GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
Cờ Vây là 1 trò chơi dạng chiến lược trừu tượng cho 2 người chơi, mục tiêu là bao vây nhiều lãnh thổ hơn đối thủ. Trò chơi được phát minh ở Trung Hoa thời cổ đại vào hơn 2.500 năm trước, và được coi là trò chơi bảng lâu đời nhất còn được tiếp tục phát triển đến ngày hôm nay.
Hiện tại, có khoảng trên 40 triệu người chơi Cờ Vây trên toàn thế giới, và phần lớn là ở khu vực Đông Á. Tính đến Tháng 12 Năm 2015, Liên Đoàn Cờ Vây Quốc Tế đã có tổng cộng 75 quốc gia thành viên và 4 tổ chức hiệp hội thành viên ở các quốc gia khác nhau.
Mặc dù các quy tắc chơi tương đối đơn giản, nhưng về mặt chiến thuật, Cờ Vây lại thiên biến vạn hóa vô cùng phức tạp. Cờ Vây có 1 bàn cờ lớn với nhiều phạm vi để các ván đấu quy mô hơn và kéo dài hơn.
Cờ Vây được coi là 1 trong 4 tứ nghệ - 4 loại hình nghệ thuật thiết yếu của giai cấp quý tộc tri thức Trung Hoa được nuôi dạy trong thời cổ đại.
NGUỒN GỐC TÊN GỌI
Vi Kỳ (tiếng Trung giản thể: 围棋; tiếng Trung phồn thể: 圍棋; tiếng Trung bính âm: wéiqí), tạm dịch là "Trò Chơi Bàn Cờ Bao Vây".
Bài Tử (tiếng Trung: 排子), nghĩa là 'Sắp Xếp Các Quân Cờ'.
Cờ Vây (tiếng Việt), có nguồn gốc từ Vi Kỳ (tiếng Trung).
Igo (tiếng Nhật: 囲碁), có nguồn gốc từ Vi Kỳ (tiếng Trung).
Go (tiếng Anh), được mượn trực tiếp từ tên tiếng Nhật "Igo".
Baduk (tiếng Hàn: 바둑) có nguồn gốc từ tiếng Triều Tiên Trung Thế 'Badok'. Hậu tố '-ok' thêm vào 'Bad' tạo nên nghĩa 'Bàn Cờ Phẳng Và Rộng'. Ghép cụm 'Bad' (nghĩa là 'Vùng Đất') và 'Dok' (nghĩa là 'Quân Cờ Bằng Đá'). 'Badukdok', ám chỉ đến 'Những Quân Cờ Trong Ván Cờ'.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Cờ Vây là loại cờ cổ, được chơi cách đây khoảng trên 4000 năm. Khởi thủy của môn cờ này bắt đầu từ giấc mơ của vua Nghiêu, về việc xem chơi cờ giữa Hoàng Đế (người mở đầu thời Ngũ Đế) với vị tiên Dung Thành. Nhà vua đang thấy tiên Dung Thành chơi một loại cờ gồm: 1 bàn cờ và các quân cờ trắng đen bèn thỉnh cầu tiên dạy cờ cho mình. Đang chơi cờ hay bỗng vua Nghiêu tỉnh lại. Nhà vua ngẫm ra thấy hay quá bèn tìm cách nhớ lại và bổ khuyết thêm các quy tắc, luật lệ và sáng tạo ra môn cờ vây, vì mục đích của nó là vây chiếm lãnh thổ, đất đai. Sau đó, cờ vây được thái tử Đan Chu, con của vua Nghiêu truyền bá khắp thiên hạ.
Trong truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, Quan Công đã chơi cờ vây với thuộc hạ trong khi để cho Hoa Đà nạo xương cánh tay chữa vết thương. Vây kỳ ngày xưa gọi là "dịch" (弈). Trong những sách cổ của Trung Hoa, như: Tả Truyện, Luận Ngữ, Mạnh Tử đã nhắc nhiều đến "dịch". Nhưng từ đời nhà Hán trở đi, thì cái tên vây kỳ ngày càng thông dụng.
Cờ vây hiện nay rất phổ biến ở vùng Đông Á. Nhật Bản hiện nay là nước có số người chơi cờ vây rất cao. Cờ vây đã tới Nhật Bản vào thế kỷ VII-XIII, nó đã được chơi rộng rãi khắp mọi nơi trên đất nước này. Sự phát triển của Internet cũng đã làm cho nó phổ biến hơn trên khắp thế giới, và đến nay đã có trên 36 triệu người yêu thích môn cờ này (theo thống kê của Hiệp Hội Cờ Vây Nghiệp Dư Thế Giới từ năm 1999).
LUẬT CHƠI
Cờ vây có từ xa xưa, nhưng luật của nó lại không hề bị biến đổi theo thời gian. Lý do là luật chơi của cờ vây hết sức đơn giản, người nào cũng có thể chơi được, không cần đến trí thông minh ưu việt. Trong cờ vây, quân nào cũng như quân nào, giá trị y hệt nhau, không quân nào có tên tuổi, không có vua, có tướng. Tướng, vua được biết như chính người chơi cờ vậy. Cờ vây, như đã biết, muốn biết chơi thì quá dễ, nhưng để chơi tới được thành "cao cờ" thì rất khó. Khi chơi cờ vây cũng giống như khi ra trận đánh giặc. Bàn cờ là chiến trường và mục đích là chiếm lấy lãnh thổ. Một kỳ thủ cờ vây thực sự biết quý trọng từng quân cờ và luôn đặt hết tâm quyết vào mỗi nước đi. Mục tiêu của cờ vây là bao vây 1 tổng diện tích lớn hơn so với đối thủ.
Các quân cờ trong cờ vây có tên gọi khác là "quân cờ đá" (stone). 1 kỳ thủ (người chơi cờ) cầm quân cờ trắng và người còn lại cầm quân cờ đen. Các kỳ thủ lần lượt đặt các quân cờ trên các nút giao còn trống ("nút" hay "điểm nút" - point) của 1 bàn cờ với một lưới các dòng kẻ kích thước 19×19 (mỗi bề là 18 ô vuông và 19 giao điểm - nút). Người mới chơi thường chơi với các bàn cờ kích thước nhỏ hơn như 9×9 và 13×13, và các bằng chứng khảo cổ học cho thấy trò chơi đã được chơi trong những thế kỷ trước trên bàn cờ có lưới 17×17. Tuy nhiên, bàn cờ lưới 19×19 đã trở thành tiêu chuẩn vào thời gian nó du nhập vào các quốc gia Á Đông (khoảng thế kỷ V-VII, sau CN).
Sau khi được đặt trên bàn, quân cờ không thể di chuyển, nhưng 1 quân cờ sẽ được loại bỏ khỏi bàn cờ khi "bị bắt". Việc bắt quân xảy ra khi 1 hoặc 1 nhóm quân cờ bị bao vây bởi những quân cờ của đối thủ ở tất cả các điểm lân cận gần kề. Trò chơi sẽ diễn tiến cho đến khi cả 1 người chơi đều không muốn thực hiện tiếp nước đi nào nữa; trò chơi không có điều kiện kết thúc nào khác ngoài điều này. Khi 1 ván đấu kết thúc, lãnh thổ được tính cùng với những quân cờ bị bắt và komi (số điểm thêm vào tổng điểm của người chơi cầm quân trắng để tạo 1 lợi thế, bù đắp cho việc bắt đầu ván cờ sau người còn lại - cầm quân đen) để xác định người chiến thắng. Ván đấu cũng có thể được kết thúc ngay lập tức khi một bên chịu nhận thua.
TRIẾT LÝ VÀ GIAI THOẠI CỜ VÂY
"Việc trị nước cũng không khác gì đánh cờ vây, biết cách dùng, biết cách đặt cho đúng chỗ thì thắng, không biết cách dùng, cách đặt thì thua".
- Âu Dương Tu đời nhà Tống -
"Cờ vây so với hà đồ cũng chẳng có khác gì nhau".
- Chuyên Gia Lục Cửu Uyên -