu quyền lực nhất ở Paris, kết giao bằng hữu với rất nhiều tên tuổi lớn như Balzac, Heine, Liszt và Ferdinand Hiller, người là nguyên nhân để ông đã làm cuộc hành trình tới Aix-la-Chapelle tháng 5 năm 1834.
Những năm sau, người ta thấy ông ở Leipzig, nơi mà ông gặp nữ bá tước Maria Wodzinska, người mà ông đã đề tặng bản Waltz giọng La giáng trưởng (L’adieu) hòa nhã sau khi chuyện tình của họ kết thúc. Ông cũng đã gặp lại Mendelssohn, gặp Clara và Robert Schumann những người mà với sự nhiệt thành thường lệ của mình đã đặt cho ông nghệ danh Chopin - cao quý. Trở lại Paris vào tháng 12 năm 1836, ông gặp George Sand, người phụ nữ đã làm thay đổi cuộc đời ông.
Có học thức và tao nhã cũng như hấp tấp và thất thường, George Sand, quả phụ của nam tước Dudevant đã áp dụng một ảnh hưởng ngay lập tức đối với một nhạc sỹ trẻ và họ đã ở lại bên nhau kể cả khi đang yêu hay khi tình yêu đã cạn, cho đến tận năm 1847. Đó là mười năm mà Chopin đã đạt đến đỉnh cao của sáng tạo với tư cách một nhạc sỹ, đã sáng tác những kiệt tác như như những Ballade số 3 và số 4 (1841 và 1842), những Nocture, Op.48 (1841 – 1842), ba Polonaise Op.44, 53 và 61 (1840 – 1846), Scherzo, Op.54 (1843 – 1844), Fantasia giọng Pha thứ, Op.49 (1841) và bản Berceuse, Op.57 (1843).
Cùng George Sand, ông đã sống cuộc sống ẩn dật ở Valdemosa – Majorca. Ông đã dành mùa đông 1838 để viết những kiệt tác đã được xếp cùng với những sáng tác vĩ đại khác cho đàn piano. Chúng cũng bao gồm Ballade thứ 2, Op.38 đề tặng Schumann năm 1840, Mazurkas, Op.33 và Op.41, Nocturne, Op.37, Polonaise, Op. 40, và hơn hết là tập 24 Préludes, Op.28. Sau khi chia tay với George Sand, Chopin đã nhầm khi nghĩ rằng ông có thể lấy lại sự thanh thản cho mình, sau những nỗi đau của cuộc sống, bằng việc làm thầy giáo dạy piano ở một gia đình thượng lưu Paris. Nhưng ông chưa sẵn sáng đáp ứng những yêu cầu cho bài học và sức khoẻ của Chopin tồi đi nhanh chóng. Thu nhập của Chopin thấp dần đi và như vậy thật khó để sống ở thủ đô nước Pháp, nơi mà giá cả ngày càng đắt đỏ vì những bất ổn xã hội. Ông quyết định trình diễn ở Salle Pleyle vào 16 tháng 2 năm 1848, nhưng nỗ lực này khiến ông yếu đi nhiều. Ông ốm, và như ông đã thú nhận trong một bức thư: "... tôi dường như chưa bao giờ chơi tồi đến thế". Dù có sự rộng lượng của bạn bè và người hâm mộ, khán thính giả vẫn rất nhanh nhận ra sự mong manh trong tiếng đàn của ông. Hôm đó đã trở thành buổi diễn cuối cùng của ông ở Pháp, và thực tế cũng là lời chào tạm biệt Paris hoa lệ của Chopin.
Qua khỏi những cuộc nổi dậy bạo động năm 1848 và với sự cải thiện nhỏ về sức khoẻ, Chopin quyết định rời Paris tới London, phần nào bởi sự nài nỉ của một trong các học trò của ông. Một buổi trình diễn vào ngày 20 tháng 4 năm 1848 là một thành công hân hoan, và ông quyết định ở lại Anh 7 tháng, tổ chức thêm 9 buổi diễn, lần cuối vào 16 tháng 11 để quyên góp tiền ủng hộ những người tị nạn Ba Lan. Tuy nhiên, Chopin bị mệt và yếu hơn vì những chuyến đi và khí hậu của London không phù hợp với ông. Ông rời London vào 23 tháng 11 năm 1848 và quay lại với Paris yêu quý của mình, nơi mà ông đã có thêm một vài năm bất hạnh ở đây. Ông dừng sáng tác và không có đủ sức khỏe lẫn sự hăng say để ngồi bên phím đàn. Nhạc cụ đã gắn bó với phần đời tươi đẹp nhất của ông, giờ đây không còn hấp dẫn ông thêm được nữa, và ông cũng thôi niềm khát khao được lướt tay trên những phím đàn, dù lòng ông luôn tràn ngập nỗi nhớ thương quê hương Ba Lan.
Chopin ra đi vào sáng sớm ngày 17 tháng 10 năm 1849 trong ngôi nhà của ông tại số 12 Place Vendime Paris, trong vòng tay của người chị Louise và nữ bá tước Potocka. Theo nguyện vọng của ông, trái tim của Chopin được mang về mảnh đất Ba Lan yêu dấu!
Tổ khúc “Bốn mùa”
Peter Ilyich Tchaikovsky
“Bốn mùa” (“Времена года") là tên một tổ khúc gồm 12 tiểu phẩm viết cho cho piano Op. 37b của nhà soạn nhạc vĩ đại người Nga Peter Ilyich Tchaikovsky.
"Bốn mùa" của Tchaikovsky – một kiểu nhật ký bằng âm nhạc độc đáo của nhạc sĩ, ghi lại những những bức tranh thiên nhiên, những mảnh cuộc sống và những cuộc gặp gỡ làm ông xúc động. Sau này M.I. Tchaikovsky, em ruột nhạc sĩ, nhớ lại: “Hiếm có người yêu cuộc sống như Peter Ilyich. Mỗi ngày đều có ý nghĩa riêng biệt đối với ông, và cứ mỗi ngày trôi qua ông lại cảm thấy buồn với ý nghĩ mọi điều ông từng trải qua trong ngày hôm đó đã trở thành quá khứ mà không để lại một dấu vết nào”. Tổ khúc “Bốn mùa” là một trong những tuyệt tác âm nhạc của Tchaikovsky tràn đầy thi cảm, tình yêu cuộc sống .
Trong các tiểu phẩm này Tchaikovsky đã vẽ nên những bức tranh phong cảnh với những khoảng không vô biên của những cánh đồng Nga, các phong tục tập quán ở nông thôn, các bức tranh đời sống thị thành ở Peterburg, những cảnh sinh hoạt âm nhạc của người dân Nga thời kỳ đó.
Tác phẩm của Tchaikovsky được xuất bản với 12 đề từ, là những bài thơ nhỏ của các thi sĩ Nga:
Bên lò sưởi - Tháng giêng
A.C. Pushkin
“Màn đêm êm ái buông
Trên góc nhỏ thanh bình
Lò sưởi dần lụi tắt
Mặc cây nến lung linh”.
Lễ Tiễn mùa đông - Tháng hai
P.A. Viazemski
“Lễ Tiễn mùa đông sắp đến rồi
Tưng bừng bàn tiệc mở khắp nơi”.
Chim sơn ca - Tháng ba
A.N. Maikov
“Ngoài đồng hoa dại lả lơi,
Nắng vàng sóng sánh khắp bầu trời,
Chim sơn ca báo xuân đến sớm
Lảnh lót trong màu xanh chơi vơi”.
Hoa xuyên tuyết - Tháng tư
A. N. Maikov
“Nở xanh nhạt mỏng manh
Hoa xuyên tuyết - nhẹ như làn gió
Thoáng qua vừa đủ
Thổi bay bông tuyết cuối cùng.
Giọt lệ cuối cho khổ đau dĩ vãng.
Hoa bẽn lẽn ước mơ
Về hạnh phúc đang chờ...”
Đêm trắng - Tháng năm
A.A. Fet
“Đêm đẹp sao! Vạn vật đều hạnh phúc!
Cảm ơn người, miền đất trắng nửa đêm!
Từ vương quốc của giá băng, bão tuyết
Tháng năm về trong veo, lồng ngực căng tràn!”
Khúc hát người chèo thuyền - Tháng sáu
A.N. Plesheev
Nào ta lên bờ thôi,
Dưới chân ta những con sóng nhỏ
Đang chờ dịu dàng hôn.
Và trên đầu ta chỉ còn
Những vì sao buồn bí hiểm
Bài ca cắt cỏ - Tháng bảy
A.V. Koltsov
Thôi nào hãy vươn vai,
Thôi nào dang thẳng cánh
Làn gió giữa trưa ơi,
Phả hương cỏ nồng nàn vào mặt!
Mùa gặt - Tháng tám
A.V. Koltsov
“Trên đồng cả nhà ta vung hái
Cắt ngang thân lúa mạch cao cao!
Từng bông nặng trĩu hạt
Xếp thành lượm đi nào!
Rồi thâu đêm suốt sáng
Vang tiếng xe về làng”
Đi săn - Tháng chín
A.S.Pushkin
“Lên đường, lên đường, tiếng tù và vang vang:
Người và chó sẵn sàng;
Mới hửng sáng người đã trên lưng ngựa
Lũ chó kéo căng dây cương”
Bài ca mùa thu - Tháng mười
A.K. Tolstoi
“Mùa thu lá rụng khắp vườn nghèo
Nhuộm vàng cả gió cuốn bay theo...”
Trên xe tam mã - Tháng mười một
N.A.Nhecrasov
“Đừng nhìn đường rầu rĩ thế em yêu,
Đừng cúi nhìn vết xe tam mã.
Trước con đường vạn dặm
Em đừng mang theo nỗi khắc khoải trong tim.”
Hội mùa đông - Tháng chạp
N.A.Nhecrasov
“Chiều muộn Hội mùa đông
Đám con gái má hồng
Cởi giầy ném ra ngõ
Xem hướng đi lấy chồng.”
Sự xuất hiện của các tiểu phẩm “Bốn mùa" có liên quan trực tiếp đến quan hệ của Tchaikovsky với gia đình Bernard, những người chuyên nghề xuất bản nhạc phẩm và tạp chí “Nouvellist” của họ. Tạp chí được thành lập năm 1842. Người chủ gia đình là Matvei Ivanovich Bernard (1794-1871), người sáng lập công ty xuất bản âm nhạc và tạp chí “Nouvellist”, đồng thời cũng là một nhạc công piano kiêm nhà soạn nhạc. Người thừa kế và nối tiếp sự nghiệp của ông là con trai Nikolai Matveevich (1844-1905), cũng là một nhạc công nổi tiếng, và tổng biên tập tạp chí là Alexander Ivanovich(1816-1901), em ruột ông Matvei, cũng là một nhạc công kiêm nhà soạn nhạc nổi tiếng. Tạp chí “Nouvelist” giới thiệu với công chúng các tác phẩm mới của các nhà soạn nhạc Nga, các nhạc công nghiệp dư và cả các tác phẩm nước ngoài. Ngoài các bản ký âm, tạp chí còn giới thiệu các thông tin liên quan đến cuộc sống âm nhạc của nước Nga, Tây Âu và Mỹ. Tchaikovsky cộng tác với “Nouvellist” từ năm 1873 với một vài bản romance.
Lý do Tchaikovsky sáng tác các tiểu phẩm “Bốn mùa” có lẽ là bức thư đặt hàng của chủ bút tạp chí “Nouvellist” N.M. Bernard (ngày nay không còn giữ được tài liệu này) vào tháng 11 năm 1875. Tuy vậy, nội dung của nó dễ được biết qua bức thư trả lời của nhà soạn nhạc đề ngày 24 tháng 11 năm đó: “Tôi đã nhận được thư của ngài. Tôi rất cảm ơn ngài về số tiền nhuận bút rất cao mà quý báo sẵn sàng trả. Tôi sẽ cố gắng để ngài hài lòng và bản thân không phải xấu hổ. Tôi sẽ gửi cho ngài tiểu phẩm đầu tiên sớm nhất có thể được, mà cũng có thể gửi ngay một lần 2 hoặc 3 tiểu phẩm. Nếu như không có gì trở ngại công việc sẽ kết thúc nhanh chóng: Hiện tôi đang rất có hứng sáng tác các tiểu phẩm cho piano. Tchaikovsky của ngài. Tất cả các đề từ của ngài tôi sẽ giữ lại”. Như vậy ta có thể hiểu tên gọi của các tiểu phẩm - đồng thời cũng là chủ đề các tiểu phẩm đó là do chủ bút tạp chí đề nghị.
Tạp chí “Nouvellist” số ra tháng 12 năm 1875 đã in thông báo cho các bạn đọc thường xuyên đặt mua tạp chí về việc trong năm tới sẽ xuất bản các tiểu phẩm mới của nhạc sĩ Tchaikovsky và tên các tiểu phẩm tương ứng với mỗi tháng trong năm, hoàn toàn trùng với các nhan đề mà nhà soạn nhạc về sau sẽ viết trong bản thảo viết tay của mình.
Ta còn lại rất ít thông tin về quá trình sáng tác những tiểu phẩm này, chỉ biết rằng, vào thời điểm bắt đầu làm việc từ cuối tháng 11 năm 1875, Tchaikovsky sống ở Matscơva. Ngày 13 tháng 12 năm 1875 ông viết cho N.M.Bernard: “Sáng sớm nay, mà cũng có thể là từ hôm qua tôi đã gửi cho ông qua bưu điện 2 tiểu phẩm đầu tiên. Tôi gửi chúng cho ông mà không tránh khỏi hồi hộp: có thể ông thấy chúng quá dài và không hay ho gì. Mong ông hãy cho tôi biết các nhận xét thật lòng của ông, để tôi có thể viết các tiểu phẩm tiếp theo có tính đến các nhận xét đó. Nếu như tiểu phẩm thứ 2 chưa đạt, xin ông hãy cho tôi biết. Nếu như ông muốn tôi viết lại "Lễ Phục sinh", xin ông đừng khách sáo, hãy cho tôi biết điều đó và hãy tin rằng tôi sẽ viết cho ông tiểu phẩm khác, đúng hẹn, tức là trước ngày 15 tháng giêng. Ông trả cho tôi khoản nhuận bút lớn khủng khiếp đến mức có quyền đòi hỏi bất cứ sự thay đổi, thêm bớt, rút ngắn hay viết lại"... Các tiểu phẩm đều làm N.M. Bernard thoả mãn, vì chúng đều được xuất bản theo đúng kế hoạch đã định trước và chính xác như bản viết tay của tác giả.
Các tiểu phẩm "Bốn mùa" khi được xuất bản trên tạp chí "Nouvellist" đều có một thi phẩm nhỏ làm đề từ. Hai trong số đó (tiểu phẩm số 1 và số 3), căn cứ vào nét chữ, được chính N.M. Bernard viết tay vào bản thảo. Ông Bernard vốn là một người rất am hiểu về thi ca và văn học Nga, thậm chí ông cũng sáng tác một vài tác phẩm. Dường như chính ông là tác giả của sáng kiến đưa các đề từ bằng thơ này vào các tiểu phẩm của Tchaikovsky. Nhạc sĩ có biết trước về các đề từ này không, và có cùng với Bernard chọn thơ không, ngày nay chúng ta không được biết, tuy nhiên, các đề từ đó được in trong tất cả các lần xuất bản sau này khi Tchaikovsky còn sống, và điều đó khiến chúng ta có thể tin chắc Tchaikovsky biết và chấp nhận các đề từ đó.
Nhan đề các tiểu phẩm được định trước, nhưng Tchaikovsky đã chủ động đưa thêm nhan đề phụ -- đó là tiểu phẩm thứ 8 - Mùa gặt, có thêm tên Skerso, còn số 12 - Waltz. Những nhan đề phụ này được giữ nguyên trong các xuất bản phẩm của Bernard, nhưng trong các xuất bản phẩm sau này của P.I. Yurgenson thì không còn nữa. Tên chung của 12 tiểu phẩm "Bốn mùa" xuất hiện vào cuối năm 1876, trong một tuyển tập cả 12 tiểu phẩm, sau khi tất cả các tiểu phẩm đã lần lượt được công bố trên tạp chí "Nouvellist", và sau đó xuất hiện trong tất cả các lần xuất bản sau, với các nhan đề phụ hơi khác nhau.
Quá trình chuẩn bị cho việc xuất bản các tiểu phẩm trên tạp chí "Nouvellist" bắt đầu vào ngày 13 tháng 12 năm 1875, khi Tchaikovsky gửi đến Peterburg hai tiểu phẩm đầu tiên, căn cứ vào một bức thư của nhà soạn nhạc. Tạp chí ra vào ngày 1 hàng tháng. Các tiểu phẩm của Tchaikovsky mở đầu mỗi số, trừ một ngoại lệ - số tháng 9, vở nhạc kịch của V.I. Glavach mở đầu cho số này. Cũng trong số tháng 9 xuất hiện thông báo tặng cho bạn đọc thường xuyên của tạp chí một tuyển tập tất cả 12 tiểu phẩm của Tchaikovsky. Trên bìa của ấn phẩm này có in 12 tranh nhỏ và nhan đề "Bốn mùa".
Người ta không còn giữ được chứng cứ về lần lần đầu tiên công diễn trọn vẹn 12 tiểu phẩm, về các buổi công diễn ra mắt từng tiểu phẩm riêng biệt cũng như không giữ được bất kỳ ý kiến phản hồi nào của bạn đọc. Tuy nhiên, chỉ một thời gian rất ngắn sau khi được công bố, tổ khúc "Bốn mùa" đã trở nên rất được ưa chuộng, và sau đó trở thành một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của nhạc Nga dành cho piano.
“Bên lò sưởi” - Tháng giêng
Trong những tối mùa đông dài, các gia đình Nga thường tập trung bên lò sưởi. Trong các căn nhà gỗ ở nông thôn đó là nơi phụ nữ làm ren, kéo sợi hay dệt vải, và họ vừa làm vừa hát những bài ca trữ tình buồn buồn. Trong các gia đình quý tộc bên lò sưởi là nơi để các thành viên gia đình đọc sách, trò chuyện và chơi nhạc. Tiểu phẩm “Bên lò sưởi” vẽ nên một bức tranh nhỏ với tâm trạng mơ mộng và man mác buồn.
Phần đầu của tiểu phẩm xây dựng trên một chủ đề (theme) rất gợi cảm, gần như ngữ điệu của giọng người. Nó vang lên giống như những lời trò chuyện ngắn, chậm rãi, với những khoảng dừng và trong tâm trạng ưu tư trầm ngâm sâu lắng. Trạng thái tình cảm này có thể thấy trong những bức thư của Tchaikovsky: “Đó là cái tình cảm buồn trầm tư thường xuất hiện vào buổi tối, khi người ta ngồi một mình cô đơn, mệt mỏi vì những công việc ban ngày. Muốn cầm lấy cuốn sách mà sách cứ tự rơi khỏi tay lúc nào. Những hồi tưởng bất tận tràn về. Và buồn vì ta đã trải qua nhiều thế, nhưng tất cả đã trở thành quá khứ. Hồi tưởng về thời thanh xuân thật dễ chịu. Và tiếc nuối về quá khứ, và không còn muốn bắt đầu lại cuộc đời mình. Cuộc sống làm ta mệt mỏi. Phút nghỉ ngơi để nhìn lại quá khứ thật dễ chịu. Ta cảm thấy nỗi buồn nhẹ nhàng và thật ngọt ngào khi chìm vào những hồi tưởng về quá khứ”.
Phần hai của tiểu phẩm sôi nổi hơn, nhưng cũng dựa trên những motive ngắn với những nét lướt (passage) gợi nhớ đến tiếng ngân rung của đàn harp. Phần ba trở lại giống với phần một với sự bổ sung và kết thúc cả tiểu phẩm với giai điệu lặng dần một cách rất riêng, vẫn với tiếng ngân của đàn harp. Âm nhạc như tan dần và bức tranh cảm xúc cũng dần dần biến mất.
"Lễ Tiễn mùa đông" - Tháng hai
Lễ Tiễn mùa đông, hay còn gọi là tuần Tiễn mùa đông, là tuần lễ hội diễn ra trước Tuần Đại trai. Trong tuần Tiễn mùa đông người ta tổ chức vui chơi tưng bừng với các trò chơi vui tưởng như không còn giới hạn, những cuộc dạo chơi trên xe ngựa và nhiều thú vui khác nữa. Nhà nhà làm bánh tráng blin, món ăn đã bén rễ trong cuộc sống của người Nga từ thuở xa xưa. Lễ hội Tiễn mùa đông trộn lẫn những nét riêng của nghi thức tiễn mùa đông của đa thần giáo sơ khai và phong tục đón mùa xuân của Thiên chúa giáo, diễn ra trước tuần Đại trai và lễ hội tôn giáo tiếp theo sau Đại trai là lễ Phục sinh.
Lễ Tiễn mùa đông là bức tranh du xuân, những thời điểm náo nhiệt nhất của cuộc vui trong tiếng nhạc rộn ràng của đám đông đang đi dạo, vang vọng tiếng các nhạc cụ truyền thống. Tiểu phẩm như sự tổng hợp các bức tranh nhỏ, một kiểu kính vạn hoa trong đó các hoạt cảnh liên tiếp thay đổi cho nhau, nhưng luôn luôn quay lại chủ đề đầu tiên. Với nhịp điệu như ngắt quãng, hơi thô nhám, Tchaikovsky vẽ nên một bức tranh với những tiếng reo hò vui sướng của đám đông, tiếng giậm chân nhảy múa của những người diện các bộ cánh lễ hội, các trận cười bùng nổ và lẫn trong đó cả tiếng thì thầm bí mật. Âm nhạc vẽ nên một lễ hội dân gian rực rỡ sắc màu.
"Chim sơn ca" - Tháng ba
Chim sơn ca là loại chim sống trên đồng nội, ở Nga chúng được coi như con chim vui báo hiệu mùa xuân. Tiếng hót của nó gắn với mùa xuân đến, vạn vật bừng tỉnh khỏi giấc ngủ đông dài để bắt đầu một cuộc sống mới. Bức tranh phong cảnh Nga được vẽ bằng những hình ảnh rất đơn giản, nhưng vô cùng gợi cảm.
Cơ sở của tiểu phẩm này là hai chủ đề: giai điệu trữ tình đệm bằng hợp âm (accord) rất khiêm tốn, và chủ đề thứ hai, cũng tương tự như vậy, nhưng với những hơi thở phóng khoáng và những cú thăng hoa cao vút. Hai chủ đề gắn kết và trộn lẫn với nhau một cách rất hài hoà, thể hiện rất nhiều sắc thái tình cảm – mơ mộng, buồn và tươi sáng. Sự hoà trộn hài hoà và phổ rộng cảm xúc như vậy mang lại sức quyến rũ của cả tiểu phẩm. Cả hai chủ đề có chung những yếu tố gợi nhớ đến tiếng hót rung vang của chim sơn ca trong bài hát mừng xuân của nó. Chủ đề đầu tiên như một cách tạo khung đóng cho chủ đề thứ hai, phát triển rộng hơn. Tiểu phẩm chấm dứt bằng âm hưởng tiếng hót chim sơn ca dần tắt.
"
Hoa xuyên tuyết " – Tháng tư
Người Nga gọi loại hoa đồng nội nở rất sớm vào mùa xuân, ngay khi tuyết vừa bắt đầu tan, là hoa xuyên tuyết. Nó mong manh nở tím nhạt hay trắng ngay sau những cơn lạnh tê tái của mùa đông vừa chấm dứt, thiên nhiên như không còn sức sống. Đó là loại hoa đồng nội rất được yêu chuộng ở Nga, nó được coi như biểu tượng của sự hồi sinh trong thiên nhiên, và trở thành đề tài cho rất nhiều các nhà thơ Nga.
Tiểu phẩm “Hoa xuyên tuyết” mang nhịp điệu như một bản waltz, toàn bộ tác phẩm thể hiện những cao trào của cảm xúc. Đó là nỗi xúc động trước sự hồi sinh của vạn vật khi xuân đến, cùng với nó là hy vọng lạc quan giấu kín tận đáy sâu tâm hồn về tương lai, và sự chờ đợi điều gì chưa rõ.
Tiểu phẩm chia làm ba phần. Phần đầu và phần ba lặp lại nhau, nhưng phần thứ hai cũng không có một sự tương phản về hình tượng rõ rệt, nó chỉ khác các phần khác ở sự thay đổi trạng thái tình cảm, chính xác hơn là các sắc thái tinh tế của một cảm xúc mà thôi. Cao trào cảm xúc trong phần kết của tác phẩm được duy trì đến tận nốt nhạc cuối cùng.
"Những đêm trắng" - Tháng năm
Đêm trắng là cách gọi các đêm tháng năm ở miền Bắc Nga, nơi mà trong tháng này đêm cũng sáng gần như ngày. Những đêm trắng ở Peterburg, thủ đô Nga, luôn luôn được kỷ niệm với những cuộc dạo đêm đầy chất thơ và tràn đầy tiếng hát. Hình ảnh những đêm trắng được rất nhiều hoạ sĩ thể hiện trên các tác phẩm của mình, và được ngợi ca không kém trong thi ca. Nhà văn vĩ đại Fedor Dostoevsky có một tiểu thuyết nhan đề "Những đêm trắng".
Âm nhạc trong tiểu phẩm này thể hiện sự thay đổi rất phức tạp của các tâm trạng hoàn toàn trái ngược: những suy tư đắng cay được thay dần bởi những phút lặng ngọt ngào của tâm hồn ngập tràn trong cảm phục trước khung cảnh thiên nhiên hiếm có, đầy chất lãng mạn trong thời kỳ đêm trắng. Tiểu phẩm gồm hai phần mở đầu và kết, đó là bức tranh phong cảnh bằng âm nhạc, và hình tượng chủ đạo của nó là những đêm trắng. Phần mở đầu bao gồm những giai điệu ngắn, như nhịp thở, gợi cho ta nhớ đến cái tĩnh lặng trên đường phố Peterburg vào những đêm trắng, đến tâm trạng cô đơn, đến ước mơ hạnh phúc. Phần thứ hai tâm trạng có đôi chút đổi khác, trở nên thiết tha hơn, và ngắt quãng hơn, những tình cảm dâng trong tâm hồn đến cao trào, đến mức trở thành hân hoan mừng vui. Sau phần thứ hai này là một bước chuyển ngắn sang phần kết, khép lại cả tiểu phẩm. Tâm trạng trở lại ôn hoà, và trước thính giả bức tranh những đêm trắng miền bắc trong thành phố Peterburg với vẻ đẹp thâm nghiêm lại dần hiện ra.
Tchaikovsky rất gắn bó với Peterburg. Tại đây ông đã trải qua thời niên thiếu, được công nhận là một nhạc sĩ, chính nơi đây ông sống qua những phút giây thành công trong sự nghiệp, và cũng chính tại đây ông đã giã từ cuộc sống. Phần mộ của ông cũng ở đây.
"Khúc hát người chèo thuyền" - Tháng sáu
Barcarola là một từ tiếng Italia chỉ khúc hát của người chèo thuyền trong âm nhạc dân gian. Các khúc ca này đặc biệt thịnh hành ở Venise, thành phố trên bờ những con kênh, và phương tiện giao thông chính là những con thuyền đặc chủng đi lại trên các con kênh này trong giai điệu trầm bổng rất đặc trưng của các bài hát. Nhịp điệu và nhạc đệm của chúng mô phỏng những động tác chèo nhịp nhàng và tiếng mái chèo khua nước. Các bài hát này trở nên rất phổ biến trong nền âm nhạc Nga đầu thế kỷ XIX, và trở thành một phần không thể thiếu của thanh nhạc trữ tình Nga, đi vào thi ca Nga và cả hội hoạ.
"Khúc hát người chèo thuyền" là một tiểu phẩm nữa vẽ nên phong cảnh Peterburg trong tổ khúc "Bốn mùa". Thậm chí ngay cả tên gọi của nó cũng làm người ta nhớ đến những con kênh đào và những dòng sông của Thủ đô phương Bắc.
Giai điệu phóng khoáng của phần đầu tiểu phẩm vang lên ấm áp và gợi cảm, khiến người nghe như cảm thấy dường như cũng bị "lắc lư" theo nhạc đệm gợi nhớ đến tiếng ngân của ghita và măng đô lin trong các bản barcarola truyền thống. Phần tiếp theo tâm trạng thể hiện trong âm nhạc trở nên vui tươi hơn và vô lo hơn, người nghe dường như thấy cả những nhịp chèo khua nước nhanh và vang. Nhưng rồi sau đó tất cả lại trở về bình ổn, và giai điệu rất đẹp, khiến người ta cảm thấy yên lòng, cùng với phần đệm có cả giọng thứ réo rắt. Dường như đó là hai giọng song ca. Tiểu phẩm kết thúc bằng những nốt nhạc tắt dần - con thuyền đã đi xa, và cùng với nó những giọng ca cùng với tiếng sóng vỗ cùng dần tắt.
"Bài ca cắt cỏ" - Tháng bảy
Những người cắt cỏ phần lớn là đàn ông, ra đồng cắt cỏ từ mờ sương. Bằng những động tác vung tay nhịp nhàng đều đặn, và thường là theo đúng nhịp một bài dân ca lao động nào đó mà người ta thường hát trong khi làm việc. Những bài dân ca như thế tồn tại ở nông thôn Nga từ xa xưa. Người ta hát trong khi cắt cỏ rất đều và vui. Công việc cắt cỏ cũng là một đề tài quen thuộc trong nghệ thuật Nga. Nhiều thi sĩ, hoạ sĩ đã sáng tác về đề tài này. Còn các bài hát dân ca thì vô số.
"Bài ca cắt cỏ" là một bức tranh bằng nhạc về cuộc sống lao động ở nông thôn. Giai điệu chủ đạo chứa những yếu tố gợi nhớ đến các bài dân ca. Tiểu phẩm gồm ba phần, về tính chất chung khá giống nhau. Phần đầu và phần cuối về bản chất đúng là bài ca của người nông dân cắt cỏ, cánh tay vung hái nhịp nhàng, mạnh mẽ, hát vang bài ca vui vẻ tràn đầy nghị lực, một bài hát có giai điệu và nhịp điệu rõ ràng. Trong phần thứ hai xuất hiện những hợp âm thoáng qua, có đôi chút gợi nhớ đến âm thanh của những nhạc cụ truyền thống của Nga. Đoạn kết trên nền bè đệm bài ca của người cắt cỏ vang lên một lần nữa, dường như anh ta đã trở lại với công việc của mình thật sung sức sau một khoảng thời gian nghỉ ngơi ngắn.
Tchaikovsky rất yêu mùa hè ở nông thôn, ông viết trong một bức thư: “Vì sao thế? Vì sao một cảnh rất bình thường trong đời sống của người Nga, vì sao một cuộc dạo chơi mùa hè ở nông thôn Nga trên những cánh đồng, trong những khoảng rừng, trên thảo nguyên... thường gợi nên trong tôi những cảm xúc như thể tôi đang nằm dài trên mặt đất trong một tình trạng gần như bất lực vì làn sóng tình yêu thiên nhiên đang tràn đến”
"Mùa gặt" - Tháng tám
Mùa gặt là mùa thu hoạch lúa mì chín trên đồng. Mùa gặt trong cuộc sống của nông dân Nga là một thời gian cực kỳ quan trọng. Cả gia đình làm việc cật lực ngoài đồng từ sáng sớm đến tối mịt, và tất nhiên không thể thiếu các bài hát.
“Mùa gặt” là một bức tranh lớn về cuộc sống nông thôn. Trong bản thảo của mình nhạc sĩ có viết thêm “skerso”. Thực tế, đó là một tiểu phẩm mở dành cho piano vẽ nên một bức tranh hoàn mỹ về cuộc sống đời thường của người nông dân. Trong đó ta thấy sự nhộn nhịp, cao trào đặc trưng của một công việc tập thể rất lớn của những người nông dân.
Ở đoạn hai, bức tranh lao động được thay thế bằng bức tranh phong cảnh nông thôn trữ tình, đặc trưng cho phong cảnh miền Trung Nga, nơi đang diễn ra cảnh gặt hái. Và âm nhạc trong đoạn này khiến người ta liên tưởng đến những dòng viết của nhạc sĩ: “Tôi không thể diễn tả hết sức quyến rũ của nông thôn và phong cảnh Nga đối với bản thân mình”
"Đi săn" - Tháng chín
Đi săn là từ chỉ hoạt động kinh tế - việc săn bắt các con thú hoang, nhưng từ “đi săn” trong tiếng Nga lại có chung gốc với từ chỉ nguyện vọng, ước muốn, sự tự nguyện, lòng khát khao một cái gì đó. Săn bắn là một chi tiết cũng rất đặc trưng của cuộc sống Nga thế kỷ XIX, và là đề tài của nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật lớn. Ta có thể nhắc đến những trang viết mô tả cảnh đi săn trong nhiều tác phẩm của L. Tolstoi, trong các truyện vừa và truyện ngắn của Turgenev, những bức tranh của các hoạ sĩ Nga. Đi săn ở Nga luôn là lĩnh vực của những con người khát khao, mạnh mẽ, say mê, thường một cuộc săn diễn ra hết sức ồn ào, vui vẻ, với tiếng tù và và rất nhiều chó. Đi săn trong các trang ấp của giới quý tộc thế kỷ XIX thường được tổ chức vào mùa thu, và nó không còn đơn thuần là hoạt động kinh tế, mà đã mang nặng tính giải trí, đòi hỏi những người tham gia lòng dũng cảm, sức mạnh, sự khéo léo, tính cách sôi nổi và sự nhiệt tình.
"Bài ca mùa thu" - Tháng mười
Mùa thu ở Nga là mùa được ca ngợi và mô tả nhiều nhất trong văn học nghệ thuật. Các nhà văn, nhà thơ, hoạ sĩ và nhạc sĩ có vô vàn các tác phẩm về đề tài này. Nó thể hiện vẻ đẹp hiếm có của phong cảnh thiên nhiên Nga được mùa thu khoác cho bộ cánh vàng lộng lẫy, xen lẫn với vô vàn các sắc màu khác. Nhưng cũng có những thời điểm thu hoàn toàn khác – mùa buồn, bởi đó là mùa chết của thiên nhiên, gắn liền với nỗi buồn về mùa hè đã qua, mà mùa hè là biểu tượng của cuộc sống. Cái chết của vạn vật vào thời điểm trước khi mùa đông tới là một trong những trang buồn nhất, bi thảm nhất trong mùa thu.
“Bài ca mùa thu” chiếm một vị trí hết sức đặc biệt trong tổ khúc. Bởi màu sắc bi kịch của mình, nó trở thành trung tâm, thành đoạn tổng kết tất cả mọi điều đã được kể về cuộc sống Nga và thiên nhiên Nga. Tháng mười với “Bài ca mùa thu” là bài ca về cái chết của thiên nhiên, của sự sống.Trong giai điệu tràn đầy những nốt buồn, như những tiếng thở dài. Đoạn hai xuât hiện đôi chỗ cao trào, như sự thể hiện hy vọng vào cuộc sống và cuộc vật lộn để tự bảo vệ mình. Nhưng phần ba, nhắc lại phần đầu, trở lại với những tiếng thở dài buồn bã, và kết thúc bằng sự héo tàn vô vọng, cái chết trọn vẹn.
Dòng nhạc cuối cùng của tiểu phẩm được tác giả viết “morendo” - tức là “chết lịm”, không còn một hy vọng nhỏ nhoi nào cho sự hồi sinh, cho sự xuất hiện cuộc sống mới. Toàn thể tiểu phẩm giống như một bức phác thảo trữ tình tâm lý, trong đó phong cảnh và tâm trạng con người đã hoà nhập làm một. Nhạc sĩ đã viết: “Ngày ngày tôi đi dạo rất xa, cố tìm cho mình một góc nhỏ ấm áp trong rừng và tận hưởng bầu không khí thu tràn ngập mùi lá rụng, sự yên tĩnh và cái quyến rũ của phong cảnh mùa thu với những sắc màu đặc trưng của nó”.
"Trên xe tam mã" - Tháng mười một
Xe tam mã là loại xe thường thấy ở Nga với ba con ngựa đóng chung một ách. Nó thường được trang trí bằng những cái chuông nhỏ, reo vui theo nhịp xe chạy, tiếng trong như tiếng bạc. Người Nga rất thích các cuộc dạo chơi trên xe tam mã, và đó là đề tài cho không ít các bài hát dân ca. Sự xuất hiện của tiểu phẩm “Trên xe tam mã” thường được đánh giá như niềm hy vọng vào cuộc sống, mặc dù nhìn chung âm nhạc ở đây khá buồn. Những con đường như dài vô hạn trên các khoảng rộng vô biên của nước Nga, bộ ba con ngựa trở thành một kiểu biểu tượng cho cuộc sống vẫn đang tiếp diễn. Tháng mười một ở Nga tuy theo lịch vẫn còn là mùa thu, nhưng thực tế thời tiết đã lạnh theo kiểu mùa đông rồi. “Những cơn lạnh nối tiếp nhau, dù mặt trời vẫn còn sưởi ấm đôi chút. Cây cối nằm dưới lớp tuyết màu trắng bạc, và bức tranh phong cảnh mùa đông đó đẹp đến mức khó có thể tả hết bằng lời” – chính Thaikovsky đã viết như vậy.
Tiểu phẩm bắt đầu với một giai điệu phóng khoáng, gợi nhớ những bài hát dân ca Nga mênh mang, rồi xuất hiện những tiếng vọng buồn, những suy tư buồn, nhưng tiếng chuông ngân rung ngày càng rõ ràng hơn. Tiếng chuông vui vẻ dường như tạm thời che lấp và lấn át tâm trạng buồn kia, nhưng rồi giai điệu đầu tiên đã xuất hiện trở lại - lần này là bài hát của người đánh xe, được đệm bằng những chiếc chuông. Những nốt nhạc bắt đầu từ từ tắt, rồi tan hẳn khi chiếc xe đã đi xa.
"Hội mùa đông" -Tháng chạp
Hội mùa đông là khoảng thời gian giữa hai ngày lễ Thiên chúa giáo lớn - từ Giáng sinh đến lễ Ba vua. Đó là lễ hội dân gian có các yếu tố kết hợp giữa các nghi lễ của Thiên chúa giáo và đa thần giáo sơ khai bản địa. Trong hội mùa đông những đoàn người hoá trang đi đến các nhà, múa hát vui vẻ, các cô gái có nhiều cách để bói về tương lai của mình. Mọi gia đình đều vui chơi tưng bừng. Đoàn người hóa trang trong các trang phục ngộ nghĩnh độc đáo, hát các bài dân ca có nội dung chuyên về ngày hội này, và cầm tay nhau nhảy khorovod (một điệu nhảy dân gian Nga). Chủ nhà đãi họ bằng các thức ăn ngon và tặng quà.
Tiểu phẩm cuối cùng của tổ khúc “Bốn mùa” có tiêu đề phụ do chính tay nhạc sĩ viết trong bản thảo là “Waltz”, và không phải là tình cờ ông viết tiểu phẩm này theo phong cách đó. Thời đó waltz là điệu nhảy rất phổ biến, tượng trưng cho các ngày lễ gia đình. Giai điệu chủ đạo của tiểu phẩm được viết theo phong cách âm nhạc đời thường, với từng đoạn waltz xen kẽ. Tiểu phẩm kết thúc bằng một đoạn nhạc waltz êm dịu, một ngày hội của gia đình đầm ấm xung quanh cây thông Giáng sinh. Và cả tổ khúc cũng kết thúc êm đềm như vậy.
(27/1/1756 - 5/12/1791)
(1756 - 1791) - Nhà soạn nhạc có nhiều ảnh hưởng nhất trong nhạc cổ điển Châu Âu.
Vào năm 1762, khi tới Schonbrunn, lâu đài hoàng gia Austrian, Mozart (6 tuổi) đang chơi với những công chúa nhỏ, bị trượt chân ngã trên sàn trơn. Cậu bé òa khóc và được công chúa Marie Antoinette, lúc đó bảy tuổi, đỡ dậy và an ủi. Mozart liền hôn nữ hoàng tương lai của nước Pháp: "Cậu tốt lắm," Mozart tuyên bố. "Tớ sẽ lấy cậu!"
Nguồn: Will and Ariel Durant, The History of Civilization - Kal Kally dịch
~*~
"[Vào tháng Tám, 1764], trong khi cha chúng tôi đang ốm nặng," Chị của Mozart, Maria Anna, nhớ lại, "chúng tôi không được chạm vào piano. Để khỏi buồn chán, Mozart đã soạn bản nhạc giao hưởng đầu tiên [K16] cho tất cả các nhạc của của dàn nhạc."
Nhà soạn nhạc thiên tài lúc đó mới có tám tuổi.
Nguồn: Allgemeine Musikalische Zeitung (Leipzig), 22 January, 1800 - Kal Kally dịch
~*~
Raschala, Austria có một đài kỷ niệm mang tên "Mozart's Pinkelstein." ('Mozart pee-stone').
Đài kỷ niệm này kỷ niệm cái gì vậy? Vào năm 1787, trong một chuyến đi tới Prague, Mozart dừng chân tại Raschala - để đi tiểu (pinkel).
Rất nhiều du khách đã tới đây để thăm đài kỷ niệm này và ngành du lịch địa phương thậm chí còn tổ chức lễ hội âm nhạc - với rất nhiều đồ uống - để nhớ tới chuyến viếng thăm ngắn ngủi của nhà soạn nhạc đại tài.
Giáo sư dạy kiến trúc Helmut Leierer đã nói: "Nhiều người biết Mozart đã có cuộc dừng chân nhanh chóng ở đây và để lại dấu ấn của mình tại nơi đã trở thành đài kỷ niệm của chúng tôi."
"Dân địa phương thường nói với nhau ở đây có ít chuyện để làm đến nỗi ngay cả Mozart cũng chỉ dừng chân đủ lâu để đi tiểu trước khi tiếp tục tới Prague."
"Như chúng tôi biết, ông đã đi qua thị trấn này vào năm 1787 - và yêu cầu người lái xe ngựa dừng lại để mình giải quyết nỗi buồn."
Ông bổ sung. "Nhưng chúng tôi yêu cầu du khách không giải quyết nỗi buồn lên đài kỷ niệm của chúng tôi - chúng tôi muốn tỏ lòng kính trọng với nhà soạn nhạc."
Nguồn: Tom Phillips - 26th August, 2009 - Kal Kally dịch
~*~
Vào buổi tổng duyệt vở Don Giovanni tại Prague, Mozart rất thất vọng với ca sĩ trẻ diễn vai Zerlina. Mặc dù đã được yêu cầu phải hét lên khi đối mặt với Don Giovanni, cô ta không diễn được có sức thuyết phục, cho dù Mozart đã hết sức yêu cầu. Cuối cùng mất kiên nhẫn, Mozart rời khỏi vị trí người chỉ đạo, lén bước lên sân khấu tối và đột ngột xuất hiện cấu vào tay cô ta. Bị bất ngờ, cô ta hét to.
"Tuyệt diệu!" Mozart thốt lên. "Xin cô hãy hét như thế vào tối nay!"
Nguồn: W. Kuhe, Memoirs of a Musician - Kal Kally dịch
~*~
Có lần lúc đang đi thăm một trang trại cùng với cha mẹ, Mozart nghe thấy tiếng lợn kêu. "G-sharp!" Ông kêu lên. Mọi người tò mò đi tìm ngay một chiếc piano; đó đúng là G-sharp.
Nhà soạn nhạc lúc đó mới có hai tuổi.
Nguồn: N. Slonimsky, Slonimsky's Book of Musical Anecdotes - Kal Kally dịch
~*~
Có lần Mozart đã thách Haydn chơi một tác phẩm do ông vừa sáng tác. Haydn nhận lời, nhận lấy nhạc phổ từ tay Mozart và bắt đầu chơi.
Sau một vài ô nhạc đầu, Haydn đột nhiên ngừng lại, làm sao ông có thể chơi được một đoạn nhạc mà vừa phải dùng hai tay ở hai đầu của bàn phím vừa phải chơi một nốt ở giữa bàn phím cơ chứ. Haydn đành chịu thua. Nhưng đoạn nhạc đó đã được Mozart xử lý cực kỳ ngoạn mục, ông đã cúi người xuống và dùng... cái mũi dài của mình để chơi nốt nhạc ở giữa.
Nguồn: www.pupuneko.net (st)
~*~
Một chàng trai trẻ từng hỏi xin lời khuyên của Mozart để soạn một bản giao hưởng. Mozart trả lời vì anh ta còn trẻ, có lẽ anh ta nên bắt đầu với các bản ballad trước.
"Nhưng ông viết nhạc giao hưởng khi ông mới chỉ mười tuổi," Chàng trai phản đối.
"Đúng vậy," Mozart đáp lại. "Nhưng tôi không phải hỏi xin lời khuyên của ai."
Nguồn: Nancy McPhee, The Book of Insults - Kal Kally dịch
(21/3/1685 - 28/7/1750)
(1685 - 1750) Nhà soạn nhạc Baroque người Đức và nghệ sĩ chơi đàn organ và clavecin (cla-vơ-xanh) nổi tiếng
~*~
Johann Sebastian Bach được coi là bậc thầy và là người sáng lập ra nền âm nhạc hiện đại. Beethoven, Schumann và nhiều nhạc sĩ khác có chịu ảnh hưởng ít nhiều của Bach.
Trong lúc nói chuyện về Bach, Beethoven nhận xét:
- Bach không phải là Bach (con suối) mà là Meer (biển cả).
Nguồn: Nguồn: Danh nhân thế giới. Lương Văn Hồng dịch và biên soạn. NXB Văn học, 2005.
~*~
Bach có thói quen để cho vợ lo toan mọi việc trong gia đình. Khi vợ Bach qua đời, nhạc sĩ đứng bên quan tài khóc. Bà già giúp việc bảo nhạc sĩ đưa tiền để đi mua vòng hoa. Theo thói quen, nhạc sĩ nói:
- Bảo vợ tôi ấy.
Nguồn: Danh nhân thế giới. Lương Văn Hồng dịch và biên soạn. NXB Văn học, 2005.
~*~
"Vì không thể kiếm được người tốt nhất, ta đành chấp nhận bọn tầm thường vậy."
Đó là lời ngài thị trưởng Abraham Platz của thành phố Leipzig đã nói vào năm 1723 khi chỉ định Bach làm người điều khiển ca đoàn cho Trường Thánh Thomas của Leipzig sau khi Graupner từ chối vị trí này. (Graupner là một nhạc sĩ nhỏ đã bị lãng quên từ lâu).
(22/8/1862 – 25/3/1918)
(1862 – 1918)Nhà soạn nhạc Pháp thuộc trường phái âm nhạc ấn tượng, một tên tuổi lớn trong nền âm nhạc châu Âu vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Sau thành công của Pelleas et Melisande, Claude Debussy được biên tập viên của tờ Le Monde Musical hỏi liệu mình có thể xin ảnh của nhà soạn nhạc để đăng hay không. "Dĩ nhiên," Debussy trả lời, "và ông chỉ nhận được ảnh tôi đã chụp mà thôi. Nhưng tôi phải nói với ông trước rằng khi tôi ngồi cho thợ ảnh chụp, tôi mới có hai tuổi và kể từ đó tôi đã thay đổi ít nhiều rồi."
Nguồn: The Etude Magazine, February 1921 - Kal Kally dịch
~*~
Tác phẩm La Mer của Claude Debussy không phải không bị phê bình. "Bởi mãi nhìn qua phần cuối của ống nhòm [kính xem opera], "Louis Schneider từng viết về một buổi biểu diễn, "Debussy cho chúng ta ấn tượng không phải về đại dương mà về bồn nước tại vườn Tuileries... Thính giả dường như hơi thất vọng; họ mong chờ đại dương, thứ gì đó lớn lao, khổng lồ, nhưng thay vì thế họ lại được phục vụ ít nước được khuấy lắc trong đĩa nhỏ."
["Nó giống như một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp," Ferruccio Busoni từng nói về L'Après-midi d'un Faune, "nó nhạt dần đi khi bạn ngắm nó." Và Nikolay Rimsky-Korsakov thậm chí còn thô bạo hơn với âm nhạc của Debussy: "Tốt hơn đừng nghe nó," ông từng nhận xét. "Bạn sẽ mạo hiểm quen với nó, rồi cuối cùng có thể lỡ thích nó."]
* Vườn Tuileries: Vườn Tuileries nằm ở trung tâm thành phố Paris, thuộc Quận 1. Ở vị trí này trước đây là cung điện hoàng gia Tuileries cùng khu vườn. Nhưng cuối thế kỷ 19, cung điện bị đốt cháy và phá hủy sau đó. Ngày nay nơi đây chỉ còn vườn Tuileries. Được tạo ra từ thế kỷ 16, tới thời vua Louis XIV, vườn Tuileries được mở cho công chúng, trở thành khu vườn công cộng đầu tiên của Paris. Ngày nay, đây là khu vườn lớn nhất thành phố Paris.
Nguồn: Gil Blas; Lockspeiser, Debussy; Stravinsky, Chronicles of My Life - Kal Kally dịch
~*~
(11/6/1864 – 8/9/1949)
(1864 - 1949) Nhà soạn nhạc người Đức cuối thời kì lãng mạn và đầu thời kì hiện đại, nổi tiếng với các tác phẩm thơ giao hưởng và opera.
Người chỉ huy dàn nhạc giỏi bài
Richard Strauss có niềm yêu thích đặc biệt đối với món chơi bài "skat" của Đức. Ông sẽ chơi vào bất cứ cơ hội nào gặp được và thường yêu cầu các thành viên dàn nhạc cùng tham gia. Tại Bayreuth Festival, để làm ông hài lòng, Winifred Wagner bí mật hoàn lại tiền cho những ca sĩ và nhạc sĩ mỗi buổi chiều đều mất tiền cho người chỉ huy dàn nhạc giỏi bài này.
* Winifred Wagner: Nữ ca sĩ Opera, kết hôn với Siegfried Wagner, con trai của nhà soạn nhạc Richard Wagner. Bà cũng là người tình của Hitler.
Nguồn: N. Lebrecht, Book of Musical Anecdotes - Kal Kally dịch
~*~
Sau khi nghe bản opera Salome của Richard Strauss, Kaiser Wilhelm II, một người không yêu thích gì âm nhạc hiện đại, tuyên bố rằng nó sẽ "có tác hại lớn đối với Strauss".
Lâu sau đó, Strauss nhắc lại lời phê bình của Kaiser. "Tôi có thể xây biệt thự tại Garmisch," Ông nhận xét, "nhờ vào tác hại lớn."
Nguồn: B. Grun, Gold and Silver; The New Yorker, 2004-04-05 - Kal Kally dịch
~*~
"Vào bữa tối được câu lạc bộ Lotos tổ chức cho Richard Strauss ở địa điểm cũ tại Đại lộ 5 gần Phố 42, tôi ngồi cạnh ông khi ông viết vài nhịp của một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của mình cho tôi xem giữa những tiếng nói chuyện ồn ào và tiếng nhạc thuộc thể loại đang thịnh hành. Trong cuộc thảo luận về việc khiến âm nhạc có ý nghĩa, ông nói, 'có thể dịch tất cả mọi thứ thành âm thanh. Tôi có thể khiến ông hiểu bằng âm nhạc rằng tôi cầm dĩa và thìa từ bên này đĩa lên và đặt xuống bên kia đĩa."
Nguồn: David Bispham, A Quaker Singer's Recollections - Kal Kally dịch
~*~
Âm nhạc của Frederic Chopin
Làm quen với piano từ lúc 4 tuổi, Chopin viết bản Polonaise in G minor năm ông tuổi 7 tuổi. Năm 1825, Chopin được chiêu sinh vào nhạc viện Warsaw, kỹ thuật chơi piano bậc thầy của Chopin đã được định hình. Chưa được công nhận tại Ba Lan, nhưng người nhạc sỹ trẻ tuổi văn hoá và thanh lịch, người mang vẻ mặt xanh xao và một bầu không khí sầu muộn đã ngay lập tức được chấp nhận bởi phong cách Pháp. Ông đã chọn ở lại đây để rồi đạt được những thành công ngoài sức tưởng tượng với sự giàu có lạ thường và khả năng khuấy động cuộc sống âm nhạc ở thủ đô của Pháp. Tháng 12 năm 1836, ông gặp George Sand, người phụ nữ đã làm thay đổi cuộc đời ông. Và mười năm sau đó là thời gian Chopin đã đạt đến đỉnh cao của sáng tạo với tư cách một nhạc sỹ.
Ông đã để lại những kiệt tác nghệ thuật như như bản Ballade số 3 và số 4 (1841 và 1842), bản Nocture, Op.48 (1841 – 1842), ba bản Polonaise Op.44, 53 và 61 (1840 – 1846), bản Scherzo, Op.54 (1843 – 1844), bản Fantasia in F minor, Op.49(1841) và bản Berceuse, Op.57 (1843) cùng các bản Ballade số 2, Op.38 đề tặng Schumann năm 1840, bản Mazurka, Op.33 và Op.41, bản Nocturne, Op.37, bản Polonaise, Op. 40, và hơn hết là tuyển chọn của 24 Préludes, Op.28. Những Etudes Op.10 là đặc biệt quan trọng vì trong các gam được chia nhỏ, Chopin đã mở rộng kỹ thuật và nguồn tài nguyên đáng quý của piano ở thời điểm mà nhạc cụ này đã trải qua một số thay đổi quan trọng. Nhạc sĩ người Đức Mendelssohn từng thốt lên: "Chopin là cả một lò lửa. Ông nung chảy tất cả những gì mà cuộc sống ban cho. Và ông ấy rút ra từ đó kho báu hết sức quý giá". Những vũ khúc thôn dã của quê mẹ Ba Lan, đã thấm vào Chopin làm nên một thiên tài âm nhạc thuần khiết, đôn hậu, mãnh liệt mà da diết. Ông được coi là nhà thơ của cây đàn piano với những bản polonaise, marzuka và etude bất hủ.
Frederic Chopin: Bản tình ca ngọt ngào trong cuộc đời ngắn ngủi
Mùa thu năm 1849, trước khi trút hơi thở cuối cùng người nhạc sĩ ấy đã khẩn cầu: Hãy mang trái tim tôi trở về với Tổ quốc! Và hãy rải lên nắp áo quan nắm đất của đất nước Ba Lan mà tôi đã giữ gìn như bảo vật suốt 20 năm trời xa xứ... Đó là ý nguyện cuối cùng của nhạc sĩ thiên tài Frederic Chopin - người được thế giới biết đến là nghệ sĩ biểu diễn, nhà soạn nhạc vĩ đại cho đàn piano.
Vì sao Tổ quốc lại trở thành nỗi niềm day dứt khôn nguôi trong trái tim người nghệ sĩ piano lừng danh thế giới này? Một số nhạc sĩ thiên tài đã từng sống xa Tổ quốc, như Mozart, Beethoven, Schubert... đều có chung nỗi buồn xa xứ. Song, không một ai trong số họ, niềm vương vấn với quê mẹ lại sâu nặng như ở Chopin.
Tạm biệt quê nhà năm 20 tuổi, cho đến cuối cuộc đời, vì nhiều lý do khác nhau, Chopin không có cơ hội một lần quay trở lại. Ngay cả thân xác ông cũng nằm lại chốn quê người. Phải mấy chục năm sau, trái tim của người nghệ sĩ mới được yên nghỉ vĩnh hằng nơi Tổ quốc! Trái tim đó hiện được lưu giữ tại nhà thờ Thánh Thập Tự tại thủ đô Warsaw.
Hầu hết các thiên tài âm nhạc thế giới đều gắn bó và thành danh với cây đàn piano - cây đàn được suy tôn là "ông vua của các loại nhạc cụ". Đầu tiên là trình diễn đàn piano, sau đến là sáng tác các nhạc phẩm cho loại đàn này. Riêng đối với Chopin, từ khi còn là cậu bé lên 2 tuổi, đã có thể ngồi bên chân mẹ hàng giờ liền để nghe âm thanh thánh thót của những phím đàn dưới đôi bàn tay người mẹ.
Người mẹ của Chopin tuy không phải là nghệ sĩ biểu diễn, song không thể không ngồi trước cây đàn piano mỗi tối, sau khi đã làm xong mọi việc thuộc thiên chức của người mẹ. Bà là người Ba Lan, xuất thân từ dòng dõi quý tộc, biết chơi đàn, biết hát những bài dân ca Ba Lan, thích nhảy múa, có ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của Chopin.
Khi 6 tuổi, một đêm không ngủ, cậu bé Chopin đã lén vào phòng của mẹ để đụng tay vào những phím đàn. Lên 7 tuổi, cậu bé đã có thể công bố nhạc khúc đầu tay "Vũ khúc Ba Lan" nổi tiếng toàn thế giới. 8 tuổi Chopin đã diễn tấu trước công chúng bản Concerto viết cho piano của Adalbart Gyrowetz và bắt đầu viết được những bản Polonaises, Mazurka và một bản Waltzes. 15 tuổi nhạc sĩ xuất bản điệp khúc viết cho Piano (Rondo for Piano)...
Chopin may mắn được sinh ra và lớn lên trên đất nước Ba Lan, quê hương của nhiều thể loại âm nhạc, Opera, nhạc đường phố, nhạc trong nhà... Đâu đâu cũng có thể thưởng thức những ca khúc Arian và Roman, các điệu Polonaises và Waltzes. Rất nhiều người biết chơi piano, violon, anpha...
Nơi đây có nhiều điệu nhảy tưng bừng, mà mỗi khi bước lên sàn, người đàn ông thì hùng dũng gõ vang gót giày còn các cô gái thì lướt đi uyển chuyển như gió, như mây. Cậu bé Chopin như bị thôi miên bởi tất cả những thứ được coi là "vàng ròng" đó. Mới 15 tuổi đầu, Chopin đã đi đến tận các ngang cùng ngõ hẻm của các làng quê Ba Lan, để đắm mình trong các điệu dân ca, dân vũ.
Cậu bé phát hiện ra rằng, các bản Mazurka chứa đựng một nỗi buồn mêng mang không thể diễn đạt bằng lời, nhưng lại được bộc lộ một cách giản dị trong âm điệu của cây đàn. Âm nhạc dân gian Ba Lan, đặc biệt là âm nhạc của các loại vũ khúc đã làm rung động tâm hồn non nớt của Chopin, là cội nguồn của những giai điệu đẹp như thơ mà ông sáng tác sau này.
Có thể nói, trong cuộc đời lao động nghệ thuật 52 bản Mazurka do ông sáng tác chính là tình yêu quê hương đất nước và khát vọng tự do mà nhạc sĩ đã gửi gắm. Những nhạc khúc ấy của Chopin được công chúng Ba Lan nhìn nhận là một vốn quý của dân tộc.
Cùng với nguồn cảm hứng bất tận là tình yêu Tổ quốc, tình yêu đôi lứa cũng đem lại cho Chopin những cảm xúc dạt dào, đưa sự nghiệp âm nhạc của Chopin lên đỉnh cao.
Theo một số nhà nghiên cứu tiểu sử, Chopin đã từng yêu ba người phụ nữ. Mối tình đầu với Conxtanxia- một cô gái Ba Lan, có giọng hát hay như chim họa mi, học chung trường khi Chopin còn ở quê nhà. Cô "đã bước vào cuộc đời anh như người chủ bước vào căn nhà bỏ không để ở lại đó thật lâu dài, vĩnh viễn".
Song, xung quanh Conxtanxia có rất nhiều chàng trai quý tộc săn đón, còn Chopin thì e dè, mặc cảm, non nớt nên đã để mối tình đầu đi qua. Nhưng dư vị ngọt ngào của mối tình đầu đã khiến trái tim Chopin đóng kín một thời gian dài.
Mùa hè năm 1835, tại Dresden, Chopin đã gặp gỡ và yêu một cô gái thứ hai cũng người Ba Lan. Đó là Maria, một cô gái thuộc đẳng cấp thượng lưu, năm ấy 16 tuổi. Do người thân của cô hết sức bảo thủ trong quan niệm "môn đăng hộ đối" nên dù hai người đã từng làm lễ đính hôn nhưng rốt cuộc mối tình này cũng kết thúc.
Năm 28 tuổi, trong khi chưa chấm dứt hẳn quan hệ với Maria nhưng qua sự giới thiệu của bạn bè, Chopin quen biết với nữ văn sĩ Aurore Dupin, còn gọi là quý bà Dudenvant. Aurore Dupin là một người rất nổi tiếng ở Paris, hơn Chopin sáu tuổi, có hai con với người chồng cũ. Cô là tác giả của một số cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất ở Paris lúc đó, lại là người có nhan sắc, có tài sản, có những quan niệm mới mẻ về tình yêu và hạnh phúc.
Trong các tiểu thuyết của mình, Dupin cổ súy cho tư tưởng giải phóng phụ nữ khỏi những định kiến hẹp hòi của xã hội đương thời. Sau khi ly dị, Dupin đã từng yêu một nhà thơ nổi tiếng, song vì không chấp nhận làm "nô lệ" cho người đó, nên cuối cùng tình cảm của họ cũng kết thúc.
Khi được giới thiệu với Chopin, dẫu nghe người ta đồn rằng anh đã làm lễ đính hôn với Maria, song Aurore Dupin vẫn quyết tâm chinh phục bằng được người nhạc sĩ cô hằng ngưỡng mộ. Aurore Dupin cho rằng, mối tình với Chopin là "mối tình cao thượng, lớn lao, khó hiểu, làm lu mờ tất cả những chuyện đã qua. Và nếu như chẳng may chết đi trước cuộc gặp gỡ với Chopin thì toàn bộ cuộc đời sẽ chẳng có giá trị gì...".
Sau nhiều lần gặp gỡ, Chopin vẫn tỏ ra hờ hững, vì giữa hai người có quá nhiều khác biệt, vì những lời đồn đại xung quanh phẩm hạnh và tính cách của Dupin. Chopin cảm thấy Dupin như "con hạc đứng giữa bầy gà, khi nói chuyện thì như mụ phù thủy Delphi trong đền thờ thần Apollo"... Nhưng dần dần, do những nỗ lực từ phía Dupin, định kiến được xóa bỏ.
Trong một lá thư dài gửi Chopin, Aurore Dupin thẳng thắn bày tỏ tình cảm của mình: "Tôi không muốn giành giật của bất kỳ ai một cái gì hết... Tôi muốn trở thành một niềm vui hiếm hoi và mãnh liệt, muốn có mặt trong đời anh, dẫu bên cạnh một phụ nữ khác, muốn làm anh tin rằng, nhiều lúc có thể phân đôi thân mình khi không thể toàn vẹn được".
Đã có lần, Dupin phủ phục dưới chân Chopin, năn nỉ: "Nếu không từ bỏ được Maria thì cũng đừng cự tuyệt tôi!". Cuối cùng thì Chopin đoạn tuyệt hẳn với Maria, chuyển đến sống chung của Dupin và hai đứa con của nàng từ mùa thu năm 1838.
Khi Chopin bị viêm phổi, Dupin theo ông đi xuống miền Nam nước Pháp để tránh mùa đông giá rét. Suốt sáu tháng trên đảo Majorka, Dupin không khi nào rời khỏi giường bệnh. Chopin cảm thấy rất hạnh phúc, như "không phải sống trên mặt đất mà là đang sống trong thế giới thần tiên, có mây mù bao quanh, có mùi thơm ngào ngạt..".
Chín năm sống trong tình yêu ngọt ngào - một quãng thời gian không quá ít ỏi trong cuộc đời ngắn ngủi của nhà nhạc sĩ thiên tài, đã đưa Chopin lên đỉnh cao của thành công. Ông chuyên tâm vào việc sáng tác, và hầu hết những kiệt tác: "Khúc tự sự số 2, số 3, số 4"; "Khúc hòa tấu B giáng minor", "Khúc ảo tưởng F minor", "Vũ khúc ảo tưởng Ba Lan", "Vũ khúc Mazurka" kiệt xuất và một số dạ khúc khác được sáng tác trong thời gian này.
Chopin từng cho rằng, tình yêu như một cái giếng nghệ thuật, khi đào thấy miệng giếng, nguồn cảm hứng sẽ trào dâng.
Nhưng buồn thay, do cá tính của hai người quá khác biệt, tuy vẫn còn rất yêu, cuối cùng Dupin chia tay với Chopin khi ông đang ốm thập tử nhất sinh. Sự ra đi của Dupin đã lấy đi hết cảm hứng, sinh lực, khiến Chopin gần như chấm dứt sự nghiệp sáng tác. Thế mới biết, "Nữ thần Tình yêu" luôn là chúa tể của tất cả các thần linh mà giới nghệ sĩ hằng thờ phụng.
Chopin từng buồn bã thú nhận: "Nghệ thuật của tôi đi về đâu rồi? Lòng dạ của tôi ở đâu? Tôi đã tiêu hao nó vào đâu rồi? Tôi gần như không còn nhớ được tiếng hát quê hương của mình ra sao nữa!".
Cũng may mà trong chín năm sống chung với Dupin, Chopin đã kịp mang tiết tấu, giai điệu của dân tộc Ba Lan đưa vào truyền thống âm nhạc châu Âu, sáng tạo ra một thứ âm nhạc Ba Lan mang ý nghĩa quốc tế, đồng thời nêu lên một mẫu mực cho âm nhạc dân tộc về sau.
Âm nhạc của Chopin, từ những nhạc khúc mở đầu, những dạ khúc, những vũ khúc Mazurka, những vũ khúc Ba Lan, những nhạc khúc ngẫu hứng đều có nội dung vĩ đại, sâu sắc và đẹp như một bức tranh tình yêu chan hòa ánh nắng...
Đêm 17 tháng mười năm 1848, Chopin qua đời, đôi bàn tay để trên bụng nắm chặt chiếc cốc bạc đựng nắm đất Tổ quốc Ba Lan. Đó là chiếc cốc bạc tinh xảo do một khán giả Ba Lan trao tặng Chopin trước khi lên đường sang Paris, với lời nhắn nhủ: "Chopin thân yêu! Đựng trong chiếc ly này là nắm đất Ba Lan Tổ quốc của chúng ta. Nhạc sĩ sắp đi xa, tôi thay mặt nhân dân Warsaw tặng nhạc sĩ làm chút kỷ niệm".
Chopin đón nhận chiếc cốc, áp sát vào nơi trái tim đang đập rộn rã, nước mắt rưng rưng: "Tổ quốc ơi! Tôi mãi mãi trung thành với người! Tôi sẽ hiến thân cho người! Tôi sẽ mãi mãi dùng tiếng đàn để ca ngợi người!".
Để vĩnh biệt Chopin, tại Medeleine, dàn nhạc giao hưởng và đội hợp xướng của Nhạc việc Paris đã trình tấu bản "Cầu hồn" của Wolfgang Amadeus Mozart
(25/3/1881 - 26/9/1945)
(1881 - 1945) Nhà soạn nhạc người Hungary
Bản The Miraculous Mandarin của Bela Bartok không được đón nhận tốt lắm khi lần đầu tiên trình diễn trước công chúng (ở Cologne vào năm 1926). Phải nói là cả một cuộc náo loạn đã nổ ra, người ta ném bom thối và nhạc chìm đi trong tiếng chửi mắng và xỉ vả. Konrad Adenauer (rồi thị trưởng của Cologne) thậm chí yêu cầu người chỉ huy dàn nhạc, Eugen Szenkar phải xin thôi việc. Trong tất cả sự hỗn loạn đó, Bartok đến phòng thay đồ của Szenkar để cho thêm một lời phàn nàn của chính mình: "Eugen, ở trang ba mươi tư, clarinet thứ hai được ghi là mezzo forte [to vừa]," ông nói. "Tôi không nghe thấy nó - anh cho nó là forte được không?"
Nguồn: Norman Lebrecht, The Book of Musical Anecdotes - Kal Kally dịch
Danh ngôn âm nhạc
Âm nhạc khơi ngọn lửa trong tim người đàn ông và dâng lệ lên mắt người phụ nữ
Âm nhạc làm thăng hoa niềm vui sướng, làm vơi bớt nỗi sầu khổ, xua đi mọi bệnh tật, xoa dịu những cơn đau và đẩy lùi mọi sự phẫn uất!
Âm nhạc là thảo nguyên rộng lớn nhất, tự do nhất để sức tưởng tượng khai phá.
Hãy đến với âm nhạc để mang niềm vui đến với tâm hồn bạn
Lo buồn của học giả là hiếu thắng, lo buồn của nhà âm nhạc là ảo tưởng, lo buồn của quan hầu là giảo hoạt, lo buồn của người đàn bà là soi mói, lo buồn của người đang yêu là tập hợp của tất cả những thứ ấy.
J.Armstrong đã nói: “Âm nhạc làm thăng hoa niềm vui sướng, làm vơi bớt nỗi sầu khổ, xua đi mọi bệnh tật, xoa dịu những cơn đau và đẩy lùi mọi sự phẩn uất”.
*********
Âm nhạc là số học của âm thanh cũng giống như quang học là hình học của ánh sáng.
Music is the arithmetic of sounds as optics is the geometry of light.
Âm nhạc là sự câm lặng giữa nhưng nốt nhạc.
Music is the silence between the notes.
Giọng của con người là nhạc cụ đẹp đẽ nhất, nhưng cũng là nhạc cụ khó chơi nhất.
The human voice is the most beautiful instrument of all, but it is the most difficult to play.
Âm nhạc thuộc sở hữu của tất cả mọi người. Chỉ những nhà phát hành mới nghĩ có ai đó sở hữu nó.
Music is everybody's possession. It's only publishers who think that people own it.
Tôi thích nghĩ về âm nhạc như một môn khoa học cảm xúc.
I like to think of music as an emotional science.
Họa sĩ biến thơ thành tranh; nhạc sĩ biến tranh thành âm nhạc.
The painter turns a poem into a painting; the musician sets a picture to music.
Nhiệm vụ cao quý của âm nhạc là chiếu sáng vào những cõi sâu thẳm trong trái tim con người.
It is music's lofty mission to shed light on the depths of the human heart.
Để soạn nhạc, tất cả những gì bạn cần là nhớ được một giai điệu chưa ai từng nghĩ tới.
In order to compose, all you need to do is remember a tune that nobody else has thought of.
Âm nhạc là cách cảm xúc trở thành âm thanh.
Music is what feelings sound like.
Khuyết danh
Chỉ có hai thứ đáng theo đuổi, nhạc hay và lương tâm trong sạch.
There are only two things worth aiming for, good music and a clean conscience.
Không có gì khó hơn là nói về âm nhạc.
There is nothing more difficult than talking about music.
Âm nhạc khơi ngọn lửa trong tim người đàn ông và dâng lệ lên mắt người phụ nữ.
Music should strike fire from the heart of man, and bring tears form the eyes of woman.
Âm nhạc là nhà hòa giải giữa cuộc sống thể xác và cuộc sống tâm linh.
Music is mediator between spiritual and sensual life.
Âm nhạc là sự giác ngộ cao hơn cả triết học và tri thức.
Music is a higher revelation than all wisdom and philosophy.
Âm nhạc thể hiện những điều không thể nói nhưng cũng không thể lặng câm.
Music expresses that which can not be said and on which it is impossible to be silent.
Cuộc sống rất giống nhạc jazz... hay nhất là khi bạn ngẫu hứng.
Life is a lot like jazz... it's best when you improvise.