Phần I. Đọc hiểu (4,0 điểm)
Đọc văn bản sau
Chuyện chiếc xe thồ Điện Biên Phủ vào mỹ thuật
Hai kỳ tích nói lên đặc thù chiến tranh nhân dân trong chiến dịch Điện Biên Phủ là chiếc xe đạp thồ và kéo pháo bằng sức người ra mặt trận không chỉ đi vào thơ, nhạc mà cả họa.
Nhà điêu khắc Lưu Danh Thanh bên bức điêu khăc Cả nước ra trận
Tác phẩm điêu khắc Cả nước ra trận của nhà điêu khắc Lưu Danh Thanh là một dân công đang thồ hàng trên xe đạp ra mặt trận đang trưng bày tại triển lãm "Đường lên Điện Biên" ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. ....
Kỳ tích chiếc xe đạp thồ
Nhà điêu khắc Lưu Danh Thanh kể khi chiến dịch Điện Biên Phủ nổ ra, ông mới 14 - 15 tuổi. Thắng lợi quá lớn lao, vĩ đại của quân ta đã thôi thúc ông một ngày phải sáng tác về Điện Biên Phủ. Năm 2004, ông đi thực tế sáng tác tại Điện Biên. Nhận thấy nét riêng của chiến thắng ấy là đào giao thông hào và chiếc xe đạp thồ, sau nhiều ngày suy nghĩ tìm ý tưởng, ông quyết định phải sáng tác về đội quân xe thồ đặc biệt đóng góp rất lớn cho chiến thắng lừng lẫy năm châu. Tác phẩm điêu khắc tạc một người dân trong tư thế đang đẩy chiếc xe thồ hàng rất nặng lên dốc hoàn thành sau hai tháng.
Tuy tác phẩm chỉ có một người, nhưng một người ấy đại diện cho khối toàn dân một lòng ủng hộ kháng chiến, nên ông lấy tên Cả nước ra trận. Năm 2005, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã mua tác phẩm này của ông. Họa sĩ Lương Xuân Đoàn, chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam, khẳng định chiếc xe đạp thồ là điều kỳ diệu nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp của chúng ta. Lưu Danh Thanh đã chọn được hình ảnh khái quát nhất để nói về cuộc chiến tranh nhân dân.
Vào cả bảo tàng nước Mỹ
Cũng câu chuyện chiếc xe đạp thồ này, nhà sử học Dương Trung Quốc mang đến bức ảnh thú vị ông chụp một chiếc xe thồ ở Bảo tàng Lịch sử quốc gia Mỹ, trong phòng trưng bày về chiến tranh Việt Nam. Ông Quốc nói các nhà sử học phương Tây nhận ra vị thế của chiếc xe đạp thồ trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong rất nhiều tác phẩm mà ông được tiếp cận đã nói rằng tướng Nava thua ở Điện Biên Phủ chính là thua chiếc xe đạp thồ. Bởi khi người Pháp chọn Điện Biên Phủ để xây dựng căn cứ địa chiến đấu, họ đã tưởng rằng ta sẽ thua chắc vì làm sao đưa được lương thực, vũ khí, và kéo được pháo vào để chiến đấu với quân Pháp. Nhưng họ đã nhầm. Chiếc xe thồ - một sáng tạo vĩ đại của người dân Việt Nam, cải tiến từ phương tiện cơ giới Tây phương và cây tre Việt Nam đã giúp chuyên chở khối lương thực, đạn dược, thuốc men khổng lồ phục vụ 50.000 quân chiến đấu trong gần hai tháng để đi đến chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy.
...Chiếc xe đạp thồ trở thành biểu tượng suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
(Theo Thiên Điểu, https://tuoitre.vn/chuyen-chiec-xe-tho-va-keo-phao-o-dien-bien-phu-vao-my-thuat-20240428092020327.htm, ngày 28/4/2024)
Trả lời câu hỏi từ 1 đến 5:
Câu 1. Văn bản đề cập đến thông tin chính nào?
Câu 2. Các phương tiện phi ngôn ngữ nào được sử dụng trong văn bản?
Câu 3. Em hiểu câu nói: tướng Nava thua ở Điện Biên Phủ chính là thua chiếc xe đạp thồ như thế nào?
Câu 4. Tác giả đã thể hiện thái độ như thế nào trong văn bản?
Câu 5. Qua văn bản em có suy nghĩ gì về sức mạnh của ý chí, sự sáng tạo của nhân dân trong kháng chiến?
Phần II. VIẾT (6,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về vấn đề: Tuổi trẻ cần rèn luyện tư duy phản biện.
Câu 2. (4,0 điểm)
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện Quê mẹ của Thanh Tịnh và Cô hàng xén của Thạch Lam.
Đoạn trích thứ nhất:
(Lược dẫn: Cô Thảo lấy chồng, chồng cô là anh Vận là hương thơ ở làng Mỹ Lý, công việc tuy vất vả mà lương tháng lại ít quá. Làng chỉ trích cho anh ta ba mẫu ruộng và năm đồng bạc làm tiền lộ phí. Nhưng năm đồng ấy thì không bao giờ anh nhận được. Vì các viên chức đã khéo léo trừ với món tiền phải đóng sưu này thuế khác gần hết. Cô Thảo ra lấy chồng vốn liếng không có nên không đi buôn bán gì hết. Cả nhà chỉ trông vào sáu mẫu ruộng tranh và ba mẫu ruộng làng để sống năm này tháng khác. Đến ngày giỗ của ông cô, cô xin mẹ chồng được về làng ăn giỗ. Cô được mẹ chồng cho một hào và chồng cũng chạy quanh xóm mượn chỗ này chỗ khác cho cô Thảo thêm bốn hào nữa. Về đến làng cô Thảo gặp ai cũng đón chào niềm nở. Lòng cô lúc ấy nhẹ nhàng và vui sướng lắm. Hàng xóm sang chơi để xem sự thay đổi của cô, mấy cậu em đua nhau ra núi áo chị. Buổi chiều làm lễ, thầy cô gọi cô ra lễ thế phần của chồng, rồi hỏi thăm vì sao anh lại không về cùng cô. Trước câu trả lời của cô, đứa em họ trề môi nói mỉa mai, làm cô xấu hổ với họ hàng, hai dòng lệ chảy dài trên má…)
Sáng hôm sau, cúng cơm sáng xong xuôi, cô Thảo lại sắm sửa đi qua làng Mỹ Lý. Cô gọi mấy đứa em đến gần rồi cho mỗi đứa năm xu. Trong nhà ai cũng khen cô rộng rãi và biết thương em, nên cô vui sướng lắm. Đang lúc cao hứng cô còn hứa sẽ gửi cho mẹ hai cặp quần áo mới để mặc Tết nữa. Nhưng chính cô cũng không biết sẽ lấy đâu ra hai cặp quần áo ấy. Chỉ trong nháy mắt cô Thảo đã phân phát tất cả số tiền cô đã dành dụm trong một năm. Lúc sắp sửa lên đường, bà Vạn cho cô nửa con gà và một gói xôi để về nhà chồng. Lúc ra đi cô cảm động quá, đứng bên mẹ và mấy em khóc nức nở. Về nhà chồng, cô Thảo lại làm việc từ mai đến chiều, tối tăm cả mày mặt. Lúc nào cô cũng nhớ đến mẹ nghèo, đến em thơ, nhưng nhớ thì lòng cô lại bùi ngùi, trí cô lại bận rộn. Rồi chiều chiều gặp những lúc nhàn rỗi, cô lại ra đứng cửa sau vơ vẩn nhìn về làng Quận Lão. Nhưng làng Quận Lão ẩn sau đám tre xanh đã kéo một gạch đen dài trên ven đồi xa thẳm.
(Trích Quê mẹ, Thanh Tịnh, In trong tập Quê mẹ, NXB Kim Đồng, 2006)
Đoạn trích thứ hai:
(Lược dẫn: Tác phẩm xoay quanh cuộc đời của Tâm - một cô gái bán hàng xén. Tâm là người con gái hiền lành, xinh xắn và luôn mang gánh hàng xén ra ngoài chợ để bán. Cô có bố mẹ và một cậu em trai nhỏ hẵng còn đang đi học. Mặc dù bị chàng trai trêu ghẹo khi mang hàng ra chợ, Tâm vẫn duy trì sự tươi cười và lạc quan chẳng chút ngại ngần. Công việc bán hàng xén giúp Tâm kiếm tiền lo cho gia đình và hỗ trợ em trai trong việc học hành. Tâm dành tất cả tình thương và tâm huyết để đảm bảo cho em trai có một tương lai tốt đẹp. Dù cuộc sống đầy gian nan và vất vả, Tâm luôn tận tâm chăm sóc cho gia đình và hiếm khi than phiền. Dưới lời đề nghị của bà mối, Tâm kết hôn với người con trai mình yêu thích. Tuy nhiên, những khó khăn vẫn tiếp tục áp đảo cuộc sống của cô. Sau hai năm kết hôn, cô sinh con trai đầu lòng nhưng do hoàn cảnh gia đình chồng cũng khó khăn, Tâm phải tiếp tục bán hàng ngay sau thời gian ở cữ. Cuộc sống nặng nề với trách nhiệm lo cho gia đình lớn và nhỏ càng khiến Tâm trở nên già nua và mệt mỏi. Tâm vẫn luôn cố gắng hết mình để giữ cho gia đình mình vững mạnh, thỏa mãn những mong muốn của em trai và chồng)
Tâm lần ruột tượng lấy ra gói bạc giấy cuộn tròn. Số tiền nàng vừa lấy định trang trải các công nợ và lo sưu thuế cho Bài. Nhưng thấy vẻ mặt vui mừng của em, nàng quên mất cả những nỗi lo sợ đang chờ nàng.
Lúc Tâm ra về, trời đã tối. Nàng vội vã bước mau để về cho con bú. Sương mù xuống phủ cả cánh đồng, và gió lạnh nổi lên: Tâm thu vạt áo lại cho đỡ rét, lần theo bờ cỏ đi. Lòng nàng mệt nhọc và e ngại: lấy đâu mà bù vào chỗ tiền đưa cho em? Tâm nhớ lại những lời dằn của mẹ chồng và những câu giận dữ của Bài mỗi khi hỏi nàng không có tiền. Nàng nghĩ đến những ngày buôn bán được, ngày không, Tâm dấn bước. Cái vòng đen của rặng tre làng Bàng bỗng vụt hiện lên trước mặt, tối tăm và dầy đặc. Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già toàn khó nhọc và lo sợ, ngày kia như tấm vải thô sơ. Nàng cúi đầu đi mau vào trong ngõ tối.
(Trích Cô hàng xén, Thạch Lam, In trong tập Truyện ngắn Thạch Lam, NXB Văn học, 2003)