đăng 16:00, 19 thg 6, 2014 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 16:00, 19 thg 6, 2014 ]
Ngày xưa, vào đời Trần, niên hiệu Quang Thái (1388-1398) có chàng thư sinh ở đất Hóa Châu tên Từ Thức, giữ chức huyện Tiên Du, thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay.
Cạnh huyện đường có ngôi chùa danh tiếng, trước sân chùa có một gốc mẫu đơn quý lạ. Hàng năm đến kỳ nở hoa, người ta mở hội tưng bừng, trai gái các nơi tấp nập kéo nhau đến dự hội thưởng hoa.
Năm Bính Tỵ, vào khoảng tháng hai, người ta thấy có một cô gái tuyệt sắc trạc lối mười lăm, mười sáu tuổi đến dự hội. Nàng ít tô điểm phấn son song làn da mặt hết sức mịn màng, tươi thắm.
Để ngắm hoa được gần hơn, nàng vin một cành hoa xuống, không ngờ mẫu đơn dòn gãy dưới tay. Người giữ hoa trông thấy liền bắt nàng trói vào gốc cây. Đến xế chiều cũng không thấy có ai đến chuộc cứu nàng. Từ Thức nhân đi qua, nghe câu chuyện, động lòng thương người đẹp, bèn cởi áo cừu đang mặc đưa cho nhà chùa để bồi thường. Cô gái được thả ra ngập ngừng cảm ơn Từ Thức rồi đi về một phía mất hút.
Từ đó Từ Thức càng được dân tình mến trọng là một vị quan hiền đức. Nhưng Từ Thức vốn thích bầu rượu, túi thơ, cây đàn hơn là chồng giấy tờ ở công đường, mải mê theo cảnh đẹp trời mây mà bỏ bê cả việc quan. Cấp trên gởi tờ khiển trách, bảo rằng ông cụ thân sinh trước kia là một vị quan đại thần, lẽ nào chàng không nối được nghiệp nhà mà giữ nổi chức tri huyện? Từ Thức thở than: "Lẽ nào chỉ vì một vài đấu thóc mà ta đành dìm thân trong chốn lợi danh! Sao bằng với một chiếc thuyền con, ta thoát khỏi vòng cương tỏa. Nước biếc non xanh sẽ không bao giờ phụ ta"!
Rồi chàng trả ấn từ quan, lui về vùng núi non ở huyện Tống Sơn. Mang theo bầu rượu, cây đàn, chàng đi du ngoạn khắp mọi chốn danh lam thắng cảnh. Gặp nơi đẹp đẽ chàng dừng chân uống rượu, làm thơ. Vết chân, câu thơ của chàng ghi dấu ở nhiều nơi, núi Chích Trợ, động Lục Vân, nguồn sông Lễ, bờ Kênh Nga.
Một hôm, chàng tới cửa Thần Phù, trông ra ngoài biển thấy một lớp mây năm sắc kết thành đóa hoa sen. Chàng ngồi thuyền đến nơi, gặp nhiều núi non kỳ dị. Từ Thức lo ngại bảo người chèo thuyền:
"Ta đã đi khắp miền đông nam, biết rõ cả vùng này, nhưng chưa bao giờ nghe nói đến những núi non kỳ tú kia. Có lẽ đây là non Tiên đưa đến, hay núi Thần dời lại, không thì làm sao ta chẳng hề thấy bao giờ"?
Rồi sai buộc thuyền, lên bờ. Đi được vài bước thấy sừng sững trước mặt một sườn đá cao nghìn trượng, Từ Thức thở ra: "Không có cánh làm sao mà vượt qua được"? Rồi chàng lấy bút viết lên thành đá một bài thơ.
Đang lúc mải mê ngắm cảnh, chàng bỗng thấy sườn đá mở ra một cửa hang động rộng chừng một trượng. Chàng vén áo lần vào. Vừa đi được vài bước thì cửa hang tự khép lại, chàng chìm trong bóng tối không còn biết đâu lối ra. Chàng liều chết sờ theo lớp rêu trên đá mà đi, theo một lối quanh co, được một quãng thì đường hầm dần dần mở rộng. Ra khỏi bóng tối, mắt chàng chói ngợp vì ánh sáng rực rỡ, sửng sốt vì mây muôn màu sắc bao phủ các đền đài giát bằng châu ngọc giữa cảnh vườn đầy hoa quý lạ, hương thơm khác thường.
Từ Thức còn đang ngây ngất, tưởng mình đang mơ, thì bỗng vẳng có tiếng cười trong trẻo ở sau lưng, chàng ngoảnh lại thấy hai cô gái áo xanh đang khúc khích bảo nhau:
"Kìa, chú rể mới nhà ta đã đến"!
Rồi hai nàng bỏ đi. Một lát sau trở ra bảo: "Phu nhân chúng tôi cho mời chàng vào". Từ Thức theo. Đi qua một quãng sân, hai bên tường thêu dệt gấm hoa, đến một lớp cửa son, chàng thấy treo ở trên lầu cao hai bức hoành phi chữ vàng: "Quỳnh Hư chi điện và Giao Quang chi các".
Trong cung điện, một bà tiên mặc áo trắng đang ngồi trên giường thất bảo. Bà tiên mời Từ Thức ngồi lên ghế bên cạnh rồi bảo:
"Chàng vốn say mê cảnh lạ, bấy lâu đã thỏa chí bình sinh ngao du đó đây, chàng có biết nơi này là đâu không"?
Từ Thức đáp:
"Tôi là một thư sinh sống ẩn dật ở huyện Tống Sơn, ngao du với một chiếc thuyền con ở giữa trời biển. Tôi không được biết là chốn này có lầu hồng, điện biếc. Lòng tôi đây còn nhiễm đầy trần tục, không hiểu biết được đây là chốn nào, xin phu nhân vui lòng dạy cho kẻ thư sinh được thấu rõ".
Bà tiên nói:
"Phải, chàng làm sao mà biết được chốn này. Đây là hang thứ sáu trong ba mươi sáu động Phù Lai. Nơi này biển bao bọc chung quanh, lơ lửng không chạm đất, cũng như núi La Phù theo chiều gió mưa mà tan hợp, như núi Bồng Lai mọc trên ngọn sóng. Ta đây là Ngụy phu nhân, tiên chủ núi Nam Nhạc. Vì thấy chàng có đức nên mới cho mời đến"!
Nói rồi bà tiên đưa mắt ra lệnh cho các tiên nữ đứng hầu. Một nàng áo xanh đưa từ trong ra một tiên nữ trẻ tuổi. Từ Thức liếc nhìn thì nhận ra người đã làm gẫy cành mẫu đơn trong Hội Thưởng Hoa. Bà tiên trỏ thiếu nữ mà nói với Từ Thức:
"Em nó là con gái ta, tên gọi Giáng Hương. Ngày trước nó gặp nạn trong Hội Thưởng Hoa, được chàng cứu thoát. Lòng em nó vẫn không quên. Ta muốn cho nó kết duyên với chàng để đền ơn đó".
Rồi bà tiên ra lệnh cử hành hôn lễ ngay đêm hôm ấy, dưới ánh đèn mỡ phụng, trên chiếu thêu rồng. Hôm sau, chư tiên ở khắp nơi đến mừng đôi tân nhân. Kẻ mặc lụa từ phương bắc cỡi rồng xanh đến, kẻ mặc tơ từ phương nam cỡi ly vàng đến, kẻ ngồi xe ngọc, kẻ đi xe mây... Các tiên tụ họp trên gác điện Giao Quang rèm ngọc, sáo vàng.
Khi Kim Tiên đến, tất cả chư tiên đều xuống điện rước lên ngồi ở trên ngai pha lê bày chính giữa. Chư tiên vừa ngồi xuống, tiếng nhạc trời văng vẳng trỗi lên. Đủ các thứ rượu quý đượm hương ngào ngạt rót dâng ra.
Tiên nương mặc áo lụa nói:
"Chúng ta dạo chơi trong vùng này đã gần tám mươi ngàn năm, biển phía nam đã ba lần biến đổi. Giờ đây chú rể không sợ thay đổi đời sống, từ xa đến đây để lấy vợ. Tôi nghĩ là chú rể sẽ không hối tiếc đời cũ và sẽ không còn nói là trên đời này không có Tiên"!
Kim Đồng, Ngọc Nữ sắp thành nhiều hàng dài bắt đầu múa. Ngụy phu nhân chủ động đứng ra mời tiệc. Giáng Hương rót rượu đưa đến tay chư tiên.
Nàng tiên trẻ tuổi mặc tơ cười nói:
"Cô dâu chúng ta hôm nay thịt da như mỡ đọng, không còn gầy như trước nữa. Người ta thường nói là con gái thượng giới không có chồng. Tôi không còn có thể tin như vậy nữa"!
Ngụy phu nhân nói:
"Tôi nghe nói người ta có thể gặp Tiên song khó mà tìm đến. Những cuộc gặp gỡ hiếm có, nhiệm mầu, thời nào cũng thấy: tỉ như vết tích đền Bạc Hậu, núi Cao Đường, dấu chân ở Lạc Phố, đồi ngọc Giang Phi, nàng Lộc Ngọc lấy Tiên Sử, Vân Tiêu gặp Thái Loan, Lan Hương và Trương Thạc. Nếu ta chế giễu cuộc hôn nhân này, thì những việc trước kia cũng hóa ra đáng cười lắm ru!".
Tất cả chư tiên đều cười, trừ ra nàng tiên áo lụa nói bằng một giọng kém vui:
"Cô dâu trẻ chúng ta đã thành thân tốt đẹp rồi. Nhưng khi tin kẻ tiên kết hôn với người tục xuống đến trần, trên Thiên Đình sẽ không khỏi có kẻ mỉa mai chúng ta. Chư tiên thượng giới phải gánh chịu lấy thành quả này. Tôi e rằng chúng ta không tránh khỏi tiếng tăm đó"!
Kim Tiên liền nói:
"Tôi ở Thiên Đình, chưa bao giờ đặt chân xuống ở bể trần, thế mà có kẻ xấu miệng đã nói rằng thiên tiên dâng rượu cho vua Chu, chim xanh đem tin đến cho vua Hán. Chính chúng tôi cũng phải chịu lấy những lời lẽ phạm thượng của người đời. Thế làm sao chư tiên tránh khỏi được lời vu khống kia? Tân lang đang ở đây, chúng ta không nên tranh luận với nhau điều ấy để làm buồn lòng chàng làm gì".
Chư tiên lại cười lên vui vẻ. Đến khi mặt trời ngả về tây, các tiên mới chia tay ra về. Còn lại một mình, Từ Thức cười bảo Giáng Hương:
"Ở thượng giới, tình yêu cũng đưa đến việc lứa đôi. Cho nên Chức Nữ
mới lấy Ngưu Lang, Thượng Nguyên theo Phong Trác ở dưới trần, Tăng Nhu viết ra thiên Chu Tần, Quần Ngọc làm bài thơ Hoàng Lãng. Hoàn cảnh tuy mỗi nơi có khác, song tình yêu ở đâu cũng giống nhau. Từ ngàn đời nay, bao giờ cũng thế. Bây giờ tất cả chư tiên đi rồi, sao không khí chung quanh đôi ta lại lạnh lẽo, buồn bã thế này. Có phải vì tình yêu không phát sinh ra ở lòng em, hay là em cố cầm giữ lại?"
Giáng Hương buồn rầu đáp:
"Các chị đều đã đắc đạo, có tên ở Hoàng Điện, thường lui tới Hồng Môn, sống ở chốn thanh khiết, vui chơi trong cõi cực tịnh, lòng không vương vấn dục tình. Còn em đây chưa sạch khỏi thất tình. Dấu vết còn ở nơi Thúy Điện, vấn vương duyên nợ trần ai. Thân em tuy ở điện ngọc nhưng lòng em còn dính bụi trần. Đừng đem em mà so sánh với các chư tiên khác!"
Từ Thức nói:
"Nếu thế thì em cũng không xa cách anh lắm"!
Cả hai đều phá lên cười.
Ngày tháng kế tiếp nhau trong khoái lạc thần tiên.
Một sáng, Từ Thức thấy hoa sen nở, hồ ngọc đã thay đổi màu xanh, thấm thoát thế mà đã qua một năm rồi.
Những đêm gió thổi lạnh lùng, những sáng sương sa nặng hạt, những tối trăng rọi qua song, có khi Từ Thức không làm sao nhắm được mắt. Một nỗi buồn tràn ngập tâm hồn, thức tỉnh chàng dậy.
Một hôm, trông ra xa thấy một con thuyền, chàng trỏ tay bảo Giáng Hương:
"Anh từ miền xa xôi kia tới đây, chân trời mờ mịt, sóng biển muôn trùng, không biết rõ nhà anh ở nơi nào!"
Một lát chàng lại nói:
"Khi đi, anh còn có mẹ, bạn bè ở dưới kia. Lòng trần chưa rũ sạch, anh muốn nhìn lại quê hương. Em hãy hiểu cho lòng anh, để cho anh trở về thăm nhà ít lâu. Không biết em nghĩ sao?"
Giáng Hương buồn bã không thốt nên lời. Từ Thức nói tiếp:
"Để cho anh đi dăm hôm, một tháng gặp lại các bạn, xếp đặt công việc nhà, rồi anh sẽ trở lại sống bên em mãi mãi cho đến già ở chốn Bạch Vân".
Giáng Hương khóc nói:
"Em không muốn lấy tình vợ chồng để ngăn anh đừng trở lại quê nhà. Em chỉ sợ rằng đời sống thế gian quá nhỏ hẹp, ánh sáng mặt trời quá vắn vỏi, anh sẽ không còn tìm thấy sân vườn xưa trong cảnh cũ nữa đâu!"
Nàng báo tin cho mẹ hay, Ngụy phu nhân thở dài bảo:
"Ta không ngờ con người ấy lại còn vương vấn tục lụy đến thế!"
Rồi cho sắm sửa một chiếc xe mây để đưa Từ Thức đi. Giáng Hương trao cho chồng một phong thư viết trên giấy lụa, dặn dò:
"Sau này khi xem đến bức thư, anh hãy nhớ đến em"!
Rồi hai người gạt nước mắt chia tay. Trong nháy mắt Từ Thức đã đặt chân xuống mặt đất.
Nhưng tất cả đều đã hoàn toàn đổi thay. Nhà cửa, người làng không còn là những người quen cũ nữa. Chỉ có các tảng đá bên bờ suối vẫn phủ rêu xanh như xưa.
Hỏi đến những người già cả trong làng xem có biết người tên Từ Thức không, mọi người đều nói:
"Hồi chúng tôi còn bé, có nghe nói là ông cố ba đời chúng tôi mang tên đó. Ông ấy đi lạc vào núi đã tám chục năm nay. Từ đó đến nay chúng tôi đã trải qua ba đời vua".
Từ Thức cảm thấy lòng buồn thấm thía, muốn trở lại thượng giới, song chiếc xe mây đã biến thành chim loan bay mất về trời. Chàng mở phong thư ra đọc: "Trong mây kết duyên loan phụng, mối tình đôi ta đã dứt! Làm sao tìm lại non Tiên trên biển cả? Chúng ta khó gặp được nhau lần nữa", mới biết là Giáng Hương đã gởi chàng những lời vĩnh biệt.
Sau đó, Từ Thức khoác áo lông, đội nón nhẹ, một mình đi vào núi Hoành Sơn, không thấy trở về nữa.
đăng 15:14, 18 thg 11, 2013 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 20:19, 21 thg 11, 2013 ]
Ngày ấy, không biết từ bao giờ và cũng không biết bằng cách gì, Quỷ chiếm đoạt tất cả đất nước. Người chỉ ăn nhờ ở đậu và làm rẽ ruộng đất của Quỷ. Quỷ đối với người ngày càng quá tay. Chúng dần tăng số phải nộp lên gấp đôi và mỗi năm mỗi nhích lên một ít. Cuối cùng chúng bắt Người phải nộp theo một thể lệ đặc biệt do chúng nghĩ ra là "ăn ngọn cho gốc". Người không chịu. Chúng dùng áp lực bắt phải theo. Vì thế, năm ấy sau vụ gặt, Người chỉ còn trơ những rạ là rạ. Cảnh tượng xương bọc da thê thảm diễn ra khắp mọi nơi bên cạnh bọn Quỷ reo cười đắc ý.
Phật từ phương Tây lại, có ý định giúp người chống lại sự bóc lột tàn nhẫn của Quỷ. Sau mùa đó, Phật bảo Người đừng trồng lúa mà cào đất thành luống trồng khoai lang. Người cứ y lời làm đúng như lời Phật dặn. Quỷ không ngờ Người đã bắt đầu có mưu kế chống lại mình nên cứ nêu đúng thể lệ như mùa trước: "Ăn ngọn cho gốc".
Mùa thu hoạch ấy, Quỷ rất hậm hực nhìn thấy những gánh khoai lang chạy về nhà Người đổ thành từng đống lù lù, còn nhà mình chỉ toàn những dây và lá khoai là những thứ không nhai nổi. Nhưng ác nỗi, thể lệ đã quy định, chúng đành cứng họng không chối cãi vào đâu được.
Sang mùa khác, Quỷ thay thể lệ mới là "Ăn gốc cho ngọn". Phật bảo người lại chuyển sang trồng lúa. Kết quả Quỷ lại hỏng ăn. Những hạt lúa vàng theo người về nhà, còn rạ phó mặc cho Quỷ. Quỷ tức lộn ruột nên mùa sau chúng tuyên bố "Ăn cả gốc lẫn ngọn". Lần này Quỷ nghĩ:
- Cho chúng nó muốn trồng gì thì trồng, đằng nào cũng không lọt khỏi tay chúng tao.
Nhưng Phật đã bàn với Người thay đổi giống mới. Phật trao cho Người hạt giống cây ngô để gieo khắp mọi nơi mọi chỗ.
Năm ấy có một lần nữa, Người sung sướng trông thấy công lao của mình không uổng. Trong nhà Người thóc ăn chưa hết thì từng gánh ngô đã tiến về chứa từng cót đầy ăm ắp. Về phần quỷ lại bị một vố cay chua, uất ức hàng mấy ngày liền. Cuối cùng Quỷ nhất định bắt Người phải trả tất cả ruộng đất không cho làm rẽ nữa. Trong bụng chúng nghĩ:
- Thà không được cái gì cả, còn hơn là để cho chúng nó ăn một mình.
Phật bảo Người điều đình với Quỷ cho tậu một miếng đất vừa bằng bóng một chiếc áo cà sa. Nghĩa là Người sẽ trồng một cây tre có mắc một chiếc áo cà sa trên ngọn, bóng cà sa che bao nhiêu diện tích ở mặt đất thì là đất của Người sở hữu ở đó. Ban đầu Quỷ không thuận nhưng sau chúng nó suy tính thấy đất tậu ít mà giá rất hời bèn nhận lời:
- Ồ! Bằng chiếc áo cà sa có là bao nhiêu.
Chúng nó nghĩ thế. Hai bên làm tờ giao ước: Ngoài bóng tre là đất của Quỷ, trong bóng tre là đất của Người.
Khi Người trồng xong cây tre, Phật đứng trên ngọn, tung áo cà sa bay toả ra thành một miếng vải tròn. Rồi Phật hoá phép làm cho cây tre cao vút mãi lên, đến tận trời. Tự nhiên đất trời trở nên âm u: bóng của áo cà sa dần dần che kín khắp cả mặt đất. Bọn Quỷ không ngờ có sự phi thường như thế; mỗi lần bóng áo lấn dần vào đất của chúng, chúng phải dắt nhau lùi mãi lùi mãi. Cuối cùng Quỷ không có đất ở nữa, phải chạy ra biển đông. Vì thế người ta mới gọi là Quỷ Ðông.
Tiếc vì đất đai hoa màu đều thuộc về tay Người, Quỷ rất hậm hực, cố chiêu tập binh mã vào cướp lại. Lần này Người phải chiến đấu với Quỷ rất gay go vì quân đội của Quỷ có đủ một bầy ác thú như voi, ngựa, chó, ngao, bạch xà, hắc hổ, v.v... rất hung dữ. Phật cầm gậy tầm xích đánh giúp Người làm quân của Quỷ không tiến lên được.
Sau mấy trận bất lợi, Quỷ bèn cho quân đi dò xem Phật sợ gì. Phật cho chúng biết là sợ hoa quả, oản chuối và cơm nắm, trứng luộc. Ðối lại Phật cũng dò hỏi và biết quân của Quỷ chỉ sợ độc có mấy thứ : máu chó, lá dứa, tỏi và vôi bột.
Lần giáp chiến sau đó, quân của Quỷ đem không biết cơ man nào là hoa quả đến ném Phật, Phật bảo Người nhặt làm lương ăn rồi đem máu chó vẩy khắp nơi. Quân của Quỷ thấy máu chó, sợ hoảng hồn bỏ chạy.
Lần thứ hai, quân của Quỷ lại đem oản chuối vào ném quân Phật. Phật bảo Người nhặt làm lương ăn rồi giã tỏi phun vào quân địch. Quân của Quỷ không chịu được mùi tỏi, nên cũng cắm đầu chạy biệt tích.
Lần thứ ba, quân của Quỷ lại đem cơm nắm, trứng luộc vào ném quân Phật. Người tha hồ ăn và theo lời Phật dùng vôi bột vung vào Quỷ. Người lại lấy lá dứa quất vào chúng. Quỷ chạy không kịp, lại bị Phật bắt đày ra biển đông. Ngày Quỷ già, Quỷ trẻ, Quỷ đực, Quỷ cái cuốn gói ra đi, bộ dạng của chúng vô cùng thiểu não. Chúng rập đầu sát đất cố xin Phật thương tình cho phép một năm được hai ba ngày vào đất liền thăm phần mộ của tổ tiên cha ông ngày trước. Phật thấy chúng khóc váng cả lên mới thương hại hứa cho.
Vì thế, hàng năm cứ đến ngày tết Nguyên Ðán là ngày Quỷ vào thăm đất liền, thì người ta theo tục trồng nêu để cho Quỷ không dám bén mảng vào chỗ người đang ở. Trên nêu có khánh đất, mỗi khi gió rung thì có tiếng động phát ra để luôn nhắc bọn Quỷ nghe mà tránh. Cũng trên đó có buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để cho Quỷ sợ. Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía đông và rắc vôi bột xuống đất vào những ngày Tết để cấm cửa Quỷ.
Có câu ca dao:
Cành đa lá dứa treo kiêu (cao)
Vôi bột rắc ngõ chớ trêu mọi nhà.
Quỷ vào thì Quỷ lại ra.
Cành đa lá dứa thì ta cứa mồm
Ngày xưa người ta còn tin rằng những lúc cần đuổi quỷ như khi có dịch tễ chẳng hạn, thì treo một nắm lá dứa ở trước ngõ hay vẩy máu chó khắp nơi cho Quỷ khỏi quấy. Ðàn bà thường buộc tỏi vào giải yếm là cũng có một mục đích gần như vậy.
đăng 10:34, 29 thg 10, 2013 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 14:23, 15 thg 12, 2013 ]
Ngày xưa, trong số các hung thần gây tai hại cho người Việt, có một thần tên là Na-Á. Vị thần này dữ tợn, lại có thêm một bà vợ dữ dằn không kém chồng. Hai ông bà Na-Á thường ở lẩn quẩn trong bóng tối, chẳng sợ điều gì, ngoại trừ sợ ánh sáng và sự ồn ào. Cuối năm và đầu Xuân, khi các vị thần tốt phò trợ dân gian phải về trời chầu Ngọc Hoàng, 2 ông bà hung thần Na-Á hay tác oai tác quái.
Ngày Tết, để trừ tai hoạ do 2 ông bà Na-Á gây ra, người ta đã bày ra chuyện đốt pháo ầm ỹ, ồn ào và chói sáng. Dân chúng cũng thắp nhiều đèn đuốc trong nhà và ngoài ngõ, để đuổi 2 hung thần này. Người ta tin rằng tiếng pháo nổ và mùi thuốc pháo có thể xua đuổi được 2 vợ chồng hung dữ đó, để họ khỏi đến gieo chuyện chẳng lành ngày đầu năm.
Bí ẩn chưa có lời giải về ngôi nhà Bá Kiến khiến 7 đời chủ lụn bại
đăng 04:31, 24 thg 1, 2015 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 04:32, 24 thg 1, 2015 ]
Làng Đại Hoàng trong tác phẩm Chí Phèo của cố nhà văn Nam Cao vẫn còn tồn tại một ngôi nhà có tuổi đời hơn 100 năm. Điều đặc biệt là chủ nhân của ngôi nhà ấy chính là nhân vật Bá Kiến, nguyên mẫu trong truyện ngắn này. Các bậc cao niên trong làng vẫn hay truyền tai nhau về những câu chuyện bí ẩn, ruộm màu sắc tâm linh không thể lý giải về ngôi nhà khiến 7 đời chủ nhân lúc còn sống thì có chức tước, sang giàu. Ấy vậy mà sau khi sở hữu nó, người sống trong bần hàn, kẻ thì chết tức tưởi...
Độc đáo về ngôi nhà của “Làng Vũ Đại ngày ấy”
Làng Đại Hoàng (nay là thôn Nhân Hậu, xã Hòa Hậu (Lý Nhân- Hà Nam) trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao là một vùng đất chiêm trũng chịu sự bóc lột, vơ vét thậm tệ của bọn địa chủ, cường hào ác bá khiến cuộc sống người dân trở nên tiêu điều, hoang sơ. Ít ai biết rằng, ở đây còn tồn tại một ngôi nhà có tuổi đời hơn 100 năm của “Bá Kiến”, vốn là nguyên mẫu trong tác phẩm Chí Phèo đã in sâu vào tâm thức người đọc từ bao đời nay.
Trải qua hàng thế kỷ, những câu chuyện có thật được người dân rỉ tai nhau xung quanh ngôi nhà này vẫn còn là điều bí ẩn chưa có lời giải đáp. Theo tìm hiểu, người sở hữu là một viên quan tên BáBính (tên thật là Trần Duy Bính, năm sinh chưa rõ, mất năm 1946) chính là nguyên mẫu nhân vật Bá Kiến lúc sinh thời nhà văn Nam Cao từng tiết lộ.
Về đây để tìm hiểu thông tin xung quanh ngôi nhà này, cụ Trần Bá Huấn (84 tuổi, xóm 11, xã Hòa Hậu) là người tường tận nhất về lịch sử của nó. Cụ Huấn vốn là một giáo viên về hưu đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu, ghi chép cẩn thận về ngôi nhà này.
Cụ Huấn cho biết, chủ nhân đầu tiên của ngôi nhà là cụ Cựu Hanh, một lái buôn giàu có bậc nhất nhì lúc bấy giờ ở làng. Khoảng những năm 1910, cụ này thuê gần 20 người thợ nổi tiếng làm nghềmộc về làm ròng rã mấy tháng trời mới hoàn thiện. Ngôi nhà có diện tích rộng khoảng 1000 mét vuông, cửa hướng về phía Tây- Nam được kết cấu theo kiểu “lộn thềm ngưỡng chồng, tàu bảy then trâu chồng chóp".
Ngôi nhà có kiến trúc theo lối truyền thống của nước ta gồm 3 gian, 4 hàng cột với tổng cộng 16 cột lim to chắc. Dưới chân cột là những tảng đá xanh vững chắc được thợ gọt đẽo tỉ mẩn, công phu. Phía trước hiên nhà có một lớp tấm liếp được thiết kế nhô ra ngoài để che mưa, chống nắng. Toàn bộ gỗ của ngôi nhà đều là chất liệu gỗ lim vững chắc, ít chịu sự tác động của thời gian và mối mọt. Phía trên văng, kèo, li tô được thợ khắc chữ Nho, hình rồng có ghi rõ năm ngôi nhà được hoàn thành.
“Ngày đó, xi măng chưa có nên người thợ lấy mật mía, mù hóng trộn vào vôi tôi cùng một số phụ gia khác để tạo thành chất kết dính xây nhà. Gạch thì được nung bằng rơm rất lâu nên trải qua hàng trăm năm như thế mà xung quanh phía ngôi nhà vẫn chưa có dấu hiệu bong tróc, dột nát dưới sự tác động của thời gian”. Cụ Huấn kể.
7 đời lụi bại và những bí ẩn khó lý giải
Theo lời kể của các bậc cao niên trong làng, sau khi cụ Hanh mất đi thì có nhượng lại quyền sở hữu cho người con trai tên Trần Duy Xầm. Sau này, cụ Xầm không còn nữa đã để lại cho cụ Cựu Cát. Người làng Đại Hoàng vẫn truyền tai nhau về lối sống buông thả, sa đà chìm ngập vào những cơn say rượu chè rồi hay vay nợ triền miên của cụ này khiến gia đình lâm vào cảnh tũng quẫn, thiếu thốn.
Trong một canh bạc với nhau, cụ Cựu Cát không còn chút tài sản nào trong người nên đã liều một phen “đỏ đen” đặt cược chính ngôi nhà mình đang ở rồi cuối cùng đã thuộc về tay cụ Bá Bính. Cụnày vốn là nguyên mẫu của nhân vật Bá Kiến trong tác phẩm Chí Phèo “để đời” của nhà văn Nam Cao. Từ đây, những câu chuyện kỳ quặc chứa nhiều điều bí ẩn về những cái chết của các đời chủ sởhữu nó vẫn được người dân làng Đại Hoàng truyền tụng lại từ đời này sang đời khác đến nay.
Qua lời kể, sau khi cụ Bá Bính sở hữu ngôi nhà này thì dành 4 gian chia đều cho những người vợ, còn một gian thì để thờ cúng tổ tiên và làm nơi trú ngụ mở canh bạc cho những kẻ có tước vị, chức sắc trong vùng đến chơi. Sự giàu có đến từ những canh bạc như người xưa thường nói chẳng bao giờ bền bỉ. Câu nói này hẳn đúng với cụ Bá Bính bởi những tháng sau đó, mọi của cải tài sản trong nhà cứ thế mà “đội nón ra đi”, rồi con cháu cũng lâm vào vết xe đổ của người cha.
Nhiều người dân làng Đại Hoàng đồn đoán, cái chết của cụ cũng một phần do tâm lý buồn chán về gia đình. Sau khi mất đi, cụ Bá Bính đã ghi trong di chúc để lại ngôi nhà cho con trai là Trần Duy Tảo (còn gọi là Binh Tảo). Khi cụ này mất đi thì con cháu trong gia tộc thảo luận bán đi cho người khác.
Biết ý định con cháu cụ Binh Tảo có ý đình bán nhà, lúc đó cụ Trần Thế Lễ đã hỏi ý mua về để xẻ 16 cột gỗ lim ra dựng nhà. Câu chuyện mua bán giữa đôi bên chưa xong thì có một thương gia giàu có tên Trần Hữu Hậu (hay gọi là cụ Cai Hậu) ngỏ ý mua được lại với giá cao ngất ngưởng trị giá mấy chục cây vàng thời bấy giờ. Sau này, cụ Cai Hậu mất đi do không có con trai để thừa kế nên đãnhượng lại cho người cháu là ông Trần Hữu Hòa sử dụng, trông nom.
Các bậc cao niên trong làng cũng không thể nào quên về một thảm án kinh hoàng đã xảy ra hơn 30 năm trước. Ngày ấy, 4 mạng người chết cùng trong một ngày mà không rõ nguyên do vì sao. Chuyện kể lại rằng, bà Trần Thị Hoàn cùng hai đứa con bé bỏng đã bị chính người chồng mình tên Trần Văn Sửu dùng dao đâm chết. Đau lòng hơn, một đứa con nhỏ mới 18 tháng tuổi còn đang búsữa mẹ, oe oe khóc vẫn bị gã ra tay tàn ác.
Người con gái lớn thấy vậy liền chạy vào can ngăn thì cũng bị y hạ sát, gục bên người. Nghe thấy tiếng kêu thất thanh từ phía ngôi nhà, nhiều người dân chạy sang thì tá hỏa phát hiện 3 mẹ con đãtử vong, máu chảy lênh láng ướt sẫm thành vũng. Sau khi gây án, Sửu cũng đã tự tay đâm vào bụng rồi cắt ruột vứt xuống nền nhà trước sự kinh hoàng, bạt vía của nhiều người chứng kiến. Lúc dân làng mai táng xong cho 4 người thì phát hiện trong tư trang của Sửu có một tấm bùa kỳ lạ.
Nhiều câu chuyện bí ẩn và thảm án trên xảy ra ở “Làng Vũ Đại ngày ấy” khiến nhiều người dân ở đây cho rằng “hồn” Chí Phèo đã nhập vào nên từ bao đời nay lại thường hay truyền tai nhau vềnhững tai ương, điều kỳ quặc xung quanh ngôi nhà. Vào năm 2007, sở văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Hà Nam đã mua lại ngôi nhà này nhằm để bảo tồn khu du tích văn hóa có “1-0-2” trong tác phẩm của cố nhà văn Nam Cao phục vụ đông đảo khách phương gần xa về đây thăm quan, tìm hiểu.
10 bức ảnh bí ẩn chưa có lời giải thích
đăng 14:46, 11 thg 12, 2014 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 14:50, 11 thg 12, 2014 ]
Dù rằng một bức ảnh có thể thay vạn lời nói, nhưng đôi khi tình thế dễ bị đảo ngược do thiếu các chứng cứ liên quan hay các giả thuyết từ nhiều phía khiến sự việc càng thêm rối.
Sau đây là danh sách 10 bức ảnh bí ẩn nhất mà người ta chưa có lời giải thích xác đáng:
1. Quý bà Babushka
Là biệt danh người ta đặt cho một phụ nữ vô danh có mặt vào năm 1963, đúng vào thời điểm tổng thống Mỹ John F.Kennedy bị ám sát. Biệt danh này xuất phát từ trang phục với khăn trùm đầu giống với cách ăn mặc của phụ nữ đứng tuổi Liên Xô cũ. Babushka, có nghĩa là ‘bà già’, được trông thấy đang cầm một chiếc máy ảnh và là nhân chứng của vụ ám sát, sau phát súng nhắm vào tổng thống Kennedy, các nhân chứng xung quanh đều hoảng hốt tìm chỗ trú ẩn, tuy nhiên các hình chụp cho thấy người phụ nữ này vẫn đứng cầm máy ảnh giơ lên chụp. Sau đó, người này nhanh chóng băng qua đường Elm và hòa vào đám đông đi mất. Danh tính và những gì bà ghi hình lại vẫn chưa được tìm thấy cho đến nay.
2. Ánh sáng kỳ lạ ở Hessdalen (Na Uy)
Được nhìn thấy lần đầu tiên vào những năm 1940 hay sớm hơn. Sự xuất hiện của những quả cầu ánh sáng lạ lơ lửng trên bầu trời thung lũng trung tâm Na Uy đã làm đau đầu các nhà khoa học nhiều năm gần đây. Thứ ánh sáng này có thể được quan sát vào một số thời điểm trong năm, chúng xuất hiện vào khoảng 15 – 20 lần một tuần. Các quả cầu ánh sáng này có đủ màu sắc và đôi khi có thể quan sát được trong hàng giờ liền. Hiện tượng này được đặt tên là “Hiện tượng Hessdalen”, những quả cầu ánh sáng có thể lớn như chiếc xe hơi và thu hút rất nhiều chú ý của giới nghiên cứu UFO.
3. Quái vật biển đảo Hook (thuộc vùng Queensland, nước Úc)
Vào năm 1964, một cặp vợ chồng người Úc đang du ngoạn trên hồ thì bắt gặp sinh vật với hình dáng nòng nọc khổng lồ có chiều dài lên đến 25m bơi chậm rãi tiến về phía họ. Cặp vợ chồng cho biết, sau khi chụp một vài bức ảnh của sinh vật này, nó mở miệng ra như muốn nói điều gì đó trước khi lặn mất tăm.
4. Phi hành gia Solway Firth (nước Anh)
Cũng vào năm 1964, một người đàn ông trong khi chụp ảnh cho con gái đã bất ngờ ghi lại được bóng hình một nhân vật đáng ngờ phía sau với trang phục trông giống phi hành gia. Tác giả bức ảnh cho biết, không một ai ở đó khi ông chụp hình. Các chuyên gia phim ảnh Kodak vào cuộc điều tra và công bố bức ảnh không thể bị giả mạo.
5. Các bóng ma từ S.S. Watertown
Vào năm 1942, có hai thủy thủ bị sát hại trong một tại nạn kì dị và được chôn dưới biển. Vào những ngày sau đó, thủy thủ đoàn tuyên bố, họ nhìn thấy hai cái đầu của những thủy thủ này đi theo con tàu. Vị thuyền trưởng đã kịp thời chụp lại bức ảnh cho thấy hai cái đầu dập dềnh theo ngọn sóng bám theo con tàu của họ.
6. Hiệp sĩ bóng đêm ngoài không gian
Vào năm 1960, một bóng đen được ghi nhận đang lơ lửng ngoài không gian. Vào thời gian này, chưa có vệ tinh nhân tạo nào được phóng lên và vật thể này cũng được xác định là không phải do con người chế tạo. Kể từ đó, liên tục nhiều báo cáo ghi lại được hình ảnh vật thể tương tự xuất hiện trong tầng khí quyển trước khi biến mất.
7. Xác người trong ảnh gia đình Coper
Không có nhiều thông tin về bức ảnh này, ngoại trừ chuyện là gia đình Coper dọn đến ngôi nhà mới, dọn dẹp và quyết định chụp một tấm ảnh gia đình làm kỷ niệm, sau khi rửa ảnh, bức hình xuất hình một xác người rủ xuống từ trên trần nhà với khuôn mặt tối tăm không nhìn thấy rõ.
8. Kim tự tháp trên mặt trăng
Bức hình được ghi lại bởi tàu Apollo 17 trong hành trình cuối cùng đến Mặt trăng. Hình ảnh mờ không trông rõ nét dưới ánh sáng tự nhiên, tuy nhiên khi đưa vào điều chỉnh độ phân giải để làm nét, hình ảnh hiện ra trông giống như cấu trúc của một kim tự tháp.
9. Bức ảnh phi đội Goddard
Vào năm 1919, bức hình này được ghi lại trong ngày đám tang của một thành viên trong phi đội, phía sau một sĩ quan trong bức ảnh xuất hiện khuôn mặt mờ được nhận diện là thành viên quá cố của phi đội tên Freddy Jackson.
10. Hồ sơ bí ẩn của Elisa Lam
Vào năm 2013, thi thể Elisa được tìm thấy bên trong một bồn nước nằm trên nóc của khách sạn. Cái chết của cô gái này được kết luận là do tai nạn, không tìm thấy dấu vết sử dụng qua chất kích thích hay cồn trong máu. Máy ghi hình thang máy của khách sạn ghi lại thời điểm trước lúc Elisa chết thấy, cô tiến vào thang máy một mình và có những cử chỉ kỳ lạ như bước qua một bên như tránh đường ai đó, đi tới đi lui và làm những động tác khác thường trước khi đi đến cái chết.
Xem video với 10 bức hình trên Tại đây
đăng 16:30, 19 thg 6, 2014 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 16:31, 19 thg 6, 2014 ]
[Văn hóa Huế] – Từ trước đến nay có nhiều tác giả trong nước cũng như nước ngoài đặt ra vấn đề này, với nhiều giả thuyết khác nhau khiến cho câu hỏi “Vĩnh Thụy con ai?” càng trở nên rối rắm, phức tạp. Thân thế của vị vua cuối cùng triều Nguyễn này trở thành hư hư thực thực. Dưới đây chúng tôi cũng cố gắng giới thiệu cùng bạn đọc ý kiến của một vài tác giả xoay quanh vấn đề trên để tiện tham khảo…
Giả thuyết thứ nhất
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy sinh ngày 22 tháng 10 năm 1913 (tức 23 tháng 9 năm Quý Sửu) tại Huế, cha là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, tức Khải Định, mẹ là Hoàng Thị Cúc tức bà Từ Cung sau này. Các vị hoàng thân quốc thích đã kể thêm về điều đó cho nhà nghiên cứu Huế là ông Nguyễn Đắc Xuân và ông Xuân đã viết lại như sau:
“Vua Đồng Khánh sinh được sáu trai và hai gái, nhưng chỉ nuôi được một trai là Bửu Đảo và hai gái là công chúa Ngọc Lâm và công chúa Ngọc Sơn. Gia đình vua Đồng Khánh với bà Thánh Cung (con đại thần Nguyễn Hữu Độ) và bà Tiên Cung (họ Dương, mẹ đẻ Bửu Đảo sau này là vua Khải Định) hằng hy vọng Bửu Đảo sẽ là người nối dõi tông đường, bảo vệ được những gì vua Đồng Khánh đã vun đắp được trong thời gian ở ngai vàng (1885-1888).
Khi Bửu Đảo đến tuổi lập phủ thiếp, hai bà vui mừng đi cưới con quan đại thần Trương Như Cương cho con trai mình ngay. Cuộc hôn nhân này thật tuyệt vời: làm rể họ Trương vừa có thế lực vừa được của cải, biết đâu “trời đất đoái hoài”, Bửu Đảo được chọn làm vua. Nào ngờ vợ chồng Bửu Đảo ăn ở với nhau không có hạnh phúc. Ngày đêm Bửu Đảo chỉ ham thích đánh bạc không ngó ngàng chi đến bà vợ mới cưới. Khi vợ chồng gặp nhau, Bửu Đảo chỉ bàn có một việc là làm sao xin gia đình họ Trương cho thật nhiều tiền. Vợ Bửu Đảo rất buồn, nhiều lần phải khóc lóc với cha mẹ mới xin được đủ tiền cho chồng tiêu xài.
Lúc đầu, gia đình họ Trương còn giữ ý tứ cho ông hoàng Phụng Hoá Công (tước của Bửu Đảo lúc chưa làm vua) nhưng về sau Bửu Đảo cứ ép vợ về lấy tiền hoài, Trương gia rất bất bình đã nhiếc chàng rể là “đồ bất lực vô hậu”.
Biết chuyện con trai duy nhất của mình “không có hậu”, hai bà Thánh Cung và Tiên Cung buồn bã, thất vọng não nề, suốt ngày than thở cùng nhau về hậu vận. Và cứ thế, nỗi lo lắng chồng chất làm cho ngày đêm mất ngủ, biếng ăn… sức vóc của hai bà ngày càng sa sút, tiều tụy… Tuy ham mê cờ bạc nhưng Bửu Đảo là đứa con có hiếu, thấy hai bà mệ đau buồn như thế ông cũng phải lo.
Ông đem chuyện tâm sự với một người trong hoàng tộc bậc ông nhưng tuổi tác lại đồng trang với cháu. Vị hoàng thân đó là Hường Đ (Hường Để, sinh năm 1885). Trong nhiều năm lui tới trà, rượu, bài bạc với cháu là Bửu Đảo, Hường Đ đã được người cháu giúp đỡ những lúc thiếu thốn. Do đó, lần này thấy Bửu Đảo muốn san sẻ một phần khó khăn của mình, Hường Đ đã ra tay giúp cháu…
Bửu Đảo đã rất vui mừng khi nghe Hường Đ dựng nên câu chuyện sau đây
“Phụng Hoá Công vốn là người bất lực. Nhưng một hôm, Công bắn được một con chồn hương, người nhà đã hầm con chồn hương với sâm, nhung và nhiều vị thuốc bổ dưỡng khác. Buổi tối, Công uống rượu và ăn món hầm đại bổ ấy… liền cảm thấy hứng khởi và nổi cơn đòi phụ nữ… Giây phút sinh lực trần thế đột ngột, sợ nó tan biến đi nên sẵn có cô Hoàng Thị Cúc đang ở trong nhà, Công cho gọi đến và may mắn sao cô Cúc đã thọ thai”.
Tin cô Cúc có thai với Bửu Đảo đến tai bà Tiên Cung, bà Thánh Cung và những thân thích trong gia đình Phụng Hoá xem như một phép lạ.
Để xác minh thực hư, các bà đã sai đào một cái hố (sâu khoảng 2 tấc) bảo cô Cúc nằm sấp, để cái bụng có mang nằm lọt dưới hố, rồi dùng roi đánh tra hỏi cô Cúc đã lấy ai mà dám vu cho Phụng Hoá Công. Cô Cúc cắn răng chịu đựng hình phạt và chỉ đinh ninh một lời khai là đích thị có mang với Bửu Đảo. Thế là các bà mừng rỡ công bố cho hoàng tộc biết Phụng Hoá Công sắp có con. Và lúc ấy trong hoàng tộc dù tin hay ngờ đều phải nhận như thế.
Sự thật, theo ông Phan Văn Dật và ông Ngũ đẳng thị vệ Nguyễn Đắc Vọng thì không có chuyện Bửu Đảo ân ái với cô Cúc và cô Cúc may mắn mang thai. Cô Cúc đã mang thai với chính Hường Đ từ trước. Được Hường Đ nhường cho đứa con, Bửu Đảo rất hàm ân người ông. Để đền ơn, Bửu Đảo đã giúp đỡ Hường Đ rất nhiều về quan tước cũng như vật chất, tiền bạc.
Do sự giúp đỡ của anh Bửu Dương, chúng tôi đọc 17 cuốn vở gồm 1700 trang viết tay của thầy Ưng Đồng (con trai cụ Hường Đ) viết về lịch sử gia đình và họ hàng nhà mình. Qua tập di cảo đồ sộ ấy, chúng tôi đã lọc ra được một số chi tiết có liên quan đến sự việc Vĩnh Thụy chính là con cụ Hường Đ.
Trong khi đi dự họp Nguyễn Phước tộc ở Phú Tân, thầy Ưng Đồng thường hay được chào là “ông giáo sư em của Cựu Hoàng”, lời chào này hàm ý thầy Ưng Đồng với Bảo Đại là anh em cùng cha.
Thầy Ưng Đồng cho biết: khoảng năm 1912 thân phụ ông và Hoàng tử Bửu Đảo là đôi bạn thân ăn một mâm nằm một chiếu. Ngày 22-10-1913 Vĩnh Thụy ra đời thì một tháng rưỡi sau (7-12-1913) Ưng Linh, con chính thức cụ Hường Đ cũng ra đời. Hai cậu bé này lớn lên đều to béo khoẻ mạnh giống nhau, ảnh của hai người đặt cạnh nhau thấy giống như anh em ruột.
Thầy Ưng Đồng còn cho biết thêm: “Bà ngoại ta thường vào cung Diên Thọ chào thỉnh an Đức Từ Cung. Đức Từ Cung gọi bà ngoại ta (tức mẹ vợ cụ Hường Đ) bằng “dì” dù bà ngoại ta không có họ hàng thân thuộc gì với Đức Từ Cung.”
Bà Từ Cung nhiều lần dặn mẹ cụ Hường Đ: “Khi nào Hoàng Đế hồi loan, dì cho thằng Đồng vào đây để nó nhờ” (phải chăng bà Từ Cung hàm ý cho Ưng Đồng vào Nội để hưởng lộc của anh ?).
Đoạn tư liệu trực tiếp nhất là vào khoảng năm 1934, trong một lần vào Đại Nội thăm viếng Hoàng đế Bảo Đại, ông Hường Đ đã bị mật thám Pháp ngăn trở. Về nhà ông ôm đầu bực tức “quở” rằng: “Đồ chó má! Tau là cha vua mà tụi nó chẳng nể nang chi”.
Nếu quả thật như dư luận (được thầy Phan Văn Dật thuật lại) và như đã ghi một cách khá rõ ràng trong tài liệu của gia đình cụ Hường Đ thì vua Khải Định đã nhận chú làm con!
Như tác giả Nguyễn Đắc Xuân đã viết, mẹ đích (mẹ đẻ) ra Vĩnh Thụy là bà Hoàng Thị Cúc tức bà Từ Cung. Điều này không ai chối cãi rồi. Nhưng người tạo nên cái bào thai trong bụng để bà sinh ra Vĩnh Thụy mới là rắc rối. Bởi nhiều giả thuyết đưa ra nhưng vẫn chưa có lập luận nào đứng vững, trong khi đó các đương sự có đủ thẩm quyền trả lời về vấn đề này lại trở thành người thiên cổ: vua Khải Định, bà Hoàng Thị Cúc, cụ Hường Đ. Còn Bảo Đại thì lại không thể trả lời được về chuyện sâu kín này.
Cho nên vị Đổng lý Ngự tiền Văn phòng của Bảo Đại trước 1945 là cụ Phạm Khắc Hoè đã đưa ra một giả thuyết thứ hai. Thuyết này do một người Pháp là Khâm sứ Pasquier nêu lên. Cụ Phạm Khắc Hoè viết về “Vĩnh Thụy con ai?” như sau:
“Khi Khải Định mới được Pháp cho lên làm vua, nhiều người đã bàn tán về sự liệt dương của ông và khẳng định rằng Vĩnh Thụy không phải là con của Khải Định. Về sau, mối quan hệ tớ thầy giữa Khải Định và thực dân Pháp càng khăng khít thì sự bàn tán ấy càng mở rộng làm cho Khải Định lo lắng sẽ gặp nhiều trở ngại trong việc truyền ngôi cho Vĩnh Thụy.
Khải Định bèn chỉ thị cho Hội đồng Hoàng tộc và Viện Cơ mật làm một tờ biểu xin nhà vua sớm lập Hoàng từ Vĩnh Thụy làm Đông cung Hoàng thái tử. Đó là tờ biểu ngày 2-4-1921 mà Khải Định đã tự tay mình đưa cho Khâm sứ Pasquier để nhờ giúp đỡ. Pasquier vốn rất thương Vĩnh Thụy và coi đó là con bài tốt nhất để tránh cho thực dân khỏi phải đương đầu trở lại với dòng Thành Thái – Duy Tân chống Pháp. Cho nên ông ta đã mất gần một năm điều tra nghiên cứu rất tỉ mỉ và ngày 24-2-1922 đã gửi cho ông Toàn quyền một bản báo cáo tối mật dài hơn 20 trang đánh máy.”
Sau đây là một đoạn trích dịch bản báo cáo ấy: “Nhằm tranh thủ sự đồng tình của những quan lại muốn phục hồi ngai vàng cho một dòng đã hai lần chỉ gây thất vọng (ý nói Thành Thái – Duy Tân) người ta lại một lần nữa tung ra những tin đồn về sự bất lực của vua Khải Định trong việc tự tạo cho mình một người kế vị trực tiếp và cậu bé nhà vua đang nuôi trong Đại Nội không phải là con ông… Họ tung ra nhiều thuyết mà phổ biến nhất là thuyết cho rằng Vĩnh Thụy là con của hai người đầy tớ phục vụ trong gia đình Hoàng thân Phụng Hoá (Khải Định), nam tên là Thừa Quang, nữ tên là Thị Út, sau đổi là Thị Cúc. Nhưng đó là một chuyện hoang đường, sau về cơ bản vì nó không để ý đến một sự thật là Vĩnh Thụy rất giống Khải Định”.
Về thuyết trên, chúng tôi đã đem so sánh hình hai cha con Khải Định – Vĩnh Thụy lúc nhỏ thì thấy rất giống nhau. Còn người ta nêu ra thuyết Khải Định mặt không to béo, người gầy ốm trong khi Vĩnh Thụy béo tốt, to con nên không thể là con của Khải Định được, thì thuyết này không đứng vững được. Lý do Vĩnh Thụy ngay khi còn nhỏ đã được chăm sóc, ăn uống đầy đủ theo tiêu chuẩn Tây phưong nên sức khoẻ tốt, rồi được gửi sang Pháp học, tới năm 13 tuổi thì được phong vua kế ngôi cha (Khải Định tạ thế). Nhưng dù được phong vua, Vĩnh Thụy (lúc này là Bảo Đại) vẫn ở Pháp tiếp tục theo học, và nhất là Bảo Đại không như các vị vua tiền nhiệm sớm có vợ, nên sức khoẻ không bị suy yếu, đến năm 21 tuổi ông mới chính thức lấy vợ.
Vậy thuyết cha yếu, gầy ốm xanh xao như Khải Định không thể sanh con mạnh khoẻ như Bảo Đại là không có cơ sở do những thực tế đã trình bày ở trên.
Nhưng cụ Phạm Khắc Hoè lại còn đưa ra một giả thuyết thứ ba như sau:
“Một thuyết nữa khôn khéo hơn, vụ lợi hơn. Đó là thuyết của các ông Tôn Tước cho rằng, việc Vĩnh Thụy được đăng ký vào sổ hoàng tử ở Phủ Tôn Nhơn chỉ là vì Hoàng thân Phụng Hoá (Khải Định) vốn rất có hiếu với mẹ, muốn làm cho mẹ vui sướng được làm bà nội, nhưng sự thật thì Vĩnh Thụy là con một ông quan to ở bộ Lễ là Dương Quảng Lược em ruột của mẹ vua Khải Định. Nhưng xét cho kỹ thì thuyết này cũng không đứng vững. Trước hết, vì nó chỉ xảy ra 4 hoặc 5 năm sau khi Khải Định lên ngôi tức là lúc Vĩnh Thụy đã 7 tuổi. Mặt khác, không lẽ Hội đồng Hoàng tộc lại chấp nhận cho đăng ký vào sổ hoàng tử một cậu bé mà ai cũng biết là không phải con của Hoàng thân Phụng Hoá. Bà nhạc thứ nhất của Hoàng công Phụng Hoá và là vợ của quan đầu triều Trương Như Cương chắc có đóng góp vào những điều vu khống chĩa mũi nhọn vào chàng rể của mình. Thêm sự keo kiệt của quan đại thần Trương Như Cương đã dẫn đến sự ly dị giữa Hoàng thân Phụng Hoá và con gái họ, vì vậy sự ra đời của Vĩnh Thụy đã khiến người ta gọi đó là con đẻ của lòng tự ái bị xúc phạm.
Nguyên khi gả con cho Hoàng thân Phụng Hoá, Trương Như Cương có hứa với chàng rể mỗi tháng sẽ cho một số tiền nhưng sau lại từ chối không cho. Để trả thù ông nhạc đã không giữ lời hứa, Hoàng thân Phụng Hoá không thèm ngủ với con gái của ông già keo kiệt. Bà Trương Như Cương bèn can thiệp, năn nỉ chồng nên làm trọn lời đã hứa, ông hoàng rể cũng khăng khăng đòi tiền. Nhưng Trương Như Cương vẫn nhất quyết không nhả tiền ra. Cuối cùng, một hôm trong cơn đấu khẩu trong gia đình, bà mẹ vợ nổi nóng đã nhiếc mắng chàng rể là “đồ bất lực”.
Lòng tự trọng của đấng mày râu bùng nổ, ông hoàng rể lập tức phủ định lời chế giễu của bà mẹ vợ bằng một cử chỉ hào hùng: ngài đã chọn trong bọn đầy tớ gái của vợ mình một cô đẹp nhất, mạnh khoẻ nhất, và ban ngay cho tại chỗ một trận mây mưa dồi dào và kết quả là sự hạ sinh một ông hoàng”.
Trong tất cả các thuyết ra đời của Vĩnh Thụy, tôi dứt khoát chọn thuyết “một cơn sóng tình đột xuất”. Sau khi khẳng định như vậy, Khâm sứ Pasquier nhấn mạnh thêm về lợi ích chính trị của vấn đề và đề nghị Toàn quyền cho phép thông báo cho nhà vua biết rằng chính phủ Cộng hoà Pháp vui mừng được thấy lời thỉnh cầu của Nam triều về việc lập Hoàng tử Vĩnh Thụy làm Đông cung Thái tử sẽ sớm được thực hiện.
Đề nghị của Khâm sứ Pasquier được Toàn quyền chuẩn y một cách khẩn trương và một tháng sau cậu bé Vĩnh Thụy mới 8 tuổi đã chính thức trở thành Đông cung Hoàng Thái tử thứ hai từ đời Gia Long. Nhưng tất cả những màn kịch trên vẫn không thay đổi được sự thật là Vĩnh Thụy không phải là con của Khải Định”.
Theo tác giả Phạm Khắc Hoè thì Vĩnh Thụy chưa hẳn đúng là con của Khải Định “đúc cốt” mà Khải Định chỉ là “tráng men”. Và tác giả Phạm Khắc Hoè còn nêu ra cơ sở sự thật ấy như sau :
“Năm 1907, thực dân Pháp sau khi phế truất Thành Thái, đã định đưa Bửu Đảo (con Đồng Khánh và là Khải Định sau này) lên ngôi để chúng bón phân thêm cho “cây giống” bù nhìn Đồng Khánh, nhưng vì khi đưa vấn đề ra cuộc hội thương giữa Khâm sứ Pháp và triều đình Huế, nhiều đình thần tỏ ý không muốn đặt lên ngai vàng một ông vua “vô hậu” nên thực dân Pháp đành chấp nhận Duy Tân. Việc này đã được ghi vào trong biên bản cuộc hội thương ấy.
Trước ngày Vĩnh Thụy chào đời theo thuyết “một cơn sóng tình đột xuất” của Pasquier, Khải Định đã có hai vợ và sau đó lấy thêm mười vợ nữa mà không bà nào có con cả.
Tôi đã có dịp nói chuyện khá lâu với hai thiếp của vua Khải Định là bà T.D ở phố Bạch Đằng – Huế và bà T.D ở chùa Hồng Ân – Huế. Mỗi bà đều có một cách nói tế nhị khác nhau, nhưng cả hai đều cho biết Khải Định không thể nào có con được. Vậy thì Vĩnh Thụy con ai? Nói cho đúng hơn thì phải hỏi: Bố Vĩnh Thụy là ai? Nhưng vấn đề cực kỳ phức tạp, rất khó tìm ra câu trả lời cho thật chính xác mà vạn nhất có tìm ra được thì cũng không lợi ích thiết thực. Cho nên tôi thấy cần hỏi câu này có thể làm cho một số bạn bật cười và cho là tôi tự mâu thuẫn. Vì xét về mặt tư tưởng tâm hồn, tình cảm thì bố Bảo Đại là một người mà trừ bọn Việt gian phản động, tất cả nhân dân ta đều biết mặt, biết tên và căm thù rất sâu sắc. Nếu có bạn nào quên thì xin mời đọc lại những đoạn trích dịch bản công văn tối mật nói trên, bạn sẽ thấy ngay rằng bố đẻ của Bảo Đại là chủ nghĩa thực dân Pháp.
Nếu không có những thủ đoạn vô cùng xảo quyệt của chủ nghĩa thực dân Pháp thì chắc Bảo Đại đã không ra đời, và người nối ngôi Khải Định đã được lựa chọn trong hàng ngũ anh em, con cháu Thành Thái.
Chính vì run sợ trước khả năng này mà tên thực dân cáo già Pasquier đã vắt óc dựng nên câu chuyện hoang đường “một cơn sóng tình đột xuất” để đưa đứa bé Vĩnh Thụy mới hơn 8 tuổi lên ngôi Đông cung Hoàng Thái tử và đích thân bế về Paris giao cho Charles, một thực dân đầu sỏ về hưu, nuôi nấng, giáo dục, đào tạo thành một ông vua bù nhìn tuyệt đối trung thành với Pháp.
Như vậy, cho tới nay chúng tôi thấy chưa có tác giả nào dám khẳng định và cam kết biết rõ sự thật ai là cha đẻ của Bảo Đại. Còn thuyết nọ thuyết kia đưa ra cũng chỉ là do một phía chống đối, ghen ghét hoặc bảo vệ Khải Định mà thôi. Chỉ có một sự thật lịch sử có thể nắm bắt được, đó là việc Bảo Đại được tấn phong làm Đông cung Hoàng Thái tử trước khi Khải Định băng hà.
THAM KHẢO
Cụ (Trần Trọng Kim) cho biết rằng cụ nhận được cái giấy của ông Bảo Đại, mời cụ về để hỏi ý kiến; cũng nhân tiện để có thể về thăm bà con và ở lại Việt Nam, cho nên cụ cũng nhận về, chứ cụ nói với tôi (tức Hoàng Xuân Hãn) như thế này: “Cái thằng Bảo Đại nó ngốc lắm, gặp nó làm gì!” Cụ nói với tôi rõ ràng như thế.
Tôi nói: “Mình nghe tiếng thì thế, mà sự thực chưa chắc đã thế đâu. Cụ có thì giờ thì cụ cứ gặp đi, rồi cụ hãy nói sau.” Cụ bảo: “Thế nào tôi cũng phải ở lại đây vài ngày, nhất là vợ tôi đã tới đây. Tôi sẽ gặp.” ……..
Ngay sáng hôm sau thì Phạm Khắc Hoè đưa cụ vào thăm ông Bảo Đại……. Đến lúc ra, cụ gặp tôi, cụ bảo: “Lạ lắm!”
— “Chuyện gì lạ?”
— “Tôi vào gặp ông Bảo Đại, nghĩa là ông ấy biết hết cả các chuyện chứ không phải ngốc như người ta nói” Cụ Kim nói với tôi như thế. Thấy cụ có cái sympathie lạ lắm.
Từ trước tôi không biết vua Bảo Đại là người như thế nào. Vì trong thời bảo hộ của nước Pháp, hình như ngài chán nản không làm gì cả, chỉ săn bắn và tập thể thao. Hôm mồng 7 tháng tư tôi vào yết kiến thấy có vẻ trang nghiêm và nói những lời đúng đắn…..
Ngài nói: “Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên bộ thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó với mọi việc.” …
“Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.”
(van-hien)
Những kho báu bí ẩn bị thất lạc trên thế giới
đăng 20:22, 29 thg 5, 2014 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 20:31, 29 thg 5, 2014 ]
Nhiều người cho rằng, những kho báu nổi tiếng trên thế giới thực sự tồn tại. Tuy nhiên theo thời gian, chúng bị đánh cắp, thất lạc, hoặc giấu đi có chủ ý.
10. Căn phòng hổ phách
Căn phòng hổ phách là món quà Vua Phổ Frederick William tặng cho Sa Hoàng Peter của Nga. Được mệnh danh là kỳ quan thứ tám của thế giới vì vẻ đẹp lộng lẫy, căn phòng chứa các tấm hổ phách được dát vàng. Quá trình xây dựng căn phòng này mất hơn 10 năm, đòi hỏi công sức lao động của vô số thợ thủ công và nghệ nhân điêu khắc có tay nghề cao. Với giá trị lịch sử, kinh tế cao, đến nay căn phòng được ước tính trị giá 200 triệu USD.
Căn phòng đột nhiên biến mất trong Thế chiến thứ 2. Nhiều người cho rằng nó bị Đức quốc xã cướp phá và gói ghém mang trở lại Đức. Mặc dù có không ít giả thuyết về những gì đã xảy ra với căn phòng, như bị cháy trong các trận bom, hoặc các tấm hổ phách được chôn sâu trong lâu đài dọc biên giới Đức, đến nay thì nơi “an nghỉ” của Căn phòng hổ phách vẫn còn là một ẩn số.
9. Kho báu của Lima
Nhằm bảo vệ tài sản khỏi quân cướp trong biến cố năm 1820, Phó vương Lima quyết định chuyển toàn bộ kho báu trị giá 60 triệu USD của thành Lima bằng 11 con thuyền đến Mexico để cất giữ. Số của cải này bao gồm 2 bức tượng có kích thước như người thật khắc hình ảnh Thánh nữ Mary đang bế Đức chúa hài đồng.
Không lâu sau khi khởi hành, thủ lĩnh của đoàn tàu Queen Mary, William Thompson, lộ bản chất của một tên cướp biển. Cùng với thuyền phó, thuyền trưởng William chuyển hướng hành trình sang đảo Cocos và quyết định chôn toàn bộ kho báu ở đó chờ đến khi tình hình lắng xuống.
Tuy nhiên, đoàn tàu Queen Mary sau đó đã bị bắt, hầu hết các thành viên trong đoàn đều bị treo cổ trừ thuyền trưởng William Thompson và thuyền phó. Để được bảo toàn tính mạng, 2 người này đồng ý dẫn đội quân Tây Ban Nha đến chỗ giấu kho báu, nhưng trên đường đi đã tìm cách bỏ trốn vào rừng sâu. Kể từ đó, chẳng có tin tức gì về thuyền trưởng cũng như kho báu của Lima. Tính đến nay, có khoảng 300 đoàn thám hiểm đã đi tìm kiếm kho báu nhưng đều thất bại.
8. Những trái trứng Faberge bị thất lạc
Những trái trứng Faberge được chế tác bởi thợ kim hoàn Peter Carl Faberge làm quà cho Nga hoàng trong ngày lễ Phục sinh. Thành quả sau nhiều năm cật lực của ông là 65 trái trứng sang trọng bằng vàng, mạ kim cương, hồng ngọc, ngọc bích và đá quý khác.
Sau Cách mạng Nga, 7 trái trứng bị thất lạc, những trái còn lại được rao bán. Mặc dù một số trái bị thất lạc nhưng vẫn còn hình ảnh lưu lại để chứng minh sự tồn tại của chúng. Đầu năm 2014, một trong những trái trứng bị thất lạc đã được tìm thấy trên thị trường đồ cổ, và được mua với giá 14.000 USD. Các nhà sưu tập đồ cổ vẫn không ngừng tìm kiếm những trái trứng còn lại đang thất lạc.
7. Hòm đựng pháp điển – The Ark of the Covenant
Theo mô tả trong Sách Xuất Hành, Hòm đựng pháp điển chứa những tấm bảng khắc 10 Điều Răn. Theo Kinh thánh, Hòm pháp điển được chế tạo bởi Moses theo chỉ thị của Chúa. Người Do Thái tin rằng, chiếc hòm được làm từ gỗ keo và vàng nguyên chất này là di vật thiêng liêng nhất của dân tộc.
Sau khi người Babylon lật đổ vương quốc Israel (Do Thái), chiếc hòm đột nhiên biến mất. Có truyền thuyết kể lại rằng, người Do Thái đã giấu chiếc hòm đi trong suốt thời kì cai trị của người Babylon, trong khi đó có người lại cho rằng, chính Chúa đã lấy đi chiếc hòm. Sự tồn tại của chiếc hòm, dù trong quá khứ hay hiện tại, vẫn là một điều bí ẩn, tuy nhiên có một điều chắc chắn là ngày nay người ta vẫn đang kiếm tìm nó.
6. Lăng Tần Thủy Hoàng
Tần Thủy sinh năm 259 trước Công nguyên và là vua trị vì một trong sáu vương quốc độc lập ở Trung Quốc. Thông minh, may mắn và có tài chiến lược quân sự, ông đã chinh phục tất cả các vương quốc khác, trở thành hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc. Sau khi qua đời, ông được chôn trong ngôi mộ xa hoa nhất từng được xây dựng tại vương quốc này.
Ngôi mộ có kích thước của một thành phố nhỏ, có cả mạng lưới đường xá và hàng hóa để phục vụ hoàng đế ở thế giới bên kia. Nhà viết sử Trung Quốc Tư Mã Thiên, khoảng một thế kỷ sau cái chết của Hoàng đế viết lại rằng quá trình xây dựng lăng mộ cần đến công sức của hơn 700.000 công nhân. Hơn 6.000 chiến binh đất nung được đặt xung quanh ngôi mộ để giúp bảo vệ Hoàng đế khi Người sang thế giới bên kia .
Khắp Trung Quốc, ai ai cũng biết đến vị trí của lăng mộ, trên một ngọn đồi lớn ở miền Trung nước này và người ta cho rằng không có cách nào để vào được bên trong. Họ cũng tin vào truyền thuyết về một con sông thủy ngân bao quanh ngôi mộ. Mẫu đất gần khu mộ cũng được tiết lộ có nồng độ thủy ngân rất cao. Các nhà khoa học và khảo cổ đã và đang khai quật khu vực này kể từ những năm 70, khi các chiến binh đất nung đầu tiên được phát hiện .
5. Kho báu của Pharaoh
Mọi người đều biết về kho báu rộng lớn chứa trong các ngôi mộ Ai Cập cổ đại. Các Pharaoh được chôn cùng với tất cả những thứ cần thiết để đảm bảo cuộc sống ở thế giới bên kia. Do đó, ngoài mộ của Pharaoh, không có gì ngạc nhiên khi ngôi mộ của các cao tăng Heridor, Piankh và Menkheperre được mong đợi nhất sau hàng ngàn năm khám phá. Một nhà khảo cổ học người Anh tin rằng ông đã tìm thấy những đầu mối về vị trí của các ngôi mộ và đang cố gắng hết mình để bảo vệ chúng.
4. Thành phố bị mất tích Paititi
Cũng giống như câu chuyện của El-Dorado, truyền thuyết về Paititi kể lại rằng đây là một thành phố rộng lớn với rất nhiều vàng của người Inca và những di vật được giấu ở đâu đó trong khu rừng nhiệt đới, chỉ chờ con người khám phá. Người ta cho rằng thành phố Paititi nằm sâu trong khu rừng nhiệt đới của Brazil.
Trong suốt nhiều năm, các nhà sử học và các học giả tin rằng đây chỉ là câu chuyện được hư cấu. Tuy nhiên, nạn phá rừng diễn ra mạnh ở các khu rừng nhiệt đới đã thay đổi cách mọi người nhìn nhận những câu chuyện. Năm 2009, hình ảnh vệ tinh cho thấy đã từng có các khu định cư lớn trong khu vực Boco de Acre của Brazil. Điều này buộc các nhà khảo cổ và sử học phải suy nghĩ lại những giả định trước đó. Liệu có một thành phố vàng bị mất tích đang ẩn mình giữa rừng? Chỉ có thời gian mới trả lời được.
3. Két sắt bị chôn vùi của Dutch Schultz
Dutch Schultz là tên cướp người Mỹ, đã kiếm được gia tài kếch xù phần lớn nhờ buôn lậu rượu. Khi bị Sở Thuế vụ (IRS) điều tra về việc trốn thuế, Schultz đã sắm một chiếc két sắt và để vào trong đó 7 triệu USD tiền mặt cùng trái phiếu. Sau đó, ông cùng với vệ sỹ riêng chở chiếc két sắt đó đi chôn đâu đó ở New York. Nơi cất giữ bí mật của chiếc két đã mãi đi về thế giới bên kia cùng với chủ nhân của nó, vì Schultz cùng với tay vệ sỹ của mình bị bắn trước khi địa điểm cất giấu được tiết lộ.
2. Kho báu Yamashita
Trong Thế chiến thứ 2, quân đội Nhật Bản cướp phá nhiều nơi ở Đông Nam Á và đánh cắp hàng triệu USD từ các ngân hàng, đền, bảo tàng và nhà riêng. Người ta cho rằng quân đội Nhật sử dụng số tiền này phục vụ chiến tranh, và để giữ chiến lợi phẩm an toàn, họ đã chôn giấu kho báu trong hang động, đường hầm dưới lòng đất tại các địa điểm khác nhau ở Philippines.
Nhật Bản hy vọng sẽ chuyển kho báu của mình về nước sau khi chiến tranh kết thúc nhưng lại lo lắng do những con tàu đã bị đánh chìm bởi lực lượng Đồng Minh. Đến nay, người ta vẫn đang tìm kiếm chúng và đưa ra các giả thuyết xung quanh kho báu bí ẩn này.
1. Bảng danh sách bằng đồng (Copper Scrolls)
Có niên đại hàng ngàn năm, Copper Scrolls được tìm thấy cũng tại nơi mà người ta phát hiện Dead Sea Scrolls ở Qumran năm 1952, bởi một nhà khảo cổ học người Anh. Các văn bản trên đó được viết bằng tiếng Do Thái cổ, gây rất nhiều khó khăn cho việc giải mã. Văn bản đề cập 64 vị trí được cho là có chứa kho báu vàng và bạc.
Các hướng dẫn rất phức tạp, được viết theo cách mà chỉ những người nắm chắc về khu vực mới có thể hiểu được. Kho báu được ước tính là hàng tấn (vàng và bạc) trị giá hàng trăm triệu USD. Các học giả đang bối rối bởi chỉ dẫn khó hiểu trên các Copper Scrolls và tiếp tục tìm kiếm đầu mối về những kho báu khổng lồ bị mất tích./.
đăng 16:28, 17 thg 5, 2014 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 16:31, 17 thg 5, 2014 ]
Cuốn sách "Dreaming Beyond Death" (Những giấc mơ vượt qua cái chết) kể về giấc mơ của một số người vào thời điểm cận kề cái chết - một cố gắng nữa của con người trong việc giải mã giấc mơ.
Với người xưa, giấc mơ thường được hiểu là sự báo trước điềm lành dữ. Cũng có quan điểm cho rằng giấc mơ là sự diễn đạt huyền bí, không đầy đủ những cảm xúc, ý nghĩ, ước mơ của con người; hoặc quan hệ đến quá khứ, nhất là thời thơ ấu...
Là một nữ giáo sĩ làm việc trong nhà tế bần Marin (California, Mỹ), 10 năm nay, Patricia Bulkley tiếp xúc với cảm xúc thật nhất của những người đang chờ đợi cái chết - nỗi sợ hãi khi sắp phải từ giã cõi đời, những chuyện gia đình đang còn vương vấn, sự khủng hoảng lòng tin... Chẳng hạn như Charles Rasmussen - một thuyền trưởng tàu buôn nghỉ hưu và sắp chết vì bệnh ung thư - đã bị nỗi sợ hãi gặm nhấm cho đến khi, trong một giấc mơ, ông thấy mình đang giương buồm ra một vùng biển lạ vắng lặng, tối đen và mênh mông. "Lạ thay, tôi không còn sợ chết nữa" - Charles tâm sự với Bulkley sau khi kể cho bà về giấc mơ của mình. Đối với Charles, từ lúc ấy, cái chết không còn là sự kết thúc, mà chỉ khởi đầu một cuộc hành trình.
Đó chỉ là một trong nhiều giấc mơ được Bulkley nhắc đến trong cuốn sách đang gây tiếng vang lớn mà bà cùng viết với con trai là Kelly Bulkley, cựu giám đốc Hiệp hội nghiên cứu giấc mơ quốc tế. Đây là tác phẩm đầu tiên về sức mạnh của sự sống trong những giấc mơ khi ai đó gần kề cái chết. Chúng có thể giúp họ xua tan nỗi sợ hãi, tìm ra ý nghĩa lớn hơn của sự sống, thậm chí còn cải thiện được quan hệ của họ với người thân. Dù mới chỉ nghiên cứu sơ bộ, hai tác gia đã đem đến những phân tích đáng chú ý, khi mà cho đến nay có rất ít nghiên cứu đầy đủ về những giấc mơ như vậy.
Những giấc mơ mang ý nghĩa hoặc có tính dự báo trước khi chết xuất hiện ở mọi nền văn hoá và tôn giáo, từ Trung Quốc, Ấn Độ tới Hy Lạp cổ đại. Trong giấc mơ, những người sắp chết thường thấy mình đi xa, hội ngộ với những người thân yêu đã qua đời, hay nhìn thấy những chiếc đồng hồ ngừng chạy. Thường những hình ảnh này rất đơn giản. Một phụ nữ mơ thấy ngọn nến trên bậu cửa sổ bệnh viện tắt phụt, nhấn chìm bà trong bóng đêm - biểu tượng của cái chết đang làm bà sợ hãi - cho đến khi ngọn nến đồng thời được thắp sáng bên ngoài cửa sổ. Một người đàn ông đang đấu tranh để tìm ý nghĩa cuộc sống của mình mơ thấy một sàn nhảy hình vuông, trên đó các đôi nhảy để lại những dấu vết chuyển động trông giống như những dải ruybăng kết thành một tấm đan. "Luôn có một kế hoạch sau tất cả, phải vậy không?" - người đàn ông hỏi Bulkley sau giấc mơ đó.
Nhưng không phải mọi giấc mơ trước khi chết đều dễ chịu. Chúng cũng có thể làm họ sợ hãi, với cảnh bị đuổi bắt qua một thành phố đổ nát, va vào một chiếc xe không người lái rồi rơi xuống hào nước, hoặc trú ẩn trong nhà thờ nhưng lại gặp một cơn bão cuốn đổ mái nhà. "Tôi từng gặp những bệnh nhân khi tỉnh dậy đập ầm ầm vào tấm nệm đầy kích động, vật lộn với ý nghĩ rằng họ sẽ thua trong trận đấu này" - Rosalind Cartwright, Giám đốc nghiên cứu Khoa học ứng xử tại Trung tâm Y tế ĐH Rush (Mỹ), cho biết. Những giấc mơ này cảnh báo những vấn đề chưa được giải quyết của bệnh nhân. Nhưng nỗi sợ hãi cuối cùng lại có thể giúp họ tìm thấy sự thanh thản. "Phớt lờ chúng sẽ gây nguy hiểm cho bạn" - Cartwright nói.
Những nhà nghiên cứu nhận thấy các giấc mơ trước khi chết thường khẩn thiết hơn, sống động hơn, và dễ nhớ hơn là những mẩu giấc mơ chắp nối thường ngày. "Trong suốt cuộc đời, vào những thời điểm khủng hoảng hoặc quá độ nào đó, nhu cầu mơ được đẩy lên cao" - nhà tâm lý học Alan Siegel, ĐH California, nói. Trước một sự kiện càng kịch tính, càng có nhiều giấc mơ về việc giải quyết những chuyện tình cảm có liên quan. Song bản chất của những giấc mơ đó là gì? Liệu những giấc mơ trước khi chết có phải là bằng chứng cho sự hiện hữu của Chúa Trời? Bí mật của giấc mơ mới chỉ vừa được hé mở, và vẫn đang chờ được giải đáp trọn vẹn .
(Theo Newsweek)
Việt Báo (Theo_24h)
"Gai người" nghe chuyện đàn ông dũng mãnh thường bị phụ nữ... cưỡng bức
đăng 10:55, 27 thg 3, 2014 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 10:57, 27 thg 3, 2014 ]
Tại Papua New Guinea, tình dục là chuyện cực kỳ thoải mái, tự do. Ở đây, đàn ông không được tự quyết vấn đề hôn nhân, tình dục, mà là phụ nữ.
Papua New Guinea là một quốc gia độc lập ở châu Đại Dương rộng gần 500 ngàn km2. Dân số Papua New Guinea chỉ có 5 triệu người, song lại là một trong những quốc gia có nhiều dân tộc nhất trên thế giới, có hơn 850 ngôn ngữ thổ dân. Phần lớn người dân quốc gia này là thổ dân, sống trong các khu rừng rậm.
Papua New Guinea chủ yếu là núi non (đỉnh cao nhất là núi Wilhelm cao 4.509m). Đất nước này được bao phủ bởi những cánh rừng mưa nhiệt đới. Sự hoang rậm của núi non, cách sống khép kín, nên các bộ tộc ở quốc gia này vẫn giữ được bản sắc. Những phong tục, tập quán vẫn còn nguyên vẹn từ thời xa xưa. Đàn ông, đàn bà các bộ tộc hầu như ở trần. Đàn ông chỉ có quả bầu che dương vật, đàn bà chỉ có cỏ gianh che phần kín.
Điều đáng nói là chế độ mẫu hệ vẫn còn tồn tại nguyên vẹn ở các bộ tộc trên mảnh đất này, nơi phụ nữ có quyền lực tuyệt đối, định đoạt mọi việc trong gia đình, bộ lạc. Tình dục là chuyện cực kỳ thoải mái, tự do ở vùng đất này. Ở đây, đàn ông không được tự quyết vấn đề hôn nhân, tình dục, mà là phụ nữ.
Đàn ông ở đất nước này là những thợ săn lão luyện, chiến binh dũng mãnh, song họ cũng là nạn nhân của những vụ cưỡng bức của đàn bà.
Ở đảo Trobriand, nếu người phụ nữ chấm anh chàng nào đó, thì họ sẽ đi thẳng đến giường của anh ta để nằm và đánh một giấc đến sáng. Tất nhiên, khi cô gái đã ngủ trên giường của bất kỳ ai qua đêm, thì người đó phải lấy cô làm vợ, không có cách nào khác.
Đau khổ cho đàn ông hơn nữa, là khi cô vợ chán, cô ta sẽ mang theo một cái nồi, dắt theo đàn con đi là xong chuyện. Người chồng chỉ có nước đứng khóc nhìn theo gót chân vợ con, mà không thể làm gì hơn. Chẳng hiểu do nữ quyền, tự do tình dục tuyệt đối, hay do phụ nữ ở quốc gia này “máu lửa”, mà họ thường xuyên bắt cóc đàn ông để cưỡng bức.
Vào các vụ mùa thu hoạch, trồng khoai, đàn ông không dám ra khỏi nhà, vì sợ phụ nữ cưỡng hiếp.
Liệu trong khoai lang ở đất nước này có hoạt chất đặc biệt khiến chị em rất sung?
Vào mùa thu hoạch, chị em thường tụ tập thành nhóm và rình tóm những gã trai lơ mất cảnh giác. Nếu họ phát hiện anh chàng nào đang thu hoạch khoai lang thì khốn khổ.
Nhiều anh chàng sợ quá, không dám lên nương, không dám ra ngoài nữa, mà đóng cửa ở lỳ trong nhà. Sự thực này khác xa với hình ảnh những chiến binh của đất nước Papua New Guinea hùng dũng với cung tên, lao dài, vẽ hình thù vằn vện đi săn bắn, hoặc biểu diễn chiến đấu trong các lễ hội.
Người dân ở hòn đảo này ăn khoai lang là chính. Các nhà khoa học cho rằng, khoai lang trên hòn đảo có một số hoạt chất đặc biệt kích thích chị em, khiến họ rất cuồng nhiệt.
Mặc dù là chế độ mẫu hệ, đàn bà có quyền tự quyết tất cả mọi vấn đề, song đàn ông cũng có những sở thích nhất định. Sở thích của họ với đàn bà rất lạ lùng, chả giống với dân tộc nào, đặc biệt là trái ngược với đàn ông xã hội hiện đại. Họ thích những người đàn bà có bộ ngực dài.
Phụ nữ có bộ ngực căng tròn thì không lọt vào mắt xanh của đàn ông và thật đau khổ cho những anh chàng nào bị phụ nữ có ngực căng tròn cưỡng bức, vì họ không có cảm xúc gì. Theo Xahoi
Trên hòn đảo nhiệt đới Trobriand xinh đẹp thuộc đất nước Papua New Guinea (châu Đại Dương) những băng nhóm phụ nữ ngang nhiên tìm bắt đàn ông để phục vụ nhu cầu sinh lý giữa "thanh thiên bạch nhật".
Tư tưởng siêu thoáng về tình dục
Tình dục là cần thiết và cũng vô cùng quan trọng như khi đói phải ăn, khát phải uống. Đó là những suy nghĩ đã ăn sâu vào máu của thổ dân trên hòn đảo này. Thậm chí những suy nghĩ này còn được đánh giá là cởi mở và dễ dãi hơn cả các nước phương Tây nơi vốn được cho là có tư tưởng thoải mái và tiến bộ về tình dục.
Đó chính là lý do vì sao hòn đảo hoang sơ này lại được đặt những cái tên mỹ miều, mới nghe đã thấy hấp dẫn đến chết người như Đảo Tình Yêu hay Đảo Sung Sướng.
Những thổ dân trên đảo không đặt ra bất cứ một luật lệ hay điều cấm kị nào cho “chuyện ấy”. Với những con người cuồng nhiệt nơi đây, tình dục là tự do. Trong ngôn ngữ tình yêu của người dân Trobriand, khi chàng trai thích một cô gái, chàng sẽ giơ ngón tay cái lên để ngỏ ý muốn “yêu thương”.
Nếu đồng ý, cô gái sẽ trả lời bằng cách đưa một ngón tay lên miệng và hai người sẽ dắt nhau đến những hang động để làm tình, ngược lại, nếu không đồng ý, người con gái chỉ cần lắc đầu.
Chẳng thế mà ở đây, các thiếu nữ mới 13, 14 tuổi đã được các bà mẹ khuyến khích đi tìm đàn ông để ngủ cùng. Theo những người mẹ này, ngủ với những người đàn ông từ sớm sẽ giúp các cô gái có thể lựa chọn ai là người chồng lý tưởng cho mình.
Những "củ khoai sung sướng"
Ngỡ tưởng khí hậu nóng ẩm cùng với phong cách sống thoải mái đã tạo nên một cuộc sống tình dục hoang dại của người dân bản địa, song sự thật lại khiến nhiều người phải mắt tròn mắt dẹt ngỡ ngàng. Tất cả bí mật lý giải cho sự ham muốn cuồng nhiệt này đều ẩn chứa trong những củ khoai lang nhỏ bé trồng trên đảo.
Đối với người dân Trobriand, khoai lang không chỉ là thứ lương thực quan trọng giúp duy trì đời sống mà còn giúp cho họ luôn tràn trề hưng phấn. Theo một vị bác sỹ trên đảo, những củ khoai lang trồng trong điều kiện thổ nhưỡng đặc biệt của đảo chẳng khác nào “thuốc tiên” vì nó có chứa một loại chất kích thích ham muốn làm “chuyện ấy”. Chất này đặc biệt có tác động mạnh mẽ đến phụ nữ nhưng lại hầu như không ảnh hưởng đến đàn ông.
Việc ăn khoai lang quanh năm đã tác động mạnh mẽ đến hành động của những người phụ nữ. Họ luôn tìm cách gợi tình hay ve vãn những người đàn ông, rồi sau đó đưa vào những cuộc giao hoan đầy hưng phấn.
Đặc biệt, sau mỗi vụ thu hoạch khoai lang, khi bất cứ gia đình nào cũng sẵn có loại “thần dược” này trong bếp thì nhu cầu về tình dục lại được đẩy lên đến đỉnh điểm. Đối với đàn bà, bất kể già hay trẻ, có chồng hay chưa chồng, thì đây vẫn là khoảng thời gian họ ăn không ngon, ngủ không yên vì bị kích thích cao độ khiến họ phải tìm đàn ông để giải tỏa.
Còn đối với những người đàn ông, đây là khoảng thời gian được sung sướng tận hưởng khoái lạc nhưng đồng thời cũng phải nếm trải những cay đắng và nhục nhã nếu không làm cho chị em thỏa mãn.
Chiêu trò quyến rũ và đưa đàn ông vào tròng
So với những bộ lạc khác, những người phụ nữ thuộc các bộ lạc trên đảo Trobriand dường như là bậc thầy trong việc làm cho đàn ông chết mê chết mệt. Vào tháng Bảy, tháng Tám hàng năm, khi Lễ hội khoai lang được tổ chức để ăn mừng vụ mùa bội thu và cầu mong một vụ mùa tốt hơn vào năm sau, cũng là lúc những người phụ nữ tranh thủ đi tìm bạn tình để thỏa mãn nhu cầu về thể xác, thậm chí những cô gái chưa chồng có thể nhân dịp này để tìm bạn đời.
Dưới ánh lửa bập bùng trên bãi biển, những cô gái bừng bừng sức sống nhảy những điệu múa cuồng nhiệt và liên tục thực hiện những cử chỉ gợi tình để mời gọi đàn ông.
Những bầu ngực để trần được làm nổi bật trong ánh sáng mờ ảo của đêm tối bằng cách xoa dầu dừa và phấn hoa màu vàng. Vòng ba nóng bỏng cũng được các cô phô triệt để trong những điệu múa lắc lư quyến rũ với những chiếc váy ngẵn cũn cỡn tết từ cỏ khô.
Vẻ đẹp hoang dại cùng thân hình bốc lửa của những cô gái khiến các chàng trai không thể cưỡng lại được. Và những cô gái đã đạt được ý đồ. Trong cơn sốt của sự phấn khích, một vài cặp đôi đưa nhau ra bãi biển đầy hân hoan. Một số cặp đôi khác đưa nhau vào những hang động thoáng đãng bên bờ biển, làm tình ngay trên nền cát trắng mịn.
Theo phong tục của bộ lạc, nếu một cô gái muốn lấy một chàng trai làm chồng thì tất cả những gì cô cần làm là phải đảm bảo rằng chàng trai vẫn ở chung giường với cô cho tới lúc bình minh. Các cô gái thường được mẹ mình truyền cho nhiều mánh khóe để giữ chân người đàn ông mình muốn.
Họ có thể đánh thuốc mê chàng trai để anh ta ngủ li bì hoặc đơn giản là vắt kiệt sức của anh ta sau một đêm “hoạt động” không ngừng nghỉ. Khi gặp những cô gái như vậy, các chàng trai chỉ còn biết ngậm ngùi lấy nàng về làm vợ.
Quyến rũ không được thì… cưỡng hiếp
Lễ hội là cơ hội tuyệt vời giúp những người đàn bà “khát tình” tìm được đàn ông để thoả mãn dục vọng, tuy nhiên không phải lúc nào họ cũng gặp may bởi họ phải cạnh tranh với rất nhiều thiếu nữ xinh đẹp, bừng bừng nhựa sống. Cái khó ló cái khôn, những người phụ nữ buộc phải nghĩ ra một cách táo bạo mà mới nghe thôi nhiều người chắc hẳn phải sởn gai ốc đó là cưỡng hiếp đàn ông.
Khi những người phụ nữ đang sung sướng hít hà mùi thơm của đất mới và cầm trên tay những củ khoai mới dỡ còn bụ sữa thì những người đàn ông phải sống trong tâm trạng lo âu thấp thỏm. Bản năng đàn ông yếu ớt mách bảo họ sẽ được sung sướng vì những cuộc mây mưa với những người đàn bà cuồng nhiệt, trong khi đó, ý chí đưa ra những cảnh báo nghiêm khắc về những hình phạt nhục nhã nếu họ không thể làm cho chị em được thỏa mãn.
Bất kể ngày hay đêm những anh chàng thổ dân luôn sống trong nỗi sợ hãi bị những nhóm phụ nữ mai phục. Thông thường những người phụ nữ sẽ tụ tập thành những nhóm từ 10 đến 30 người để thuận tiện cho việc “săn mồi”.
Họ cải trang và nấp trong các bụi cây để rình bắt những người đàn ông bất cẩn đi ra đồng một mình hay đang đứng đợi xe bus. Nhân lúc người đàn ông thiếu sự phòng vệ, đám phụ nữ bất ngờ nhảy xổ ra khỏi bụi rậm, lao vào họ như những con thú khát mồi, rồi lôi đến nơi thuận tiện cho việc hành sự bất chấp sự phản kháng quyết liệt của nạn nhân.
Đôi khi một nhóm năm, bảy người đàn ông cũng phải đầu hàng trước sự đông đảo và táo tợn của những cô gái thường ngày vốn chân yếu tay mềm.
Bản thân những người phụ nữ trong nhóm cũng phải tranh giành, đấu đá để chiếm được người đàn ông. Người chiến thắng sẽ mang anh chàng xấu số về nơi đã được chuẩn bị trước để “cưỡng hiếp” trong khi những người còn lại sẽ tiếp tục ngồi rình những người đàn ông khác. Đôi khi, đám phụ nữ cùng chia nhau miếng mồi ngon bằng cách bắt người đàn ông “phục vụ” tất cả các chị em trong nhóm.
Theo phong tục trên đảo, hành động của những “yêu râu xanh” trên không hề bị quy kết vào bất cứ tội nào theo luật pháp hoặc đạo đức.
Sung sướng hay ê chề nhục nhã?
Sau khi bị “làm nhục”, những người đàn ông này thường lén lút trở về làng và không dám gặp mặt ai trong một thời gian dài. Càng khó khăn hơn khi những người đàn ông này chỉ có thể âm thầm vượt qua nỗi đau trên mà không thể chia sẽ với bạn bè hay người thân bởi vì như vậy chẳng khác nào việc thú nhận mình là một kẻ yếu đuối và không thể làm chỗ dựa cho gia đình.
Một anh chàng thổ dân ngượng nghịu kể rằng anh đã bị cưỡng hiếp hai lần. Lần thứ nhất, anh đã có những trải nghiệm thật tuyệt vời. Nhưng lần thứ hai anh bị sốc hoàn toàn vì mọi việc khác hẳn với những gì đã xảy ra trước đó.
Sau khi bị những phụ nữ đưa đến nơi hành sự, do không làm họ thỏa mãn nên anh đã bị những “yêu nữ” này dùng tay vặt trụi hoặc dùng răng cắn đứt lông mày và lông mi. Chưa kịp nguôi ngoai đau đớn, anh còn bị chị em đi tiểu lên người, sau đó mới được thả về làng trong bộ dạng nhếch nhác, tơi tả thảm hại.
Mất một thời gian dài anh ta phải “án binh bất động” trong nhà chờ cho đến khi lông mày và lông mi mọc dài trở lại mới dám ra đường. Khi có lễ hội hoặc các việc lớn trong làng mà không thể vắng mặt, nạn nhân thường phải bôi nhọ nồi lên lông mày để ngụy trang.
Việc bị cắn đứt lông mày, lông mi không chỉ xảy ra với anh chàng thổ dân xấu số trên mà còn xảy ra với hầu hết những nạn nhân của các vụ hiếp dâm khác. Những người phụ nữ dường như muốn trút hết những hận thù, những bất bình đẳng trong cuộc sống mà họ phải chịu đựng trong suốt một năm lên những gã đàn ông “vô tích sự” này.
"Bí quyết" có một vụ cưỡng hiếp "thành công"
Mặc dù bị mang tiếng đi cưỡng hiếp đàn ông, nhưng những người phụ nữ sẽ không đạt được mục đích của mình nếu người đàn ông đó tỏ ra không hứng thú với thân hình của họ. Để khiến đàn ông hào hứng với những cuộc tình chóng vánh này, phụ nữ trên đảo đã không quản ngại khó khăn, thậm chí đau đớn để có một thân hình theo đúng thị hiếu của đàn ông trên đảo.
Có vẻ như gu thẩm mỹ của đàn ông nơi đây hơi khác lạ so với đàn ông hiện đại. Họ không thích những người phụ nữ có bầu ngực căng tròn mà thích một bộ ngực chảy dài như quả mướp. Theo tiêu chuẩn đánh giá sắc đẹp trên đảo Trobriand, phụ nữ ngực càng dài thì càng đẹp, thậm chí người có ngực dài nhất còn được phong làm hoa khôi của bộ lạc.
Đối với đàn ông Trobriand, một người phụ nữ có ngực tròn như quả bóng hầu như không có cơ hội lọt vào mắt xanh chứ đừng nói đến chuyện quyến rũ hay ve vãn được họ. Thật đau khổ cho những anh chàng xấu số bị những người phụ nữ ngực căng tròn cưỡng bức bởi vì anh ta hoàn toàn không có lấy một chút cảm xúc.
Vì lẽ đó, để chiều theo sở thích của đàn ông, ngay từ khi mới dậy thì, những thiếu nữ đã được bà, được mẹ truyền cho cách làm đẹp để hấp dẫn đàn ông. Các cô gái mới lớn phải đeo nhiều vật nặng trên ngực trong một thời gian dài, bất chấp những đau đớn về thể xác để có một bộ ngực hoàn hảo.
Khi vụ mùa thu hoạch khoai tới cũng là lúc các cô gái được hưởng những thành quả do những “bộ ngực mướp” mang lại. Nhiều chàng trai thậm chí còn mạnh mồm tuyên bố rằng họ muốn được những cô gái ngực dài cưỡng hiếp. Chẳng thế mà cho đến nay, “ngực mướp” vẫn là bí quyết hàng đầu được phụ nữ đảo Trobriand lưu truyền cho những thế hệ sau như một trong những cách khiến nạn nhân các vụ dâm hiếp trở nên phấn khích và hào hứng.
Càng “yêu” nhiều, khoai càng ra nhiều củ
Người dân trên Đảo Tình Yêu có một niềm tin mạnh mẽ rằng việc làm tình của các đôi trai gái sẽ khiến cho khoai ra nhiều củ hơn. Không khó để có thể thấy những cặp đôi “yêu” ở bất cứ nơi đâu trên hòn đảo xinh đẹp này. Họ quấn lấy nhau trong những hang động, trên những phiến đã trong rừng, trên bãi biễn hay thậm chí là ngay ở trên ruộng khoai.
Có cặp đến với nhau vì tự nguyện, cũng có cặp là kết quả của một vụ cưỡng bức nhưng ẩn chứa sau sự thô tục hân hoan ấy đều là mong ước về một vụ mùa bội thu và thắng lợi trong năm tới.
Mặc dù có tần suất họat động tình dục cao nhưng hầu như người dân đảo không nhiều hiểu biết về mặt khoa học đối với hoạt động này. Các cô gái vẫn ngây thơ tin rằng trẻ con được sinh ra từ suy nghĩ trong đầu người phụ nữ. Khi cô gái muốn làm mẹ, những suy nghĩ ngày sẽ xuất hiện, chạy dọc theo cơ thể người đàn bà và dừng lại ở tử cung rồi lớn dần lên thành em bé.
Bất chấp những kiến thức mà các nhân viên y tế ra sức phổ biến và thuyết phục, những người dân trên đảo vẫn tin rằng không có bất kì sự kết nối nào giữa hành vi tình dục và việc thụ thai. Khi những thùng bao cao su được chở đến để tuyên truyền về tình dục an toàn, những anh chàng thổ dân cũng chẳng biết dùng làm gì ngoài việc thổi thành bong bóng và thả ra biển như một thú vui.
Những quan niệm truyền thống cộng với sự thiếu kiến thức nghiêm trọng về tình dục là nguyên nhân khiến hàng năm người dân đảo “sản xuất” rất nhiều em bé. Những em bé này được nuôi lớn bằng những củ khoai bụ sữa trên đảo và lại cho ra đời những em bé khác.
Đối với người dân đảo, dù cuộc sống vẫn còn nhiều khó khăn, khi nhắc đến Trobriand, không ai có thể quên câu chuyện thú vị về những củ khoai gây hưng phấn và những người đàn bà cưỡng hiếp đàn ông.
Theo VTC
Kỳ lạ khu mộ làm các xác chết tự nhiên hóa đá
đăng 15:46, 28 thg 2, 2014 bởi Lưu Xuân Cảnh
Mặc dù đã được nghiên cứu trong vòng 15 năm qua nhưng hiện tượng xác chết tự hóa đá ở khu mộ thuộc thị trấn San Bernardo vẫn là một bí ẩn khiến các nhà khoa học phải bó tay.
Trong khi người Ai Cập cổ đại phải dành hàng thế kỷ để nghiên cứu và phát triển kỹ thuật ướp xác thì tại một nghĩa địa ở thị trấn nhỏ San Bernardo, Colombia, bằng một cách kỳ lạ nào đó, các xác chết cứ tự nhiên hóa đá lại sau một thời gian an nghỉ.
Đã có rất nhiều nhà khoa học tới San Bernardo để nghiên cứu về hiện tượng xác chết tự hóa đá.
Hiện tượng lạ này bắt đầu được một thợ đào mộ có tên Eduardo Cifuentes chú ý tới cách đây 15 năm. Trong những lần cải tạo lại những ngôi mộ đã bị lãng quên, ông Cifuentes đã nhận ra điều gì đó thật đặc biệt ở khu an táng này. Theo mô tả của ông Cifuentes, quần áo và làn da của các xác chết đều chuyển sang màu nâu. Ngoài ra, làn da của các xác chết đều trông xanh xao và nhăn nheo lại do tác động của thời gian.
Hầu hết các xác chết đều được chôn vào khoảng cuối những năm 1950
Mặc dù đã nghiên cứu trong một thời gian dài nhưng các nhà khoa học cũng không thể đưa ra được lời giải thích thỏa mãn nhất cho hiện tượng lạ này. Được biết, trước kia ở thị trấn Guanajuato, Mexico, các xác chết cũng có thể tự hóa đá do điều kiện đất và khí gas trong lòng đất. Nhưng giả thiết này không thể áp dụng để lý giải được ở San Bernardo. Bởi lẽ, các xác chết ở đây đều được đặt trong quan tài, chiếc quan tài này lại nằm trên mộ theo nghi lễ của địa phương. Vì vậy, các xác chết đều không tiếp xúc với đất.
Tự khô và hóa đá sau một thời gian
Người dân địa phương đã từng đưa ra một vài lời giải thích như do nguồn nước, sự thiếu hụt hóa chất, điều kiện nhiệt độ của nền đất hay do thói quen ăn 2 loại quả đặc trưng của vùng là guatila và balu.
Ngày nay, các xác ướp đều được bảo quản và trưng bày tại viện bảo tàng. Trong khi việc làm này có thể thúc đẩy kinh tế của thị trấn nhưng một số người dân vẫn cảm thấy không hài lòng với hình thức kinh doanh kiểu này.
Theo PLXH/Kenh14
Ghê người trước "gia tộc loạn luân" ăn thịt hàng nghìn người
đăng 08:38, 14 thg 12, 2013 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 08:39, 14 thg 12, 2013 ]
Bean cho phép các con của mình loạn luân rồi đẻ ra thêm 18 người con trai và 14 người con gái nữa. Với số lượng đông đảo, "gia tộc loạn luân" này ngày càng dã man khi ăn thịt đến hàng nghìn người.
Sawney Bean là một trong những tên sát nhân hàng loạt đáng sợ nhất trong lịch sử nhân loại. Chỉ trong vòng 25 năm, Bean cùng gia đình đã giết hại và ăn thịt tới hơn 1.000 người vô tội. Cho đến nay, cái tên Sawney Bean này vẫn khiến cho người dân Scotland rùng mình mỗi khi nghe tới.
Từ tên nông dân lười nhác…
Alexander Sawney Bean được sinh ra ở vùng Đông Lothian (Scotland) trong những năm đầu thế kỷ XV. Cha Bean là một người nông dân và ban đầu Bean cố gắng tiếp tục công việc truyền thống của gia đình. Nhưng y nhanh chóng nhận ra rằng, vào thời bấy giờ, việc lao động trung thực thật quá khó để giàu có và sung túc.
Bean bỏ nhà đi và sống lang bạt khắp nơi với một người phụ nữ, cùng sống với nhau như vợ chồng. Một thời gian sau đó, Bean lưu lạc tới vùng biển Bennane, tại đây y phát hiện ra một chuỗi hang động kỳ lạ. Hang này sâu tới 200m, nhiều ngóc ngách như mê cung. Điều đặc biệt là nhờ thủy triều "đảo ngược", buổi sáng nước dâng cao che khuất cửa hang, còn khi tối cửa hang lại lộ ra.
Nhờ cấu trúc kì lạ của hang động mà ban ngày gia đình Bean có thể an toàn trước sự truy quét của quân triều đình.
Từ đây, Bean nghĩ ra một ý định xấu xa. Y cùng vợ chuyển hẳn vào sống trong hang động. Buổi sáng ẩn nấp, tối đến sẽ tiến hành những vụ cướp bóc đẫm máu người dân quanh vùng và những đoàn người di chuyển qua lại giữa Bennane và Lothian.
… đến những tội ác đáng sợ
Không chỉ dừng lại ở việc cướp bóc của cải và tiền bạc, vợ chồng Bean còn lấy việc hành hạ thân xác các nạn nhân làm "thú tiêu khiển". Đa phần các thi thể được đưa về hang động bị chia nhỏ rồi trở thành... thức ăn của vợ chồng Bean. Đáng sợ hơn, cặp đôi này còn ướp muối nhiều bộ phận cơ thể của nạn nhân để ăn dần.
Bean và gia đình mình tổ chức những vụ tấn công người dân vô tội để cướp của cải và ăn thịt.
Khi thấy cuộc sống khá ổn định và no đủ, Bean và vợ sinh con. Gia đình này có với nhau 8 người con trai và 6 người con gái. Sau đó, các con trong gia đình Bean còn loạn luân rồi đẻ ra thêm 18 người con trai và 14 người con gái nữa.
Với số lượng đông đảo, "gia tộc quỷ dữ" này trở nên vô cùng hung hãn, chúng phục kích những đoàn người lớn bằng nhiều cái bẫy chết người. Gia tộc này không ngần ngại tấn công nhiều ngôi làng nhỏ trong vùng để cướp lương thực và vũ khí.
Xác người hay các vũng máu lớn nằm rải rác khắp nơi quanh vùng Bennane. Nhiều ngôi làng sau một đêm dường như bị xóa sổ, mọi cư dân trong làng bỗng dưng biến mất.
Nhưng không một ai có thể tìm được ra nguyên nhân. Bởi Bean là một người rất cẩn thận, hắn nghe ngóng thông tin rất kỹ và thực hiện những vụ cướp bóc một cách nhanh gọn và an toàn nhất.
Bean cho phép các thành viên trong gia đình được quan hệ loạn luân với nhau để thỏa mãn dục vọng.
Khi nhận thấy có sự truy quét của quân đội triều đình, Bean sẵn sàng cho gia đình mình ở trong hang tối gần một tháng ròng. Quá lo sợ vì các vụ tấn công, thảm sát hoàng loạt diễn ra ngày một nhiều nhưng quân đội hoàn toàn bất lực, dân quanh vùng bắt đầu chuyển đi do ngày càng sợ hãi.
Các vụ thanh trừng người vô tội diễn ra vô tội vạ do người dân nghi ngờ, đổ lỗi cho nhau khiến tình hình vùng Bennane ngày càng rối ren.
Đền tội
Mọi chuyện chỉ kết thúc khi Bean tổ chức phục kích một cặp vợ chồng đang trên đường tới Bennane. Đáng tiếc cho gia đình ma quái này, người chồng lại là một cựu binh giàu kinh nghiệm chinh chiến. Chỉ bằng một thanh gươm và khẩu súng lục anh ta đẩy lùi cuộc tấn công của gia đình Bean và hạ gục được vài tên xấu xa trong "gia tộc quỷ dữ". Thế nhưng, Bean cũng kịp bắn cung tên và giết chết người vợ của cựu binh này.
Quá tức giận, người chồng giả vờ thua trận rồi rút chạy bằng ngựa. Nhưng sau đó, anh bí mật quay lại để theo dõi và đã phát hiện được hang động mà gia đình Bean trú ẩn. Người chồng tức tốc quay lại báo với nhà chức trách quanh vùng. Chỉ ít tiếng sau, một lực lượng thanh niên đông đảo trong vùng đã tìm tới hang động của Bean. Với số lượng áp đảo, họ nhanh chóng khống chế “gia đình quỷ dữ” này.
Những người có mặt ở hang động còn phải chứng kiến một cảnh tượng kinh hoàng. Trong hang chứa đầy những đầu người treo lơ lửng, các thùng muối ngâm chân tay của nạn nhân nhiều không đếm hết.
Tính đến thời điểm đó, số người bị hại dưới tay gia đình Bean ước tính lên tới 1.000 người. Quá sốc trước tội ác của gia đình Bean, vua James VI ngay lập tức ra lệnh hành hình tất cả thành viên trong gia đình này.
Gia đình Bean với 48 thành viên đã gây ám ảnh cho cả nước Scotland trong một thời gian dài.
Bean và những đứa con trai bị chặt tay, chân rồi cho chảy máu tới chết. Phụ nữ trong gia đình Bean bị thiêu sống sau khi nhìn cha và anh của mình “chết dần chết mòn”. Nhưng tất cả thành viên trong "gia đình quỷ dữ" này đều tỏ ra không sợ hãi, đau đớn trước nhục hình, thậm chí trong hơi thở cuối cùng, chúng còn tuyên bố sẽ quay lại trả thù trong kiếp sau.
"Truyền thuyết" về gia đình của Sawney đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều bộ phim kinh dị trên thế giới. Mặc dù nhiều nhà sử học hiện đại của Anh đều khẳng định không có căn cứ nào cho thấy sự tồn tại của Sawney nhưng câu chuyện về "gia tộc quỷ dữ" này vẫn được truyền miệng qua nhiều thế hệ.
Ngày nay, hang động mà ngày xưa Bean đã giết hại vô số người đã trở thành một địa điểm du lịch lý thú thu hút rất đông du khách mỗi năm. Và thỉnh thoảng, nhiều người nói rằng, họ vẫn nhìn thấy những bóng trắng di chuyển, hay tiếng thét kì lạ xuất phát từ trong hang động ma quái này.
Theo Kenh14
10 bí ẩn khoa học vừa được khám phá
đăng 21:30, 7 thg 11, 2013 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 21:30, 7 thg 11, 2013 ]
Nhờ tiến bộ của khoa học hiện đại, người ta đã dần dần giải được những bí mật lớn xung quanh ta mà trước đây được liệt vào danh sách những điều “chưa giải đáp được”.
Bí mật 1: Kỹ thuật âm thanh trong rạp hát Epidaurus
Rạp hát thời cổ đại Epidaurus. Ảnh: listverse
Rạp hát thời cổ đại Epidaurus nằm gần Athens, Hy Lạp được xây dựng vào cuối thế kỷ thứ tư trước công nguyên là một trong những rạp hát được gìn giữ tốt nhất cho đến nay. Từ thời cổ, người ta đã coi nó là một kỳ quan về âm thanh vĩ đại. Toàn bộ khán giả lên tới 15.000 đều có thể nghe rõ từng lời các diễn viên mà không hề cần phải khuếch đại.
Để chứng minh kỹ thuật âm thanh kỳ diệu của rạp hát, các hướng dẫn viên du lịch thường chia nhóm du khách mỗi người ngồi ở một chỗ tùy chọn và anh ta đứng trên sân khấu nhỏ nhẻ thuyết minh để mọi người tự cảm thấy sự truyền âm trong công trình này tuyệt vời đến mức độ nào.
Trong suốt bao nhiêu thế kỷ, các nhà khoa học đã tranh luận để tìm cách lý giải nhưng chưa giải thích nào đủ sức thuyết phục. Một trong những giả thuyết cho rằng những làn gió nhẹ đang thổi quanh rạp hát đã mang âm thanh đến từng chỗ ngồi một. Năm 2007 các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Georgia đã phát hiện ra rằng chính các vật liệu bằng đá vôi tại các chỗ ngồi đã tạo ra hiệu ứng lọc, nén các âm có tần số thấp, nhờ vậy đã giảm các tạp âm của đám đông đến mức tối thiểu, vì thế các chỗ ngồi tác dụng như những chiếc bẫy âm thiên nhiên.
Tuy nhiên người ta vẫn chưa biết liệu các kỹ thuật âm thanh tuyệt vời như thế là kết quả của một sự ngẫu nhiên hay là sản phẩm của một phương pháp kiến trúc tiến bộ.
Sự kiện đáng chú ý: Sân khấu cho dàn nhạc giao hưởng (hoặc ca múa) có dạng hình tròn cực kỳ hoàn hảo, với đường kính là 19m50. Một nền cũng hình tròn cũng còn nguyên vẹn ở chính tâm có lẽ là bệ thờ Thần Rượu nho của Hy Lạp).
Bí mật 2: Những chiếc đầu lâu bằng pha lê
Một chiếc đầu lâu pha lê. Ảnh: listverse
Hầu như mọi người đều biết đến những chiếc sọ người bằng pha lê trong bộ phim của Indiana Jones và Vương quốc Đầu lâu bằng pha lê. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều nhà sưu tầm nghiêm túc những chiếc đầu lâu pha lê rất quý, hiếm và đắt giá vì họ tin rằng đó là những sản phẩm cổ xưa thuộc nền văn minh Aztec hoặc Maya, trước thời Colombus tìm ra châu Mỹ. Vào năm 2008, một nhóm gồm các nhà nghiên cứu Mỹ và Anh đã dùng phương pháp tinh thể học tia X và kính hiển vi điện tử để khảo sát những chiếc sọ pha lê hiện trưng bày tại Viện Bảo tàng Anh và Viện Smithsonian.
Việc phân tích chi tiết bề mặt của các chiếc đầu lâu đã cho thấy có những vết xước được mài bằng cách quay cực kỳ nhỏ bé xung quanh túi mắt, răng và phần sọ. Đó là chứng minh hết sức rõ ràng rằng các chiếc đầu lâu ấy được cắt và mài nhẵn bằng dụng cụ có bánh xe quay, trong khi người Aztec trong lịch sử chưa bao giờ biết dùng đến bánh xe.
Các nhà nghiên cứu đã kết luận là những chiếc đầu lâu cực đắt ấy được cắt ra từ một tảng pha lê thiên nhiên Brazil và chế tác tại châu Âu. Sau đó chúng được bán cho các nhà sưu tầm như một cổ vật của nền văn minh Aztec cổ. Sau phát hiện này, nhiều viện bảo tàng đã loại bỏ những chiếc đầu lâu pha lê ra khỏi những vật trưng bày của họ vì nghi vấn đã được làm sáng tỏ.
Sự kiện đáng chú ý: Trong số các chiếc đầu lâu nổi tiếng nhất là chiếc tại bảo tàng của nhà sưu tầm cổ vật Mitchell-Hedges. Chiếc đầu lâu này được cô con gái nuôi của Mitchell-Hedges, vốn là một nhà thám hiểm phát hiện năm 1924. Hedges tuyên bố rằng chiếc đầu lâu bằng pha lê đã có ít nhất từ 3.600 năm về trước. Người ta đều tin vào điều đó và chưa bao giờ khảo sát chi tiết vì chủ nhân của chiếc đầu lâu không cho phép thử.
Bí mật 3: Ngày đen tối ở vùng New England
Bầu trời đen kịt bất thường năm 1780.
Ngày 19 tháng 5 năm 1780, bầu trời các bang thuộc vùng New England (Mỹ) và nhiều khu vực ở Canada, bỗng nhiên đen kịt một cách bất thường. Dân chúng cực kỳ hoảng loạn. Người ta tìm đến các vị chức sắc tôn giáo để hỏi ý kiến và các vị cũng chẳng giải thích được gì hơn.
Cho đến tận ngày nay, Ngày đen tối (Dark Day) vẫn được truyền tụng như một sự kiện siêu nhiên. Người ta đã đưa ra nhiều giả thuyết để giải thích, từ núi lửa phun trào cho đến một thiên thể lớn từ vũ trụ đáp xuống.
Đến năm 2008, nghĩa là 230 năm sau, các nhà khoa học của ĐH Missouri mới tìm hiểu vì lý do gì Ngày đen tối xảy ra. Họ xem xét kỹ các văn bản ghi chép thời đó kết hợp với việc tìm hiểu các vòng trên tiết diện các cây cổ thụ bị cháy xém, sống từ ngày đó để khẳng định rằng Ngày đen tối chẳng qua bắt nguồn từ vụ cháy hết sức dữ dội, bùng lên từ Canada. Nhiệt độ cao từ đám cháy này đã tác động rất mạnh vào lớp vỏ cây, làm các mô bị chết. Phải mất nhiều năm sau, vỏ cây mới phục hồi, kể lại sự cố trên gỗ và vết thương của cây. Các nhà khoa học đã nghiên cứu vòng gỗ của nhiều loại cây mọc trên cao nguyên Algonquin, miền nam bang Ontario và nhiều địa điểm khác nữa. Họ tìm ra các chứng tích cho thấy một vụ hỏa hoạn cực lớn đã xảy ra vào thời gian này đã tác động vào điều kiện khí quyển cách xa hàng trăm dặm. Những cột khói lớn đã cuồn cuộn bốc lên tầng cao khí quyển và làm ra một ngày bầu trời đen kịt tại New England.
Sự kiện dáng chú ý: Các văn bản còn lưu giữ về Ngày đen tối ghi lại rằng hôm ấy các gia đình ăn cơm trưa cũng phải thắp nến, các loại chim đêm bay ra kiếm ăn, hoa cụp cánh lại và các loài vật nhớn nhác, kêu la ầm ĩ.
Bí mật 4: Bộ mặt người trên sao Hỏa
Bộ mặt người trong trí tưởng tượng?
Vùng Cydonian trên sao Hỏa thu hút sự chú ý đặc biệt vì một trong các đồi núi tại đó trông giống như một công trình nhân tạo. Bức ảnh chi tiết đầu tiên về vùng này được chụp nhờ vệ tinh Viking I bay quanh quỹ đạo của hành tinh này, phóng lên năm 1975. Một số bức khác do Viking chụp vào năm 1976 cho thấy rpx một trong những ngọn núi của Cydonian giống như một mặt người. Các nhà khoa học đã giải thích nét mặt ấy chẳng qua chỉ là trò đùa của ánh sáng và bóng tối nhưng sau lại phát hiện một mặt người thứ hai hình thành do ánh sáng từ Mặt trời chiếu vào theo các góc khác nhau. Các tổ chức nghiên cứu nền văn minh ngoài Trái đất rất quan tâm đến các hiện tượng này và một số không ít người còn cho rằng đó là tác phẩm của nền văn minh sao Hỏa đã bị hủy diệt từ lâu. Đa số các nhà khoa học vẫn giữ ý kiến là, bộ mặt người trên sao Hỏa chỉ là kết quả của góc nhìn cộng với trí tưởng tượng.
Năm 2003, khi Cục Vũ trụ châu Âu phóng về phía sao Hỏa con tàu Express, có thể kết hợp các dữ kiện từ camera có độ phân giải cao và tạo ra được tấm ảnh 3D về “Bộ mặt người trên sao Hỏa”. Bức ảnh chụp được gần đây nhất (ảnh dưới) đã làm cho những người cuồng tín nhất cũng phải im lặng. Bức ảnh buộc người ta phải suy nghĩ rằng địa hình đó tạo ra bởi những vụ trượt đất và bị chặn lại bởi những vật chắn có từ trước, ngẫu nhiên giống như bộ mặt người chứ không phải là do ai đó khắc lên để thu hút các nền văn minh khác.
Sự kiện đáng chú ý: Vùng Cydonia rất được các nhà thiên văn học quan tâm vì vị trí đặc biệt của nó. Những ngọn núi đỉnh phẳng là vùng trung gian giữa những cao nguyên ở phía nam và đồng bằng ở phía bắc. Một số người cho rằng đồng bằng phía bắc ấy thời xa xưa là đại dương của sao Hỏa bị khô cạn đi.
Bí mật 5: Con cá mắt ống
Cá mắt ống
Cá mắt ống là một kỳ quan của đại dương. Cặp mắt nó có hình ống, một “thiết bị” thu ánh sáng tuyệt vời ở độ sâu tới 2.500 mét. Điều gây thắc mắc nhiều nhất là cặp mắt dường như được gắn vào một vị trí ở trên đầu nó. Điều này nhiều thập kỷ nay đã khiến các nhà sinh lý học bế tắc, không sao giải thích được vì mắt với chức năng là nhìn lại chẳng giúp gì cho nó trong việc tìm kiếm thức ăn.
Mãi gần đây các nhà khoa học dùng một chiếc xe điều khiển từ xa có camera rất hiện đại để tiếp cận sát con cá ở độ sâu 600-800 mét. Họ đã phát hiện ra một điều che giấu bấy lâu nay là đằng sau những con mắt ống ấy có một cái vòm chứa đầy một chất dịch và những con mắt có thể quay bên trong một vật chắn trong suốt, bao bọc đầu cá. Điều này cho phép con cá nhìn thấy được những con mồi hoặc hướng về phía trước để xem mình đang ăn gì. Người ta đã tìm ra con cá rất độc đáo này năm 1939 nhưng không biết là con cá trong suốt vì khi bắt được nó trong lưới ở những độ sâu khác nhau, mang lên, chất dịch chảy mất và đầu nó biến dạng rồi.
Sự kiện đáng chú ý: Hãy nhớ rằng hai cái lỗ nhỏ ở trán con cá không phải là mắt nó. Mắt nó chính là hai cái vòm xanh lá cây ở bên trong đỉnh đầu.
Bí mật 6: Đứa trẻ vô danh trên tàu Titanic
Kỹ thuật phân tích ADN ngày nay giúp xác định chính xác em bé vô danh trên tàu Titanic là ai.
Nhiều ngày sau khi tàu Titanic bị chìm, người ta vớt lên được thi hài một đứa trẻ ở Bắc Đại Tây Dương. Không xác định được tính danh đứa trẻ, người ta đành chôn nó ở Nova Scotia, trên mộ cắm một tấm bia đá, với dòng chữ đơn giản “Một em bé vô danh”.
Năm 2001, các nhà nghiên cứu tại Trường ĐH Lakeland tại Ontario được phép khai quật thi hài này để tìm hiểu em bé đó là ai. Bằng cách nghiên cứu kỹ bản danh sách các hành khách có mặt trên chuyến tàu đắm, họ gút lại đứa trẻ đó có thể là một trong 4 em có tên sau đây: Gosta Paulson, Eino Panula, Eugene Rice và Sidney Goodwin.
Các thử nghiệm kiểm tra ban đầu cho thấy thi hài đó là của Eino Panula. Tuy nhiên, năm 2007 họ lại phát hiện là mình nhầm lẫn. Kiểm tra tiếp bằng phương pháp phân tích ADN chiếc răng của thi hài và so sánh với ADN của một trong những người họ hàng của Godwin còn sống sót, và lần này thì không thể sai lầm nữa. “Em bé vô danh” được khẳng định là Sidnet Goodwin và đó là đứa con út trong số 6 đứa con của vợ chồng Tred và August ở Fulham, nước Anh và di cư sang New York. Nhưng hồi đó người ta không tìm được thi hài cũng như tất cả anh chị em của Sidney.
Sự kiện đáng chú ý: Đứa trẻ được những người thủy thủ vớt lên và chôn cất vào ngày 4 tháng 5 năm 1912. Họ làm một mặt dây chuyền bằng đồng, khắc chữ “Thiên thần của chúng ta”, đặt trong quan tài.
Bí mật 7: Giải bài toán cờ đam
Môn cờ đam đã được giải trọn vẹn.
Môn cờ đam đã xuất hiện trên 400 năm nay và làm say mê hàng triệu người. Từ năm 1989 người ta đã sử dụng máy tính để giải 500 tỷ nước đi có thể xảy ra. Năm 1992, máy tính bị nhà vô địch thế giới Marion Tinsley đánh bại và ông được thừa nhận là một kỳ thủ giỏi chưa từng thấy của hành tinh.
Cuối cùng, năm 2007, các nhà nghiên cứu của Trường ĐH Alberta đã viết được một chương trình máy tính, gọi là Chinook có thể chơi cờ đam một cách hoàn hảo. Vào thời cao điểm của dự án Chinook, người ta đã sử dụng đồng thời 200 máy tính để ghi nhận từng nước đi có thể trên bàn cờ đam, và xác định được chính xác nước cờ đối phó của kỳ thủ. Nếu không kỳ thủ nào mắc sai lầm thì trận đấu sẽ kết thúc hòa.
Sự kiện đáng chú ý: Cờ đam là một môn chơi phổ biến nhất đã được giải trọn vẹn ngày nay, với số nước đi có thể là 5x1020. Số phép tính đã thực hiện là 1014 và thời gian tính toán là 18 năm.
Bí mật 8: Tấm đất nung cổ xưa đã được giải mã
Đây là quyển “sổ tay” về vị trí trăng sao của những nhà thiên văn Summerian, vào năm 3123 trước Công nguyên.
Tấm đất sét nung hình tròn trên ảnh được tìm thấy 150 năm trước tại Nineveh, kinh đô của nước Assyria cổ đại, nay là Irăc. Tấm đất nung này có vẽ những chòm sao và các chữ tượng hình, loại chữ hình nêm (cuneiform) của người Summerian, thuộc nền văn minh cổ nhất thế giới.
Biết bao nhiêu thập kỷ đã trôi qua, các nhà khoa học vẫn chưa giải mã được những hình vẽ và chữ viết trên tấm đất nung đó. Vào năm 2008, hai nhà khoa học Alan Bond và Mark Hempsell từ Trường ĐH Bristol đã bẻ khóa được các mật mã của chữ hình nêm. Bằng cách sử dụng chương trình máy tính, họ đã xây dựng lại bầu trời đêm hàng nghìn năm về trước. Hai nhà khoa học đã có thể “đọc” quyển “sổ tay” về vị trí trăng sao của những nhà thiên văn Summerian, liên quan đến những hiện tượng trên bầu trời trước lúc rạng đông vào ngày 29 tháng 6 năm 3123 trước Công nguyên.
Sự kiện đáng chú ý: Tấm đất nung cho thấy, vào ngày hôm đó có một vật thể lớn đi ngang qua chòm sao Pisces. Những ký hiệu chính là hình chiếu (trajectory) của vụ va chạm vào vùng Koffels tại Áo, gây ra hiện tượng đá trượt. Từ các thông tin thu thập được trên tấm đất nung này, có thể giải thích vì sao không có các vết nứt do va chạm với thiên thạch (vì góc tiếp đất rất nhỏ và khi rơi, nó đã va vào một ngọn núi gọi là Gamskogel và nổ trước khi tới mặt đất).
Bí mật 9: Cá mập cái sinh con vô tính
Năm 2001, một con cá mập búa ra đời tại Vườn thú Henry Doorly, bang Nebraska (Hoa Kỳ) mà chẳng biết là con ai trong 3 bà mẹ cùng sống chung trong một bể nuôi. Tất cả đều được thả vào đây ít nhất cũng đã 3 năm.
Các nhà khoa học đã tranh cãi, vì sao chúng lại đẻ ra con được. Một số cho rằng một trong 3 cá mập cái này đã giao phối trước khi bị bắt, chứa tinh trùng trong cơ thể để thụ tinh. Một số khác lại cho rằng loài cá mập có thể sinh con theo cách sinh sản vô tính bằng phương pháp gọi là trinh sinh (parthenogenesis), nghĩa là tạo phôi mà chẳng cần đến tinh trùng.
Nhiều người hoài nghi, nhưng vào cuối năm 2007, điều này đã được các nhà khoa học khẳng định nhờ việc giám định ADN. Sau khi xác định được cá mập cái nào chính là mẹ, họ loại trừ sự đóng góp của cá mẹ ấy vào cá mập con và trong trường hợp này, sau khi loại trừ ADN, sẽ chẳng còn gì nữa. Các nhà nghiên cứu buộc phải kết luận rằng, cá mập con không có bố và lần đầu tiên nó minh chứng cho hiện tượng cá mập sinh sản vô tính.
Sự kiện đáng chú ý: Năm 2008, các nhà khoa học lại biết tới một con cá mập thứ hai sinh sản vô tính tại Trung tâm Hải dương học bang Virginia (Hoa Kỳ). Một con cá mập đốm đen dài hơn 2 mét, nặng 45kg bị chết vì stress khi đang chửa. Mổ tử thi, người ta phát hiện một con cá mập con và kiểm tra ADN, thì thấy con cá mập con dạng bào thai không có gen của con cá mập đực nào.
Bí mật 10: Cách bay của ong không đơn giản
Theo tính toán, tỷ lệ giữa sải cánh và khối lượng của một con ong thì về mặt khí động học, nó không thể nào bay được. Thế nhưng trong thực tế, dường như bất chấp các định lý khoa học, nó vẫn… bay. Cuối cùng vào năm 2005, với sự trợ giúp của các máy quay phim tốc độ cao và các mô hình cơ học về cánh của ong, các nhà khoa học đã có thể tìm ra cách giải thích điều bí mật làm cho họ lúng túng bấy lâu nay.
Thì ra ong đã vỗ cánh tới 230 lần trong một giây, nghĩa là nhanh hơn nhiều so với những con côn trùng nhỏ hơn cả chúng. Theo phân tích của các nhà khoa học, sự phối hợp giữa cách vỗ những chiếc cánh ngắn, quay thành vòng tròn rất nhanh khi rơi xuống và sự đảo hướng, cộng với tần số vỗ cao lạ thường là lý do để ong có thể bay rất linh hoạt như những vũ điệu không thể bắt chước được.
Sự kiện đáng chú ý: Để hiểu rõ hơn cơ chế bay của những con ong lại mang được thân hình nặng nề (tất nhiên so với bộ cánh nhỏ bé của chúng), các nhà nghiên cứu bắt chúng phải bay trong những buồng nhỏ chứa đầy một hỗn hợp của oxy và hêli, loãng hơn hẳn so với không khí bình thường để họ quay phim bằng camera tốc độ cao. Trong bầu khí quyển đó, ong buộc phải cố gắng hơn rất nhiều và cho phép các nhà nghiên cứu quan sát cánh và thân của ong trong những điều kiện bị “căng thẳng”.
Theo VietNamNet
Bí ẩn bộ lạc chọc thủng màng nhĩ trẻ em để thành “người cá”
đăng 14:48, 19 thg 10, 2013 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 14:48, 19 thg 10, 2013 ]
Bộ lạc “người cá” giữa đại dương
Trên hòn đảo Borneo ngập chìm giữa mênh mông trời bể, cách không xa thị trấn Semporna (thuộc bang Sabah của Malaysia), một bộ lạc tưởng như đã “mất tích” vẫn tồn tại theo cách của riêng họ. Đó chính là những người Bajau Laut – ngư dân lâu năm của vùng biển Sulawesi. Họ đã sống lênh đênh trên biển trong suốt hàng thế kỷ qua nhưng lại ít được biết đến nhất trên thế giới.
Theo truyền thuyết, người Bajau có nguồn gốc từ cái chết của một nàng công chúa vô cùng xinh đẹp người Malaysia tên là Johor. Nàng đang sống hạnh phúc nơi lầu son gác tía bỗng đâu tai họa ập đến. Johor bị cuốn trôi ra biển trong một trận lũ quét khủng khiếp để lại nỗi tiếc thương cho toàn thể vương triều. Nhà vua vì quá đau buồn đã lệnh cho một nhóm người ra khơi tìm kiếm và chỉ được trở về khi nào tìm được công chúa. Cuộc tìm kiếm thất bại. Nhóm người được lệnh không thể trở về đất liền và từ đó hình thành bộ tộc du mục trên biển Bajau. Nửa thiên niên kỷ qua, họ đã quyết định lấy biển làm nhà, lấy trời làm chỗ trú ngụ.
Theo các nhà khoa học, dân số Bajau ước tính khoảng 800.000 người, địa bàn sống trải dài từ Philippines và Malaysia, xuyên đến Đông Indonesia và tất cả vùng biển ở Myanmar. Vùng biển của người Bajau được công nhận là “Tam giác san hô”, chiếm đến 1/3 rặng san hô của thế giới, nơi sinh sống của hơn 3.000 loài cá. Đa phần người Bajau là người Sunni Hồi giáo, phần lớn đều tin vào thế giới tâm linh của biển cả. Dân làng tin rằng, biển cả là ngôi nhà chung của họ.
Người Bajau Laut (Malyasia) được mệnh danh là kình ngư
tài ba nhất thế giới.
Bộ tộc người Bajau có thể sống hàng tháng trời lênh đênh trên biển chỉ với một con xuồng dài, hẹp và cao tên là lepa – lepa. Cuộc sống du mục luôn luôn không có ranh giới quốc gia rõ ràng nên trong nhiều năm qua, việc đi lại trên con đường biển của họ qua 3 nước Đông Nam Á đã gây ra cuộc tranh cãi giữa các Chính phủ khiến Malaysia buộc phải vận động người Bajau di chuyển về đất liền và cấp đất cho họ. Hiện tại, đa số người Bajau đã chuyển tới các làng nhà sàn như làng Torosiaje nằm kéo dài 1km trên bờ biển nhưng một số vẫn chọn cách duy trì lối sống như cũ.
Ngôi làng của người Bajau chỉ cách thế giới văn minh khoảng 1 giờ đi biển nhưng cuộc sống của họ vẫn mang tính hoang dã và du mục. Thức ăn chỉ đơn giản là cá và chuối. Họ trộn tinh bột sắn với nước, lá khô rồi bôi lên mặt giống như một loại kem chống nắng. Từ hàng trăm năm nay, người Bajau vẫn được ngợi ca là những “người cá” vì họ là những người thợ lặn và bơi lội tài ba nhất thế giới. Họ có thể lặn xuống đáy biển để săn cá và bạch tuộc chỉ bằng những cây giáo tự chế. Với sự hỗ trợ của kính thợ lặn vành gỗ và không cần bình dưỡng khí, bộ tộc “người cá” có thể vô tư lặn sâu xuống 20m dưới đáy biển trong vòng 5 phút để bắt cá, ngọc trai hay hải sâm – những tài nguyên vô cùng quý hiếm của biển cả.
Theo lời kể của người làng, những đứa trẻ Bajau được huấn luyện bơi lội từ khi còn rất nhỏ. Để tai không bị nổ trước sức ép trọng lực của nước khi bơi lội, người Bajau phải chọc thủng màng nhĩ của mình. Họ phải nằm im bất động để vết thương ở tai lành lại, sau đó họ có thể bơi lội mà không đau đớn. “Máu chảy ra từ tai và mũi của tôi và tôi phải mất 1 tuần nằm im bất động vì chóng mặt. Nhưng sau đó tôi cảm thấy bình thường trở lại và lặn dưới đáy biển mà không bị đau đớn”, ông Imran Lahassan sống ở Bắc Sulawesi (Indonesia) kể lại tuổi thơ của mình.
Bắt nguồn từ tập tục chọc thủng màng nhĩ ngay từ nhỏ nên tất cả những người dân trong bộ tộc đều bị nặng tai, thậm chí họ không còn khả năng nghe thấy âm thanh bên ngoài. Với đôi tai không còn nghe được âm thanh, đôi mắt của họ lại phát huy khả năng gấp 2 lần so với người bình thường, điều này giúp họ có thể nhìn mọi vật dưới nước một cách dễ dàng.
Liều mình kiếm sống dưới biển sâu
Tọa lạc giữa biển, ngôi làng của người Bajau đẹp như một thiên đường trong cổ tích. Người dân nơi đây đã xây lên những căn chòi kiên cố giữa đại dương mênh mông, đủ sức đương đầu với những cơn sóng và sự giận dữ của “thần biển cả”. Biển du mục sở hữu màu nước xanh trong, ngôi làng thơ mộng, hữu tình như chốn thiên đường. Tuy vậy, cuộc sống giữa sóng gió biển khơi thật chẳng dễ dàng.
Đôi khi họ cũng phải chịu không ít hiểm nguy do hủ tục của mình. Một lão bà người Bajau tên Ane kể: “Khi chúng tôi tới Torosiaje, chúng tôi chẳng có bất kỳ thứ gì. Hầu hết những chiếc lepa – lepa chỉ được trang bị động cơ thô sơ không đủ khả năng chống chọi trước sóng dữ. Không những thế, người dân chỉ tập trung vào việc làm sao có thể lặn được càng sâu càng tốt, đến 40m để kiếm ngọc trai, hải sâm và quên mất hạn chế mức chịu đựng được áp lực nước của cơ thể. Vô số người Bajau đã phải kết thúc cuộc sống du mục của mình trong tình trạng bị liệt hoặc chết đuối. Chồng tôi cũng chết vì bị chuột rút”.
Bà Diana Botutihe được sinh ra trên biển 50 năm trước và đã dành toàn bộ cuộc đời sống trên chiếc thuyền dài 5m, rộng 1,5m của mình. Những lần ghé đất liền chỉ có mục đích duy nhất là để đổi những thứ bà kiếm được trên biển lấy gạo, nước ngọt và những món đồ phục vụ cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cùng ít đồ trang trí cho ngôi nhà di động. Bà cho biết, biển cả nổi giận cũng là mối đe dọa thường trực với cuộc sống của dân làng. Sau mỗi trận bão biển, nhiều ngôi nhà bị tan hoang hoặc bị nhấn chìm xuống đáy biển.
Trải qua nhiều thế hệ, người Bajau thích nghi với cuộc sống lênh đênh trên biển của họ. Những người dân nơi đây không bao giờ đặt chân lên đất liền trừ khi muốn trao đổi những hải sản họ đánh bắt được để lấy gạo và nước ngọt, đóng tàu mới hoặc chôn cất người chết. Đôi khi, họ còn cảm thấy khó chịu khi phải ở trên đất liền quá lâu.
Ngày nay, để bắt được nhiều cá, ngư dân Bajau đã học cách sử dụng Kali xyanua của những tàu đánh cá Hông Kông đánh bắt cá khiến nhiều rặng san hô bị phá hủy và trở thành rặng san hô chết. Điều này đang phá hủy thế giới ngầm dưới đáy biển, đe dọa đến cuộc sống của chính bản thân họ. “Chỉ trong vòng 10 năm qua, trữ lượng cá ở đây đã giảm đáng kể. Từ năm 2002 – 2006, các nhà nghiên cứu đã ghi nhận sụt giảm 13% tại đây. Nguyên nhân chính được cho là do nhu cầu tiêu thụ cá và bạch tuộc đang tăng ở Đông Nam Á cũng như việc đánh bom làm tàn phá rặng san hô, ngộ độc xyanua và lưới rà”, GS David J Smith tại đại học Essex (Anh) cho biết.
đăng 04:21, 23 thg 6, 2015 bởi Lưu Xuân Cảnh
Xử thế không nên giống người tục, cũng không nên khác người tục
Một người cao thượng thiết nghĩ, cách nhìn đối với sự thế dễ bị thiên kiến, phải giữ cách sống ôn hoà mới không bị người đời ganh ghét; một người sự nghiệp công danh thành đạt, phải giữ đức tính khiêm tốn hoà nhã, mới không bị người đời đố kỵ.
Xử thế vừa không thể hùa với người xấu làm việc xấu, cũng không được kiêu căng lập dị, làm ra vẻ thanh cao, cố ý khác với mọi người; làm việc gì, vừa không được để mọi người căm ghét, cũng không được a dua nịnh hót lấy lòng người khác.
Khổng Tử nói: Không ở chức vị đó, thì không nên đi làm thay cho người ở chức vị đó. Quân tử mỗi người chuyên một chức vị, nên chăm chú làm tốt công việc thuộc chức vị của mình.
Cần nghiêm trị những người giành quan chiếm chức, quản việc không đâu. Có một sự việc đáng nhớ như sau: Hàn Chiêu Hầu có một lần uống rượu say gục ngủ trên bàn, người hầu mũ sợ Chiêu Hầu lạnh nên lấy chiếc áo khoác lên người Chiêu Hầu. Hàn Chiêu Hầu chợt tỉnh giấc, nhìn thấy trên mình có khoác thêm chiếc áo, vui mừng hỏi người bên cạnh: "Ai khoác áo cho ta"? Người bên cạnh trả lời: "Là người hầu mũ". Hàn Chiêu Hầu nghe vậy liền hạ lệnh trị tội người hầu mũ và cả người hầu áo, vì người hầu mũ lại đi quản việc của người hầu áo.
Tôi cho rằng: Làm việc không tốt đáng chịu tội; làm việc quá chức năng đáng xử chết. Hành pháp phải chú trọng việc phân định địa vị tuyệt đối trong quyền thuật chính trị.
Hàn Phi Tử (Chiến Quốc)
đăng 14:19, 27 thg 10, 2014 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 14:20, 27 thg 10, 2014 ]
Đọc xong bốn bài viết dưới đây, chúng ta sẽ phải suy nghĩ, có phải là mình đã có quá nhiều lỗi lầm trong quá khứ? có phải là mình đã quá chủ quan? Với bốn bài viết này, chúng ta sẽ thấy rõ ngay trong lòng mình, cái đời người của mình sẽ được tiến về phía trước qua bốn bước.
1- NGỘ NHẬN
Năm đó tại Alaska Hiệp Chúng Quốc, có đôi trai gái kết hôn với nhau. Kết quả của cuộc hôn nhân đó là vấn đề sinh dưỡng, người đàn bà vì bị khó sanh mà phải từ biệt cõi đời, để lại một đứa bé thơ cho người chồng. Anh chồng vừa rất bận rộn trong sinh kế, lại vừa rất bận rộn việc gia đình. Vì không có người giúp trông coi đứa con thơ, anh huấn luyện được một con chó, con chó này rất thông minh, lại rất ngoan ngoản nghe lời, nó biết trông coi em bé,nó tha bình sữa để cho bé bú, nuôi dưỡng bé. Có một ngày kia, người chủ có việc phải rời nhà,anh dặn dò con chó trông coi nuôi nấng cho bé con. Anh đi tới một thôn làng khác,vì gặp phải tuyết lớn rơi,không thể về nhà được trong cùng ngày đó. Qua đến ngày thứ hai mới về được nhà, con chó nghe tiếng lập tức chạy ra nghênh đón chủ mình.
Người chủ mở cửa phòng ra xem xét, thì thấy đâu đâu cũng đều là máu, ngẩn đầu lên nhìn,trên giường cũng là máu,chẳng thấy đứa con đâu cả, trên mình con chó, và miệng của nó cũng dính đầy máu me,người chủ phát hiện được cái tình cảnh này, ngỡ là con chó đã trở lại cái tính dã man của loài thú, nó đã ăn thịt con mình,trong cơn giận dữ, anh xách cây dao to chặt đầu con chó đi, anh đã giết chết con chó thật sự rồi. Sau đó, bổng nhiên anh nghe tiếng con nhỏ của mình, lại thấy nó từ dưới gầm giường bò ra, thế là anh bồng đứa bé lên, tuy là trên mình em cũng có dính máu, nhưng em không có bị thương tích gì. Anh rất lấy làm lạ, chẳng biết việc gì đã xảy ra, anh nhìn kỹ lại con chó, đùi của nó đã bị mất một miếng thịt, còn kế bên là một con sói, miệng nó đang gậm miếng thịt của con chó. à, thì ra con chó nó đã cứu tiểu chủ nhân, lại bị chủ nó giết nó một cách tàn nhẫn dã man oan uổng, đây đã là một sự ngộ nhận (hiểu lầm) hết sức là đau lòng của con người.
Ghi chú : Việc hiểu lầm, con người ta thường vì không hiểu nhau,không có lý trí, không chịu nhẫn nại,khiếm khuyết về suy nghĩ,không chịu tìm hiểu đối phương từ nhiều phương diện,để phản tỉnh chính mình,lại vì não trạng bị quá xung động, trong tình huống vô ý thức mà phát sinh. Sự ngộ nhận ở điểm khởi đầu,là cứ nghĩ đến cái sai cái quấy ngàn lần vạn lần của đối phương. Vì vậy, đã làm cho sự ngộ nhận càng lúc càng thêm sâu đậm,đưa đến việc không thể hóa giải được. Con người phát sinh sự ngộ nhận đối với loài vật (con), mà đã có cái kết quả ghê tởm nghiêm trọng như vậy; nếu đây là sự ngộ nhận giữa con người và con người, chắc chắn là khó mà tưởng tượng nỗi cái hậu quả của nó.
2. ĐINH TỬ (Cây đinh)
Có một cậu bé trai, nó có cái tật xấu là ưa nổi nóng quạu quọ, vì vậy, cha của nó đã đưa cho nó một túi đinh; lại bảo nó, mỗi khi nó có nổi nóng quạu quọ thì hãy đóng một cây đinh lên trên bờ rào phía sau vườn nhà. Ngày thứ nhứt, nó đóng được 37 cây đinh. Và từ từ mỗi ngày số đinh được đóng lên bờ rào mỗi ít đi. Nó cũng đã phát hiện là nó đã khống chế được cái tật xấu của nó cũng như cái việc đóng những cây đinh có hơi dễ dàng.
Cuối cùng, có một ngày kia cậu bé này cũng thấy là mình vẫn đủ nhẫn nại để không nổi lên cái tật xấu nóng nảy quạu quọ nữa, nó báo cho cha nó biết việc này.
Cha nó lại bảo nó, bắt đầu từ nay, mỗi khi nó khống chế được cái tật xấu của nó thì hãy đi nhổ một cây đinh. Ngày ngày trôi qua, sau cùng thì nó báo cho cha nó hay là, nó đã nhổ hết những cây đinh rồi. Cha nó nắm tay nó, cùng đi ra sau vườn nhà và nói rằng: Con của cha, con ngoan lắm, con làm rất hay. Nhưng mà hãy nhìn những cái lỗ đinh trên bờ rào, cái bờ rào này không thể hồi phục được cái nguyên trạng của nó nữa. Một khi con nổi nóng thì những lời nói của con nó cũng giống như những cái lỗ cây đinh này, chúng đã để lại những vết hằn. Giả dụ như con dùng dao đâm người ta một dao, thì bất luận là con đã nói bao nhiên lần những lời tạ lỗi, cái vết thương đó nó vẫn sẽ vĩnh viễn còn đó.
Những lời nói (xóc óc) nhức nhối cũng ví như sự nhức nhối thực tại, không làm sao chấp nhận được (dù đó chỉ là lời nói).
Ghi chú: Giữa người và người với nhau, thường do sự kiên trì về cố chấp bởi những lỗi lầm giữa đôi bên, đã tạo nên những thương tổn vĩnh viễn cho nhau.
Nếu mọi người trong chúng ta đều có thể tự mình làm, bắt đầu có thái độ khoan dung đối với mọi người, bạn nhất định sẽ nhận được những kết quả tốt mà bạn không hề nghĩ tới... Giúp mở cánh cửa sổ cho người ta, cũng là để cho chính mình nhìn thấy được một không gian hoàn chỉnh hơn.
3. THẢ MẠN HẠ THỦ (Xin hãy chậm xuống tay)
Đại đa số các cộng sự viên đều rất phấn khởi, vì ở khâu làm việc này vừa đổi lại một viên quản đốc mới, nghe nói ông này rất có khả năng, đặc biệt được đưa đến đây để chỉnh đốn nghiệp vụ và nhân sự; ấy thế mà, cứ một ngày rồi một ngày trôi qua, ông quản đốc mới này chẳng có làm gì hết, mỗi ngày đều có những quà cáp được đưa vào văn phòng, ông vẫn "trốn" luôn trong đó, ít khi nào chịu ra ngoài, cái thành phần bất hảo ở khâu này, hiện tại chúng lại càng lộng hành tác oai tác quái dữ hơn.
"ông ta đâu có phải là người có khả năng! ông chỉ là một lão già tốt và nhu nhược, so với quản đốc trước còn dễ bị người ta ăn hiếp nhiều hơn" !
Bốn tháng trời trôi qua,đang trong tình trạng thất vọng đối với ông quản đốc hiền hòa mềm yếu này, bổng dưng ông ta "diễn oai", cái thành phần bất hảo kia, đều bị ông bứng từng tên một,cho về vườn "đuổi gà", còn những người có khả năng đều được ông cất nhắc cho thăng tiến. Xuống tay vừa nhanh,vừa chính xác, đối với bốn tháng "bảo thủ" được biểu hiện vừa qua, nay ông rõ ràng là một nhân vật cứng rắn và cương quyết,lại hoàn toàn khác xưa. Trong tiệc liên hoan cuối năm,sau khi đã qua ba tuần rượu, ông quản đốc mới bèn thố lộ tâm tình :
"Tôi nghĩ là cái nhìn của các bạn đối với tôi trong những ngày vừa mới nhậm chức,và sau khi tôi khai đao múa búa trừ hại, nhất định là có những thắc mắc phải không? Xin hãy nghe tôi kể lại một câu chuyện, các bạn sẽ hiểu ngay:
"Tôi có một người bạn,ông ta mua một căn nhà có cả một vườn cây hoa thảo,khi mới dọn vào, ông ta liền chỉnh đốn, tất cả những hoa thảo cây cối, đều được làm sạch hết, để trồng lại những bông hoa mới. Có một ngày kia, người chủ nhà cũ đến thăm, mới vừa bước vào cổng, ông giựt mình hỏi rằng:
"những cây hoa quý Mẫu Đơn giờ đâu mất hết rồi"?
Bạn tôi bấy giờ mới hiểu ra là,chính mình đã triệt hạ hết những cây Mẫu Đơn quý mà mình tưởng chúng là những hoa rừng cỏ dại. Sau này, ông ta lại mua thêm một căn nhà nữa,tuy là vườn cây hoa cỏ tạp nhạp, ông vẫn "án binh bất động". Quả nhiên trong mùa Đông cứ ngỡ là những cây rừng cỏ dại thì, mùa Xuân lại nở hoa dầy đặc xinh tươi; trong những ngày Xuân ngỡ là cỏ dại thì, mùa Hạ lại hiện ra những tấm thảm gấm hoa tươi mát; và trong nửa năm chẳng động tịnh gì đến những loài cây nho nhỏ,thì những ngày Thu đã đỏ hồng những chiếc lá dễ thương. Mãi cho đến cuối Thu, ông mới thực sự thấy được những loài cây cỏ vô dụng, và bắt đầu dọn dẹp sạch sẽ, đồng thời giữ lại những loài hoa thảo mộc thật sự trân quý. Nói đến đây, ông quản đốc bèn nâng ly :
Xin cho tôi kính tửu các vị ở đây, vì các vị cũng như là những hoa mộc ở trong "vườn hoa" công ty này,các bạn đã là những cây trân quý trong đó, những cây trân quý này không thể nào trong năm mà có thể đơm bông kết trái hết được, cần phải trải qua một thời gian dài mới có thể nhận ra được.
4. KHOAN ĐẠI (Đại lượng bao dung)
Đây là một câu chuyện về một anh chiến binh, người vừa trở về từ chiến trường Việt Nam . Từ San Francisco, anh điện thoại về cho cha mẹ anh và báo tin rằng:
"Con đã về rồi, con xin có một thỉnh cầu. Con muốn dắt theo một người bạn đồng hành cùng về nhà mình".
"Dĩ nhiên là được"!
Ba má anh đáp,
"ba má rất vui mừng được gặp bạn con".
Người con lại tiếp tục
"nhưng mà có một việc con cần phải thưa trước cho ba má rõ, bạn con đã bị thương từ chiến trường Việt Nam, nó đã bị mất đi một cánh tay và một cái chân, hiện tại nó chẳng có nơi để nương tựa, con muốn đem nó về cùng sinh hoạt chung với gia đình mình".
"Con ơi, thật là điều đáng tiếc, có thể chúng ta giúp tìm một nơi cho nó được an thân sinh sống".
Cha anh lại nói tiếp
"con ạ, chắc con chẳng biết là con đang nói gì phải không? Như bạn của con là một người tàn phế, hẳn là chúng ta phải mang một gánh nặng trách nhiệm lớn đó con. Chúng ta lại phải đối diện với những khó khăn trong cuộc sống của chính mình trong tương lai, không thể vì nó mà làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của gia đình mình. Ba đề nghị với con là hãy về nhà trước và hãy quên người bạn đó đi, tự nó nhứt định cũng sẽ tìm được một nơi dung thân mà con".
Nói xong ông liền cúp điện thoại, từ đó hai ông bà không nhận được tin tức gì từ đứa con nữa.
Vài ngày sau, hai ông bà nhận được điện thoại của cảnh sát San Francisco báo cho hay là, con trai ông đã té lầu chêt rồi. Cảnh sát tin rằng đây chỉ là chuyện đơn thuần tự sát mà thôi. Thế là hai ông bà gấp rút bay qua San Francisco , nhờ cảnh sát đưa đi nhận diện di thể của con mình. Đúng rồi, chính là con mình đây, không sai, điều hết sức ngạc nhiên ở đây là con trai của mình, tại sao mà nó lại chỉ có một cánh tay, và cũng chỉ có một cái chân mà thôi.
Cha mẹ trong câu chuyện này cũng như trong đại đa số chúng ta hầu hết đều giống nhau. Cùng với những người, với sự ưa thích về diện mạo xinh đẹp, hoặc giả là nói năng duyên dáng và dí dỏm, thì lại có thể chấp nhận quá dễ dàng, thế nhưng để ưa thích những sự việc mà có thể gây bất tiện, hoặc là làm cho chúng ta không vui thì lại rõ ràng là một điều khó lòng mà chấp nhận được.
Chúng ta thường là chấp nhận sự kiên trì, xa lánh những người không có được sự khỏe mạnh, tốt tướng hoặc thông minh như chúng ta . Tuy nhiên cũng có một số người thì lại nhân từ hơn chúng ta rất nhiều. Họ không bao giờ oán than hay hối tiếc khi họ thương yêu chúng ta, cho dù là chúng ta bị tàn phế ở mức độ nào đi chăng nữa, họ vẫn mở rộng vòng tay đón nhận chúng ta.
Đêm nay trước khi vào giấc ngủ, ta hãy thử thử tiếp nạp tha nhân, bất luận họ là những con người như thế nào, hãy dùng cái tâm để hiểu dùm cho giữa những khác biệt của họ và của ta. Mỗi một con người đều có tàng ẩn trong tâm một món đồ quý giá thần kỳ, đó là "Tình Bạn", bạn sẽ không thể nào biết được cái Tình Bạn đó sẽ phát sinh bằng cách nào, và vào lúc nào? Thế nhưng bạn chắc chắn phải biết rằng Tình Bạn sẽ mang đến cho chúng ta một món quà rất đặc biệt trân quý. Bạn bè có thể ví như là một bảo vật quý hiếm. Bảo vật này mang lại cho chúng ta những nụ cười, khích lệ chúng ta thành công. Họ (bạn bè) lắng nghe tiếng nói từ nội tâm của chúng ta, cùng chúng ta chia sẻ từng câu khen tặng tốt đẹp.. Trái tim của họ lúc nào cũng vì chúng ta mà rộng mở. Bây giờ xin hãy nói với bạn bè của bạn là, bạn đã có rất nhiều sự ưu tư, và rất cần đến họ, bạn không thể thiếu họ được.
Hãy chuyển những bài viết này cho những người bạn mà bạn đã quen. Nếu như những bài viết này lại được gởi trở lại cho bạn, điều đó chứng minh là trong đời bạn, bạn đã kết nạp được số đông Bạn bè rồi đó.
Hãy thử nghĩ xem: Này bạn, sau khi bạn đã coi xong những bài này; nhất định là bạn sẽ có một cái cảm nhận rất là thấm thía phải không? Vậy thì, trước khi có một sự phán đoán hoặc quyết định đối với bất cứ người nào,
Đầu tiên, hãy nghĩ xem, đây có thể là một sự
"Ngộ Nhận" (hiểu lầm hoặc sai lầm)?
Kế đó là, ta có cần phải đóng một cây đinh
"Đinh Tử"?
Và nếu có thể thì, xin hãy chậm xuống tay
"Thả Mạn Hạ Thủ",
Bởi vì, lúc mà bạn có sự
" Khoan Đại" (Đại lượng bao dung) đối với ngưòi khác, cũng tức là lúc mình đã "Khoan Đại" với chính mình.
(Theo internet)
Các câu nói nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam
đăng 15:34, 28 thg 2, 2014 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 14:54, 20 thg 5, 2014 ]
Nước Việt Nam ta từ khi lập quốc đến nay kể ra cũng được nhiều nghìn năm văn hiến. Trong nhiều nghìn năm văn hiến đó, quá trình dựng nước luôn đi đôi với quá trình giữ nước. Bao nhiêu sự kiện, bao nhiêu dấu ấn lịch sử đã làm nên một phần hơi thở dân tộc. Trong đó những nhân vật lịch sử, những ông vua, bà chúa, những anh hùng, danh nhân văn hóa… đã góp phần tô điểm nên diện mạo bức tranh lịch sử huy hoàng đó. Bên cạnh những việc làm, những công trạng, một trong những điểm đáng nhớ nhất của các nhân vật xuất chúng đó có lẽ phải kể đến là những câu nói. Những câu nói đó không chỉ đơn giản là lời nói bộc phát mà nó còn thể hiện tâm tư, nguyện vọng, thậm chí thể hiện phẩm chất con người, thể hiện hoàn cảnh của thời đại đó.
1. Triệu Thị Trinh
Bà Triệu hay Triệu Trinh Nương, Triệu Thị Trinh, Triệu Ẩu đều là những tên gọi chỉ vị nữ anh hùng của dân tộc ta đầu thế kỷ III. Năm 248, Bà Triệu lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống xâm lược của quân Đông Ngô, do Lục Dận, thứ sử Giao Châu chỉ huy. Nhiều nghĩa binh đã tử trận vào năm đó. Theo sử sách, bà chống đỡ với quân Đông Ngô được 5-6 tháng thì phải lui về xã Bồ Điền và cùng đường tự tử. Khi ấy, Triệu Thị Trinh mới 23 tuổi. Cũng giống Trưng Trắc và Trưng Nhị, Triệu Thị Trinh quyết không để bị khuất phục.
“Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang san, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta". Câu nói bất hủ của người con gái anh hùng của dân tộc Việt đã tỏ chí khí mà ngàn sau dân Việt mãi còn kính phục.
2. Trần Bình Trọng
Trần Bình Trọng (1259-1295) vốn là họ Lê, dòng dõi Lê Đại Hành. Tổ phụ Làm quan cho nhà Trần, có nhiều công trạng, nên được mang họ vua. Năm 1285, quân Nguyên Mông sang xâm chiếm Đại Việt, ông được giao coi giữ thiên trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay). Khi giặc đánh xuống, vì lực lượng yếu, Trần Bình Trọng bị bắt, Lý Hằng sai giải lại cho Thoát Hoan. Hoan thấy Bình Trọng người cao lớn, dáng đi hùng dũng, nét mặt đường hoàng, không có chút gì là sợ sệt thì biết không phải là tướng thường, nên muốn khuyên dỗ về hàng, liền tiếp đãi rất tử tế, mời ăn uống hẳn hoi. Nhưng Bình Trọng không ăn. Hỏi đến việc nước, Bình Trọng cũng không nói.
Sau Hoan lại hỏi: "Tướng quân có muốn làm vương đất Bắc không?". Bình Trọng trả lời: "Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Nay ta đã bị bắt thì chỉ có chết là cùng, can gì phải hỏi lôi thôi".Thoát Hoan không thuyết phục nổi Trần Bình Trọng hàng, nhưng vì có ý mến phục, cũng không nỡ giết, cho giải theo quân. Được mấy hôm, lại sợ Bình Trọng trốn mất, mới sai mang ra chém. Trần Bình Trọng bấy giờ mới 26 tuổi.
3. Hồ Nguyên Trừng
Hồ Nguyên Trừng (1374 - 1446) là con trai cả của Hồ Quý Ly, anh của Hồ Hán Thương. Ông là một tướng tài có công trình quân sự lỗi lạc và là người phát minh Thần cơ hỏa sang, một loại súng trường nhưng không được phổ biến. Khi Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và sáng lập triều Hồ, Hồ Nguyên Trừng giữ chức Tả tướng quốc thời nhà Hồ.
Trong cuộc kháng chiến chống nhà Minh xâm lược, Hồ Nguyên Trừng đã nhiều lần thân chinh đi đánh giặc. Năm 1405, trước sức mạnh vũ bão của quân địch, Hồ Quý Ly cho họp quần thần để bàn kế chống giặc. Khi được hỏi, Hồ Nguyên Trừng đã nói: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”. Câu nói đó phản ánh nguyên nhân cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của cha con Hồ Quý Ly thất bại chính là không tập hợp được sức mạnh của nhân dân.
4. Vua Duy Tân
Vua Duy Tân (1900-1945) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Nguyễn, ông lên ngôi khi chỉ mới 7 tuổi trong hoàn cảnh rối ren của lịch sử triều Nguyễn và thực dân Pháp xâm lược.
Vào mùa hè, Vua Duy Tân thường ra nghỉ mát ở Cửa Tùng, một cửa biển đẹp ở Quảng Bình. Một hôm nhà vua từ bãi tắm lên, hai tay dính đầy cát, viên thị vệ bưng lại một thau nước ngọt mời vua rửa tay. Nhà vua vừa rửa tay vừa hỏi đùa:
- Tay bẩn thì lấy nước mà rửa, còn “nước” bẩn lấy gì mà rửa?
Viên thị vệ lúng túng chưa biết trả lời sao thì Vua hỏi tiếp:
- Nước bẩn thì làm thế nào cho sạch?
Người thị vệ vẫn không trả lời được. Vua Duy Tân bèn nói:
- Nước bẩn thì lấy máu mà rửa!
Viên thị vệ đâu có ngờ nhà vua chơi chữ, chuyển từ nước rửa tay sang một thứ nước khác ngàn lần đáng quý trọng là đất nước, là quê hương. Khi đất nước bị dơ bẩn bởi sự chà đạp của ngoại bang thì không thể rửa sạch bằng nước mà phải rửa bằng máu. Về sau, vua Duy Tân đã đứng lên hô hào toàn dân khởi nghĩa, lấy máu đào rửa cho sạch cái nhục vong quốc.
(Vua Duy Tân lúc nhỏ)
5. Nguyễn Trung Trực
Nguyễn Trung Trực tên thật là Nguyễn Văn Lịch, làm nghề chài lưới. Năm 1861, phối hợp với Trương Định, ông đã chỉ huy đánh thắng một trận rất lớn trên sông Nhật Tảo (Bến Lức), đốt cháy tàu Étpêrăng (Hy Vọng) của giặc Pháp, giết chết nhiều địch và làm chết đuối nhiều tên khác, khiến Bôna vô cùng hoảng sợ.
Từ năm 1867, Nguyễn Trung Trực về Hà Tiên lập căn cứ riêng ở Hòn Chông. Chiến thắng oanh liệt tiếp theo của ông là trận tập kích vào Rạch Giá năm 1868, giết tên Tỉnh trưởng và hầu hết quân Pháp trong trại. Đây là một trong những trận đánh làm rung chuyển Soái phủ Nam Kỳ. Cũng năm 1868, Nguyễn Trung Trực bị quân Pháp vây bắt tại Phú Quốc. Ông nhận án tử hình ở Rạch Giá tháng 10/1868.
Trước khi hy sinh, Nguyễn Trung Trực đã để lại một lời nói bất hủ: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam, nước Nam mới hết người đánh Tây”.
Tổng hợp: Hoài Phong
Nguồn: Các câu nói nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
Những câu nói bất hủ
Những người đứng đầu một tổ chức, một phong trào, hay một đoàn thể thường phát biểu những câu nói trong những tình huống đặc biệt. Tùy theo tình hình biến chuyển, họ đã nói và để lại cho hậu thế những câu nói bất hủ. Câu nói đầy tâm huyết phát xuất từ trái tim sẵn sàng dâng hiến cho đại cuộc. Vì xuất phát từ một tấm lòng quả cảm, từ trái tim đầy nhiệt huyết, những câu nói này trở thành một khẩu hiệu, một châm ngôn hướng dẫn mọi hành động trong giai đoạn đó. Những câu nói bất hủ này không những ảnh hưởng trực diện vào mọi sinh hoạt ngay lúc đó mà còn gây ảnh hưởng lớn lao cho mọi người trong nhiều thế hệ sau này, đặc biệt cho những người tranh đấu với cùng một mục đích. Nó trở thành một đòn bẩy bật tung trái đất như Archimedes đã nói1, một chất xúc tác như Jim Costa từng phát biểu2, một nguồn sinh lực dồi dào cho những người đã bắt đầu thấm mệt trong cuộc đấu tranh dai dẳng như Đức Lạtma chia sẻ3.
Trần Thủ Độ là Thái sư (1227) dưới triều vua Trần Thái Tông. Tuy ông giữ một chức vụ cao trọng nhất trong triều đình nhưng lại nức tiếng thẳng thắn và nghiêm minh trong việc tôn trọng luật nước. Là một tướng tài, ông giúp nhà Trần giữ vững biên cương, đánh quân Chiêm thành và Chân lạp thường xuyên quấy nhiễu. Nhưng đặc biệt phía bắc hàng vạn vó ngựa quân Mông cổ rầm rập tung bụi mịt mù sa mạc, tràn xuống đánh Kim, diệt Tây Hạ, chiếm Triều Tiên, chuẩn bị xâm lược Tống và các nước phía nam khiến triều đình rất lo ngại.
Tháng 1 năm 1258, quân Mông Cổ, sau khi tiêu diệt nước Đại Lý (Vân Nam), đã tiến vào lưu vực sông Hồng. Thiết Mộc Chân (Thành Cát Tư Hãn) tuy đã chết nhưng quân Mông vẫn là một đội quân hùng mạnh, bách chiến bách thắng. Vó ngựa quân Mông tung hoành khắp vùng sa mạc và rong ruổi mãi đến tận châu Âu với những chiến thắng vẻ vang. Vì thế quân Đại Việt ban đầu bị đánh lui, vua Thái Tông phải bỏ Thăng Long rút xuống phía nam. Vua muốn nhờ Tống giúp chận đứng quân Mông nên hỏi Thái sư Trần Thủ Độ. Ông trả lời một câu bất hủ, “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!” Vào lúc thế giặc mạnh như nước lũ, câu trả lời vững chải đầy tự tin của ông đã giữ vững được tinh thần quyết thắng của quân dân Đại Việt. Không đầy một tháng sau, quân ta phản công và đẩy lui được đại binh Mông cổ buộc chúng phải rút chạy về nước.
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cũng là một vị tướng tài dưới triều vua Trần Thánh Tông. Ông ba lần (1258, 1285, và 1287) đánh tan quân Nguyên Mông từ phương bắc lăm le muốn thôn tính nước Nam. Hốt tất Liệt lúc bấy giờ không những là chúa tể trên cánh đồng cỏ mà còn là một hung thần đối với các nước Hồi giáo ở Trung Á, nước Nga và các nước lân cận. Lãnh thổ của quân Nguyên trải dài từ vùng Viễn Đông, kể cả Triều Tiên (Đại hàn bây giờ) đến tận Mac-tư-khoa, Muhi (Hungary), Tehran (Iran), Damascus (Syrie); từ Bắc Á xuống sâu đến biên giới Ấn độ và Miến điện. Hốt tất Liệt đánh bại dễ dàng nhà Nam Tống và Bắc Tống chiếm trọn nước Tàu. Thế mà khi tràn quân xuống phía Nam, đạo quân Mông bách chiến bách thắng lại chuốc lấy thảm bại. Với khí thế của quân Mông, vua Thánh Tông có ý định hàng giặc và Trần Hưng Đạo dõng dạc tuyên bố, “Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu tôi trước đã!” Chờ cho địch cạn lương, mỏi mệt, và hàng ngũ rối loạn, Hưng Đạo Vương mới cho quân phản công bằng mưu kế lợi dụng thủy triều cắm cọc nhọn trên sông Bạch đằng đâm thủng thuyền bè quân địch và đại thắng. Nhờ câu nói bất hủ đầy bất khuất của Trần Hưng Đạo, từ vua đến tôi đều quyết chí một lòng và đó là lý do quân Đại Việt thắng trận vẻ vang.
Một trong những tướng tài của Hưng Đạo Vương là Trần bình Trọng bị quân Nguyên bắt sống cũng thốt lên một câu nói bất hủ khi giặc Nguyên dụ hàng, “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vua đất Bắc.” Thời vua Thánh Tông được tiếng là thịnh trị vì có quá nhiều nhân tài ra giúp nước. Uy vũ bất năng khuất. Những vị tướng với lòng dũng cảm không hề run sợ trước sức mạnh của đoàn quân phương bắc như Trần bình Trọng thì chuyện giặc Nguyên thảm bại đến ba lần cũng là điều dễ hiểu.
Nguyễn thái Học, người sáng lập Việt Nam Quốc dân Đảng năm 1927. Câu nói bất hủ của ông chất chứa một chút chua chát: “Không thành công cũng thành nhân”. Và ông đã “thành nhân” khi bị Pháp xử trảm ngày 17 tháng 6, 1930 khi cuộc khởi nghĩa chống Pháp tại Yên Bái thất bại. Tuy thất bại nhưng ông đã để lại một tấm gương sáng cho những nhà ái quốc sau này, dứt khoát đánh đuổi bọn thực dân Pháp, đưa dân tộc thoát khỏi vòng đô hộ.
Lênin, ông tổ cộng sản cũng có một câu nói bất hủ, “Vô sản các nước, đoàn kết lại!”
Tổng thống Hoa kỳ Ronald Reagan khi đứng trước bức tường ô nhục Bá linh vào ngày 12 tháng 6, 1987 đã thách thức Tổng Bí thư Liên sô Gorbachev bằng câu nói bất hủ, “Hỡi ông Gorbachev, hãy đập đổ bức tường này!” Hơn hai năm sau, ngày 9 tháng 11, 1989 nhà nước cộng sản Đông Đức cho phép dân chúng thăm viếng Đông Bá linh và Tây Đức. Dân chúng đã dùng búa đập nát.
Nguồn: Internet. LXC sưu tầm
Dậy sóng' với tâm thư của người Nhật gửi Việt Nam
đăng 15:24, 25 thg 3, 2014 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 15:28, 25 thg 3, 2014 ]
Một bạn trẻ người Nhật từng du học ở Việt Nam vừa có bài viết gửi giới trẻ Việt Nam khiến dư luận xôn xao.
Bài viết về văn hóa con người Việt Nam của một bạn du học sinh Nhật. Nội dung bài viết như sau:
"Việt Nam – nhà giàu và những đứa con chưa ngoan
Tôi đang là một du học sinh Nhật, có hơn 4 năm sinh sống tại Việt Nam. Với ngần ấy thời gian, tôi đã kịp hiểu một đạo lý giản đơn của người Việt: “Sự thật mất lòng”. Song không vì thế mà tôi sẽ ngoảnh ngơ trước những điều chưa hay, chưa đẹp ở đây. Hy vọng những gì mình viết ra, không gì ngoài sự thật, như một ly cà phê ngon tặng cho mảnh đất này, tuy đắng nhưng sẽ giúp người ta thoát khỏi cơn ngủ gục - ngủ gật trước những giá trị ảo và vô tình để những giá trị thật bị mai một.
Tôi có một nước Nhật để tự hào
Tôi tự hào vì nơi tôi lớn lên, không có rừng vàng biển bạc. Song, “trong đêm tối nhất, người ta mới thấy được, đâu là ngôi sao sáng nhất”.
Thế đấy, với một xứ sở thua thiệt về mọi mặt, nghèo tài nguyên, hàng năm gánh chịu sự đe dọa của hàng trăm trận động đất lớn nhỏ lại oằn mình gánh chịu vết thương chiến tranh nặng nề, vươn lên là cách duy nhất để nhân dân Nhật tồn tại và cho cả thế giới biết “có một nước Nhật như thế”.
Tôi tự hào vì đất nước tôi không có bề dày văn hiến lâu đời nên chúng tôi sẵn sàng học hỏi và tiếp nhận tinh hoa mà các dân tộc khác “chia sẻ”. Từ trong trứng nước, mỗi đứa trẻ đã được học cách cúi chào trước người khác. Cái cúi chào ấy là đại diện cho hệ tư tưởng của cả một dân tộc biết trọng thị, khiêm nhường nhưng tự trọng cao ngời.
Tôi tự hào vì đất nước tôi được thử thách nhiều hơn bất kỳ ai. Khi thảm họa động đất sóng thần kép diễn ra, cả thế giới gần như “chấn động”. Chấn động vì giữa hoang tàn, đổ nát, đói khổ và biệt lập, người ta chỉ nhìn thấy từng dòng người kiên nhẫn xếp hàng nhận cứu trợ và cúi đầu từ tốn cảm ơn. Không có cảnh hôi của, lên giá, cướp bóc, bạo lực nào diễn ra giữa sự cùng khổ. Chỉ chưa đầy một năm sau khi hàng loạt thành phố bị xóa sổ hoàn toàn, sự sống lại bắt đầu hồi sinh như chưa từng có biến cố nào đã xảy ra. Thế đấy, không có những thành tích to lớn để nói về nước Nhật nhưng thương hiệu “made in Japan”, là thương hiệu uy tín vượt trên mọi khuôn khổ, tiêu chuẩn khắt khe, được toàn cầu tôn trọng nhất mà tôi từng biết.
Bạn cũng có một nước Việt để tự hào
Nói Việt Nam là một “nhà giàu”, quả là không ngoa. Giàu tài nguyên, giàu truyền thống, giàu văn hóa…Nhưng con cháu của nhà giàu, sẽ phải đối mặt với những vấn đề nan giải của nhà giàu. Và không phải ai cũng biết cách sống có trách nhiệm trong sự giàu có ấy.
Thật đáng tự hào nếu bạn được lớn lên ở một đất nước được thiên nhiên ưu đãi với rừng vàng biển bạc. Đáng xấu hổ nếu xem đó là khoản thừa kế kếch xù, không bao giờ cạn. Thật tiếc đó lại là những gì tôi thấy.
Tại các thành phố, chỉ cần nhà mình sạch sẽ là được, ngoài phạm vi ngôi nhà, bẩn đến đâu, không ai quan tâm. Ở các nhà máy, nếu không biết dồn rác thải ở đâu, họ sẽ cho chúng ra ngoài đường, sông suối, biển cả vì đó là “tài sản quốc gia” – đã có quốc gia lo, không phải việc của mỗi người dân. Tại một đất nước mà 80% dân số sống bằng nghề nông, đất đai, nước ngầm hầu như đã bị nhiễm độc, đến nỗi, người ta nói vui trong năm nữa thôi sẽ là thời đại của ung thư vì ăn gì cũng độc, không ít thì nhiều, không thể khác. Vì sao nên nỗi?
Thật đáng tự hào vì Việt Nam có 4000 năm văn hiến. Thật xấu hổ nếu 4000 năm văn hiến chỉ là một chương trong sách lịch sử chứ không được thể hiện trong cách hành xử đời thường. Thật buồn vì đó cũng là điều tôi thấy mỗi ngày.
Hãy chỉ cho tôi thấy rằng tôi đã sai nếu nói: Người Việt không biết xếp hàng, xếp hàng chỉ dành cho học sinh tiểu học; người Việt không biết tự hào về người Việt, nếu không thì Flappy Bird đã không phải chết yểu đau đớn; người Việt chửi hay còn hơn hát, cứ xách ba lô ra tới thủ đô một chuyến thì sẽ được mục sở thị; người Việt vẫn còn luyến tiếc văn hóa làng xã, giai cấp nếu không phải thế thì họ đã không đứng thẳng người chửi đổng và cúi rạp mình trước quyền lực bất công mà chẳng dám lên tiếng; người Việt có đôi mắt siêu hạng nhất vì nhìn đâu cũng thấy cơ hội để mánh mun, lọc lừa.
Tôi chưa từng thấy đất nước nào mà các bậc mẹ cha dạy dỗ con cháu cố gắng học hành để sau này là bác sỹ, phi công, thuyền trưởng… mà xuất phát không vì đam mê mà vì phong bì nhiều, đút lót dễ, giàu sang mấy hồi…Vì đâu nên nỗi?
Người Việt có một nền di sản độc đáo, một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, ai cũng nhìn thấy, chỉ có người Việt là không thấy hoặc từ chối nhìn thấy. Vì sao nên nỗi?
Tôi đang nhìn thấy một thế hệ, họ không còn biết phải tin vào điều gì, thậm chí còn không dám tin vào chính mình. Là một người Việt – khó lắm! Thật vậy sao?".
(St)
Hiểu đúng về một số nghi lễ đêm giao thừa
đăng 09:29, 30 thg 1, 2014 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 09:31, 30 thg 1, 2014 ]
Các lễ này thường được tiến hành vào 12 giờ đêm ngày 30 tháng chạp, tức 0 giờ sáng ngày mồng 1 tháng giêng.
- Cúng giao thừa ngoài trời: Người xưa có quan niệm mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, nên có tục cúng giao thừa ngoài trời. Tuy vậy, việc cúng ngoài trời chỉ nên tiến hành ở đình, đền, chùa hay những nơi công cộng. Với gia đình, chỉ nên cúng giao thừa trong nhà.
- Cúng giao thừa trong nhà: Lễ thường được tiến hành vào giờ Chính Tý, tức đúng 12 giờ đêm hôm 30 tháng chạp. Lễ Trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên lễ này còn mang tên là lễ Giao thừa. Ở nhà riêng, ngoài mâm ngũ quả trên bàn thờ gia tiên (hay thờ Phật), người ta thường lập thêm mâm cúng để ở cái bàn con bên dưới. Khi thắp hương vẫn cắm trên bàn thờ, chứ không cắm vào mâm cúng.
- Bày trí bàn thờ ngày Tết: Chúng ta hay dùng từ "trang trí bàn thờ", nên thành ra nghĩ rằng càng đẹp càng tốt, càng đầy đủ càng tốt, nhưng thực ra "mâm cao cỗ đầy" lại không có lợi. Thực ra bàn thờ là nơi thờ cúng gia tiên chứ không phải nơi phô trương hay trưng bày. Do vậy những thứ không liên quan đến thờ cúng không bày lên bàn thờ, nhất là giấy công đức ở đình chùa.
Nếu trong gia đình đang đặt bàn thờ gia tiên cùng phật hay thờ mẫu thì cần tách riêng các bàn thờ, trong bàn thờ gia tiên để thấp hơn và tách biệt. Đồ lễ trên bàn thờ, quan trọng nhất là hương hoa, tức hương thắp, hoa quả tươi và nước sạch.
Tuyệt đối cần tránh các loại đồ giả như hoa quả nhựa. Đồ thờ cúng xong rồi nên bỏ xuống để thụ lộc, tránh bày để từ tháng này qua tháng khác. Riêng ngày Tết thì có thể để đồ cúng đến mùng 5. Không nên để lễ mặn lên bàn thờ. Mâm cơm cúng ngày Tết cũng không để trên bàn thờ, mà nên để ở cái bàn con bên dưới.
- Mâm ngũ quả: Là đĩa đựng năm loại hoa quả khác nhau, thường đặt lên ban thờ hoặc trang trí ở bàn tiếp khách. Nên chọn các loại hoa quả thông dụng, ăn được và đẹp mắt. Nếu bày trên bàn thờ gia tiên, cũng có thể chọn loại hoa quả mà gia tiên thích ăn khi còn sống (nếu có).
Gần đây nhiều người hay gán ghép phong thủy cho mọi lĩnh vực, từ hoa thờ đến mâm ngũ quả theo phong thủy, rồi suy luận không căn cứ. Chẳng hạn lựu, nhiều hạt, tượng trưng cho sự đầy đủ, phát triển; bưởi, dưa hấu, căng tròn, tượng trưng cho sự đầy đủ, may mắn.
Cam, nghĩa gốc là đồng cam cộng khổ, chia sẻ ngọt bùi lại bị suy diễn thành cam chịu, chuối bị suy diễn thành "củ chuối". Thậm chí còn sa đà vào tâm linh không cần thiết như đếm nải chuối có quả lẻ mới mua, đếm phật thủ có lẻ nhánh mới được hay tổng số quả trên mâm phải hợp mệnh chủ nhà...Chính sự suy luận quá đà làm nhiều người mất thời gian chọn hoa quả để bày trí.
Điều lưu ý là mâm ngũ quả ngày Tết thường để lâu hơn bình thường, do đó không chọn loại chín quá vì sẽ nhanh hỏng, tuy vậy cũng không được chọn quả quá xanh chỉ cốt để cho lâu. Nên nhớ rằng mâm ngũ quả cúng gia tiên thì phải là hoa quả vừa đủ chín có thể ăn được. Nhiều người hay lấy câu "miễn thành tâm là được" để ngụy biện, khi thực hiện lại chạy theo hình thức, khoe mẽ với người ngoài, mà không chú trọng đến chất lượng của hoa quả để thờ cúng. Vì thế, hoa quả tươi mua về, chưa để bày biện thành mâm ngũ quả cũng cần để cẩn thận, trang trọng, chứ không nên "tống" vào tủ lạnh, hay vứt lăn lóc ở góc bếp, rồi đến tối 30 mang ra bày.
- Tục hái lộc: Ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, thành đạt hơn. Lộc là một cành non ở gần đình chùa, được hái ngay phút giao thừa để mang về nhà. Tuy vậy, không nên khuyến khích tục này, bởi lẽ mỗi gia đình đều đã có hoa đẹp cắm Tết như hoa đào, hoa mai… Bẻ các cành non làm cho nhiều cây cối trơ trụi, nhất lại là cây ở đình chùa là không nên. Gần đây, nhiều người cũng đã thay việc bẻ cành lộc, bằng cách mua cây hoa, cây mía…
- Tục xông nhà: Người xông nhà là người bước chân đầu tiên vào nhà mình sau phút giao thừa. Do muốn được may mắn, mọi người hay tìm người hợp tuổi đến xông nhà. Nhưng thuyết về hợp tuổi cũng lắm, nên nhiều người vẫn cứ phân vân không biết mời ai, và rồi nhiều khi đành tự mình xông nhà cho xong.
Thực ra bình thường chủ nhà tự xông nhà cho mình cũng được, còn khi vào năm xấu, như năm tuổi, hoặc phạm sao xấu thì cũng nên nhờ người hợp tuổi với mình, hoặc tìm con cháu trong nhà hợp tuổi với mình để xông nhà, sẽ giúp cho mọi chuyện trong năm đó được thuận lợi hơn. Cũng do nhiều người kiêng, chỉ muốn người hợp tuổi xông nhà cho nên sáng mùng 1 cũng ít người đi chúc Tết, vì sợ không hợp tuổi gia chủ, mang lại điềm xấu.
- Tục khai bút: Ai cũng muốn năm mới vận hội mới, làm ăn suôn sẻ, nên trước giao thừa hay lấy bút, sổ tay mới, mong muốn làm gì trong năm mới thì ghi vào sổ. Qua giao thừa, giờ Tý - Sửu hạ bút và sổ xuống. Khai bút khác với khai nghề, thuần túy là ghi mong muốn của cá nhân, hoặc gia đình vào quyển sổ, vừa để may mắn, vừa tăng quyết tâm thực hiện mục tiêu đề ra.
Theo Nguyễn Mạnh Linh - VnExpress
Súng to và Người Việt phát minh ra máy ATM
đăng 18:04, 14 thg 1, 2014 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 18:09, 14 thg 1, 2014 ]
Một khẩu súng bắn chim (punt-gun) được dùng để săn vịt trời vào thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20.
Một phát duy nhất có thể hạ được hơn 50 con chim đang nghỉ ngơi trên mặt nước. Những khẩu súng này quá lớn để mang vác và độ giật quá mạnh nên chúng thường được gắn lên những chiếc thuyền đáy bằng (punt) và đó là nguồn gốc cho cái tên của chúng.
Người phát minh ra máy ATM
“Bạn có tin cha đẻ ATM là người Việt Nam không?”. Ai cũng nghĩ đó có thể là người Anh, người Pháp, người Mỹ hay một người nước nào đó nhưng không ai nghĩ đó là người Việt Nam. Sự thật là phát minh đó mang tên một người Việt Nam – Ông Đỗ Đức Cường.
Nếu Luther George Simjian là người đầu tiên thiết kế và hoàn thành máy rút tiền trên thế giới vào năm 1939 tại NewYork (Citi Bank), John Shephrd-Barron là người cho ra đời máy rút tiền điện tử đầu tiên (Anh) vào năm 1967. Thì Đỗ Đức Cường, một tiến sĩ người Việt Nam là người đã hoàn thiện cơ bản cấu trúc cốt lõi và mở rộng hệ thống ATM ra thị trường như hiện nay.
Ông là tác giả của trên 50 phát minh sáng chế, 20 năm làm việc tại ngân hàng Citibank - Mỹ, chuyên viên cao cấp cho ngành ngân hàng Hoa Kỳ. Sau khi trở về Việt Nam năm 2003, ông là cố vấn cao cấp cho ngân hàng Đông Á.
Ông được mời đến Citibank (Mỹ) làm việc cùng đề nghị: “Dùng kĩ thuật để kiếm cho ngân hàng 1 tỉ khách hàng”. Mục tiêu của ông lúc này là “bình dân hóa dịch vụ ngân hàng” để cô bán cà phê, anh lái xe ôm cũng có thể giao dịch với ngân hàng. Sau đó ông phát minh ra máy ATM, đây chính là bước tiến lớn của nhân loại trong lĩnh vực ngân hàng.
Người tu hành khổ hạnh cuối cùng của đạo Dừa ở Việt Nam
đăng 20:56, 2 thg 1, 2014 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 15:07, 28 thg 2, 2014 ]
17 năm tịnh khẩu (không nói), 7 tháng ngồi thiền trên ngọn cây chỉ uống nước không ăn, phương pháp tu hành vô cùng kỳ lạ của phái đạo Dừa đã khiến nhiều đệ tử sống dở chết dở.
"Tịnh khẩu" để siêu thoát
Đạo Dừa ra đời vào những năm 40 - 50 của thế kỷ trước. Đạo Dừa không ăn sâu bén rễ vào đời sống như là một tôn giáo đúng nghĩa, bởi bản thân đạo này không có giáo lý, cũng như người đứng đầu như các tôn giáo khác. Người chủ trương sáng lập là ông Nguyễn Thành Nam (1910-1990, ngụ xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, Bến Tre). Ông vốn là một kỹ sư Tây học thức thời. Sau khi làm kinh doanh thất bại, cùng một số uẩn khúc đời tư, ông đã bỏ tất cả và đi tu.
Lối tu của ông vô cùng khổ hạnh và kì lạ. Ông uống nước dừa, ăn chay trường, niệm Phật để mong đạt đến một cảnh giới nào đó cho bản thân được giải thoát. Chính vì đặc trưng uống nước dừa để tu nên dân gian gán cho ông biệt danh là đạo Dừa và xem ông với tư cách giống như là giáo chủ của phái tu hành này.
Quá trình tu, ông đạo Dừa cho đệ tử chặt một cây dừa cao, đóng một nền ván hình bát quái ở trên, dựng ngay sát bờ sông Tiền, ông treo mình lên đó ngồi thiền ngày này qua tháng khác. Sau này, sang Cồn Phụng (cù lao nằm giữa sông Tiền chảy qua Tiền Giang), ông đạo Dừa còn cho người làm thêm chiếc đài cao ngót 20m để ông tiếp tục lên ngồi thiền. Ngày nay, cột tháp đó vẫn sừng sững ở trên Cồn Phụng và được cho là điểm du lịch tạo sự hiếu kì muôn thuở đối với du khách. Cồn Phụng từ một bãi bồi hoang vu giữa sông Tiền bỗng chốc sầm uất, ngày ngày vang lên tiếng kinh cầu, người người lui tới tấp nập. Sinh thời, ông đạo Dừa tự đặt cho Cồn Phụng cái tên mỹ miều là "Đại giang sơn Cồn Phụng".
Nói về đạo Dừa thì có vô vàn những điều lạ lùng, từng tốn không ít giấy mực của báo chí và các nhà nghiên cứu văn hóa. Bởi, người ta khó có thể lý giải được sự kì dị trong chủ trương tu của ông đạo Dừa. Lúc còn sống, có giai đoạn ông tự đặt lối tu vô cùng hà khắc, như: Uống nước, ăn rau, ngủ ngồi, không tắm, tịnh khẩu… năm này qua tháng nọ. Thế nhưng, có rất nhiều người theo ông đạo Dừa nhận làm sư phụ. Họ tự tu theo sự khổ hạnh của ông và có những người từng đạt được những khả năng khó tưởng tượng. Trong một tài liệu ghi lại tại khu lưu niệm đạo Dừa tại Cồn Phụng có ghi những "kỷ lục" kinh ngạc của ông tổ đạo Dừa: "3 năm ngồi tại núi Tượng (An Giang), 3 năm ngồi ở mé sông Cửu Long; 23 năm không ăn các thứ bột ngọt; 21 năm không ăn muối, đường; 24 năm không tắm; 14 năm tịnh khẩu…".
Năm 1968, vùng Cồn Phụng, nơi ông đạo Dừa hành đạo, quy tụ nhiều thanh niên trốn lính đi tu, chính quyền Sài Gòn cũ biết nhưng không làm gì được. Nghe tin đây là nơi an toàn, ông Nguyễn Thái Hoàng cũng tìm đến cúi đầu trước ông đạo Dừa xin nhận làm đệ tử. Tại đây, ông được vị giáo chủ này đặt tên là đạo Hoàng (theo quan niệm của đạo Dừa, nam là "đạo", nữ là "diệu" gắn với tên thật). Từ đây cuộc đời ông đạo Hoàng gắn với những tháng ngày đọc kinh, cầu nguyện và sống theo lý tưởng là sẽ được giải thoát bằng con đường tu khổ hạnh.
Ông đạo Hoàng trở về được ca ngợi như một tiên ông đắc đạo. .
Đạo Dừa thời gian đầu có yếu tố hướng đạo, giúp người ta tu tâm, dưỡng tính, sống theo đạo lý nên có nhiều người theo. Tuy nhiên, càng về sau, bản thân ông đạo Dừa đã sáng tạo ra những lối tu kì dị, có lẽ vì thế mà tư tưởng không còn ăn sâu bén rễ trong đời sống tinh thần của người dân ở Bến Tre.
Nhiều người dần bỏ đạo trở về với đời thường, tín đồ vơi dần, luật tu bắt đầu pha trộn những kiểu hỗn tạp, không có một con đường tu thống nhất. Riêng ông đạo Hoàng quyết định rời "Đại giang sơn Cồn Phụng", tìm về núi Cấm ở Châu Đốc (An Giang) quyết tâm tịnh tu theo sư phụ đạo Dừa.
"Hành xác" trên ngọn cây
Trên đỉnh núi Cấm, ông đạo Hoàng tìm đến một hốc đá có 3 hòn nhỏ dựng đứng, có một cây đa cổ thụ gần như bao trùm lên ba hòn nhỏ này, bốn bề xung quanh yên ắng. Vượn kêu, chim hót rợn người. Nhận thấy đây là địa điểm tu lý tưởng, ông đạo Hoàng quyết định dừng chân, dựng căn lều tạm bên dưới.
Cồn Phụng, nơi khai thiên lập địa phái tu đạo Dừa..
Cây đa ông chọn ở đỉnh núi Cấm làm đài tu cao khoảng 20m, bên trên ông làm một nền 8 cạnh, trên có lọng che phòng trừ trời mưa, dọc thân cây có bậc đi lên. Thời gian tu hành ở trên núi, hầu như ông không ở dưới mái lều mà chỉ ngồi trên cây để thiền và tịnh khẩu. Mọi giao tiếp với bên ngoài ông đều viết qua một tờ giấy và nhờ người bạn thân làm giùm.
Tuy nhiên, với nhu cầu của một người tu kì lạ thì việc sinh hoạt, ăn uống không phải là vấn đề cốt yếu. Ban đầu ông chỉ ăn rau, trái cây, những ngày sau đó ông ăn ít dần và chuyển sang uống nước nhiều hơn.
Chính vì sự khổ hạnh khó hiểu này mà ông trở thành tâm điểm cho những người hiếu kỳ tại vùng đất mới. Hằng ngày có rất nhiều người từ khắp nơi tìm đến xem ông ngồi trên cây tu như một sinh vật kỳ lạ. Người ta xì xào, bàn tán nhiều và cho rằng, thần kinh ông bất bình thường. Có người sợ ông chết nên đã dọa rằng, nếu ông không xuống sẽ cho người đốn cây, nhưng ông nhất định không xuống. 9 năm tu hành khổ hạnh, ông chỉ ăn rau rồi dần dần ông tuyệt thực luôn mà chỉ uống nước.
7 tháng cuối cùng trước khi "hạ sơn", ông chỉ uống nước, chủ yếu là nước mía và nước trái cây, chứ tuyệt đối không ăn thứ rau quả nào khác. Ngày lẫn đêm, ông ngồi khoanh chân chữ ngũ thiền chót vót ở "đàn bát quái" trên ngọn cây. Ông không tắm, ít đi đại tiện. Khi nào cần uống nước thì có người bạn dùng ròng rọc kéo thùng lên cho ông uống. Nơi ông tu, nếu đứng dưới nhìn lên hệt như một tổ vượn. Ông chỉ xuống gốc cây khi nào có việc cần thiết, đặc biệt ông không bao giờ nói. Chính vì kiểu tu lạ lùng này nên từng có thời điểm người người hiếu kì khắp nơi đổ về xem. Tin đồn ông là "tề thiên, là thánh sống" lan nhanh khắp các tỉnh miền Tây.
Một trong những kiểu tu "hành xác" của đạo Dừa..
Ông im lặng theo lối tu hành và chẳng cần nghe ý kiến, lời khuyên từ ai. Người ta dần quen với cái sự lạ đời ấy của ông. Không ai quan tâm nữa, mặc kệ cho ông tu trên ngọn cây. Bỗng một hôm, có người nhìn từ dưới lên thấy ông như một pho tượng bất động. Lạ quá, người này trèo lên xem thế nào thì ông gần như không còn biết gì nữa. Tình trạng quá nguy cấp, người này hô hoán bà con xung quanh làm ròng rọc để ông ngồi vào chiếc lồng như lồng chim, thòng từ ngọn cây xuống. 9 năm trời mới xuống đất, ông ngơ ngác với mọi thứ. Tu luyện khổ hạnh suốt thời gian dài khiến thân hình ông tiều tụy đi rõ rệt. Từ một người đàn ông cao lớn vừa bước qua tuổi 40, thân hình vạm vỡ, lên núi tu được mấy năm đã trở nên già khọm hom hem. Đôi mắt ông sâu hoắm, chân tay nổi gân cốt, da sạm đen, nhăn nheo.
Mái tóc ông dài như con rồng quấn quanh thân, đôi mắt lờ đờ sâu hoắm, miệng không nói được nữa. Ông cũng không còn tự đi được, mọi người phải cho ăn uống điều độ ông mới trở lại trạng thái bình thường. Chính bản thân cũng không hiểu vì sao ông có khả năng sống được trong 7 tháng ròng không ăn mà chỉ uống nước. Rơi vào trạng thái tu hành, ông đã đạt đến độ không còn nhận thức được sự sống của mình, người kiệt đi vì thiếu chất. Tính tổng khoảng thời gian tu hành, ông đạo Hoàng đã tịnh khẩu suốt 17 năm trời. Miệng không nói trong một thời gian dài khiến bộ phận cấu âm trở nên cứng. Về sau, khi ông quyết định "khai khẩu" thì rơi vào trạng thái cứng lưỡi, như một đứa trẻ mới tập nói.
Sau lần tu đạt ngưỡng sắp về cõi vĩnh hằng, ông đạo Hoàng thấy đó là sự kì dị, bản thân lạc lõng ngoài xã hội, vì vậy ông quyết định xuống núi về lại quê nhà tại ấp Mỹ An (xã Mỹ Phong, TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang). Sau nhiều năm "thoát trần", ông không bắt nhịp được với cuộc sống phố thị khó khăn bên ngoài, trong lúc này cha mẹ đã già yếu.
Ngoài 60 vẫn cô độc, ông quyết định học làm đậu hũ, bán cho các chùa và những phật tử ăn chay. Ngẫm lại quãng thời gian tu kiểu "hành xác", ông tự nhận thấy bản thân mình đã tu một cách mê muội, tự hành hạ thân thể đúng hơn là tìm hướng giải thoát vào cõi niết bàn. Từ ngày được cẩu từ ngọn cây xuống, vị đệ tử thứ nhất của ông đạo Dừa không còn giữ lối tu hà khắc xưa nữa. Ở đây không ai biết ông là người từng gắn bó tu hành với ông đạo Dừa, cũng chẳng rõ ông tu theo phái nào. Nhưng tin ông đột ngột trở về mang hình hài đặc trưng, giống hệt những đạo sĩ đến từ một miền non cao nào đó, thì nhiều người đã đổ xô đến cầu phép, xin lộc khiến ông mất ăn mất ngủ dài ngày.
Theo Công An Nhân Dân
HỐI LỘ Ở CỬA PHẬT THEO CÁCH NHÌN CỦA PHẬT TỬ
đăng 13:49, 15 thg 12, 2013 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 13:52, 15 thg 12, 2013 ]
Phật tử Phúc Thịnh
Có người nói rằng: “Đến Đường Tăng đi lấy kinh cũng phải hối lộ. Bước chân sang nước Phật đã phải hối lộ..." là có ý nói việc hối lộ không những là bản tính của tất thảy con người phàm tục, mà ngay cả những con người ở thế giới thanh tịnh được coi là đã diệt trừ được Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác kiến cũng vẫn có chuyện tham nhũng và hối lộ. Nói như thế là để ngụ ý: việc chống tham những là việc cực kỳ khó, và không chống được tham nhũng cũng là điều hết sức hiển nhiên.
Vâng, việc chống tham nhũng đương nhiên là khó. Nói là khó, nhưng nếu thực tâm thì vẫn có cách tốt hơn rất nhiều để hạn chế việc này. Ở đây, tôi không bàn đến việc chống tham nhũng được hay không, cũng không bàn đến việc hạn chế tham nhũng bằng cơ chế ưu việt nào, mà chỉ bàn đến một khía cạnh mà người ta hay hiểu nhầm về đoạn kết của câu chuyện Tây Du Ký.
Lòng người luôn tham dường như là đúng. Chúng ta luôn muốn có nhiều, nhiều hơn nữa những giá trị về mọi mặt. Những giá trị ấy nhìn dưới góc độ Phật giáo thì chỉ là phù du, bóng nước. Phật chỉ thừa nhận có 2 giá trị thực sự mà thôi, đó là sức khỏe và trí tuệ. Ngoài 2 giá trị Sức khỏe và Trí tuệ ra, các giá trịcòn lại khác chỉ làm cho con người luẩn quẩn lâu hơn mà không thể liễu thoát sanh tử, không thể Đáo Bỉ Ngạn, hay không thể đạt đến cảnh giới Niết bàn và thành Phật được. Nhà Phật thường nói: muốn đến Niết Bàn, chứng đắc thành Phật thì con người phải biết từ bỏ Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác kiến. Vậy, làm thế nào để từ bỏ những điều trên? Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác kiến từ đâu mà ra? Vâng, nếu biết những điều trên từ đâu mà ra thì giải trừ nó mới dễ dàng, giống như người chuyên gia chăm sóc sức khỏe, nếu biết rõ nguyên nhân vì sao bạn bị bệnh, thì mới mong cải thiện được nó. Nhà Phật xác định rõ nguyên nhân của Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác Kiến là do thái độ Tư Tình và Tư Sản tạo ra. Vâng, đúng vậy. Nếu chúng ta không đau đáu về tình cảm riêng (nghĩa rộng) và tài sản riêng thì Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi và Ác kiến sao dễ dàng nổi nên cho được. Vậy, trong truyện Tây Du Ký thì cái bát vàng chính là vật đại điện cho cả Tư Tình và Tư Sản của Đường Tăng. Mặc dù trong đời sống xuất gia, bình bát vốn là biểu tượng của nhà tu khất thực (khất sĩ trì bát). Nhưng ở đây, chiếc bình bát của Đường Tam Tạng nguyên là của vua Đường tặng cho ngự đệ (em vua) kết nghĩa – đó chính là Tư tình. Bình bát ấy bằng vàng – một l thứ kim loại quý hiếm – đó chính là Tư sản. Vì vậy, bình bát của Đường Tăng trong tình huống này tượng trưng cho của cải, tình riêng và danh vọng ở thế gian. Để nhận kinh báu của Phật, thì buộc phải dâng nạp bình bát là ngụ ý: muốn thọ lãnh đạo giải thoát của Phật, con người phải xuất gia, phải lìa bỏ danh vọng và của cải thế tục.
Ngày xưa, khi Thái tử Cồ đàm tìm đạo giải thoát, Ngài đã phải đánh đổi cả ngai vàng, vợ đẹp, con thơ, cả cuộc sống nhung lụa đế vương. Ngay ở Việt Nam ta cũng vậy, thì khi vua Trần Nhân Tông đi tìm đạo giải thoát cũng phải bỏ lại tất cả, ngai vàng, quyền lực, tam cung, lục viện.v.v…lấy đạo hiệu là Điều NgựGiác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà) và tu hành, thì mới được người đời sau cung kính gọi là “Phật Hoàng”.
Tóm lại, việc buộc Đường Tăng phải trao bát vàng trước khi nhận kinh Phật là phương pháp áp dụng trực tiếp trong hoàn cảnh cụ thể của Đường Tăng, đểdiệt trừ Tư tình, diệt trừ Tư sản, loại bỏ mọi của cải và danh vọng của thế tục, diệt cái cội nguồn của tham, sân, si, mạn, nghi và ác kiến, chứ không phải là vấn đề tham lam, hay hối lộ gì ở nơi nước Phật.
Vài lời ngắn ngủi xin được chia sẻ với những ai còn hiểu nhầm, hay cố tình hiểu nhầm để làm gì đó. Xin cảm ơn.
Nam Mô A Di Đà Phật!
đăng 21:17, 23 thg 11, 2013 bởi Lưu Xuân Cảnh [ đã cập nhật 14:09, 15 thg 12, 2013 ]
Trong Bảo tàng Quang Trung ở huyện Tây Sơn có treo nhiều bức tranh mô tả các sự kiện nhà Tây Sơn. Trong đó, có một bức tranh vẽ cảnh một ông già ngồi trên chiếc thang mọi người khiêng đi, xung quanh có nhiều người hộ giá, kẻ vác cào cỏ, người cầm chĩa ba... Trông ông già không phải là một quan lớn, cũng không phải là "thảo dân". Bởi quan lớn của triều đình nhà Tây Sơn thì phải có mũ mão cân đai, người theo hầu phải là quân lính... Còn là nông dân thì sao lại được ngồi trên cao, kẻ hầu người hạ. Sự thật ông ta là một nông dân ở thôn Bằng Châu, huyện Tuy Viễn, thuộc nhà họ Đinh, tên Chảng. Vì sao ông được Vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) trọng vọng như vậy?
Như chúng ta đã biết, tổ tiên của nhà Tây Sơn vốn họ Hồ, ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Họ Hồ vào lập nghiệp ở đất Quy Nhơn thời Thịnh Đức nhà Lê (1653-1657) ở Đàng Ngoài và thời Chúa Nguyễn Phúc Tần ở Đàng Trong. Lúc mới vào Quy Nhơn, ông Hồ Phi Long (tức ông cố của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ) đến ở và giúp việc cho nhà họ Đinh ở Bằng Châu. Thấy họ Hồ là người trung hậu, họ Đinh gả con gái cho. Ông Hồ Phi Long sinh ra Hồ Phi Tiễn, ông Tiễn lanh lợi nhưng sức yếu không thể làm nông và được họ Đinh giúp vốn để đi buôn. Thời bấy giờ trầu nguồn có giá, ông Tiễn lên đất Tây Sơn buôn trầu. Ở đây ông gặp người vừa ý là bà Nguyễn Thị Đồng, bèn kết nghĩa vợ chồng và cất nhà ở luôn quê vợ. Bà Đồng là con gái duy nhất của một phú thương, để kế tục gia tài và đời đời giữ hương hỏa họ Nguyễn, bà thương lượng cùng chồng cho con mang họ Nguyễn. Vì vậy, khi sinh con ông Tiễn đặt tên con là Nguyễn Phi Phúc. Lớn lên ông Phúc kế tục nghề buôn trầu và kết duyên cùng bà Mai Thị Hạnh để sinh ra ba anh em nhà Tây Sơn.
Sau khi sửa sang thành Quy Nhơn đổi thành Thành Hoàng Đế và xưng Vương, trong lúc phong đặt các tướng, thiết lập nội triều, ban thưởng chức tước cho những người có công, vua Thái Đức đã không quên tổ tiên bên ngoại của mình là họ Đinh ở Bằng Châu. Lúc này, họ Đinh không còn ai, chỉ còn một ông lão trên bảy mươi tuổi, tính khí ngang tàng bướng bỉnh, người trong vùng gọi là ông Chảng. Nhà vua mời ông lão vào triều để phong tước, ông lão nói: "Ông làm vua là làm vua với thiên hạ, chứ với tôi ông vẫn là con cháu. Con cháu mà ban chức tước cho cha ông thì hơi nghịch, chi bằng để tôi phê rồi ông lục thì hơn...". Nhà vua chiều theo ý ông lão. Ông lão cầm bút viết: "Bùng binh chi tướng. Uýnh cương chi quan. Bộn bàng chi chức. Chảng chảng ngang thiên". Như vậy, ông không có chức tước gì cụ thể, nhưng chức gì cũng có, từ tướng tới quan... và đó là ông Chảng ngang thiên. Tức là ngang với ông trời (trên cả vua, vì vua mới chỉ là "con trời"). Thực ra, ông có tự phong mình chức gì thì cũng chẳng sao, nên nhà vua để cho ông toại nguyện. Mặc dù ngang tàng, bướng bỉnh nhưng tính tình cương trực, nên ông Chảng được nhiều người dân trong vùng tôn trọng.
Mỗi lần ông lão vào thăm vua Thái Đức, thì thường ngồi trên một cái ghế thang có bốn người khiêng, hai bên có vài chục người cầm cào cỏ, cuốc chỉa, xuổng... là những dụng cụ làm nông thay cho cờ biển hèo tua, và hai cây du du che nắng khi tát nước dùng làm lọng. Phía sau, phía trước lại có hai đoàn người thổi kèn, đánh trống bằng miệng tưng bừng rộn rịp, mọi người kéo ra xem rất đông, vui như hội.
Hình ảnh ông Chảng còn lưu truyền trong ký ức của người dân Bình Định từ các câu chuyện kể. Đó là một nhân vật đặc biệt, có một không hai.