Nhạc lý căn bản tìm hiểu các ký hiệu ghi cao độ
12/26/2012 12:39:57 PM
1. Tên các dấu nhạc có cao độ khác nhau mà người ta thường dùng là : DO, RE, MI, FA, SOL, LA, SI gốc tiếng La-tinh, đọc theo tiếng Việt là ĐÔ, RÊ, MÍ, FA, XON, LA, XI. Đó là 7 bậc cơ bản của hệ thống thất âm, tính từ thấp lên cao. Muốn lên
cao hoặc xuống thấp hơn, người ta lặp lại tên dấu các bậc trên với cao độ cách nhau từng quãng 8 một (còn gọi là bát độ).
2. Người ta cũng còn dùng các chữ cái La-tinh để gọi tên các bậc cơ bản trên : đô : C, rê : D, mi : E, fa : F, xon : G, la : A, xi : B (hiện nay B chỉ Xi giáng, còn H chỉ Xi thường).
3. Ở một số nước như Trung Hoa, Nhật Bản ... người ta còn dùng số thay cho tên gọi bằng chữ. Thí dụ : 1 : đô, 2 : rê, 3 : mi ... (1 chỉ dấu bậc I, 2 chỉ dấu bậc II, 3 chỉ dấu bậc III ..., 7 chỉ dấu bậc VII, muốn lên cao một bát độ, ta thêm dấu chấm trên con số, muốn xuống thấp một bát độ, ta thêm dấu chấm dưới con số 1, 1 ...). Số có 1 gạch là dấu móc, dấu có một gạch ngang là dấu trắng. Dấu không có gì là dấu đen...
Thang thất âm Đô luôn được trình bày dưới dạng 7 âm cơ bản đi liền nhau cộng thêm với âm đầu của thang âm được lặp lại ở bát độ : Đô Rê Mi Fa Xon La Xi (Đô). 4. Khoảng cách về cao độ tương đối giữa các bậc không đồng đều nhau.
-Khoảng cách nhỏ nhất trong thất âm gọi là nửa cung, giữa Mi với Fa và Xi với Đô. -Khoảng cách lớn nhất giữa hai bậc cơ bản đi liền nhau gọi là nguyên cung : giữa Đô với Rê, Rê với Mi, Fa với Xon, Xon với La, và La với Xi.
Ta có sơ đồ :
Đô--Rê--Mi-Fa--Xon--La--Xi-Đô (mỗi gạch ngang chỉ nữa cung, nguyên cung gồm 2 nửa cung).
Như vậy khoảng cách âm thanh giữa Đô thấp và Đô cao kế tiếp gồm 12 nửa cung, hoặc 6 nguyên cung. Nói cách khác, quãng tám (Đồ - Đố) gồm 12 âm cách nhau đều đặn từng nửa cung một (ở đây chỉ mới nói đến hệ âm điều hoà do nhạc sĩ Jean-Sebastien Bach (1685-1750)và Jean Philippe Rameau (1683-1764) cổ võ và được chấp nhận rộng rãi cho đến này).
5. Dấu hoá : là những ký hiệu cho biết các bậc cơ bản được tăng lên hay giảm xuống từng nửa cung điều hoà.
5.1. - Dấu thăng : (#) làm tăng lên nửa cung.
- Thăng kép : (x) làm tăng lên 2 nửa cung.
5.2. - Dấu giáng : (b) làm giảm xuống nửa cung.
- Giáng kép : (bb) làm giảm 2 nửa cung.
5.3. - Dấu bình : ( n ) cho trở về cao độ tự nhiên, không còn bị ảnh hưởng của các dấu hoá cấu thành cũng như dấu hoá bất thường.
Ở một số nước như Đức, Nga ... khi dùng chữ cái La-tinh A, B, C ... người ta thêm vần is thay dấu thăng : Cis : Đô# ; Eis : Mi# ; Ais : La# ; Cisis : Đôx ... và thêm vần es thay dấu giáng : Ces : Đôb ; Ceses : Đôbb ; Des : Rêb ; Ees —> Es : Mib ; Aes —> As : Lab.
6. Nhờ các dấu hoá đặt trước các dấu nhạc trên khuông nhạc, các bậc cơ bản được nâng cao hoặc hạ thấp tạo thành các “bậc chuyển hoá" : Đồ - Đô# (Rêb) - Rê - Rê# (Mib) - Mi - Fa - Fa# (Xonb) - Xon - Xon# (Lab) - La - La# (Xib) - Xi - Đô (các dấu hoá này được gọi là các dấu hoá bất thường. Chỉ ảnh hưởng đến các dấu nhạc cùng tên trong cùng một ô nhịp, khác với các dấu hoá cấu thành ghi ở đầu khuông nhạc, còn gọi là hoá biểu, ảnh hưởng đến mọi dấu nhạc cùng tên trong cùng một đoạn nhạc).
- Nửa cung dị chuyển : (diatonic đọc là đi-a-tô-ních) là nửa cung tạo nên bởi 2 bậc khác tên kề nhau.
- Nửa cung đồng chuyển : (chromatic đọc là crô-ma-tích) là nửa cung tạo nên bởi 2 bậc cùng tên.
- Nguyên cung dị chuyển : được tạo nên bởi 2 bậc khác tên kề nhau.
- Nguyên cung đồng chuyển : được tạo nên bởi 2 bậc cùng tên như Fa - Fa x, Xon - Xon bb hoặc 2 bậc khác tên không kề nhau : Đô# - Mib, Xon# - Xib. Trên thực tế đây là quãng ba giảm.
TD 5 a) 2 bậc cùng tên B) 2 bậc khác tên không kề nhau (= quãng 3 giảm)
7. Muốn ghi cao độ tuyệt đối của các âm thanh, người ta dùng đến khuông nhạc và khoá nhạc.
7.1. Khuông nhạc : Hiện nay người ta dùng 5 đường kẻ song song, tạo thành 4 khe song song, tính thứ tự từ dưới lên. Trên khuông nhạc đó, ta có 11 vị trí khác nhau, ghi được 11 bậc cơ bản. Muốn ghi thêm, người ta dùng các dòng kẻ phụ.
7.2. Khoá nhạc : dùng để xác định tên các dấu nhạc ghi trên khuông nhạc. Khoá nhạc được ghi ở đầu mỗi khuông nhạc.
Hiện nay thường dùng 3 loại khoá chính sau : a) Khoá Xon dòng 2 :
- Dành cho bè nữ và các đàn âm khu cao như violon, Flute, Oboe ...
- Dành cho các bè nam cao và trầm : gồm khoá Xon Ricordi và khóa Xon hạ quãng 8
b) Khoá Fa dòng 4 : dành cho các giọng nam và các dàn thuộc âm khu trầm như Violoncello (cello), Contrabasso, Fagotto, Trombone ...
c) Khoá Đô dòng 3 : dùng cho đàn viola.
8. Âm La mẫu có tần số 440 là âm chuẩn được đa số chấp nhận : nó được ghi trên khuông nhạc khoá Xon 2, nằm ở khe thứ 2. Người ta gọi đó là âm La 3, vì nó nằm trong bát độ thứ 3 của 4 bát độ hợp ca của giọng người.
Với hai khoá Xon và Fa, chúng ta có thể xác định chính xác độ cao tuyệt đối của các âm thanh thuộc âm vực giọng hát hợp ca trải dài trong 4 bát độ. Có những nhạc khí có thể phát ra âm thanh trầm hơn quá 1 bát độ (La - Xi - Đồ - Rê ... Đô1) hoặc cao hơn 2 bát độ (Đô5 - Rê - Mi ... Đô6). Để khỏi dùng đến quá nhiều dòng kẻ phụ, ta dùng dấu chuyển độ : - Dấu chuyển độ lên : Phải tấu âm thanh lên cao hơn 1 bát độ : Ghi số 8 ở trên dòng nhạc, ngay chỗ bắt đầu phải chuyển độ, và thêm những vạch ngang rời song song với khuông nhạc cho đến khi diễn tấu bình thường như cao độ ghi trên khuông nhạc (có khi người ta viết chữ Octava đúng hơn Ottava Alta (8va Alta) ..... loco, loco báo hiệu trở lại bình thương (TD 6a). - Dấu chuyển độ xuống : Phải tấu âm thanh thấp hơn 1 bát độ : Ghi số 8 dưới khuông nhạc với các vạch ngang rời cho đến khi không phải chuyển độ nữa (có khi thay bằng chữ Ottava bassa (8va bassa) ..... loco (TD 6b)). TD 6 : Dấu chuyển độ a) chuyển độ lên Ottava ..... loco b) chuyển độ xuống Ottava bassa ..... loco
Những lý thuyết căn bản đẻ nắm vững nhạc lý căn bản
12/26/2012 12:39:14 PM
1. Muốn hiểu ngôn ngữ viết, tối thiểu ta phải biết đánh vần, đọc chữ. Tương tự như vậy, muốn xem và hiểu một bản nhạc, ta cũng phải hiểu được các ký hiệu âm nhạc, và biết xướng âm. Có thể nói Nhạc
pháp (gồm nhạc lý và xướng âm) là cửa ngõ dẫn vào âm nhạc.
2. Âm nhạc là một bộ mộn nghệ thuật dùng âm thanh để diễn đạt tình ý của con người. Nó được chia ra hai loại chính, đó là thanh nhạc và khí nhạc. Thanh nhạc là âm nhạc dựa trên lời ca, nên ý tưởng và tình cảm cụ thể và rõ ràng. Còn khí nhạc là âm nhạc dựa trên âm thanh thuần tuý của các nhạc cụ, nên trừu tượng, nó gợi ý, gây cảm giác hơn là nói lên một tình cảm nào rõ rệt. Cần phải học hỏi nhiều hơn mới lĩnh hội được.
3. Nghệ thuật là kết quả của hoạt động của con người biết dùng các phương tiện khả giác một cách khéo léo, tài tình, để thông đạt tình ý của mình. Trong âm nhạc, các phương tiện đó là âm thanh. Do đó, âm nhạc chủ yếu làm cho tai nghe. Muốn thưởng thức âm nhạc, phải nghe thực thụ chứ xem bằng mắt thì chưa đủ.
4. Âm thanh dùng trong âm nhạc thường có bốn đặc tính này :
Cao thấp (cao độ)
Ngắn dài (trường độ)
Mạnh nhẹ (cường độ)
Đục trong, sáng tối ... (âm sắc).
5. Thiếu một trong các đặc tính trên thì chỉ là tiếng động. Hiện nay người ta dùng nhiều tiếng động khác nhau trong âm nhạc, nhằm tăng cường mức độ diễn cảm cũng như tính tiết tấu của âm nhạc. Đó là các nhạc cụ thuộc bộ gõ như trống con, trống cái, phách, maracas, triangle, cymbal ...
6.Ký hiệu âm nhạc là toàn bộ các dấu hiệu cũng như chữ viết được dùng để ghi lại âm thanh với các đặc tính của chúng. Môn ký âm là ghi âm thanh lại bằng các ký hiệu âm nhạc trên giấy mực.
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC ÂM NHẠC VỚI 8 MỤC TIÊU
1. Học nghe: - Nghe đúng cao độ - Nghe đúng trường độ - Nghe hợp âm, cấu trúc bài nhạc - Nghe tiết điệu của bài nhạc - Và quan trọng hơn cả là nghe tác giả muốn nói gì? - Tích lũy mọi tinh hoa của âm nhạc càng nhiều càng tốt.
2. Học hát: - Tạo hóa đã cho con người khả năng tuyệt vời đó là hát. Vì nhạc cụ nào có thể diễn tả tâm trạng của người biểu diễn hơn giọng hát? - Và, khi đã nghe được, việc hát lại những gì bạn nghe là điều dễ dàng hơn tất cả!
3. Học chơi đàn: - Vì bạn muốn chơi đàn, nên đương nhiên, bạn phải học cách làm sao để có thể điều khiển mọi hoạt động của cơ thể diễn tả những gì bạn đã nghe, đã hát! - Bạn độc tấu? Bạn đang rèn luyện tinh thần độc lập, tự chủ. - Bạn hòa tấu? Bạn đang rèn luyện khả năng thích ứng, biết hòa mình trong tập thể để đưa tập thể đó lên đến thành công. - Nhưng điều gì quan trọng nhất ở đây? Cảm thụ bài hát, thưởng thức nó, hòa mình vào nó, và từng ngón đàn của bạn, phải biểu lộ mọi rung động trong tim bạn. Chỉ có một cách duy nhất để người nghe rung động, đó là từ trái tim đến trái tim!
4. Học đọc nhạc, viết nhạc: - Sau khi đã nghe, hát, đàn được, thì việc đọc hay viết nhạc không còn là vấn đề khó khăn - Quan trọng hơn nữa, là viết những gì của bạn, do bạn sáng tác.
5. Học cách đặt âm sao cho hợp lý, học hòa âm: - Bạn đang học phân tích bản nhạc để đặt hợp âm cho đúng, vì nói cho cùng, âm nhạc dù chỉ 12 nốt nhưng bao la vô cùng tận, có học đến suốt đời cũng không thể nào hết. Vì vậy, nếu bạn biết cách tự đặt hợp âm cho bài mới, biết cách tự mình thiết lập phần đệm cho riêng mình, thì còn gì thú vị hơn nữa? Còn bài nhạc nào mà bạn không thể biểu diễn? Còn cuộc vui nào mà bạn không thể thể hiện.
6. Học sáng tác: - Chúng tôi luôn khuyến khích mọi người tự sáng tác, vì chính bạn, chứ không phải ai khác sẽ trình bày tác phẩm tự mình sáng tác tuyệt vời nhất. - Và, như phương châm giáo dục của chúng tôi , học nhạc để sáng tạo.
7.Học thưởng thức âm nhạc: - Cuộc đời của bạn sẽ đẹp biết bao khi nhắm mắt lại nghe một bản nhạc, bạn hiểu được tác giả, người nghệ sĩ muốn nhắn nhủ với bạn điều gì? - Rock: mãnh liệt, tự khẳng định? - Dance: sôi động, hào hứng? - Latin: nóng bỏng, thiết tha? - Jazz: quí phái? - Giao hưởng: cổ điển, sang trọng?
8. Học chia sẻ âm nhạc: - Cho đi là niềm hạnh phúc nhất người cho và người nhận.
I/ ÂM NHẠC LÀ GÌ?
Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật dùng âm thanh (chất giọng) để diễn đạt tình cảm, xúc cảm của con người. Nó được chia ra hai thể loại chính: thanh nhạc và khí nhạc. Thanh nhạc là âm nhạc dựa trên lời hát thể hiện rõ ý tưởng và tình cảm. Còn khí nhạc là âm nhạc dựa trên âm thanh thuần tuý của các nhạc cụ, nên trừu tượng, gây cảm giác và sự liên tưởng.
Ký hiệu âm nhạc là toàn bộ các dấu hiệu cũng như chữ viết được dùng để ghi lại âm thanh với các đặc tính của chúng. Môn ký âm là ghi âm thanh lại bằng các ký hiệu âm nhạc trên giấy và môn xướng âm là đọc lên những ký hiệu âm nhạc (đã được ký âm) đúng cao độ và trường độ của chúng. Có các ký hiệu âm nhạc và khoá nhạc dùng để quy định cao độ, trường độ, cường độ cho bản nhạc. Có nhiều khoá nhạc khác nhau nhưng khoá sol là phổ biến nhất. Đôi khi cần thiết, người ta thường "dịch" một bản nhạc của ngôn ngữ khoá sol sang những khoá nhạc khác và ngược lại.
II/ TÁC DỤNG CỦA ÂM NHẠC:
Âm nhạc có ảnh hưởng đến đời sống con người. Các nghiên cứu đã chỉ ra, âm nhạc, đặc biệt là nhạc giao hưởng có tác dụng tốt, kích thích sự phát triển trí não. Do đó người ta khuyên cho trẻ nghe nhạc để phát triển trí tuệ của chúng. Trong chiến tranh, âm nhạc được cho là sức mạnh tinh thần cho đồng đội: "tiếng hát át tiếng bom". Chỉ trong giây lát, âm nhạc có thể làm cho con người chuyển đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác, ví dụ như vui, buồn, phấn chấn... Chính vì lý do này mà có một số thể loại nhạc trước đây đã bị cấm lưu hành vì lý do "làm chùn bước chiến sĩ". Người ta cũng cho rằng âm nhạc làm dịu tâm thần. Một liệu pháp chữa bệnh được áp dụng kết hợp cho các bệnh nhân tâm thần là dùng âm nhạc làm giảm các cơn phấn khích, đưa người bệnh vào trạng thái buồn ngủ.
Trước đây, nhất là trong thời đại La Mã, các chiến binh trước khi ra trận thường được nghe các khúc nhạc mạnh mẽ mang tích chất cổ vũ, khích lệ để họ lấy được tinh thần chiến đấu dũng cảm. Khi giao tranh, để cổ vũ cho tinh thần binh sỹ người ta cũng thường đánh trống, khua chiêng một cách dồn dập để các chiến binh xông lên.
III/ CÁC THỂ LOẠI VÀ THỜI KỲ ÂM NHẠC:
*Chung trên toàn thế giới
- Nhạc Cổ Điển bắt đầu khoảng năm 1400.
Nhạc cổ điển là dòng nhạc nghệ thuật được sản xuất, hoặc được bắt nguồn từ truyền thống tế lễ ở phương Tây và nhạc thế tục, bao gồm một khoảng thời gian rộng lớn từ khoảng thế kỷ thứ 11 đến thời điểm hiện tại. Các tiêu chuẩn chính của loại nhạc truyền thống này được hệ thống hóa giữa những năm 1550 và 1900, gọi là giai đoạn thực hành chung.
Nhạc Âu Châu được phân biệt rõ ràng với nhiều loại nhạc không có nguồn gốc từ Châu Âu và nhạc thị trường bởi những hệ thống ký hiệu âm nhạc của chính nó được sử dụng từ thế kỷ 16. Ký hiệu âm nhạc ở phương Tây được các nhà soạn nhạc sử dụng để quy định cho người biểu diễn về cao độ, tốc độ, phách, nhịp điệu riêng và cách thể hiện chính xác nhất của một đoạn nhạc. Thể loại nhạc này cho phép mọi người có thể biểu diễn tùy hứng và cải biên tự do, mà chúng ta thường xuyên được nghe trong những dòng nhạc nghệ thuật không bắt nguồn từ châu Âu (như trong nhạc Ấn Độ cổ điển và nhạc dân gian của Nhật Bảna) và nhạc thị trường.
Thuật ngữ "nhạc cổ điển" không xuất hiện cho đến đầu thế kỷ 19, khi người ta nỗ lực "phong thánh" cho khoảng thời gian vàng son của Johann Sebastian Bach và Beethoven.Tham khảo mới nhất của thuật ngữ này được ghi lại bởi Từ điển tiếng Anh Oxford là khoảng vào năm 1836.
- Nhạc Jazz bắt đầu khoảng năm 1900s.
Jazz là một nét văn hoá bản xứ ban đầu chỉ của riêng người Mỹ và đã được tạo ra bởi người Mỹ. Âm nhạc
phương Tây và châu Phi là nơi đã gieo hạt nên jazz, nhưng chính văn hoá Mỹ mới là nơi jazz nảy mầm và
phát triển. Jazz không phải là loại nhạc của người da trắng, cũng chẳng phải là của người da đen, mà nó là cả
một câu chuyện về những phong tục, di sản và cả triết học.
Trong suốt những năm đầu tiên phát triển của đất nước Mỹ, chế độ sở hữu nô lệ được coi là một chuẩn mực.
Nô lệ bị ép buộc đến từ châu Phi phải làm việc vất vả trong các đồn điền của người Mỹ. Những nhạc công và
những tài năng âm nhạc trong số đó đã học được rất nhanh nền âm nhạc vốn có sẵn của phương Tây, cùng
lúc đó, âm nhạc phương Tây cũng đã có không ít bài học về âm nhạc Phi châu.
Nền văn hoá sơ khai của châu Phi coi trọng âm nhạc hơn phương Tây rất nhiều. Âm nhạc là một khía cạnh
quan trọng trong những hoạt động hàng ngày của thổ dân châu Phi. Thổ dân châu Phi rất coi trọng các hoạt
động theo nhịp điệu khá phức tạp và tiến bộ dựa trên một ca từ và giai điệu đơn giản. Những nét nhịp điệu
này đã gắn liền với nô lệ châu Phi trong suốt thời gian họ bị bắt ép làm nô lệ ở Mỹ.
Hơn nữa, một số những người Mỹ da đen mới cũng thể hiện mình thông qua nét âm nhạc truyền thống của
họ. Vì cách xa quê hương nên âm nhạc truyền thống một phần cũng không thể thể hiện chính xác được vì rất
nhiều lý do, ví dụ như không được sử dụng các nhạc cụ châu Phi truyền thống. Có thể hiểu như một ban
nhạc rock của các nghệ sỹ châu Phi khi biểu diễn ở Mỹ không được sử dụng bất cứ một cây guitar điện, một
dàn trống… Tuy vậy, ban nhạc này vẫn đủ nội lực để có thể sử dụng các nhạc cụ có sẵn tạo ra âm nhạc của
mình và điều này là chính xác đối với các nô lệ da đen ở Mỹ.
Bên cạnh việc tìm các nhạc cụ mới, các nhạc sỹ châu Phi cũng đã mở rộng mình để tìm hiểu âm nhạc của
phương Tây. Sự mở rộng này là khởi nguồn nảy mầm của nhạc jazz. Những ca từ, giai điệu, nhịp điệu, và cả
văn hoá Tây phương không ít thì nhiều cũng đã dần thấm vào những người da đen. Tất nhiên, các nhạc sỹ
da trắng cũng đã bị ảnh hưởng nhiều khi nghe nhạc của người da đen. Thời gian trôi qua, và sự trao đổi âm
nhạc này đã tạo ra Jazz.
Một số các nghệ sỹ đã nổi lên vào thời điểm này như Don Redman (saxophone), Bix Beiderbecke (trumpet),
Fletcher Henderson (band leader), Jelly Roll Morton (piano/composer), và Kid Ory
(trombone/composer).
Một nghệ sỹ đã trở nên chín chắn và được mọi người thán phục vào thời kỳ này là Louis “Satchmo”
Armstrong (trumpet). Armstrong đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển nhạc Jazz, vì vậy nhiều
người gọi ông là “cha đẻ” của Jazz. Muốn thêm thông tin thì có thể vào trang web http://louis-
Vào thời của Armstrong, các nhạc sỹ gọi ông là “Pops” như là dấu hiệu của sự kính trọng. Armstrong là
nghệ sỹ solo lớn đầu tiên trong lịch sử nhạc Jazz và những nốt nhạc phiêu du của ông đánh dấu một bước
ngoặt trong Jazz với việc xuất hiện những khúc solo ngẫu hứng mà trước đây là của một nhóm nhạc sỹ.
Satchmo cũng là người đầu tiên đã định lại nhịp điệu của Jazz bằng cách bỏ tính cứng nhắc trong Ragtime,
áp dụng nhịp 8 nốt du dương, và làm cho người nghe cảm tưởng những nốt nhạc của ông luôn đi sau nhịp
của bản nhạc. Tất cả những thay đổi này khiến người nghe có cảm giác thư giãn và được gọi về sau là Jazz
swing.
Armstrong mang đến một cách nghĩ mới, âm nhạc của ông được dựa trên một cấu trúc chặt chẽ và không
phải chỉ là một nét tô điểm thêm cho bản nhạc mà trái lại là một giai điệu riêng dựa trên các hợp âm đã có
sẵn(khái niệm âm nhạc này vẫn còn được áp dụng cho các khúc ngẫu hứng hiện nay).
Bên cạnh tiếng trumpet đầy cảm xúc của mình, Armstrong có một cách hát ảnh hưởng rất nhiều đến các ca sỹ
hát Jazz. Ông đã phổ biến một lối hát Jazz không thành lời (scat). Trong lối hát này, các ca sỹ hát ngẫu hứng
các âm tiết thay cho các từ.
- Nhạc Blues bắt đầu khoảng 1900s.
Cùng với nhạc Jazz, nhạc Blues có nguồn gốc từ những bài ca lao động, tôn giáo và dân ca của người Mỹ da đen được người Mỹ da đen khởi xướng vào đầu thế kỷ 20. Nhạc Blues thường buồn, vì thế nên có tên Blues (buồn) Nhạc Jazz thường được biểu diễn bằng kèn, giai điệu réo rắt.
Khởi nguồn của Blues không đơn giản một cách chắc chắn như là đã được khắc lên đá. Trong một vài năm, đã có rất nhiều chuẩn mực về giai điệu, cách hoà âm được thiết lập, và những chuẩn mực này đã và vẫn đang được biểu diễn rộng rãi. Blues có thể rất buồn, hạnh phúc, chậm, nhanh, không lời, ca khúc… và thậm chí là bất cứ nét nhạc nào do các nghệ sỹ viết ra.
Lịch sử của các giọng hát nhạc blues được chia thành hai nửa. Mỗi nửa thể hiện một giai đoạn khác nhau. Nửa đầu tiên vào khoảng cuối thế kỷ XIX đến những năm 1930. Nửa này ghi nhận hai phong cách hát blues riêng biệt. Phong cách thứ nhất có thể được coi là country hoặc rural-blues trong khi đó phong cách còn lại được gắn mác city hoặc urban-blues ().
Nhạc blues đồng quê được hát bởi những người đàn ông với nhạc cụ và phần nhạc đệm đơn giản. Những ca sỹ hát nhạc blues thời đó thường chỉ có cây guitar là nhạc cụ duy nhất để đệm cho mình. Ca từ cũng rất đơn giản và âm nhạc thật sự rất mộc mạc và không hề được gọt dũa. Một số ca sỹ nam nổi tiếng được ghi vào sử sách có thể kể tới là Lightnin' Hopkins, Huddie Ledbetter, Big Bill Broonzy, và Blind Lemon Jefferson.
Nhạc blues thành phố bao gồm cả giọng ca của các ca sỹ nam và nữ. Âm nhạc ở đây tao nhã và tinh tế hơn nhạc blues đồng quê. Thay bởi phần nhạc nền đơn giản, những ca sỹ nhạc đồng quê thành phố còn có thể sử dụng một nhóm khiêu vũ nhỏ phụ hoạ. Bessie Smith, Ma Rainey, và Chippie Hill là những ca sỹ nổi tiếng nhất ở phong cách này.
Sau năm 1930, phong cách nhạc blues bắt đầu thay đổi. Đi theo sự phát triển của các giọng ca blues, sự phát triển trình độ của một số các nhạc công cũng tăng lên đáng kể. Vào lúc này, những nghệ sỹ nhạc blues lớn có thể sử dụng nhạc cụ tốt như là giọng hát của họ. Vào thời gian khởi đầu, các nhạc công thường bắt chước phong cách của các ca sỹ nhưng đến thời điểm này một số ca sỹ cũng đã phải sao chép phong cách của các nhạc công lớn.
Một số các nghệ sỹ chính trong thời kỳ này có thể kể đến như
Joe Turner (có ảnh hưởng lớn tới Rock ‘n’ Roll sau này) ,
Joe Williams, và Jimmy Rushing (Williams và Rushing đều hát trong ban nhạc nổi tiếng Count Basie).
Các nhạc sỹ có thể vừa hát vùa đệm đàn nổi tiếng có thể kể tới Louis “Satchmo” Armstrong, B.B.King, Ray Charles.
Blues được sử dụng nhiều trong tất cả các loại nhạc phổ thông.
- Nhạc Đồng Quê bắt đầu khoảng năm 1920s.
Trước hết, có thể hiểu ngay " nhạc Country" đó là nhạc đồng quê. Khi âm thanh và giai điệu nổi lên, người ta có thể hình dung đến những đồng cỏ bạc ngàn xanh mướt - với những chàng cao bồi miền Tây lãng du. Nói đúng hơn, nhạc Country gắn liền với một nển văn hoá cao bồi mà ở Mỹ chính là quê hương. Nhạc đồng quê ra đời ở Mỹ dựa trên nhạc thượng du miền Nam, chịu nhiều ảnh hưởng từ những hệ thống nhạc khác như Blues, Jazz. Loại nhạc này thường có giai điệu trầm buồn.
Nguồn gốc của chúng xuất phát từ những người dân Anh nhập cư đến Mỹ, họ mang theo những ca khúc Ballad Celtic với phần lời theo lối kể chuyện mộc mạc, bình dân. Nói khác đi, cội nguồn của nhạc nhạc country chính là những bài dân ca mà những người dân nhập cư từ Anh, Scotland, Iraland đã mang đến vùng núi Appalanchian ở miền Nam Mỹ vào thế kỷ 18 - 19.
Ðến thập niên 1930 - 1940, những bộ phim về cao bồi Viễn Tây đã làm dậy lên làn sóng nhạc country. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, ngành công nghiệp ghi âm bùng nổ, Nashville trở thành chiếc nôi của nhạc Country. Và đến những năm 60, dòng nhạc này thực sự ở đỉnh cao với người khởi xướng là Bob Dylan và nhóm byrds. http://www.bobdylan.com/songs/
Dòng nhạc thanh cảnh, không cần nhiều nhạc cụ, đôi khi chỉ là một cây guitar; người ta vẫn say sưa hát. Nội dung đơn giản, chủ đề thường gặp ở nhạc Country là những triết lý nhỏ về cuộc sống, cuộc đời của những người lao động, sự cô đơn hay những niềm tin và các mối quan hệ trong gia đình.
Ngày nay, để đáp ứng thị hiếu của người nghe, các nhà sản xuất thường pha trộn giữa Country với nhạc Pop và Rock đã phần nào làm cho người nghe, nhất là giới trẻ, khó có thể nhận và phân biệt từng loại nhạc ví dụ nhưnhững bài hát của Shania Twainhttp://www.shania-twain.com/ ; Garth Brooks; Trisha Yearwood. Tuy nhiên, cũng phải nhờ họ mà nhạc Country không bị rơi vào sự lãng quên.
- Nhạc Pop bắt đầu khoảng năm 1920s mang giai điệu và nội dung trữ tình.
Là loại nhạc phổ biến (popular) hiện nay ở hầu hết các ca khúc như của Celine Dion, Madonna, Frank Sinatra, Brandy...Pop chú trọng nhiều hơn Rock về giai điệu và nhịp điệu, âm thanh cũng mềm hơn.
Nhạc pop và rock phát triển nhanh nhất ở nước Anh. Những năm 1960 - 1963 là khoảng thời gian loại nhạc rock and roll được thay thế bằng một tào lưu nhạc trẻ dưới cái tên nhạc pop. Đó cũng là khoảng thời gian mà rất nhiều ca sĩ trở nên nổi tiếng, trong đó có bộ ba ca sĩ nổi tiếng nhất ở Anh là Cliff Richard, Adam Faith và Bill Fury.
- Nhạc Rock bắt đầu khoảng năm 1940s.
Còn gọi là Rock'N' Roll, do Elvis Presley khai sinh từ thập kỷ 50. http://www.elvis.com
Dựa trên tiết tấu của ca ba loại nhạc trước đó (Blues, Jazz, Country) nhưng Rock lại có tiết tấu mạnh và nhanh, thường sử dụng các loại nhạc cụ điện tử.
Rock chú ý tới hiệu ứng âm thanh của các nhạc cụ hơn là giọng hát.
"Folk rock" (rock dân ca) là loại rock nhẹ giống như "slow-rock", "soft-rock"...
"Hard rock" là loại Rock nặng với tiết tấu dữ dội và âm thanh cực lớn, chát chúa. Cùng thể loại này là "heavy rock", "heavy metal".
Tất cả những ban nhạc nổi tiếng thập kỷ 60 đều bắt đầu bằng nhạc rock and roll. Đó là The Beatleshttp://www.beatlesagain.com/ , Rolling Stones, The Kinds, The Who, Manfred Mann, The Animals. Trong thời gian này, nơi bùng nổ nhạc trẻ một cách mạnh mẽ nhất là Liverpool. Tại thành phố này xuất hiện rất nhiều "câu lạc bộ" dạng đó lần đầu tiên có một ban nhạc tên là The Quarryman biểu diễn. Sau đó, ban nhạc đổi tên là Sliver Beatles rồi trở thành The Beatles. Có thể kể ra những nhạc phẩm ban đầu của The Beatles mang đầy hơi hướng rock and roll như "Be Bop A-Lulla", "Kansas City", "Sweet Little Sixteen", "Matchbox"...
Vào thời kỳ này, xuất hiện một ban nhạc cũng rất nổi tiếng, cạnh tranh củng Beatles trong nhiều năm ròng. Đó là Rolling Stones với những ca khúc rythm and blues mạnh mẽ. Các thành viên ban nhạc này xuất thân từ khu phố lao động Richmond (London - Anh). Họ thường biểu diễn nhạc blues và rythm and blues tại các quán rượu trong vùng vào các chiều thứ bảy.
Năm 1963, Andrew Loog Oldham, một ông bầu âm nhạc 19 tuổi, đã phát hiện ra tài nghệ tuyệt vời của họ. Nhưng lúc bấy giờ, cả Oldham lẫn ban nhạc Rolling Stones không có tiền may quần áo biểu diễn. Bởi vậy họ lên sân khấu trong trang phục thường ngày. Không ngờ điều này lại gây ấn tượng khác thường đối với khán giả. Trong lúc biểu diễn, Rolling Stones cũng chối bỏ hoàn toàn kiểu dáng, phong cách của các ban nhạc khác.
Cũng cần nhắc đến một ban nhạc đặc biệt. Đó là ban nhạc The Animals (cũng của nước Anh) chuyên chơi loại nhạc hỗn hợp của rock and roll, blues và pop. Lúc ban đầu, ban nhạc mang tên Alan Price Combo. Sau này, khán giả gọi họ là The Animals (những con thú) bởi phong cách biểu diễn khá cuồng nhiệt và bởi âm nhạc của họ rất sôi động. Một trong những nhạc phẩm thành công nhất của The Animals là "The House Of The Rising Sun". Năm 1964, bài hát này làm sôi động không chỉ nước Anh mà cả nước Mỹ - nơi mà khán thính giả thuộc loại "không dễ tính". Lời bài hát có thể tìm thấy ở đâyhttp://home.swipnet.se/capotasto/lyr...rising_sun.htm (http://home.swipnet.se/capotasto/lyr...rising_sun.htm)
- Nhạc Dance bắt đầu khoảng năm 1970s.
Nhạc Dance có thể chia làm khá nhiều loại. Những ban như AQUA, Toy-Box, Cartoons DK,... ko chơi nhạc Dance chính hiệu mà chỉ là Pop Dance. Một ban nhạc dance có thể nói là khá hay là Venga boys. Nhạc Dance chính hiệu thường hát rất ít, có khi là ko hát. Nhạc Dance với âm thanh chủ đạo là âm thanh điện tử với tempo thật nhanh và tiếng trống liên hồi. Một loại nhạc DAnce khá phổ biến hiện nay là Hamster Dance, gần giống với Techno. Hamster Dance có tempo khá nhanh nhưng khó bắt nhịp hơn so với Techno. Techno lại có nhiều loại riêng. Ko phải techno nào cũng có nhịp điệu nhanh và sôi nổi. Đại diện của loại techno khó nghe này là Bjork với những âm thanh đầy ma quái. Nhạc techno hiện đại thì lại thích hợp với những điệu nhảy uốn éo người trong các vũ trường. Đặc biệt, nhạc Dance có một điểm đáng chú ý: mở volume càng lớn thì nghe càng hay và càng cảm thấy bốc!
Nhạc Dance thì chính thức có thể chia làm các loại sau đây:
- Techno
- Trance
- House
- Drum 'n' bass
- Trip hop
- Electronica
- Industrial
- Ambient
• HOUSE:
Trong tất cả các hình thức của nhạc nhảy điện tử, có thể nói rằng nhạc House có truyền thống phong phú nhất về các DJ màu mè và các CLB huyền thoại. Âm thanh này phát triển vào cuối thập niên 70 khi những DJ bắt đầu có óc cải cách, lại thông hiểu về kỹ thuật, chạm trán với bối cảnh nhạc disco bình dân của những tay, đa phần là da đen, dân đồng tính ở Chicago và New York. Những DJ đầu tiên như Larry Levan tại Paradise Garage (New York) hoặc Frankie Knuckles tại Warehouse (Chicago) thường cho chơi đi chơi lại (loop) các đoạn solo trống trong các đĩa nhạc disco, nhằm cung cấp nhiều giờ nhạc nhảy liên tục. Nhiều người cho rằng tên "house" xuất phát từ chữ Warehouse là nơi mà loại nhạc này được định hình.
House được nhận diện bằng tiết điệu 4/4 bới tiếng bass đập thật mạnh và đều đặ thường chảy với tốc độ 125 nhịp/phút. Cấu trúc này cho phép được cách tân, do vậy những thể loại khác bắt nguồn từ house luôn được sản sinh. Ở CLB Body and Soul (New York), R'n'B và Soul được pha chế với nhau để tạo ra diva house hoặc garrage house. Trong khi đó lại CLB Twilo, tay DJ người Anh tên Carl Cox lại pha đậm loại nhạc techno vào house để tạo ra tech-house. Nhạc salsa cũng thường được nghe theo cách pha trộn như vậy trong một xuất nhạc Latin-house.
Basement Jaxx là bộ đôi DJ nhạc house, đã phát hành album đầu tay Remedy với hãng đỉa Astralwerks. Trong album này, sự pha trộn âm thanh của flamenco guitar, chất giọng soul và tiếng bassline ầm ĩ thậ lớn đã khiến một số nhà phê bình bốc đồng, buột miệng nói đến thời phục hưng của house. Và trong khi những người tận tuỵ với house, ko hề cạn kiệt hứng thú với thể loại này trong 15 năm qua, lấy làm buồn lòng vì những lời đó ám chỉ rằng "thời của house đã qua rồi". Đĩa này chỉ thực sự tạo được chú ý vừa đủ để đến với các giới thưởng thức mới và bao quát hơn - những fan của dòng nhạc chính thống.
"Bên trong khuôn khổ của thể loại house", Felix Buxton của Basement Jaxx nói, "bạn có thể làm được rất nhiều điều. Có rất nhiều chất nạc xoay quay tempo đó. Như thể quả tim của bạn, nhịp đập của nó ít nhiều là nhịp bước của cơ thể bạn. Chỉ cần tạo ra một cú hích nhẹ, chất nhạc sẽ đến rất tự nhiên vì house là nhịp điệu của tự nhiên. Nếu bạn đã từng nghe nhiều loại nhạc của các CLB ở Châu Phi, bạn cũng nhận thấy đó là loại âm thanh thuần nguyên, nhạc của những cảm xúc nhât thời của con người. House có được kiểu tempo như vậy".
Tóm lại, house có một tempo khá nhanh, tiếng bass và tiếng trống là chủ đạo, là lớn nhất và nghe khá dồn dập. Đó là điểm cơ bản để phân biện được house.
• TECHNO:
Techno có thể là một thuật ngữ dễ gây nhầm lẫn vì thực chất nó xuất hiện trước electronica như là một cụm từ tổng quát nói về loại nhạc điện tử, và ngày nay thuật ngữ này vẫn được dùng cho các hiểu này. Nguồn gốc nhạc techno bắt nguồn từ việc tạo ra cấu trúc metallic pop của ban nhạc synthesizer Đức Fraftwerk. Các đĩa cho Kraftwerk sáng tác trong thập niên 70 và 80 đều được các nhà cải cách techno Mỹ trích dẫn như là nguồn cảm hứng của họ. Đặc biệt phải kể đến bộ ba DJ người Detroit trong giữa thập niên 1980 - Juan Atkins, Derrick May và Kevin Saunderson - phát triển và tinh lọc loại giai điệu tổng hợp đã được ban nhạc Đức này dùng để thử nghiệm, chấm phá vào một chút funk và vay mượn thêm từ bối cảnh âm thanh công nghiệp của vùng Detroit.
Ngày nay, hầu hết các Dj đeo đuổi nghiệp techno đèu có liên quan đến loại nhạc có những tiếng đập nghe hối hả và nhịp chuyển tương đối nhanh, được biểu thị bằng những tiếng trống điện nện thình thịch liên tu bất tận. Nếu House là nhạc nhảy để tán dương con người thì techno là thể loại ca ngợi máy móc - "chát chúa", "vô hồn" hoặc "không thương xót" là những từ mà các dj của techno có thể hãnh diện là đã được dành ra để gọi riêng cho những âm thanh của họ. Các biến thái từ vòng lập này đến vòng lập khác nhìn chung ko khác nhau là mấy, nhưng ngược lại, với house hoặc big beat, người ta có thể thấy âm thanh của loại nhạc này biến đổi nhanh chóng, chỉ một thoáng lấy đà là chúng đã đạt đến cường độ mạnh hơn trước rất nhiều. Richie Hawtin, là tên thật của dj Plastikman, người đã mở đường để định nghĩa cho nhạc techno ngày nay. Trong một album của anh, Decks EFX & 909, Hawtin dùng 2 bàn xoay (deck), một số mô đun hiệu ưng đặc biệt (EFX) và dàn trống điện tử Roland 909 để tạo dấu ấn âm thanh riêng cho album của anh trong khi anh guồng chúng thật nhanh. Tuy nhiên trong album phát hành trước đó, Consumed, Hawtin cũng dùng các thiết bị tương tự nhưng lại áp dụng nguyên lý techno ở mức tối thiểu trong các thành phần âm thanh pha trộn. Bằng cách tập trung vào sự tinh tế trong việc cấu trúc và sau đó phá vỡ cấu trúc các âm thanh, anh tạo ra được loại nhạc lan tỏa ra xung quanh một cách nhịp nhàng, khó nhận thấy. Hawtin nói "Một khi bạn đã du hồn vào đó, lắng nghe nó một hoặc hai lần, và rồi thêm lần thứ 3 hoặc thứ 4, mỗi lần bạn sẽ chợt nhận ra được những điều nhỏ nhặt trong nó".
Tóm lại, techno là một loại nhạc được làm bằng điện tử, máy móc từ A đến Z, nghe rất dễ phân biệt những âm thanh điện tử, thường có những tiếng "chíu chíu" như trong các trò chơi video game.
• TRANCE:
Trance về cơ bản là House, đôi khi còn được nhắc tới dưới cái tên epic hay progessive house, nhưng nhấn mạnh vào tiếy điệu mê hoặc và giai điệu đẹp. Các sáng tác trance đều tiên tiến hóa từ bối cảnh "rave" và house trong thập niên 90, nhưng giai điệu gợi nhớ của chúng lại từ một nguồn khác, đó là synth-pop giữa thập niên 80 của các nhón như New Order. THử lắng nghe ca khúc Blue Monday của New Order và bạn sẽ nghe được cách sử dụng giai điệu điện tử siêu thoát tương tự. DJ hàng đầu của Trance kiêm nhà sản xuất Paul Van Dyk, thừa nhận là anh đã chịu ảnh hưởng từ New Order.
Sasha, một tay DJ nhạc trance, cùng với John Digweed đóng đô tại Twilo (Manhattan), biểu diễn một suất kéo dài 8 tiếng đồng hồ vào đêm thứ 6 cuối cùng của mỗi tháng. "Nó là loại nhạc rất du dương, rất sảng khoái, rất mơ màng", Sasha giải thích, "Nhưng nó cũng mãnh liệt và có những giây phút vô cùng dữ dội, chuyển từ sáng sang tối, từ cứng sang mềm".
Khi anh chơi, Sasha tạo ra và lại hủy cấu trúc của tempo - tăng cao hoặc giảm thấp mức độ năng lượng của một party - có đến hàng chục lần như vậy trong một đêm. "Khi John và tôi bắt đầu trình diễn âm thanh này cách đây vài năm, nó được gán cho là nhạc epic house của Anh. Loại nhạc này tạo ra một ko gian âm thanh rất điện ảnh, với mức chất lượng gần như vậy. Nhiều đĩa Trance có vẻ như là chỉ có một dj duy nhất phô diễn tài nghệ của mình dù rằng còn nhiều dj khác nữa. Bạn có khúc intro, khúc build-up, khúc breakdown rồi lại một đoạn khác nữa". Chất lượng âm thanh như trong điện ảnh có tác động rất lớn đối với hệ thống âm thanh trầm đục ngân vang trong các CLB lớn. Sasha nói chiều dài của một suất dj maraton của anh cũng là vấn đề quan trọng. "Chính việc pha chế âm thanh kéo dài 5, 6 tiếng, thậm chí có thể lâu hơn, đã cuốn hút bạn. Bạn có thể trộn chung một đống đĩa house với nhau và tạo ra một âm thanh có chất lượng tương đương như trance. Đó là những gì tôi và John tìm kiếm trong đĩa của mình - những âm thanh mê hoặc làm bạn ko dứt ra được".
Nói chung, nhạc Trance về cơ bản vẫn là house, nhưng giai điệu được chú trọng hơn và thường dài hơn.
• BIG BEAT:
Big Beat, hoặc rave 'n' roll, là phong cách chọn lựa của các nghệ sĩ bán chạy hàng đầu như The Chemical Brothers và Fat Boy Slim. Loại nhạc này đã minh chứng rằng hình thức nhạc điện tử được các fan của dòng nhạc Pop tìm đến nhiều nhất. Big Beat chủ yếu được tạo ra bằng các sample và synthesizer giống nhau như là một hình thái khác của nhạc điện tử, nhưng các nghệ sĩ big beat có khuynh hướng vay mượn nhiều từ cách cấu trúc và tính đa cảm của ca khúc trong pop music. Các ca khúc thường dễ nhận thấy rõ đâu là phần mở đầu, thân bài và kết thúc. Chúng sẽ thường tập trung vào những đoạn nhấn mạnh - hook hoặc riff - thật đặc sắc.
Ban nhạc The Chemical Brothers - Tom Rowlands và Ed Simons - được biết là đã phát triển âm thanh big beat từ khoảng đầu cho đến giữa thập niên 90 tại Anh. Họ là một nhóm nhạc vô danh khi bắt đầu lập nghiệp, chơi trong các CLB nhỏ và những rave trên các cánh đồng và các nhà kho, kết hợp các yếu tố house, hip hop và rock để tạo cho nhóm một thanh âm hoàn toàn mới. Ngày nay họ đã bán hàng triệu album trên khắp thế giới và thậm chí còn nhận được giải Trình Diễn Nhạc Cụ Rock Hay Nhất của Grammy 1998 qua ca khúc Block Rockin' Beats.
"Thật khó nghĩ những thành phần nào của rock thực sự có trong Block Rockin' Beats", Rowland nói. "Chẳng có chút xíu rock nào cả, ko guitar, ko ca sĩ, tuy nhiên có ngừơi sẽ nghe thấy trong âm thanh đó có một tinh thần hoặc cái gì đó lơi lả hay đầy sức sống hoặc cũng có thể nhắc cho họ nhớ đến rock."
"Khi chúng tôi biểu diễn ở Woodstock, ko có gì giống như những điều chúng tôi thường làm trên các sân khấu lớn. Và khi chúng tôi xuất hiện, cho dù đó là một hình thái hoàn toàn khác những gì người ta đang làm, mọi người thấy rõ thực tế là ko có ca sĩ và ko có nhạc sĩ guitar, và cũng ko có một biểu tượng âm nhạc cụ thể nào diễn ra trước mắt họ. Họ nghe tiếng trống nhưg ko thấy ai đánh trống. Trong một lúc, họ như bị trời trồng, ko ai hiểu hổi hiện tượng này."
CHính vì vậy mà Big Beat còn thường được gọi là Rock điện tử, nhịp điệu khá nhanh, tiếng guitar và tiếng trống làm bằng máy móc nghe khá chói tai.
• DRUM 'N' BASS:
Drum 'n' Bass là đứa con âm nhạc của reggae, hip hop và techno thời kỳ đầu. Loại nhạc này tiến hoá từ bối cảnh rave và techno của Anh vào đầu thập niên 90, trước khi đúc kết thành hình thức đang có bây giờ - breakbeats tăng nhanh (skitish, percussive patterns) chạy ở tốc độ 165 nhịp/phút, với âm thanh basslines nhộn nhạo, chậm còn phân nửa, nghe như tiếng kèn báo sương mù vang lên thăm thẳm bên dưới bề mặt của loại nhạc này.
Dj Krust người Bristol (Anh) là một trong những nhà sản xuất drum 'n' bass quan trọng nhất thời bấy giờ. ANh cộng tác với Roni Size như một phần của Reprazent trong album năm 1997, New Forms (hãng Mercury) và cũng đã phát hành album solo đầu tay của mình Coded Language. "Drum 'n' bass là loại nhạc có breakbeat mạnh mẽ dứt khoát", anh trả lời khi được yêu cầu định nghĩa âm thanh này, "nó nặng hơn house và techno một chút. Chúng ta có nhiều điểm đối chiếu khác nhau, từ hip hop đên reggae và funk".
Một dj có thể (và đôi khi thực hiện) trộn một đĩa house, một đĩa techno vào một đĩa trance, khi chúng có thể tình cờ cùng một tempo. Nhưng drum 'n' bass thường bắt đầu khởi động với một nhịp độ quá năng nổ đến mức ko thề hoà trộn với bất cứ thể loại nào khác ngoài chính nó. Do đó, thể loại con này đã phát triển thành một bối cảnh riêng biệt, bầu ko khí và tính thẩm mĩ gắn bó chặt chẽ với nhạc hip hop và nhiều hơn bất kỳ bối cảnh âm nhạc điện tử nào khác. Trong các CLB hoặc các rave, drum 'n' bass thường có một sân khấu trình diễn riêng cho nó, nếu ko có được một CLB hoặc party riêng biệt hoàn toàn.
Từ khi được ra mắt, drum 'n' bass đã vỡ thành một số nhánh riêng của nó, bao gồm tech-step rời rạc, chịu ảnh hưởng techno và jump-up thật đậm tiếng bass, nổi tiếng vì những sample hip hop của nó.
"Có quá nhiều nhánh khác nhau đến nỗi nó kéo theo nhiều giới thưởng thức khác nhau ở mọi nơi", Krust giải thích. "Bạn có phong cách êm ả của Bukem, có phối âm soạn cho đàn dây của Goldie, và rồi bạn có những chuỗi vị chất lai của tôi. Kế đó bạn có những gì mang chất jazz của Reprazent, và jump up từ Aphrodite. Đó là 5 phong cách khác nhau, làm sao bạn có thể ko thích nó được cơ chứ!".
Dance và Electronica, mọi người thường gộp chung 2 thể loại này làm 1 dưới cái tên: Nhạc Dance! Nhưng thật ra, ta có thể chia Dance và Electronica ra làm 2 phong cách khác nhau!
Xét về Dance, hình thức của nhạc Dance rất đa dạng, từ disco cho đến hiphop. Trong lịch sử âm nhạc đại chúng, nhạc Dance đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau, và đến giữa những năm 70 thì thể loại này đã thực sự tìm được một chỗ đứng riêng bên cạnh các thể loại nhạc phổ biến khác. Những giai đoạn chuyển tiếp từ thể loại R'n'B của thập niên 50 sang nhạc Soul và rồi Funk và cuối cùng là thể loại Dance Pop trong những năm 90 cho thấy nhạc Dance được hình thành trong thời kỳ nhạc Soul biến đổi thành nhạc khiêu vũ (disco) và toàn bộ các CLB đều chú trọng đến phong trào này. Vào những năm cuối thập niên 70, tất cả các CLB khiêu vũ đều chơi nhạc disco, nhưng sau đó disco được biến thể thành nhièu thể loại khác nhau và tất cả đều được gọi chung bằng một từ rất hấp dẫn: dance - nhạc nhảy, dù đó là dance pop, hip hop, house, techno hay bất cừ điệu nhạc biến thể nào. Điểm chung nhất của các biến thể này là sự nhấn mạnh về tiết tấu và sự phối nhịp luôn là điều quan trọng trước tiên phải quan tâm đến.
Các album tiêu biểu như MTV Party To Go Vol. 8 (1995), You Can Dance của Madonna (1987), Blue Lines của Massive Attack (1991), vv...