GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
Cử Tạ Thế Vận Hội (Cử Tạ Olympic hay gọi ngắn: Cử Tạ) là 1 môn thể thao trong đó người chơi (gọi là lực sĩ hay đô cử) cố gắng nâng một vật bao gồm thanh tạ được gắn với các đĩa tạ, mỗi lần nâng là một cú nâng sao cho khối lượng vật nâng lên là cao nhất.
1 cuộc thi đấu cử tạ bao gồm 2 phần thi theo thứ tự là: Cử Giật và Cử Đẩy. Cử Giật bao gồm 1 động tác duy nhất và tay nắm xa nhau. Cử Đẩy bao gồm 2 động tác nối tiếp và tay nắm gần nhau. Trong mỗi phần thi, 1 lực sĩ được tiến hành 3 lần nâng tạ và tổng khối lượng tạ của 2 lần nâng thành công cao nhất ứng với 2 phần thi được tính là thành tích tổng của lực sĩ đó. Cử Tạ phân nội dung thi đấu theo các hạng cân, các hạng cân của nam và nữ khác nhau và được thay đổi theo thời gian. Nếu lực sỹ nào không hoàn thành nổi 1 lần nâng nào trong mỗi nội dung thì sẽ bị coi là thất bại trong cuộc thi đó. Động tác Cử Tạ không chỉ được dùng trong thi đấu cử tạ đơn thuần, mà còn được coi là bài tập để luyện tập sức mạnh cho nhũng vận động viên ở các môn thể thao khác.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN - BỘ MÔN CỬ TẠ
BỘ MÔN CỬ TẠ - TIỀN THẾ VẬN HỘI (OLYMPIC):
Các cuộc thi nhằm tìm ra người có thể nâng được vật nặng nhất đã được ghi nhận qua các nền văn minh, trong đó ghi chép sớm nhất về môn Cử Tạ được tìm thấy ở Ai Cập Cổ Đại, Trung Hoa, Ấn Độ và Hy Lạp Cổ Đại. Nguồn gốc của môn Cử Tạ hiện đại được ghi nhận về các cuộc thi tài ở Châu Âu trong thế kỉ XIX.
BỘ MÔN CỬ TẠ - TẠI THẾ VẬN HỘI (OLYMPIC):
Nội dung thi đấu Cử Tạ xuất hiện ngay ở Thế Vận Hội Mùa Hè lần thứ nhất tại Athens (GRE) năm 1896, nhưng khi đó Cử Tạ chỉ là nội dung tổ chức trong sân giành cho môn Điền Kinh và chỉ dành cho nam giới. Giai đoạn đầu tổ chức bộ môn Cử Tạ tại Thế Vận Hội, ban tổ chức đã chia ra 2 nội dung khác nhau là: "Cử Tạ 1 Tay" và "Cử Tạ 2 Tay".
Kể từ Thế Vận Hội Mùa Hè năm 1920, Cử Tạ đã trở thành 1 bộ môn được tổ chức thi đấu riêng biệt. Và cũng từ đây, các nội dung Cử Tạ được phân theo hạng cân và các lực sỹ phải thi đấu bằng cả 2 tay. Từ Thế Vận Hội Mùa Hè năm 2000, các nội dung Cử Tạ dành cho Nữ được đưa vào thi đấu. Trong lịch sử của Thế Vận Hội, Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, ... là những thế lực của bộ môn này.
THIẾT BỊ THI ĐẤU - BỘ MÔN CỬ TẠ
THIẾT BỊ - TẠ: Chỉ có tạ đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật và đã được Liên Đoàn Cử Tạ Quốc Tế (International Weightlifting Federation - IWF) phê chuẩn mới được sử dụng trong các cuộc thi, giải đấu Cử Tạ cũng do chính IWF tổ chức.
THIẾT BỊ - ĐÒN TẠ: Đòn tạ là một thanh dài hình trụ làm bằng kim loại có tác dụng đỡ các đĩa tạ và là nơi cầm tay của lực sỹ khi nâng tạ. Trên đòn tạ có các vạch tương ứng vị trí cầm tay của Cử Giật và Cử Đẩy.
Bảng thông số đòn tạ theo yêu cầu kỹ thuật của IWF
THIẾT BỊ - ĐĨA TẠ: Phần lớn khối lượng tạ thi đấu trong Cử Tạ được dồn cho các đĩa tạ hình tròn được lắp vào đòn tạ sao cho cân bằng về khối lượng ở hai đầu tạ. Đĩa tạ có khối lượng khác nhau (từ 0,25kg đến 25kg) được sơn màu khác nhau và phải ghi số chỉ khối lượng lên đĩa tạ. Đĩa tạ lớn nhất và nặng nhất phải lắp vào trong cùng, những đĩa tạ nhẹ hơn được lắp theo thứ tự giảm dần ra phía ngoài. Đĩa tạ được lắp sao cho trọng tài có thể đọc được số ghi trọng lượng trên mỗi đĩa và chúng phải được ghim chặt vào đòn tạ bằng khoá tạ. Đường kính đĩa tạ lớn nhất theo luật là 450mm. Các đĩa tạ nhỏ hơn 10kg có thể hoàn toàn làm bằng thép.
Bảng màu sơn ứng với khối lượng đĩa tạ theo yêu cầu kỹ thuật của IWF
THIẾT BỊ - KHOÁ TẠ: Để giữ chặt đĩa tạ vào đòn tạ, mỗi đòn tạ phải có hai khoá tạ, mỗi chiếc nặng 2,5kg giành cho hạng cân của cả nam và nữ.
THIẾT BỊ - SÀN THI ĐẤU: Sàn thi đấu là khu vực diễn ra tất cả mọi động tác thi đấu của bộ môn Cử Tạ. Sàn thi đấu có hình vuông cạnh 4m, được làm bằng gỗ, chất dẻo hoặc bằng bất kỳ vật liệu rắn chắc khác và có thể được phủ lớp chất liệu chống trơn. Chiều cao sàn thi khoảng 50mm đến 150mm. Nếu lực sĩ chạm ra khu vực ngoài sàn sẽ bị tính lỗi phạm quy.
THIẾT BỊ - TRANG PHỤC QUẦN ÁO CỦA LỰC SỸ: Khi thi đấu Cử Tạ, các lực sỹ phải mặc đồ bó sát cơ thể bằng vải sạch sẽ, có thể là áo liền quần hay hai mảnh nhưng phải che kín phần thân thể quy định. Áo Cử Tạ không có cổ, tay áo không được trùm quá khuỷu tay. Quần Cử Tạ không được trùm quá đầu gối. Màu sắc của trang phục cử tạ là tùy ý. Lực sỹ được phép mặc áo phông bên trong trang phục thi đấu nhưng không được phép mặc áo phông và quần đùi thay cho trang phục Cử Tạ khi thi đấu. Ngoài ra, lực sỹ được phép đi tất (vớ) nhưng không được cao đến đầu gối.
THIẾT BỊ - ĐAI LƯNG: Đai lưng được các lực sỹ đeo khi thi đấu có độ rộng không quá 120mm, và có tác dụng giảm áp lực cho lưng và nén ổ bụng. Lực sỹ không được đeo đai bên trong trang phục thi đấu.
THIẾT BỊ - GIÀY: Lực sỹ phải đi giày khi thi đấu (gọi là: Giày Cử Tạ) để bảo vệ bàn chân và tạo thế đứng ổn định, vững vàng trên sàn thi đấu. Luật cử tạ không quy định hình dạng và chất liệu của giày, tuy nhiên giày không được hỗ trợ thêm tính năng nào khác ngoài tính năng được nêu ở trên.
TỔ CHỨC ĐIỀU HÀNH THI ĐẤU - BỘ MÔN CỬ TẠ: Môn Cử Tạ được điều hành bởi Liên Đoàn Cử Tạ Quốc Tế (International Weightlifting Federation - IWF). IWF thành lập năm 1905, có trụ sở đóng tại Lausanne, Thuỵ Sĩ.
HẠNG CÂN THI ĐẤU - BỘ MÔN CỬ TẠ: Các đô cử tham gia thi đấu được phân nội dung dựa theo khối lượng cơ thể của họ. Từ năm 2018, Liên Đoàn Cử Tạ Quốc Tế (International Weightlifting Federation - IWF) đã thống nhất và chấp thuận các hạng cân thi đấu. Mỗi giới có 10 hạng cân trong đó có 7 hạng cân được đưa vào chương trình thi đấu của Thế Vận Hội (Olympic).
DANH SÁCH CÁC HẠNG CÂN NAM - BỘ MÔN CỬ TẠ: Hạng cân 55 kg, 89 kg, 102 kg (không có trong chương trình thi đấu Thế Vận Hội - Olympic); Hạng cân 61 kg; 67 kg; 73 kg; 81 kg; 96 kg; 109 kg; + 109 kg (được đưa vào chương trình thi đấu Thế Vận Hội - Olympic).
DANH SÁCH CÁC HẠNG CÂN NỮ - BỘ MÔN CỬ TẠ: Hạng cân 45 kg, 71 kg, 81 kg (không có trong chương trình thi đấu Thế Vận Hội - Olympic); Hạng cân 49 kg; 55 kg; 59 kg; 64 kg; 76 kg; 87 kg; + 87 kg (được đưa vào chương trình thi đấu Thế Vận Hội - Olympic).
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH KHI THI ĐẤU - BỘ MÔN CỬ TẠ: Trong mỗi hạng cân, các lực sỹ đều phải tranh tài cả 2 nội dung: Cử Giật và Cử Đẩy với 3 lần cử cho mỗi nội dung. Giải thưởng thường được trao cho các lực sĩ dẫn đầu trong mỗi nội dung hay trong thành tích tổng. Khi thi đấu, các lực sỹ đăng ký mức tạ nhẹ nhất được xếp thi đấu trước và chỉ có 1 lực sỹ nâng tạ chính thức trong 1 thời điểm. Nếu lực sỹ nào không thực hiện thành công mức tạ đã đăng kỹ, lực sỹ đó sẽ phải thực hiện lại mức tạ đó hoặc thử sức với mức tạ cao hơn, sau khi các lực sỹ khác thực hiện các mức tạ nhẹ hơn mức tạ của lực sỹ cử hỏng đó (tuy nhiên, lực sỹ không được phép đăng kỹ mức tạ thấp hơn). Trong cuộc thi đấu, tạ được lắp với khối lượng có xu hướng tăng dần và phải là số tự nhiên (tính theo đơn vị kg). Nếu hai lực sỹ có thành tích tổng cử như nhau, lực sĩ nào có khối lượng cơ thể nhẹ hơn thì sẽ có thứ hạng cao hơn.
Trong các cuộc thi chính thức của bộ môn Cử Tạ, bao giờ nội dung Cử Giật cũng được tiến hành trước, sau đó là Cử Đẩy. Ở giữa hai nội dung là một khoảng thời gian tạm nghỉ. Nếu lực sĩ nào thất bại ở cả 3 lần ở Cử Giật sẽ bị loại và không được thi đấu Cử Đẩy và nếu lực sỹ nào dự thi Cử Đẩy mà thất bại cả 3 lần sẽ không được tính tổng cử. Đội ngũ trọng tài bao gồm 3 người: 2 người ngồi 2 bên và người còn lại ngồi phía trước mặt lực sĩ đang thi đấu. Họ sẽ cùng quyết định màn nâng tạ của các lực sĩ là "thành công" hay "thất bại" dựa vào luật lệ của IWF và tín hiệu đèn - đèn trắng ứng với "thành công" và đèn đỏ ứng với "thất bại". Màn nâng tạ của lực sỹ được coi là thành công khi có tối thiểu 2 trọng tài chấp thuận.