Phần I. Đọc hiểu (4,0 điểm)
Đọc văn bản sau:
“Cuộc sống không phải là sự ganh đua, hạnh phúc khởi nguồn từ sự trân trọng”. Nếu có thể điều tiết trọng tâm sự chú ý của mình một cách có ý thức, bạn sẽ lấy lại sự cân bằng mới mẻ cho tâm lí lệch lạc của mình trước kia. Sự cân bằng này chắc chắn sẽ ổn định cảm xúc và tình cảm của bạn. Cái gọi là “ma đạo” từ tâm trí mà ra, thiên đường và địa ngục chỉ cách nhau một ý niệm. Chỉ khi thường xuyên gột rửa và cảnh tỉnh tâm trí của mình, bạn mới có thể đảm bảo không bị “tâm ma” khống chế, từ đó tránh được những tai họa vô cùng, không đi đến bước hại mình hại người.
Tư tưởng khác nhau thì đánh giá đối với sự việc xảy ra cũng hoàn toàn khác nhau, tất nhiên nó sẽ ảnh hưởng tới thái độ xử lí vấn đề, cũng ảnh hưởng đến đường đời của chúng ta sau này. Xét cho cùng, sống trên đời cần phải có trí tuệ. Nếu không đủ sáng suốt, vậy chí ít bạn phải có một tư tưởng khoáng đạt. Dùng tư tưởng bi quan, hẹp hòi, hà khắc để nhìn nhận vấn đề, bạn sẽ thấy thế giới này toàn một màu u ám. Dùng tư tưởng lạc quan, khoáng đạt và thấu hiểu để nhìn nhận vấn đề, bạn sẽ nhìn ra được mặt tốt đẹp của sự vật.
Khi nghĩ một cách thấu suốt, chúng ta mới có thể thấy được hạnh phúc của chính mình. Sinh ra nơi trần thế, mỗi người đều phải trải qua phong ba, khổ nạn. Đối diện với gian nan khốn khổ không thể tránh khỏi, nghĩ thấu chính là thiên đường, nghĩ quẩn chính là địa ngục.
(Trích Đừng lựa chọn an nhàn khi còn trẻ, Cảnh Thiên, NXB Trẻ, tr.23 - 25)
Thực hiện các yêu cầu từ 1 đến 5:
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên là gì?
Câu 2. Theo văn bản: Khi nghĩ một cách thấu suốt, chúng ta mới có thể thấy được điều gì ?
Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về câu văn sau: “Cuộc sống không phải là sự ganh đua, hạnh
phúc khởi nguồn từ sự trân trọng.”
Câu 4. Biện pháp tu từ điệp cấu trức có tác dụng như thế nào trong câu văn: Dùng tư tưởng bi quan, hẹp hòi, hà khắc để nhìn nhận vấn đề, bạn sẽ thấy thế giới này toàn một màu u ám. Dùng tư tưởng lạc quan, khoáng đạt và thấu hiểu để nhìn nhận vấn đề, bạn sẽ nhìn ra được mặt tốt đẹp của sự vật.?
Câu 5. Anh/chị có đồng tình với ý kiến: “Đối diện với gian nan khốn khổ không thể tránh khỏi,
nghĩ thấu chính là thiên đường, nghĩ quẩn chính là địa ngục” không? Vì sao?
Phần II. Làm văn (6,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) bày tỏ ý kiến của anh/chị về những việc tuổi trẻ cần làm để có được hạnh phúc mỗi ngày.
Câu 2 (4,0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
“…Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp…”
(Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm, Ngữ văn12, Nâng cao, tập 1, NXB Giáo dục, 2008, tr.72)
“…Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước một lối sống ông cha…”
(Đất Nước, trích chương V trường ca Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm, SGK Ngữ văn 12, Nâng cao, tập 1,NXB Giáo dục, 2008, tr.117)
Chú thích:
- Nhà thơ Hoàng Cầm, tên thật là Bùi Tằng Việt, quê gốc làng Lạc Thổ, thị trấn Hồ, Thuận Thành nhưng sinh ra tại làng Phúc Tằng, xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, Bắc Giang. Hoàng Cầm sinh ngày 22 tháng 02 năm 1922 (theo tài liệu gia đình ông sinh ngày 6/2/1922). Ông học Tiểu học và Trung học ở Bắc Giang và Bắc Ninh. Năm 1938, ông ra Hà Nội học trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ Tú tài toàn phần. Sau đó nhận dịch sách cho Tân Dân xã của Vũ Đình Long. Mới 15 tuổi ông đã bước vào thi đàn với tác phẩm “Hận ngày xanh”, rồi “Bông sen trắng” làm ngạc nhiên văn đàn cả nước, đến lúc này ông càng sáng tác nhiều với bút danh Hoàng Cầm. Hoàng Cầm là tên vị thuốc đắng nhưng theo ông giải thích, ông yêu gỗ cây đan hoàng làm đàn rất đẹp mà lấy bút danh này. Sự nghiệp thi ca của Hoàng Cầm càng bùng phát mạnh mẽ khi đi hoạt động cách mạng. Năm 1948, khi 26 tuổi, Hoàng Cầm viết “Bên kia sông Đuống” với tình cảm yêu quê hương cháy bỏng, tinh thần lạc quan cách mạng lớn lao đã đưa Hoàng Cầm lên hàng thi sĩ tiêu biểu nhất trong kháng chiến chống Pháp.
- Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, tên đầy đủ là Nguyễn Khoa Điềm, sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điềm, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Ông lớn lên trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng, điều này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm hồn và tư tưởng của ông.
Năm 1955, Nguyễn Khoa Điềm ra Bắc để học tại trường học sinh miền Nam, nơi ông bắt đầu hình thành và phát triển sự yêu thích đối với văn học và nghệ thuật.
Sau khi tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào năm 1964, Nguyễn Khoa Điềm quyết định trở về Nam và tham gia vào phong trào học sinh, sinh viên thành phố. Ông tham gia tích cực vào việc xây dựng cơ sở cách mạng, viết báo, và làm thơ. Cuộc sống và tình yêu quê hương đã trở thành nguồn cảm hứng cho tác phẩm của ông. Đoạn trích "Đất Nước" của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một phần trong chương V - trường ca "Mặt đường khát vọng." . Nhan đề của đoạn trích trong sách giáo khoa đã được đặt là "Đất Nước," và điều này không chỉ nhấn mạnh vào chủ đề chính của tác phẩm mà còn khẳng định một triết lý sâu sắc: "Đất Nước của Nhân Dân."