Nhạc sĩ Lê Hoàng Long
Lê Hoàng Long là một nhạc sĩ Việt Nam được biết đến với nhạc phẩm duy nhất “Gợi giấc mơ xưa”. Lê Hoàng Long sinh năm 1930 tại Sơn Tây. Ông từng học violon với nhạc sĩ Lã Hữu Quỳnh rồi với nhạc sĩ Lương Ngọc Châu và cũng học hòa âm với giáo sư Tạ Phước. Từ năm 1950, Lê Hoàng Long học tại Trường âm nhạc Việt Bắc ởTuyên Quang do nhạc sĩ Văn Cao làm hiệu trưởng, nhạc sĩ Tô Vũ là giáo sư hòa âm. Năm 1954 Lê Hoàng Long vào định cư tại Sài Gòn, sau đó chuyển về Huế. Ở Huế được hai năm ông lại quay lại tiếp tục sống ở Sài Gòn. Nhạc phẩm Gợi giấc mơ xưa được ông viết tại Sài Gòn năm 1955 khi người yêu của ông đi lấy chồng. Gia đình cô không đồng ý với tình yêu của hai người vì ông chỉ là một nhạc công violon. (Wikipedia)
Ngày mai lênh đênh trên sông Hương
Theo gió mơ hồ hồn về đâu
Sóng sầu dâng theo bao năm tháng
Ngóng về đường lối cũ tìm em...
Anh ơi, đời đã lỡ hẹn thề thì đâu có ngày về
Xa anh đời em tắt nụ cười héo hắt đôi làn môi
Đêm đêm đèn le lói một mình ngồi ôm giấc mộng tình
Kiếp sau đôi tim hòa chào đón ánh bình minh.
“Gợi giấc mơ xưa” có hương vị thất tình. Ông có thể hé mở đôi chút về mối tình này ?
- Tôi bây giờ đã già, con cái đã trưởng thành rồi, còn người ấy cũng đã cùng con cái cháu chắt ở tận phương trời nào. Thành thử tôi chẳng ngại gì mà giấu diếm. Khi còn ở Sài Gòn năm 1954, tôi có quen và yêu một người con gái tên là Lê Thu Hiền. Tình yêu đang đẹp thì bỗng có người đến xin cưới nàng. Ngay lập tức, nàng dẫn tôi đến gặp bố mình. Gặp ông, tôi chính thức xin được làm rể, nhưng ông bảo: “Để hỏi ý kiến xem em nó thế nào đã”. Không ngờ khi tôi ra về, ông quát mắng con gái: “Nếu bằng lòng lấy anh giám đốc trường dạy lái xe Auto Ecole Mayer thì còn gia đình. Còn nếu lấy anh chàng chỉ biết chơi violon tối ngày thì không còn cha con, dòng họ gì hết”. Và thế là thủ tục cưới của họ cứ tuần tự diễn ra. Hôm đó là một ngày chủ nhật cận tết Ất Mùi năm 1955, tôi đau đớn chứng kiến người yêu lên xe hoa. Ngồi chờ đoàn xe đưa cô dâu về nhà chồng trong một quán cà phê ở đường Hiền Vương (nay là đường Võ Thị Sáu), tôi thấy nàng ôm bó hoa màu trắng trong lễ phục cô dâu cùng chú rể bước lên xe. Đoàn xe chậm rãi đi qua chỗ tôi ngồi, bánh xe lăn trên đường như nghiến nát hồn tôi. Ngay lúc đó, tâm trí tôi đã hiện lên ý nhạc. Khi đoàn xe đi khuất, tôi trở về căn gác nhỏ ở đường Lý Thái Tổ và hoàn tất bài Gợi giấc mơ xưa, cả phần nhạc lẫn phần lời trong chưa đầy 10 phút.
baobinhthuan.com.vn :
“Gợi giấc mơ xưa” làm nên thương hiệu “Lê Hoàng Long”. Bài hát thấp thoáng một bóng hồng, thực hay hư cấu ?
- Trong hội họa, thơ văn… cái gì thật thì sống mới lâu, “Gợi giấc mơ xưa” đứng được với thời gian cũng vì lẽ đó ! Bài hát kể về mối tình với người con gái tên Lê T. H. Ngày đó tôi là chàng trai 24 tuổi. Quả thật, tình yêu đích thực thì ghê gớm lắm ! Dù không thành vợ chồng, nhưng tôi cũng cám ơn H vì cô ấy mà tôi có một tác phẩm để đời ! (cười).
Sau khi “Gợi giấc mơ xưa” ra đời, ông trở nên nổi tiếng, tại sao ông không tiếp tục sáng tác ?
- “Gợi giấc mơ xưa” là sự “xuất thần” làm nên. Sau khi “Gợi giấc mơ xưa” ra đời, tôi cố làm thêm nhiều bài hát nữa, nhưng thú thật uổng công thôi, vì không thể nào được như “Gợi giấc mơ xưa”, và tôi nghĩ rằng bài sau mà dở sẽ giết chết bài trước, thôi không làm nữa…
Từ sau 1975 cho đến nay, ở trong nước và hải ngoại hát nhạc phẩm này và họ có thanh toán bản quyền…?
- Ở trong nước thì họ trả bản quyền cho tôi đầy đủ. Ở hải ngoại thì bài “Gợi giấc mơ xưa” thu đĩa rất nhiều… Những ca sĩ thu ở Việt Nam thì trả 1 triệu đồng một lần thu, còn hát trên sân khấu, tụ điểm… thì Hội bảo vệ quyền tác giả thu giùm mỗi năm được vài triệu, có còn hơn không (cười).
“Ngày mai lênh đênh trên sông Hương/…Theo gió mơ hồ hồn về đâu/…”. Cái “ngày mai” ấy là thời gian nào, anh ở đâu để viết “Gợi giấc mơ xưa” làm lay động lòng người đến vậy?
- Đầu năm 1955, cô H đi lấy chồng. Tôi viết đơn xin đổi ra Huế với mục đích để khuây khỏa và quên đi mối tình ấy. Trước khi ra Huế một hôm, tôi làm bài này vì vậy mới có câu “Ngày mai lênh đênh trên sông Hương…”.
Gợi giấc mơ xưa trở thành một nhạc phẩm nổi tiếng và được nhiều thế hệ ca sĩ trình bày. Lê Hoàng Long cũng là người có nhiều bài viết, tiểu sử về các nhạc sĩ Việt Nam như “Chuyện tình các nhạc sĩ tiền chiến” (1996)….
Ngày 11 Tháng 7, 2007 | 11:46 AM
Nhạc sĩ Lê Hoàng Long, nhạc sĩ Từ Vũ, Gợi giấc mơ xưa
LÊ HOÀNG LONG
Năm 1952, khi tôi cộng tác viết loạt bài phê bình âm nhạc trên tờ nhật báo Giang sơn, chủ nhiệm; bác sĩ Hoàng Cơ Bình - ở phố Hàng Trống Hà Nội, tôi được quen nhạc sĩ trử tình nổi tiếng thời bấy giờ là Nguyễn Văn Khánh, (NVKh) tác giả các ca khúc được nhiều người ưa thích: Chiều vàng và Nỗi lòng.
Lúc ấy, Nguyễn Văn Khánh là công chức Sở Tài chính thành phố Hà Nội. Con người NVKh, ai mới trông thấy cũng cảm thấy tỏa chất nghệ sĩ, từ mái tóc, lối nói chuyện và nhất là dáng dấp thật phong phú! NVKh ít nói, nhưng khi nói thật dí dỏm, có duyên. Nhà NVKh ở phố Khâm, Thiên, phố toàn nhà các cô đầu, ở trong ngõ, nhưng đất rất rộng. Khu ăn chơi này, trong một bài thơ nói đến thảm cảnh 2 triệu dân chết đói 1945, nhạc sĩ Văn Cao đã gọi đó là phường Dạ Lạc (bài Chiếc xe xác đi qua phường Dạ Lạc), đã làm xúc động dân chúng Bắc hà. Trong khuôn viên, có cả một cái ao nuôi cá, nên vào ngày chủ nhật, NVKh có cái thú ngồi uống rượu và câu cá. Rượu đối với NVKh là cái hũ chìm, uống bao nhiêu không say mà càng uống càng tỉnh táo.
Lối uống rượu của NVKh đáng gọi là tiên tửu, khác hẳn một số đông tực tửu, rượu vào lời ra, ăn nói thô lỗ đi đến cãi nhau,đánh lộn!. Hàng tuần, NVKh hay đến vũ trường chơi với tôi vào thứ 5; còn tôi thì khoảng 10 giờ sáng chủ nhật là xuống uống rượu, câu cá, hàn huyên với NVKh. Có một lần, vào một sáng chủ nhật mùa đông gần Tết; trời lạnh như cắt ruột; xuống đến nhà, thấy Khánh đang đứng phục vụ vợ chiên một cá chép rất lớn. Thấy tôi đến, Khánh vội dừng tay, kéo tôi lên nhà, quạt lò lửa cháy lớn, hơ tay sưởi cho đỡ lạnh.
Hôm ấy lại mưa phùn lất phất, nên chúng tôi không ra câu cá mà ngồi với nhau trong nhà. Một lúc sau Khánh ôm cái hũ sành khá lớn ra, đặt lên trên bếp lò, cưới, nói:
- Lòng mình lúc nào cũng lạnh, muà đông mưa phùn gió bấc lại càng lạnh, nên chúng mình phải đổ nước sôi (rượu hâm thật nóng) vào để cho lòng ấm lại. Hôm nay cậu phải uống thật say, mệt thì đắp chăn bông ngủ kỹ, đến tối tôi đưa cậu đi làm.
Dứt câu nói, thì chị Khánh đã bưng mâm lên, đặt vào giữa bộ ghế ngựa (những tấm cây lớn ghép vào nhau để nhiều người ngồi ăn hoặc vài người có thể nằm ngủ). Thế là hai đứa tôi ngồi đối ẩm, tán phét đủ chuyện trên đời cho đến chiều.
Được vài hôm, tôi được ban tổ chức Chợ Phiên (kermesse) tổ chức đón mừng xuân Quý Tỵ (1953) tại bờ hồ Hoàn Kiếm - nhờ lo cho một cuộc thi hát. Tôi nhận lời và lập ban gíám khảo; người đầu tiên được mời là Nguyễn Văn Khánh, rồi Hoàng Trọng, Hùng Lân. Trong số thí sinh được phát thưởng hộm ấy, đến bây giờ, hơn 40 năm tôi vẫn còn nhớ - có 1 thí sinh dự thi - anh Duy Trác sau trở thành nam ca sĩ nổi danh vào thập niên 60, 70 và còn là luật sư tòa Thượng Thẩm Sài Gòn.
Dù thân với NVKh khá lâu mà chưa có lần nào có dịp thuận tiện để móc anh bộc lộ đời tình ái của mình; khiến anh có được sợi tơ lòng óng ả ở các ca khúc Chiều vàng và Nỗi lòng .Thế rồi, cho đến một buổi chiều thứ bẩy vào dịp lễ Các Thánh (Toussaint), đột nhiên anh đến chơi, rủ tôi đi lễ nhà thờ; mặc dù cả hai chúng tôi đều không có đạo. Cách đó 2 ngày, trôi đã cùng người yêu bé bỏng có đạo đi lễ tại nhà thờ Hàm Long. Nhân buổi lễ, tôi viết được bài Cầu xin Đức Mẹ, tôi bèn lấy ra hát cho NVKh nghe. Anh ngồi lắng nghe tôi hát, xong, tùm tỉm cười, nheo mắt, nói:
- Đi với người đẹp, mắt cậu sáng như đèn pha ô tô, nên mới nhìn thấy Đức Mẹ, để có được ca khúc này hả? Bài nghe ra có âm hưởng nhạc đạo lắm, được đấy!
Sau này, đất nước chia đôi, mỗi lần vào dịp mừng Chúa Giáng sinh, đài phát thanh cho trình bầy bài ây, tôi lại sực nhớ tới lời bình của NVKhánh.
Chúng tôi lững thững đến nhà thờ. Sau buổi lễ hai đứa tôi băng qua đường, vào quán cà phê Bằng, ....khi đang nhâm nhi ly cà phê nóng hổi; trừ loa phóng thanh phát ca khúc Nỗi Lòng: 'yêu ai yêu cả một đời' - tất cả khách trong quán im lặng thưởng thức. Khi giọng ca chấm dứt, tôi mở lời:
- Cuộc tình mê ly nào đã làm cậu có được bài Nỗi lòng và Chiều vàng buồn tê tái vậy?
Im lặng với nét mặt như đượm buồn, đưa hồn trôi về quá khứ, NVKhánh tâm sự. Khánh là con người đa sầu, đa cảm, biết yêu rất sớm. Mới bước vào năm thứ 2 bậc Thành chung (nay lớp 7), NVKh đã để ý, thầm yêu, trộm nhớ cô bé láng giềng. Cô bé này cũng đang cắp sách đến trường, con gái út của một ông thông phán làm ở Phủ Thống sứ Bắc Kỳ.
Những đêm trăng sáng, NVKh ra đằng sau vườn nhà, mang đàn ra, hát: C' est à Capri, J' ai deux amours, Madelon ..., chứ tân nhạc lúc bấy giờ mới có được một, vài ba bài của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Văn Chung, Dzoãn Mẫn ... và chưa được phổ biến rộng rãi. Tiếng đàn quyện với tiếng hát trong đêm khuya thanh vắng, bay tới tai cô gái nhà bên. Về sau, cứ đúng giờ, NVKh ra vườn nghêu ngao.
Có lẽ, cả hai đều tình trong như đã ... nên sau buổi học chiều về đến nhà, là cả hai cùng ta vườn sau, cách nhau có cái giậu mía thưa để nhìn nhau. Để làm hiệu, NVKh ra tới gần cửa ra vườn là cất tiếng hát lớn. Một lúc sau, đang tha thẩn ngoài vườn, nhìn sang, NVKh đã thấy bóng dáng mỹ nhân cũng ra, giả vờ làm một việc gì đó, nhưng 4 mắt thường vô tình gặp nhau.
Một buổi chiều ra vườn, NVKh hái ở cây, một quả cà chua chưa chín, rồi vứt nhẹ qua hàng rào. Vứt xong, NVKh lên tiếng, nhờ cô nhặt giùm, vì với tay không tới. Cô bé ranh mãnh lắm, nhặt xong, đưa cho anh, nói bâng quơ:
- Quả còn xanh thế này sao tự nhiên lại rụng được?!
NVKh cũng thông minh, láu lỉnh, đáp:
- Phải là quả chín mới rụng được hay sao, hả cô? Lá vàng còn ở trên cây , lá xanh rụng xuống được nữa là. Cám ơn cô nhiều!
Lúc ấy 4 mắt liếc nhẹ nhìn nhau, thầm nói với nhau: tình của 2 đã rạt rào rồi . Đêm hôm ấy, NVKh thao thức, sung sướng, xen lẫn lo lắng; nên không sao chợp mắt được ! Nằm trong giường, NVKh chỉ mong chóng sáng, nóng lòng chờ tiếng gà gáy sáng, thỉnh thoảng lại nhìn lên chiếc đồng hồ quả lắc treo trên tường mong sao chóng đến 5 giờ - nhưng ở đời, càng mong lại càng thấy lâu!
Nằm chán, lại ngồi dậy, ngồi mãi thi lòng dạ bồn chồn, đi đi, lại lại, thì mỏi chân; NVKh càng nóng ruột, thì lại càng nhớ. Thế rồi, chuông đồng hồ ngân nga 4 tiếng. Không tin ở tai mình, NVKh lấy bao diêm ra, quẹt lửa, nhìn kỹ, thì quả thực mới 4 giờ. Anh bực lắm, bước xuống giường, vặn cây đèn dấu sáng lên, lấy giấy bút ra ngồi vào bàn viết. NVKh viết tự tình gửi cho cô gái nhà bên. Viết rồi lại xé, xé xong lại viết; cứ như thế suốt 1 tiếng đồng hồ. NVKh chẳng viết được một lá thư nào ưng bụng, dù là ngắn ngủi . Đang loay hoay, NVKh mưng rỡ, khi nghe thấy chuông đồng hồ thánh thoát đổ 5 tiếng ngân vang.
Cùng lúc ấy, tiếng chuông nhà thờ gần nhà đổ từng hồi, ngân rung trong gió như đánh thức, như nhắc nhở - rồi hồi chuông dần dần nhanh như thúc giục đàn chiên của Chúa tỉnh giấc, thức dậy, chuẩn bị đi dự lễ đầu. Nghe tiếng chuông xong , không khí buổi sớm mai trongsáng đã làm cho mọi người vui vẻ, chào đón ngày mới tốt lành.
NVKh cũng mang tư tưởng ấy, còn yêu đời hơn, lại vội vã đi ra vườn phía sau. Thật hữu duyên thiên lý, NVKh vừa ra đến vườn, nhìn sang bên cạnh, đã thấy người đẹp đang múc nước giếng , NVKh đánh liều, hỏi trước:
- Sao hôm nay cô dậy lấy nước sớm thế
Cô chưa kịp trả lời, vì đang kéo gầu nước đầy , NVKh hỏi tiếp ngay:
- Giờ mà trăng vẫn còn. Cô múc nước giờ này cô có múc được ánh trăng không đây?
Người đẹp không trả lời, nhìn NVKh, với ánh mắt thật tình, kèm theo nụ cười chúm chím, như đóa hoa hàm tiếu - làm cho NVKh thấy mình luýnh quýnh, run rẩy - vì quá càm động - và bữa kể lại cho nghe, Khánh xác nhận hình ảnh ban đầu ấy, dù ngàn năm không những không bao giờ anh quên được mà nó còn rực sáng, nóng bỏng mãi trong lòng, mỗi khi nhớ đến ; còn tưởng như mới xảy ra ngày hôm qua.
Thật đúng:
Cái buổi ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm sau hồ dễ mấy ai quên!
(Thế Lữ)
Sau lần đối thoại đầy tình tứ ấy, NVKh và cô gái bé bỏng nhà bên có được những buổi hẹn hò bên hồ Hoàn Kiếm, rồi còn hẹn nhau đi xa hơn là Hồ Tây, Chùa Láng, Quảng Bá, Nghi Tàm - và có lần lên Bác Cổ để tâm tình. Cuộc tình thơ mộng, trong sáng kia kéo dài tới 3 năm - cả 2 gia đình không một ai biết chuyện.
Cho tới khi NVKh học năm tư 4 Thành chung, đi thi tốt nghiệp Diplôme (Trung học cơ sở bây giờ), NVKh nhớ kỹ: buổi sáng đầu tiên thi luận viết tiếng pháp (Rédaction francaise) - ai đủ điểm trung bình trở lên thì ngày thứ 3 mới được thi oán và các môn kế tiếp. Thi viết xong, vô thi vấn đáp. Mỗi kỳ thi có 2 khóa kháo đầu (1ère session) vào tháng 6 ; khoa nhì (2ème session) vào tháng 8. Thi đậu kỳ thi viết, vào vấn đáp mà rớt thì khoá sau chỉ phải thi vấn đáp thôi. Rớt vấn đáp nữa thì học lại 1 năm, để sang năm thi lại hoàn toàn.
Khóa thi trung học năm ấy, NVKh mải ngụp lặn trong cuộc tình, nên khóa đầu bị trượt. Cô em nhà bên được tin này buồn lắm, nói với Khánh:
- Anh bị rớt keo đầu rồi thì em không muốn thấy anh phải mất thêm 1 năm nữa học lại. Vi thế, trong 3 tháng hè này, em xin anh phải để hết tâm trí vào việc học, và nhất định em không gặp anh như trứơc được nữa!
Nguyễn Văn Khánh năn nỉ, hứa chắc chắn rằng khóa 2, anh sẽ đỗ - nhưng chỉ xin mỗi tuần cho anh gặp 1 lần vào chiều chủ nhật. Nói mãi ,cô ta mới bằng lòng, lại cương quyết: nếu thi khóa 2 không đỗ thì chia tay luôn! Đó thật là một động lực vô cùng mãnh liệt, khiến NVKh dùi mài kinh sử đêm ngày; đến khóa thi, NVKh đỗ thật. Đời có những may rủi thật bất ngờ. Đúng lúc ấy, NVKh đang mừng, no tròn mộng đẹp - thì cụ thông phán phải đổi lên Thái Nguyên, cách xa Hà Nội hàng 100 cây số.
Đêm cuối cùng ở Hà Nội, 2 người đã gặp nhau chia tay tạm biệt. Sáng hôm sau, với vẻ mặt thẫn thờ, NVKh ra khỏi cửa nhà, nhìn, và chờ chiếc xe đưa người yêu rời xa cố đô Thăng Long để ngược lên miền núi. Nói tới đất Thái Nguyên, người miền xuôi ai cũng sợ, cho đó là nơi của ma thiêng, nước độc. Có người còn xếp Thái Nguyên , đất khỉ ho, cò gáy, chó leo thang - thực tế, họ sợ là phải, vì mạn ngược thỉ bệnh sốt rét hoành hành ác liệt, nên đã có câu: "lử khử lừ khừ không ở Đại Từ thì cũng Vũ Nhai" nên NVKh vừa lo vừa thương người yêu - từ hôm ấy NVKh tương tư ra mặt.
Thời đó, phương tiện giao thông thật hạn chế, chỉ có xe lửa từ Hà Nội lên Lạng Sơn, muốn đi Thái Nguyên phải xuống ga Bắc Giang, rồi đi xe đò ngược lên, mà mỗi ngày chỉ có 1 chuyến. Dù xa xôi vất vả, thứ 7 nào NVKh cũng lặn lội đều đặn lên thăm nàng . nàng gặp thì gắt gỏng, tại sao mưa phùn cũng không ngăn được NVKh. lên đây sao?
Người yêu của NVKh đã có kẻ đánh tiếng xin cưới làm vợ, hai gia đình môn đăng hộ đối, chàng thanh niên kia là dân có học - nhưng vì chót thề non, hẹn biển với Khánh, nên cô thoái thác, bằng cách hẹn lần hẹn lữa .Vì thế, mỗi lần gặp nhau; cả 2 đều tâm sự qua hai hàng nước mắt - nhưng không biết và chẳng có cách nào giải quyết được cái nếp áo mặc sao cho qua khỏi đầu?
Trong hoàn cảnh đau khổ ấy, một lần trên xe từ Thái Nguyên về lại Hà Nội, NVKh đã nảy ra một ý nhạc thật dịu dàng, thổn thức:
Yêu ai yêu cả một đời rồi từ Bắc Giang về Hà Nội - trên xe lửa Nguyễn văn Khánh đã hoàn tất được nhạc phẩm Nỗi lòng - và có lẽ ca khúc này là điềm báo trước: 2 người yêu nhau không trọn vẹn cuộc tình:
... dù sao, dù sao nếu có một ngày
một ngày gieo trong tim ta
là tình yêu kia ly tan
để rồi vẫn thương vẫn nhớ ...
Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, thì, NVKh vẫn trọn đời thủy chung: 'vẫn yêu hoài!'
Sau lần lên Thái Nguyên này, Nguyễn văn Khánh bận việc nhà quan trọng, nên 2 tuần tới, Khánh không lên Thái Nguyên như trước nữa. Nửa tháng không được gặp nhau, lỏng Khánh như lửa đốt và chỉ có 15 ngày thôi àm Khánh cảm thấy thời gian lâu bằng 1 thế kỷ . Lần này, Khánh lên Thái Nguyên như mọi lần. Đến nơi, ra nơi hẹn cũ, chờ mãi chẳng thấy bóng nàng. Chờ đến chiều, dù bụng đói, dạ khát; Khánh cũng liều đi bộ đến gần nhà nàng dò la tin tức.
Gặp một người ở gần nhà nàng, trong quán nước, NVKh khôn khéo thăm hỏi, bà chủ quán cho hay : tin sét đánh ngang trời, cách đây khoảng 10 ngày, nàng bị trúng gió, người nhà vội đưa vào nhà thương, sau 1, 2 ngày, cô ấy đã trút hơi thở cuối cùng. Gia đình xin xác về, đem chôn cô trên một đồi thông, cách đó chừng 1 cây số.
Nghe tin xong, Nguyễn Văn Khánh lật đật rời khỏi quán, bước đi như kẻ không hồn, đi thẳng về phía đồi thông, nơi đó ấp ủ hình hài người yêu dấu trong một buổi chiều vàng.
Sau mấy ngày mưa phùn, gió bấc - chiều hôm ấy mưa tạnh, mặt trời ra khỏi đám mây tỏa xuống những tia nắng vàng yếu ớt như người vừa trải qua cơn bệnh. Khi tới nơi, NVKh thoăn thoắt bước lên đồi, dù đất đồi sỏi đá lổm chổm, ngổn ngang, Khánh vẫn tìm thấy mộ, mắt nhòa lệ, họng nấc từng cơn đau đón, nhìn không chớp mắt lớp đất mới đắp, NVKh ngồi sụp xuống, say sưa hát:
Yêu ai yêu cả một đời, với niềm tin vững dạ trong lòng: hương hồn người yêu bé nhỏ đang phảng phất đâu đây, lắng nghe được giọng hát của Khánh như ngày nào ... ngồi quên cả giờ giấc, ngẩng mặt lên, nấu trời tắt nắng. Hoàng hôn xuống dần. Nguyễn Văn Khánh u sâu, buồn chán lê gót chân mỏi như về quánt trọ.
Đi được một quãng đường, đột nhiên Khánh dừng chân bước, lại vào một quán nước xiêu vẹo bên đường, Khánh vội móc túi, lấy ra cấy bút chì, mảnh giấy đã hơi nhầu nát, bviết một mạch ý nhạc đang dâng lên nóng hổi và đo thắm như dòng máu con tim. Viết nhạc tới đâu, Khánh hát tiếp lời ca tới đó.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh
(? - 1976)
Giữa một khung cảnh bi ai trầm buồn, lòng người nhạc sĩ như tan nát, tim như bị nhồi máu, vậy là ca khúc Chiều vàng ra đời, với ca từ ai oan não nề:
... Trên đồi thông, chiều đã xuống dần
mặt trời lấp ló sau đồi, chiều vàng ...
... giờ đây vướng thầm hồn cố nhân
năm tháng trôi qua sóng gió đời
chiều chiều nhớ em lòng khôn nguôi ... !
Kể chuyện xong, Khánh rủ tôi về nhà anh ăn cơm tối. Về tới nhà, anh vội lấy ra một cái hộp vuông trong đó có đựng một cái khăn len quàng cổ, do nàng ấy đan, tặng Khánh và xấp thư tình của nàng.
... Nhân năm ấy, có kỳ thi tuyển nhân viên cho Sở Tài chính thành phố Hà Nội, Khánh trúng tuyển, trở thành một công chức, sáng vác ô đi, tối vác về....
Năm 1954, lệnh Tổng động viên, tuổi tôi bị kẹt trong lệnh đó, Khánh và tôi rủ nhau đi uống cà phê để giã từ.
Cho tới ngày 30-4-1975, gặp lại một số nhạc sĩ ngoài bắc vô nam, tôi mới biết : sau ngày giải phóng thủ đô Hà Nội được vài năm, Nguyễn Văn Khánh đã trút hơi thở cuối cùng tại căn nhà xưa.
Tôi không ngờ buổi cà phê năm xưa lại là lần cuối gặp nhau để rồi từ đó vĩnh biệt nhạc sĩ Nguyễn văn Khánh ...
Nỗi Lòng (Giọng hát: Bích Chiêu)
Chiều Vàng (Giọng hát: Hà Thanh)
Ông là một tay viết phê bình âm nhạc nổi tiếng, mà một trong những tác phẩm phê bình gây xôn xao của ông là tập sách Nhạc sĩ danh tiếng hiện đại. Tuy nhiên, hơn 53 năm qua, người yêu nhạc nhớ tới ông nhiều nhất vẫn là vì ông là tác giả bài hát tiền chiến Gợi giấc mơ xưa. Đây là bài hát khiến ông Lê Hoàng Long trở thành người nổi tiếng và cũng là ca khúc duy nhất trong cuộc đời sáng tác âm nhạc của ông.
Cuộc nói chuyện giữa chúng tôi phải nhờ đến máy trợ thính, vì tai ông không còn nghe rõ như xưa. Và câu chuyện bắt đầu từ lý do ra đời bài hát Gợi giấc mơ xưa.
Năm 1954, ông quen cô gái có cái tên khá dễ thương: Lê Thu Hiền. Gia đình cô gái này vốn là người Bắc định cư tại Sài Gòn. Tình cảm hai người ngày càng đằm thắm, và ông luôn tin rằng cuộc tình ấy sẽ mang đến những điều như ông hằng mong ước. Bỗng một ngày, cô nói với ông rằng có người đang hỏi cưới cô. Ông liền liều đến nhà cô để gặp người bố và thưa chuyện hai đứa, nào ngờ chẳng ngăn được số phận, thời gian sau cô thật sự đi lấy chồng, lấy anh giám đốc trường dạy lái xe Auto Ecole Mayer.
Đó là thời điểm giáp tết Ất Mùi (1955), ngày cô lên xe hoa, ông ngồi ở quán cà phê cạnh nhà cô, nhìn thấy cô mặc lễ phục cô dâu, ôm bó hoa trắng. Đám cưới ấy to lắm, đoàn rước dâu đi một vòng rồi mới về nhà chú rể. Mỗi vòng bánh xe quay là mỗi lần nghiền nát tim ông. Nỗi buồn, sự đau đớn dâng ngập trong lòng ông. Đoàn xe cưới qua đi, ông bần thần trở về căn gác trên đường Lý Thái Tổ, vùi mình trầm tư và lúc ấy dường như bao nhiêu nỗi đau lại tuôn ra. Bài Gợi giấc mơ xưa được ra đời trong trạng thái đó. Thương em thì thương rất nhiều mà duyên kiếp lỡ làng rồi... Cả phần nhạc lẫn phần lời chỉ hoàn thành trong vòng khoảng 10 phút!
Ông đưa bài hát này cho ca sĩ Mạnh Pháp, và được phát đầu tiên trên đài phát thanh Pháp Á. Bài hát trở nên nổi tiếng, và câu chuyện tình trong bài hát được nhiều người quan tâm. Vì sao ông đang ở Sài Gòn mà bài hát được bắt đầu bằng Ngày mai lênh đênh trên sông Hương? Vì ngay từ cái lúc nhìn người yêu đi lấy chồng, ông đã quyết tâm từ bỏ Sài Gòn để chạy trốn nỗi đau.
Nhạc sĩ Lê Hoàng Long
Ông ra Huế, dù bao nhiêu người ngăn cản. Trong khoảng thời gian này, ông lao vào nhiều mối tình để tìm quên. Ca sĩ có, diễn viên cũng có. Hầu hết đều cảm mến ông từ bài hát Gợi giấc mơ xưa. Nhưng 2 năm sống ở Huế ông đau xót nhận ra một điều rằng, ông chẳng thể nào quên mà ngược lại, càng nhớ nhung nhiều hơn. Mối tình ấy trong ông quá sâu đậm, mỗi con đường, mỗi âm thanh đều gợi cho ông nhớ về ngày xưa. Ông quyết định quay về lại Sài Gòn.
Sau khi bài Gợi giấc mơ xưa được phát sóng trên đài phát thanh, có rất nhiều khán giả hâm mộ ông. Cũng có nhiều người đề nghị, “đặt hàng” ông sáng tác nhưng ông không làm được việc đó.
Với ông, sáng tác là phải từ cảm xúc. Chính cảm xúc mới có thể làm nên cái hồn của một nhạc phẩm, những yếu tố ngoài cảm xúc chỉ có thể làm nên một giai điệu mà thôi. Bao nhiêu lần định tiếp tục sáng tác âm nhạc, nhưng cầm bút bao lần, cũng ra nhạc ra lời, nhưng ông tự cảm thấy những bài hát đó dường như không có hồn, nên ông lại vò nhàu, vứt vào sọt rác. Ông lao vào viết phê bình âm nhạc.
Với cuốn Nhạc sĩ danh tiếng hiện đại, ông cho rằng yếu tố thành công của nó chính là sự thẳng thắn. “Tôi thẳng lắm. Tôi tâm niệm là không bao giờ để tình cảm lên trên ngòi bút, nên tôi “đụng chạm” với rất nhiều người. Ngay cả Phạm Duy hồi đó mà tôi cũng chê, và cho đến bây giờ ông ấy vẫn còn giận tôi đấy” – ông hồi tưởng.
Càng lớn tuổi ông càng ít viết. Ông cảm thấy lối viết của mình không còn lửa nữa. Mà một khi đã không còn lửa nữa thì chẳng nên tiếp tục. Một nguyên nhân khiến ông trăn trở nữa là vì viết phê bình đụng chạm nhiều người quá. Tuy nhiên, ông cho rằng dù có rất nhiều người không ưa gì ông, nhưng cũng không ai coi thường ông cả. Với ông, đó là một sự thành công.
Giờ sức khoẻ yếu nên ông chẳng đi đâu, cũng chẳng gặp ai trong những người bạn làm nghệ thuật ngày xưa. Trong giới nhạc sĩ, người ông kính trọng nhất là nhạc sĩ Tô Vũ. Với ông, đây là người vừa có đức vừa có tài.
Giờ thì ông đã sắp 80 tuổi. Các con ông hầu hết đều đã có gia đình. Vợ ông bây giờ vốn là một cô giáo dạy văn, bà làm thơ khá hay. “Người ta thường nói thơ với nhạc là duyên chồng vợ, có lẽ là duyên tiền định thật, nên tôi với cô ấy trở thành vợ chồng”, ông kể. Con gái út của ông đang là phóng viên của một tờ báo, từng đoạt giải nhất cuộc thi hát với organ năm 1999. Nhưng niềm vui lớn nhất của ông là đứa cháu nội 6 tuổi đang sống bên Mỹ. Cháu tuy chỉ mới học piano 1 năm nhưng đã được giáo viên người Nga cử đi thi và đoạt nhiều giải thưởng.
Hỏi ông về người con gái đã rời bỏ ông năm xưa, ông bảo chưa bao giờ ông trách cô ấy, cả gia đình cô ấy ông cũng không trách. “Ở đời có duyên mà không có nợ là chuyện bình thường. Đó là một chuyện tình đẹp mà ông trời đã cho tôi, để tôi có được một bài nhạc để đời như thế, vậy trách nhau làm gì?” – ông bảo. Sự nghiệp âm nhạc cũng như cuộc tình xưa đau khổ của ông, như một ngọn núi lửa lạ kỳ: Chỉ cháy rực một lần rồi nguội tắt vĩnh viễn.
Nhạc sĩ Từ Vũ (tác giả bài hát Gái xuân nổi tiếng):
Thời đó, không có ca từ nào tạo nhiều cảm xúc hơn Gợi giấc mơ xưa
Tôi quen Lê Hoàng Long từ khi anh sáng tác bài Gợi giấc mơ xưa.
Đó là bài hát mà ở vào lứa tuổi thanh niên chúng tôi lúc đó, không có ca từ nào tạo nhiều xúc cảm hơn.
Tất cả giống như là tiếng lòng của chúng tôi vậy, một điều gì đó rất sâu mà mỗi người đều có thể nhìn thấy mình qua bài hát đó.
Thu Hường
Ghé nhà anh Lê Hoàng Long gần ngã tư Bẩy Hiền, anh lấy một bản sao chụp nhạc phẩm Gợi giấc mơ xưa, ghi mấy dòng chữ lưu niệm “…để xa xôi thỉnh thoảng gợi giấc mơ xưa”, nơi góc trang giấy món quà nhỏ tặng tôi. Ở Houston này cũng có nhiều quán cà phê bên đường, nhưng không thể nào có được không khí thân thuộc rất riêng, như cái quán nhỏ vùng Chí Hòa và ngã ba ông Tạ, mà anh em mình vẫn thường hay ngồi với nhau, thưa anh Lê Hoàng Long thân kính.
Đặng Thế Phong – Tài Hoa Bạc Mệnh (1918-1942)
11 Tháng Giêng 201612:00 SA(Xem: 299)
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
(Nguyễn Du)
Suy từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, người tài hoa là người bạc mệnh, kẻ hồng nhan thường đa truân. Nhìn vào làng nhạc nước ta, nhạc sĩ Đặng Thế Phong là điển hình rõ nét nhất.
Đặng Thế Phong
Đặng Thế Phong sinh năm 1918 tại thành phố Nam Định. Ông là con trai Đặng Hiển Thế, thông phán Sở Trước bạ Nam Định. Thân phụ ông chẳng may mất sớm, gia đình túng thiếu, ông phải bỏ học khi đang theo học năm thứ hai bậc thành chung (deuxième année primaire supérieure, nay là lớp bảy cấp hai phổ thông cơ sở). Vướng vào cái nghiệp văn nghệ từ thủa còn nhỏ nên ông đã lên Hà Nội theo học trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (Ecole supérieure de Beanx Arts) với tư cách bàng thính viên (auditeur libre). Đặng Thế Phong đã thực sự lấy nghề nuôi nghiệp: thời gian theo học này, ông đã phải vẽ tranh cho báo Học Sinh (chủ báo là nhà văn Phạm Cao Củng) để có tiền ăn học. Trong một kỳ thi, ông đã vẽ một bức tranh cây cụt, không có một cành nào. Lúc nạp bài, giáo sư Tardieu, thầy dạy ông đã nói rằng có lẽ Đặng Thế Phong không thọ!Ông đã phiêu du vào Sài Gòn rồi sang Nam Vang vào đầu năm 1941 và mở một lớp dạy nhạc tại kinh đô xứ Chùa Tháp cho đến mùa thu 1941 ông lại trở về Hà Nội.Cũng giống như Mozart lúc sinh thời, Đặng Thế Phong là một nhạc sĩ rất nghèo, nên cuộc sống của ông chật vật. Ngoài tài làm nhạc, vẽ tranh, ông còn có giọng hát khá hay, tuy chưa được là Ténor nhưng cũng được khán giả hâm mộ. Lần đầu tiên ông lên sân khấu, hát bài Con Thuyền Không Bến tại rạp chiếu bóng Olympia (phố Hàng Da – Hà Nội) vào năm 1940, được hoan nghênh nhiệt liệt. Đặng Thế Phong là một thiên tài, nhưng vẫn không có được cuộc sống sung túc giữa cố đô Thăng Long lúc bấy giờ vì nhạc và tranh dù có hay, có đẹp đến mấy chăng nữa cũng chẳng có mấy ai mua. Thời ấy, chính quyền bảo hộ Pháp có mở một phòng triến lãm tranh tại hội Khai Trí Tiến đức, khu Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Sau lễ khai mạc được ông Đốc Lý thành phố Hà Nội đến cắt băng, người ta thấy những người đến xem tranh phần rất lớn toàn là ông Tây, bà Đầm, còn người Việt thì đúng là lơ thơ tơ liễu buông mành, nhìn kỹ thấy toàn là các quan ta, những công chức cao cấp, giới trí thức, thượng lưu chứ chẳng thấy một dân thường nào! Ngoài ra, thời bấy giờ chính quyền Pháp có tổ chức mở phòng triển lãm là bảo trợ cho các hoạ sĩ Pháp trưng bày tranh của mình còn hoạ sĩ Việt Nam thì số người lọt được vào, ta có thể đếm trên đầu ngón tay. Đến nhạc thì nếu có in, mỗi lần xuất bản cũng chỉ in nhiều nhất là 500 bản, dân chúng chưa yêu chuộng nhạc cải cách (tân nhạc) nên dù có thực tài thì cũng không thể có được một cuộc sống sung túc nếu nhờ vào sức lao động nghệ thuật!
Đặng Thế Phong phải chịu một cuộc sống khó khăn, chật vật trong “kiếp con tằm đến thác vẫn còn vương tơ” cho đến đầu năm 1942, ông từ giã cõi đời tại căn gác hẹp ở phố Hàng Đồng Nam Định vì bệnh lao màng (tuberculose péritonique), hưởng dương 24 tuổi, tuổi son trẻ, đầy thơ mộng, sắp bước vào thời xây dựng sự nghiệp (tam thập nhi lập).
Cuộc đời của Đặng Thế Phong thật quá ngắn ngủi nhưng đời sống tinh thần của ông rất phong phú và thi vị. Nhờ thế mà tuy sáng tác chỉ có ba bài: Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu nhưng bài nào cũng trở thành vĩnh cửu, qua hơn nửa thế kỷ vẫn là những bài hay nhất của làng nhạc Việt Nam. Nhạc hứng chân thành đều phát xuất từ con tim, vì thế mà sáng tác của ông có hồn, đi vào lòng người và sống mãi! Qua Đặng Thế Phong, ta chứng minh được văn nghệ tính phẩm chứ không tính lượng (quý hồ tinh bất quý hồ đa). Con người làm văn nghệ viết được một câu để đời đã là khó, được một tác phẩm để đời là đáng mãn nguyện lắm rồi. Với âm nhạc, người chuyên sử dụng một nhạc cụ cho thật điêu luyện được tôn kính hơn là người biết sử dụng nhiều thứ đàn, chẳng thế nào có được một thứ thật tuyệt hảo. Về sáng tác cũng vậy, làm cho nhiều, cố nặn cho lắm, thể điệu nào cũng có bài thì dù viết cả ngàn bài chưa chắc đă có lấy một bài có giá trị nghệ thuật và vĩnh cửu! Chỉ sáng tác có ba bài thôi, Đặng Thế Phong đã sống mãi trong lòng mọi người, chắc chắn là hơn người có cả ba trăm bài mà chẳng có một bài nào để người ta nhớ! Nói đến điều này, điển hình trong làng nhạc nước nhà, chúng ta nhìn vào ông nhạc sĩ tiền bối Th.O, ông này là một trong số ít người đi tiên phong trong việc sáng tác tân nhạc. Từ đó cho đến sau này, suốt hơn 40 năm, ông có một tập sáng tác khá đồ sộ, trên dưới 500 bài nhưng cho đến ngày hôm nay không có lấy một bài nhạc nào đi vào lòng người nếu ta không muốn nói là sáng tác của ông đã hoàn toàn bị chìm trong quên lãng! Với nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng, muốn thành công là phải có tài năng thiên phú chứ không thể nhờ vào thời gian, kiên nhẫn, sách vở, trường lớp hay bằng cấp mà đạt được! Vì thế chúng tôi dám tôn vinh Đặng Thế Phong là một thiên tài của làng nhạc Việt, thật không ngoa.
Cuộc đời Đặng Thế Phong đã có được một mối tình thật chung thủy tuyệt đẹp:
Khi còn ở Nam Định, Đặng Thế Phong đã đem lòng yêu một thiếu nữ buôn bán ở Chợ Sắt, chợ duy nhất và lớn nhất của thành phố. Cô này không đẹp nhưng lại rất có đuyên. Sau nhiều ngày đi chơi chợ, Đặng Thế Phong đã lọt vào mắt mỹ nhân. Cặp tình nhân trai tài, gái đảm đã dìu nhau vào cuộc tình thật trong sáng và cao thượng! Điều đáng ca ngợi là chàng nhạc sĩ tài hoa họ Đặng không bao giờ đụng chạm đến đồng tiền của người yêu, dù cho người đẹp, tên Tuyết, nhiều lần khôn khéo bày tỏ lòng mình muốn giúp chàng. Những buổi chiều trời quang, mây tạnh hay gió mát, trăng thanh, hai người đều dìu nhau trên những con đường ngoại ô để tâm tình. Thời bấy giờ, nhiều thanh niên rất ngưỡng mộ Đặng Thế Phong, khi biết mối tình của cặp Phong – Tuyết, đều mến trọng và tôn kính là một cuộc tình lý tưởng!
Đặc biệt nhất là mấy cô gái phố Hàng Đồng, gia đình rất khá giả tỏ lòng yêu mến Đặng Thế Phong, nhưng ông vẫn một lòng yêu cô Tuyết, dù cô không đẹp bằng mấy cô kia. Có một hôm, mấy cô kia đang đứng nói chuyện với nhau thấy Đặng Thế Phong đi qua, với lối đi có vẻ vội vã. Thấy bóng ông, mấy cô ngưng bặt, rồi chẳng cô ai bảo cô nào, tất cả ánh mắt đều hướng về ông như dán chặt vào người ông vậy. Khi Đặng Thế Phong vừa bước tới ngang chỗ các cô thì một giọng nói đầy hờn dỗi pha thêm mai mỉa, được nói lớn lên, cố ý cho Đặng Thế Phong nghe thấy:
– Mấy chị đứng dịch ra, người ta đi vội kẻo trễ hẹn !
Đặng Thế Phong nghe rõ nhưng coi như điếc, cứ rảo bước như không có gì xảy ra. Đến nơi hẹn, gặp cô Tuyết đã đứng chờ, Đặng Thế Phong kể cho cô nghe vụ vừa bị chọc ghẹo. Cô Tuyết không nói gì mà chỉ tủm tỉm cười với ánh mắt nhìn người yêu, thật là trìu mến. Về nhà, Đặng Thế Phong không nói ra với anh chị em mà thầm thì kể cho ông chú họ, cùng lứa tuổi, là ông Nguyễn Trường Thọ biết thôi . Ngoài ra, ông còn kể cho ông Thọ nghe chuyện cô Tuyết có một chàng thông phán trẻ, đẹp trai, có tiền, có địa vị, làm ở Tòa Đốc Lý thành phố theo đuổi, còn nhờ cả hai người mai mối nhưng cô nhất quyết khước từ , bất chấp cả lời dị nghị của mọi người, nhất là gia đình cố ý gán ghép.
Năm 1940, Đặng Thế Phong phải tạm xa cô Tuyết để lên Bắc Giang ít ngày. Ai đã đến Bắc Giang là biết thị xã này có con sông Thương, một con sông có hai dòng nước, bên đục, bên trong. Kẻ viết bài này, lúc bé học ở Bắc Giang, vào những ngày hè nóng bức, cùng bạn bè ra sông bơi. đứng từ trên cầu ra tháp nước khá cao, nhìn thấy rõ hai dòng nước đục trong rõ rệt ! Ở Bắc Giang, một buổi tối trăng sao vằng vặc, Đặng Thế Phong đã cùng bạn bè thuê thuyền cắm sào rồi cùng nhau chén chú, chén anh hàn huyên mọi chuyện. Đang lúc đang vui thì có người ra đưa cho Đặng Thế Phong một bao thư. Ông ngưng ngay chuyện trò và vào trong khoang, lấy bao diêm ra đốt lửa để coi thư và đây đúng là thư của cô Tuyết, từ thành Nam gửi lên cho ông. Đọc xong thư, ông có vẻ buồn và suy nghĩ. Bạn bè thắc mắc nên hỏi, được ông cho biết thư báo tin cô Tuyết nhuốm bệnh cả tuần rồi và nhớ ông lung lắm nên có lẽ ông phải về Nam Định gấp! Chính đêm này, lúc đêm sắp tàn, Đặng Thế Phong thao thức không sao chợp mắt được, đã ngồi dậy sáng tác được tác phẩm Con Thuyền Không Bến buồn não ruột:
Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi giòng
Như nhớ thương ai trùng tơ lòng…
.. Lướt theo chiều gió
Một con thuyền theo trăng trong
Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng
Biết đâu bờ bến?
Thuyền ơi thuyền trôi nơi nao
Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu?…
Hai hôm sau Đặng Thế Phong từ giã bạn bè, rút ngắn thời gian để về Nam Định. Được tin Đặng Thế Phong đã về, cô Tuyết thấy bệnh thuyên giảm rất nhanh. Và tối hôm sau hai người hẹn gặp lại nhau. Lúc ấy miền Bắc đang vào Thu, gió heo may kéo về mang cái lạnh. Tối hôm ấy trăng lên muộn, trời tối gió nhẹ làm cho hai người thấy thích thú đi bên nhau để sưởi ấm lòng nhau sau bao ngày xa cách. Dìu nhau đến nơi cũ, Đặng Thế Phong ghé sát tai cô Tuyết, hát nhẹ nhàng, giọng rạt rào tình cảm như rót vào tai cô bài Con Thuyền Không Bến mà ông vừa sáng tác trong một đêm trắng trên sông Thương vì thương nhớ cô . Khi hát xong, Đặng Thế Phong phải lấy khăn tay ra nhẹ nhàng lau hai giòng lệ đang từ từ chảy xuống má cô với lòng xúc động không kém! Lúc ra về, Đặng Thế Phong nói: “Làm được một bài nhạc nhờ em, nay về được hát cho em là người đầu tiên nghe, thế là anh sung sướng lắm rồi!”
Cô Tuyết cũng đáp lại lòng tri kỷ : “Là một người đàn bà tầm thường như em mà đã làm cho anh có được một bài hát thì với em đó là một vinh dự, một hạnh phúc thật cao sang, không phải ai ở trên đời cũng có được! Tình anh trao cho em thật trọn vẹn, thật bất diệt, chắc chắn không bao giờ hình ảnh anh bị phai mờ trong tim trong óc em được, bây giờ và mãi mãi..” Đến lúc ấy chị Hằng mới ló mặt ra dịu dàng nhìn xuống trần thế và chứng giám hai người yêu nhau đang đứng sát bên nhau sau khi đã uống cạn lời nói của nhau. Sau hôm ấy, Đặng Thế Phong mới cho phổ biến rất hạn chế trong đám thanh niên tỉnh nhà bài Con Thuyền Không Bến, được mọi người yêu chuộng nên rất nhiều người biết đến.
Chính vì thế mà có một ngườl ở Hà Nội mới mời Đặng Thế Phong lên Hà Nội để hát tại rạp chiếu bóng Olympia bài hát của mình. Trong buổi ấy, Đặng Thế Phong ra sân khấu hát Con Thuyền Không Bến đầy xúc động vì ngay ở hàng ghế đầu, cô Tuyết đã bỏ hẳn một ngày chợ để lên Hà Nội nghe người yêu hát bài làm vì mình và cho mình ! Riêng với Đặng Thế Phong, ông xúc động là phải vì với số khán giả đông đảo không đáng ngại mà là trong lòng ông thầm nghĩ hát hôm nay rất cần và chỉ cần để một người nghe là đủ nên phải mang hết tài trí ra biểu diễn sao cho thành công !
Hát xong, khán giả vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Sau một thời gian ở Bắc Giang, ông nhuốm bệnh. Vì lúc đó bệnh lao là nan y nên ông dấu mọi người, ai biết đều sợ bị lây nhiễm, không hiểu sao cô Tuyết biết được. Cô Tuyết rất tế nhị và khôn khéo hỏi Đặng Thế Phong :
– Sao dạo này em thấy anh gầy và xanh lắm? Anh có bệnh gì không mà em thấy sút lắm? Anh đi nhà thương khám và thuốc men , cho khoẻ để mình còn tính đến tương lai !
Ông ậm ừ cho qua. Từ đó cô Tuyết âm thầm tìm mọi cách để giúp người yêu trong lúc nhà nghèo bệnh trọng. Đặng Thế Phong cũng đến nhà thương để khám bệnh. Sau khi dò hỏi, biết bệnh của ông, cô Tuyết nhân quen với một số y sĩ (médecin indochinois) làm ở nhà thương, mua thuốc rồi nhờ ông ta nhận là thuốc của nhà thương ông lấy cho Đặng Thế Phong. Thuốc bệnh lao lúc ấy vừa hiếm lại vừa đắt, cô Tuyết không những không ngại tốn kém, mà còn thường xuyên gặp Phong để săn sóc một cách kín đáo, kể cả không sợ bị lây. Về phần Đặng Thế Phong thì ông không hề biết thuốc là của cô Tuyết mua cho mình. Trong các cuộc ao đẹp của văn nghệ sĩ nước nhà, có hai nữ lưu đáng để người đời ca tụng : cô Tuyết biết người yêu bị bệnh nan y, rất dễ lây, Mộng Cầm biết Hàn Mặc Tử bị bệnh phong cùi, vừa ghê sợ vừa dễ lây thế mà hai ngườí đã có tình yêu chân thật, chung thủy, không những không sợ mà còn hết lòng chăm sóc,thuốc men cho đến ngày tử biệt! Thật hiếm hoi và cao quý vô cùng !
Mùa xuân năm 1941, cô Tuyết cùng Phong từ Nam Định lên Hà Nội để tiễn chân và tạm biệt Đặng Thế Phong vào Sài Gòn (rồi đi Nam Vang). Ở kinh đô xứ Chùa Tháp, ở Hòn Ngọc Viễn đông một thời gian thấy cuộc sống cũng không được thoải mái như ý mong muốn, Đặng Thế Phong trở về Hà Nội. Về lần này, Đặng Thế Phong không về Nam Định mà thuê một căn gác hẹp tường cây, mái lá ở làng trồng hoa Ngọc Hà, vùng ngoại ô thành phố Hà Nội. Đặng Thế Phong ở chung với chú là ông Nguyễn Trường Thọ. Bệnh tình Đặng Thế Phong tái phát ngày một nặng vì người bị bệnh này phải mua thuốc men đầy đủ, phải nghỉ ngơi và ăn uống tẩm bổ tối đa mà những điều phải ắt có và đầy đủ này, với Đặng Thế Phong không thể có được. Chính vì thế mà không tuần nào là cô Tuyết không lên thăm và lo chữa bệnh cho Đặng Thế Phong.
Tháng Bảy mưa ngâu tầm tã, rả rích suốt ngày này sang ngày nọ, tháng này qua tháng khác, gió lạnh kéo về, nhà thì tường cây, mái lá, lạnh buốt lọt xương, cuộc sống kham khổ khiến bệnh tình Đặng Thế Phong ngày càng trầm trọng. Từng cơn ho làm rũ người, tiếp đến những cơn thổ huyết làm cho Đặng Thế Phong ngày một sút hẳn đi. Một mình trên giường bệnh, Đặng Thế Phong nhớ gia đình thì ít mà nhớ người yêu thì nhiều. Thân xác thì bệnh tật khó qua, tâm trí thì luôn luôn phải vật lộn với trăm ngàn ý nghĩ và hình ảnh cuộc tình tươi đẹp nên bệnh mỗi lúc một tăng.
Còn đâu những cuộc hẹn hò thơ mộng, quên làm sao được những lời thủ thỉ ân tình và hy vọng gì ở những ước vọng được thành đôi chim nhạn tung trời mà bay, tất cả đã được Đặng Thế Phong ngày đêm day dứt, tiếc thương, muốn níu kéo lại thì cũng chẳng còn gì để bám víu!
Đặng Thế Phong đã mang lấy nghiệp vào thân thì đời con tằm đến thác cũng còn vương tơ, tránh sao thoát khỏi cái lưới trời thưa mà khó lọt ấy ? Chính vì lẽ ấy mà Đặng Thế Phong đã thực sự thể hiện được câu các cụ đã dạy cọp chết để da, người ta chết để tiếng, dù cuộc đời ông ngắn ngủi với 24 mùa lá rụng, một cuộc đời ngắn đến nổi đo chửa đầy gang!
Thế rồi, một hôm mưa rơi tầm tã, giọt mưa lộp bộp trên mái lá, thánh thót từng giọt xuống đường, Đặng Thế Phong buồn quá, con tim như thắt lại, máu trào lên để có được một nhạc hứng lai láng, tràn trề khiến ông gượng ngồi dậy viết một hơi điệu nhạc buồn da diết, não nề. Ông viết xong bèn đặt tên cho sáng tác mới ấy là Vạn Cổ Sầu. Chập tối ông Thọ về có thêm dăm người bạn đến thăm, Đặng Thế Phong ôm đàn hát cho mọi người nghe. Nét mặt của mọi người nín thở nghe, đều buồn như muốn khóc. Nghe xong, ai nấy đều khen bài hát thật hay, xoáy vào tim vào óc nhưng cái tên bài bi thảm quá, nên sửa lại thì hơn. Chính vì thế mà Đặng Thế Phong, đổi tên là Giọt Mưa Thu. Có lẽ đây là cái điềm báo trước, là lời di chúc tạ từ nên Đặng Thế Phong lấy mưa ngâu, mùa mưa là giòng nước mắt tuôn chảy lênh láng của Chức Nữ với Ngưu Lang để ví cuộc tình Phong – Tuyết cũng phải cùng chung số phận phũ phàng giống vậy chăng ? Đến một ngày cuối năm 1941, biết mình khó qua khỏi lưỡi hái của tử thần, Đặng Thế Phong mới ngỏ ý trở về Nam Định để được chết tại quê nhà và muốn ông Thọ dìu ông về.
Về nhà, lần này cô Tuyết đích thân đến hàng ngày để chăm sóc, thuốc men cho Đặng Thế Phong, không ngại mệt mỏi và không sợ nguy hiểm đến bản thân mình. Những người quen biết đến thăm, thấy cảnh ấy đều mũi lòng và khâm phục lẫn mến thương cuộc tình cao quý, chung thủy của cặp Phong -Tuyết.
Không biết có phải là tại thần giao cách cảm hay không mà một hôm, nhạc sĩ Bùi Công Kỳ đột nhiên từ Hà Nội về Nam Định thăm Đặng Thế Phong lại vừa đúng lúc Đặng Thế Phong sắp lìa đời. Trên giường bệnh, phút lâm chung, không nói gì được với nhau, Bùi Công Kỳ ôm đàn hát cho Đặng Thế Phong nghe một lần chót bài Giọt Mưa Thu. Giọng hát Bùi Công Kỳ vừa dứt thì mọi người nhìn thấy Đặng Thế Phong mở cặp mắt nhìn như ngỏ lời chào vĩnh biệt rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng.
Một vì sao Bắc Đẩu của làng nhạc Việt Nam, vừa ló dạng trên bầu trời đã vụt tắt gây niềm xúc động mãnh liệt và niềm thương tiếc vô bờ trong lòng mọi người ! Trong tang lễ, nam nữ thanh niên của thành Nam đã lũ lượt kéo nhau đi , chật cả phố phường để tiễn đưa Đặng nhạc sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng với rất nhiều cặp mắt rưng rưng lệ ! Cô Tuyết xin phép và được cả hai gia đình cho, mặc đại tang, đúng như một người vợ trong tang lễ chồng, thật là cảm động.
Năm 1960, tại Phú Nhuận, tôi được tiếp một thiếu phụ chưa hề quen biết. Sau lời chào hỏi, bà tự giới thiệu tên là Tuyết, người Nam Định, di cư vào Nam hiện ở Ban Mê Thuộc. Nhân lần vô tình đọc trên báo Tự Do, thấy quảng cáo trước cuốn Nhạc Sĩ Danh Tiếng Hiện Đại (tập II) của tôi sắp xuất bản, viết về năm nhạc sĩ trong đó có Đặng Thế Phong, nên bà về gặp tôi để xin tôi cho bà mượn hình của cố nhạc sĩ, chụp lại để về thờ. Trước kia, bà đã có nhưng lúc sắp di cư tấm ảnh đó bị thất lạc, kiếm mãi không sao thấy. Tôi vội lấy ảnh đưa ngay. Cậu cháu đi theo bà mang ngay ra tiệm hình ở đầu hẻm chụp gấp lấy ngay, xong trở vào gửi trả lại tôi. Trong lúc cậu cháu đi chụp hình, tôi có hỏi bà về chuyện tình tươi đẹp như bài thơ, trong sáng như trăng mười sáu thì bà Tuyết xác nhận những điều tôi biết là đúng và còn bổ sung cho tôi thêm ít nhiều chi tiết. Bà cũng không quên nói lên điều thắc mắc là tại sao tôi biết rõ thế ? Tôi nói thật ngay là được ông chú Nguyễn Trường Thọ cho tôi mượn ảnh, kể rành rẽ cuộc đời ái tình của Đặng Thế Phong cho tôi nghe. Bà cười và nói:
– Chú Thọ tuy là chú nhưng cùng tuổi với anh Phong, nên hai người vừa là chú cháu vừa có tính bạn bè, nên trong gia đình chỉ có chú Thọ là được anh Phong tâm sự mà thôi. Thảo nào ông biết quá rõ, quá đúng và quá đủ !
Sau lời cám ơn và trước khi ra về, bà Tuyết còn nói với tôi câu cuối cùng, đến nay đã 35 năm rồi, tôi vẫn còn nhớ :
– Cho đến ngày hôm nay, và mãi mãi về sau, tôi tôn thờ anh Phong và đời tôi luôn luôn thương nhớ anh ấy với tất cả cái gì trân trọng nhất.
Viết ra những giòng trên đây, tôi xin được phép coi là nén hương lòng, suy tôn một bậc đàn anh khả kính và khả ái. Tuy anh đã ra người thiên cổ hơn nửa thế kỷ rồi nhưng những Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu, Giọt Mưa Thu vẫn là những vì sao tinh tú sáng rực trên bầu trời ca nhạc. Thể xác anh có thể trở về hư không nhưng tinh anh vẫn còn lại muôn đời với giang sơn gấm vóc này. Cuộc đời con người ta, sinh ký, tử quy đó là luật muôn đời của tạo hoá. Nhưng khi sống cho ra sống, lúc về được qua Khải Hoàn Môn, khi cất ba tiếng khóc chào đời, mọi người hân hoan cười mừng đón ta, khi nhoẻn miệng cười để lìa đời, mọi người thương tiếc khóc ta, thế mới thật là sống, mới đáng sống ! Anh đã vĩnh viễn ra đi nhưng tất cả những thế hệ hậu sinh, dù chưa được biết anh, khi hát những bài hát bất hủ của anh để lại, đều tưởng nhớ đến anh, một thiên tài mà ta có thể nói anh là một MOZART của Việt Nam, với tất cả tấm lòng kính mến trang trọng nhất !
Tôi cả tin rằng, dưới suối vàng. anh cũng có thể mỉm cười mãn nguyện. Hiển linh, anh về chứng giám và nhận cho nén tâm nhang này.
Nhạc sĩ Lê Hoàng Long, Trích từ Vietnet
Trong lòng tôi, cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước là bậc lão tiền bối rất đáng tôn kính. Ông sinh năm 1915 (tuổi Giáp Dần) người làng Vân Đình, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Đông, là cháu nội cụ Dương Khuê, một thi hào khoa bảng, có tên trong văn học sử Việt Nam (Việt Nam Văn Học Sử Yêú cuả Giáo sư Dương Quảng Hàm, xuất bản tại Hà Nội vào thập niên 30).
Ông hơn tôi ngót hai chục tuổi, lẽ ra tôi phải xưng hô chú cháu, nhưng ông chủ trương văn nghệ sĩ không tính tuổi, nên tôi được phép gọi ông bằng anh. Trong làng Nhạc Việt, ông là một trong số vài nhạc sĩ đi tiên phong mở đầu cho sáng tác Tân Nhạc. Vào thập niên 30, nhân dân ta chỉ thuộc và hát những bài hát Pháp như : C’est à Capri, En passant par la Lorraine, J’ai deux amours, Madelon… qua những đĩa hát, chạy bằng kim và lên giây cót, với giọng ca của nam danh ca TINO ROSSI . Còn nhạc Việt, được gọi là nhạc cải cách, chưa có bài nào hay, phổ biến quá hạn chế nên ít được ưa chuộng và thịnh hành. Vào những năm ấy, môt bài nhạc được in ra mỗi lần chừng vài trăm bản, bày bán ở Hà Nội còn ở các tỉnh thì thấy rất ít, có tỉnh không có bày bán nữa.
Thời khai sơn phá thạch này, ngoài Dương Thiệu Tước, ta cũng chỉ thấy vỏn vẹn có mấy nhạc sĩ như Thẩm Oánh, Văn Chung, Dzoãn Mẫn, Nguyễn Xuân Khoát … Tuy nhiên, với Dương Thiệu Tước, lúc ấy người ta chỉ được biết ông là chủ một tiệm bán đàn ở phố Hàng Gai, Hà Nội; chứ người biết ông là một nhạc sĩ sáng tác thì quá ít ỏi! Lúc ấy, ông đã có vợ và hai con. Hai cô con gái lớn của ông, thời ấy đã là những đoá hoa hương sắc của Hà Thành, được rất nhiều người biết đến. Dưới chế độ phong kiến và Pháp thuộc, nhân dân ta nặng đầu óc khoa bảng nên khi kén chồng cho con, đa số các cụ vẫn chủ trương phi cao đẳng bất thành phu phụ, giới văn nghệ sĩ bị coi thường vì thế giới lao động nghệ thuật bị người đời coi bằng nửa con mắt. Dù biết rõ như vậy nhưng số nhạc sĩ tiền phong vẫn kiên trì, khồng hề nản chí, đó thật là một điều rất đáng ca ngợi! Ngày xưa, Vua Lê Thánh Tôn trọng văn học, thích thơ phú nên đã lập ra văn đàn nhị thập bát tú. Ðến Dương Thiệu Tước cũng theo gương tiền nhân, đứng ra quy tụ anh em nhạc sĩ tiền phong để cùng tự học rồi sáng tác. Ông đứng ra lo việc in ấn và phát hành. Sau đó ông cùng với nhạc sĩ Thẩm Oánh tiến hành một phong trào khuyến nhạc để rồi về sau có được hội khuyến nhạc tại Hà Nội.
Đến đầu thập niên 40, Dương Thiệu Tước rời Hà Nội để vào Huế rồi vô Sài Gòn.
Là một người có tâm hồn nghệ sĩ, lãng mạn và phóng khoáng nên khi đặt chân lên đất đế đô, Dương Thiệu Tước đã say mê cảnh và người. Dù mới chân ướt chân ráo, chỉ sau một vài ngày, Dương Thiệu Tước đã có được một số bạn ca nhạc sĩ của kinh đô cổ kính. Chiều chiều, Dương Thiệu Tước đã cùng bạn hữu chèo thuyền, nhẹ nhàng và chậm rãi lướt trên giòng Hương Giang ngược lên Chùa Thiên Mụ. Tiếng chuông lúc thu không để làm cho Dương Thiệu Tước trầm xuống.
Rồi đến một hôm như gặp được lương duyên tiền định, Dương Thiệu Tước đã gặp và quen M.T một ca sĩ được đa số dân chúng miền Trung biết đến. M.T là một nữ sinh theo học chương trình Pháp nên trình độ Pháp văn rất vững. Cô có giọng nói Pháp rất lưu loát và đúng là người Pháp của Thủ đô Ba Lê (Parisienne). Chính vì thế sau này cô đã là xướng ngôn viên phần phát thanh Pháp Ngữ của các đài phát thanh Quốc Gia (đài Sài Gòn) và đài phát thanh Pháp Á (Radio France Asia SaiGon) vào thập niên 50. Cô là ca sĩ duy nhất có trình độ nhạc lý rất vững vàng, xướng âm rất chuẩn xác: đưa bất cứ bài nhạc mới nào, nhìn lần đầu (première vue) cô hát đúng điệu và đúng nhịp ngay nên anh chị em ca nhạc sĩ rất mến phục. M.T. không đẹp nhưng ăn nói nhỏ nhẹ, có duyên, tuy giỏi nhưng rất nhũn nhặn và rất phục thiện nên được lòng mọi người.
Khi quen Dương Thiệu Tước, M.T. rất trọng tài và mến nết, yêu dáng văn nhân nho nhã nhưng vẫn phảng phất nét hào hoa nghệ sĩ của chàng nhạc sĩ Bắc Hà. Từ bước mến mộ đầu tiên ấy đến tình yêu chỉ còn là gang tấc.
Hai người dìu nhau vào cuộc tình thật là thơ mộng. Có những chiều cặp tình nhân nghệ sĩ này sánh vai nhau, chậm rãi từng bước theo dọc giòng Hương Giang nước chảy lững lờ, làn gió nhẹ thổi làm tà áo M.T. phất phơ bay, làm cho mái tóc bồng bềnh của Dương Thiệu Tước tung lên, hạ xuống như những đợt sóng nhẹ, cùng nhau thủ thỉ tâm tình. Những buổi mưa rơi trên xứ Huế, hai ngườì vẫn gặp nhau rồi ngồi trong quán nước gần bến Vân Lâu, vai tựa mái kề, sưởi ấm lòng nhau, bốn mắt cũng chỉ nhìn màn mưa giăng giăng khiến cảnh vật càng lúc càng tiêu điều, buồn bã.
Có những đêm trăng vàng toả sáng xuống giòng Hương, Dương Thiệu Tước cùng M.T. mời một số bạn văn nghệ, thuê thuyền neo giữa giòng sông để ca hát, ngâm thơ. Với những đêm thơ mộng này Dương Thiệu Tước đã thả hồn trong tiếng đàn hạ uy cầm (guitare hawaienne) lả lướt, trôi nổi với làn sóng gợn của sông Hương. M.T. cũng cất tiếng ca hát lên những điệu hò buồn lắng làm mọi người nín thở để tận hưởng âm thanh, cung bậc của quê hương qua giọng ca thật chải chuốt, đậm nét trữ tình.
Những ngày chủ nhật, M.T. và Dương Thiệu Tước dành hoàn toàn cho những cuộc đi thăm lăng tẩm. Theo Dương Thiệu Tước đây là những giờ phút thả hồn tự do phơi phới với thiên nhiên và tâm hồn hoài cổ! Dương Thiệu Tước là con người chịu một nền giáo dục gia đình, một gia đình khoa bảng, nho phong nên ông rất mến, rất trọng và rất hoài cổ. Có lần người nói chuyện về Huế, Dương Thiệu Tước, M.T. và tôi đã cùng gặp nhau một ý: mến và thích lăng Tự đức hơn là lăng Khải Ðịnh. Lăng Tự Ðức là một công trình kiến trúc hoàn toàn ngày xưa, xứng đáng là một di tích lịch sử còn lăng Khải định mang nặng phong cách Âu Châu, đúng là kiến trúc… lai căng!
Càng ngày, với M.T. và Dương Thiệu Tước, duyên càng thắm, tình càng nồng. Hai tâm hồn trí thức lại nghệ sĩ, dìu nhau vào cuộc tình thật thần tiên và lý tưởng.
Có đìêu đáng nói ở đây, Dương Thiệu Tước không yêu M.T. vì sắc (như xưa kia các cụ ta thường nói gái tham tài, trai ham sắc) vì về ngoại hình, M.T. không đẹp để dễ hớp hồn người khác, mà Dương Thiệu Tước yêu MT là yêu tâm hồn và cái duyên dáng. Yêu như thế, tình yêu mới lâu bền chứ nếu yêu sắc (háo sắc) thì bông hoa nào dù có hương sắc vẹn toàn thì sớm nở thì tối cũng phải tàn thôi, người đàn bà cũng vậy! Chỉ có tâm hồn và tính nết mới sống mãi.
Thời gian dừng chân ở Huế, được tình nồng ấp ủ, Dương Thiệu Tước sưu tầm và ký âm được rất nhiều điệu dân ca của miền Trung. Dương Thiệu Tước đã có được một cái vốn về dân ca miền Thuỳ Dương rất là phong phú. Chính vì thế mà khi viết nhạc, ông viết được thật đúng và thật đầy đủ để bất cứ ai đàn đúng bài là nghe thấy rõ điệu hát có âm hưởng dân tộc, không như Ph.D viết nhạc dân ca khi đàn hát lên phải thêm láy, thêm lượn mới nghe thấy đúng âm hưởng nhạc cổ truyền của dân tộc (thí dụ: bài Ru Con chẳng hạn). Những điệu hò mái nhất, hò mái nhì, hò mái đẩy, hò giã gạo, nam bình, nam ai… đều được M.T. hát rất hay rất đúng để Dương Thiệu Tước ký âm nên rất chính xác và đầy đủ. Tình yêu nở rộ trong vườn nghệ thuật thì thật là tuyệt diệu! Chính trong thời gian này, Dương Thiệu Tước đã có một vài sáng tác trữ tình, âm hưởng dân tộc và có giá trị, trong đó có bài Tiếng Xưa là hay nhất, mở đầu cho những sáng tác sau này. Suốt bao nhiêu năm qua bước vào địa hạt sáng tác, Dương Thiệu Tước chưa có lấy được một bài nhạc nào hay để mọi người mến mộ. Đến thời này, không ai dám phủ nhận rằng cuộc tình thơ mộng, nghệ sĩ, tâm đầu ý hợp với M.T. mà Dương Thiệu Tước mới có được Tiếng Xưa bài nhạc nổi tiếng. Bóng dáng M.T. đã ngự trị tâm hồn Dương Thiệu Tước để từ đó ông có được nhạc hứng chân thành và nếu không vậy thì tác phẩm làm sao có hồn, đi vào lòng người, để người đời mến chuộng.
Sau một thời gian sống trong nguồn ân, bể ái, mộng hồng ủ ấp, M.T. Dương Thiệu Tước chính thức tuyên hôn thành vợ thành chồng. Bạn bè, gia đình đều tán thành và đồng tâm giúp đỡ để hôn lễ sớm được cử hành. Sau ngày đó, M.T. Dương Thiệu Tước quyết định rời bỏ Cố đô để vào Sài Gòn sinh sống. Trong thời gian chuẩn bị vô Nam, người ta vẫn thấy M.T. Dương Thiệu Tước vẫn hàng ngày hàng đêm tay trong tay, vai sát vai, dìu nhau đếm bước dưới ánh trăng vàng dịu hiền toả sáng xuống giòng Hương Giang êm đềm, thơ mộng, vẫn có những buổi chiều sắp tắt nắng, thâm tâm chay tịnh đón nhận tiếng chuông thu không của Chùa Thiên Mụ, vẫn có những buổi trưa bên nhau tai nghe văng vẳng giọng hát ru con buồn rười rượi trong khung cảnh thôn Vỹ Dạ đìu hiu… làm cho cuộc sống vợ chồng vẫn thơ mộng như buổi ban đầu! Cảnh sống nghệ sĩ lý tưởng ấy thật dễ gì mấy ai có được.
Xưa kia, khi nhìn phố phường của thành Thăng Long, nỗi niềm hoài cổ dâng lên, Bà Huyện Thanh Quan đã viết:
… Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường
Nhưng với M.T. Dương Thiệu Tước thì tuy sắp phải xa cố hương tràn đầy kỷ niệm để sống cuộc đời ly hương nhưng lại rất vui và đầu ngập tràn hạnh phúc, trước mặt đầy tương lai hứa hẹn. Cho đến đêm cuối cùng ở đế đô, Dương Thiệu Tước được một số bạn thân mời dự buổi tiễn đưa một chén quan hà tại nhà một người trong nhóm, ngay trên Bến Ngự. Buổi ấy M.T. không dự được vì phải lo hành lý chu đáo để mai đi sớm.
Buổi này lúc đầu là chén chú chén anh ở trong nhà. Cuộc liên hoan này đầy ắp tiếng nói, cười. Màn đêm lẹ làng buông xuống. Bến Ngự ban ngày đã vắng lặng, ban đêm lại càng vắng lặng hơn. Lúc ấy bàn tiệc tàn và tất cả ra Bến Ngự để xuống thuyền và cùng thức trắng. Dưới khoang thuyền, giữa khoảng trời quang mây tạnh, trên bầu trời hàng ngàn, hàng vạn vì sao thi nhau lấp lánh.
Qua nửa đêm, gần về sáng, trăng hạ tuần chậm chạp nhô lên Dương Thiệu Tước tự nhiên đứng dậy ra đầu mũi thuyền ngồi một mình, mắt đăm chiêu về phía thành nội với niềm thương, nỗi nhớ M.T. đang chăn đơn, gối chiếc, vò võ chốn khuê phòng nhớ Huế ngày mai phải lìa xa. Nhạc hứng rào rạt như giòng máu nóng tuần hoàn vội vã làm bừng nóng cả toàn thân. Dương Thiệu Tước vội vàng lấy giấy ra ghi cho kịp giòng nhạc tràn ra như ngọn thuỷ triều dâng lên, với những đợt sóng xô nhau vỗ vào bờ, trùm kín cả bãi cát trắng mênh mông. Giòng nhạc thật trữ tình, mang được tình thương, nỗi nhớ khi sắp phải tạm biệt miền Trung đa tình đa cảm. Điệu nhạc buồn da diết, nét vẽ (dessin mélodique) thật đẹp, kiến trúc âm thanh (structure sonora) thật vững vàng trên nền móng dân ca xứ Huế, nghe thật não nuột làm sao?
Làm xong, Dương Thiệu Tước trở vào khoang thắp ngọn đèn dầu lên coi và thử lại rồi hát tặng các bạn ngay lúc bấy giờ. Mọi người thật thích thú, lòng ai nấy đều nao nao. Hát xong, Dương Thiệu Tước nói ngay là đặt tên cho bài sáng tác mới này là Ðêm Tàn Bến Ngự, ai nấy đều tỏ vẻ hài lòng.
Tiếng gà xao xác từ mọi nơi vọng lại báo hiệu bình minh anh chị em chìa tay ra bắt tay tạm biệt người nhạc sĩ tài hoa để hẹn ngày tái ngộ tưng bừng. Vội vã trở về nhà, vừa gặp mặt M.T., Dương Thiệu Tước khoe ngay đứa con tinh thần vừa ra chào đời hồi hôm, trên mũi thuyền, dưới ánh trăng về sáng, được đặt tên là Ðêm Tàn Bến Ngự. Nói xong, Dương Thiệu Tước ôm vai M.T. dìu nhau vào phòng rồi ông lấy đàn hát cho M.T. nghe điệu nhạc buồn thoang thoảng, thấm dần vào từng thớ thịt của người nữ ca sĩ đất Thần Kinh. Hát đã hết bài, tiếng đàn chỉ còn lại tiếng ngân dần dần thuôn nhỏ tiếng của sợi tơ hồng mà M.T. vẫn còn đắm mình trong điệu nhạc trầm bổng, du dương. Một lát sau, bừng tỉnh M.T. vội vỗ tay, mặt hớn hở, nói ngay:
Bài hay quá thật là cả một trời Huế, cả một giọng hò, điệu hát thật Huế, dễ làm mê lòng người và làm mủi lòng người, nhất là với người Huế phải ly hương thì nghe nhạc mà tê tái lòng, không thua gì Tiếng Xưa, mỗi bài mỗi vẻ!
Dương Thiệu Tước ôm chặt bờ vai M.T., ghé sát tai nói:
Hồi hôm, ngồi bàn tiệc, lúc đàn hát trên thuyền, anh nhớ thương em vô vàn. Chính niềm thương, nỗi nhớ ấy, hình ảnh em luôn luôn lúc ẩn lúc hiện trong tim, trong óc anh. Ở nhà, em có sốt ruột không ? Em đã cho anh mối tình tuyệt đẹp và bài Đêm Tàn bến Ngự cũng nhưng Tiếng Xưa là anh viết cho em và vì em, riêng mình em thôi đấy!
Năm 1960, khi viết về Dương Thiệu Tước trong cuốn Nhạc sĩ danh tiếng hiện đại, tôi đã xếp bài Ðêm Tàn Bến Ngự là tác phẩm có giá trị về nghệ thuật, có được cả giá trị vĩnh cửu hay nhất (chef d’ oeuvre) của ông (1)
Rời Huế, M.T. Dương Thiệu Tước sống chung dưới một mái nhà êm ấm tại đường Phan đình Phùng, Sài Gòn.
Với cuộc sống vợ chồng cùng nhìn chung một hướng trong nhà bao trùm một bầu không khí thuận hoà, niềm hạnh phúc thật tràn đầy, nhìn tương lai sáng sủa mà Dương Thiệu Tước lại hăng say sáng tác được nhiều bài có giá trị , được mọi người yêu thích như Ngọc Lan, Bóng Chiều Xưa, Thiếu Niên Xuân Khúc, Chiều (2), thật ngược hẳn với câu nói của một nhà hiền triết Tây Phương : khi nào người nghệ sĩ có được một cuộc sống hạnh phúc, đầy đủ thì cuộc đời sáng tác của họ kể như chấm dứt ! Phải chăng đây cũng là một biệt lệ .
Ban ngày Dương Thiệu Tước làm việc ở đài phát thanh Sài Gòn với chức vụ Chủ sự phòng Văn Nghệ, M.T. đi thu thanh cho các ban ca nhạc của các đài, rồi đi thu dĩa nên cuộc sống rất phong lưu, tình lúc nào cũng mặn nồng,
nhiều người ước ao, thèm muốn.
Vào thập niên 60 và 7O, Dương Thiệu Tước được mời dạy guitare classique tại trường Quốc gia âm Nhạc Saigon. Trong hai thập niên dạy đàn, Dương Thiệu Tước đã đào tạo được nhiều học trò giỏi, sau này là những danh cầm
của thành phố.
Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông thôi dạy ở trường nhạc, còn M.T. thì từ cuối thập niên 60; cô đã ngưng không hát nữa. Thấy vậy, đã có lần tôi hỏi lý do sao cô lại dứt hẳn cái nghiệp cầm ca một cách dễ dàng vậy, khi cô đã đạt được chỗ đứng của một danh ca đàn chị, được nhiều người ngưỡng mộ, M.T. đã trả lời ngay rằng :
Dạo này tuổi bắt đầu cao, giọng đứng bóng sắp đến thời đi xuống rồi, tôi tự ý ngưng hát thôi anh ạ!
Tôi rất phục M.T. là người khôn ngoan, biết lúc nào nên dừng lại để mọi người vẫn nhớ và trọng tiếng hát hay một thời của mình chứ già, đuối sức, yếu hơi còn cố hát thì không khác nào cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm thì thật là không thức thời chút nào !
Sau ngày 30 tháng 4 một vài năm, M.T. cùng các con ra đi, Dương Thiệu Tước ở lại. Những năm tháng sau này ông về cư ngụ tại đường Hoàng Hoa Thám, Quận Bình Thạnh, mở tại nhà một lớp dạy guitare classique, rất đông học trò. Cũng như Picasso, như Charlie Chaplin (Charlot), vào tuổi thất thập cổ lai hy Dương Thiệu Tước cũng lấy một cô vợ trẻ. Cô này là nhạc sinh của ông, sau này là một trong những danh cầm guitare classique, xếp vào loại giỏi có hạng của thành phố. Cuộc tình cuối đời đã sinh cho ông một bé trai, năm nay 14 tuổi đang học lớp 8. Ngày 1 tháng 8 năm 1995, Dương Thiệu Tước đã vĩnh viễn ra đi, hưởng thọ 82 tuổi.
Dương Thiệu Tước tuy không còn nữa nhưng những Đêm tàn Bến Ngự, Tiếng Xưa vẫn là những viên ngọc quý, và mọi người đều phải nhìn nhận rằng chính M.T. là người đã chắp cánh cho Dương Thiệu Tước bay bổng tuyệt vời trong vườn hoa đầy hương sắc của âm nhạc Việt Nam.
Khi tin Dương Thiệu Tước từ trần bay ra ngoại quốc, chị Minh Trang (đến đây thì tôi xin nói rõ tên chứ không dùng hai chữ M. T. để viết tắt nữa, xin được quý độc giả thông cảm và hiểu ý tôi) đã nói lên cảm nghĩ đầy xúc động của mình với bạn hữu :
Nhà tôi là một người thích một đời sống êm ả. Ông thích trầm tư trong cuộc sống nội tâm hơn là phô trương những công việc ông làm, do đó nhạc của ông tuy được rất nhiều người trình diễn song hầu như khán, thính giả ít người biết đến nhân dạng nhà tôi. Khi sáng tác, nhà tôi hoàn toàn vì yêu thích âm nhạc, coi âm nhạc như là một lẽ sống, thành thử ông không sáng tác vì bất cứ mục đích nào, ngoại trừ lòng yêu âm nhạc.
Nhiều người khi nhắc đến Dương Thiệu Tước là nghĩ ngay đến Ðêm Tàn Bến Ngự, Tiếng Xưa, Ngọc Lan,Chiều…, ít ai biết đến những bài nói lên tinh thần đạo đức Việt Nam như bài : Ơn Nghĩa Sinh Thành hoặc giả những bài nhạc nói lên những rung động giữa con người với con người, con người và thiên nhiên.
Trước cái tang lớn của làng Văn Nghệ Việt Nam, mọi người ngậm ngùi thương tiếc Dương Thiệu Tước, riêng tôi, tôi cầu nguyện vong hồn anh sớm siêu thoát và mỉm cười nơi chín suối khi thấy lúc oe oe ba tiếng khóc chào đời anh được mọi người hân hoan cười đón và lúc nhoẻn miệng cười lúc nhắm mắt lìa đời thì mọi người nhỏ lệ khóc thương !
Ðến đây tôi xin mượn mấy vần thơ của thi sĩ Thanh Chương làm kính tặng hương hồn nhạc sĩ Dương Thiệu Tước để kết luận trên mười trang viết về ông :
Ðêm sắp tàn, sao trăng đã khuất
Bến không thuyền, đợi nhớ thương sông
Hương Giang tiền định theo giòng nước
Tình lỡ Trang đài vương vấn không?
Chim Tước còn, không hót Tiếng Xưa ?
Ngọc Lan hé nở giữa đêm mưa
Luyến lưu Bến Ngự từ thủa ấy
Giọng hát ngân hoài, nhịp sóng đưa !
9-2002
chú thích:
(1) cuốn Nhạc sĩ danh tiếng hiện đại, phê bình âm nhạc Lê Hoàng Long, NXB Tự Do Saigon 1960
(2) Phố thơ Hồ Dzênh (B. T. chú thích)
nguồn: vietnhac.org
Nhạc Sĩ Lê Hoàng Long và Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Khánh
Nhạc sĩ Lê Hoàng Long với “Gợi giấc mơ xưa”
Lê Hoàng Long sinh năm 1930 tại Sơn Tây. Ông đã từng học violon với nhạc sĩ Lã Hữu Quỳnh rồi với nhạc sĩ Lương Ngọc Châu, và học nghệ thuật hòa âm với Giáo sư Tạ Phước. Từ năm 1950, Lê Hoàng Long học tại Trường Âm nhạc Việt Bắc ở Tuyên Quang do nhạc sĩ Văn Cao làm hiệu trưởng, nhạc sĩ Tô Vũ làm giáo sư hòa âm, sau đó ông trở về Hà Nội, chơi nhạc tại các vũ trường.
Năm 1954, Lê Hoàng Long di cư vào Sài Gòn rồi chuyển ra Huế. Ở Huế được hai năm, ông lại quay vào tiếp tục sống tại Sài Gòn.
Nhạc phẩm Gợi giấc mơ xưa được ông viết tại Sài Gòn năm 1955, khi người yêu của ông đi lấy chồng. Gia đình cô gái không đồng ý với tình yêu của hai người vì ông chỉ là một nhạc sĩ violon.
Lời BảnNhạc Gợi Giấc Mơ Xưa
Ngày mai lênh đênh trên sông Hương
Theo gió mơ hồ hồn về đâu?
Sóng sầu dâng theo bao năm tháng
Ngóng về đường lối cũ tìm em!
Thương em thì thương rất nhiều, mà duyên kiếp lỡ làng rồi
Xa em! lòng anh muốn nói bao lời, gió buông lả lơi
Hình bóng đã quá xa mờ dần theo thời gian
Kiếp sau xin chắp lời thề cùng sóng bước lang thang.
Em ơi! tình duyên lỡ làng rồi còn đâu nữa mà chờ
Anh đi lòng vương vấn lời thề nhớ kiếp sau chờ nhau
Tha hương lòng luôn nhớ ngày nào cùng tắm nắng vườn đào
Gió xuân sang anh buồn vì vắng bóng người yêu.
Thương anh thì thương rất nhiều, mà ván đã đóng thuyền rồi
Đa đoan trời xanh cắt cánh vịnh cảnh khiến chim lìa đôi
Chiều xuống mưa gió tiêu điều reo trên giòng Hương
Tháng năm chưa xóa niềm sầu vì dứt khúc tơ vương.
Anh ơi, đời đã lỡ hẹn thề thì đâu có ngày về
Xa anh đời em tắt nụ cười héo hắt đôi làn môi
Đêm đêm đèn le lói một mình ngồi ôm giấc mộng tình
Kiếp sau đôi tim hòa chào đón ánh bình minh.
Gợi giấc mơ xưa trở thành một nhạc phẩm rất nổi tiếng, được nhiều thế hệ ca sĩ trình bày. Lê Hoàng Long cũng là người có nhiều bài viết về tiểu sử các nhạc sĩ Việt Nam. Sau đây là cuộc phỏng vấn của phóng viên một tờ báo tại Sài Gòn với vị nhạc sĩ nay đã ngoại bát tuần (82 tuổi) nhưng vẫn còn khỏe mạnh đó.
PV: Thưa nhạc sĩ, “Gợi giấc mơ xưa” là một bản nhạc có âm hưởng... thất tình. Nhạc sĩ có thể hé mở đôi chút về mối tình này không?
LHL: Tôi bây giờ đã già, con cái đã trưởng thành rồi, còn người ấy cũng đã cùng con cái cháu chắt ở tận phương trời. Thành thử tôi chẳng ngại gì mà giấu giếm. Khi còn ở Sài Gòn năm 1954, tôi có quen và yêu một người con gái tên là Lê Thu Hiền. Tình yêu đang đẹp thì bỗng có người đến xin cưới nàng. Ngay lập tức, nàng dẫn tôi đến gặp bố mình. Gặp ông, tôi chính thức xin được làm rể, nhưng ông bảo: “Để hỏi ý kiến xem em nó thế nào đã”. Không ngờ khi tôi ra về, ông quát mắng con gái: “Nếu bằng lòng lấy anh giám đốc trường dạy lái xe Ecole Mayer thì còn bố mẹ, gia đình. Còn nếu lấy anh chàng chỉ biết chơi violon tối ngày thì không có cha con, dòng họ gì hết”. Và thế là thủ tục cưới hỏi tuần tự diễn ra. Hôm đó là một ngày Chủ nhật cận tết Ất Mùi năm 1955, tôi đau đớn chứng kiến người yêu lên xe hoa. Ngồi chờ đoàn xe đưa cô dâu về nhà chồng trong một quán cà phê ở đường Hiền Vương (nay là đường Võ Thị Sáu), tôi thấy nàng ôm bó hoa màu trắng trong lễ phục cô dâu, cùng chú rể bước lên xe hoa. Đoàn xe ngang qua chỗ tôi ngồi, bánh xe lăn trên đường như nghiến nát tâm hồn tôi. Ngay lúc đó, tâm trí tôi đã hiện lên ý nhạc. Khi đoàn xe đi khuất, tôi trở về căn gác nhỏ ở đường Lý Thái Tổ và hoàn tất bản Gợi giấc mơ xưa, cả phần nhạc lẫn phần lời chưa đầy 10 phút.
PV: Câu chuyện xảy ra ở Sài Gòn, tại sao bài hát lại bắt đầu bằng câu “Ngày mai lênh đênh trên sông Hương...”?
LHL: Đang làm ở Sài Gòn nhưng tôi quyết định xin ra Huế, xa những con đường, góc phố để tìm quên. Tuy vậy, sau hai năm sống với sông Hương, núi Ngự, tôi vẫn không sao quên được hình bóng cũ. Giã từ Huế trở lại Sài Gòn, chiều chiều tôi lại lang thang trên lối cũ như một kẻ bị tâm thần giữa Sài Gòn hoa lệ.
PV: Rồi nhạc sĩ có gặp lại cố nhân không?
LHL: Có, nhưng chỉ vô tình gặp giữa đường phố. Hai người chỉ trao đổi ít lời ngắn ngủi về cuộc sống rồi chia tay. Biết nàng đã tay bế tay bồng nên tôi không muốn gặp thêm lần nào nữa để khỏi khuấy động hạnh phúc của nàng. Tôi lập gia đình sau đó và có 6 người con. Vợ tôi mất đột ngột vào năm 1975. Đến năm 1981, tôi tục huyền và có thêm một con gái. Chỉ có cô con út này là có máu văn nghệ như bố, cháu hát khá hay và đã đoạt giải nhất cuộc thi hát với organ năm 1999.
PV: Thưa, hình như nhạc sĩ là bạn thân với nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, tác giả bản nhạc “Nỗi lòng” rất nhiều người biết, hiện nay nhiều ca sĩ cỡ lớn vẫn còn trình bày và được ưa chuộng. Nhạc sĩ có thể cho biết đôi điều về nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh?
LHL: Thật ra, Nguyễn Văn Khánh không phải chỉ có một bản Nỗi lòng mà còn vài bản khác, ví dụ bản Chiều vàng chẳng hạn, rất nổi tiếng trong khoảng những năm 1950, tài tử Ngọc Bảo hay trình diễn trên Đài Pháp-Á. Vâng, để tôi xin kể một số kỷ niệm đối với Nguyễn Văn Khánh giúp mọi người hiểu rõ về tác giả này.
Sau đây là lời kể của nhạc sĩ Lê Hoàng Long.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh và bản “Nỗi lòng”
Năm 1952, khi tôi cộng tác viết loạt bài phê bình âm nhạc trên nhật báo Giang Sơn, chủ nhiệm là bác sĩ Hoàng Cơ Bình—ở phố Hàng Trống Hà Nội. Tôi chơi thân với một nhạc sĩ rất nổi tiếng lúc bấy giờ là nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, tác giả các bản nhạc được nhiều người ưa thích: Chiều vàng, Nỗi lòng v.v...
Lúc ấy, Nguyễn Văn Khánh là công chức Sở Tài Chính thành phố Hà Nội. Con người Nguyễn Văn Khánh ai gặp cũng thấy mang tính chất nghệ sĩ, từ mái tóc, cách ăn nói cho tới dáng dấp thanh tao. Nguyễn Văn Khánh ít nói, nhưng khi đã nói thì thật dí dỏm, có duyên. Nhà Khánh ở trong ngõ, phố Khâm Thiên, phố toàn nhà hát cô đầu, tuy ở trong ngõ nhưng đất rất rộng. Khu ăn chơi này, trong một bài thơ mô tả cảnh chết đói 2 triệu dân năm Ất Dậu 1945, nhạc sĩ Văn Cao gọi là phường Dạ Lạc (bài thơ Chiếc xe xác đi qua phường Dạ Lạc), đã làm xúc động nhiều người.
Trong khuôn viên nhà Nguyễn Văn Khánh có cả một chiếc ao nuôi cá. Bởi vậy vào các ngày chủ nhật, Nguyễn Văn Khánh thường có cái thú ngồi uống rượu, câu cá. Nguyễn Văn Khánh có lối uống rượu khá lạ. Uống bao nhiêu cũng không say, càng uống lại càng tỉnh táo. Như vậy, cách uống rượu của Khánh có thể gọi là tiên tửu, không giống như loại “tục tửu”—rượu vào lời ra, ăn nói lỗ mãng, nhiều khi dẫn đến gây gổ, đánh lộn.
Hằng tuần, cứ vào các tối thứ năm, Khánh thường hay đến vũ trường chơi với tôi. Tôi là trưởng ban nhạc trong đó. Còn tôi thì cứ khoảng 10 giờ sáng chủ nhật là xuống uống rượu, câu cá và hàn huyên tâm sự với Khánh.
Có một lần, tôi đến thăm Khánh vào một buổi sáng chủ nhật, gần Tết, mùa đông trời rét như cắt ruột. Khánh đang đứng phụ giúp vợ chiên một con cá chép rất lớn trên bếp. Ở ngoài Bắc, thời ấy có cá chép chiên là rất quý. Thấy tôi đến, Khánh dừng tay, kéo tôi lên nhà trên, quạt lửa ở cái lò cho cháy lớn, bảo tôi hơ tay sưởi cho đỡ lạnh. Hôm ấy trời rét mà lại mưa phùn lất phất nên chúng tôi không ra ngoài ao câu cá mà ngồi chuyện trò với nhau trong nhà.
Một lúc sau, Khánh vào bên trong ôm ra một chiếc hũ sành khá lớn, đặt lên trên chiếc lò rồi cười và nói:
- Lòng mình lúc nào cũng lạnh. Mùa đông mưa phùn gió bấc lại càng lạnh hơn. Nên bữa nay tụi mình phải đổ “nước sôi” (rượu hâm nóng) vào cho ấm. Cậu phải uống thật nhiều, say thì nằm đắp chăn mà ngủ đến chiều. Tối tôi đưa cậu đi làm ở trên tiệm nhảy.
Khánh vừa dứt lời thì bà xã Khánh bưng mâm lên, đặt vào bộ ván ngựa rồi mời tôi và Khánh ngồi vào đối ẩm. Vậy là hai chúng tôi ngồi trên bộ ngựa, vừa uống vừa tán dóc đủ thứ chuyện trên trời dưới biển, từ sáng đến chiều.
Được vài hôm, tôi được ban tổ chức Hội Chợ Mừng Xuân Quý Tỵ (1953), tổ chức tại bờ hồ Hoàn Kiếm, nhờ lo giùm một cuộc thi hát. Tôi nhận lời và trước hết là thành lập ban giám khảo. Người đầu tiên tôi mời là nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, sau đó tới nhạc sĩ Hoàng Trọng và nhạc sĩ Hùng Lân, ba người tất cả.
Trong số thí sinh tham dự cuộc thi hôm ấy, cho đến bây giờ đã bao nhiêu năm qua rồi, tôi vẫn còn nhớ một trong những thí sinh được giải thưởng, đó là anh Khuất Duy Trác. Sau này anh trở thành ca sĩ Duy Trác rất nổi tiếng vào khoảng những năm 1960-1970, đồng thời còn là luật sư Khuất Duy Trác tại Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn.
Dù rất thân với Nguyễn Văn Khánh nhưng tôi chưa lần nào có dịp thuận tiện để “móc” anh bộc lộ tình cảm của mình, là tại sao anh lại có những mối tơ vàng óng ả để dệt nên những ca khúc Chiều vàng và Nỗi lòng bất hủ?
Thế rồi, cho đến một buổi chiều thứ bảy, vào dịp lễ Các Thánh (ngày 01 tháng 11 hằng năm), đột nhiên anh đến chơi, rủ tôi đi lễ nhà thờ mặc dầu cả hai đứa chúng tôi đều không có đạo.
Trước lễ Các Thánh kỳ ấy hai ngày, lúc đó tôi còn độc thân, tôi đã cùng người yêu có đạo của tôi đi lễ tại nhà thờ Hàm Long. Nhân buổi lễ đó, tôi viết được bài Cầu Xin Đức Mẹ, bèn lấy ra hát cho Nguyễn Văn Khánh nghe.
Anh lắng nghe xong, tủm tỉm cười, nheo mắt:
- Đi lễ với người đẹp, mắt cậu sáng lên như đèn ô tô nên mới nhìn thấy Đức Mẹ mà làm ra bản này hả? Được đấy, nghe có âm hưởng nhạc đạo lắm, được lắm!
Sau này, sau ngày đất nước chia đôi, mỗi lần vào dịp mừng Lễ Giáng sinh, Đài Phát thanh Sài Gòn trình bày bản đó tôi lại nhớ tới lời phê bình của Nguyễn Văn Khánh.
Chúng tôi lững thững đến Nhà thờ Hàm Long. Sau buổi lễ, hai đứa tôi băng qua đường, vào quán cà phê Bằng. Trong khi đang nhâm nhi ly cà phê nóng hổi, từ cặp loa khuếch âm trên tường phát ra ca khúc Nỗi lòng: “Yêu ai, yêu cả một đời... Tình những quá khắt khe khiến cho đời ta đau tủi cả lòng... Vì yêu ai mà lòng thầm nhớ...”, khiến cho tất cả các khách trong quán đều im lặng thưởng thức.
Khi giọng ca chấm dứt, tôi mở lời:
- Cuộc tình tha thiết nào đã làm cho cậu có được bản Nỗi lòng và bản Chiều vàng buồn tê tái đến thế?
Khánh im lặng một lát với nét mặt đượm buồn, đưa hồn trôi về quá khứ rồi nho nhỏ tâm sự với tôi.
Khánh là con người đa sầu đa cảm, biết yêu rất sớm. Mới bước vào năm thứ hai ban Thành chung (tương đương với lớp 7 hiện nay) Khánh đã để ý, thầm yêu trộm nhớ cô bé láng giềng. Cô này cũng còn cắp sách đến trường, con gái út của một ông thông phán làm trong Phủ Thống sứ Bắc Kỳ.
Những đêm trăng sáng, Nguyễn Văn Khánh ra đằng sau vườn nhà, mang cây đàn ghi-ta ra hát các bản nhạc tiếng Pháp Cest à Capri, Jai deux amours, Madelon v.v... chứ tân nhạc lúc ấy chỉ mới có được vài ba bản của các nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Văn Chung, Dzoãn Mẫn... nhưng chưa được phổ biến rộng rãi. Tiếng đàn quyện với tiếng hát trong đêm khuya thanh vắng vọng tới tai cô gái nhà bên. Về sau, cứ đúng giờ Nguyễn Văn Khánh lại ra vườn mà hát nghêu ngao. Có lẽ hai bên đều “tình trong như đã” nên cứ sau buổi học, chiều về đến nhà là cả hai cùng ra vườn sau, cách nhau mấy cụm mía thưa, để nhìn thấy nhau. Muốn làm hiệu, Nguyễn Văn Khánh cứ ra tới vườn là cất tiếng hát lớn. Một lát sau, nhìn sang vườn bên kia, chàng thấy bóng dáng mỹ nhân cũng ra, giả vờ làm việc gì đó nhưng bốn mắt thường “vô tình” gặp nhau.
Một buổi chiều ra vườn, Nguyễn Văn Khánh hái trên cây một quả cà chua chưa chín rồi vứt nhẹ qua hàng rào. Vứt xong, Khánh lên tiếng nhờ người đẹp nhặt giùm vì chàng với tay không tới. Cô bé cũng ranh mãnh, nhặt xong lúc đưa cho chàng bèn nói bâng quơ:
- Quả còn xanh thế này sao tự nhiên lại rụng được?
Khánh cũng láu lỉnh hỏi lại:
- Phải là quả chín mới rụng hở cô? Cám ơn cô nhiều lắm.
Lúc ấy bốn mắt liếc nhẹ nhìn nhau như thầm trao gởi tình cảm.
Đêm hôm ấy, Nguyễn Văn Khánh thao thức không sao chợp mắt được. Nằm trong giường chàng chỉ mong cho chóng sáng. Nhưng ở đời, càng mong thời gian lại càng trôi qua rất chậm. Chàng nằm chán lại ngồi dậy, ngồi chán lại nằm xuống, giờ giấc cứ ỳ ạch gần như ngừng trôi.
Thế rồi chuông chiếc đồng hồ quả lắc treo trên tường ngân nga đổ 4 tiếng. Chàng ngồi dậy, bước xuống đất, vặn to cây đèn dầu trên bàn cho sáng rồi ngồi vào bàn, lấy giấy bút ra định viết bức thư. Viết rồi lại xé. Xé rồi lại viết. Chàng không biết viết cái gì nên mơ ước mình có tài, làm được một bản nhạc thật hay hát cho người con gái đó nghe và nàng sẽ cảm động, phục tài chàng sát đất...
Chuông đồng hồ điểm 5 tiếng. Thư chẳng có mà nhạc cũng không, bất đắc dĩ Khánh phải ra vườn sau để cầu may xem có được gặp “người đẹp” hay không...
Bất ngờ, không hiểu vô tình hay hữu ý, “người đẹp” cũng dậy sớm, đang múc nước giếng để chuẩn bị đánh răng rửa mặt. Nguyễn Văn Khánh lách đám mía thưa, bước sang, hỏi trước:
- Cô lấy nước sớm nhỉ?
- Vâng ạ, em vẫn có thói quen dậy sớm.
Chàng nhìn chiếc thùng kéo nước sóng sánh ánh trăng rồi lại nhìn lên trời và nói:
- Giờ này mà hãy còn trăng. Cô có thấy cô múc cả ánh trăng đổ vào trong chậu hay không?
Cô gái bật cười, khẽ nói:
- Tại anh có tâm hồn nghệ sĩ nên mới nhìn thấy em múc ánh trăng đổ vào trong chậu chứ em thì chỉ thấy em kéo nước dưới giếng lên thôi. - Và cô khẽ đọc nho nhỏ hai câu thơ của thi sĩ Bàng Bá Lân: “Hỡi cô tát nước bên đàng, sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”.
Nguyễn Văn Khánh nói:
- Cô thuộc thơ quá, lúc nào tôi phải làm một bài thơ tặng cô mới được.
- Không, em thích nghe anh hát cơ. Anh hát hay lắm, các bản Cest à Capri, J ai deux amours, Madelon...
- Cô thích nghe hát?
- Vâng...
Sau lần đối thoại đầy tình tứ ấy, Nguyễn Văn Khánh và cô gái nhà bên đã có những buổi hẹn hò bên hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây, Chùa Láng, Quảng Bá, Nghi Tàm—và có lần lên cả Bác Cổ để tâm tình.
Cuộc tình thơ mộng, trong sáng kia kéo dài tới hơn hai năm mà cả hai gia đình không hề ai biết chuyện. Cho tới khi Nguyễn Văn Khánh học năm thứ tư ban Thành chung, đi thi Diplôme, chàng nhớ rõ buổi sáng đầu tiên thi một bài luận viết tiếng Pháp (Rédaction Francaise), ai đủ điểm từ trung bình trở lên thì ngày thứ 3 mới thi Toán và các môn kế tiếp. Đó là thi Viết (Écrit). Nếu đậu thi viết mới được vào thi Vấn đáp (Oral). Mỗi kỳ thi Diplôme có 2 khóa, cách nhau gần 3 tháng. Khóa 1 (Première session) vào đầu tháng 6. Khóa 2 (Deuxième session) vào cuối tháng 8. Một thí sinh nếu đậu thi viết của khóa 1 nhưng thi rớt vấn đáp thì khóa 2 chỉ phải thi lại phần vấn đáp đó thôi. Nhưng nếu khóa 2 lại thi rớt vấn đáp nữa thì phải học lại (gọi là học “đúp” – doublé) năm sau sẽ thi lại hoàn toàn.
Kỳ thi Diplôme năm ấy, Nguyễn Văn Khánh mắc lo tình yêu nên thi rớt. Cô em nhà bên buồn lắm, nói với Khánh:
- Anh bị trượt khóa 1 rồi, ba tháng hè này phải đặt hết tâm trí vào việc học để đậu khóa 2 chứ nếu phải học lại năm nữa thì thêm khó ra. Em nhất định không gặp anh đâu, để anh chú tâm vào việc học!
Nguyễn Văn Khánh năn nỉ, hứa khóa 2 thế nào cũng đậu nhưng xin nàng cho gặp mỗi tuần một lần vào chiều chủ nhật. Mới đầu nàng không bằng lòng nhưng anh nói mãi nàng cũng đồng ý và giao hẹn: “Nếu khóa 2 anh mà không đỗ thì em chia tay luôn đấy. Em không chờ đợi được đâu!”
Quả nhiên khóa 2 năm ấy Nguyễn Văn Khánh đậu thật. “Người đẹp” mừng lắm nhưng đúng lúc ấy thì ông thông phán phải đổi lên Thái Nguyên, cách Hà Nội hàng trăm cây số, gia đình phải chuyển đi theo.
Đêm cuối cùng ở Hà Nội, hai người gặp gỡ, chia tay tạm biệt. Sáng hôm sau, Nguyễn Văn Khánh thẫn thờ nhìn theo chiếc xe đưa người yêu xa rời cố đô Thăng Long ngược lên miền núi.
Nói tới đất Thái Nguyên, người miền xuôi ai cũng sợ, cho đó là nơi “đường ngược” rừng thiêng nước độc. Có người còn xếp Thái Nguyên vào một trong những địa phương sản sinh ra bệnh sốt rét ngã nước: “Lử khử lừ khừ, không phải Đại Từ thì cũng Vũ Nhai”. Đại Từ và Võ Nhai là hai huyện của tỉnh Thái Nguyên. Đại Từ cách thị xã Thái Nguyên 35 cây số. Võ Nhai cách thị xã Thái Nguyên 42 cây số. Bởi vậy, Nguyễn Văn Khánh vừa thương vừa lo cho người yêu.
Thời đó, phương tiện giao thông còn ít, chỉ có xe lửa từ Hà Nội lên Lạng Sơn, muốn đi Thái Nguyên phải xuống tại ga Bắc Giang, rồi đi xe đò ngược lên, mà mỗi ngày chỉ có một chuyến. Dù xa xôi vất vả nhưng thứ bảy nào Nguyễn Văn Khánh cũng đều đặn lên thăm nàng.
Thế rồi có kẻ đánh tiếng xin hỏi cưới nàng làm vợ. Hai gia đình hết sức môn đăng hộ đối và chàng thanh niên kia cũng là người có học, nhưng vì đã thề non hẹn biển với Khánh nên nàng luôn luôn tìm cách thoái thác, hẹn lần hẹn lữa. Vì thế, mỗi lần gặp nhau, hai người đều tâm sự qua hai hàng nước mắt.
Trong hoàn cảnh đau khổ ấy, một lần trên chuyến xe đò từ Thái Nguyên về ga Bắc Giang, tự nhiên Nguyễn Văn Khánh nảy ra ý nhạc nói lên tâm sự của mình đối với nàng: “Yêu ai yêu cả một đời... Tình những quá khắt khe khiến cho đời ta đau tủi cả lòng. Vì yêu ai mà lòng hằng nhớ...”.
Rồi khi trên xe lửa từ ga Bắc Giang về tới Hà Nội, chàng đã làm xong bản nhạc mà chàng đặt tên là Nỗi lòng. Tuy nhiên, có lẽ bản nhạc này là điềm báo trước một điều gì đó không trọn vẹn: “Dù sao, dù sao nếu có một ngày, một ngày ai gieo tim ta, là tình yêu kia ly tan, mà lòng vẫn thương vẫn nhớ. Tình đó khiến xui lòng ta đau. Rồi với bao ngày lặng lẽ sống, nỗi đau trong lòng người yêu vẫn yêu hoài...”.
Sau lần lên Thái Nguyên ấy, Nguyễn Văn Khánh bận việc nhà nên hai tuần lễ liên tiếp không đi được. Nửa tháng trời không gặp nhau, lòng Khánh nóng như lửa đốt và chỉ có 15 ngày thôi mà Khánh cảm thấy thời gian lâu bằng một thế kỷ. Lần này, Khánh lên Thái Nguyên như mọi lần. Đến nơi, tới nơi hẹn cũ, chờ mãi chẳng thấy bóng dáng nàng. Chờ đến chiều, Khánh đánh liều đi bộ đến gần nhà nàng để hỏi dò tin tức. Gặp bà chủ quán nước ở gần đấy, Khánh khôn khéo hỏi thăm. Bà chủ quán cho biết một tin sét đánh: cách đây khoảng chừng 10 ngày, không hiểu cô ấy bị bệnh gì, người nhà nói là trúng gió, đưa vào nhà thương nhưng sau 1, 2 ngày cô ấy đã mất. Gia đình xin xác về, chôn cô trên đồi thông cách đây khoảng một cây số.
Nghe xong, Khánh kinh hoàng, lật đật rời khỏi quán, bước như kẻ không hồn đi thẳng về phía đồi thông, nơi ấp ủ hình hài người yêu.
Mấy hôm ấy trời mưa phùn gió bấc, không hiểu sao chiều hôm đó lại tạnh, mặt trời ló ra vàng vọt, yếu ớt như mới trải qua cơn bệnh. Nguyễn Văn Khánh tìm thấy mộ nàng. Mắt chàng nhòe lệ, chàng ngồi sụp xuống, ghé sát vào nấm đất, thì thầm hát cho nàng nghe bản nhạc mà chàng đã làm vì nàng, cho nàng: “Yêu ai, yêu cả một đời... Tình những quá khắt khe khiến cho đời ta đau tủi cả lòng, vì yêu ai mà lòng hằng nhớ... Năm tháng trôi lạnh lùng hoài... Tình đó nhắc nhớ luôn đến ta tình ai. Nhớ cả một trời... Tình yêu kia mà lòng nào quên...”.
Hoàng hôn xuống dần. Nguyễn Văn Khánh u sầu, lê bước trở về quán trọ. Giữa khung cảnh bi ai trầm lắng đó, bản nhạc Chiều vàng đã hình thành với những ca từ não nề, ai oán: “Trên đồi thông, chiều đã xuống dần. Mặt trời lấp ló sau đồi. Chiều vàng... giờ đây vương thầm hồn cố nhân. Năm tháng trôi qua sóng gió đời, chiều chiều nhớ em lòng khôn nguôi...”.
Kể xong câu chuyện, Khánh rủ tôi về nhà anh ăn cơm tối. Về tới nhà, anh lấy ra một cái hộp vuông trong đó có đựng một cái khăn len quàng cổ do nàng đan tặng Khánh và xấp thư tình của nàng.
Năm ấy có kỳ thi tuyển nhân viên Sở Tài chính thành phố Hà Nội. Khánh đang học ban tú tài nhưng cũng dự thi, bất ngờ trúng tuyển và trở thành một công chức, “sáng vác ô đi, tối vác về”.
Đầu năm 1954, có lệnh tổng động viên của Quân đội Liên hiệp Quốc gia Việt Nam (tức quân đội của vua Bảo Đại kết hợp với quân đội Pháp), tôi bị kẹt trong lệnh đó. Khánh và tôi rủ nhau đi uống cà phê để giã từ. Rồi đến 20/07/1954, ký kết Hiệp định Genève ngưng chiến tại Việt Nam. Sau ngày này, tôi theo quân đội chuyển vào trong Nam còn Nguyễn Văn Khánh thì bị kẹt ở Hà Nội.
Cho mãi tới sau 30/04/1975, gặp lại một số nhạc sĩ ngoài Bắc vô chơi trong Nam tôi mới biết tin là sau năm 54 được vài năm, Nguyễn Văn Khánh đã trút hơi thở cuối cùng tại căn nhà xưa. Tôi không ngờ buổi cà phê hơn 20 năm trước lại là lần cuối cùng chia tay với người bạn thân thiết, tác giả của bản Nỗi lòng bất hủ.
Đoàn Dự
Nỗi Lòng của Nguyễn Văn Khánh, tiếng hát Thu Hà
– Hà Đình Nguyên
Những người am hiểu và gắn bó với nền tân nhạc Việt Nam, hẳn vẫn còn nhớ về một thế hệ nữ ca sĩ cách đây hơn 60 năm. Đó là những giọng ca : Mộc Lan, Tâm Vấn, Châu Hà, Kim Tước… Thời may, tôi được gặp một người trong số họ: danh ca Mộc Lan.
Tiếng tăm của nữ danh ca một thời Mộc Lan thì tôi đã từng nghe biết từ lâu qua những lời truyền tụng và sách báo. Thời hoàng kim của bà đã cách đây hơn nửa thế kỷ nên một kẻ hậu bối như tôi dù rất ao ước cũng khó lòng gặp được, bởi bà đã “mai danh ẩn tích” từ rất lâu…
Qua sự giới thiệu của một nhà thơ, được biết nhà văn Trần Áng Sơn (vốn là chỗ quen biết với tôi) chính là em ruột của bà, tôi nhờ anh Sơn dẫn đến thăm bà. Một ngày cận Tết, anh Trần Áng Sơn đưa tôi đi, nhưng dặn nhỏ :
“Hạn chế hỏi chuyện đời tư nhé !”. Tôi vâng dạ mà… buồn thiu bởi thú thực tôi đang rất muốn hỏi bà một số chuyện tình cảm liên quan đến các nhạc sĩ Châu Kỳ, Đoàn Chuẩn…, đành gặp trước rồi tính sau.Dù đã được anh Trần Áng Sơn báo trước nhưng tôi cũng không thể ngờ người đàn bà tài sắc một thời này, nay lại có hoàn cảnh khó khăn như thế. Bà hiện sống – có thể nói là cô độc trong một căn nhà chỉ chừng mười mấy mét vuông ở cuối con hẻm nhỏ trên đường Lê Văn Sỹ (Q.3). Càng cô độc hơn khi một mình bà phải nuôi nấng, chăm lo cho người con gái trên 50 tuổi bị bệnh tâm thần.
Mảnh lưng ong ngà ngọc một thời nay đã còng xuống, trí nhớ có phần mai một nhưng vẻ xuân sắc ngày ấy vẫn chưa phai nét trên khuôn mặt mà mái tóc đã gội tuyết sương…
Bà khoe : “Tôi mới vừa nói chuyện qua điện thoại với nhạc sĩ Trịnh Văn Ngân ở bên Mỹ gọi về (nhạc sĩ Trịnh Văn Ngân là tác giả các ca khúc Buồn thu, Đường tơ lưu luyến, Người đưa thư đã đi qua…). Bây giờ buồn lắm, bạn bè chỉ còn dăm người, ai nhớ đến mình, gọi điện hỏi thăm hay gửi cho chút quà là mừng lắm, cảm động lắm… Châu Hà, Kim Tước đang ở nước ngoài, chỉ có Tâm Vấn thỉnh thoảng có ghé thăm. Tất cả đều già yếu rồi nên chẳng ai trách ai…”.
– Cô đi hát từ bao giờ và bài hát đầu tiên cô biểu diễn trước công chúng là bài nào ?– Tôi tên thật là Phạm Thị Ngà, sinh năm 1931, tuổi Mùi. Đi hát từ thời 14 – 15 tuổi ở Đài Pháp Á. Nghệ danh Mộc Lan do nhạc sĩ Lê Thương đặt cho tôi. Bài hát đầu tiên thì không nhớ nổi nhưng tôi nổi tiếng với bài hát Em đi chùa Hương (thơ Nguyễn Nhược Pháp, nhạc Trần Văn Khê). Ông Khê viết bài này rất kỳ công, có xen kẽ những đoạn vừa nói vừa diễn tả rồi lại hát, cho nên bài hát rất dài và rất kén người hát. Tôi may mắn được coi là người đầu tiên thể hiện thành công bài hát này… Nghe nói ông Khê về nước mấy năm nay rồi, lẽ ra tôi phải đến thăm ông vì cái ơn hồi đó ông uốn nắn cho giọng hát của tôi từng chút một, nhưng giờ cả hai đều già yếu. Tôi nhớ dạo ông ấy còn ở bên Tây, tôi đã từng về quê của ông ấy ở xã Vĩnh Kim (Cái Bè, Mỹ Tho) hát. Mới đó mà đã hơn 50 năm rồi…
– Đi Chùa Hương
Thơ Nguyễn Nhược Pháp – nhạc Trần Văn Khê – Ý Lan trình bày
– Ngoài Em đi chùa Hương, cô còn hát thành công những ca khúc nào nữa?
– Nhiều lắm. Tiếng thời gian, Hình ảnh một buổi chiều (Lâm Tuyền), Gởi gió cho mây ngàn bay, Chuyển bến (Đoàn Chuẩn), Thoi tơ (Đức Quỳnh), Nhớ nhung (Thẩm Oánh), Phố buồn (Phạm Duy)… Sau này, tôi hát trong ban Tiếng Tơ Đồng của nhạc sĩ Hoàng Trọng. Lúc đó, Hoàng Trọng được mệnh danh là “Vua Tango” nên những bài tango của Hoàng Trọng đều do tôi hát đầu tiên…
– Hiện cô còn giữ băng đĩa nào ghi âm những bài hát này không ?– Hồi xưa, tôi ghi âm nhiều lắm. Thu vào đĩa 45 vòng, vào băng Magne, Akai… nhưng rồi mấy lần dọn nhà đâm ra thất lạc, cái nào giữ được thì ẩm mốc, hư hỏng hết… Có mấy người bạn ở nước ngoài gửi cho vài đĩa nhạc nhưng nhà chẳng có máy mà nghe nên cũng chỉ để đó.
– Nhiều người cho rằng bài hát Gởi người em gái là của Đoàn Chuẩn viết riêng cho Mộc Lan. Điều này đúng không ?
– (cười…). (Anh Trần Áng Sơn gật đầu xác nhận : “Đã có rất nhiều tài liệu cho rằng nhân vật nữ trong Gởi người em gái của Đoàn Chuẩn chính là chị Mộc Lan”)… Thực ra thế này, dạo đó tôi ở trong Nam, còn ông Đoàn Chuẩn ở ngoài Bắc, ông ấy sáng tác và gửi bài hát vào Nam cho các ca sĩ, không cứ gì gửi cho riêng tôi. Tôi vào Nam từ rất sớm do ông anh tên là Long dắt vào. Mấy năm sau, khi tôi chung sống với ông Châu Kỳ ở Huế thì tôi đón Trần Áng Sơn vào ở chung (1952).
– Cô nhận xét thế nào về nhạc sĩ Châu Kỳ ?
– Ông ấy rất hiền lành, đã hứa làm cái gì thì làm tới nơi. Riêng với phong trào âm nhạc thì ông ấy rất nhiệt tình. Sống có tình cảm nên bạn bè rất quý. Có điều nhậu vô là nói lèm bèm. Tính tôi nghe nhiều không chịu được, bực lắm ! Mình đi hát thì phải tiếp xúc với nhiều người mà ông ấy lại quá ghen…
– Nhạc sĩ Châu Kỳ mất, cô có biết tin không ?
– (ứa nước mắt)… Trước đó ít lâu, tôi có việc đi ngang Hội quán Nghệ sĩ trên đường Trần Quốc Thảo (Q.3), thấy Châu Kỳ ngồi phía bên ngoài. Thấy tôi, Châu Kỳ ngoắc lia lịa : “Bà vào đây chút đã !”. Tôi xua tay : “Tôi mắc công chuyện phải đi gấp !”… Ít lâu sau nghe tin ông ấy mất. Tâm Vấn và Thanh Nhạn gọi điện thoại bảo tôi nên đến viếng ông ấy một chút nhưng tôi bệnh quá không đi được. Để chừng nào tôi khỏe khỏe một chút, tôi với Tâm Vấn sẽ đến thắp cho ông ấy một nén hương……Chia tay người của một thời mà lòng tôi nặng trĩu. Nhan sắc ấy, giọng ca ấy từng khuấy đảo sân khấu ca nhạc cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. Kẻ đưa người đón dập dìu mà nay vò võ còng lưng trong căn nhà chật hẹp. Có tâm sự cũng chẳng biết sẻ chia với ai bởi bên cạnh bà giờ chỉ còn người con gái ngờ nghệch, khật khùng… Anh Trần Áng Sơn bảo thậm chí đến cơm nước bà cũng không thể tự nấu, phải đặt cơm tháng, người ta mang đến nhà cho mẹ con bà… Buồn ghê !
Khi biết tôi có ý định viết về nữ ca sĩ một thời vang bóng Mộc Lan, nhà văn Trần Áng Sơn không nói gì nhưng trao cho tôi bộ Những trang sách khép mở (3 tập). Để bạn đọc hình dung được một Mộc Lan hương sắc của 60 năm về trước, xin trích từ những trang viết của Trần Áng Sơn:
“Khi tôi chưa đầy một tuổi thì mất cha. Mẹ tôi, người đàn bà chân quê không đủ sức nuôi dưỡng, dạy bảo 8 đứa con đang sức ăn sức lớn. Tình cảnh gia đình thật bi đát, 8 anh chị em tôi ở trong tình trạng xẻ nghé tan đàn bất cứ lúc nào… Cuối cùng người lãnh trách nhiệm hy sinh để cứu những đứa em còn quá nhỏ dại là anh hai tôi – anh Long. Anh phải từ bỏ trường học, từ bỏ võ đài – nơi anh ấy đang nổi lên như một võ sĩ quyền Anh trẻ tuổi đầy hứa hẹn.
Anh dắt theo hai chị tôi : chị Ngọc, chị Ngà từ Hải Phòng vào Sài Gòn tha phương cầu thực. Cảnh chia ly ấy diễn ra khi tôi vẫn còn là một đứa trẻ lẫm chẫm tập đi. Tôi lớn dần lên trong cơ cực, trong đạn bom Thế chiến thứ hai, và khi tiếng súng toàn quốc kháng chiến nổi lên cũng là lúc gia đình tôi hoàn toàn bị đứt liên lạc với các anh chị tôi ở Sài Gòn…
Ngày các anh chị rời xa gia đình, tôi còn quá nhỏ nên không hình dung được họ ra sao, nhưng qua lời mẹ tôi kể lại thì các anh chị tôi đều rất đẹp: anh Long cao lớn, đẹp như thầy chúng tôi. Còn chị Ngà (sau này là nữ danh ca Mộc Lan – PV) đẹp như tranh vẽ, mẹ kể da của chị trắng như trứng gà bóc, răng đều tựa như hạt cườm, tay cứ như tay tiên. Tóm lại trong 5 chị gái, chị Ngà tôi đẹp nhất. Tôi giữ hình ảnh đẹp như tranh vẽ của người chị trong tâm hồn như một niềm kiêu hãnh…Một hôm vừa đi học về, tôi ngạc nhiên thấy nhà có khách – một người phụ nữ sang trọng, rất đẹp, cái đẹp sắc như dao cau. Tôi ngỡ ngàng ngộ nhận đó là chị Ngà tôi ở Sài Gòn mới về. Nhưng không phải, người ấy là chị Thanh, chị dâu tôi – vợ anh Long. Đúng là chị về từ Sài Gòn để tìm lại gia đình sau hơn 10 năm thất lạc. Mẹ tôi rất mừng, cơn ác mộng những đứa con thất lạc trong chiến tranh không còn phủ cái bóng ảm đạm lên gia đình tôi nữa.
Mẹ tôi còn cho biết chị Ngà tôi bây giờ đã trở thành ca sĩ nổi tiếng khắp Bắc – Trung – Nam. Chị ấy đang lưu diễn ở Hà Nội theo lời mời của Đài phát thanh Hà Nội cùng với nữ ca sĩ số một của Hà Nội bấy giờ là Minh Đỗ. Tin này đối với tôi thật bất ngờ. Thời thơ ấu khổ cực nhưng tôi luôn giữ hình ảnh người chị đẹp như tranh trong ký ức, chị ấy đã phải rời xa tổ ấm để chia bớt phần ăn cho những đứa em. Thế mà cô gái nghèo ấy sau hơn 10 năm xẻ nghé tan đàn đã trở thành ca sĩ danh tiếng. Tuy chưa biết khi hát chị tôi lấy nghệ danh là gì nhưng tôi tin chắc cái tên phải xứng với sắc đẹp và
giọng hát của chị ấy. Vào thời điểm này (1952), tôi sắp bước sang tuổi mười lăm…Sau chuyến lưu diễn ở Hà Nội, chị Ngà tôi và anh Long về Hải Phòng thăm mẹ và các em sau hơn 10 năm đứt liên lạc. Đúng như mẹ tôi nói, chị tôi đẹp thật, đẹp hơn cả lời miêu tả với tất cả niềm âu yếm của mẹ tôi.
Các anh chị tôi nhìn thấy cảnh mẹ và các em sống quá cơ cực đã đi đến quyết định làm thay đổi cuộc đời tôi. Cuối năm 1952, các anh chị tôi về thăm mẹ lần thứ hai và chuyến bay của hãng Air France cất cánh từ sân bay Gia Lâm đến Huế có tôi bay cùng…
Những ngày đầu ở Huế, tôi sống chung với chị và anh rể – đôi vợ chồng ca nhạc sĩ Mộc Lan – Châu Kỳ trong một căn phòng nhỏ phía sau Ty Thông tin Huế dưới chân cầu Tràng Tiền. Căn phòng quá nhỏ cho một đôi uyên ương quá nổi tiếng ở đất Thần Kinh. Tôi cứ ngỡ đẹp và hát hay như chị tôi thì phải ở trong lâu đài khuê các. Vậy mà thực tế lại như thế này ư? Nó khác xa với hình ảnh rực rỡ của chị tôi khi đứng trên sân khấu cất tiếng hát họa mi làm say mê biết bao tâm hồn mơ mộng, đa tình, trong đó có cả tôi. Tiếng hát của chị tôi nâng tâm hồn tôi bay theo cánh diều căng gió trên bầu trời xanh ngắt…
Anh rể tôi – nhạc sĩ Châu Kỳ khá đẹp trai, giỏi nhạc hát hay, không cao lớn nhưng đứng trên sân khấu không đến nỗi bị khuất lấp bởi sự rực rỡ của chị tôi. Giọng hát của anh chị tôi là một sự tô điểm cho nhau, khi họ song ca, cảnh vật trở nên tưng bừng, lòng người rộn rã. Mặc dù lúc đó ở Huế có cặp song ca nổi tiếng Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết nhưng họ thuộc về một lớp khán giả riêng biệt, khác hẳn với đôi uyên ương Mộc Lan – Châu Kỳ,
họ thuộc về mọi lứa tuổi, mọi thành phần nhưng trước hết là giới trẻ bởi sự trẻ trung của mình và cũng vì nghệ thuật ca hát mới mẻ mà họ cống hiến mỗi khi xuất hiện…Ít lâu sau, anh Long có lệnh gọi nhập ngũ. Anh Châu Kỳ và chị tôi vào Sài Gòn và họ chia tay nhau. Tôi rất buồn vì cuộc chia ly này. Người chị đẹp như tranh của tôi bước chân xuống đời cũng vấp váp như bất kỳ cô gái nào, vì yếu đuối, vì ảo vọng. Thế là Huế để lạc mất con chim họa mi của mình. Liệu có còn ai nhớ đến bản nhạc Đi chơi chùa Hương (thơ Nguyễn Nhược Pháp, Trần Văn Khê phổ nhạc) khi duy nhất thời đó chỉ một ca sĩ hát thành công, đó là chị tôi – Mộc Lan.
Mấy năm sau tôi cũng từ biệt Huế vào Sài Gòn. Tôi lại về sống chung với chị tôi đang trong tình trạng phòng không chiếc bóng. Trên bước đường công danh, chị tôi đã tiến một bước dài. Khác với Thái Thanh, Tâm Vấn, chị tôi bước lên sân khấu như một nữ hoàng. Không sân khấu đại nhạc hội nào vắng bóng chị tôi. Các ban nhạc trên đài phát thanh, các câu lạc bộ, phòng trà, nơi nào cũng muốn có ca sĩ Mộc Lan hiện diện…”.
Giai thoại cuộc tình Đoàn Chuẩn – Mộc Lan
Bấy lâu nay, trong giới nghệ sĩ vẫn lưu truyền có một mối tình thật lãng mạn giữa chàng nhạc sĩ phong lưu Đoàn Chuẩn và nữ ca sĩ lừng danh Mộc Lan. Chuyện tình này mang đậm phong cách hào hoa của “Đoàn công tử”. Thực hư như thế nào chỉ những người trong cuộc mới rõ.
Ở đây chúng tôi xin thuật lại như là một giai thoại. Xuất phát của giai thoại này có lẽ là từ bộ sách Chuyện tình các nhạc sĩ tiền chiến (2 tập) do nhạc sĩ Lê Hoàng Long biên soạn, trong đó có bài viết Gởi gió cho mây ngàn bay nói về cuộc gặp gỡ và lối tỏ tình ly kỳ của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn với ca sĩ Mộc Lan.
Nhiều bài viết (trên báo chí, trên mạng internet) và cả những lời kể hầu như đều dựa theo những tình tiết mà nhạc sĩ Lê Hoàng Long đã viết. Người viết bài này cũng đã từng gặp gỡ những người trong cuộc (Lê Hoàng Long, Mộc Lan, Châu Kỳ) chỉ trừ nhạc sĩ Đoàn Chuẩn (do ông ở ngoài Bắc và nay đã mất).Cuối năm 2002, khi thực hiện bài phỏng vấn tác giả ca khúc Gợi giấc mơ xưa tại tư gia của ông ở đường Cách Mạng Tháng Tám (gần Bệnh viện Thống Nhất – ngã tư Bảy Hiền), nhạc sĩ Lê Hoàng Long có tặng cho người viết bộ Chuyện tình các nhạc sĩ tiền chiến, do đó mới “thắc mắc” chuyện tình cảm giữa nữ danh ca sắc nước hương trời Mộc Lan và “Ông hoàng nhạc tình” Đoàn Chuẩn.
Như chúng tôi đã từng nói đến, nữ ca sĩ Mộc Lan nổi tiếng cả nước với bài hát Đi chơi chùa Hương của nhạc sĩ Trần Văn Khê phổ thơ Nguyễn Nhược Pháp. Bài hát này có những đoạn xen kẽ giữa hát và nói thơ cho nên rất dài và kén người hát. Dạo ấy (đầu những năm 1950), bài hát này hầu như chỉ có Mộc Lan độc diễn. Nàng là người gốc Hải Phòng nhưng vào Sài Gòn khá sớm (khoảng cuối thập niên 1940), lập gia đình với ca sĩ kiêm nhạc sĩ Châu Kỳ, rồi về quê chồng ở cố đô Huế sinh sống. Tuy nhiên, thỉnh thoảng nàng vẫn được mời đi lưu diễn, kể cả ra Bắc (sau năm 1954, chia đôi đất nước mới cách ngăn sự đi lại giữa hai miền). Và trong một lần hát Đi chơi chùa Hương ở Nhà hát Lớn (Hà Nội), giọng ca và sắc đẹp của nàng đã khiến một anh chàng đẹp trai, tài hoa và phong lưu bậc nhất thời đó ngây ngất. Chàng chính là nhạc sĩ Đoàn Chuẩn…
Thời ấy ở miền Bắc có những sản vật nổi tiếng được truyền khẩu và trở thành “ca dao, thành ngữ”: “Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét” (dưa của làng La, cà của làng Láng, nem do làng Báng gói, tương do làng Bần làm, nước mắm của hãng Vạn Vân, cá rô sống ở Đầm Sét mới là món ngon đích thực).
Đoàn Chuẩn chính là con của chủ hãng nước mắm Vạn Vân giàu có nức tiếng ở Hải Phòng. “Cái nết” ăn chơi của Đoàn công tử cũng là đề tài râm ran từ Hải Phòng đến tận Hà Nội (có lẽ chỉ thua bậc tiền bối là công tử Bạc Liêu ở trong Nam mà thôi). Chàng có hai thú đam mê, đó là âm nhạc và… ô tô! Về âm nhạc, ông từng học đàn guitar với nhạc sĩ Nguyễn Thiện Tơ và học guitar Hawaii với nhạc sĩ Wiliam Chấn. Sáng tác đầu tay của ông là ca khúc Ánh trăng mùa thu (1947) ký tên Đoàn Chuẩn – Từ Linh (kể cả sau này, tất cả tác phẩm của Đoàn Chuẩn đều ký tên Đoàn Chuẩn – Từ Linh. Nhiều người cho rằng đến nay Từ Linh vẫn là một ẩn số, nhưng theo tìm hiểu của người viết thì Từ Linh tên thật Hà Đình Thâu,
vốn là nhiếp ảnh gia và là em ruột một người bạn thân của Đoàn Chuẩn. Người được nhạc sĩ chia sẻ từng bản nhạc khi vừa viết xong cũng như trút hết bầu tâm sự về những bóng hồng đi qua đời mình. Sau 1954, Từ Linh vào Nam và mất năm 1992.Một tình bạn “tri âm, tri kỷ” rất đáng trân trọng. Về ô tô thì vào thời điểm đó ông có đến 6 chiếc, trong đó có chiếc Ford Frégatte (cả Việt Nam chỉ có 2 chiếc của ông và… Thủ hiến Bắc kỳ). Tài tử Ngọc Bảo, người cùng thời với nhạc sĩ đồng thời là giọng hát được coi là hát nhạc Đoàn Chuẩn thành công nhất từng thú nhận: “Tôi là tay ăn chơi có hạng nhất Bắc kỳ nhưng còn thua xa người lịch lãm, hào hoa Đoàn Chuẩn”… Đoàn Chuẩn kết hôn từ rất sớm (năm 1942), vợ ông là cô bạn cùng lớp, cùng 18 tuổi – tên Xuyên, đẹp người đẹp nết, chịu đựng sự hào hoa của chồng cũng như chung thủy chăm sóc ông cho đến cuối đời một cách rất đáng khâm phục…
Trở lại với sự kiện sau khi nghe nữ danh ca Mộc Lan hát Đi chơi chùa Hương ở Nhà hát Lớn (Hà Nội), “Đoàn công tử” quyết tâm chinh phục người đẹp nhưng thời gian nàng lưu lại Hà thành quá ngắn, không đủ thời gian cho công tử “xuất chiêu”. Khi Mộc Lan trở về Sài Gòn thì ít lâu sau chàng cũng đáp máy bay theo vào. Nhưng rồi qua dọ hỏi, chàng lâm vào tình trạng bẽ bàng khi biết được cành lan kia đã có chủ, nàng đã là vợ của nhạc sĩ Châu Kỳ. Tuy thế với cách “chơi ngông công tử”, Đoàn Chuẩn đã đặt một khoản tiền rất lớn cho một tiệm hoa, để mỗi buổi sáng người đẹp sẽ nhận được một bó hoa hồng tươi thắm mà không hề có tên người gửi tặng.
Suốt 3 tuần đều đặn như thế, Mộc Lan không khỏi xúc động cũng như rất tò mò muốn biết người tặng hoa “mai danh ẩn tích” kia là ai? Nghĩ hết cách, nàng đành phải nhờ chủ tiệm hoa chuyển tới người ấy một bức thư cảm ơn với những lời lẽ chân thành nhưng cũng có những đoạn đầy ẩn ý. Được sự đồng ý của Đoàn Chuẩn,
người chủ tiệm hoa đã tiết lộ tên và địa chỉ của “gã tình si hào hoa” – chính là… “Ông vua slow” Đoàn Chuẩn vang danh khắp nước.Mộc Lan thật bất ngờ và xúc động. Đoàn Chuẩn lại tiếp tục gửi tiền vào để tiệm hoa đều đặn tặng hoa cho nàng trong suốt hai tháng nữa… Rồi một ngày, Mộc Lan nhận được một cánh thư gửi từ phương Bắc. Trong phong bì không phải là những lời tỏ tình yêu thương mà là một bài hát. Khuông nhạc được kẻ bằng tay cẩn thận, ca từ được viết nắn nót trên tờ giấy pơ-luya xanh mỏng tang : “Gởi gió cho mây ngàn bay. Gởi bướm đa tình về hoa. Gởi thêm ánh trăng, màu xanh lá thư về đây với thu trần gian…”. Và dường như Đoàn Chuẩn cũng nhận biết đây là mối tình vô vọng nên lời ca càng trở nên da diết: “Nhưng thôi tiếc mà chi, chim rồi bay, anh rồi đi. Đường trần quên lối cũ, người đời xa cách mãi. Tình trần không hàn gắn thương lòng…”.
Cũng theo nhạc sĩ Lê Hoàng Long thì nhạc sĩ Đoàn Chuẩn còn viết Gởi người em gái (tựa cũ Gởi người em gái miền Nam) tặng riêng cho… ca sĩ Tâm Vấn (bạn thân của Mộc Lan). Người viết đã có may mắn được gặp bà Tâm Vấn trong một cuộc triển lãm tranh ở đường Lê Thánh Tôn (Q.1), bèn đánh bạo hỏi bà chuyện này. Bà cười xòa: “Không, ông ấy làm bài này là để tặng cho Mộc Lan, bạn tôi”. (theo Hà Đình Nguyên) – Còn 1 kỳ nữa – đón đọcThân Bình chuyển tiếp
Chuyện tình buồn của nhạc sĩ Châu Kỳ: 'Đừng nói xa nhau cho tâm hồn đau khổ'
Năm 1947, chàng nghệ sĩ lãng tử Châu Kỳ rời bỏ đoàn Hồng Thu của bà chị ruột ở Huế để vào Sài Gòn. Một năm sau, nàng thiếu nữ tài sắc Phạm Thị Ngà của đất cảng Hải Phòng cũng đặt chân dến Sài Gòn. Nàng tập tễnh đi hát và được nhạc sĩ Lê Thương đặt cho nghệ danh Mộc Lan. Họ gặp và quấn quýt lấy nhau...
Khúc ly ca…
Sau khi lấy nhau, Châu Kỳ đưa vợ về Huế ra mắt họ hàng. Được ông Thái Văn Kiểm - giám đốc Nhà Thông tin và Đài Phát thanh Huế nâng đỡ tạo điều kiện cho cả hai vợ chồng được hát thường xuyên trên đài với mức lương rất hậu hỉ. Ở Huế, danh tiếng của cặp Châu Kỳ - Mộc Lan nổi như cồn, cho dù ở đây đã có vợ chồng Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết “cát cứ” nhưng cặp uyên ương này lúc đó chỉ hát những bài hát mang về từ chiến khu: Lời người ra đi, Sơn nữ ca (Trần Hoàn), Gạo trắng trăng thanh, Trăng rụng xuống cầu (Hoàng Thi Thơ)... nên họ có một lượng khán giả riêng, không ảnh hưởng gì tới hoạt động âm nhạc của Châu Kỳ - Mộc Lan. Cuộc sống tưởng như vậy đã quá đủ cho đôi vợ chồng son. Nhưng...
Cuộc sống vợ chồng của họ chỉ kéo dài khoảng 6 năm rồi chia tay. Có nhiều nguyên nhân, mà nguyên nhân sâu xa có lẽ là "con chim quý phải ở lầu son” trong khi cái “tổ ấm” của họ chỉ là "... một căn phòng nhó phía sau Công ty Thông tin Huế dưới chân cầu Tràng Tiền. Căn phòng quá nhỏ cho một đôi uyên ương quá nổi tiếng ở đất Thần Kinh. "Tôi cứ ngỡ đẹp như chị tôi, hát hay như tiên nữ như chị tôi phải ở trong lâu đài khuê các. Hiện tại là thế này ư? Nó khác xa với hình ảnh rực rỡ của chị tôi khi đứng trên sân khấu cất tiếng hát họa mi làm say mê biết bao tâm hồn mơ mộng, đa tình, trong đó có cả tôi...” (trích trong Những trang sách khép mở- Trần Áng Sơn). Phải chăng đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho cuộc hôn nhân của họ mau chóng đổ vỡ?
Sinh thời nhạc sĩ Châu Kỳ đã từng nhiều lần tâm sự với ngưòi viết: "Họ chung sống ở Huế được 6 năm thì nàng "phải lòng” và đi lại với một người bạn học cũ của Châu Kỳ - người này là con của một bà chúa (hoàng tộc), chủ sòng xóc đĩa ở Kim Long (Huế). Vì chuyện đau lòng này mà Châu Kỳ đành dắt vợ trở vào Sài Còn đế giấu nhẹm không cho gia đình mình biết và cũng để ngăn trở đôi tình nhân, không cho họ gần gũi... Tuy nhiên, Châu Kỳ vẫn không ngờ tình địch vẫn bám theo, ở Sài Gòn, đôi nhân tình vẫn hẹn hò, gặp gỡ nhau... Lời ong tiếng ve râm ran nên Châu Kỳ quyết theo dõi vợ. Ông nhờ nhà thơ Đặng Văn Nhân (người đứng ra tổ chức đám cưới cho Châu Kỳ và nàng) chở đi bằng xe hơi bám theo nàng vào tận Chợ Lớn.
Châu Kỳ không đủ can đảm chứng kiến người đã từng cùng mình "hương lửa mặn nồng” nay lại ở trong vòng tay người khác nên nhờ ông Đặng Văn Nhân đi bộ theo dõi, còn mình ngồi lại trong xe. Khi ông Nhân trở ra kể lại sự tình, Châu Kỳ thấy trời đất như sụp đổ, ông tông cửa xe, định đâm đầu xuống sông tự tử, may nhờ có ông Nhân ôm ghì lại. Rồi...‘‘uống rượu cho đến ngày nay”. Người viết hỏi: “Rồi ông có gặp lại nàng?”. “Có, nhưng mà cũng lâu lắm rồi. Đó là hôm đám tang nhạc sĩ Lê Thương (1996 - NV). Chúng tôi chỉ chào hỏi xã giao. Không nói chuyện gì nhiều. Chuyện cũ cũng đã vời xa quá rồi!”
Chuyện trên là do đích thân nhạc sĩ kể với nguời viết.
Đây là giai đoạn đầy những đau thương, u uất chất chứa trong nhiều ca khúc của Châu Kỳ: Từ giã kinh thành, Khúc ly ca, Đàn không tiếng hát, Tiếng hát dân Chàm, Biệt kinh kỳ, Khuya nay anh đi rồi, Tìm nhau trong kỷ niệm, Hương Giang tôi còn chờ, Đừng nói xa nhau, Tiếng ca đó về đâu? (thơ Nguyễn Tiến Thịnh) và nhất là ông đặt lời cho ca khúc Mưa rơi của anh bạn nhạc sĩ Ưng Lang, lúc đó ở Huế đã xảy ra "hiện tượng” đi đâu cũng nghe thanh niên hát: "Mưa rơi chiều nay vắng người. Bên thềm gió lơi. Mơ bóng ngàn khơi... Mưa rơi màn đêm xuống rồi. Mây sầu khắp nơi. Thương nhớ đầy vơi... Ai đi như xóa bao lời thề. Thuyền theo nước trôi không về, thấu cùng lòng ai não nề, riêng chốn phòng khuê... Mưa rơi đìu hiu duới trời. Đêm dài vắng ai. Thương nhớ nào nguôi..."
Nhạc sĩ Ưng Lang (sinh năm 1919, lớn hơn nhạc sĩ Châu Kỳ 4 tuổi), cũng vốn là chỗ thân thiết với người viết (ông từ trần ngày 17/8/2009 tại TP.HCM). Khi tôi hỏi ông về chuyện nhạc sĩ Châu Kỳ đặt lời cho bài Mưa rơi, ông nói: “Bài hát tôi làm lúc đó đã xong cả nhạc lẫn lời. Thế rồi Mộc Lan xa Châu Kỳ mà đi Hà Nội. Châu Kỳ có tâm sự buồn như vậy cho nên khi thấy bài hát của tôi thì đề nghị cho thay đổi vài chỗ trong lời hát cho gần với cảnh ngộ của mình! Tôi đồng ý để Châu Kỳ sửa vài chỗ như thế và đồng ý để Châu Kỳ đứng tên nơi phần lời ca cho đúng với nguyện vọng về mặt tình cảm riêng tư của anh ấy...”.
Giai thoại Đoàn Chuẩn - Mộc Lan
Lâu nay, trong giới nghệ sĩ vẫn lưu truyền có một mối tình thật lãng mạn giữa chàng nhạc sĩ phong lưu Đoàn Chuẩn và nữ ca sĩ lừng danh Mộc Lan. Chuyện tình này mang đậm phong cách hào hoa của “Đoàn công tử”.
Thực hư như thế nào chỉ những người trong cuộc mới rõ. Ở đây chúng tôi xin thuật lại như là một giai thoại...
Những năm đầu thập niên 50 của thế kỷ trước, ca sĩ Mộc Lan tuy đã lập gia đình với nhạc sĩ Châu Kỳ nhưng thỉnh thoảng nàng vẫn được mời đi lưu diễn, kể cả ra Bắc (sau năm 1954, chia đôi đất nước mới cách ngăn sự đi lại giữa hai miền). Và trong một lần hát Đi chơi chùa Hương ở Nhà Hát Lớn (Hà Nội), giọng ca và sắc đẹp của nàng đã khiến một anh chàng đẹp trai, tài hoa và phong lưu bậc nhất thời đó ngây ngất. Chàng chính là Đoàn Chuẩn...
Thời ấy ở miền Bắc có những sản vật nổi tiếng được truyền khẩu: “Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét”. Đoàn Chuẩn chính là con của chủ hãng nưóc mắm Vạn Vân giàu có nức tiếng ở Hải Phòng. "Cái nết” ăn chơi của Đoàn công tử cũng là đề tài râm ran từ Hải Phòng đến tận Hà Nội (có lẽ chỉ thua bậc tiền bối là Công tử Bạc Liêu ở trong Nam mà thôi).
Trở lại với sự kiện sau khi nghe nữ danh ca Mộc Lan hát Đi chơi chùa Hương ở Nhà Hát Lớn (Hà Nội), "Đoàn công tử” quyết tâm chinh phục người đẹp nhưng thời gian nàng lưu lại Hà thành quá ngắn, không đủ thời gian cho công tử "xuất chiêu”. Khi Mộc Lan trở về Sài Gòn thì ít lâu sau chàng cũng đáp máy bao theo vào. Nhưng rồi qua dọ hỏi, chàng lâm vào tình trạng bẽ bàng khi biết được cành lan kia đã có chủ, nàng đã là vợ của nhạc sĩ Châu Kỳ. Tuy thế với cách “chơi ngông công tử”, Đoàn Chuẩn đã đặt một khoản tiền rất lớn cho một tiệm hoa, để mỗi buổi sáng người đẹp sẽ nhận được một bó hoa hồng tươi thắm mà không hề có tên ngưòi gửi tặng. Suốt 3 tuần đều đặn như thế, Mộc Lan không khỏi xúc động cũng như rất tò mò muốn biết người tặng hoa “mai danh, ẩn tích” kia là ai?
Nghĩ hết cách, nàng đành phải nhờ chủ tiệm hoa chuyển tới người ấy một bức thư cám ơn với những lời lẽ chân thành nhưng cũng có những đoạn đầy ấn ý. Được sự đồng ý của Đoàn Chuẩn, người chủ tiệm hoa đã tiết lộ cho nàng biết tên và địa chỉ của "gã tình si hào hoa” - chính là... "ông vua Slow” Đoàn Chuẩn vang danh khắp nước. Mộc Lan thật bất ngờ và xúc động. Đoàn Chuẩn lại tiếp tục gửi tiền vào để tiệm hoa đều đặn tặng hoa cho nàng trong suốt hai tháng nữa... Rồi một ngày, Mộc Lan nhận được một cánh thư gửi từ phương Bắc. Trong phong bì không phải là những lời tỏ tình yêu thương mà là một bài hát. Khuông nhạc được kẻ bằng tay cẩn thận, ca từ được viết nắn nót trên tờ giấy pơ-luya xanh mỏng tang - đó là bài Gửi gió cho mây ngàn bay.
Nhiều ý kiến còn cho rằng, ca khúc Gửi nguời em gái (tựa cũ Gởi người em gái miền Nam) là Đoàn Chuẩn làm tặng riêng cho Mộc Lan... Nhưng, như đã nói - chỉ có những nguời trong cuộc mới biết chuyện của họ...
Hà Hải Lăng
Thể thao ngày nay
[ Bản in]
-Thứ tư, ngày 11/12/2013 10:40 GMT+7
Cố nhạc sĩ Hoàng Quý là người Hải Phòng, sinh năm 1920. Ông là người yêu văn nghệ từ nhỏ nhưng không có tiền đi học nên thường leo tường nhìn vào vũ trường, vừa xem vừa học lỏm. Cuộc sống của ông khá chật vật, năm 16 tuổi, thân mẫu qua đời, là anh cả nên Hoàng Quý phải cáng đáng mọi việc, kể cả nuôi dạy, chăm lo cho các em. Ông sớm giác ngộ cách mạng, là một trong số rất ít nhạc sĩ tiên phong sáng tác hùng ca, lịch sử và nhạc cho thanh niên. Mặc dù là tác giả của nhiều ca khúc nổi tiếng nhưng nhắc đến Hoàng Quý, mọi người đều nhớ đến nhạc phẩm Cô láng giềng. Bài hát gắn liền với tên tuổi của ông khởi nguồn từ một chuyện tình buồn.
Chuyện kể rằng, người con gái ấy có dung nhan mĩ miều. Cô được tôn vinh là hoa khôi của phố Cảng bấy giờ, không đếm xuể người si mê, thương thầm nhớ trộm. Hoàng Quý gặp cô như có sự an bài, đôi trai tài, gái sắc sớm dìu nhau đi vào cuộc tình thơ mộng. Dù vậy, Hoàng Quý vốn kín đáo, chuyện tình của ông hầu như không ai hay biết. Mỗi lần hẹn hò, họ lại thường đưa nhau ra ngoại ô nên người thân chẳng ai bắt gặp cặp đôi sánh vai bao giờ. Cô láng giềng là người trọng tài, lại mến phục tính nết biết hy sinh, lo lắng của người yêu nên lúc đó, dẫu có nhiều công tử con nhà giàu, quyền thế chức sắc trọng vọng theo đuổi vẫn một lòng yêu thương Hoàng Quý.
Được một thời gian, ông đã phải chia tay với "bóng hồng" của mình để bí mật tham gia Mặt trận Việt Minh, đi hoạt động cách mạng. Thỉnh thoảng ghé thăm nhà, ông có đến gặp người tình cho thỏa lòng nhung nhớ, để rồi sau đó lại lặng lẽ rời xa, dấn thân theo tiếng gọi quê nhà: Hôm nay trời xuân bao tươi thắm/Dừng gót phiêu linh về thăm nhà/Chân bước trên đường đầy hoa đào rơi/ Tôi đã hình dung nét ai đang cười/Tôi mơ trời xuân bao tươi thắm/ Đôi mắt trong đen màu hạt huyền/Làn tóc mây chiều cùng gió ngàn dâng sóng/Xao xuyến nỗi niềm yêu...
Nhưng rồi, cuộc tình đẹp đó đã nhanh chóng tàn phai khi người con gái xinh tươi như hoa kia đã không chịu được cảnh cô đơn, chờ đợi. Cô láng giềng đã phụ tình người nghệ sĩ tài hoa, nghèo khó để chạy theo một kẻ thứ ba – vốn giàu sang nhung lụa săn đón cô nhiệt tình.
Ngày tổng khởi nghĩa, 19-8-1945, Hoàng Quý bất ngờ trở về. Ông vẫn chẳng hề hay biết người tình đã bạc lòng thay đổi. Nhưng, cái kim giấu kĩ trong bọc lâu ngày cũng lòi ra huống chi cả một sự gian dối lớn. Người con gái của Hoàng Quý đã quyết tâm sang ngang, ở một bến khác: Trước ngõ vào thôn vang tiếng pháo/ Chân bước phân vân lòng ngập ngừng/ Tai lắng nghe tiếng người nói cười xôn xao/ Tôi biết người ta đón em tưng bừng...
Có nỗi đau nào hơn khi một người tình si bị phụ bạc; khi lời hẹn ước đợi chờ bên hàng tường vi hôm nào vẫn còn vẳng bên tai: Đành lòng nay tôi bước chân ra đi/Giơ tay buồn hái bông hồng tường vi/Ghi chút tình em nói chờ đợi tôi/Đừng nói tới phân ly.
Hoàng Quý không nguôi nhớ về ngày xưa thân ái, nỗi buồn càng thấm đượm trong tim, những câu ca xuất tự đáy lòng: Cô láng giềng ơi/ Không biết cô còn nhớ đến tôi/ Đến phút êm đềm ngày xưa kia/ Khi còn ngày thơ… Cô láng giềng ra đời trong hoàn cảnh ấy, trở thành nhạc phẩm bất hủ với thời gian.
Năm 1946, Hoàng Quý mắc bệnh nan y, ông vẫn không sao quên được cuộc tình đẹp phút chốc như khói mây ngang trời. Nửa năm sau, ông trút hơi thở cuối cùng, hưởng dương 26 tuổi. Trước phút lâm chung, người cũ có tìm đến xin thăm nhưng không được ông chấp thuận, vì lòng từ lâu đã coi như chết một cuộc tình. Hoàng Quý không muốn nhìn người phụ bạc, dù chỉ một lần thôi. Dù vậy, trong suốt mấy ngày diễn ra tang lễ, người ta có nhìn thấy cô láng giềng của Hoàng Quý đi lẫn trong đám đông đến tận phần mộ để ném được một hòn đất xuống. Cô đau xót vĩnh biệt con người cao quý từng hết mực yêu thương mình bằng tất cả niềm hối hận và tiếc thương sâu xa…
Cô láng giềng
Sáng tác: Hoàng Quý
Hôm nay trời xuân bao tươi thắm.
Dừng gót phiêu linh về thăm nhà.
Chân bước trên đường đầy hoa đào rơi
Tôi đã hình dung nét ai đang cười.
Tôi mơ trời xuân bao tươi thắm.
Đôi mắt trong đen màu hạt huyền,
Làn tóc mây chiều cùng gió ngàn dâng sóng
Xao xuyến nỗi niềm yêu...
Cô láng giềng ơi!
Không biết cô còn nhớ đến tôi.
Giây phút êm đềm ngày xưa kia khi còn ngây thơ.
Cô láng giềng ơi!
Tuy cách xa phương trời, tôi không hề.
Quên bóng ai bên bờ đường quê
Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về.
Năm xưa khi tôi bước chân ra đi.
Đôi ta cùng đứng bên hàng tường Vi.
Em nói rằng em sẽ chờ đợi tôi.
Đừng nói đến phân ly.
Cô láng giềng ơi!
Nay bóng hoa bên thềm đã thắm rồi.
Chân bước vui bên bờ đường quê.
Em có hay chăng giờ tôi về...
Trước ngõ vào thôn vang tiếng pháo.
Chân bước phân vân lòng ngập ngừng.
Tai lắng nghe tiếng người nói cười xôn xao.
Tôi biết người ta đón em tưng bừng.
Tan mơ trời xuân đôi môi thắm.
Đôi mắt nhung đen màu hạt huyền.
Làn tóc mây chiều cùng gió ngàn dâng sóng.
Tan vỡ cuộc tình duyên...
Cô láng giềng ơi!
Thôi thế không còn nhớ đến tôi.
Đến phút êm đềm ngày xưa kia, khi còn ngây thơ.
Cô láng giềng ơi!
Tuy cách xa phương trời tôi không hề,
Quên bóng ai bên bờ đường quê.
Đôi mắt đăm đăm tìm phương về.
Đành lòng nay tôi bước chân ra đi.
Giơ tay buồn hái bông hồng tường vi.
Ghi chút tình em nói chờ đợi tôi,
Đừng nói tới phân ly.
Cô láng giềng ơi!
Nay mối duyên thơ đành đã lỡ rồi.
Chân bước xa xa dần miền quê.
Ai biết cho bao giờ tôi về...
DƯƠNG THIỆU TƯỚC - NHẠC SĨ KHAI PHÁ DÒNG NHẠC VIỆT
Thứ sáu, 04/11/2011
Những năm đầu của thập niên 1930 văn hóa Âu Châu, nhất là của Pháp ồ ạt xâm nhập Việt Nam . Các nhà văn hóa, văn nghệ Việt Nam cũng bắt đầu chuyển hướng. Về lĩnh vực văn chương có nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Về mỹ thuật có trường Cao Đẳng Mỹ Thuật được mở năm 1926.
Về âm nhạc thì các nhạc sĩ VN thời đó một phần chịu ảnh hưởng của âm nhạc Pháp nhưng mặt khác họ cố tìm một đường hường mới để không bị nhạc Tây „lấn át". Năm 1938 báo Ngày Nay kêu gọi các nhạc sĩ Việt Nam khi viết nhạc Cải Cách nên cố gắng giữ hồn Việt Nam. Một trong các nhạc sĩ tham gia hưởng ứng kêu gọi đó là Dương Thiệu Tước.
Dương Thiệu Tước sinh ngày 14.01.1915. là một nhạc sĩ tiền chiến nổi tiếng và được coi là một trong những nhạc sĩ tiền phong của tân nhạc Việt Nam.
Quê ông ở làng Vân Đình, quận Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây). Xuất thân từ một giòng họ khoa bảng. Ông là cháu nội cụ Dương Khuê (1836-1898). Cụ đỗ Tiến Sĩ và làm quan dưới triều Nguyễn. Cụ cũng là một nhà thơ có tiếng trong văn học Việt Nam. Thân phụ ông là cụ Dương Tự Nhu làm Bố Chánh tỉnh Hưng Yên.
Thuở nhỏ ông học ở Hà Nội, trong thập niên 1930 ông gia nhập nhóm nghệ sĩ tài tử Myosotis (Hoa lưu ly) gồm Thẩm Oánh, Lê Yên, Vũ Khánh... Dương Thiệu Tước cũng là người có sáng kiến soạn nhạc "bài Tây theo điệu ta", những nhạc phẩm đầu tay của ông thường được viết bằng tiếng Pháp. Mặc dù theo học nhạc Tây, nhưng nhạc của ông vẫn thắm đượm hồn dân tộc.
Mang máu nghệ sĩ trong người, ông chọn con đường âm nhạc ngay từ lúc ấu thơ. Có cái may là cụ Dương Tự Nhu là người trọng văn học, không coi âm nhạc là "xướng ca vô loại", nên ông đã được khuyến khích học nhạc từ lúc còn nhỏ. Cụ Nhu mua cho ông đàn Nguyệt lúc ông 7 tuổi. Ngoài đàn Nguyệt ông còn học thêm đàn Tranh tại các bậc thầy miền Trung. Đến lúc 14 tuổi, ông bắt đầu chú ý đến nhạc Tây Phương và chuyển qua học đàn dương cầm với một thầy người Pháp. Lúc 16 tuổi ông học thêm lục huyền cầm (tây ban cầm), nhạc cụ sở trường của ông. Sau này ông trở thành một cây đàn guitar có hạng tại Việt Nam và đồng thời là giáo sư tại Viện Quốc Gia Âm Nhạc Việt Nam dạy đàn này cho vô số các nhạc sĩ của thế hệ sau. Ngoài tây ban cầm ông còn tự học thêm đàn Hạ Uy Di. Cũng như ông, các nhạc sĩ Việt Nam cùng thời đều tự học, mua sách của Pháp về rồi tự học hay học hỏi lẫn nhau. Họ đều không có cơ hội theo học tại trường âm nhạc nào.
Mặc dù học nhạc, kỹ thuật sáng tác nhạc Tây Phương, nhưng các tác phẩm của ông vẫn đượm hồn dân tộc, đúng như báo Thời Nay lúc đó kêu gọi. Trong một ấn phẩm viết tay, ông ngỏ ý: "Theo tôi, tân nhạc Việt Nam phải thể hiện rõ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này, người sáng tác phải hiểu rõ nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như hát được các điệu hát cổ truyền".
Các nhà phê bình nhạc cho rằng ý nghĩ này đã được thể hiện rõ trong các tác phẩm Tiếng Xưa và Đêm Tàn Bến Ngự . Theo các nhà khoa học nghiên cứu âm nhạc thì bài Đêm Tàn Bến Ngự được viết dựa theo các điệu Nam Bình, Nam Ai nổi bật cá tính của Huế. Những sáng tác khác của ông trong những năm cuối thập niên 1940, đầu thập niên 1950 phải kể Kiếp Hoa, Áng Mây Chiều, Nhạc Ngày Xanh, Dưới Nắng Hồng, Xuân Mới, Thiếu Niên Xuân Khúc Ca, Thuyền Mơ, Đêm Tàn Bến Ngự ...
Theo Phùng Quốc Thụy nhận xét, Dương Thiệu Tước "là người có dáng vẻ rụt rè ít nói, không ưa sự phô trương ầm ỹ, nhưng lại là người sốt sắng nhất trong việc xây dựng, cổ động, phổ biến nền tân nhạc mới hình thành, với mọi hình thức: sáng tác, biểu diễn, xuất bản, đào tạo, lý luận, phê bình“. Ông cũng viết các bài tham khảo cho tập san VIỆT NHẠC. Ông thành lập Hội KHUYẾN NHẠC cùng với nhạc sĩ Thẩm Oánh để cổ động và phổ biến nền Tân Nhạc Việt Nam. Cũng cùng với Thẩm Oánh ông thành lập ban nhạc đặt tên là MYOSOTIS (Hoa Lưu Ly). Ban nhạc thường chỉ chơi tại nhà riêng, rất ít khi trình diễn nơi công cộng.
Năm 19 tuổi, ông lập gia đình với bà Lương Thị Thuần và có được 3 gái và 2 trai.
Năm 1940, lúc đó ông 25 tuổi, ông mở cửa hiệu bán và sửa chữa đàn tại 57 Hàng Gai, Hà Nội. Cửa hàng sau đó phải đóng vì chiến tranh. Những sáng tác của Dương Thiệu Tước trong thời điểm này phải kể Ngọc Lan, Chiều, Bóng Chiều Xưa....
Năm 1954 lúc đất nước chia đôi, ông vào Sài Gòn sinh sống. Tại đây, ông thành hôn với Bà Minh Trang, xướng ngôn viên và ca sĩ của Đài Pháp Á. Ông và Bà Minh Trang có thêm 4 gái và 1 trai. Từ giữa thập niên 60 qua thập niên 70 trở đi ông bớt sáng tác. Tác phẩm có tiếng phải kể lúc này là Ơn Nghĩa Sinh Thành.
Tại Sài Gòn, ông làm Chủ Sự phòng văn nghệ tại Đài Phát Thanh Sài Gòn đồng thời được mời làm giáo sư dạy Tây Ban cầm tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc. Đã cả chục năm trôi qua nhưng vẫn ấp ủ ý nguyện hội nhập cá tính và hồn Việt Nam vào tân nhạc, ông cho ra đời một chương trình có tên là CỔ KIM HÒA ĐIỆU, phát thanh thường xuyên tại đài Phát Thanh Sài Gòn những năm cuối thập niên 1950. Trong chương trình này ông xử dụng cả hai nhạc cụ Tây Phương và cổ truyền Việt Nam để trình diễn tân nhạc Việt.
Biến cố 30.04.1975 đánh dấu một khúc quanh trọng đại trong sự nghiệp của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Các tác phẩm của ông bị coi là nhạc lãng mạn, ủy mị nên bị cấm phổ biến, không ai được trình diễn nhạc của ông. Ông cũng ngưng dậy học tai trường Quốc Gia Âm Nhạc. Ít lâu sau đó Bà Minh Trang cùng con cái sang Hoa Kỳ. Ông ở lại Sài Gòn. Bà Lương Thị Thuần, năm 1979 đã qua CHLB Đức đoàn tụ với gia đình người con trai cả của bà.
Đầu thập niên 1980 ông về chung sống với Bà Nguyễn Thị Nga tại quận Bình Thạnh, nguyên là một học trò của ông lúc bà theo học đàn guitar tại Trường Quốc gia âm nhạc. Bà Nga, một phụ nữ có tư cách, đứng đắn, mẫu mực, đảm đang, hết lòng lo lắng, chăm sóc cho ông lúc tuổi xế chiều. Không những là một danh cầm về đàn lục huyền cầm Guitar, bà còn là một giáo sư dậy Anh ngữ tại Sàigòn. Năm 1983 ông có thêm một con trai với bà Nga.
Những năm tháng cuối cùng cuộc đời ông, ông sống rất đạm bạc. Đến ngày 01.08.1995 ông đã vĩnh viễn ra đi, hưởng thọ 80 tuổi.
DƯƠNG THIỆU TƯỚC VÀ MINH TRANG
Như một định mệnh, cô bé Nguyễn thị Ngọc Trâm chào đời ngày 18 tháng 8 năm 1921 tại một nhà hộ sinh nằm ngay trên Bến Ngự, thành phố Huế. Hai mươi lăm năm sau, một khúc hát bất hủ mang tên "Đêm Tàn Bến Ngự" ra đời, được viết nên bởi một nhạc sĩ tài hoa, đã gắn liền với tên cô , ngày nay đã trở thành một danh ca mang tên Minh Trang. Tác giả bản nhạc đó là Dương Thiệu Tước, cũng là người chồng sau này của cô, cả hai đã tạo nên một gia đình âm nhạc và để lại cho thế gian những tình khúc bất tử.
Ở Huế vào cuối thế kỷ 19, người ta biết nhiều tới Mỹ Lương Công Chúa hay Bà Chúa Nhứt, là chị ruột của Vua Thành Thái. Bà là người giòng giõi nhưng không câu nệ, tính rất nghệ sĩ. Trong nhà bà Chúa có nuôi hẳn một ban hát tới mấy chục người và có riêng một ban ca Huế. Vị công chúa đó là bà ngoại của ca sĩ Minh Trang, do đó khi lớn lên, vì thân phụ là cụ Nguyễn Hy nhiều khi phải đáo nhậm những nhiệm sở xa, bà Minh Trang có dịp được gần gũi với bên ngoại. Nhờ những âm thanh ca Huế thấm nhuần vào tâm hồn trong tuổi ấu thơ, mới bảy tám tuôåi, bà đã thuộc những bài cổ nhạc, ca Huế như những khúc Nam Ai, Nam Bình, Kim Tiền, Lưu Thủy...Tuy nói giọng Quảng vì thân phụ bà là gốc người Quảng Ngãi, chất Huế trong người bà đã khiến cho bà hát bản "Đêm Tàn Bến Ngự" một cách dễ dàng như chính tác giả đã viết bài này ra để dành riêng cho cho bà, người ca sĩ, đó là Minh Trang.
Lớn lên trong khung cảnh của một danh gia vọng tộc một thời ở đất thần kinh, cũng như những gia đình khác có lẽ tân nhạc vẫn còn là một điều gì mới mẻ, tuy vậy bà Minh Trang là người sớm hấp thụ nền văn hóa tây phương. Lúc nhỏ bà theo học trường Jeanne d' Arc, một trường giòng danh tiếng ở Huế và đã bắt đầu làm quen với những phím dương cầm từ đó. Lên trung học, bà theo gia đình ra Hà Nội. Vào khoảng 1941, thân phụ bà về nhậm chức tại Bộ Lại (tức là bộ Nội Vụ) tại Huế, bà lại theo về học tại Lycée Khải Định. Tại đây bà gặp một ông thầy dạy Việt Văn là ông Ưng Quả, cũng là vị "phụ giáo" của triều đình Huế (dạy thái tử Bảo Long).
Hai người, một thầy, một trò đã tỏ ra tâm đầu ý hợp và tiến đến hôn nhân. Tuy lúc đó Thầy Ưng Quả là một người đàn ông góa vợ đã có hai con trai, nhưng cả hai gia đình đều là những gia đình quyền quí ở Huế, thầy Ưng Quả là cháu nội của Tuy Lý Vương, bà Minh Trang là cháu nội của Diên Lộc Quận Công, phải nói là rất "môn đăng hộ đối". Hai người sinh hạ được một trai là Bửu Minh và một gái là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang, (tức là ca sĩ Quỳnh Giao). Bà dùng tên của hai người con ghép lại để làm nên cái tên âm nhạc cho mình.
Năm 1951, giáo sư Ưng Quả, lúc đó là Giám Đốc Nha Học Chính Trung Phần qua đời, bà Minh Trang đem hai con vào Saigon, và kiếm được một việc làm tại Đài Phát Thanh Pháp Á (France-Asie), vừa là xướng ngôn viên vừa làm biên tập tin tức bằng tiếng Pháp. Sự việc Minh Trang trở thành ca sĩ cũng là chuyện tình cờ không tính trước, trong chương trình ca nhạc của nhạc sĩ Đức Quỳnh, vì ca sĩ chính không đến đài hát được, bà phải miễn cưỡng thay chỗ, và ca khúc duy nhất bà thuộc lúc ấy là "Đêm Đông" của NS Nguyễn Văn Thương. Trong một lần ra Hà Nội theo lời mời của Thủ Hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí khi ông này tổ chức Hội Chợ, bà đã hát trong ban Việt Nhạc và gặp gỡ nhạc sĩ Dương Thiệu Tước tại đây.
Hai người nghệ sĩ này, Minh Trang - Dương Thiệu Tước kết hôn năm 1951 tại Saigon và sau đó sinh hạ được năm người con, một trai Dương Hồng Phong và bốn gái Vân Quỳnh, Vân Khanh, Vân Hòa, Vân Dung. Cũng như Bửu Minh và Đoan Trang, các con của Ông Bà đều được theo học trường Quốc Gia Âm Nhạc với sự dìu dắt của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Ngày nay Quỳnh Giao, Vân Quỳnh đã trở thành ca sĩ. Dương Hồng Phong tốt nghiệp vĩ cầm tại QGAN và Bửu Minh du học Pháp năm 1961 nay là dương cầm thủ chính (đệ nhất vĩ cầm) trong ban nhạc đại hòa tấu "Staatsphihlarmonic Rheinland Plalz" của Đức Quốc.
Sau tháng 4-1975, các cô con gái đã lập gia đình đều đã ra đi, nhưng ông bà Dương Thiệu Tước còn ở lại Việt Nam, lý do là con trai duy nhất của hai người, Dương Hồng Phong, động viên năm 1972 đang bị kẹt tại Chu Lai và bị bắt làm tù binh. Với số lương 64 đồng một tháng dành cho giáo sư Dương Thiệu Tước dạy lục huyền cầm cổ điển, hai ông bà phải sống trong những điều kiện vô cùng chật vật. Bà Minh Trang kể lại suốt trong những ngày đen tối, công việc của bà là ngồi lượm sạn và bông lúa để lo bữa cơm cho chồng con, trong khi đứa con trai tù tội vẫn chưa về. Năm 1978 khi Dương Hồng Phong ra tù, bà nghĩ đến việc phải rời đất nước. Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước vì thường đau ốm nên không muốn đi. Bà Minh Trang cùng ba con đến Thái Lan vào cuối năm 1979, và đi định cư tại Hoa kì.
Xứ Huế vẫn còn nhớ tới Minh Trang tên tuổi một thời, thính giả đài Pháp Á không quên tên người ca sĩ này, cái tên Minh Trang hình như gắn liền với âm điệu của một làn dân ca Huế, nỉ non và cũng ai oán trong "Đêm Tàn Bến Ngự" cũng như với cái tên Dương Thiệu Tước. Cuộc đời sinh ra bà để chúng ta có những tình khúc dịu dàng, thơm tho như một khu vườn Huế những đêm trăng, đó là "Ngọc Lan", là "Ai về bến Ngự"....
(Nguồn: vietinfo)