Dòng Cổ Nguyệt
Cội Nguồn, USA 2013
Cội Nguồn, USA 2013
Thơ Tuệ Nga thường tập trung vào ba chủ đề chính, thể hiện cảm xúc chất chứa dạt dào từ trong tâm khảm: Mẹ, Quê Hương và Tâm Đạo. Ba chủ đề, ba nội dung này có khi trộn lẫn, chan hòa, xen kẽ vào nhau, người đọc dễ dàng nhìn thấy trong từng bài thơ, trong từng chương đoạn, dù không được sắp xếp rạch ròi.
...
Như hầu hết những người Việt Nam lưu vong tỵ nạn, chưa một lần về thăm lại quê hương. Quê hương từ ngày quay gót ra đi, đã bao lần ngoái nhìn về cố xứ, quê hương từ ngày “tiễn khách sầu xa quê”, “nhìn mây trời giăng mắc. Rừng xanh chắn nẻo về” hình như không bao giờ vơi nguôi trong đoái tưởng của nhà thơ.
...
Băn khoăn với những gì có hôm qua, với những gì mất hôm nay, thời gian và lẽ biến thiên của cuộc nhân sinh tại thế - quê hương đã xa, tuổi trẻ đã mất, người Phật tử thuần thành Tuệ Nga quán triệt cái giả tạm, cái vô thường của cuộc nhân sinh, thơ không còn là tiếng buồn của muộn phiền, ủy mị. Nhà thơ nhìn lại cuộc đời, nhìn vào lẽ đạo để thấy một thực tại phản chiếu, để rồi thấy lòng thanh thoát, an nhiên tự tại, “bởi đã hiểu đời là quán tạm” trên “một chuyến xe đời”, “một vòng tử sinh”, một “bữa tiệc đủ đầy vị chua vị ngọt ”, và có đủ tiếng chim hót, có nắng ban mai - thuở rộn ràng của buổi đầu đời hoa mộng, cho đến ngày sau, chặng cuối, có tiếng vọng đại hồng chung ngân dài, gọi con người tìm về hài hòa an lạc...
...
Có thể nói giới nữ-thi-nhân trong làng thơ Việt Nam cận đại, Tuệ Nga là một nhà thơ đã sống trọn cuộc đời với Thơ, cho Thơ và vì Thơ. Bà là một trong số ít ỏi nhà thơ nữ tiêu biểu trong làng thơ Việt Nam hải ngoại và trong nước hiện nay. Bà đã góp vào kho tàng Văn chương Nghệ thuật nước nhà những áng thơ, những tác phẩm có giá trị văn học nhất định.
Phải chăng dòng tư tưởng của thi nhân bắt nguồn với thiên nhiên, rồi từ thiên nhiên mà phát xuất ra những âm thanh kỳ diệu, nửa là lời ca, nửa là nhạc khúc. Tất cả những âm thanh này do tiềm năng, do trí tuệ, hay nói cách khác do tinh anh của mỗi người mà Thượng Đế dành riêng cho họ đó là Thiên Tư, là bẩm chất.
Một mùa nào đây trên đỉnh xuân hồng, gần với Tạo vật, những người đồng điệu như chúng ta đã bắt gặp những tinh anh kia, đang cụ thể hóa, Suối reo, Hoa nhạc nở, mọi mầu sắc hòa hợp nên một bản đàn, hay một bức tranh biết nói. Phẩm chất trong mát như pha lê, mỏng dòn dễ vỡ, ta hãy nhẹ nhàng êm ái đến bên bờ Suối, vừa nhân tạo, vừa thiên tạo mà nghe dư âm. Dòng Suối chúng ta mới phát giác ở giữa thế kỷ hai mươi, cũng như giữa vùng trời quê hương đang mắc đại nạn từ hơn hai mươi năm qua.Nhưng con người mang nặng lòng hoài bão đến sự sống còn của dân tộc, đến hồn đất nước, hằng suy tư man mác.
Ví dòng thơ của Tuệ Nga với Suối không phải là vô cớ, chính tác giả đã tự nhận như vậy trong tập thơ đầu tay mang tên Suối kể từ dĩ vãng ngây thơ, với tâm hồn nguyên thủy, khi tà áo trắng còn tung bay giữa thời thơ mộng, trong làng xưa, quê cũ. Tuệ Nga làm bạn với thiên nhiên cho rung cảm về Nguồn:
Sương sớm rung rinh sóng hạnh đào
Hương thanh bình thắm lộng ngàn sao
Chim Uyên lảnh lót ca tình khúc
Lưu, Nguyễn vườn Xuân một thuở nào
Rồi từ dạo ấy "Vườn xanh từng cánh say từng cánh" người thơ thả hồn phiêu lãng bên Suối đào nguyên. Kịp đến lúc dang tay đón lấy men Xuân tình ái bên Suối thơ với người Bạn trăm năm:
Hồn em dòng nhạc Suối Thơ
Tình anh rừng mộng đan mơ tuyệt vời...
(Suối )Những bài ca bên Suối có dành riêng cho hai người, anh và em,mãi chăng? Không hẳn như thế, mà còn làm nhân chứng cho thế sự đong đầy ưu ái nữa. Nhớ lại từ buổi vào đời êm mát trên đỉnh non cao, cánh thơ hồng cho người yêu, ánh hồng bay muôn nẻo, kế tiếp là mùa Thu xanh, xanh mầu quê cũ, làng xưa. Đột nhiên một ngày Thu chuyển hướng vào lịch sử: "Hiền Lương một giải ai đành rạch đôi / Bút nghiêng vần nghẹn ngậm ngùi, Đôi bờ trăng quạnh bồi hồi tim đau..."
Từ đấy hoa thơ thay sắc mới, tiếng thơ chuyển giọng sầu,dòng Suối trôi vào trường giang sóng cao, gió lớn, sông nước đục ngầu! Những tơ đồng rung lên nhiều khía cạnh của qua phân, của tương tàn, của chia rẽ, nhà thơ cố níu lấy một cái gì mỏng manh, nhưng lại rất bền dẻo khó đích đó là hồn Dân Tộc, nét Á Đông. Yêu hàng dừa xanh, yêu tiếng hò câu hát diễm tình, yêu giã gạo giữa đêm trăng sao đầy trời, Yêu nhiều bao nhiêu thì hờn giận cũng bấy nhiêu: "Giận ai chia cách đôi bờ / Một dòng hai bến để thơ tôi sầu..."
Những nét sầu thế hệ như thác đổ xuống bờ Suối, đang tươi mát ngọt ngào, làm mất cả tâm hồn ban sơ, vẩn đục cả không gian trìu mến. Đất nước đang rách nát trong cuộc tương tàn huynh đệ, người thơ làm sao mà giữ niềm tin: "Hăm mấy Đông sầu trăng úa rụng, Suối buồn cau mặt, Én chờ Xuân".
Suối Thơ hội ngộ với dòng sầu, đến cau mặt trước tang thương, biến đổi, những chuỗi ngày hoa vô tư lự chỉ ôm ấp niềm vui riêng giữa khoảng trời hồng đã cách xa, thay vào đó bao nhiêu băn khoăn, thắc mắc dành cho lớp trẻ, nhà thơ tự nguyện làm cây đèn bão đứng giữa trời mưa gió để hướng đạo cho con em trong cuộc hải hồ tranh đấu, và còn hóa thân ra bao nhiêu động lực hầu an ủi giới tuổi xanh: Nỗi u hoài của Suối còn là những tiếng thiết tha khi người Thơ hướng về Hà Nội: "Mắt mờ dõi nẻo Bắc phương/ Thấy gì? Chỉ thấy mây vương vương sầu!"
Tiếng thở than vẫn đúng mức, niềm suy tư được chuyển động cũng như thời tiết phải sang mùa, những nét hoa, những âm điệu trong niềm tin tưởng vô biên để cùng hướng về một nẻo trời hy vọng hầu nối lại tình thơ tự thuở Nàng Thơ mặc áo hồng đào,hoa Suối còn trong như ngọc sáng như gương, sóng tóc còn bềnh bồng mây gió... Tuy vẫn biết hy vọng thật mong manh, đôi khi đến chán nản, khi khao khát hòa bình mà hòa bình chưa tới: "Hòa bình ảo ảnh vô cùng, Hòa bình sương khói chập chùng trong mơ.." Mặc dầu thốt nên nỗi chán chường như thế mà vẫn tìm kiếm lối thoát, bằng cách dạo một bản đàn yêu thương mà ước mong "Niềm đau thù hận tan thành khói mây.." mà mơ tưởng "Đất Mẹ nở hoa hiền/ Bốn phương tám hướng về khai hội/ Ánh mắt nồng bừng dậy Ý tin".
Tình Thơ trở về nguyên thủy, Suối reo thành nốt Nhạc, Hoa nở thành niềm vui, còn đâu những tiếng oán than thế sự, như đêm nay giữa mùa Xuân mãnh hổ, tôi đang lần dở bên đèn bản thảo "SUỐI" này trong bàn tay thân ái. Tất cả cảm nghĩ trong tâm thức được thể hiện trên trang giấy với trọn vẹn niềm trìu mến người em Thơ, chỉ là những giòng chữ khai bút, chứ không mang tính cách đề "Bạt"cho tập thơ.Tôi nghĩ những sáo ngữ sẽ làm kém thân mật trong giao tình tỷ muội của thi đàn, mong em cũng đồng ý. Tôi không dám nói nhiều để dành phần hào hứng cho người đọc khi khám phá thêm những nét khác của tiếng Suối này.
Tôi xin kết luận: Bây giờ và bao giờ, âm thanh đang và còn lưu giữ trong hồn tôi những tơ đồng nhẹ nhàng, những nốt nhạc uyển chuyển và êm ái như dòng Suối mát của một Mùa Xuân trên đỉnh Non Thơ...
Quỳ Hương
Viết tại PHONG-HƯƠNG-CÁC giữa đêm mồng 6 tháng hai (NGÀY PHỤ NỮ) năm GIÁP DẦN để trao về TUỆ NGA mến.Cách đây trên bốn chục năm khi lần đầu tiên được đọc thơ Tuệ Nga tôi đã sửng sốt, bàng hoàng. Đây là một thi sĩ. Thơ không phải là một học vị, càng không phải là một nghề. Người làm thơ kể hàng ngàn nhưng phải hàng thế kỷ,đất nước mới co được vài thi sĩ . Tôi nghĩ đến Bà Huyện Thanh Quan, đến Đoàn Thị Điểm, đến Hồ Xuân Hương. Lạ thật, ở một đất nước thấm nhuần cái học của họ Khổng, đàn bà không được phép đi học, đi thi mà vẫn có những người thơ lừng lẫy đến như vậy. Hóa ra thơ là một cái nghiệp. Tuệ Nga làm thơ vì có cái nghiệp thơ. Muốn bỏ cũng không được,muốn chạy trốn cũng không xong. Bà làm thơ dễ dàng như hít thở không khí. Tài và sắc là vưu vật của Trời ban. Cái vưu vật ấy không thể để mai một đi. Cho nên Tuệ Nga làm thơ và in thơ. Kể từ bài thơ đầu đời cho tới bây giờ, thơ Tuệ Nga đều bắt nguồn từ đạo Phật, từ tiếng ru của Mẹ, từ bờ tre, bụi chuối của Quê Hương Từ ngữ thật giản dị nhưng thật tài tình :
Trong gương ai đó phải mình
Cái thân giả tạm, cái hình phù du
Hỏi mà không trả lời. Không trả lời nhưng vẫn là trả lời. Nguyễn Du đề cao nhan sắc Thúy Kiều bằng cách tả Thúy Vân rồi hạ thêm những câu :
Kiều càng sắc sảo mặn mà
Xem bề tài sắc lại là phần hơn
Đó là phép vẽ Trăng để làm nổi Mây. Không vẽ Mây nhưng Mây vẫn hiển hiện ra đó. Soi gương thấy mình không còn như xưa nữa, đáng lẽ phải than tóc bạc, da nhăn, Tuệ Nga lại viết: Cái thân giả tạm, cái hình phù du. Tất cả là vô thường, có gì bền vững mãi đâu? Rõ ràng không nói ra, nhưng tác giả hẳn phải ngẩn ngơ về sự đổi thay của năm tháng.
Con Chim buồn dưới cội ngâu
Nắng chiều bảng lảng lạnh mầu tà huy
Con Chim có buồn đâu? Tác giả buồn đấy: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ? Tả tình hay tả cảnh, Tác giả chỉ chấm phá một vài nét đơn sơ. Cảnh nào cũng có tình. Cảnh nhờ tình mà thêm đậm đà, thêm cảm động lòng người. Chỉ mấy chữ lạnh mầu tà huy đủ cho người đọc cảm nhận được cái thê lương , lạnh lẽo của kiếp người. Nếu không có tài thật khó mà viết được như thế. Những câu hay những ý đẹp đầy rẫy trong thơ Tuệ Nga.Tôi không muốn tước đoạt cái quyền thưởng ngoạn của người đọc. Tôi xin ai đó đọc thơ Tuệ Nga, hãy đốt trầm, hãy pha trà, để lòng thật thanh thản, rồi giở từng trang, đọc từng câu,từng chữ. Chỉ khi đó chúng ta mới thực sự cảm thông được với thi sĩ.
HÀ THƯỢNG NHÂN
Ngày 20-10-2004Tuệ Nga bước vào cõi thơ đã quá bốn thập niên thăng trầm dâu biển, đã một lần nhận giải Văn Chương Tổng Thống VNCH trước 1975. Tuệ Nga cùng Thơ tâm tình đối thoại. Vì thơ mà miệt mài suy cảm, mượn thơ giãi bầy khúc mắc chính mình Cùng thơ, tri kỷ bước chung lộ trình sớm chiều, tâm sự sâu kín, tưởng cùng thơ đươc chia sẻ mở lòng -đâu ngờ, cứ bước đi lại lùi vào ngõ cụt. Cho đến một ngày, tâm thức vọng âm rằng: "Cuộc đời bắt nguồn từ Không đi vào Có, cuối cùng trở về với "Vô" ở trạng thái vô vi". Trong thơ Tuệ Nga nức hương sắc tịnh thiền: Cõi tịnh hiện hữu,được cảm nhận bằng tự ngã, nội tâm. Mặc không gian ngoại tại náo động, đa đoan, chìm nổi và ngọn sóng thời gian vẫn xuôi về, phủ trùm lên thân phận con người, không dừng nghỉ. Cuộc đời - một khoảng cách xa xăm, một trùng dương mênh mông, lại là một cõi tạm, đơn độc, sợ hãi đối với con người. Nhà thơ, kìm hãm được sức đe dọa, bằng những dòng thơ, cống hiến cho cái hư không huyền diệu từ buổi nguyên sơ, để cầu được thành mây, thành hoa trong chu kỳ rũ bỏ nợ nần trần thế. Dòng sống tĩnh thức của Tuệ Nga là tiếng chuông, là ánh trăng hòa đồng cảm súc, tạo dựng ngoại tại, thế giới riêng của thi nhân. Đó là hình tượng dòng trăng thanh trong, tịnh khiết, đó là hồi chuông ngân nga diệu vợi, đủ gợi thức hồn người và cũng từ đó hồn thơ ngập tràn ý thơ huyễn mộng...
Rồi cũng xa xôi, rồi cũng xưa
Mấy mươi năm chợp giấc như vừa
Như vừa, một thoáng trong tầm mắt
Áo lụa năm nào phơi dậu thưa
Mùa ấy tầm xuân còn chớm nụ
Chim trên cành gió hót lao xao
Dư âm trầm lắng bài thơ cổ
Cha vẫn ngâm nga một tối nào
Những tối trời thu lấp lánh sao
Đường vào ngõ Trúc lá thì thào
Hương Cau hương Bưởi vương thềm gió
Điệu hát hò ơi... thấm ngọt ngào
Rồi cũng xa xôi, rồi cũng xưa
Nghe ngày hoang vắng tiếng chiều đưa
Khói sương hư ảo mờ nhân ảnh
Ai gọi nắng về hong tóc xưa
Mầu nắng, hoa niên tươi ánh hồng
Trong chiều tĩnh lặng giữa mênh mông
Đem lòng trang trải cùng mây nước
Trong khoảng vô cùng thấy Sắc, Không
Tuệ Nga
Quá khứ của mỗi người là khoảng thời gian trân quý, gắn bó,đeo đẳng theo con người cùng bước đến hiện tại sự sống. Nhìn lui quá khứ, tiếc nuối những gì đã chìm khuất, tưởng nhớ những gì không còn tìm lại. Những trang sử riêng tư ẩn hiện khi tỏ khi mờ, diễn bầy tâm trạng hoặc hãnh diện với thành công, hoặc ân hận thao thức về những hệ lụy, lỗi lầm thua thiêt. Kỷ niệm quá khứ nào cũng đáng chắt chiu ôm ấp, thuở ấu thời trong vòng tay Mẹ, ngày đầu tiên được cắp sách đến trường dưới mái gia đình ấm cúng, yên lành xum họp, được nghe lơì dậy bảo của Cha lơì khuyên răn ngọt ngào của Mẹ. Dần dà năm tháng từ tuổi vô tư lự, chỉ ham thích đuổi bướm, hái hoa , cho đến lúc nhận diện khung cảnh xung quanh hiện thực, cùng vui buồn lẫn lộn nôn nao về sự hiện hữu chính mình, băn khoăn mối liên hệ ba chiều rộng lớn tiềm ẩn...
Dạo ấy, mùa ấy, Tuệ Nga không thể quên giao điểm thời tiết hai mùa, thiên nhiên khoác mầu xanh mát mắt, cỏ cây rờm rợp hồi sinh, hơi thở khoáng đãng nàng xuân, nồng nàn làn nắng vàng đưa đầu hạ, cũng là thời điểm dậy thì tầm xuân trong vườn, bên dậu, dọc đường, cũng là lúc bản hợp tấu rộn ràng, reo hót của đàn chim hội ngộ mùa vui trên những cành cây lướt gió...
Mùa ấy tầm xuân còn chớm nụ
Chim trên cành gió hót lao xao...
Khung cảnh thanh sắc quyện hòa, gợi dậy trạng huống thanh bình, êm ả, phù hợp ước mơ của loài người, và thuyết phục loài người cùng công nhận, cùng phát biểu chung một ngôn ngữ của hạnh phúc, dù ở phương Đông hoặc phương Tây, dù thành thị sầm uất, phồn vinh hoặc thôn quê giản dị, nghèo nàn... Cảm cảnh, ngoại giới cùng hiện tượng trước mặt, người Cha cất giọng ngâm nga bài cổ thi tương hợp "cảnh và người" lúc bóng tối vừa tỏa phủ nhẹ nhàng, chờ ánh trăng lộ diện, mà dư âm của ngôn ngữ Thơ đang thẩm thấu vào hồn vạn vật:
Dư âm trầm lắng bài Thơ cổ
Cha vẫn ngâm nga một tối nào...
Tuân hành hạn giới vũ trụ, Xuân, Hạ dắt tay nhau dời đổi, nhường cho Thu, vóc dáng diễm kiều, mộng mị trở về. Lưu Trọng Lư, tiền chiến gặp Thu "dưới trăng mờ thổn thức" liên tưởng hình ảnh của "người chinh phu trong lòng người cô phụ." Khơi gợi hiện thể bi đát thời chinh chiến, Tuệ Nga đón Thu từ khung cảnh khác, không bàng bạc ánh trăng mà lấp lánh ngàn sao. Đại thể bao la không trung của hằng hà sa số vì sao li ti, bé mọn, đã nhả xuống trần thế thứ ánh sáng không đủ sáng, nhưng nhắc nhở loài người sự sống mang tính khoa học về những hành tinh xa xăm, không đầu, không cuối, có đủ số phận tốt, xấu, cũng đã kinh qua tiến trình Tụ, Tan, Còn, Mất. Những tối nơi quê nhà, mùa Thu, trên bầu trời lấp lánh sao, đường vào nhà, qua ngõ Trúc, lá thì thào cùng gió thu hiu hắt:
Những tối trời thu lấp lánh sao
Đường vào ngõ Trúc lá thì thào...
Lá Trúc tâm tình cùng Gió, thì thào như kể lể một nỗi niềm tư riêng, thì những hàng Cau, cây Bưởi trong vườn tỏa hương ngọt ngào tận thềm nhà, song cửa sổ... Cùng lúc, điệu hát câu hò thôn dã vọng lại từ xa ... quen thuộc, trầm bổng, ngọt ngào, len lỏi vào hồn người khi đêm vừa dàn trải:
Trong chiều tĩnh lặng giữa mênh mông
Đem lòng trang trải cùng mây nước...
Nhịp điệu bài thơ trầm lắng mà gần gũi. Khoảng vô cùng vô tận của vũ trụ vẫn dành cho mỗi con người một tọa độ số phận, một nơi chốn thiêng liêng - quê hương trong mỗi con người - Con người đã phải cách xa quê hương ngàn vạn dặm, nhưng quê hương đích thực vẫn ngự trị trong tâm hồn con người. Câu ca dao từ nhân gian không rõ từ bao giờ đã nói lên cái tình thấm thía với quê hương, Quê Mẹ (Chiều chiều ra đứng ngõ sau/ Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.) Chưa ai giải thích được niềm đau trọn vẹn! Chỉ biết niềm đau nội tâm của mỗi người, tùy hoàn cảnh, đời sống và tương quan xã hội. Tuệ Nga trong khoảng vô cùng không gian và vô hạn thời gian , đã bầy tỏ được tâm tình thầm kín, cùng cảm xúc thiết tha cho từng cảnh, vật, nơi quê nhà, cho từng thanh âm thân thuộc, cho từng hình tượng trân trọng, để cuối bài thơ nhìn nhận triết lý nhà Phật "Sắc Không" phù du, mong manh như chính thân phận hữu thể: "Trong khoảng vô cùng thấy Sắc Không".
DIÊN NGHỊ
Cõi Thơ Tìm Gặp - Bình Thơ - Cội Nguồn 2007...
Thơ Tuệ Nga là thơ thiên hình vạn trạng, bất cứ đề tài gì cũng thành thơ, và một đề tài có thể viết cả chục bài khác biệt nhau, mà bài nào cũng có cái hay riêng của nó . Cả tập thơ nói về Thu, cả tập thơ nói về Phật, cả trăm bài nói về Quê Hương mà không bài nào trùng ý bài nào. Lời thơ không những điêu luyện, chữ dùng lại rất mới, tự ý tác giả đặt ra, khiến người đọc lắm lúc " giật mình " thích thú. Hơi thơ hồn nhiên, bất tuyệt, ý thơ biến đổi vô cùng, đúng là những giòng Suối chẩy không bao giờ hết.
Thơ Tuệ Nga có thể nói là thoát hẳn ra ngoài khuôn sáo phong hoa tuyết nguyệt tầm thường của loại thơ thù ứng xướng họa ta thường thấy...
KHÁNH VŨ
GAITHERSBURG, October 27, 1991Tuệ Nga
Thành Phố Hoa Hồng, Oregon, Tháng Mười 2009Hồ Gươm -- Ảnh Trần Cao Lĩnh -- phụ bản Dòng Cổ Nguyệt
Tuệ Nga
Hồng Thành, Oregon vào Đông Ất Dậu 2005Tuệ Nga
Oregon, Vào Thu 2013Tuệ Nga
Thành Phố Hoa Hồng, Oregon, Xuân Quý Tỵ 2013Tuệ Nga
Thành Phố Hoa Hồng, Oregon, Xuân Quý TỵTranh Lụa Thanh Trí - phụ bản Dòng Cổ Nguyệt
Tuệ Nga
Thành Phố Hoa Hồng, Oregon, Tháng Hạ 2009Tuệ Nga
Một sớm vào Thu, Oregon 2013Tuệ Nga
Oregon, vào Thu 2012Thục Oanh Tặng Tuệ Nga
ĐINH THỤC OANH
(*) Mưa Gió Sông TươngTÂM HUYỀN
Vancouver, 26 tháng 2 năm 2013Tuệ Nga
Thành Phố Hoa Hồng, Xuân Quý Tỵ 2013Tuệ Nga
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Tuệ Nga
Oregon, Mùa Xuân 2013Tuệ Nga
Oregon, Mùa Xuân 2011Tuệ Nga
Oregon, Mùa Xuân 2011Tuệ Nga
Tuệ Nga
Tuệ Nga
Thành Phố Hoa Hồng Oregon, Vào Thu 2008Viết tặng các chiến sĩ QLVNCH
Trùng Quang
Trùng Quang - Cảm tác ngày 30-04-2009Kỷ niệm ngày vượt tuyến
Tuệ Nga
Oregon, Aloha, Vào Hạ 2009Thân kính tặng Anh Chị Nhạc Sĩ Vĩnh Điện
Tuệ Nga
Hồng Thành Oregon, Mùa Thu 2010Tuệ Nga
Hồng Thành Oregon, Tháng Tư 2010Thương gửi Diệm Phương
Rất Nhớ Bạn....
Tuệ Nga
Hồng Thành Oregon, Mùa Xuân Canh Dần 2010Tuệ Nga
Hồng Thành, Tháng Năm 2009Tuệ Nga
Tuệ Nga
Oregon, Mùa Xuân Kỷ Sửu 2009Tuệ Nga
* Tiếng đàn dương cầm của hai cháu Ngoại Thùy Dung và Thùy Linh
Thơ Phan Khâm