Phỏng vấn HT. Nguyên Giác - Trưởng khoa Phật học Sanskrit
Những năm gần đây, việc nghiên cứu, tìm hiểu kinh điển Phật giáo thông qua Phạn ngữ đã và đang được các học giả, nhà nghiên cứu tại Việt Nam quan tâm.
Để hiểu thêm về vấn đề dạy và học Phạn ngữ tại một trong số những trường Phật học hiếm hoi tiên phong đưa bộ môn này vào chương trình giảng dạy, cũng như chia sẻ cùng bạn đọc những ưu tư, trăn trở của một nhà chuyên môn, Báo Giác Ngộ đã có cuộc trò chuyện với Hòa thượng Thích Nguyên Giác, Trưởng khoa Phật học Phạn ngữ thuộc Học viện Phật giáo VN tại TP.HCM.
* Tiếng Phạn có thực sự quá khó?
Có nhận định rằng bộ môn Phạn ngữ chưa phổ biến và được nhiều người tiếp cận bởi nó quá “kén” người học, hiểu, Hòa thượng có ý kiến như thế nào về nhận định này?
- Hòa thượng Thích Nguyên Giác: Tiếng Phạn chưa phổ biến không phải vì nó quá “kén” người học, hiểu, mà bởi một số lý do sau:
Thứ nhất, tiếng Phạn là một cổ ngữ chuyên dụng của Ấn Độ, không phải là một sinh ngữ thông dụng. Tiếng Phạn chỉ cần thiết cho giới nghiên cứu Cổ Ấn Độ học cùng những nền văn hóa chịu ảnh hưởng của nó, và đặc biệt cho ngành Phật học.
Thứ hai, phần lớn Tăng Ni và Phật tử Việt Nam hiện chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của tiếng Phạn đối với Phật học. Giới nghiên cứu Phật học Việt Nam ngày nay thường dựa vào Hán ngữ và các sinh ngữ khác như Anh, Pháp, để tìm hiểu kinh điển Phật giáo, vì đó là những ngôn ngữ khá quen thuộc và thông dụng. Thêm nữa, có một thành kiến khá kỳ lạ vẫn còn lưu truyền nơi một số quý thầy trong các chùa: “Học tiếng Hán hay tiếng Anh là đủ để hiểu và tu rồi, học tiếng Phạn mà làm gì?”.
Nói kỳ lạ, bởi vì nó rất xa lạ với tinh thần trong đoạn kinh về Bốn đại pháp Đức Phật dạy trong Kinh số 2. Du hành của Trường A-hàm (tương đương Kinh số 16. Đại Bát Niết-bàn của Trường bộ kinh), trong đó Đức Phật dạy các Tỷ-kheo hãy dựa vào văn bản học để thẩm định thật giả về một điều người ta cho là do Phật nói.
Cuối cùng, chúng ta chưa có một chương trình chính thức, phù hợp và hiệu quả để Tăng Ni sinh có thể làm quen với tiếng Phạn sớm, trước khi lên đại học, giống như cổ ngữ Hán, Pāli, hay sinh ngữ Anh, Pháp.
Được biết, Phạn ngữ được phương Tây tiếp cận và nghiên cứu từ rất sớm, Hòa thượng có thể chia sẻ thêm về vấn đề này cũng như hiện trạng dạy, học, nghiên cứu Phạn ngữ tại các trường, viện trên thế giới?
- Tiếng Phạn được các nhà ngôn ngữ học trên thế giới liệt vào hệ ngôn ngữ Ấn-Âu. Tuy nhiên, mãi đến đầu thế kỷ XVII, phương Tây mới bắt đầu tiếp cận với tiếng Phạn qua đường du lịch và truyền giáo. Theo Maurice Winternitz, tác giả bộ A history of Indian literature, người đầu tiên được sách vở ghi nhận đã tiếp xúc với tiếng Phạn là Abraham Roger, người Hà Lan làm công tác truyền giáo tại Paliacatta, Bắc Madras trong nửa đầu thế kỷ XVII. Ông đã xuất bản một số phương ngôn của Bhartṛhari do một người Bà-la-môn dịch sang tiếng Bồ Đào Nha. Sau ông, cha đạo Do Thái giáo Johann Ernst Hanxleden đã đến Ấn Độ năm 1699 làm việc cho đoàn truyền giáo Malabar tại đây trong 30 năm. Ông sử dụng tiếng Ấn và đã viết cuốn văn phạm Phạn ngữ đầu tiên của người Âu châu.
Đến khi Anh chiếm Ấn Độ làm thuộc địa vào thế kỷ XVIII, dưới sự khuyến khích của Warren Hasting, người chủ trương dùng văn hóa, pháp luật, tập quán và tôn giáo bản địa để cai trị hiệu quả Ấn Độ nhằm bảo đảm sự thống trị lâu dài của nước Anh tại đây, một phong trào nghiên cứu văn học, tôn giáo, luật lệ Ấn Độ và học hỏi tiếng Phạn được phát triển khá mạnh mẽ. Charles Wilkins là người Anh đầu tiên học tiếng Phạn từ các paṇḍits (học giả) ở Banaras. Vào năm 1785, ông đã cho xuất bản dịch phẩm tiếng Anh của thi phẩm triết học Bhagavadgītā. Hai năm sau là bản dịch truyện ngụ ngôn Hitopadeśa, trích đoạn Śākuntala trong bộ Mahābhārata. Đặc biệt, năm 1808 ông cho ra đời cuốn Văn phạm Phạn ngữ. Từ đó cho đến cuối thế kỷ XIX, các tác phẩm chính yếu về văn học, triết học, tôn giáo của Ấn Độ như sử thi Mahābhārata, Rāmāyaṇa, Hitopadeśa, Pañcatantra, Luật Manu, Veda, Upaniṣad, v.v... đã được dịch sang các tiếng Âu châu như Anh, Pháp, Đức v.v... bởi các nhà nghiên cứu Cổ Ấn Độ học lừng danh như William Jones, Henry Thomas Colbrooke, Friedrich Rückert, Eugene Burnouf, Max Müller v.v..
Riêng trong lãnh vực nghiên cứu, dạy và học tiếng Phạn, thì có:
William Jones, người Anh, là người đầu tiên công bố sự liên hệ về mặt phả hệ của tiếng Phạn với tiếng Hy Lạp, La-tinh, Đức, Celtic, và Ba Tư, sau khi cho ra đời dịch phẩm tập thơ trữ tình Śākuntala của Kālidāsa vào năm 1789.
Henry Thomas Colebrooke, vào năm 1805 cho xuất bản cuốn Văn phạm Pāṇini, và là tác giả một cuốn ngữ pháp tiếng Phạn.
August Wilhelm von Schlegel: Năm 1812, học tiếng Phạn với Antoine-Léonard de Chézy, một học giả người Pháp - giáo sư Phạn ngữ đầu tiên của Trường Cao đẳng Pháp. August Wilhelm von Schlegel sau đó trở thành giáo sư dạy tiếng Phạn đầu tiên tại Đức. Ông được bổ nhiệm vào chức vụ này năm 1818 tại Đại học Bonn mới thành lập.
Franz Bopp (sinh năm 1791): Đến Paris năm 1812, học tiếng phạn với Chézy. Năm 1816 ông viết cuốn Bàn về cách chia động từ trong tiếng Phạn, kèm theo ở phần phụ lục một số đoạn trích từ Rāmāyaṇa, Mahābhārata. Trích đoạn về Nala và Damayantī là một trong những trích đoạn hay nhất từ sử thi Mahābhārata, nó khơi dậy sự say mê nơi người đọc đối với văn học Ấn Độ và sự yêu thích nghiên cứu tiếng Phạn. Trích đoạn này thường được các đại học có dạy tiếng Phạn chọn làm bài tập đọc đầu tiên cho các sinh viên học tiếng Phạn. Cuốn Ngữ pháp tiếng Phạn ông cho ra mắt năm 1827 và cuốn Glossarium Sanscritum (Berlin, 1830) giúp ích nhiều cho việc học tiếng Phạn ở Đức.
Otto von Böhtlingk và Rudolph Roth: Biên soạn bộ Tự điển Phạn ngữ gồm 7 cuốn, được Hàn lâm viện Khoa học ở St. Petersburg xuất bản từ 1852, đến 1975 thì hoàn thành.
Về sau, còn có những cuốn ngữ pháp và từ điển tiếng Phạn đã được Kielhorn, Whitney, Monier-Williams, v.v... biên soạn phục vụ cho việc học hỏi và nghiên cứu văn hóa Ấn Độ.
Chỉ trong vòng hơn một thế kỷ, với lòng hiếu học, niềm say mê và bằng phương pháp khoa học, người Âu Mỹ, đặc biệt là người Đức, đã nỗ lực sưu tầm, nghiên cứu và chuyển ngữ các tư liệu Phạn văn chính yếu của nền văn học Ấn Độ sang tiếng Anh, Pháp, Đức, đồng thời biên soạn các bộ sách ngữ pháp, cú pháp và từ điển tiếng Phạn. Những công trình đầy giá trị này chính là cơ sở thiết yếu ban đầu nuôi dưỡng cảm hứng, và làm bệ phóng cho sự phát triển bền vững việc học hỏi tiếng Phạn và nghiên cứu văn học tiếng Phạn của Âu Tây.
Hiện nay những đại học nổi tiếng như Heidelberg ở Đức; Sorbonne ở Pháp; Harvard, Berkeley, Wisconsin ở Mỹ; Oxford, Cambridge, London ở Anh v.v... đều đang tiếp nối sự nghiệp khả kính và lẫy lừng của các thế hệ trước. Những sinh viên theo ngành Cổ Ấn Độ học, hoặc Đông phương học, Phật học, đều phải học tiếng Phạn từ cấp cử nhân. Đối với sinh viên theo ngành Phật học, họ phải nắm vững tối thiểu hai cổ ngữ là Phạn-Pāli, Phạn-Hán, hoặc Phạn-Tạng. Trong hai cổ ngữ này, tùy theo ngành học, có một cổ ngữ chính, còn lại là cổ ngữ phụ.
* Việc dạy và học tiếng Phạn tại Việt Nam hiện nay
Hòa thượng nhận định thế nào về việc dạy và học bộ môn Phạn ngữ tại các trường Phật học tại Việt Nam hiện nay? Phải chăng tầm quan trọng của bộ môn này chưa được đánh giá đúng mức?
- Hiện nay, chỉ có hai trường Phật học tại Việt Nam có dạy tiếng Phạn đó là Học viện Phật giáo VN tại TP.HCM và Học viện Phật giáo VN tại Huế.
Tại TP.HCM, Học viện đã mở khoa Phật học Phạn ngữ kể từ khóa VI, năm 2006 và chỉ riêng Tăng Ni sinh theo học khoa này mới phải học tiếng Phạn. Vì chưa từng tiếp cận với Phạn ngữ, và phải bắt đầu từ vỡ lòng, nên Tăng Ni sinh khoa Phật học Phạn ngữ phải dành nhiều thì gian và nỗ lực cho việc học tiếng Phạn căn bản trong 2 năm đầu. Có như vậy họ mới có thể đủ vốn liếng để rèn luyện khả năng đọc và hiểu văn điển Phật giáo bằng tiếng Phạn của một số bộ môn khi bước vào 2 năm chuyên ngành. Ngoài tiếng Phạn ra, mỗi học kỳ họ còn phải học 4 bộ môn tổng quát khác. Việc ấy làm Tăng Ni sinh cảm thấy học khoa Phật học Phạn ngữ “căng” và khó hơn các khoa khác.
Với các khoa như Triết học Phật giáo, Phật học Trung Quốc, hay khoa Pāli chẳng hạn, Tăng Ni sinh cũng chỉ phải học tiếng Hán cổ, hay tiếng Pāli là những cổ ngữ mà họ khá quen thuộc, vì tối thiểu đã từng học ít nhiều ở các trường trung cấp Phật học. Chưa kể có người đã từng tiếp cận nó khi mới bước vào chùa. Tuy nhiên, với người học khoa Phật học tiếng Phạn, sau khi tốt nghiệp cử nhân, họ có lợi thế là đã được trang bị cổ ngữ Phạn thiết yếu cho việc tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu ở chương trình thạc sĩ và tiến sĩ Phật học. Đó như một đền bù công khó nhọc họ đã bỏ ra, cũng là điều mà Tăng Ni sinh các khoa bị thiếu.
Có thể khẳng định, để nghiên cứu chuyên sâu các thánh điển Phật giáo, người ta không thể không biết tiếng Phạn. Các đại học lớn ở Âu Mỹ cũng như Nhật Bản đã thấy điều này từ lâu. Vì vậy, đối với các sinh viên theo chương trình thạc sĩ và tiến sĩ Phật học tại các nước ấy, họ bị đòi hỏi phải biết tối thiểu hai cổ ngữ, trong đó có tiếng Phạn. Học viện Phật giáo VN tại TP.HCM đã thấy tầm quan trọng của tiếng Phạn đối với Phật học, nên đã mở khoa Phật học tiếng Phạn. Tuy nhiên theo hoàn cảnh cá biệt của Học viện, tiếng Phạn chưa được học tập phổ cập ở các khoa khác. Hiện nay chương trình đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ Phật học đã được mở lại, vai trò Phạn ngữ cần phải được đánh giá lại.
Một hệ thống tài liệu, giáo trình Phạn ngữ chuẩn mực và tiệm cận với thế giới phải chăng là điều mà chúng ta đang thiếu, thưa Hòa thượng?
- Hệ thống tài liệu, giáo trình Phạn ngữ bằng tiếng Anh, đủ chuẩn mực và tiệm cận với thế giới không thiếu. Cái chúng ta thiếu, hoặc không có nhiều hiện nay là các giáo tài Phạn ngữ bằng tiếng Việt. Cụ thể, chúng ta chưa có một bộ từ điển Phạn-Việt tiêu chuẩn. Về giáo trình, khoa Phật học Phạn ngữ của Học viện đang sử dụng bộ Giáo trình Phạn văn của Đại học Heidelberg, do Tiến sĩ Thomas Lehmann biên soạn và Tiến sĩ Đỗ Quốc Bảo biên dịch sang tiếng Việt. Về ngữ pháp, chúng ta hiện có cuốn Ngữ pháp tiếng Phạn do Giáo sư Lê Mạnh Thát biên soạn. Hy vọng trong một thời gian ngắn nữa, chúng ta sẽ có cuốn Ngữ pháp Phạn ngữ của Kielhorn và Cú Pháp Phạn ngữ của J. S. Speyer (Speijer), cũng đều đang được Tiến sĩ Đỗ Quốc Bảo soạn dịch sang tiếng Việt, nhất là sẽ có một bộ từ điển Phạn-Việt đủ tiêu chuẩn phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu tiếng Phạn của Tăng Ni sinh.
Trên cương vị Trưởng khoa Phật học Phạn ngữ - Học viện Phật giáo VN tại TP.HCM, Hòa thượng có những kỳ vọng nào với bộ môn mà mình đang đảm trách?
- Các Tăng Ni sinh của khoa Phật học Phạn ngữ - Học viện Phật giáo VN tại TP.HCM khi đã bắt đầu làm quen với tiếng Phạn, rồi đọc được các văn điển Phạn ngữ của Phật giáo, họ đều thấy ham thích. Đến nỗi khi chúng tôi theo đề nghị của chư tôn đức trong Hội đồng điều hành Học viện, hỏi ý kiến họ về việc giảm bớt một số bộ môn đọc hiểu văn điển Phật giáo tiếng Phạn, để giảm bớt độ khó và gánh nặng của chương trình, họ đều không chịu. Điều này cho thấy Tăng Ni sinh Việt Nam chúng ta nếu quyết tâm và chịu khó, họ đều có khả năng tiếp cận tốt tiếng Phạn, dầu tiếng Phạn có phần khó hơn các cổ ngữ khác.
Với sự quan tâm và đánh giá đúng mức của Học viện về tầm quan trọng của Phạn ngữ trong học thuật Phật giáo, nhiệt tình và nỗ lực của Tăng Ni sinh, cũng như sự hỗ trợ của các chuyên gia Việt Nam về Phạn ngữ, chúng tôi hy vọng sẽ có những chủ trương đúng đắn, và chương trình phù hợp giúp Tăng Ni sinh làm quen với mẫu tự Devanāgarī của Phạn ngữ, tiến đến nắm vững các ngữ pháp căn bản. Điều này sẽ giúp họ có thêm hứng thú học tập. Như vậy, những bước khởi đầu lâu nay của bộ môn Phạn ngữ của Học viện sẽ tiếp tục vững tiến, làm nền cho việc phát triển bộ môn Phạn ngữ tại Việt Nam, cũng như nâng cao nền Phật học nước nhà lên một tầm mới.
Chân thành cảm ơn Hòa thượng đã dành thời gian chia sẻ và cung cấp nhiều thông tin thú vị với bạn đọc Báo Giác Ngộ.
Giải Hạnh/Báo Giác Ngộ thực hiện
Nguồn: https://giacngo.vn/nghien-cuu-chuyen-sau-phat-hoc-khong-the-khong-biet-tieng-phan-post52349.html
SC. Thanh Trì - Phó Trưởng khoa Phật học Sanskrit
Ông Mibu, người bạn cùng thời nghiên cứu sinh tiến sĩ, ông là một tấm gương của sự nỗ lực. Từ một nghiên cứu sinh thạc sĩ thuộc chuyên môn khác, ông đã chuyển sang chuyên môn Phật giáo Ấn Độ khi vào học chương trình tiến sĩ, và bắt đầu các môn cổ ngữ Sanskrit, Tibet từ zero. Đó là một trường hợp hiếm.
Thông thường, ở môi trường Phật giáo học tại Nhật Bản, nếu đã theo chuyên môn Phật giáo Ấn Độ thì các cổ ngữ thuộc Phật giáo Ấn độ như Pāli, Sanskrit, Tibet được xem là đương nhiên cần phải biết. Đặc biệt nghiên cứu sinh cao học là những người học làm nghiên cứu, phương pháp phổ biến trong nghiên cứu của ngành này là văn bản học, nói cách khác, đối tượng nghiên cứu ở đây là văn bản, tức là hệ thống kinh luật luận thánh điển Phật giáo bằng nguyên điển Sanskrit hoặc Pāli. Nên nếu không biết các cổ ngữ này thì không thể nghiên cứu theo phương pháp văn bản học được.
Nói thêm vì sao chuyên môn Phật giáo Ấn Độ phải cần tiếng Tibet. Vì nguyên điển Sanskrit của Phật giáo Ấn Độ hiện không còn nhiều, có trường hợp còn nguyên vẹn, nhưng cũng có trường hợp chỉ còn những mảnh rách, cũng có trường hợp chỉ còn cái tên, hay một phần nội dung của nó, được xuất hiện ở một văn bản nào đó của hệ thống văn bản Phật giáo Ấn Độ. Nên các nhà nghiên cứu khi sử dụng những văn bản của hệ Phật giáo này, phần nào còn Sanskrit thì ưu tiên đọc từ nguyên điển, phần nào không còn nguyên điển thì phải sử dụng các bản dịch Hán văn hoặc Tạng văn. Trong trường hợp này, do đặc trưng ngôn ngữ Tây Tạng có nguồn gốc gần gũi với Sanskrit, từ các từ ngữ của dịch văn Tây Tạng có thể suy đoán ra được từ vựng của nguyên điển Sanskrit, nên ưu tiên sử dụng bản dịch tiếng Tây Tạng. Việc này là để có thể truy trở lại nguyên ngữ Sanskrit của từ đó là gì, và từ nguyên ngữ đó mà hiểu về ý nghĩa và tư tưởng của văn bản này.
Việc học cổ ngữ để lý giải về văn bản như thế thì đương nhiên không thể học xong chương trình ngữ pháp của môn cổ ngữ là đủ, mà điều quan trọng là người học phải chính thức đọc hiểu nhiều văn bản trong thực tế, vì mục đích của việc học cổ ngữ trong Phật học là để làm việc này. chỉ khi trải nghiệm nhiều văn bản như thế thì năng lực hiểu cổ ngữ mới được phát huy. Việc học văn bản này cần phải đong đếm bằng giờ học thực tế. Một người nói đã học cổ ngữ 5 năm nhưng chỉ học chương trình ngữ pháp, và một người chỉ học mới 3 năm nhưng đã trải qua việc đọc hiểu nhiều lần, thì năng lực cổ ngữ của hai trường hợp này khác khau là do số giờ học.
Ông Mibu đã bắt đầu việc học cổ ngữ muộn, nhưng ông đã bù bằng giờ học. Quả là mọi thứ đều có thể khi ta muốn bắt đầu.
Nguồn: https://phapluan.vn/phat-hoc/72-tieng-phan/1526-ve-viec-hoc-co-ngu-nhan-chuyen-nguoi-ban-cu
"Sau này, khi giảng Thành duy thức và Câu-xá cho một số thầy cô, tôi đã cố gắng nêu những điểm khó trong bản Hán mà nếu không biết đến ngữ pháp Sanskrit thì không thể hiểu được, với mục đích khơi dậy hứng thú học Phạn ngữ. Cụ thể như trong bài tựa Thành duy thức, Khuy Cơ sớ giải rất rõ, câu tụng “đảnh lễ Duy thức tánh” thuộc biến cách bảy (sở y/ư cách, Thuật ký: 聲境第七攝; Hán thường gọi là sở y cách 所依第七囀聲), và câu tụng “Mãn Phần thanh tịnh giả” thuộc biến cách bốn (sở dữ cách, 第四囀攝, 此梵本音。一切所敬皆第四囀故, Hán gọi là vị cách 第四為聲). Nếu không rõ ý nghĩa các biến cách danh từ này thì sẽ không biết “ai đảnh lễ ai ở đâu”. Thành duy thức không có nguyên bản Sanskrit, do vậy, các điểm ngữ pháp Sanskrit trong đó mà chắc chắn là Ngài Huyền Trang đã chỉ dẫn tường tận cho các đệ tử, đại phần chỉ dựa theo phân tích của Khuy Cơ.
[...] Các điểm ngữ pháp, bao gồm các quy tắc thanh luật, quy tắc cấu tạo từ đơn, hợp từ, phức pháp từ, và các quy tắc cú pháp, đều phản ánh các tiêu điểm tâm lý học và triết học, mà mỗi bộ phái y cứ trên tông nghĩa của phái mình để giải thích. Từ đó phát sinh các kiến giải bất đồng, và diễn ra tranh luận. Điều này được thấy rõ khi Thế Thân tranh luận với các nhà văn phạm học (Vaiyākaraṇa) về cấu trúc của phức hợp từ pratītya-samut-pāda. Các vị này cho rằng phức hợp từ được cấu thành sai quy tắc ngữ pháp. Hơn một trăm năm sau, Candrakīrti, trong Prasannapadā, trên cơ sở tánh không luận, đã phê bình các giải thích về từ này của các bộ phái trước đó.
Sanskrit thuộc loại ngôn ngữ đa âm tiết; mỗi từ được hợp thành bởi nhiều yếu tố. Các từ chuyển tải ý nghĩa của mỗi yếu tố, mặc dù được chỉ định như là từ chuyên biệt ngữ pháp, thảy đều mang nội hàm triết học, phản ảnh tư duy Ấn độ cổ đại. Lấy ví dụ, trong các từ được gọi là động từ, nó bao gồm phần chính mà ta gọi là ngữ căn hay gốc động từ, vốn dịch Việt của từ Anh verbal root, nguyên Phạn ngữ của nó là dhātu, Hán dịch là tự giới. Cùng với tiền tố prefix của nó, và hậu tố biến hoá của nó, termination, nguyên Phạn ngữ là pratyaya, Hán dịch là tự duyên. Từ dhātu mặc dù được dùng trong phạm trù ngữ pháp ở đây vẫn phản ánh tư duy triết học như trong các luận thư Abhidharma. Nội hàm của từ dhātu mang tính triết học trong bài tụng dưới đây dẫn từ Luận Nhiếp Đại thừa (Mahāyānasaṃgrahaśāstra) vẫn áp dụng cho từ dhātu như là động từ căn trong phạm trù ngữ pháp:
anādikāliko dhātuḥ sarvadharmasamāśrayaḥ |
tasmin sati gatiḥ sarvā nirvāṇādhigamo ’pi ca ||
Hiểu nội hàm của từ dhātu trong cả hai ngữ cảnh khác nhau này cho thấy mối quan hệ mật thiết trong tư duy triết học và tư duy ngôn ngữ học. Ý nghĩa này càng được thấy rõ tầm quan trọng khi trong nhiều Kinh đức Phật truy nguyên gốc của một từ thông dụng từ dhātu của nó. Chẳng hạn, khi nói về bản chất tồn tại của thế gian – loka, đức Phật nói: lujyate pralujyate tasmāl lokaḥ, cho thấy từ loka có ngữ nguyên của nó là luj. Nirukti, ngữ nguyên học, là một trong bốn vô ngại giải (pratisaṃvid) mà một Đại Thanh văn cần nắm vững để thấu triệt Phật ngôn đồng thời tuyên thuyết cho đại chúng. "
-- Trích "Lời giới thiệu của Hòa thường Thích Tuệ Sỹ"
trong Giáo trình Phạn văn của Thomas Lehmann và Đỗ Quốc Bảo --
"Người học Sanskrit, đi sâu vào ngôn ngữ này, sẽ thấy từ đơn, từ phức, hay cú pháp không chỉ là công cụ của tư duy, mà có thể nói mô hình cú pháp Sanskrit cũng chính là mô hình của tư duy. Điều này có thể được dẫn chứng từ Thánh điển, khi Tôn giả Maudgalyāyana (Mục-kiền-liên) không vượt qua sơ thiền để nhập đệ nhị thiền, Đức Phật xuất hiện và cảnh giác: "Hãy giữ Thánh mặc nhiên." Vì trong sơ thiền, trong trình độ còn hoạt động của tầm và tứ, वितर्कविचारौ vitarkavicārau, hai yếu tố quan trọng của hoạt động tâm lý được gọi là tư duy, và sự im lặng của bậc Thánh tức là lắng đọng tư duy như Thánh giả. Im lặng, tức không nói, đồng nghĩa với không tư duy. Các nhà Du-già hành, योगाचाररिणः yogācārariṇaḥ hay योगाचाराः yogācārāḥ, gọi tư duy - hoạt động của ý thức - là ý ngôn, मनोजल्पः manojalpaḥ. Cho nên, nắm vững các quy tắc cấu trúc ngữ pháp Sanskrit, mà ở đây gọi là cú pháp Phạn ngữ, thì mới có thể đi sâu vào những biện luận khúc chiết trong tranh luận giữa các luận sư trong và ngoài Phật giáo.
Điều rất thường thấy trong các luận thư Phật giáo, đối phương, thường giả định là các luận sư ngoài Phật giáo, lúc nào cũng sẵn sàng viện dẫn các quy tắc ngữ pháp để chứng minh quan điểm của mình đúng, hoặc lập luận của luận sư Phật giáo không vững. Như trường hợp tranh luận về पुद्गलः pudgalaḥ (bổ-đặc-già-la), một hình thái của आत्मा ātmā, tồn tại hay không tồn tại trong hành động tạo nghiệp. Vasubandhu giả thiết đối phương dẫn quy tắc của các nhà văn phạm, वैयाकरणाः vaiyākaraṇāḥ, phát biểu: सर्वो हि भावो भवितारमपेक्षते sarvo hi bhāvo bhavitāramapekṣate. Ý là muốn bác bỏ điều Phật nói: có tác nghiệp nhưng không có tác giả. Phát biểu này trước hết nhằm chứng minh phát biểu của Phật nói sai ngữ pháp, và như vậy không thể phủ nhận sự tồn tại của पुद्गलः pudgalaḥ như là आत्मा ātmā. Trong đây, mối quan hệ giữa hành động, điều mà ta nói là động từ, क्रिया kriyā, và tác giả hay chủ thể hành động, कर्ता kartā, được nói là भावः bhāvaḥ và भविता bhavitā. Chúng là hai từ phái sinh của ngữ căn √भू bhū. Ý nghĩa động từ này, cùng với động từ cùng loại như अस्ति asti, विद्यते vidyate, वर्तते vartate,... như được thấy trong tập Cú pháp Phạn ngữ này; hiểu rõ nội hàm và ngoại diện của chúng trong nhiều ngữ cảnh khác nhau sẽ hiểu được vì sao cặp đôi भाव-भवितृ bhāva-bhavitṛ được Vasubandhu trưng dẫn ở đây.
-- Trích "Lời giới thiệu của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ"
trong Cú pháp Phạn ngữ của J. S. Speyer, Đỗ Quốc Bảo biên dịch --
"Tiếng Phạn thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, xuất hiện cách nay khoảng ba ngàn rưỡi năm. Nó hình thành một nền văn học lớn trong lịch sử cổ đại và trung đại của Ấn-độ, bao gồm mọi lãnh vực, từ tôn giáo, triết học, văn chương, cho đến, chính trị, toán học, y học, thiên văn v.v..., và có ảnh hưởng sâu rộng trong các dân tộc trên thế giới, nhất là những dân tộc thuộc vùng Đông nam châu Á. Riêng đối với Phật giáo, tiếng Phạn là một trong bốn thánh ngữ, giữ một vai trò hết sức quan trọng về mặt văn bản học. Toàn bộ kinh điển của Nhất thiết hữu bộ và Phật giáo Đại thừa đều được lưu truyền bằng Phạn văn, sau đó mới được dịch sang Hán văn hay Tạng văn. Vì vậy, để nghiên cứu nghiêm túc các thánh điển Phật giáo thuộc các văn hệ ấy, tiếng Phạn là điều kiện không thể thiếu. Ngay cả khi tụng đọc các Thánh điển Phật giáo thuộc tạng Pāli, muốn nắm chính xác ý nghĩa các thuật ngữ hay định cú trong những văn bản này, người ta không thể không truy cứu về nguồn gốc tiếng Phạn của nó. Từ đầu thế kỷ thứ 19, Phật giáo Nhật Bản ý thức vai trò quan trọng này, họ đã gửi người sang Anh và Đức để học tiếng Phạn. Chủ trương đúng đắn ấy đã giúp họ thiết lập một nền tảng vững chắc cho việc phát triển sâu rộng sự nghiệp học tập và nghiên cứu Phật giáo của Nhật Bản."
-- Trích "Lời giới thiệu của Hòa thượng Thích Nguyên Giác" trong Ngữ pháp Phạn ngữ của Franz Kielhorn, Đỗ Quốc Bảo soạn dịch --
TT. Thích Giác Dũng
"Thứ hai, học vấn bậc cao của Phật giáo cần phải được triển khai chủ yếu dựa vào Tam tạng Thánh điển của Phật giáo. Do đó, cần phải xem xét phương pháp, nền tảng để nghiên cứu Phật học là văn bản học, đây cũng là khuynh hướng chung của các ngành Phật học trên toàn thế giới. Hiện chúng ta vẫn chưa thực sự chú trọng phương pháp này.
Thứ ba, để chuẩn bị cho việc nghiên cứu theo phương pháp văn bản học chúng ta cần phải chú trọng bốn loại cổ ngữ căn bản của Thánh điển Phật giáo, đó là Pāli, Sanskrit, Hán văn và Tây Tạng. Ngoài ra, còn chuẩn bị các sinh ngữ cần thiết để học viên đọc, hiểu, tiếp cận với các nghiên cứu Phật học trên thế giới. [...]
Vốn dĩ mục đích của việc học Phật là để hiểu biết, tu hành, và hoạt động cống hiến cho xã hội theo tinh thần Phật giáo. Trong một xã hội hiện đại vốn đòi hỏi một nền học vấn đầy đủ cơ sở lý luận theo chuẩn mực của hiện đại, học vấn Phật giáo của các quốc gia trên thế giới cũng đã được triển khai theo phương hướng này. Đã đến lúc chúng ta cũng cần phải nhìn nhận lại việc giáo dục cao học. Thứ nhất, để đáp ứng nhu cầu học cao hơn bậc đại học trong Tăng tín đồ Phật giáo. Thứ hai, là để Phật giáo Việt Nam có cơ sở vững chắc cả về học thuật trong một xã hội hiếu tri".
-- Trích phát biểu của TT. Thích Giác Dũng tại Lễ công bố quyết định, ra mắt nhân sự, triển khai phương hướng hoạt động của ban Giáo dục Phật giáo Trung ương GHPGVN nhiệm kỳ 2022-2027 --
HT. Thích Tuệ Sỹ
"Câu chuyện sau đây thường được viện dẫn mỗi khi đề cập đến phong cách phiên dịch của La-thập. Trong khi dịch kinh Pháp hoa, phẩm “Ngũ bách đệ tử thọ ký”, đến đoạn văn mà trong bản dịch trước đó, Chánh pháp hoa, Trúc Pháp Hộ 竺法護 dịch như sau: 天上視世間,世間得見天 上,天人世人往來交接 [31], “Trên trời nhìn thấy thế gian, thế gian được thấy trên trời. Người trên trời và người dưới thế qua lại giao tiếp.” La-thập cho rằng dịch như thế thì sát tiếng Phạn thật, nhưng nghe quê mùa. Nguyên đoạn này, theo bản Phạn mà chúng ta có ngày nay như sau: [devavimānāni cākāśasthitāni bhaviṣyanti] devā api manuṣyān drakṣyanti manuṣyā api devān drakṣyanti/[32] Chúng ta cần dẫn thêm một đoạn trước mới có thể nói đến ngữ khí trong tiếng Phạn của toàn đoạn. Đoạn văn này mà dịch sát sang tiếng Việt cũng có thể nghe khá ngây ngô. Có thể ví dụ như lời của một bản nhạc, hát lên nghe hay, nhưng lấy tiêu chuẩn văn viết mà thưởng thức, thì lời nhạc cũng rất ngây ngô. Cho nên, người không thưởng thức được “nhạc lý” trong tiếng Phạn thì cũng khó mà thưởng thức cái hay của những đoạn văn tương tợ. Thật sự Hán không sao có thể dịch sát đoạn Phạn này được. Vì trong đó có vấn đề số và biến cách các của từ, và thì thái của động từ. Nhưng nếu người mà cảm nhận trọn vẹn văn khí Phạn ở đây, và cũng hiểu được văn khí ngây ngô trong đoạn Hán dịch, thì đó phải là người thông thạo cả hai thứ tiếng.
Trong khi La-thập chưa biết nên dịch thế nào cho đúng ý nguyên bản mà cũng không nghe quê mùa trong tiếng Hán, bấy giờ Tăng Duệ 僧叡 đề nghị, “há không phải muốn nói rằng 天人交接,兩得相見: trời người giao tiếp, hai bên thấy nhau.” La-thập khen hay. [33] Trong trường hợp như vậy thì cần ý dịch. Nhưng trường hợp như vậy không phải là ít.
Mặt khác, La-thập truyền Phật giáo vào Trung hoa, muốn người Trung hoa hiểu Phật giáo theo truyền thống của chính người Hán, qua phong cách ngôn ngữ Hán, do đó chủ trương ý dịch. Quýt phương bắc mang trồng phương nam, ngọt có thể thành chua. Nhưng phân bón thế nào để giữ được vị ngọt. Tất nhiên không còn vị ngọt như phương bắc nữa. Ngọt nhiều hơn hay ít hơn đều có thể xảy ra.
Trong khi đó, Huyền Trang là người Hán, muốn hiểu Phật pháp mà nguồn gốc từ Ấn độ, hiểu Phật pháp từ Ấn độ như chính người Ấn, do đó chủ trương trực dịch. Cả hai đều thành công, nhưng không cùng một hướng. Huyền Trang chỉ thành công trong việc truyền bá Du-già tông mà Phật giáo Trung hoa gọi là Pháp tướng tông. La-thập thành công trong việc xây dựng điều mà Phật giáo Trung hoa gọi là Pháp tính tông. Tính và Tướng, tuy một mà hai, tuy hai mà một. Trong điều gọi là Pháp tính tông gầy dựng cơ sở bởi La-thập, dấu vết Ấn-độ của Long Thọ hay Đề-bà mờ nhạt. Những ai nghiên cứu Trung luận, qua các bản tiếng Phạn, và bản dịch Tây tạng, với các luận của Long Thọ, Đề-bà, Phật Hộ, Thanh Biện, và cả Nguyệt Xứng sau này, tất thấy rõ điều này. Về phía kia, trong Duy thức truyền bởi Huyền Trang, bóng dáng của Vô Trước, Thế Thân còn có thể thấy rõ.
Nhưng trực dịch hay ý dịch thảy đều không phải là giải pháp lý tưởng để hiểu một hệ tư tưởng khác với truyền thống của mình. Cho nên, Ngạn Tông chủ trương, để có thể thấu hiểu Phật pháp, giải pháp tốt nhất là học tiếng Phạn. "
-- Trích Một số vấn đề ngữ pháp trong các bản dịch Phạn - Hán của HT. Thích Tuệ Sỹ --
[31] 正法華經卷第五, T9n263, tr.95c28.
[32] Saddharmapuṇḍarīka-sūtram, romanized and revised text of the Bibliotheca Buddhica Publication, Tokyo 1958; p. 178.
[33] 高僧傳卷第六 T50n2059, tr. 364b02.
Nguồn: https://thuvienhoasen.org/a36838/mot-so-van-de-ngu-phap-trong-cac-ban-dich-phan-han