Phần I. Đọc hiểu (4,0 điểm)
Đọc văn bản sau
Kẻ kỳ sĩ ở hạt Quốc Oai, họ Văn tên là Dĩ Thành[1]tính tình hào hiệp, không chịu để ma quỷ mê hoặc. Phàm những hoa yêu nguyệt quái, và dân thần lệ quỷ không được liệt vào tự điển, chàng đều coi thường không sợ hãi gì. Cuối đời Trùng Quang nhà Trần[2], người chết chóc nhiều, những oan hồn không chỗ tựa nương, thường họp lại thành từng đàn lũ, hoặc gõ cửa hàng cơm để kiếm miếng ăn, hoặc đón cô gái chơi để kết duyên tạm, ai va chạm thì bệnh nguy khốn, ai cầu cúng thì thấy hết phép hay, hoành hành ở đồng nội không biết kiêng sợ gì cả. Dĩ Thành nhân lúc say rượu, cưỡi ngựa đi đến, bọn ma quỷ sợ hãi, đều tan chạy cả.
( Lược một đoạn: Dĩ Thành dùng lời lẽ thu phục chúng quỷ. Chúng cho ông biết vì muốn thêm quân nên gieo rắc tai hoạ cho người dân. Hơn nữa, ở Âm Ty xương gò rầu rĩ cỏ rêu và không ai cấm cản nên chúng kết thành bè cánh để xoay xở miếng ăn. Bằng lời nói thấu tình đạt lí cũng như hành động phi phàm “ăn như mưa như gió” trong bữa tiệc, Dĩ Thành đã thu phục được chúng quỷ. Lũ quỷ muốn Dĩ Thành dù ở dương gian nhưng cũng có thể làm thủ lĩnh của chúng)
Dĩ Thành nói:
- Nếu bất đắc dĩ dùng đến ta, ta có sáu điều làm việc, các người phải thề mà tuân theo mới được.
Chúng đều vâng dạ, nhân xin đến đêm thứ ba tới chỗ đó lập đàn. Đến kỳ, chúng quỷ đều lại họp. Có một tên quỷ già đến sau, Sinh sai đem chém, ai nấy đều run sợ. Sinh bèn ra lệnh rằng:
- Các ngươi không được coi khinh mệnh lệnh, không được quen thói dâm ô, không quấy quắc để làm hại mạng của dân, không cướp bóc và phải cứu nạn cho dân, ban ngày không được giả hình, ban đêm không được kết đảng. Nghe mệnh ta thì ta làm tướng các ngươi, trái lệnh ta thì ta trị tội các ngươi. Nghe rõ lời ta, đừng để hậu hối.
Đó rồi bèn chia bọn chúng ra từng bộ, từng tốt bảo phàm có điều gì hay dở, phải đến bẩm trình.
Như vậy được hơn một tháng, một hôm đương lúc ngồi nhàn, Dĩ Thành thấy một người tự xưng là sứ giả của Minh Ty, đến xin mời chàng đi. Dĩ Thành toan lảng tránh, thì người ấy nói:
- Đó là mệnh lệnh của đức Diêm vương. Vì ngài thấy ông là người cương nghị, định đem phẩm trật tặng cho, chứ không làm gì phiền ông đâu, đừng nên từ chối. Có điều là xin để cho ông được rộng kỳ hạn, ông sẽ tự đến, tôi đợi ông ở dọc đường.
( Lược một đoạn: Sau khi nói chuyện với Sử giả Minh Ty, Dĩ Thành gọi chúng quỷ lên để hỏi chuyện và được biết Diêm Vương thấy “buổi đời không yên” nên đã đặt ra bốn bộ Dạ Xoa, mỗi bộ cử một tướng cai quản. Dưới Diêm La, tuyển tướng cũng nghiêm ngặt, phải là người tài đức lừng danh và được chúng quỷ nể phục tiến cử. Sau khi chúng quỷ thuyết phục và suy nghĩ về lẽ sống chết trong cõi đời, Dĩ Thành trang xếp việc nhà rồi chết.)
Bấy giờ có người làng là Lê Ngộ, cùng Dĩ Thành vốn chỗ chơi thân, phiêu bạt ở vùng Quế Dương[3], ngụ trong một nhà trọ. Một hôm chừng quá canh một, Lê Ngộ thấy một người cưỡi ngựa thanh song, kẻ hầu đầy tớ rộn rịp, đến xin vào yết kiến. Chủ trọ vén mành ra đón. Lê Ngộ rất lấy làm lạ là tiếng nói của khách giống tiếng Dĩ Thành, nhưng trông mặt thì hơi khác, Lê Ngộ toan ra cửa để tránh thì khách nói:
- Cố nhân biết ông, ông lại không biết cố nhân là làm sao?
Nhân kể quê quán họ tên và nói mình đã lĩnh chức quan to ở dưới âm phủ, vì có tình cũ với Lê Ngộ nên tìm đến thăm.
(Lược đoạn cuối: Sau khi chết và nhận chức Tướng ở Minh Ty, Dĩ Thành đến thăm Lê Ngộ và báo cho Lê Ngộ biết về đại nạn của gia đình. Không chỉ vậy, Dĩ Thành còn giúp gia đình Lê Ngộ vượt qua đại nạn. Lê cảm ơn đức của Dĩ Thành bèn lập miếu ở nhà để thờ, mọi người đến xin đều ứng nghiệm.
(Lời bình: Dĩ Thành - một người biết trân quý tình bạn quả là đáng trọng)
(Trích Chuyện Tướng Dạ Xoa, Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ, NXB Trẻ, 2016)
Trả lời các câu hỏi từ 1 đến 5
Câu 1. Câu chuyện được kể theo ngôi thứ mấy?
Câu 2. Theo lời của sứ giả Minh Ty, Diêm Vương thấy Dĩ Thành có đức tính nào?
Câu 3. Các yếu tố kì ảo hoang đường trong truyện có tác dụng gì?
Câu 4. Lời kể “cuối đời Trùng Quang nhà Trần người chết chóc nhiều, những oan hồn không có chỗ tựa nương thường họp lại thành từng đàn lũ “ phản ánh hiện thực gì?
Câu 5. Từ câu chuyện của Dĩ Thành và Lê Ngộ cuối chuyện, bài học có ý nghĩa nhất đối với bản thân anh/chị là gì? Vì sao?
Phần II (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận về nhân vật người tiều phu trong đoạn trích sau:
Đất Thanh Hóa hầu hết là núi, bát ngát bao la đến mấy ngàn dặm. Có một ngọn núi cao chót vót, tên gọi là núi Na. Núi có cái động, dài mà hẹp, hiểm trở quạnh vắng không có chân người, bụi trần không bén tới. Trong động có người tiều phu hàng ngày gánh củi ra đổi lấy cá và rượu, cốt được no say chứ không lấy tiền. Ai hỏi tên họ nhà cửa, tiều phu chỉ cười mà không nói. Người chung quanh đều cho rằng đây phải là bậc kỳ sỹ ở ẩn. Khoảng năm Khai Đại nhà Hồ, Hán Thương đi săn, chợt gặp ở đường, vừa đi vừa hát rằng:
[…]
“Núi xanh bao bọc quanh nhà
Ruộng đem sắc biếc xa xa vòng ngoài
Ngựa xe võng lọng mặc ai
Nước non này chẳng trần ai vướng vào”
[…] Hát xong, phất áo đi thẳng. Hán Thương đoán là một bậc ẩn giả, bèn sai quan hầu là Trương Công đi mời. Nhưng Trương theo gần đến nơi thì tiều phu đã đi vào động, gọi cũng không trả lời, chỉ thấy rẽ mây lách khói, đi thoăn thoắt trong rừng tùng khóm trúc.
Biết không phải là người thường, Trương bèn rón bước đi theo, rẽ cỏ tìm đường.
[…]
Thấy Trương đến, tiều phu kinh ngạc hỏi:
- Chỗ này thanh vắng, đất thẳm rừng sâu, chim núi kêu ran, muông rừng chạy vẩn, thế mà sao ông lại lần tới đây, chẳng cũng khó nhọc lắm ư?
Trương trả lời:
- Tôi là chức quan tùy giá của đương triều; biết ngài là bậc cao sỹ nên vâng mệnh đến đây tuyên triệu. Hiện loan giá đang đợi ngoài kia, xin ngài quay lại một chút.
Tiều phu cười mà rằng:
- Ta là kẻ dật dân trốn đời, ông già lánh bụi; gửi thân nơi lều tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng, ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục; bạn cùng hươu nai tôm cá, quẩn bên là tuyết nguyệt phong hoa, đông kép mà hè đơn, nằm mây mà ngủ khói; múc khe mà uống, bới núi mà ăn, chứ có biết gì đâu ở ngoài kia là triều đại nào, vua quan nào.
(Trích Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na, Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ, NXB Văn nghệ, 1988)
Câu 2 (4,0 điểm)
Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ suy nghĩ về lối sống hết mình của tuổi trẻ.
[1]Quốc Oai: nay ở Hà Nội, còn có đền thờ Văn Dĩ Thành
[2] Trần Trùng Quang: Tên là Quý Khoáng, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Minh từ năm 1409- 1413, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, Trùng Quang bị bắt và bị giết, cũng như Trần Giản Định, ông được Quốc Sử coi là nhà Hậu Trần.
[3] Quế Dương: Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.