HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP. HCM
SINH VIÊN PHẬT HỌC SANSKRIT
CHÀO MỪNG
ĐẾN VỚI KHOA PHẬT HỌC SANSKRIT !
SINH VIÊN PHẬT HỌC SANSKRIT
CHÀO MỪNG
ĐẾN VỚI KHOA PHẬT HỌC SANSKRIT !
THÀNH LẬP QUỸ ĐÀO TẠO VÀ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC SANSKRIT
-----o0o-----
Ngày 23/11/2024, Đức Đại lão Hòa thượng Pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. HCM đã thay mặt Hội đồng Điều hành Học viện ký quyết định thành lập Quỹ Đào tạo và Nghiên cứu Phật học Sanskrit và ban hành kèm theo Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ.
Theo đó, Quỹ Đào tạo và Nghiên cứu Phật học Sanskrit, gọi tắt là Quỹ Phật học Sanskrit, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận nhằm hỗ trợ công việc đào tạo và nghiên cứu khoa học tại Khoa Phật học Sanskrit, khẳng định tầm nhìn, tôn vinh giá trị của Học viện trong công cuộc đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài trong lĩnh vực Phật học Sanskrit, góp phần phục vụ các mục tiêu thực tiễn của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong việc phục vụ nhân sinh.
Quỹ được hình thành từ nguồn vốn đóng góp ban đầu của nhóm tài trợ và tự tạo vốn trên cơ sở vận động, đóng góp tự nguyện, tiếp nhận tài trợ của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Để biết thêm thông tin chi tiết về Quyết định thành lập, Điều lệ tổ chức và hoạt động Quỹ Đào tạo và Nghiên cứu Phật học Sanskrit, truy cập: https://www.vbu.edu.vn/thong-bao/quyet-dinh-ve-viec-thanh-lap-quy-dao-tao-va-nghien-cuu-phat-hoc-sanskrit-va-ban-hanh-dieu
Minh Tuệ
(Để biết thêm chi tiết hãy nhấn vào mục sau)
CẢM NHẬN CỦA CÁC TĂNG NI SINH VIÊN
KHI ĐƯỢC TIẾP XÚC VỚI CỔ NGỮ SANSKRIT
VÀ ĐƯỢC HỌC TẬP TRONG KHOA PHẬT HỌC SANSKRIT
-----o0o-----
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Con là Thích Nữ Như Cảnh, cựu sinh viên khoa Phật học Sanskrit XIV của Học viện Phật giáo Việt Nam tại Tp. HCM.
Con được tiếp xúc với Sanskrit qua sự truyền đạt của Ôn Già Lam qua khóa XIV ở Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. HCM. Cảm nhận lần đầu tiên học Sanskrit của con rất kỳ diệu. Con có niềm vui kéo dài trong suốt một tuần sau khi học bài Sanskrit đầu tiên, đó là bảng chữ cái Devanāgarī. Con cảm thấy ngôn ngữ Sanskrit này rất khoa học, rõ ràng, như Toán học. Con phải học thuộc các bảng biến cách danh từ và biến vị động từ, cùng với các luật liên thanh để có thể đọc văn bản. Và mỗi lần vấn đề hóc búa của văn bản được giải quyết, con cảm thấy rất hạnh phúc vì như mình vừa chinh phục được một thử thách.
Mới ban đầu con nhìn thấy nét chữ ngoằn ngoèo con cảm thấy sợ hãi, vì không biết làm thế nào có thể nhớ hết bảng chữ cái. Nhưng đó không phải là vấn đề lớn khi con học tiếp đến những bài sau, vì sự thiết kế vô cùng khoa học của sách Giáo trình Phạn văn của Tiến sỹ Đỗ Quốc Bảo và Tiến sỹ Thomas Lehmann. Nếu chúng ta chăm chỉ học thuộc quy tắc và làm bài tập dưới sự hướng dẫn của giảng viên, chúng ta sẽ có thể chinh phục được môn cổ ngữ này.
Hiện nay con đang tiếp tục hành trình Sanskrit tại Đại học Pune, Ấn Độ. Con xin nhắn nhủ đến quý Tăng Ni sinh viên muốn học Sanskrit rằng: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông." Con xin ở phương xa hoan nghênh quý Tăng Ni bước vào khoa Phật học Sanskrit để cảm nhận được sự kỳ diệu của cổ ngữ Sanskrit.
Con là một cựu sinh viên khoa Phật học Sanskrit, Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. HCM, đã tốt nghiệp được một năm nay. Nếu như quyết định vào Học viện đã mở ra một trang mới cho quá trình tu học thì việc chọn lựa khoa Phật học Sanskit là một điều may mắn lớn và là bước ngoặt cho sự tiến bộ trong sự nghiệp tu học của mình.
Phật học Sanskrit là một chuyên ngành Phật học có liên quan đến Sanskrit. Đó là một loại ngôn ngữ mang tính chất quốc tế lưu truyền trong các quốc qia chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa xưa (như các vùng Nam Á, Trung Á, Đông Nam Á,...), thậm chí ngành khảo cổ học còn phát hiện một vài thủ bản Phạn văn của Bà-la-môn tại Ai Cập. Tính chất quốc tế của nó tương tự như vai trò của chữ Hán tại khu vực Đông Á hay chữ Hy Lạp cổ tại khu vực Địa Trung Hải vậy. Vì thế, Sanskit được chọn làm ngôn ngữ tiêu chuẩn để ghi chép và sáng tác các văn bản trong các lãnh vực tôn giáo, chính trị, văn hóa, nghệ thuật, ...
Sanskrit là ngôn ngữ được ưu tiên học hỏi trong nghiên cứu Phật học tại các nước trên thế giới hiện nay. Chúng con được biết rằng tại các nước như Nhật, Mỹ, Đức, Áo, Anh, Nga, Ấn Độ,..., sinh viên phải học ít nhất hai trong bốn Thánh ngữ (gồm Sanskrit, Pāli, Hán, Tây Tạng) và Sanskit là môn cổ ngữ bắt buộc, ba cổ ngữ còn lại là môn tự chọn tùy theo hướng nghiên cứu. Lý do đơn giản là các văn bản Hán văn hay Tạng văn vốn được dịch từ nguồn Sanskrit. Khi nghiên cứu Phật học Nam truyền, muốn hiểu rõ các thuật ngữ Pāli, ta cũng phải đối chiếu và truy nguyên về từ gốc của người Ấn xưa, tức Sanskrit. Chúng ta cần ý thức một điều là đạo Phật khởi nguồn từ Ấn nên đạo Phật sẽ phản ánh rõ nét lối tư duy, văn hóa và lịch sử của người Ấn. Cho nên, việc nghiên cứu Phật học một cách bài bản không nên tách rời với việc học hỏi Sanskrit. Nhờ nó, chúng ta mới có khả năng nắm vững các tư liệu gốc, các từ nguyên hay các khái niệm Phật học đã bị biến đổi qua các thời kỳ lịch sử để tránh những sự hiểu lầm tai hại đưa đến nhiều kiến giải bất đồng.
Có nhiều khám phá thú vị trong quá trình học hỏi, chẳng hạn như Sanskrit là loại ngôn ngữ phản ánh tính chất chặt chẽ trong cấu trúc tư duy logic và độ sáng sủa của ý nghĩa ngôn từ. Việc ký âm cho từ cũng rất rõ ràng, âm nào chữ đó. Vì thế, nghĩa lý trong các câu kinh văn Sanskrit rất là minh bạch.
Những gì vừa chia sẻ là những sự hỗ trợ to lớn mà Sanskrit mang lại cho chúng con trong hơn một năm rời ghế nhà trường để tiếp tục học hỏi và nghiên cứu Phật học. Những kiến giải đúng đắn khai thông nhiều bế tắc trong sự thực tập. Đó là lợi ích thiết thực nhất mà người tu đáng được hưởng từ sự học hỏi.
Con được biết nhiều quý thầy cô thuộc khoa Phật học Sanskrit ước mơ rằng trong tương lai có khả năng thực hiện được một cuốn ngữ pháp Phạn văn mà trong đó các ví dụ hay bài tập đều được trích dẫn từ trong những kinh văn Phật giáo bằng Phạn văn vừa thiết thực, vừa tiết kiệm thời gian. Có vài vị có tham vọng dịch hoặc hiệu chính lại các bộ Kinh, Luật, Luận Sanskrit và quan tâm hơn nữa về Chánh lý, đặc biệt phong phú trong Đại tạng Tây Tạng. Nguyện vọng thì chính đáng, nhưng con đường phía trước thực sự rất dài. Vì trước hết, chúng ta cần phải học giỏi Sanskrit đã.
Kính chào quý Thầy Cô! Con là cựu tăng sinh khoa Phật học Sanskrit khoá XV, pháp danh NGUYÊN SĨ. Thật sự, khi mới bước vào môi trường của Học viện Phật giáo, tâm lý của con cũng như quý Thầy/ Cô vậy, rất là băn khoăn không biết chọn ngành nào để theo đuổi trong ba năm học, nhưng may thay vào ngày khai giảng năm học mới, được nghe lời giới thiệu về chuyên ngành Phật học Sanskrit bởi Ôn Trưởng khoa, con rất ấn tượng và không chút do dự gì, con đã đăng kí chuyên ngành ngay hôm ấy.
Tiếng Sanskrit với các dạng chữ cổ như Brāhmī, Kharoṣṭhī, Gupta, Nāgarī, Siddhaṃ, Devanāgarī, sẽ giúp người học truy nguyên từ gốc tiếng Sanskrit của những thuật ngữ Phật học, mà chữ Hán vốn không thể chuyển tải hết được ý nghĩa. Ngay cả tiếng Anh được cho là ngôn ngữ được phần lớn thế giới sử dụng, nhưng chính nó cũng không thể chuyển tải hết nội hàm của các văn bản Phạn văn trong Phật giáo. Đại dịch giả, Tam tạng pháp sư Cưu-ma-la-thập, nhà phiên kinh vĩ đại từ Phạn văn sang Hán văn vào thế kỷ V, có câu nói rằng: “Học Phật điển bằng dịch ngữ là như ăn thức ăn của người khác nhai rồi nhổ ra” (Cao tăng truyện, truyện La-thập). Các truyền bản Hán văn của hệ thống Trung quán trong 『大正藏』Đại Chánh tạng, một ví dụ, để ta thấy tầm quan trọng của Sanskrit.
Thứ nhất, trong『中論』Trung luận, Long Thọ (龍樹, नागार्जुन Nāgārjuna) tạo, Thanh Mục (青目) thích, Cưu-ma-la-thập (鳩摩羅什) dịch vào đời Hậu Tần (Diêu/Dao Tần), có đoạn:
「不生亦不滅
不常亦不斷」
“Bất sanh diệc bất diệt
Bất thường diệc bất đoạn”
(『大正藏』, vol. 30, no. 1564, p. 1b14)
Thứ hai, trong 『般若燈論釋』 Bát-nhã đăng luận thích, một bản chú thích cho『中論』của Phân Biệt Minh (分別明), tức Thanh Biện (清辯, भाविवेक Bhāviveka), do Ba-la-phả-mật-đa-la(波羅頗蜜多羅) dịch vào đời Đường, có đoạn:
「不滅亦不起
不斷亦不常」
“Bất diệt diệc bất khởi
Bất đoạn diệc bất thường”
(『大正藏』, vol. 30, no. 1566, p. 51c15)
Thứ ba, trong 『順中論』Thuận Trung luận, một bản chú thích khác cho 『中論』của Vô Trước (無着, असण्ग Asaṅga), do Bát-nhã-lưu chi (般若流支) dịch vào đời Nguyên Ngụy, cũng có đoạn:
「不滅亦不生
不斷亦不常」
“Bất diệt diệc bất sanh
Bất đoạn diệc bất thường”
(『大正藏』, vol. 30, no. 1565, p. 39c25)
Tham chiếu Phạn văn:
अनिरोधमनुत्पादमनुच्छेदमशाश्वतं
Anirodham anutpādam anucchedam aśāśvataṃ
“Không tịch diệt cũng như sự không sinh khởi,
Không gián đoạn cũng không thường hằng”.
(Mūlamadhyamakakārikā I.1ab, Nguyên Sĩ dịch)
Như vậy, chúng ta thấy rằng, trong ba truyền bản Hán dịch đã dẫn trên thì hai bản sau trung thành với bản Phạn, đều dịch अनिरोधम Anirodha là「不滅」“bất diệt”. Riêng truyền bản của La-thập đưa 「不生」“bất sanh” ra trước so với bản Phạn. Đây là điểm đáng lưu ý mà có thể đặt vấn đề rằng: Mục đích hoán đổi vị trí của La-thập là gì, phải chăng chỉ để tạo sự hài âm hay còn dụng ý nào khác? Mặc dù sự nghiệp phiên dịch đã thành công lớn với nhiều dịch phẩm có ảnh hưởng tuyệt đối trong các quốc gia có nền văn hoá chữ Hán, nhưng qua lời dạy trên cho thấy, đối với La-thập, chân ý của việc phiên dịch chỉ là cung cấp cho người học bước ban đầu, muốn hiểu nguyên ý của giáo pháp nhà Phật, thì người học cần phải tiếp xúc với Phật điển Phạn văn. Vì vậy, Sanskrit thực sự rất hữu ích đối với những ai muốn chuyên sâu Phật học.
Tiếng Sanskrit được người Trung Hoa gọi là tiếng Phạn, nghĩa là thứ tiếng được người Tây Trúc dùng để lưu truyền kinh điển Phật giáo. Khi các vị cao Tăng của Tây Trúc qua truyền đạo bên Trung Quốc thì vấp phải vấn nạn lớn đó chính là việc phiên dịch kinh điển từ tiếng Phạn sang tiếng Hán. Vì nhiều lí do trong lúc dịch thuật nên các Ngài đã chọn các cách dịch khác nhau như dịch ý và dịch bám sát nguyên nghĩa của bản Phạn. Ví dụ, ta có thể thấy được từ “chúng sanh” hay “hữu tình”; nguyên tiếng Phạn là sattva được cấu thành từ động từ căn là √as có nghĩa là thì, là (be). Theo cách Ngài La-thập dịch từ sattva thành chúng sanh có thể hiểu là các hình thái tồn tại của một loài trong một địa giới nào đó trong ba cõi (cõi Dục, cõi Sắc và cõi Phi Sắc), sáu đường (trời, người, A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh). Cách dịch trên của Ngài La-thập được quy ước là cựu dịch. Còn theo cách dịch của Ngài Huyền-trang được gọi là Tân dịch thì dịch sattva là hữu tình; sát nghĩa từng chữ như ‘sat’ là hữu, ‘tva’ là một đuôi taddhita mang nghĩa trạng từ có nghĩa là có tính chất, hay trạng thái… Từ đó, ta có thể suy ra từ Hữu tình hay Hữu tính có nghĩa là các loài có nhận thức, tình cảm đối nghĩa với vô tình; hoặc là tính chất, trạng thái tồn tại trong các Hữu nên gọi là Hữu tình. Riêng nghĩa “chúng sanh” đã có nghĩa bao hàm cả các loài hữu tình như trời, người, A-tu-la,… và vô tình như đất, đá, cây, cỏ…
Từ những cách giải nghĩa ở trên có thể thấy rằng mỗi chữ Phạn đã có nhiều cách dịch khác nhau và tùy theo cách hiểu và diễn tả mỗi vị lại cho ra mỗi phiên bản ngữ nghĩa khác nhau. Nhưng người Trung Quốc khi phiên dịch từng chữ tiếng Phạn đã có nhiều cách như vừa dịch vừa phiên âm như chữ Phật-đà (佛陀) từ chữ Buddha, hoặc Du-già-hành (瑜伽行) từ chữ yogācara; hay dịch bằng phiên âm tất cả các từ mà không có nghĩa gì hết như Cưu-ma-la-thập (鳩摩羅什) từ Kumārajīva hoặc phân-đà-lợi (分陀利) có nghĩa là hoa sen trắng bắt nguồn từ chữ Phạn là puṇḍarīka; hoặc có thể dịch bằng cách dịch nghĩa của chữ như Tịnh Danh (淨名) hay Vô Cấu Xứng (無垢稱) từ chữ vimalakīrti,… Đối với chữ Hán có tính cách đặc biệt là khi tạo chữ có sáu cách thành lập như chỉ sự, tượng hình, hình thanh, hội ý, chuyển chú, giả tá. Nếu ta dùng cách triết tự chữ Hán của Trung Quốc ta có thể thấy chữ Phật (佛) khi tách ra từng bộ như chữ nhân (亻) có nghĩa là người và chữ phất (弗) có nghĩa là trừ đi. Thì theo cách Hội ý ta có thể thấy chữ Phật (佛) là người đã trừ đi hết bụi trần của thế gian nên gọi là Phật. Từ đó, ta có thể thấy người Trung Quốc đã có sự thông minh và uyển chuyển khi phiên dịch tiếng Phạn sang tiếng Hán.
Như những gì đã trình bày ở trên, ta có thể thấy học tiếng Phạn là một cách để hiểu sâu sắc lời dạy của đức Phật cũng như sự tài tình trong vấn đề phiên dịch của những bậc cao Tăng đã dày công suy nghĩ để hình thành một khuôn khổ kinh điển có tính chuẩn mực đến ngày nay.
Vậy Phật giáo Việt Nam có cần phải học tiếng Phạn hay không? Điều này chúng ta cần khẳng định là có sự cần thiết rất lớn trong việc học đạo và tu đạo. Vì bất kì một tư tưởng nào bị lệch lạc thì từ hành vi và lời nói sẽ bị lệch lạc theo những gì người đó đã học, tiếp thu và thực hành một cách máy móc. Học tiếng Phạn là một cách để giúp chúng ta hiểu đa chiều hơn về những văn bản Hán đã được phiên dịch và ta có thể hiểu được lí do gì, vì sao nó lại được dịch ra như vậy. Nếu chúng ta xem xét một cách tỉ mỉ từ việc phiên dịch của các Ngài thì chúng ta có thể thấy được một tiến trình hệ thống triết học Phật giáo đã được hình thành xen kẽ trong quá trình phiên dịch. Điều này ta có thể tìm thấy trong các bản Kinh Đại thừa và các bản luận được dịch từ Ngài La-thập và Huyền-trang.
Điểm lợi thứ nhất trong quá trình học tiếng Phạn là chúng ta có thể thấy sự dị biệt hoặc một số chỗ có thể dẫn đến hiểu sai về Kinh điển. Như trong kinh Lăng-già có đoạn “Ngài không biến mất trong Niết bàn, Niết bàn cũng không trụ trong Ngài; vì Niết bàn vượt khỏi cái nhị biên về được giác ngộ và giác ngộ cũng như những chuyển đổi giữa hữu và phi hữu” (HT. Chơn Thiện & Trần Tuấn Mẫn dịch, tr.88).[1] Nếu chúng ta đọc hiểu một cách đơn thuần thì thấy rằng Niết-bàn là sở chứng của Đức Phật, là Thánh Trí nội chứng của Ngài. Nó không phải là đối tượng để Ngài an trú, và tự thể Niết-bàn cũng không trụ trong Ngài vì Niết-bàn không phải là thứ để có thể tự giác ngộ và cũng không phải là đối tượng để giác ngộ, xa lìa cặp có-không. Thoạt nhìn thì ta thấy câu này như là một công án thiền đáng để lãnh hội, nhưng nếu suy xét kĩ thì ta thấy rằng nếu Đức Phật không vào một Niết-bàn, hay không có một Niết-bàn nào trụ trong Ngài. Vậy thì Niết-bàn mà cái được gọi là sở chứng của các Thánh đệ tử Đa-văn và cõi vĩnh hằng mà mọi người mong ước đạt đến là một cái mơ hồ viễn tưởng chăng?! Loại trừ vấn đề nhầm lẫn trong bản dịch của Ngài Suzuki thì ta có thể tham chiếu thêm ba bản Hán dịch khác để đối chiếu
Guṇabhadra 求那跋陀羅 (T 670, p480b6)
一切無涅槃 無有涅槃佛
無有佛涅槃 遠離覺所覺
若有若無有 是二悉倶離
Bodhiruci 菩提留支 (T 671, p519a9-11)
佛不入不滅 涅槃亦不住
離覺所覺法 有無二倶離
Śikṣānanda 實叉難陀 (T 672, 590c8-9)
佛不住涅槃 涅槃不住佛
遠離覺不覺 若有若非有
Khi chúng ta đối chiếu giữa bản dịch của Suzuki với các bản Hán thì ta thấy rằng bản dịch của Suzuki tuy là có đối chiếu với bản Phạn nhưng khi dịch thẳng vào bản Phạn thì ta thấy có điểm khác biệt sau đây:
na nirvāsi nirvāṇena nirvāṇaṃ tvayi saṃsthitam | buddhaboddhavyarahitaṃ sadasatpakṣavarjitam || 2.7 ||[2]
Dịch Việt:
Ngài chẳng nhập Niết-bàn
nơi một Niết-bàn nào,
là bởi vì Niết-bàn
không phải năng sở giác,
tách rời cặp có không.
an trú ở trong Ngài. //7//[3]
Khi đối chiếu bản dịch Việt của HT. Nguyên Giác khi dịch trực tiếp bản Phạn thì ta thấy có đôi chút khác biệt với các bản Hán và bản Anh ở chỗ là Niết-bàn vốn dĩ đã ở trong Ngài nên không có cái gì gọi là nhập hay không nhập, và thể tính của Niết-bàn vốn không phải là đối tượng để có một người nào đó chứng ngộ và coi nó là sở chứng của chính mình, và ai còn chấp vào Niết-bàn là một thực thể hiện tồn trong trí tưởng tượng thì người đó vẫn còn bám dính vào sự phân biệt hai phạm trù lĩnh vực hiện hữu là có và không. Khi chúng ta đọc bản dịch Việt được dịch trực tiếp từ bản Phạn thì ta có thể có góc nhìn và cách hiểu chân thật, rõ ràng chứ không bao hàm một lý thuyết triết học mơ hồ khiến người đọc và người giảng cảm thấy bế tắc ngôn từ. Có thể nói nếu ta đọc bản dịch Việt từ bản Phạn vừa nêu thì chúng ta cũng có thể hiểu ngay đến Như Lai tạng và Phật tính vốn hiện hữu ngay nơi ta thì cần đâu phải đi tìm, và cần đâu phải gọi đó là giác hay sở giác; vì khi ta lãnh ngộ được nhất chân lìa bỏ nhị biên phân biệt thì thể tánh tự nhiên hiển hiện.
Hoặc khi chúng ta đọc bản Bát-nhã tâm kinh thì có một số điểm để chúng ta lưu tâm và hiểu đúng. Như đoạn:
舍利子是諸法空相不生不滅不垢不淨不增不減
Dịch Việt:
Xá-lợi-tử! các pháp này là không tướng, không sanh không diệt, chẳng phải nhơ, chẳng phải tịnh, không tăng không giảm.
Theo bản Phạn:
Iha śāriputra sarvadharmāḥ śūnyatālakṣaṇā anutpannā aniruddhā amalā na vimalā nonā na paripūrṇāḥ /
Ở đây , Thu tử ! hết thảy các pháp mà tướng của chúng ở trong trạng thái vắng bặt (của tâm) thì chúng không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không vơi, không đầy . (HT. Nguyên Giác dịch)
Khi chúng ta so sánh cách dịch chữ Hán từ bản Phạn thì ta có thể thấy “các pháp này” là chủ từ còn những từ đằng sau nó đều là thuộc từ phẩm định tính chất cho chủ từ. Nhưng khi ta đối chiếu theo bản Phạn thì ta vẫn có thể hiểu theo bản Hán mà Ngài Huyền Tráng đã dịch; đặc biệt hơn chỗ người dịch Việt là đã tách sarvadharmāḥ śūnyatālakṣaṇā thành hợp từ bahuvrihi như sau: sarvadharmāḥ śūnyatāya santi lakṣaṇāni yeṣam (hết thảy các pháp mà các hình tướng ở trong trạng thái vắng bặt). Ở đây, ta thấy từ ‘không tướng’ không còn là một thuộc từ để phẩm định cho từ ‘các pháp’ mà nó được hiểu là một tính từ độc lập quan hệ với chủ từ được phẩm định bằng những tính từ trước nó. Vậy thì những từ như bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm sẽ phẩm định tính chất cho ‘không tướng’ [hình tướng ở trong trạng thái vắng bặt của tâm].
Từ việc đọc hiểu được Phạn văn và so sánh đối chiếu các bản dịch khác của nó thì chúng ta có thể hiểu được Phật ngôn một cách đa chiều, không bị ràng buộc bởi ngôn phong người dịch, và từ đó chúng ta có cách nhìn phóng khoáng hơn cho việc học đạo và hành đạo.
Điểm lợi thứ hai là khi chúng ta hiểu được sâu sắc về giáo lý của Đức Phật trong quá trình đọc và đối chiếu các bản Phạn, Hán thì từ đó chúng ta mới hình thành được cái gọi là Phật giáo Việt Nam và Phật giáo rất Việt Nam vừa mang bản sắc Phật giáo giải thoát tự thân và Phật giáo nhập thế của người Việt với văn hóa người Việt có thể trong phạm vi nhỏ ảnh hưởng toàn bộ người Việt và mức độ lớn hơn là ảnh hưởng Phật giáo Việt Nam đến thế giới. Vậy cái gì được gọi là Phật giáo Việt Nam khác hẳn với Phật giáo Trung Quốc khi từ chiếc y, bình bát, cách thức sinh hoạt của người Việt lại là một khuôn của Phật giáo Trung Quốc. Về hình thức thì người Việt Nam đã khôn khéo du nhập và học hỏi những văn minh tiến bộ của các nước bạn. Nhưng về tư tưởng, lối sống sinh hoạt thì người Việt đã khôn khéo luồn lách và biến tấu nhưng văn hóa nước bạn thành cái đặc biệt của người Việt Nam.
Trên phương diện sinh hoạt tôn giáo chúng ta có thể bị ảnh hưởng rất nhiều của người Trung Quốc nhưng về tư tưởng và phương pháp hành đạo thì Phật giáo Việt Nam có đôi phần mộc mạc, và giản dị hơn người Trung Quốc. Như trong Cư trần lạc đạo phú có nói như sau:
“Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.”
Chánh nghiệp và chánh mạng của một người xuất gia chỉ đơn thuần làm sao tối giản nhất về việc ăn uống, sinh hoạt, và ngủ nghỉ để đa phần tập trung vào việc tu tập, quán sát tự thân hướng đến vô vi, an lạc hiện tại, và giải thoát tự thân khỏi mọi ràng buộc của thế gian. Theo như bản Bát-nhã tâm kinh vừa nêu trên: “Xá-lợi-tử! các pháp này là không tướng, không sanh không diệt, chẳng phải nhơ, chẳng phải tịnh, không tăng không giảm” thì ta thấy rằng ở đây chính là sự chứng ngộ của vô tướng tâm định. Tâm an vui, tự tại không bị dính mắc bất kì thứ gì ở trên thế gian này. Vậy thì cần phải tìm kiếm sự giác ngộ đâu xa nơi bổn tâm thanh tịnh, duyên cảnh mà thức [sự phân biệt] chẳng hiện. Ấy chính là tâm của người ngộ đạo khi thấy được bản chất của sự vật, sự việc.
Điều tiên quyết trong bát chánh đạo chính là chánh kiến, để có được chánh kiến đúng đắn cần có sự tư duy sâu sắc. Khi khái niệm danh ngôn và định tính cho đối tượng của tâm bị sai lệch thì sự phát khởi của hành vi và lời nói cũng sẽ bị sai lệch theo. Điều này không phải do người vị phiên dịch Hán từ Phạn mà do không gian, phạm vi hiểu của mỗi người có khác nên không thể nào truyền tải hết được toàn bộ ý nghĩa của một từ, một câu, một đoạn, và của cả một bản Kinh.
Thật là thiếu xót khi mỗi người chúng ta là một hành giả học Phật khi còn đang mờ hồ ngập chìm trong các bản Hán dịch, và chỉ còn nếm một chút vị bọt bèo từ các bản dịch Việt từ Hán. Khi tiếp xúc với Phạn văn, người học sẽ nhận được cái nhìn đa chiều và tư duy sâu sắc về ngôn từ của Phật; và những cấu trúc ngữ pháp đặc biệt của tiếng Phạn như một từ được hình thành từ ngữ căn, ngữ cán, đến cách thành lập một danh từ phái sinh để chúng ta hiểu được nguyên nhân hình thành hệ thống triết học của người Ấn dựa trên ngữ pháp Sanskrit. Từ việc thẩm định nội dung sâu xa đối với những ngôn từ của Phật mà hình thành nên hệ thống chánh lý đồ sộ dựa trên sự cấu trúc ngôn ngữ của tâm và hình thức diễn đạt lời nói thông qua quá trình tư duy về ngôn ngữ. Chữ Hán tuy cũng là một ngôn ngữ thanh nhã, sang trọng, nhưng về hình thức diễn đạt là đơn âm tiết so với tiếng Phạn là đa âm tiết sẽ vướng phải những hiểu lầm không đáng có; cũng như về hình thái triết học của tiếng Phạn ở trong ngôn từ thì chữ Hán chưa thể biểu đạt hết. Nhưng vấn đề này lại được tháo gỡ dễ dàng thông qua việc đối chiếu bản Phạn với các bản Hán dịch khác nhau.
Tóm lại, việc học tiếng Phạn là một điều quan trọng với hành giả học Phật ở xã hội hiện nay là một điều rất quan trọng. Nó giúp chúng ta hiểu sâu sắc lời Phật mà chính tự thể bản thân mình có được mà không phải quá lệ thuộc vào tư tưởng Phật giáo Trung Quốc. Chính sự hiểu và thấu đạt Phật ngôn một cách mộc mạc, giản dị mà không phải thông quá chương trình rập khuôn nào khiến người hành đạo sẽ dễ dàng tiếp cận với mọi đối tượng, với mọi thành phần tri thức. Học tiếng Phạn sẽ giúp người học Phật càng hiểu sâu sắc các bản luận thư Phật giáo của Ấn Độ lẫn Phật giáo Trung Quốc từ sớ giải của chư Tổ để lại đến các bản tự sớ giải của bản thân mình từ hệ quy chiếu trên một người đã học Phạn văn. Và có thể nói rằng từ việc học Phạn thì những cánh cổng chân trời mới về Phật pháp sẽ được rộng mở cho những ai muốn tìm hiểu tính đa nguyên của nhân sinh và vũ trụ thông qua góc nhìn Phật pháp một cách sâu sắc nhất.
------------------------
Chú thích:
[1] The Laṅkāvatara sutra, Daisetz Teitaro Suzuki, Routledge and Kegan Paul LTD, 1932. Thou dost not vanish in Nirvāṇa, nor is Nirvāṇa abiding in thee; for it transcends the duality of knowing and known and of being and non-being.
[2] The Laṅkāvatāra sūtra, Bunyiu Nanjio, M.A (Oxon), D. Litt, Kyoto At the Otani University press, 1923, p.23.
[3] Thể nhập Chánh pháp Lăng-già (1), Nguyên Giác dịch & lược giải. Nxb Hồng Đức 2023; tr.36.
Qua việc được tiếp xúc với cổ ngữ Sanskrit và được học tập trong khoa Phật học Sanskrit, riêng con có cảm nhận đầu tiên đó chính là sự nỗ lực, chăm chỉ và hăng say học tập. Điều ấy không phải là do tự bản thân mình mà chính trong môi trường học tập này đã rèn luyện nên những con người nỗ lực, chăm chỉ và hăng say học tập. Thứ kế, với việc học cổ ngữ Sanskrit thì chúng ta sẽ đọc được các văn bản kinh luận Đại thừa bằng tiếng Sanskrit, đó là việc mà chúng con đã và đang làm được, do đó chúng con nghĩ rằng quý thầy cô cũng sẽ làm được và tốt hơn chúng con nữa.
Thượng tọa Thích Giác Dũng tại Lễ công bố quyết định, ra mắt nhân sự, triển khai phương hướng hoạt động của ban Giáo dục Phật giáo Trung ương GHPGVN nhiệm kỳ 2022-2027, có phát biểu rằng:
“Vốn dĩ mục đích của việc học Phật là để hiểu biết, tu hành, và hoạt động cống hiến cho xã hội theo tinh thần Phật giáo. Trong một xã hội hiện đại vốn đòi hỏi một nền học vấn đầy đủ cơ sở lý luận theo chuẩn mực của hiện đại, học vấn Phật giáo của các quốc gia trên thế giới cũng đã được triển khai theo phương hướng này. Đã đến lúc chúng ta cũng cần phải nhìn nhận lại việc giáo dục cao học. Thứ nhất, để đáp ứng nhu cầu học cao hơn bậc đại học trong Tăng tín đồ Phật giáo. Thứ hai, là để Phật giáo Việt Nam có cơ sở vững chắc cả về học thuật trong một xã hội hiếu tri”
Thật vậy, chúng ta là những người con Phật thì việc học cổ ngữ có mục đích chính là để tìm hiểu, nghiên cứu Phật học, đặc biệt khi học cổ ngữ Sanskrit và qua quá trình rèn luyện học tập trong khoa Phật học Sanskrit, chúng con hiểu rằng không phải để mình giỏi hơn người khác hay đi hơn thua với đời mà để chúng ta có thêm nhiều cơ hội đọc được các văn bản cổ của Phật giáo, tiếp cận với nền minh triết hơn hai nghìn năm qua của Phật giáo được truyền trì trong kho tàng Thánh điển Phật giáo, đồng thời chúng con cũng tiếp cận với nền Phật học của thế giới hiện nay. Điều này làm cho chúng con cảm nhận được một dòng chảy pháp lưu từ ngàn xưa cho đến ngày nay, có những đợt sóng lớn, cũng có những lúc chảy êm đềm mà lan tỏa đến khắp vùng miền tri thức của nhân loại.
Chúng con muốn gửi tâm tư với quý thầy cô, Tăng Ni sinh viên rằng cổ ngữ Sanskrit theo như lời đồn chúng ta có thể nghe ít nhiều là rất khó nhưng để tìm hiểu và nghiên cứu Phật học một cách đúng mức thì nó cũng không phải chướng ngại gì to lớn lắm trong đời tu của chúng ta. Việc từ bỏ gia đình và người thân để chúng ta bước vào đạo mà mình còn làm được thì việc học cổ ngữ Sanskrit trong mấy năm học ở Học viện thì chưa có gì gọi là khó khăn lớn lao so với bước đường tu của chúng ta đúng không quý thầy cô? Cái khó trong việc học cổ ngữ Sanskrit không phải vì chữ nghĩa hay cú pháp khó mà chính bởi vì chúng ta không cho mình một cơ hội. Một cổ ngữ khó học mà các thế hệ tiền bối đi trước chúng ta đã học được và quý thầy cô bây giờ vẫn đang tiếp bước thì đây là điều rất trân quý là điều cần tán dương và ca ngợi.
“Cần cù bù thông minh” đây là câu nói ông bà xưa chúng ta vẫn thường nói, học cổ ngữ Sanskrit hay học bất kỳ cái gì trong đời thì việc chuyên cần không thể bỏ qua. Không biết chúng ta có năng khiếu tới đâu nhưng nếu không có sự đều đặn thì sự việc khó mà thành công. Với bản thân con đã từng học khoa Phật học Sanskrit XV, điều mà làm cho con có động lực trong khi học đó là con thích viết những mẫu tự chữ cái Devanagari. Mới đầu khi nhìn vào, con thấy chữ gì mà dính liền như một đám rừng nhưng trong thời gian học và thậm chí sau khi đã tốt nghiệp, con vẫn yêu thích con chữ mà mình đã từng học. Ngày xưa quý thầy lớn họ học Sanskrit chỉ có một mình và tài liệu để hỗ trợ cho việc học cũng rất khó khăn, ít tài liệu. Nhưng giờ đây có rất nhiều người bạn bên cạnh và tài liệu hỗ trợ cho việc học nên chúng ta có nhiều lợi thế hơn các thế hệ đi trước. Vì vậy, có thể nói việc chúng ta đi học là tốt nhưng chọn cổ ngữ nào và khoa nào để chúng ta có thể tiếp cận được với văn bản gốc mà chư Phật và chư Thánh đức Tổ sư đã truyền dạy qua các kinh luận Đại thừa, nhất là trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền thì chúng ta hãy quán chiếu thật kỹ. Và một điều mà con học hỏi được từ Ôn Trưởng khoa Phật học Sanskrit, Ôn dạy đại ý như này: học Phật học mà không biết Sanskrit thì không cách nào giải quyết được những vấn đề như câu cú và ngữ nghĩa trong tư tưởng của Phật giáo.
Qua đó quý thầy cô có thể thấy Sanskrit đóng vai trò rất quan trọng trong việc học và nghiên cứu văn bản Phật học. Đồng thời việc chọn cổ ngữ Sanskrit là một bước đi nếu không vội kết luận là hết sức quan trọng thì cũng tạm kết rằng đó là nấc thang vững chắc để quý thầy cô có thể bước xa hơn trên con đường tu học và hoằng pháp lợi sinh, và cả con đường nghiên cứu học thuật Phật giáo ở bậc cao học, tiến sĩ và cả hậu tiến sĩ nữa.
Cảm xúc đong đầy, nhưng ngại văn chương dài dòng, chúng con chỉ xin chia sẻ cùng với quý thầy cô bấy nhiêu. Với bản thân con mặc dù đã tốt nghiệp ra trường rồi nhưng việc học Sanskrit vẫn còn rất thích thú vì con thấy chữ Phạn rất hay và rất yêu con chữ mà mình đã từng học. Và mong rằng khoa Phật học Sanskrit trong tương lai được quý Tôn đức hỗ trợ và quan tâm, nhiều thầy cô thấy được tầm quan trọng của Sanskrit và đăng ký học, để nền Phật học Việt Nam được hưng khởi và có nhiều sắc thái mới trong những chặng đường phía trước. Chúng con và quý giảng viên trong khoa luôn sẵn sàng để hỗ trợ cho quý Thầy Cô.
KHI CON ĐƯỢC ĐẮM CHÌM TRONG THẾ GIỚI CỔ NGỮ SANSKRIT
Lần đầu tiên con nhìn thấy những ký tự Sanskrit, cảm giác như mình đứng trước một cánh cửa mở ra một thế giới hoàn toàn mới. Những nét chữ uốn lượn như dẫn dắt con lạc vào một khu rừng rậm rạp, với những cây cổ thụ cao lớn và những con đường mòn tối tăm, mang theo một sức mạnh huyền bí. Việc học Sanskrit đã giúp con rèn luyện tính kiên nhẫn và sự bền bỉ. Con học được rằng, để đạt được mục tiêu, bản thân cần phải vượt qua những khó khăn và không ngừng cố gắng.
Con đường học cổ ngữ Sanskrit không phải lúc nào cũng trải đầy hoa hồng. Mỗi ngày, con phải đối mặt với các cấu trúc ngữ pháp phức tạp và hệ thống chữ viết vừa quen thuộc vừa xa lạ. Những giờ học căng thẳng với các ký tự và từ ngữ lạ lẫm đôi khi khiến con cảm thấy nản lòng. Có những đêm, con thức trắng vì cố gắng dịch một câu kinh, cảm giác như mình đang lạc vào một mê cung chữ nghĩa. Nhưng rồi, khi bình minh ló dạng, con lại tìm thấy động lực để tiếp tục. Con thường tự hỏi liệu mình có thể cân bằng giữa việc tu tập và sự nỗ lực học tập khổng lồ này không? Tuy nhiên, chính những thử thách ấy đã trở thành những bài học quý giá, tôi luyện cho con sự kiên trì và nhẫn nại. Mỗi lần giải quyết được một bài tập khó, mỗi lần làm sáng tỏ một cấu trúc ngữ pháp phức tạp, con cảm thấy mình trưởng thành hơn. Những nỗ lực và công sức không ngừng nghỉ đã giúp con vượt qua những khó khăn ban đầu và biến chúng thành động lực để tiếp tục chinh phục những thử thách mới.
Có một khoảnh khắc con sẽ không bao giờ quên: Đó là lần đầu tiên con đọc được một đoạn kinh Bát-nhã bằng chính ngôn ngữ gốc. Cảm giác đó thật sự không thể diễn tả bằng lời. Mỗi từ, mỗi câu trong đoạn kinh như đang nói lên những chân lý sâu sắc và thiêng liêng, làm bừng sáng tâm hồn con. Đọc những dòng chữ cổ xưa ấy, con cảm thấy như mình đã tìm thấy một kho tàng vô giá, một chìa khóa mở ra cánh cửa của trí tuệ và sự giác ngộ. Sự hài lòng và hạnh phúc tràn ngập trong con, như một dòng suối mát lành dội vào những khao khát bấy lâu của tâm hồn. Con không chỉ cảm nhận được sự kết nối với các bậc thầy vĩ đại từ quá khứ mà còn cảm thấy mình đang bước vào một hành trình mới, đầy hứa hẹn và tràn ngập ý nghĩa.
Học Sanskrit giống như một cuộc hành trình khám phá một vùng đất mới, nơi có những phong cảnh tuyệt đẹp. Việc học Sanskrit đã giúp con hiểu rõ hơn về nguồn gốc và sự phát triển của Phật giáo. Con cảm nhận được sự kết nối sâu sắc với các bậc Tổ đức và truyền thống, và qua đó, các khái niệm Phật học trở nên rõ ràng và ý nghĩa hơn. Con đã học được cách áp dụng các giáo lý vào cuộc sống hàng ngày và cảm nhận được sự thay đổi tích cực trong cách tiếp cận và ứng dụng các giáo lý Phật giáo.
Con muốn gửi gắm lời khuyên chân thành đến quý thầy cô những ai đang có ý định theo đuổi con đường học tập này: Hãy kiên trì và đam mê. Việc học Sanskrit không chỉ là một hành trình chinh phục ngôn ngữ mà còn là một cơ hội để khám phá và làm phong phú thêm tâm hồn của người con Phật. Đừng ngại chia sẻ những khó khăn và trải nghiệm của mình, vì chính những câu chuyện đó có thể là nguồn cảm hứng lớn cho những người khác."
Con là Huệ Bình, cựu Tăng sinh Khoa Phật học Sanskrit XVI.
Nhớ lại ngày đầu, khi đó đang còn dịch Covid, khi chuẩn bị đăng ký học khoa Phật học Sanskrit, lúc đó thực sự trong lòng con cũng rất lo lắng. Nỗi lo đầu tiên là chính bản thân mình chưa từng tiếp xúc với môn Cổ ngữ này thế thì làm sao mà theo kịp bài, theo kịp mọi người đây? Lỗi lo thứ hai là thấy không nhiều người đăng ký như mình, không biết mình đăng ký vậy thì Khoa có mở hay không. Thế rồi khi hôm họp mặt online những người học cổ ngữ Sanskrit, chúng con đem những thắc mắc ấy thưa trình lên Hoà Thượng trưởng khoa. Ôn nói rằng sẽ dạy căn bản từ đầu, cho nên những người chưa từng học Sanskrit cũng có thể theo học được. Đồng thời Ôn nói rằng Khoa Sanskrit là Khoa đặc biệt ,chỉ cần 5 người học trở lên là vẫn có thể mở chuyên Khoa. Lời ôn nói khiến chúng con yên tâm phần nào.
Lúc đầu khi tiếp xúc với các mẫu tự Devanagari cảm giác thấy khó nhớ vì số lượng mẫu tự nhiều hơn so với tiếng Việt. Đó là chưa kể sự biến đổi của các hình thái mẫu tự khi ghép các phụ âm với nhau… vv… rồi qua mấy bài căn bản chúng con cũng dần nhớ được các mẫu tự.
Tiếp tục học qua khoảng 10 bài trong Giáo trình Phạn văn thì việc học Cổ ngữ không còn khó khăn như trước nữa. Tiếp đến trong các giờ giảng của Ôn và các vị Giáo Thọ, khi tìm hiểu về nghĩa của từ thì chúng con được giảng giải phân tích đến từ nguyên tức là từ đó xuất phát từ gốc căn động từ nào. Đến đây, việc học cổ ngữ Sanskrit trở nên hấp dẫn và thú vị. Có những từ, thuật ngữ Phật học trước đây bản thân chúng con hiểu nghĩa mơ hồ hoặc không chính xác nay được hiểu rõ ràng và chính xác hơn. Đặc biệt, là những hợp từ trong tiếng Phạn, những hợp từ này tùy theo cách hiểu của từng vị dịch giả là loại hợp từ gì dẫn đến sự dị biệt trong cách dịch. Đồng thời cách hiểu hợp từ khác nhau mang nội hàm ý nghĩa tư tưởng triết học khác nhau.
Học về Phật học Sanskrit giúp cho chúng con hiểu sâu sắc và chuẩn chỉnh hơn về các thuật ngữ Phật giáo. Tiếc là thời gian học ở Học Viện không nhiều chúng con chưa được học nhiều điều về Sanskrit từ Ôn và các vị Giáo Thọ trong Khoa. Thế nhưng chúng con cảm thấy rằng những gì đã được học trong 8 kỳ ở Khoa Phật học Sanskrit sẽ là những nền tảng rất hữu ích, giúp ích cho chúng con rất nhiều trên lộ trình thâm nhập kho tàng Thánh giáo sau này.
Chúng con xin thầm cảm ơn mọi nhân duyên đã đưa chúng con tới Khoa Phật học Sanskrit. Đặc biệt chúng con xin thành kính tri ân tới Ôn Trưởng Khoa đã tận tụy, tâm huyết với nền Phật học Sanskrit nước nhà, đồng thời chúng con thành kính tri ân chư vị Giáo Thọ trong Khoa đã bao học kỳ hướng dẫn cho chúng con - cho dù lớp học chúng con rất ít người cũng chẳng hề quản ngại. Thầm nguyện Tam Bảo gia hộ cho Ôn Trưởng Khoa và chư vị Giáo Thọ luôn mạnh khỏe, khang an để tiếp tục dẫn dắt những hàng hậu học hữu duyên với Khoa Phật học Sanskrit sau này.
Mình là Tâm Liêm sinh viên khoa Phật học Sanskrit XVI xin được chia sẻ với các bạn!
Sau khi học khoa này, mình cảm nhận được là mình thật may mắn khi được học với nhiều bậc Cao đức, giảng viên chất lượng về Phật học làm cho mình có thêm nhiều năng lượng hơn trong việc nghiên cứu học hỏi sâu hơn về lời Phật dạy, như Ngài Quy sơn đã nói: “Tảo phóng Minh Sư thân cận cao đức, quyết trạch thân tâm khử kỳ kinh cức!". Có thể là mình đã không cảm thấy hao phí một chút thời gian nào, mình có được nhiều lợi ích sau khi trải qua ba năm ở Học viện, và mình có nhiều hạnh phúc cho những nỗ lực của mình.
Khi chọn cổ ngữ Sanskrit sẽ là chìa khóa giúp cho mình giải mở nhiều về vấn đề thuật ngữ, tư tưởng Phật học. Có thể văn phạm của Sanskrit giúp bộ não mình hoạt động tốt hơn như đang học Toán. Và sau khi học xong khsa này bạn sẽ có khả năng đi xa hơn, sâu hơn vào việc nghiên cứu tu tập Thanh văn tạng và Bồ-tát tạng. Đây là vài lời chia sẻ của chính bản thân mình khi được học tập cổ ngữ Sanskrit và khoa Phật học Sanskrit. Chúc mọi người có nhiều hạnh phúc và lợi lạc trong những ngày tu học ở Học viện!
Việc học cổ ngữ Sanskrit đối với con có lẽ là một cơ duyên đã được nhen nhóm từ lâu. Từ lúc con còn chưa vào trường Phật học, con tình cờ thấy một sư cô tại chùa học ngôn ngữ này, con đã rất thắc mắc “làm sao một ngôn ngữ ngoằn ngèo như vậy mà sư có thể học được và liệu mình học có thể được hay không”. Thời gian trôi qua, khi vào trường Trung cấp Phật học, tuy con không được tiếp xúc với ngôn ngữ này, nhưng trong lòng vẫn quyết tâm phải học cho bằng được. Và rồi khi vào HVPGVN con đã chọn khoa Phật học Sanskrit. Tuy rằng có rất nhiều người ngăn cản, không muốn con học vì ai cũng cho rằng ngôn ngữ này rất khó và con học sẽ không nổi và khuyên con hãy chọn khoa khác mà học. Nhưng mọi người càn ngăn cản thì con càng muốn học. Trong quá trình học con đã gặp không ít khó khăn bởi hệ thống ngữ pháp phức tạp và đã có lúc con muốn bỏ cuộc, nhưng rồi, niềm đam mê và sự kiên trì, cảm giác chinh phục từng quy tắc, từng từ mới mang đến cho con niềm vui lớn lao để vượt qua tất cả.
Con nhận ra rằng, Sanskrit không chỉ là một ngôn ngữ, mà còn là một kho tàng tri thức vô giá, giúp con mở rộng tầm nhìn và hiểu sâu hơn về lời Phật dạy. Sanskrit đã dạy con sự kiên trì và nỗ lực. Con hiểu rằng, để thành công, cần phải có thời gian và cần có sự kiên nhẫn và nổ lực không ngừng. Việc học Sanskrit giúp con nhận ra rằng kiến thức của mình còn hạn hẹp và cần phải học hỏi nhiều hơn trên con đường nghiên cứu Phật học.
Con, Tăng sinh Lớp cổ ngữ Sanskrit khóa XVII có vài lời chia sẻ khích lệ quý Thầy Cô học cổ ngữ Sanskrit (6 kỳ) cũng như có ý muốn học khoa Phật học Sanskrit. Đó là Sanskrit tuy sẽ là các mẫu tự mới, nhưng nếu tập trung học được 2 buổi là quý Thầy Cô sẽ không khó khăn gì trong việc viết chữ cũng như đánh máy. Thứ hai là ngữ pháp cũng rất chặt chẽ và Thầy Cô nào có biết Anh văn thì lại càng thấy thú vị. Thứ ba là những vị nào học giỏi hay khá Hán cổ rồi thì nên mạnh dạn gác lại Hán cổ trong môi trường này để bắt đầu cho mình một ngôn ngữ mới - ngôn ngữ này càng học về sau, mình sẽ thấy nó bao hàm tất cả các ngôn ngữ khác, hoặc chí ít là nó làm cơ sở để hiểu rõ hơn vấn đề mà Hán văn không làm được. Hoặc còn muốn học chữ Hán thì chọn thêm Trung văn Phật pháp làm sinh ngữ để học song song (con cũng đang học như vậy, và sẽ không quên chữ Hán mà lại được thêm Sanskrit).
Kính thưa quý Thầy Cô!
Con pháp danh là Thiện Nhân, ni sinh khoa Anh văn Phật pháp XV. Nếu quý Thầy Cô tham khảo về chương trình đào tạo của khoa Anh thì sẽ thấy rằng ngành học của con không hề liên quan đến Sanskrit vì Pāli là cổ ngữ bắt buộc. Khi tham gia một lớp học Sanskrit online (vì nhầm lẫn), con vô tình hiểu được một số điểm ngữ pháp và hình thức kết hợp của từ trong câu của Pāli mà con thắc mắc (dù đã tham khảo rất nhiều giáo trình nhưng con không hiểu được). Con bắt đầu theo học Sankskrit vào học kỳ cuối ở Học viện và tiếp tục đăng ký học sau khi đã tốt nghiệp.
Cá nhân con thấy rằng, học Sanskrit không đơn thuần là học một ngôn ngữ, quý Thầy Cô sẽ thấy được một bầu trời minh triết đằng sau nó. Bên cạnh đó, cái cảm giác khi chính mình hiểu được kinh văn bằng ngôn ngữ gốc là không thể diễn tả được (quý Thầy Cô sẽ được Ôn trưởng khoa dạy cho bản tâm kinh Bát-nhã bằng Sanskrit từ những bài học đầu tiên). Hơn nữa, con có biết một số thầy cô học lên những cấp học cao hơn như Thạc sĩ hay Tiến sĩ, khi làm luận văn về những đề tài về Phật giáo Đại thừa thì giáo sư hướng dẫn đều bắt buộc họ phải trích dẫn những tài liệu gốc bằng Phạn văn; và điều hiển nhiên, họ phải mất thời gian để học Sanskrit lại từ đầu.
Phần lớn Tăng Ni sinh chúng ta đều có ý tưởng cho rằng “QUÁ KHÓ” khi nói đến Sanskrit vì ngữ pháp phức tạp, rồi cả mẫu tự Devanāgarī (mọi người hay đùa là chữ gì mà như mấy con đỉa đeo cây sào hay như cây sào phơi đồ). Khó thì nó khó thật vì không phải là ngôn ngữ của mình, nhưng nếu không thử thì làm sao biết được nó có thực sự khó như mình nghĩ. Con nhớ lúc học Ôn Trưởng khoa luôn nhắc tụi con: Nếu muốn học được tiếng Phạn, đầu tiên hãy loại bỏ chữ “khó” ra khỏi đầu của anh.
Nếu quý Thầy Cô muốn biết nó như thế nào thì hãy thử học và trải nghiệm bằng chính bản thân. Biết đâu được, đây là cơ hội để chúng ta vượt qua được giới hạn của bản thân. Chúc quý Thầy Cô có niềm hỷ lạc trong Pháp học!
Trước đây, khi chưa biết gì về Sanskrit, con nghĩ biết hay không biết cũng không quan trọng. Nhưng sau khi nghe một người bạn trong khoa Phật học Sanskrit chia sẻ về ngôn ngữ này, con bắt đầu cảm thấy tò mò và hứng thú. Đến khi được Ôn Trưởng khoa chia sẻ về lợi ích của Sanskrit đối với người học Phật thì con quyết định sẽ học ngôn ngữ này. Thật sự Sanskrit không hề dễ học. Từ mẫu tự Devanāgarī đến ngữ pháp của nó đều cần người học phải hết sức chăm chỉ, kiên nhẫn và bền bỉ. Học thì khó nhớ nhưng rất dễ quên. Khó nhưng không có nghĩa không thể học được. Hãy cứ kiên trì thôi.
Ôn có nói vui rằng: “Chúng ta bỏ ra ít năm để học ngôn ngữ này, để hiểu cả một nền văn minh mấy ngàn năm thì cũng có sao đâu”. Suy nghĩ thật kĩ thì: Người học Phật phải biết Sanskrit. Vì vậy, chúng ta phải nên cho mình cơ hội để được làm một người học Phật nghiêm túc. Chúng ta sẽ được tiếp cận những bản Kinh, những bộ Luận với tâm thế của người có thể hiểu một cách chính xác hơn thông qua việc biết Sanskrit. Đó là điều cực kì quan trọng. Hiểu sâu và hiểu đúng.
Mọi người sẽ có nhiều lựa chọn khi vào học trong môi trường này. Tuy nhiên, chúng ta cũng thử học một ngôn ngữ mới, sẽ rất thú vị và ý nghĩa. Và cuối cùng ai mà chọn học cổ ngữ Sanskrit thì cũng vào học Khoa Phật học Sanskrit nhé!