CỜ THẦN LƯU TỘC
*
Hồn thiêng Lưu tộc dệt cờ thần
Hiệu triệu cháu con xích lại gần
Thủy tổ ngàn đời còn sáng đức
Hậu hiền vạn thế mãi ngời nhân
Hoài mong gắn kết nồng tình cảm
Mãi ước buộc ràng thắm nghĩa ân
Chung sức ông cha đà tạo dựng
Đồng lòng gìn giữ chớ chia phân.
*
LXC
Phả hệ Họ Lưu ở An Hậu, Ân Phong, Hoài Ân, Bình Định được hình thành từ năm 1998, cuối năm 2012 đã cập nhật trên 1.400 thành viên cả ngành ngoại. Kính mong mọi người hãy cung cấp thông tin, góp ý bổ sung nhằm hoàn thiện phả hệ nầy để lưu truyền cho con cháu mai sau về lịch sử phát triển của dòng tộc.
Mời kích vào mục Phả hệ phả đồ để xem chi tiết từng thành viên
GIA PHẢ
TỘC Họ Lưu - Bình Định
Lời nói tiêu biểu của học tộc
Hiếu thuận nếp nhà luôn gìn giữ Tình thâm dòng tộc mãi khăc ghi
Ở tại
An Hậu, Ân Phong, Hoài Ân, Bình Định
Các ngày lễ giỗ:
Ngày tế xuânkhông rõ
Ngày tế thu không rõ
Ngày hội mãMùng 4,6,8,10,12 tháng Chạp
Tổng quan gia phả:
Số đời từ thuỷ tổ tới con cháu10
Số lượng gia đình: 873
Số người: 1227
Thông tin người quản lý gia phả này:
Người làm: Ông Lưu Xuân Cảnh
Địa chỉ:
Điện thoại:
Email: camhue ở gmail.com
Gia Phả Họ Lưu
GIA PHẢ
TỘC Họ Lưu _ Phái 4 - Bình Định
Lời nói tiêu biểu của học tộc
Hiếu thuận nếp nhà luôn gìn giữ Tình thâm dòng tộc mãi khăc ghi
Ở tại
An Hậu, Ân Phong, Hoài Ân, Bình Định
Các ngày lễ giỗ:
Ngày tế xuânkhông rõ
Ngày tế thu không rõ
Ngày hội mãMùng 10 tháng Chạp
Tổng quan gia phả:
Số đời từ thuỷ tổ tới con cháu8
Số lượng gia đình: 287
Số người: 416
Thông tin người quản lý gia phả này:
Người làm: Ông Lưu Xuân Cảnh
Địa chỉ:
Điện thoại:
Email: camhue ở gmail.com
Gia Phả Họ Lưu _ Phái 4
HÌNH ẢNH - ÂM THANH
của các thành viên gia đình
Xem ĐIẾU VĂN (Lời chia buồn, Lời vĩnh biệt) trong đám tang TẠI ĐÂY
Điếu văn Sáu Suông Xem TẠI ĐÂY
NHỊ THẬP TỨ HIẾU
Tiểu sử tác giả
Lý Văn Phức tự là Lân Chi, hiệu là Khắc Trai, người làng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Hà Nội, sinh vào năm Ất Tỵ (1785). Ông thi đỗ cử nhân vào năm 1819, niên hiệu Gia Long thứ 18. Ông trải ba triều vua: Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Ðức.
Trong cuộc đời làm quan, ông bị nhiều lần thăng giáng, và được cử đi công cán nhiều nước ở Viễn đông. Vào năm 1849, ông bị bệnh mà mất, nhà vua liền cho truy thụ Lễ Bộ Hữu Thị Lang.
- Nhị Thập Tứ Hiếu diễn âm (hai mươi bốn truyện hiếu diễn ra quốc âm).
Nhị Thập Tứ Hiếu
Người tai mắt đứng trong trời đất,
Ai là không cha mẹ sinh thành,
Gương treo đất nghĩa, trời kinh,
Ở sao cho xứng chút tình làm con.
Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết,
Thì suy ra trăm nết đều nên,
Chẳng xem thuở trước Thánh Hiền,
Thảo hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu
TRUYỆN THỨ I
Ngu Thuấn
Một vị vua trong Ngũ Đế thời thượng cổ họ Diêu tên là Thuấn, một trang hiếu tử. Sau được vua Nghiêu, hiệu là Đào Đường gả hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh, rồi lại truyền ngôi báu cho. Vua Thuấn lên ngôi đặt niên hiệu là Đường Ngu.
Nguyên cha của Thuấn là người hung bạo, không biện biệt được người hay kẻ dỡ, người đương thời đặt tên là Cổ Tẩu (người mù mắt). Mẹ của Thuấn mất sớm, Cổ Tẫu tục huyền với người đàn bà sau này sinh ra Tượng. Vì có lời gièm pha của người kế mẫu và đứa em ngỗ nghịch cùng cha khác mẹ, Cổ Tẫu không ưa Thuấn và định bụng giết đi. Biết thế, nhưng Thuấn vẫn trọn gìn chữ hiếu đối với cha và người dì ghẻ ác nghiệt, hòa thuận với đứa em độc ác, không một lời than oán. Khi cha bắt đi cày ở đất Lịch Sơn cốt tìm cách trừ đi, vì nơi đây có tiếng là nhiều thú dữ hay ăn thịt người. Nhưng tấm lòng hiếu thảo và hòa mục của Thuấn động đến lòng trời, cả đàn voi ra giúp Thuấn cày đất và muông chim vô số đáp xuống nhặt cỏ hộ. Thấy không hại được Thuấn Cổ Tẫu và người dì ghẻ sai Thuấn đánh cá ở Hồ Lôi Trạch, nơi có nhiều sóng to gió lớn, nhưng khi Thuấn đến thì sóng lặng gió yên.
Đến khi được vua Đường Nghiêu truyền ngôi, suốt 18 năm trị vì, Đế Thuấn chỉ ngồi gảy đàn hát khúc Nam Phong mà trị bình thiên hạ, nhà nhà đều lạc nghiệp âu ca.
Nguyên Bản:
Đội đội canh điền tượng,
Phân Phân vân thảo cầm,
Phụ Nghiêu đăng báo vị,
Hiếu cảm động thiên tâm
Có nghĩa là
Hàng đàn voi về cày ruộng,
Hàng bầy chim đến nhặt cỏ,
Giúp vua Nghiêu lên ngôi báu,
Hiếu thảo động lòng trời.
Diễn Quốc Âm:
Đức Đại Thánh họ Ngu, vua Thuấn,
Buổi tiềm long gặp vận hàn vi,
Tuổi xanh khuất bóng từ vi
Cha là Cổ Tẫu người thì ương ương,
Mẹ ghẻ tính càng thêm khe khắt,
Em Tượng thêm rất mực điêu ngoa,
Một mình thuận cả vừa ba,
Trên chiều cha mẹ dưới hòa cùng em.
Trăm cay đắng một niềm ngon ngọt,
Dẫu tử sinh không chút biến dời,
Xót tình khóc tối kêu mai
Xui lòng ghen ghét hóa vui dần dần,
Trời cao thẳm mấy lần cũng đến
Vật vô tri cũng mến lọ người.
Mấy phen non lịch pha phôi,
Cỏ chim vì nhặt, ruộng voi vì cày.
Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh,
Mệnh trương dung trao chánh nhường ngôi
Cầm thi xiêm áo thảnh thơi,
Một nhà đầm ấm, muôn đời ngợi khen.
TRUYỆN THỨ II
Văn Đế
Tên thật là Hằng, con người vợ thứ của Hán Cao Tổ Lưu Bang em cùng cha khác mẹ với vua Huệ Đế. Vì người vợ cả của Hán Cao Tổ có tính hay ghen dữ tợn và sợ con của người vợ thứ sau này giành ngôi, nên không muốn cho Hằng và mẹ là Bạc Hậu ở triều. Theo lời đề nghị của đình thần, vua Hán Cao Tổ liền phong cho Hằng chức Đại Vương ở đất Đại. Hằng tính tình hiếu thuận được triều thần nhà Hán cũng như thần dân đều mến phục. Sau khi anh là vua Huệ Đế mất, không con nối nghiệp, các quan liền ra đất Đại rước Hằng về lên ngôi, tức là Hán Văn Đế. Khi làm vua rồi, mẹ là Bạc Hậu lại đau yếu trong suốt ba năm liền, Văn Đế, ngoài những buổi chầu, vẫn mặc đại phục của vị Vương đế mà đứng hầu mẹ, biếng ăn, bỏ ngũ, đêm thức canh chừng bệnh mẹ. Thường ngự y dâng thuốc lên, Văn Đế đở lấy rồi nếm trước sợ có thuốc độc.
Các quan trong triều cũng như ngoài dân chúng biết Văn Đế là người hiếu tử đều bắt chước theo. Nhờ đó, người trong nước đều giữ lòng hiếu thảo hòa mục và thiên hạ thái bình thạnh trị không khác gì ở thời Tam Đại thuở trước. (Tam Đại gồm có các đời vua nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu).
Nguyên bản:
Nhân hiếu lâm thiên hạ,
Nguy nguy quân bách Vương,
Hán đình sự hiền mẫu,
Thang dược tất tiến thường.
Có nghĩa là:
Lấy đạo nhân hiếu dạy thiên hạ,
Công đức cao hơn trăm vua khác,
Phụng dưỡng mẹ nơi công đình nhà Hán,
Thuốc thang tự tay nếm trước.
Diễn Quốc Âm:
Kìa Văn Đế vua hiền Hán Đại,
Vâng ấn phong ngoài cõi phiên Vương,
Quên mình chức cả quyền sang,
Phụng thờ Bạc Hậu lẽ thường chẳng sai,
Đến khi nối ngôi trời trị nước,
Vẫn lòng này săn sắc như xưa.
Mẹ khi ngại gió kinh mưa.
Ba năm hầu hạ thường như một ngày.
Mắt chong bóng dám sai giấc ngủ.
Áo luôn mình dám sổ đai lưng.
Thuốc thang mắt xét tay nâng.
Có tường trong miệng mới dâng dưới màn.
Tiếng nhân hiếu đồn vang thiên hạ,
Thói thuần lương hóa cả lê nguyên,
Hai mươi năm lẽ kiền khôn.
Đã sau Tam Đại, hãy còn Thành, Khang.
Ấy hai vị đế Vương đời trước,
Chữ hiếu dành đá tạc vàng in,
Còn ra sĩ thứ, đấng hiền.
Đếm xem mấy kẻ tiếng truyền đến nay.
TRUYỆN THỨ III
Tăng Tử
Tên là Sâm, tự là Tử Dư, người ở ấp Vũ Thành thuộc nước Lỗ, sinh vào đời Xuân Thu, là học trò giỏi nhất của Khổng Tử. Tăng Tử được liệt vào hàng tứ phối, nghĩa là trong số bốn người, cùng được phối hưởng với Khổng Tử. Ông thờ cha mẹ rất hiếu thảo, bữa ăn nào cũng cố gắng tìm đũ rượu thịt cho cha mẹ dùng. Khi cha mẹ dùng bữa xong, còn thừa món ăn nào, ông hỏi cha mẹ cho ai thì ông vâng mà cho người ấy. Một hôm ông vắng nhà để vào rừng kiếm củi, có người khách đến chơi, mẹ ông muốn cho ông về ngay, nhưng không biết phải làm cách nào, liền cắn vào đầu ngón tay để động lòng con mình. Quả nhiên ở trong rừng ông cảm thấy trong lòng quặn đau, vội vã gánh củi về nhà.
Nguyên bản:
Mẫu chỉ tài phương khiết,
Nhỉ tâm thống bất căm,
Phụ tân qui vị vãn,
Cốt nhục chí tình thâm.
Có nghĩa là:
Mẹ vừa cắn ngón tay,
Con quặn đau trong dạ,
Vội vàng đội cũi về,
Cốt nhục tình linh cảm.
Diễn Quốc Âm:
Đời Chu Mạt có thầy Tăng Tử,
Thờ mẹ cha thời giữ chí thành,
Bữa thường rượu thịt ngon lành,
Cho ai, vâng cứ đinh ninh chẳng rời,
Nhà bần bạc thường vui hái củi,
Quảng mù xanh thui thủi non sâu.
Mẹ ngồi tựa cửa bóng sau,
Nhân khi khách đến trông mau con về.
Rối trong dạ nhân khi cùng túng.
Cắn ngón tay cho động lòng con.
Trông non bỗng chốc bồn chồn.
Quặn đau khúc ruột bước dồn gót chân.
Quỳ dưới gối ghé gần thưa hỏi.
Lắng bên tai nghe giải nguồn cơn.
Cho hay từ hiếu, tương quan.
Non Đồng khi lỡ, khôn hàn tiếng chuông.
TRUYỆN THỨ IV
Mẫn Tử Khiên
Tên chữ là Tồn, học trò Khổng Tử, sinh vào đời Xuân Thu, mẹ ông mất sớm, người cha có vợ khác và sinh hạ được hai con. Người dì ghẻ đối với ông vô cùng khắc nghiệt, nhưng ông vẫn một lòng hiếu thuận. Mùa Đông giá rét, hai con riêng của bà thì được mặc áo lót bông, riêng Mẫn Tử Khiên thì mặc áo độn hoa lau ở bên trong. Tuy không đủ ấm, nhưng ông chẳng bao giò hở môi. Một hôm, cha ông dạo chơi ông theo đẩy xe, vì quá rét, tay cóng lại rời tay xe ra. Cha ông thấy thế biết là người kế mẫu ác nghiệt để cho ông chịu rét lạnh, liền có ý định đuổi người đàn bà cay nghiệt kia đi. Ông khóc lóc và kêu van với cha xin đừng đuổi kế mẫu đi. Vì người kế mẫu còn, chỉ có mình ông chịu rét, nếu bà đi rồi, cả hai em chịu rét và khổ sở lây. Cha ông nghe theo, và người kế mẫu hiểu biết chuyện hiếu thảo của người con chồng, từ đó bà thay đổi cách cư xử và trở nên bậc hiền mẫu.
Nguyên Bản:
Mẫn thị hữu hiền lang,
Hà tằng oán văn nương,
Đường tiền lưu mẫu tại,
Tam tử miễn phong sương
Có nghĩa là:
Nhà nọ mẫn có đứa con hiền,
Không bao giờ oán trách mẹ kế,
Trước mặt cha xin mẹ kế ở lại,
Để ba con cùng khỏi phải khổ sở
Diễn Quốc Âm:
Thầy Mẫn Tử rất đường hiếu nghĩa,
Xót nhà huyên quạnh quẽ đã lâu,
Thờ cha sớm viếng khuya hầu.
Chẳng may gặp phải mẹ sau nồng nàn.
Trời đương tiết đông hàn lạnh lẻo.
Hai em thời kép áo dày bông,
Chẳng thương chút phận long đong.
Hoa lau nở để lạnh lùng một thân,
Khi cha dạo theo chân xe đẩy.
Rét căm căm xe đẩy rời tay,
Cha nhìn ngẫm nghĩ mới hay.
Nghiến răng rắp cắt đứt dây xướng tuỳ,
Gạt nước mắt chân quỳ miệng gởi.
Lạy cha xin xét lại nguồn cơn,
Mẹ còn chịu một thân đơn.
Mẹ đi luống để cơ hàn cả ba,
Cha trông xuống cũng sa giọt tủi.
Mẹ nghe lời cũng đổi lòng xưa,
Cho hay hiếu cảm nên từ.
Thấm lâu như đá cũng rừ lọ ai?
TRUYỆN THỨ V
Trọng Do
Trọng Do (Tử Lộ), người ở ấp Biện, thuộc nước Lỗ, sinh vào đời Xuân Thu, học trò Khổng Tử. Thờ cha mẹ rất có hiếu. Nhà nghèo, ông thường đi đội gạo đường xa hàng trăm dặm về nuôi cha mẹ. Không có tiền mua thức ăn, phải tìm các thứ rau về nấu canh dâng lên cha mẹ dùng tạm. Sau khi cha mẹ mất, ông sang nước Sở, được vua Sở trọng dụng, phong ban tước cao sang, cấp nhiều bổng lộc. Ông thường than phiền là không còn cha mẹ để được phụng dưỡng như xưa, để ngày ngày đội gạo, bữa bữa nấu canh rau. Khổng Tử thường khen Tử Lộ là người hiếu để và thận trọng từng hành vi.
Nguyên bản:
Phụ mễ cung cam chỉ,
Ninh Từ bách lý lao,
Thân hoàn thân dĩ một,
Do niệm cựu cù lao
Có nghĩa là:
Đội gạo để cung cấp ngọt bùi cho cha me,
Không nề đường dài xa trăm dặm.
Đến khi sung sướng cha mẹ đã khuất.
Vẫn hằng nhớ công khó nhọc của cha mẹ.
Diễn Quốc Âm:
Thầy Tử Lộ cũng người nước Lỗ,
Thờ hai thân từng bữa canh lê.
Thường khi đội gạo đi về.
Xa xôi trăm dặm nặng nề hai vai,
Đỉnh Hoa biểu từ khơi bóng hạc.
Gót Nam Du nhẹ bước tang bồng.
Xe trăm cỗ, thóc muôn chung.
Ngồi chồng đệm ghép, ăn chồng vạc cao,
Thân phú quý ngẫm vào thêm tủi.
Đức cù lao chạnh tới càng đau.
Nào khi đội gạo canh rau,
Muốn còn như cũ dễ hầu được ru.
Lòng thắc mắc nghìn thu vẫn dễ,
Biết bao giờ cam chỉ đền công,
Cho hay dạ hiếu khôn cùng.
Dẫu Tam công chẳng đổi lòng thần hôn
TRUYỆN THỨ VI
Diễm Tử
Diễm Tử sinh vào đời nhà Chu, thờ cha mẹ hết lòng. Cha mẹ già, đôi mắt loà không trông rõ, thèm muốn được uống sữa hươu. Diễm Tử liền lấy da hươu khô làm áo mặc vào giả hươu con vào rừng đến gần các hươu mẹ có sữa, vắt lấy đem về dâng cho hai thân. Một hôm, Diễm Tử gặp bọn săn tưởng lầm là hươu, dùng cung tên toan bắn Diễm Tử vội vàng bỏ lớp hươu ra trình bày mọi lẽ, bọn thợ săn thôi không bắn nữa.
Nguyên bản:
Thân lão tư lộc nhữ,
Thân phi lộc bì y,
Nhược bất cao thanh ngữ,
Sơn trung đới tiền quy.
Có nghĩa là:
Cha mẹ già thèm uống sữa hươu,
Mình khoác lên vai lớp áo da hươu,
Nếu không kịp kêu la to tiếng,
Bị trúng phải tên bắn trong núi.
Diễn Quốc âm:
Chu Diễm Tử làm con rất thảo,
Chiều hai thân tuổi lão cao niên,
Mắt trần khuất nguyệt mờ sao,
Sữa hươu người những ước ao từng ngày,
Vật khó kiếm thường không đổi được,
Phải lo phương tìm kiếm cho ra,
Hươu khô tìm lấy lột da.
Mặc làm sắc áo để hòa lẫn theo.
Chốn non thẳm tìm vào bầy lứa,
Sẽ dần dà lấy sữa nuôi thân,
Bỗng đâu gặp lũ đi săn,
Rắp buông cung bắn không phân vật, người.
Đem tâm sự tới nơi bày tỏ,
Chút hiếu tình nghe rõ cũng thôi,
Cho hay cung một tính trời,
Mảnh son cũng động được người vũ phu.
TRUYỆN THỨ VII
Lão Lai Tử
Lão Lai Tử vốn người ở nước Sở, sinh vào đời Xuân Thu, đã 70 tuổi mà cha mẹ vẫn còn sống, ông thờ cha mẹ rất có hiếu. Không muốn cha mẹ thấy con già nua mà lo buồn, ông thường mặc áo sặc sỡ, rồi tay múa miệng hát trước mắt cha mẹ. Lại có khi bưng nước hầu cha mẹ, ông giả vờ trượt té rồi ngồi khóc oa oa trước mặt cha mẹ như trẻ nít mới lên 7, 3 tuổi vậy. Cha mẹ vui cười trước trò ngộ nghĩnh của con mình.
Nguyên bản:
Hý Vũ học Kiều sy
Xuân phong động thái y
Song thân khai khẩu tiếu,
Hỷ sắc mãn đình vi.
Có nghĩa là:
Chơi đùa như tuồng trẻ con,
Gió xuân lay động áo hoa sặc sỡ,
Cha mẹ cùng nhau mở miệng cười,
Cảnh vui vẻ đầy cả cửa nhà.
Diễn Quốc âm:
Lão Lai Tử đời Chu, cao sĩ,
Thờ hai thân chẳng trễ ngọt bùi,
Tuổi già đã đúng bảy mươi,
Nói năng chẳng chút hở môi rằng già,
Khi thong thả mẹ cha ngồi trước,
Ghé gần vào bắt chước trẻ thơ,
Thấp cao điệu múa nhởn nhơ,
Xênh xoang màu áo bạc phơ mái đầu,
Chốn đường thượng khi hầu bưng nước,
Giả làm điều ngã trước thềm hoa,
Khóc lên mấy tiếng oa oa,
Tưởng chừng lên bảy lên ba thuở nào.
Trên tuổi tác trông vào vui vẻ,
Áng đình vi gió thụy mưa xuân,
Cho hay nhân thử sự thân,
Trong trăm năm được mấy lần ngày vui.
TRUYỆN THỨ VIII
Đồng Vĩnh
Người đời nhà Hậu Hán, nhà tuy nghèo nhưng Vĩnh rất hiếu thảo. Khi cha chết trong nhà không tiền để lo việc ma chay cho ấm cúng, Vĩnh liền đến làng khác vay tiền một người nhà giàu, hứa sẽ dệt trả công 300 tấm lụa để trả vào số tiền mượn, số tiền công dệt lụa kia trội hơn gấp mấy lần tiền vay. Vay được tiền Đồng Vĩnh về lo việc tang ma cho cha xong xuôi, thu xếp việc gia đình định đến nhà người nhà giàu để dệt trả công. Dọc đường Đồng Vĩnh gặp người con gái cùng nhau hứa hẹn kết làm chồng vợ, nhưng hẹn dệt xong 300 tấm lụa, rồi sau sẽ thành hôn. Người con gái này giúp Vĩnh dệt xong 300 tấm lụa rất nhanh để trả món nợ cho người nhà giàu .
Khi cả hai cùng trở về đến ngay chỗ gặp, người con gái lúc trước, nàng ấy biến mất. Đó là vì lòng hiếu thảo của Đồng Vĩnh động lòng Trời sai tiên nữ xuống giúp.
Nguyên bản:
Táng Phụ thải khổng phương,
Tiên cô lộ thượng phùng,
Chức khiêm thường trái chủ,
Hiếu cảm động thượng khung.
Có nghĩa là:
Vay tiền để chôn cất cha già,
Giữa đường liền gặp nàng tiên,
Dệt lụa trả công chủ nợ,
Lòng hiếu cảm động đến Trời.
Diễn Quốc Âm:
Đời Hậu Hán có người Đông Vĩnh.
Nhà rất nghèo mà tính rất thành,
Thấu chăng, chẳng thấu trời xanh.
Phụ tang để đó, nhân tình còn chi,
Liều thân thể làm thuê công việc,
Miễn cầu cho thể phách được yên.
Cực người thay, nhẽ đồng tiền,
Đem thân hiếu tử, băng miền phú gia.
Bỗng gặp kẻ đàn bà đâu đó.
Xin kết làm phu phụ cùng đi,
Lụa ba trăm tấm dệt thuê,
Trả xong nợ ấy mới về cùng nhau.
Tới chốn gặp bỗng đâu thoắt biến.
Là tiên cô trời khiến giúp công,
Mới hay trời vốn ở lòng,
Há rằng cao thẳm nghìn trùng mà xa
TRUYỆN THỨ IX
Quách Cự
Người đời nhà Hán, thờ mẹ chí hiếu, nhân khi cửa nhà sa sút, thường bữa ông thấy mẹ không dám ăn no, cứ bớt phần cơm để đưa cho con của ông mới vừa lên 3 tuổi ăn. Hai vợ chồng cùng nhau bàn bạc: Mẹ già không đủ ăn, mà vợ chồng ta còn sinh đẻ được, nếu để con mình chia xẻ ngọt bùi của mẹ là không phải đạo. Thế rồi hai vợ chồng định đào hố chôn con đi. Khi hai vợ chồng đào hố xuống chừng được phân nữa, thì bỗng tìm thấy một hủ vàng, trên miệng có đề hàng chữ:
Hiếu Tử Quách Cự, Hoàng Kim nhất hủ dung dĩ tứ nhữ.
Nghĩa là: Người con hiếu là Quách Cự, một hủ vàng đầy để cho nhà ngươi. Nhờ đó mà hai vợ chồng khỏi phải chôn con và có đủ tiền phụng dưỡng mẹ già.
Nguyên bản.
Quách Cự tự cung cấp,
Mai nhi nguyệt mẫu tồn.
Hoàng kim thiên sở tứ,
Quang thái chiếu hàn môn
Có nghĩa là:
Quách Cự chỉ lo phụng dưỡng mẹ,
Đem chôn con để mẹ được sống.
Trời cho đào được hủ vàng,
Đương nghèo trở nên giàu có.
Diễn Quốc âm:
Hán Quách Cự cửa nhà sa sút,
Thờ mẫu thân chăm chút mọi bề.
Con còn ba tuổi biết gì,
Bữa ăn từ mẫu thường thì bớt cho.
Trông thấy mẹ bữa no, bữa đói.
Với hiền thê than nỗi khúc nôi,
Mẹ già đã chẳng hay nuôi.
Để con xẻ ngọt chia bùi sao đang,
Vợ chồng ta còn phen sinh đẻ.
Mẹ già rồi hồ dễ được hai,
Nói thôi! giọt vắn giọt dài,
Đào ba thước đất để vùi tình thâm.
May đâu thấy hoàng kim một hủ,
Chữ Trời cho đề rõ rành rành,
Cho hay trời khéo ngọc thành.
Hiếu tâm đâu dễ đoạn tình cha con.
TRUYỆN THỨ X
Khương Thị
Người đời Hán có vợ là Bàng Thị, cả hai vợ chồng đều hiếu thảo. Mẹ chồng muốn uống nước sông, hàng ngày Bàng Thị phải đi thật xa, để gánh nước về. Trời rét, mẹ muốn ăn gỏi cá tươi, vợ chồng cố tìm cho đủ đem về. Lại sợ mẹ ở một mình buồn bực, nên thường mời các bà bên cạnh đến chơi. Về sau, tự nhiên ở bên cạnh nhà có suối nước ngọt chảy ra giống như vị nước sông, hàng ngày lại có hai con cá chép đủ làm gỏi cho mẹ dùng. Từ đó, Bàng Thị và chồng không phải đi quảy nước xa, và kiếm cá nữa.
Nguyên bản.
Xá trắc cam tuyền xuất,
Thất triêu song lý ngư.
Tử năng tri sự mẫu.
Phụ cánh hiếu ư cô
Có nghĩa là:
Bên nhà có suối nước ngọt chảy,
Mỗi ngày có hai con cá chép.
Con trai biết đạo thờ mẹ.
Con dâu hiếu để với mẹ chồng.
Diễn Quốc âm:
Hán Khương Thị nhà còn lão mẫu,
Vợ Họ Bàng vẹn đạo chữ tòng,
Mẹ thường muốn uống nước sông.
Vợ từng đi gánh thay chồng hầu cô,
Mẹ thường muốn ăn đồ gỏi ghém.
Vợ chồng đều tìm kiếm đủ mùi,
Lại mời lân ẩu sang chơi,
Để bồi cùng mẹ cho vui bạn già,
Bên nhà bỗng chảy ra suối ngọt.
Với nước sông in một mùi ngon.
Lý Ngư ngày nhảy hai con,
Đủ trong cung cấp thần hôn thường lề.
Rày thong thả bỏ khi lận đận.
Cam thỏa lòng dâu thuận, con hiền,
Cho hay gia đạo khi nên.
Đã con hiếu, lại được hiền cả dâu
TRUYỆN THỨ XI
Thái Thuận
Người đời nhà Hán, mồ côi cha từ thuở còn bé, nhà rất nghèo. Thái Thuận hết lòng thờ mẹ. Gặp năm mất mùa đói kém vì loạn lạc, Thái Thuận vào rừng tìm trái dâu về để ăn thay cơm. Được trái nào chín, Thuận để qua một bên, trái nào vừa đỏ để qua một bên khác. Gặp tướng Xích My đi ngang qua, trông thấy hỏi Thuận vì cớ nào lại phải lựa dâu để riêng ra như vậy. Thuận liền đáp: Trái nào chín ngọt dành phần cho mẹ tôi, trái nào đỏ còn chua, đó là phần của tôi. Tướng giặc khen Thuận là người con hiếu, liền truyền quân lính cho một thúng gạo và một đùi thịt trâu để khen thưởng.
Nguyên bản:
Hắc Thầm phụng huyên vy,
Đề cơ lệ mãn y,
Xích My tri hiếu thuận,
Đẫu mễ tặng quân quy
Có nghĩa là:
Quả dâu chín đen để biếu mẹ.
Bụng đói nước mắt chảy thấm áo,
Giặc Xích My biết là người hiếu.
Tặng cho thúng gạo mang về.
Diễn Quốc âm:
Người Thái Thuận ở sau Đời Hán.
Dạ thờ thân tiết loạn khôn lay,
Đường cơn khói lữa mây bay,
Liền năm hoang khiểm, ít ngày đủ no.
Nơi rừng rậm kiếm đồ nuôi mẹ,
Nhặt quả dâu chia để làm hai,
Tặc đồ trông thấy nực cười.
Hỏi: Sao bày đặt hai nơi cho phiền?.
Rằng Quả ấy sắc đen thì ngọt,
Dâng mẹ già gọi chút tình con.
Còn là sắc đỏ chẳng ngon,
Cái thân cay đắng dám còn sợ chua,
Giặc nghe nói khen cho hiếu kính.
Bước lưu ly mà gánh cương thường,
Truyền quân tiền của sẳng sàng.
Đùi trâu một chiếc, gạo lương một bầu,
Mừng trong dạ bước mau nhẹ gót,
Về tới nhà, miếng sốt dâng qua,
Cho hay người cũng người ta,
Biết đâu đạo tặc chẳng là lương tâm?
TRUYỆN THỨ XII
Đinh Lan
Người đời nhà Hán, mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, khi trưởng thành, nhớ công ơn cha mẹ, thuê thợ tạc tượng cha mẹ bằng gỗ để thờ phượng. Ngày dâng hai bữa cơm, tối đến lại lo quạt màn, sửa soạn gối chăn, hầu hạ chăm nom in như hồi cha mẹ còn sống. Phụng thờ như vậy trong mấy mươi năm. Về sau, vợ Đinh Lan sinh chán nản, lại dùng kim châm vào kẻ tay trượng gỗ xem có gì lạ không. Không ngờ nơi ấy cứ nhỏ từng giọt máu tươi xuống mãi.
Đến bữa, Đinh Lan bưng cơm vào cúng, nhìn thấy tượng gỗ rướm nước mắt, kẻ tay lại chảy máu. Ông biết là vợ đã châm kim vào tay cha mẹ, liền đuổi bỏ người vợ ngay.
Nguyên bản:
Khắc một vi phụ mẫu,
Hình dung tại nhật thần,
Ký ngôn chư tứ diệt,
Các yếu hiếu song thân.
Có nghĩa là:
Tạc gỗ làm tượng thờ cha mẹ,
Thờ phượng giống như khi sống,
Nhắn bảo các con cháu,
Mọi người nên hiếu với cha mẹ
Diễn Quốc Âm:
Hán Đinh Lan thuở còn thơ ấu,
Bóng xuân huyên khuất dấu non xanh.
Đến nay tuổi đã trưởng thành,
Cám công sơn hải, thiệt tình trân cam.
Tưởng dung mạo khắc làm mộc tượng,
Cứ bữa thường phụng dưỡng như sinh,
Khi chăn gối, buổi cơm canh,
Mấy mươi năm, vẫn lòng thành trước sau,
Phải người vợ kính lâu nên trễ,
Thử lấy kim châm kẻ ngón tay
Bỗng đâu giọt máu chảy ngay,
Ai hay tượng gỗ lâu ngày thiêng sao?
Khi đến bữa chồng vào đặt lễ
Mắt tượng rơi hàng lệ chứa chan
Xét xem mới biết nguồn cơn,
Nỗi bừng lá giận, dứt tan dây tình.
Há phải nhẫn, mà đành phụ nghĩa,
Hiếu với tình nặng nhẹ phải cân,
Cho hai thành hẳn lên thần,
Há rằng u hiển, mà phân vân, tồn
TRUYỆN THỨ XIII
Lục Tích
Người đời Đông Hán, từ lúc mới lên 6 tuổi đã biết hiếu thảo. Một hôm Lục Tích theo cha sang quận Cửu Giang viếng Viên Thuật. Họ Viên làm tiệc thết đãi, Lục Tích thấy trong tiệc có quít ngon, bèn lấy hai trái bỏ vào túi áo dấu. Đến khi chào Viên Thuật ra về, Vô ý để quít lọt ra ngoài. Viên Thuật nói đùa: Sao lấy quýt giấu như thế?. Lục Tích đáp ngay: Mẹ tôi thích ăn quít lắm. Nhân tiện trong tiệc có quít ngon nên tôi giấu vài quả đem về biếu mẹ tôi. Viên Thuật khen Tích là người con chí hiếu.
Nguyên bản:
Hiếu để giai thiên tính,
Nhân gian lục tuế nhi,
Tụ trung hoài lục quất,
Dị mậu sự kham kỳ.
Có nghĩa là:
Lòng hiếu để là tính do trời phú,
Đứa trẻ lên sáu trên thế gian này,
Giấu quít vào trong tay áo,
Đem về biếu mẹ cũng là điều lạ.
Diễn quốc âm:
Hán Lục Tích thưở còn sáu tuổi,
Quận Cửu Giang đến với họ Viên,
Trẻ thơ ai chẳng yêu khen,
Quít ngon đặt tiệc tiểu diên đãi cùng,
Cất hai quả vào trong tay áo,
Tiệc tan xong từ cáo lui chân,
Trước thềm khúm núm gởi thân,
Vô tình quả quít nẩy lăn ra ngoài,
Viên trông thấy cười cười hỏi hỏi,
Sao khách hiền mang thói trẻ thơ?
Thưa rằng: Mẹ vốn tính ưa,
Vật ngon dành lại để đưa mẹ thì.
Viên nghe nói trọng vì không xiết,
Bé con con mà biết hiếu thân,
Cho hay phú giữ thiên chân,
Sinh ra ai cũng sẵn phần thiện đoan.
TRUYỆN THỨ XIV
Giang Cách
Sinh vào đời nhà Hán, mồ côi cha từ lúc còn bé, Giang Cách chí hiếu. Trong lúc loạn lạc họ Giang cõng mẹ lánh nạn, giữa đường gặp giặc toan bắt đi. Ông kêu van khóc lóc thảm thiết và cho biết còn mẹ già phải phụng dưỡng, nay nếu ông bị bắt đi thì mẹ già không người nuôi nấng. Thấy tình cảnh của Giang Cách đáng thương, giặc tha cho về. Giang Cách liền cõng mẹ chạy về Hạ Bì, cố hết sức làm thuê làm mướn để nuôi mẹ qua cơn loạn lạc.
Nguyên bản:
Phụ mẫu đào nguy gian,
Trung đồ tặc phạm tần,
Ai cầu câu hoạch miễu,
Dung lực dĩ cung thân.
Có nghĩa là:
Cõng mẹ chạy lánh nạn,
Giữa đường gặp giặc bắt luôn,
Kêu van cùng được tha,
Cố làm thuê để nuôi mẹ.
Diễn Quốc âm:
Hán Cách Giang cô đơn từ bé,
Bước truân chuyên với mẹ đồng cư,
Đương cơn loạn lạc bơ vơ,
Một mình cõng mẹ vẫn vơ dọc đường.
Từng mấy độ chiến trường gặp giặc,
Giặc cố tình hiếp bắt đem đi,
Khóc rằng Thân mẹ lưu ly,
Tuổi già bóng chếch biết thì cậy ai?
Giặc nghe nói thoắt thôi chẳng nỡ,
Rồi dần dà qua ở Hạ Bì,
Dấn mình gánh mướn làm thuê.
Miễn nuôi được mẹ quản gì là thân.
Áng xuân phong tươi nét từ nhân,
Cho hay những lúc gian nan,
Thật vàng, dẫu mấy lửa than cũng vàng
TRUYỆN THỨ XV
Hoàng Hương
Người đời Đông Hán, mẹ mất vào lúc mới lên 9 tuổi. Hoàng Hương gào thét và kêu khóc thảm thiết, người trong làng cho là con có hiếu. Thờ cha rất mực cung kính, sớm khuya hầu hạ, không dám lãng xao. Mùa đông, Hoàng Hương nằm ủ vào chăn chiếu của cha để được truyền hơi nóng cho cha khỏi rét, đến mùa hè quạt màn gối của cha để cho mát mẻ luôn, nhờ đó mà cha được ăn ngon ngủ yên, quanh năm vui vẻ không biết có mùa đông, mùa hè. Quan Thái thú ở quận ấy nhận thấy họ Hoàng là người con hiếu thảo, liền làm sớ tâu vua Hán. Hán đế ban cho Hoàng Hương tấm biển vàng đề chữ là người con hiếu để.
Nguyên bản:
Đông nhật ôn khâm noãn,
Viên thiên phiến chẩm lương.
Nhi đồng tri tử chức,
Thiên cổ nhất Hoàng Hương
Có nghĩa là:
Mùa đông thì ủ cho ấm chăn,
Mùa nực thì quạt cho mát gối.
Trẻ thơ đã biết đạo làm con,
Ngàn xưa chỉ có một Hoàng Hương.
Diễn Quốc Âm:
Đời Đông Hán Hoàng Hương chín tuổi,
Khuất bóng từ dòi dõi nhớ thương.
Hạt Châu khôn ráo hai hàng,
Tiếng đồn vang dậy trong làng đều khen.
Thờ nghiêm phụ cần chuyên khuya sớm,
Đạo làm con chẳng dám chút khuây,
Trời khi nắng hạ chầy chầy,
Quạt trong màn gối hơi bay mát rầm.
Trời đông buổi sương đầm tuyết thắm,
Ấp hơi mình cho ấm chiếu chăn.
Vì con cha được yên thân,
Bốn mùa không biết có phần Hạ, Đông,
Tiếng hiếu hạnh cảm lòng quận thú.
Biển nên treo chói đỏ vàng son.
Cho hay tuổi trẻ mà khôn,
Nghìn thu biết đạo làm con mấy người?
TRUYỆN THỨ XVI
Vương Thôi
Người nước Ngụy đời Tam Quốc, cha làm quan nhà Ngụy. Sau nhà Tây Tấn diệt nước Ngụy nhất thống thiên hạ. Cha Vương Thôi bị nhà Tây Tấn giết hại, ông quá thương xót, phủ phục trước mộ khóc mãi. Tương truyền nước mắt ông chảy quá nhiều, làm cho cây trắc bên mồ khô héo được tươi lại. Suốt đời Vương Thôi không bao giờ ngồi day mặt về hướng Tây, (vì Tây Tấn ở phương Tây) để tỏ ý chí cương quyết không bao giờ làm tôi cho nhà Tây Tấn.
Mẹ ông lúc sinh thời hay sợ sấm, cho nên khi mất rồi, hễ khi nào trời mưa có sấm chớp, ông lại ra mồ mà khấn rằng: Có con đây rồi, cốt để cho mẹ khỏi sợ. Biết ông là người tài giỏi, nhà Tây Tấn nhiều lần mời ông ra làm quan, nhưng ông cương quyết khước từ, ở nhà mở trường dạy học. Mỗi khi ông giảng sách cho học trò đến thiên Lục Nga trong Kinh thi có câu: Phụ Hề sinh ngã ông nhớ đến cha rồi tự nhiên nước mắt tuôn rơi, học trò đều cảm động và bỏ thiên Lục Nga không dám đọc nữa.
Nguyên Bản:
Từ mẫu phạ văn lôi.
Băng hồn túc dạ đài,
Át hương thời nhất chấn.
Đáo mộ nhiễu thiên hồi.
Có nghĩa là:
Mẹ hiền sợ nghe tiếng sấm.
Hồn thơm đã nằm dưới suối vàng,
Khi nghe thấy tiếng sấm động,
Đến mồ mẹ đi quanh nghìn lần
Diễn Quốc âm:
Ngụy Vương Thôi gặp đời Tây Tấn,
Vì thù cha lánh ẩn cao bay.
Bên mồ khóc dã khô cây,
Trọn đời ngồi chẳng hướng Tây lúc nào,
Khi sấm sét tìm vào mồ mẹ.
Lạy khóc rằng con trẻ ở đây,
Bởi vì tính mẹ xưa nay,
Vốn từng sợ sấm những ngày gió mưa.
Nên coi sóc chẳng từ sớm tối,
Thần phách yên, dạ mới được yên.
Trong khi đọc sách giảng truyền,
Tới câu sinh ngã lệ tràn như tuôn.
Ngập ngừng kẻ cấp môn cũng cảm,
Thơ Lục Nga chẳng dám còn ngâm,
Cho hay thử lý thử tâm.
Sư, sinh cũng thấm tình thâm khác gì.
TRUYỆN THỨ XVII
Ngô Mãnh
Người đời nhà Tấn, lúc mới lên 8 tuổi đã biết thờ mẹ rất có hiếu, nhà nghèo, mùa hè nhiều muỗi, không có tiền mua màn, sợ cha mẹ bị muỗi đốt, Ngô Mãnh cởi trần nằm cho muỗi đốt mà chẳng dám xua đuổi, để cha mẹ được ngủ yên.
Nguyên bản:
Hạ dạ vô văn trướng,
Văn đa bất cảm huy,
Tứ cừ bảo cao huyết.
Miễn sử nhập thân vi.
Có nghĩa là:
Đêm mùa hè không có màn,
Muỗi nhiều không dám xua,
Cho muỗi đốt no máu mình.
Để khỏi đấn nơi cha mẹ nằm
Diễn Quốc âm:
Tấn Ngô Mãnh tuổi thì lên tám.
Lòng sự thân chẳng dám khi nhàn,
Cực về một nỗi bần hàn.
Có giường không đặt, không màn ngoài che.
Trời đương buổi đêm hè nóng nảy,
Tiếng muỗi kêu vang dậy dường mưa,
Xót thay hai đấng nghiêm từ,
Để người chịu muỗi bây giờ biết sao.
Nghĩ da thịt phương nào thay lấy,
Quyết nằm trần muỗi mấy chẳng xua.
Rầu lòng cho muỗi được no,
Để người êm ái giấc hòe cho an.
Tuổi tuy bé nhưng gan chẳng bé,
Dạ ái thân đến thế thời thôi.
Cho hay phú tính bởi trời,
Những đau trong ruột, dám nài ngoài da
TRUYỆN THỨ XVIII
Vương Tường
Người đời nhà Tấn, mẹ mất sớm. Vương Tường ở với cha, nhưng bị bà mẹ ghẻ rất sâu cay thường kiếm lời nói ra nói vào, khiến cho cha ông ghét bỏ. Nhưng ông không oán ghét bà mẹ ghẻ mà ăn ở rất có hiếu. Mùa đông, nước đóng lại thành băng, bà mẹ ghẻ đòi ăn cá tươi, ông cởi trần trên băng giá để tìm cá. Bỗng nhiên băng nứt đôi ra, có hai con cá chép nhảy lên, ông bắt về làm món ăn cho kế mẫu. Trước lòng hiếu thảo chân thành của đứa con chồng, bà mẹ ghẻ hồi tâm và cha của Vương Tường cũng hết giận, từ đó hai người yêu mến đứa con như vàng.
Nguyên bản:
Kế mẫu nhân gian hữu,
Vương Tường thiên hạ vô,
Chí kim hà thượng thủy,
Nhất phiến ngọa băng vô,
Có nghĩa là:
Mẹ kế thế gian thường có.
Hiếu như Vương Tường người thiên hạ không ai.
Đến bây giờ ở trên sông,
Không một ai nằm trên băng giá cả.
Diễn Quốc Âm:
Người Vương Tường cũng là đời Tấn,
Tủi huyên đường sớm lẫn bóng xa,
Mẹ sau gặp cảnh chua ngoa.
Tiếng gièm thêu dệt với cha những điều,
Lòng cha chẳng còn yêu như trước.
Lòng con thường chẳng khác như xưa,
Mẹ thường muốn bữa sinh ngư,
Giá đông trời lạnh bây giờ tìm đâu.
Trên váng đóng, quyết cầu cho thấy.
Cởi áo nằm rét mấy cũng vui,
Bỗng đâu váng lở làm hai,
Lý Ngư may được một đôi đem về.
Bữa cung cấp một bề kính thuận,
Mẹ cha đều đổi giận làm lành,
Cho hay hiếu cảm tại mình,
Dẫu trăm giận, lúc hả tình cũng thôi.
TRUYỆN THỨ XIX
Dương Hương
Dương Hương sinh vào đời nhà Tấn, vừa 14 tuổi đầu đã tỏ ra chí hiếu, cha đi đâu cũng theo hầu một bên. Một hôm, hai cha con cùng đi thăm ruộng nơi xa, gần vùng núi rừng, giữa đường gặp một con hổ chực nhảy đến vồ cha, Dương Hương cố liều chết, nhảy vào với đôi tay không quyết cùng sinh tử với con hổ. Ông đánh rất hăng, cuối cùng hổ hoảng sợ bỏ chạy, cha ông nhờ đó mà thoát chết.
Nguyên bản:
Thâm sơn phùng bạch ngạch,
Nỗ lực bát tinh phong,
Phụ tử câu vô dang,
Thoát ly hổ khẩu trung
Có nghĩa là:
Nơi rừng xanh gặp con hổ trắng má,
Cố sức xua đuổi giống hôi tanh.
Cha con đều vô sự cả.
Thoát khỏi rơi vào miệng cọp
Diễn Quốc âm:
Tấn Dương Hương mới mười bốn tuổi,
Cha bước ra hằng ruỗi theo cha.
Phải khi thăm lúa đường xa.
Chút thân tuổi tác thoắt sa miệng hùm,
Đau con mắt hầm hầm nỗi giận.
Nắm tay không vơ vẫn giữa đường,
Hai tay chận dọc đè ngang,
Ra tay chống với hổ lang một mình.
Hùm mạnh phải nhăn nanh lánh gót,
Hai cha con lại một đoàn về,
Cho hay hiếu mạnh hơn uy,
Biết cha thôi lại biết chi có mình.
TRUYỆN THỨ XX
Mạnh Tông
Người ở đất Giang Hạ, về đời Tam Quốc, mồ côi cha, Mạnh Tông ở với mẹ rất có hiếu. Một hôm, bà mẹ của Mạnh Tông đau thèm ăn canh măng, nhưng bấy giờ là mùa đông, khó tìm ra măng. Ông đi vào trong rừng tre, ngồi bên gốc tre mà khóc. Bỗng đâu có mấy mục măng từ dưới đất mọc lên, quá mừng rỡ. Mạnh Tông mang về nhà nấu canh cho mẹ ăn. Ăn xong bà mẹ liền hết bịnh. Người ta cho rằng lòng hiếu động của Mạnh Tông, động lòng trời, nên măng mọc lên để cho ông được tròn chữ hiếu. Về sau này có một loại măng màu xám được đặt tên là Mạnh Tông, hình dáng trông rất đẹp và ăn ngon.
Nguyên bản:
Lệ khấp sóc phong hàn,
Tiêu tiêu trúc cổ san,
Tu du đông duẩn xuất,
Thiên ý báo bình an.
Có nghĩa là:
Ngồi khóc trong gió bấc lạnh thổi,
Lèo tèo chỉ có mấy gốc tre,
Phút chốc măng mùa đông mọc lên,
Ý trời khiến cho mẹ được khỏi bệnh
Diễn Quốc âm:
Ngô Mạnh Tông phụ thân sớm khuất,
Thờ mẫu thân lòng thực khăng khăng,
Tuổi già trằn trọc băn khoăn.
Khi đau nhớ bát canh măng những thèm.
Trời đông tuyết biết đâu tìm được.
Chốn trúc lâm phải bước chân đi
Một thân ngồi tựa gốc tre.
Ôm cây kêu khóc nằn nì với cây.
Giữa bình địa phút giây bỗng nứt,
Mấy giò măng mặt đất nỗi lên.
Đem về điều đặt bữa canh,
Ăn rồi bệnh mẹ lại lành như xưa.
Măng mùa lạnh bây giờ mới thấy.
Để về sau nhớ lấy cỏ cây.
Cho hay hiếu động cao dày.
Tình sâu cũng khiến cỏ cây cũng tình
TRUYỆN THỨ XXI
Du Kiềm Lâu
Cũng chép là Sứu Kìm Lâu Người nước Tề, được nổi tiếng là chí hiếu. Khi được bổ nhậm là Thái Thú ở quận Bình Lăng, đến nhậm chức được mười hôm, bỗng Kiềm Lâu thấy tâm thần bàng hoàng, mồ hôi chảy như tắm, biết là nhà có việc chẳng lành, liền xin từ chức. Về đến nhà, mới hay cha đau nặng đã hai ngày. Kiềm Lâu lại nghe thầy thuốc nói hễ người bệnh nặng mà phân đắng thì chữa khỏi, bằng trái lại phân ngọt thì khó chữa. Ông liền nếm thử phân của cha thì thấy ngọt, lòng vô cùng lo lắng đứng ngồi không yên. Đêm đêm ông đốt hương nhắm sao Bắc Đẩu. mà khấn xin được chết thay cha. Sau ông nằm mơ thấy có một người cầm một thẻ vàng có mấy chữ: Sắc trời cho bình an. Quả nhiên ngày hôm sau cha ông được khỏi bệnh ngay.
Nguyên bản:
Đáo huyện vị tuần nhật,
Xuân đình tao tật thâm,
Nguyện tương thân đại tử,
Thường phẩn khởi ưu tâm
Có nghĩa là:
Quan nhậm chức chưa quá mười ngày.
Cha ở nhà bị đau nặng,
Xin được chết thay cho cha già.
Thân rồi sinh lo lắng,
Diễn Quốc Âm:
Kiềm Lâu có danh Tề Quốc,
Huyện Bình Lăng nhậm chức thân dân.
Tới Nha chưa được một lần,
Như dội tâm thần thường đau.
Vó câu buồn bả.
Thăm cha bệnh đã hai ngày,
Nếm dơ vâng cứ lời thầy,
Đầu lưỡi chua cay trong lòng,
Chữ dạy bệnh trung nghi khổ,
Làm sao bệnh đở mới cam,
Đêm đêm hướng bắc triều tam.
Tánh mạng thay làm thân cha.
Cầu khẩn thấu tòa tinh tú,
Bình an vui thú đình vi,
Cho hay máy động huyền vi.
Minh truyện trước còn ghi kim đằng.
TRUYỆN THỨ XXII
Đường Thị vợ Họ Thôi
Đường Thị, vợ nhà họ Thôi, ở với mẹ chồng rất có hiếu. Mẹ chồng quá già rụng cả răng, không nhai được cơm. hàng ngày Đường thị phải tắm rửa thật sạch sẻ rồi cho mẹ bú. Nhờ đó mẹ chồng mấy năm liền không ăn mà vẫn được no. Cảm ơn nàng dâu hiếu để, mẹ chồng không biết lấy gì đền đáp, lúc sắp chết liền khấn nguyện trời phật cho con cháu nhà họ Thôi sau này người nào cũng hiếu thảo như Đường Thị vậy. Quả nhiên về sau con cháu dâu nhà họ Thôi người nào cũng bắt chước gương tốt của Đường Thị ăn ở hiếu thuận với nhà chồng. Họ Thôi nhờ đó được hưng thịnh,
Nguyên bản:
Hiếu báo Thôi gia phụ,
Có thân quán sơ.
Ân vô dĩ báo,
Truyện đắc thử Tôn Như.
Có nghĩa là:
Vợ họ Thôi ở có hiếu với mẹ chồng,
Hằng ngày tắm rửa rồi cho mẹ chồng bú.
Ơn ấy mẹ chồng không biết chi báo đền,
Cầu nguyện cho con cháu dâu ở có hiếu với Đường Thị
Diễn Quốc Âm:
Dâu họ Thôi ai bằng Đường Thị,
Thương mẹ chồng niên kỷ đã cao.
Không răng ăn dễ được nào.
Ngày ngày lau chải ra vào thăm coi,
Lấy sửa ngọt thay mùi cơm cháo.
Mấy năm trời chẳng gạo mà no,
Vì dâu dốc dạ thờ cô.
Da mồi tóc bạc bốn mùa như xuân,
Ơn lòng ấy khôn phần báo lại,
Buổi lâm chung nhủ với hoàng thiên.
Xin cho nguyền được như nguyền.
Dâu dâu ngày khác lại hiền như dâu,
Ai nghe cũng răn nhau hiếu kính.
Cữa Thôi gia hưng thịnh đời đời.
Cho hay gia khánh lâu dài,
Báu nào còn báu hơn người dâu ngoan..
TRUYỆN THỨ XXIII
Châu Thọ Xương
Châu Thọ Xương, người Tống, là con của người vợ thứ. Năm ông vừa lên 7 tuổi, người vợ cả đuổi mẹ ông đi. Về sau ông được làm quan nghĩ đến công sinh thành tác tạo của mẹ đang sống lưu lạc khổ sở, ông cảm thấy chua xót trong lòng. Ông liền xin từ quan chức để đi tìm mẹ đẻ. Trước khi đi, ông thề rằng: Nếu không tìm được mẹ chết cũng đành Tìm kiếm khắp nơi, may đến đất Đồng Châu mẹ con lại được trùng phùng. Tuy xa cách nhau đến năm mươi năm, mẫu tử được đoàn viên, ông lấy làm vui mừng. Ông liền rước mẹ về ở chung và phụng dưỡng tận tình.
Nguyên bản:
Thất tuế sinh ly mẫu,
Sâm thương ngũ thập niên,
Nhất triêu tương kiến diện,
Hỷ khí động hoàng thiên.
Có nghĩa là:
Lên 7 tuổi phải lìa xa mẹ đẻ.
Cách biệt như sao hôm sao mai đã 50 năm.
Một sớm được thấy lại mặt nhau.
Mừng vui cảm động đến trời.
Diễn Quốc Âm:
Chu Thọ Xương làm quan Tống đại,
Mẹ sinh ra bảy tuổi lìa lòng,
Bởi vì đích mẫu chẳng dung.
Đem thân bồ liễu, bạn cùng nước non.
Muôn nghìn dặm, mẹ con xa khuất.
Năm mươi năm trời đất bơ vơ,
Sinh con những tưởng cậy nhờ.
Cái thân sung sướng bây giờ mà chi?
Bỏ quan chức, quyết đi tìm tòi,
Nặng lời thề nói với gia nhân,
Thân này chẳng gặp từ thân,
Thời liều sống thác với thân cho đành.
TRUYỆN THỨ XXIV
Hoàng Đình Kiên
Người đời nhà Đường, làm quan đến chức Thái Sử, một chức quan coi về việc chép sử, thờ cha mẹ rất có hiếu. Tuy làm chức quan cao, nhà có nhiều đầy tớ hầu hạ, nhưng ông tự mình săn sóc đến những thứ cần dùng của cha mẹ. Những đồ dùng tiểu tiện của cha mẹ, dù dơ bẩn thế nào, ông cũng chính tay lau rửa và không bảo đầy tớ làm.
Nguyên bản:
Quý hiểm văn thiên hạ,
Bình sinh hiếu sự thân,
Thân thân địch niệu khí,
Bất dụng hoản gia nhân.
Có nghĩa là:
Sang giàu thiên hạ đều nghe tiếng,
Thường ngày phụng dưỡng cha mẹ rất hiếu thảo
Chính tay lau rửa đồ dùng tiểu tiện của cha mẹ,
Không bao giờ sai bảo người nhà làm
Diễn Quốc âm:
Triều Nguyên Hữu có thầy Tăng trực,
Là họ Hoàng ngồi chức sử thần,
Ơn vua đã nhẹ tấm thân,
Phận con, vẫn giữ thờ thân như ngày.
Đồ dơ bẩn tự tay lau chuốt,
Việc tầm thường chẳng chút đơn sai,
Há rằng sai khiến không ai,
Đem thân quan trọng thay người gia nô,
Chức nhân tử phải cho cần khổ,
Có mẹ cha mới có thân ta,
Cho hay đạo chẳng ở xa,
Hay là hiếu tử mới ra trung thần
Giới thiệu và Kết luận
Để giới thiệu truyện Nhị Thập Tứ Hiếu trong phần Khai Mào, Lý Văn Phức đã nói qua về sự hiếu thân là trọng trong đạo làm người. Con người quên công sinh thành của cha mẹ không còn xứng đáng đứng trong trời đất nữa:
Người tai mắt đứng trong trời đất,
Ai là không cha mẹ sinh thành,
Gương treo đất nghĩa trời kinh,
Ở sao cho xứng chút tình làm con.
Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết
Thì suy ra trăm nết đều nên,
Chẳng xem thuở trước Thánh Hiền,
Thảo hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu.
Trong phần Kết luận, tác giả tóm tắt lại những ý chính trong bao nhiêu truyện của các bậc hiếu tử, từ những người đỗ đạt ra làm quan cho đến những hạng thứ dân, không ai có thể vượt qua đạo lý cổ nhân, và không ai quên được Tam cương và Ngũ thường. Cho nên, mọi người đều phải xem chữ hiếu là trọng:
Bấy nhiêu cổ tích cổ nhân về trước.
Cách nghìn xưa như tạc một lòng,
Kể chi kẻ đạt người cùng,
Lọt lòng ai trốn khỏi vòng di luân,
Buổi công hạ cảm thân dày đội,
Xa hương quan gần cõi Thánh Hiền,
Trông vào những thẹn bóng đèn,
Muốn lưu gia phạm, nên truyền quốc âm
Nguồn: Maiyeuem
Người đăng: Ct.Ly. Thời gian: 24/02/2007 11:25:04 SA
<><><>
Bảo Trí ở Trường Tiểu học Tăng Bạt Hổ ngày 24-12-2014
Hoàng Trí ở Trường MN 19-4 ngày 19-12-2014
Hai cháu nội đọc bài
Liên kết phả hệ các Họ
Họ Lưu _ An Hậu, Ân Phong, Hoài Ân, Bình Định
Họ Lưu _ Phái 4 _ An Hậu, Ân Phong, Hoài Ân, Bình Định
Họ Bùi (Ngoại Cảnh) - Thanh Tú, Thị trấn Tăng Bạt Hổ, Hoài Ân, Bình Định
Họ Trần (Bà Ngoại Cảnh) - Gia Trị, Ân Đức, Hoài Ân, Bình Định
http://www.phahe.vn/familyTree/Pages/TreeLogin.aspx?FamilyTreeId=2001
GIA PHẢ LÀ GÌ?
Một trong những thứ quý báu nhất mà Tổ Tiên thường hay để lại trong các gia đình vọng tộc, thư hương ngày xưa là Gia phả?
Ngày nay không còn mấy gia đình giữ được vật lưu truyền mang tính thiêng liêng này, cho nên con cháu về sau có tinh thần và đời sống lạc lõng. Đa số các bạn trẻ thời mới bây giờ không hiểu phả là gì.
“Phả” còn gọi là phổ do nguồn gốc chữ Hán (theo Từ nguyên tự điển Trung Quốc là bổ, (cũng đọc là Sổ) có nghĩa là “quyển sách hoặc là sổ biên chép có thứ tự”, (theo sự giải thích của nhà làm tự điển Hán – Việt Đào Duy Anh). “Phả” còn có nghĩa là ghi chép vào.
Đọc lịch sử, thí dụ như cuốn “VIỆT NAM SỬ LƯỢC” của Trần Trọng Kim, người ta thấy có sự lược kê trong phả đồ ghi là “Ghi chép có thứ tự về các đời của họ Nguyễn”, hay là về “đời các Vua Triều Nguyễn”. Chữ “Thế” ở đây có nghĩa là “đời”, đời người thường được quan niệm để làm việc chỉ có ba mươi năm (theo xưa).
Trong thời kỳ văn học nước nhà còn dùng chữ Hán và mọi giao dịch đều dùng Hán tự, “Thế Phổ” được biên ghi nghiêm chỉnh ở Hoàng gia, Quan lại và các Gia đình sĩ phu.
Kể từ thời hậu Lê, chữ Nôm dần dần phát triển, đáng kể nhất là từ thời Nguyễn Tây Sơn, chữ Nôm được áp dụng rộng rãi khắp cả nước, chữ “phả” đã thay thế chữ “phổ”.
Từ “phả” không phải dùng riêng cho người thứ thế của từng đời mà còn dùng cho hai trường hợp:
A.Về người và đời thì cuốn sổ (phả) ghi có những loại:
1.Tộc phả hay Thế phổ (ghi về tông tộc)
2.Gia phả (gia sử, chi nhánh họ)
3.Niên phả (cuốn ghi chép các năm)
4.Phả hệ (cũng như gia phả là cuốn sử của gia đình ghi hệ thống từng đời của gia tộc)
Thông thường, dân gian ta từ xưa quen dùng “gia phả”, tuy nhiên gia phả cũng có nhiều hình thức khác nhau.
1. Các vua chúa thời xưa không dùng chữ “gia phả” mà dùng “đại danh” “Ngọc phả”, hay là “Ngọc điệp”.
2. Các làng xã (căn bản hạ tầng của xã hội) xưa dùng chữ “Thần phả”, hay “Thánh phả” để biên chép các sự tích của thần thánh.
3. Đối với gia đình đại chúng, đặc biệt là các gia đình có truyền thống nề nếp gia phong còn dùng chữ “Tông phả”, Miền Nam nước ta xưa kia còn biến đổi thành “Tông chi”.
B.Về vật, ẩm thực: cuốn sổ kê cứu biên ghi về các loại kể sau cũng được gọi là phả (vì thực chất “phả” có nghĩa là biên ghi):
1.Chép các món ăn, gọi là Thực phả.
2.Dạy môn đánh cờ, gọi là Kỳ phả.
3.Ghi các âm thanh tiết tấu ca khúc lễ nghi, trình diễn, trưng bày gọi là Lễ phả.
4.Định rõ ký hiệu, phù hiệu (sáng tạo) cho một ca khúc, gọi là Nhạc phả, (Ngày nay, ta thường dùng thuật ngữ “phổ nhạc” để nói tới việc sáng tác, chuyển ghi thơ thành nhạc điệu).
Trong văn học, người ta còn gặp những chữ Phả sử (có nghĩa là ghi chép những sự kiện nhân vật thể chế, thời đại bên cạnh cuốn lịch sử chính thức được công nhận), Phả ký (“Đặng gia phả ký tục biên” của Đặng Ninh Hiên, khoảng năm 1763), Sự tích: (“Mộ Trạch Vũ tộc thế hệ sự tích”), Thực lục (có tính cách xác nhận là nguồn gốc có thực, như Trung Hưng thực lục 1676, của Hồ Sĩ Dương, 1621-1681, Đặng Công Chất 1616-?, Thiều Sĩ Lâm 1642, Đại Nam thực lục chính biên, của Trương Minh Giảng, ?-1841…)
Những sách này tuy chỉ đề cập tới lịch sự của một tộc họ, nhưng lại là tộc họ, gia đình lập quốc. Điều cần lưu ý là riêng cuốn Phan gia thực lục (1770) của Phan Huy Cần chú trọng thuật ghi lại những dữ kiện của lịch sử có liên hệ tới gia đình họ Phan Huy.
“Phả” gồm có hai bậc:
-Tộc phả
-Gia phả
TỘC PHẢ LỊCH SỬ LƯU TRUYỀN CHỦNG HỌ
Tộc phả, hay gọ là Tộc phổ, Thế phổ là cuốn sách biên ghi nguồn gốc và sự lưu truyền của cả tộc họ. Tộc phả được giữ gìn tại Tổ Đình hay Tổ miếu, nơi thờ phụng tổ tông, các bậc tiền nhân của một đại tộc danh vọng.
Tộc phả được người Trưởng Tộc hay người thừa tự giữ gìn cẩn thận, tiếp nối biên ghi những điều cần thiết liên quan tới một số đời người hay tộc họ. Tộc phả luôn được chuyền tay nhau ở dòng chính, những người thừa tự (con trưởng, thừa trọng tôn trọng còn gọi là cháu đích tôn) hoặc nói rõ hơn là ở đằng tông. Lẽ dĩ nhiên, theo truyền thống phụ hệ, nền giáo dục lưu truyền, những người vừa kể thuộc nam giới, cùng họ, đứng đầu ngành họ.
Một Tộc phả lâu đời có thể có đến ba mươi thế hệ. Gần đây có một vài sự kiện đáng chú ý.
- Ở Hàn Quốc, có một đại tộc mang họ Lý. Do theo Tộc phả, đây là họ Lý có nguồn gốc từ Việt Nam chớ không phải từ Trung Quốc sang. Cách đây bảy thế kỷ, vào khoảng đầu thế kỷ thứ 13, hay cuối thế kỷ 12, Hoàng tử Lý Long Tường cùng với gia đình, gia tướng vượt biển thoát khỏi đất nước khi nhà Trần đoạt ngôi nhà Lý và triệt hạ đẫm máu các tôn thất nhà Lý. Thuyền của Hoàng tử Lý Long Tường đi ngược về phía bắc và trôi giạt vào lãnh thổ của nước Triều Tiên xưa.
Hoàng tử cùng các bộ tướng giúp nước này chống cự lại quân xâm lược Nguyên Mông, sau đó được triều đình nước này cho định cư. Trải qua 700 năm, hậu duệ của Hoàng tử Lý Long Tường ở Hàn Quốc có đến trên 200 gia đình, dầu rằng đã trở thành người Hàn Quốc, vẫn nhớ mình có dòng máu Việt Nam. Đã có người trở về thăm quê hương đất Tổ.
- Một số gia đình vọng tộc đã tìm lại được Gia phả, truy ra tộc phả, nhờ đó dẫn dắt nhau tới Tổ đình, Tổ miếu để nhận ra những người cật ruột cùng một huyết thống. Một vài Tổ đình, Tổ miếu từ lâu bị hoang phế nay được trùng tu và tổ chức cúng giỗ. Một số gia đình nhận thức ra tộc họ mình đã có từ lâu đời, được tồn tại với bao nỗi thăng trầm của đất nước, với sự góp công gánh vác trách nhiệm xã hội, giữ gìn, bảo vệ lãnh thổ, của từng thế hệ hay từng đời nối tiếp.
- Có Tộc phả ghi khởi nguyên từ đời Đinh Lê. Có Tộc phả còn nguyên vẹn nhưng phần lớn đều bị suy suyễn ít nhiều. Tộc phả Vũ Đình lưu truyền được tới 19 đời. Tộc phả Hoàng triều Nguyễn Phước trước đây đã bị thất lạc nay được các thế hệ sau gắng công làm lại, in thành sách để phân phát cho các gia đình thuộc tộc họ. Tộc phả Vũ Đình trong năm 1994 cũng đã được in lại 500 bản để chia cho mỗi gia đình một cuốn.
Tộc phả đương nhiên lưu dấu tiến trình của văn hóa dân tộc. Khởi đầu, Tộc phả viết bằng chữ Hán. Sau đó có thể viết bằng chữ Nôm vào hai thế kỷ 18, 19 và tiếp theo được viết bằng chữ quốc ngữ theo vần a, b, c ráp nối vào thời kỳ sơ khai đầu thế kỷ 20 cho tới ngày nay.
Việc đọc và ghi lại Tộc phả đã được viết bằng hai hoặc ba thứ chữ viết như vậy cần cẩn thận. Xuyên qua một thời gian dài, giấy bị hư mực, chữ có thể mất nét, mất dấu gây nên tình trạng khó đọc, hiểu sai, nghĩ lầm.
Tốt hơn hết là phải ghi lại, làm lại một cuốn mới. Phải nhờ một người rành chữ Hán – Nôm đọc kỹ và suy luận cẩn trọng.
GIA PHẢ GHI NHẬN PHÁT TRIỂN VÀ GIÁO DỤC
Gia phả là tập sách ghi những biến chuyển của gia đình. Một Tộc họ được trường tồn qua hàng nhiều trăm năm sẽ có nhiều chi nhánh họ. Bởi vì mỗi thế hệ xưa, mỗi đời sinh ra nhiều con, mỗi người con lập ra một Chi nhánh khi nối tiếp sinh ra nhiều người hơn nữa.
Một Tộc họ đại thọ, đại thịnh càng về lâu về dài càng có nhiều gia đình con cháu. Trải qua thời gian dài con cháu vì quá đông, không hề biết nhau, chỉ có thể nhận nhau khi đem nguồn gốc ra kể, mà vật chứng có giá trị nhất vẫn là Tộc phả và Gia phả.
Tộc phả xác nhận nguồn gốc Họ, về người mở đầu Tộc họ (Thủy tổ). Còn Gia phả dẫn chứng về sự khai sáng Chi họ hoặc là về chuyện chuyển đổi họ (sẽ đề cập sau) hay là xác minh tính cách liên hệ quan trọng đến bậc nào giữa Chi nhánh họ với Tộc họ gốc.
Còn có sự khác biệt về Tộc phả và Gia phả:
1.Tộc phả là chứng cớ lịch sử lâu đời, về căn nguyên của một họ. Quyển sách này là căn bản của gia lễ, vì chỉ rõ mọi vấn đề cần thiết liên quan tới việc thờ phụng tổ tiên như là:
a) Nguyên quán xuất xứ của Tộc họ
b) Đình miếu thờ Thủy tổ họ nơi đâu
c) Các ngày giỗ kỵ của Tổ và các tiền nhân của họ
d) Lễ nghi cần phải theo đã được ấn định lưu truyền
e) Đôi khi cũng có tập quán, phong cách riêng biệt phải giữ gìn tuân thủ mà con cháu về sau không được phép khinh xuất (thí dụ: chi họ Hmok Pai của người thiểu số Êđê trên cao nguyên Đắc Lắc - Buôn Ma Thuột không được ăn thịt thỏ, vì đây là chi họ nhà thỏ theo truyền thuyết. Một vài họ người Kinh có một tập quán xấu, con cháu về sau làm ăn khá, có danh vọng, giàu sang mà không thể bỏ được, như là phải đi ăn xin một ngày trong năm khi có giỗ kỵ, chỉ vì xưa kia, Thủy tổ họ là một kẻ ăn mày hoặc là phải đi cắp vặt một món vật gì, bởi lẽ xưa kia Thủy tổ họ là một kẻ trộm vặt. Tuy nhiên, những tục lệ xấu này lần lần được bỏ vì nhận thức con người ngày càng tiến bộ hơn, đời sống khai hóa của con người cũng nhanh hơn).
2.Gia phả là một cuốn sách biên ghi có tính cách “mới” hơn Tộc phả, thường có nội dung đầy đủ, rõ ràng chi tiết về từng cá nhân một số người:
a) Ngày sinh, tử, tên Húy, Hiệu, Thụy…
b) Chức tước Phẩm trật, Quan hàm (nếu có) hay là công đức với xã hội.
c) Di ngôn (những lời dặn dò, trăn trối)
d)/ Những lời gia huấn
e) Những diễn biến trong phút lâm chung và tình hình tang lễ
f) Những ghi nhận về cá tính, đời sống, phẩm hạnh…
g) Một số đời gần gũi mà các thế hệ sau có thể biết và từng chung sống, thấy mặt cho nên có lòng tin, yêu kính nồng nhiệt hơn…
Bởi có tính cách gia huấn, Gia phả trở nên thực dụng thiết yếu cho đời sống ngày nay hơn Tộc phả, khi Tộc phả thường chỉ có liên quan tới gia lễ lại quá lâu đời.
Nói khác đi, Gia phải có tính chất “thiết thực và gần gũi” với các thế hệ đương thời hơn Tộc phả và là “văn bản” bổ sung cho Tộc phả, bởi Tộc phả chứa đựng nội dung bao quát (có nhiều thế hệ xưa, cách xa) nhiều chi họ, còn thiếu nhiều vấn đề mà người trong Tộc họ trước kia không thể ghi hết được.
Vì mang nhiều tính chất gia huấn. Gia phả thường được áp dụng thường xuyên ở mỗi gia đình trong khi Tộc phả phải luôn được giữ gìn ở Tổ đình, Tổ miếu hay nơi nhà thờ Tổ tông, còn tuỳ theo Tộc họ lớn nhỏ và có phải là vọng Tộc lâu đời hay không.
Ở trên là sự mô tả tính chất của hai loại “phả” còn tồn tại và người trong họ và gia đình có nhiệm vụ nối tiếp giữ gìn, biên ghi.
Trích lược từ Gia Phả - biểu mẫu và lược biên - Phạm Côn Sơn
Giới thiệu khái quát về họ Lưu Việt Nam
của TS Lưu Văn Thành
tại buổi họp mặt Họ Lưu VN tại Lưu Xá, ngày 19/4/2013
Kính thưa các vị khách quí,
Thưa các ông các bà đại diện cho các dòng họ Lưu toàn quốc Việt Nam,
Hôm nay thật sự là một ngày vô cùng cảm động và trọng đại, mang dấu ấn lịch sử đối với các bậc tiền bối của họ Lưu Việt Nam và với tất cả chúng ta. Theo tiếng gọi và sự giục giã của các cụ tổ tiên, chúng ta đã tập trung về Lưu Xá, tham gia cùng chính quyền và nhân dân địa phương kỷ niệm và tôn vinh Danh nhân dân tộc - Thái úy Lưu Khánh Đàm, một Cao tổ họ Lưu tiêu biểu nhất trong lịch sử từ trước đến nay.
Họ Lưu là một trong những dòng họ được nhắc tới sớm nhất trong lịch sử Việt Nam, đã xuất hiện từ thời Hùng Vương cách đây hơn 4.000 năm, có rất nhiều cao tổ tiêu biểu đóng góp to lớn cho đất nước, như:
- Thái sư Lưu Cơ, người Hoa Lư, là khai quốc công thần nhà Đinh, đã cải tạo thành Đại La từ hướng Bắc chuyển về hướng Nam, thể hiện sự độc lập, tự chủ của Hoàng đế Đại Cồ Việt ở Hoa Lư.
- Quản giáp Lưu Kế Tông đã cai quản phía Bắc nước Chiêm Thành, vùng đất do Vua Lê Đại Hành bình định được, nhằm ngăn ngừa âm mưu cấu kết với quân Tống xâm lược nước ta. Ông đã lên ngôi làm Vua Chiêm Thành được 03 năm.
- Thiếu bảo Lưu Ngữ, quan đại thần nhà Tiền Lê, được Vua Lê ban đất Lưu Xá làm thái ấp, sinh ra ba con trai là Thái úy Lưu Khánh Đàm, Thái phó Lưu Ba và Đại sư Lưu Lượng, làm rạng rỡ cho họ Lưu chúng ta.
- 26 danh nhân đại khoa Nho học, trong đó có 04 Trạng nguyên là Lưu Diễm, Lưu Miễn, Lưu Thúc Kiệm và Lưu Danh Công; đó là những người đã giữ trọng trách và đóng góp lớn lao cho các triều đại phong kiến của Việt Nam.
- Tướng Quốc Lưu Nhân Chú, cùng cha là Lưu Trung từ Đại Từ, Thái Nguyên vào Lam Sơn phò Lê Lợi đánh thắng và đuổi giặc Minh về nước, giải phóng đất nước sau 10 năm kháng chiến.
- Hai anh em Tướng quân Cần Vương là Lưu Điệt và Thượng thư Lưu Đức Xứng...
Khắp nước Việt Nam đều có các dòng họ Lưu sinh sống, trong đó nổi bật là một số địa danh nổi tiếng, như Thanh Hóa (huyện Yên Định, Hoằng Hóa...), Bắc Ninh (Trạm Lộ); Thái Bình (Hưng Hà, Thái Thụy...), Hà Nội (Thanh Trì, Gia Lâm...), từ Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Nghệ An, Đà Nẵng, Huế, Quảng Bình, Bình Định, TP Hồ Chí Minh cho đến Cà Mau; và có cả chi họ đang sinh sống lâu dài bên nước ngoài, như Canada, Pháp, Mỹ, Hàn Quốc v.v.
Thời nay, tiêu biểu có UVDK TƯ Đảng CSVN - Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện (tên thật là Lưu Văn Thi), nguyên Thứ trưởng Bộ QP, Ông Lưu Văn Mẫn - nguyên Phó CVP Trung ương Đảng CSVN, GS TSKH Lưu Trần Tiêu (Chủ tịch HĐ Di sản Quốc Gia, nguyên Thứ trưởng TT Bộ VHTTDL), Ông Lưu Minh Hiệu, nguyên PCT UBND tỉnh Thái Bình, TS Lưu Minh Trị (Chủ tịch Hội DSVH Thăng Long, nguyên PCT UBND Hà Nội)...; Về KHKT có hàng trăm GS, PGS, TS, điển hình nhất là GS TS Jane X. Luu (tên Việt là Lưu Lệ Hằng), được tặng 2 giải thưởng lớn “Nobel” năm 2012, tên GS TS Jane X. Luu được đặt cho một hành tinh 5430Luu. Trong nước, nổi bật có GS Luật sư nổi tiếng Lưu Văn Đạt; Nhà ngoại giao kiệt xuất Lưu Văn Lợi, GS TSKH Lưu Duẩn được giải “Thực phẩm toàn cầu” của Thế giới 2012...; 12 sỹ quan cấp tướng; Nhiều AH LLVT, Bà Mẹ VNAH, liệt sỹ, thương binh, đã cống hiến xương máu cho Tổ Quốc; Nhiều văn nghệ sỹ nỗi tiếng như GS Lưu Hữu Phước, nhà thơ Lưu Trọng Lư, nhà biên kịch Lưu Quang Vũ, nghệ sỹ Piano Lưu Hồng Quang, Hoa hậu Lưu Diễm Hương... và rất nhiều doanh nhân đang hoạt động phát triển kinh doanh hàng ngày.
Về nguồn gốc họ Lưu Việt Nam, trục chính phát triển họ Lưu là từ cái nôi xa xưa nhất ở Yên Định, Thanh Hóa; họ Lưu đã phân cư và di chuyển để hình thành các chi họ Lưu ở nhiều nơi trong cả nước. Ngoài ra, các nho sỹ họ Lưu sau khi đỗ Sinh đồ, Thám hoa, Cử nhân, Tiến sỹ..., được thăng quan, cai quản nơi họ đến quản lý. Ở đó họ sinh cơ lập nghiệp, hoặc làm thầy đồ dạy học, bốc thuốc... họ đã lập nên những trung tâm khai sáng học hành và phát triển dòng họ Lưu tại địa phương đó; hoặc có thể có dòng họ khác cải sang họ Lưu để bảo toàn nòi giống khi bị hoạn nạn; hoặc có một số chi nhánh họ Lưu từ nguồn gốc khác, như các nhà Nho học, quan chức Trung Hoa, sau khi thi đỗ và thành đạt là những người có năng lực, sang cai trị Việt Nam, cũng tạo dựng nên các dòng họ Lưu tại các địa phương do họ cai quản. Hơn nữa, do hậu quả nội chiến giữa triều Minh và nhà Thanh, nhiều người Hoa họ Lưu từ Quảng Đông đã di cư sang Việt Nam, qua đường biên giới - định cư ở một số tỉnh phía Bắc và qua đường biển - là người Minh Hương ở một số tỉnh phía Nam.
Mặt khác, một số chi họ Lưu Việt Nam cũng phải đổi sang họ khác, như họ Lưu - Phạm (xã Kim đường, Ứng Hòa, Hà Nội)..., nhất là vào thời kỳ Nhà Trần tiêu diệt Nhà Lý, bắt người họ Lý phải đổi sang họ Nguyễn, thậm chí có bộ phận họ Lý phải lưu vong sống bên Cao Ly. Họ Lưu là khai quốc công thần vương triều Lý nên cũng bị ảnh hưởng rất lớn, nhiều người bị giết cùng với vua tôi Nhà Lý, hoặc phải ly hương hoặc bị cải sang họ khác. Minh chứng điển hình là hiện tượng nhiều làng xưa là đất của họ Lưu, hoặc gắn bó với các quan thần họ Lưu nhưng nay không có bất kỳ người họ Lưu nào còn sinh sống, như làng Lưu Xá, làng Đại Từ (Hưng Yên), làng Thiệu Trung (Thanh Hóa - quê của Thiếu Bảo Lưu Ngữ, nguyên quán của Thái úy Lưu Khánh Đàm)…
Hiện nay, thông tin về các dòng họ Lưu toàn quốc còn tản mạn, chưa được bộc lộ nhiều nên khó kết nối các dòng họ lại với nhau được. Hy vọng, sau buổi họp mặt trọng đại hôm nay, sẽ có điều kiện kết nối và gắn bó nhiều hơn giữa các chi họ với nhau.
Để tạo điều kiện cho Lưu Tộc Việt Nam hoạt động có hiệu quả, bài bản trong thời gian sắp tới, BLL (lâm thời) họ Lưu Việt Nam có dự thảo “QUY ƯỚC LƯU TỘC VIỆT NAM”, mong các đồng tộc và các chi họ tham gia góp ý làm cơ sở cho BLL Lưu Tộc Việt Nam thống nhất phiên bản cuối cùng để đăng tải trên website luutoc.vn cho tất cả đồng tộc Họ Lưu cùng thực hiện.
Hoạt động của Lưu Tộc Việt Nam sắp tới tập trung vào 5 nội dung chính sau:
1. Thống kê danh sách toàn bộ Họ Lưu toàn quốc Việt Nam.
2. Tổ chức hội thảo về Họ Lưu Việt Nam, do các nhà sử học của Viện Sử học và Viện Nghiên cứu Hán Nôm chủ trì, dự kiến vào cuối năm 2014.
3. Kết nối các dòng họ Lưu của các địa phương; Sưu tầm và đối chiếu các gia phả, các tư liệu của các dòng họ Lưu còn lưu giữ được.
4. Tham dự các Lễ hội tại các địa phương, liên quan đến các danh nhân văn hóa - lịch sử của họ Lưu và thăm viếng các dòng họ Lưu lớn tại Việt Nam.
5. Khuyến học, khuyến tài con cháu họ Lưu và hỗ trợ các trường hợp con cháu họ Lưu có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong cuộc sống.
Giai đoạn đầu mới hình thành, BLL Lưu Tộc Việt Nam sẽ hoạt động trên cơ sở tự nguyện, với tinh thần cống hiến vì dòng họ Lưu Việt Nam là chính; các thành viên BLL sẽ tự trang trải chi phí cá nhân. Ngân quỹ của dòng họ sẽ dựa trên cơ sở đóng góp tự nguyện của các dòng họ và sự tài trợ của con em họ Lưu có điều kiện và lòng nhiệt tâm, tạo điều kiện thực hiện thành công 5 nội dung hoạt động đã đề ra ở trên.
Nhân dịp này chúng tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc tới toàn thể nhân dân làng Lưu Xá gần 1.000 năm nay đã bảo tồn được cụm di tích tâm linh Lưu Xá, gồm đền, chùa, đình, lăng mộ... để hôm nay con cháu họ Lưu được chiêm ngưỡng và thể hiện một phần đạo lý “uống nước nhớ nguồn” đối với Tổ tiên; Cảm ơn các cấp Đảng bộ, chính quyền xã Canh Tân, huyện Hưng Hà và tỉnh Thái Bình đã quan tâm và tạo điều kiện cho BLL phối hợp tổ chức và con cháu họ lưu được tham dự Lễ kỷ niệm 955 năm ngày giỗ Cao tổ Thái úy Lưu Khánh Đàm; đặc biệt cảm ơn Nhà báo Minh Chuyên (thành viên danh dự của Lưu Tộc Việt nam) đã dàn dựng bộ phim tài liệu “Người dâng kế dời đô” làm cầu nối cho chúng ta chính thức tập hợp liên hệ tìm về cội nguồn Lưu Tộc.
Cuối cùng, xin chúc buổi gặp mặt tình cảm, ấm cúng... thành công rực rỡ đúng như mong muốn của các bậc tiền bối - tổ tiên mong chờ. Xin chân thành cảm ơn./.
Hầu như, trong chúng ta, mỗi người đều lưu giữ trong tim hình ảnh người cha. Nhân dịp Father s Day cũng sắp đến, mời bạn cùng tôi làm một cuộc phiên lưu trong thế giới tình thương và hình ảnh của người cha.
Một chút lịch sử về Father s Day (tạm dịch: Ngày Từ Phụ).
Ở Mỹ, ngày Từ Phụ ngày Chủ Nhật thứ ba của tháng Sáu (3rd Sunday in June). Năm nay, ngày lễ này sẽ là ngày Chủ Nhật 18-06-2006. Mục đích của ngày lễ là để cho con cái tỏ lòng biết ơn và vinh danh người cha. Ngày lễ bắt đầu với ý kiến của của một phụ nữ Mỹ, tên Sonora Smart Dodd, sinh trưởng ở Spokane, tiểu bang Washington muốn ghi nhớ và vinh danh công ơn của cha. Và vì cha của Dodd sanh vào tháng Sáu, nên Dodd đã tổ chức ngày lễ Từ Phụ đầu tiên của nước Mỹ ở Spokane, Washington vào ngày 19 tháng 6 năm 1910. Đến năm 1924, thì Tổng Thống Calvin Coolidge đã chính thức hoá ngày Chủ Nhật thứ ba của tháng Sáu mỗi năm, là ngày Từ Phụ cho nước Mỹ. Theo truyền thống của ngày lễ Từ Phụ thì mang hoa hồng đỏ cho người cha còn sống, và hoa hồng trắng nếu người cha đã mất.
Như chúng ta biết, trong cuộc sống của con người thì "tình thương" rất là cần thiết, như chất đốt cần thiết để giữ ngọn lửa cháy, như gạch, ngói và các vật liệu xây dựng cần thiết để xây một ngôi nhà đẹp. Đời sống của một con người tương tự như vậy, không thể thiếu tình thương. Một người, có được tình thương càng nhiều thì cuộc sống càng dễ dàng và hạnh phúc hơn. Khi nói đến chữ “tình thương” thì không có thứ tình cảm nào có thể sánh bằng tình thương của cha mẹ. Đó là một thứ tình yêu thiêng liêng, cao cả, mênh mông sâu xa như biển cả. Một thứ tình thương không có đối tượng để so sánh, cũng chẳng bút mực, ngôn từ nào có thể diễn tả trọn vẹn, chỉ có thể tạm ví như ngọn núi Thái hay như nước trong nguồn chảy ra.
"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra".
Núi có thể lở mòn, nguồn nước có thể cạn. Nhưng nguồn tình thương của cha mẹ thì không bao giờ cạn, tình cha nghĩa mẹ không vơi đầy thay đổi với thời gian. Tình thương của cha mẹ đã trở thành suối nguồn bất tận, tích tụ, vun bón từ bao đời và đã thấm sâu vào máu xương, gan thịt của con người. Như nước luôn chảy xuôi dòng, như mưa luôn rơi từ trên cao, dù con có ngoảnh mặt hay hân hoan đón nhận thì tình thương của cha mẹ lúc nào cũng sẳn sàng bên cạnh. Cha mẹ luôn âm thầm chở che, dìu dắt và dõi theo từng bước chân bé bỏng của con đang chập chững bước vào đời và ngay cả lúc con đã trưởng thành. Tình cha, tình mẹ sẽ mãi mãi là một bản tình ca bất diệt của loài người.
Tình cha và tình mẹ có khác nhau không? Câu trả lời đúng nhất có lẽ là tình cha và tình mẹ vừa giống nhau và vừa khác nhau. Giống nhau vì đều là tình thương, đều xuất phát từ một thể, từ cùng một điểm hay vị trí của bậc sanh thành và con cái là kết quả của tình yêu, là "máu huyết" của cả hai. Điểm khác nhau là sự biểu hiện, sự cảm nhận của tình cha và tình mẹ qua hai khía cạnh của cuộc đời. Nói một cách khác, là cha và mẹ là hai thực thể khác biệt, có hai vai trò tương đối khác biệt trong cuộc sống của gia đình, dẫn đến sự biểu hiện tình thương của cha mẹ khác nhau, sự cảm nhận của con cái về tình cha và tình mẹ cũng khác nhau.
Nói đến tình mẹ, thì dường như ai cũng dễ dàng cảm nhận được. Bởi tình mẹ, một tình thương ngọt ngào, gần gũi và thân quen với chúng ta. Mẹ bằng cử chỉ âu yếm, vỗ về, nâng niu, bảo bọc với những ngôn từ nhẹ nhàng, trìu mến v.v… luôn đem đến cho con một cảm giác êm mát, dịu hiền. Mẹ lúc nào cũng quấn quýt bên con, luôn chia sẻ với con những vui buồn, được mất, những nỗi niềm tâm sự nhỏ to, đáp ứng hầu hết những yêu cầu và ước muốn của con.
Tình mẹ là thế, còn tình cha thì sao?
Cha không thể hiện bằng tình thương ngọt ngào như chuối ba hương, như xôi nếp một, như đường mía lau giống mẹ. Tình cha vừa thâm trầm, lắng đọng vừa nghiêm khắc giá băng, nhưng cũng rất dạt dào, dịu ngọt nếu con biết tận hưởng được tấm lòng cha. Tình cha không những lai láng dịu mềm như dòng nước mà nó còn ấm áp, đượm nồng như vầng thái dương. Cha uy nghi, sừng sững như núi Thái, chịu đựng và che chắn bão giông cho con được yên bình dưới bầu trời quang đãng. Cha âm thầm, lặng lẽ như chiếc bóng theo sát cuộc đời con và che chở con bằng cả cuộc đời cha. Đúng vậy, tình cha là như thế đó, thâm trầm và sâu thẳm. Nếu chúng ta không có cái nhìn tinh tế và cảm nhận sâu sắc thì khó thấy được hết tấm lòng của cha:
Con đúng sai cha chẳng hề để dạ
Vui hay buồn cha giữ lại trong tim
Như núi cao trong giông bão im lìm
Như đáy biển từ muôn đời yên lặng
Tình của cha thẳm sâu và bí ẩn
Bên cạnh con từ thuở mới lọt lòng
Ngoài giá băng nhưng trong rất ấm nồng
Từng bước nhỏ vào đời, con sẽ thấy.
Nếu chúng ta để ý, thì trong kho tàng văn chương của nhân loại, có rất nhiều áng thơ văn ca ngợi và vinh danh người mẹ với đầy đủ chi tiết hình ảnh, ngôn từ đẹp đẽ nhất, thiêng liêng nhất. Nhưng bên cạnh đó, hình ảnh người cha lại mờ ảo, nhạt nhòa, khiến cho một số người quan tâm phải thắc mắc là tại sao như vậy?
Nếu ta thử trầm mình vào thế giới của cha, thì sẽ khám phá ra một kỳ quan tuyệt hảo nhất là trái tim thương yêu vô bờ bến của cha, một tình thương dạt dào bát ngát như biển trời, chẳng khác nào tình thương của mẹ. Nhưng tình cha ít khi biểu lộ rõ ràng ra bên ngoài, mà thường thì chỉ biểu hiện trong âm thầm lặng lẽ. Chính sự âm thầm lặng lẽ của cha, đôi khi làm cho các con vô tình lãng quên, sự hiện diện của cha trong cuộc đời mình. Cũng vì thế, mà hình tượng người cha hiền kính yêu của chúng ta, bị lu mờ bên ánh hào quang rực rỡ của mẹ, trong hầu hết các áng văn thơ.
Ngày xưa, dưới thời Nho giáo, cha được gọi là nghiêm đường, nên thường phải mang bộ mặt lạnh lùng như của một ông quan. Xã hội hôm nay, văn minh hơn, trí thức hơn, trong cuộc sống, cha một nghề, con một nghề, ai lo phần nấy, rốt cuộc thì tình thương cha con cũng trở nên lợt lạt. Sự quấn quýt, gần gũi giữa cha con chỉ thể hiện khi con còn nhỏ. Qua bậc tiểu học, con bắt đầu lớn, bắt đầu chọn bạn là lúc bắt đầu xa cha. Từ đó, hầu như cha chỉ còn đóng vai: nguồn cung cấp tiền bạc cho con ăn học, nguồn kinh nghiệm khôn dại, những lời chỉ bảo khuyên răn. Tất cả đều là lý trí lạnh lùng.
Cuộc sống bắt buộc, cha phải hướng mắt, nhìn ra ngoài đời, lăn lộn và tranh đấu với đời. Mẹ thì nhìn vào trong nhà, nhìn mảnh vườn, cái bếp và các con. Cha lặng lẽ đi làm kiếm tiền, con đâu có biết, bao nhiêu gian lao cực nhọc, lo toan đối phó, làm mệt mỏi thể lực và trí óc cha. Về đến nhà cha cần sự yên nghỉ, nhiều khi lại mang bực bội, phiền muộn từ ngoài xã hội về theo. Con phải len lén bỏ ra sau nhà, im lặng, càng xa càng tốt, gần như muốn xóa bỏ cái hiện hữu của mình trong mắt cha. Sự cách xa giữa cha con thường bắt đầu nhẹ nhàng như vậy. Và sự xa cách này càng xa hơn, vì bên cạnh mẹ, con thấy êm đềm hơn. Ai làm ra tiền, con không cần biết, muốn một viên kẹo, muốn một cái bánh ... là chỉ cần thỏ thẻ với mẹ. Mua cây viết mới, sắm đôi dép mới... đều do mẹ đóng vai bà tiên. Tội cho người cha, bên cạnh người mẹ, bà tiên hiền, cha thành người dữ; bà tiên càng hiền, hình ảnh của cha càng trở thành dữ hơn nữa.
Thật là bất công cho hình ảnh người cha, bên cạnh hình ảnh của người mẹ, trong mắt người con. Cha thương con và đâu có muốn như vậy. Nhưng cuộc sống thực tế phân công, mỗi người, mỗi việc. Mẹ như nhánh thấp, cành gần, để trái non xúm xít bu quanh. Cha như thân cây vững chắc, bám rễ thật chặt, hút nhựa nuôi lá, nuôi hoa, nuôi trái. Từng cành lớn từ thân cây, đâm ngang, vươn cao che mưa che nắng. Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ lạc lòng, cha phải giữ kỷ cương. Mẹ chín bỏ làm mười, cha phải cầm cân nảy mực. Vì vậy, lúc nhỏ thì con có thể gần gũi với cha. Nhưng từng bước, trên con đường đi vào trưởng thành, từ con khoảng trên mười hai tuổi, thì do vai trò của người cha trong gia đình: nghiêm khắc, cứng rắn ... để dạy dỗ con, phải được áp dụng. Con lại càng ngại cha hơn, xa cha hơn và càng gần gũi với mẹ hơn. Có thể nói, là con chỉ có thể hiểu được cha và thương cha nhất, khi chính bản thân người con, đang trải qua đoạn đường làm cha. Nhưng đôi khi thì đã quá trễ. Cha đã không còn bên cạnh nữa.
Hình ảnh của một người cha trong mắt của con thay đổi tùy theo giai đoạn trưởng thành có lẽ đúng như một tác giả khuyết danh đã viết bằng tiếng Anh (1). Tạm dịch như ở dưới:
Cha Tôi,
Lúc tôi:
4 tuổi: Cha tôi là người làm được tất cả mọi việc.
5 tuổi: Cha tôi là người biết rất nhiều việc.
6 tuổi: Cha tôi biết nhiều hơn cha của bạn.
8 tuổi: Cha tôi không nhất thiết biết hết mọi việc.
10 tuổi: Thời tuổi thơ của cha tôi. Chắc chắn mọi việc khác với hiện tại.
12 tuổi: Cha tôi già rồi. Ông không biết và không nhớ gì về tuổi thơ của ông đâu.
14 tuổi: Cha tôi là ông già xưa. Bạn đừng có để ý đến ông.
21 tuổi: Cha tôi? Ông không hiểu và theo kịp chuyện của thế hệ trẻ đâu.
25 tuổi: Cha tôi chắc biết chuyện này vì ông đã từng trải qua rồi.
30 tuổi: Nên hỏi ý kiến của cha tôi. Ông có kinh nghiệm sống.
35 tuổi: Tôi phải hỏi ý kiến của cha tôi trước khi quyết định chuyện này.
40 tuổi: Tôi tự hỏi. Nếu là cha, thì cha sẽ quyết định làm việc này ra sao? Quyết định của ông luôn đúng, hợp tình, hợp lý.
50 tuổi: Phải chi cha tôi còn sống để tôi có thể bàn chuyện này với ông. Thiệt là đáng tiếc, tôi đã bỏ lỡ cơ hội để học những hiểu biết và kinh nghiệm quí giá từ ông.
Nói về hậu quả của sự thiếu vắng cha. Trong dân gian, có những câu ca dao:
"Con có cha như nhà có nóc,
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi".
Hay
"Còn cha gót đỏ như son
Một mai cha chết, gót con đen sì".
Qua những câu ca dao trên, chúng ta có thể thấy được trách nhiệm và vị trí của người cha đóng vai trò rất quan trọng với cuộc đời của người con. Nếu mẹ dạy con tình thương yêu và lòng nhẫn nại, thì cha dạy con lòng cao thượng bao dung, un đúc trong con lòng trung kiên và ý chí bất khuất. Người con sẽ thành công dễ dàng hơn nếu được thừa hưởng đầy đủ và hài hòa giữa tình cha và tình mẹ. Thiếu một trong hai yếu tố này thì người con đã mất đi phân nửa cuộc đời. Là con người, thì ai cũng có cha mẹ. Nói một cách khác, thì bất cứ ai cũng là con. Và có thể nói nửa phần đời của con là do cha ban tặng. Vì vậy, dù có xuôi ngược trên vạn nẻo đường đời, mong rằng các người con đừng bao giờ lãng quên một điều: Cuộc sống của ta có được hôm nay là do sự gầy dựng, đắp xây và đánh đổi bằng cả cuộc đời hy sinh thầm lặng của cha. Từng nhịp thở, từng bước chân ta luôn có sự hiện diện của cha trong đó.
Xin gởi một bông hồng đến những người cha trong ngày Lễ Từ Phụ.
Lý Lạc Long
(1) My Father,
when I was:
Four years old: My daddy can do anything.
Five years old: My daddy knows a whole lot.
Six years old: My dad is smarter than your dad.
Eight years old: My dad doesn t know exactly everything.
Ten years old: In the olden days, when my dad grew up, things were sure different.
Twelve years old: Oh, well, naturally, Dad doesn t know anything about that. He is too old to remember his childhood.
Fourteen years old: Don t pay any attention to my dad. He is so old-fashioned.
Twenty-one years old: Him? My Lord, he s hopelessly out of date.
Twenty-five years old: Dad knows about it, but then he should, because he has been around so long.
Thirty years old: Maybe we should ask Dad what he thinks. After all, he s had a lot of experience.
Thirty-five years old: I m not doing a single thing until I talk to Dad.
Forty years old: I wonder how Dad would have handled it. He was so wise.
Fifty years old: I d give anything if Dad were here now so I could talk this over with him. Too bad I didn t appreciate how smart he was. I could have learned a lot from him.
Writer: Unknown
CHỬ ĐỒNG TỬ VÀ CHỮ HIẾU
Kinh Thi viết:
“Phụ hề sinh ngã.
Mẫu hề cúc ngã.
Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao.
Dục báo thâm ân, hạo thiên võng cực”
Kinh Thi nói rằng: "Cha sinh ta, mẹ nuôi ta, Xót thương cha mẹ sinh ta khó nhọc. Muốn báo ơn cha mẹ, nhưng ơn cha mẹ như trời cao chẳng cùng."
Chữ Hiếu theo Tự điển Đào Duy Anh có nghĩa là hết lòng thờ cha, mẹ.
Hiếu là một phạm trù đạo đức của Nho giáo Trung Quốc. Cùng với Trung (忠), Hiếu xây dựng các quy tắc ứng xử của con người trong hai mối quan hệ xã hội và gia đình. Vì thế, dưới chế độ phong kiến: “Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ sử tử vong tử bất vong bất hiếu”
(Vua khiến tôi chết, tôi không chết là tôi chẳng trung. Cha khiến con chết, mà con không chêt là con chẳng hiếu…) và không ít trung thần, hiếu tử đã trở thành nạn nhân của quan niệm phong kiến, cực đoan đó.
Tuy nhiên, khi du nhập vào Việt Nam, Nho giáo nói chung, quan niệm về chữ Hiếu nói riêng đã được Việt hoá về nhiều mặt và nảy sinh những cách hiểu cũng như hành vi hiếu thảo mang tính thực tiễn theo quan niệm chữ Hiếu của nhân dân ta, đã trở thành văn hoá đạo hiếu của dân tộc ta.
Chữ Hiếu theo quan niệm của Nho giáo chính thống ở nước ta tuy vẫn chuyển tải đầy đủ ý nghĩa ban đầu nhưng nội hàm đã được mở rộng nhằm phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh và con người cụ thể: Lời dặn của Nguyễn Phi Khanh đối với Nguyễn Trãi “Con về lập chí, rửa nhục cho nước, trả thù cho cha, như thế mới là đại hiếu”. Hiếu ở đây không chỉ đối với cha mà còn Hiếu với nước. Bác Hồ kính yêu cũng đã dạy: “Trung với nước, Hiếu với dân”.
Trong xã hội, khi quan hệ cá nhân gắn liền quan hệ cộng đồng dân tộc thì chữ Hiếu trong quan hệ gia đình cũng hình thành những nét nghĩ mới. Việc làm của Nguyễn Trãi trong suốt quãng đời còn lại là quá trình làm tròn chữ Hiếu với cha nhưng cũng là thực hiện đạo Hiếu đối với dân với nước. Nhưng trước hết, bản thân Nguyễn Trãi nghe theo lời cha dạy, quay về mưu cầu việc lớn phò minh chúa Lê Lợi đánh giặc Minh là hành động cụ thể đúng theo tinh thần chữ Hiếu trong quan niệm chính thống của Nho giáo Việt Nam. Nguyễn Trãi ăn lộc nhà Trần, thành danh và ra làm quan cho nhà Hồ và là bậc khai quốc công thần của nhà Lê nhưng không ai cho Nguyễn Trãi bất trung! Bởi vì, tuỳ duyên nhưng bất biến. Trường hợp Nguyễn Trãi, hiếu với dân, hiếu với nước rõ ràng là một bước tiến dài mang ý nghĩa hoàn chỉnh, trong quan niệm về chữ Hiếu của nhân dân ta.
Câu chuyện “Chử Đồng Tử” sau đây là một bằng chứng thấu tình, đạt lý về chũ HIẾU.
Theo Lĩnh Nam Chích Quái của Vũ Quỳnh - Kiều Phú: “Vua Hùng thứ ba có người con gái tên Tiên Dung Mỵ Nương đến tuổi 18 dung mạo đẹp đẽ, không muốn lấy chồng, chỉ mãi vui chơi, chu du khắp thiên hạ. Hồi đó ở làng Chữ Xá có ngư dân là Chữ Vi Vân sinh hạ được Chử Đồng Tử (người con trai ở bên sông). Chẳng may, nhà gặp hoả hoạn, của cải sạch không, chỉ còn lại một cái khố vải, cha con ra, vào thay nhau mà mặc. Người cha, tuổi già, đau ốm, trước khi nhắm mắt gọi con đến bảo rằng:
“Cha chết cứ để trần mà chôn, giữ khố lại cho con.” Chữ Đồng Tử không nở làm theo, dùng khố mà liệm bố.
Từ đó, Đồng Tử thân thể trần truồng, hể nhìn thấy có thuyền buôn qua lại thì đứng ở dưới nước mà ăn xin, rồi câu cá, hái rau độ thân. Không ngờ, một hôm, thuyền của Tiên Dung đến, chuông trống, đàn sáo, kẻ hầu, người hạ rất đông. Trên bãi cát có khóm lau sậy, Đồng Tử bèn nấp trong đó, bới cát thành lỗ nằm xuống và phủ cát lên mình. Lát sau, Tiên Dung cắm thuyền dạo chơi trên bãi cát, ra lệnh vây màn trướng ở khóm lau mà tắm.
Tiên Dung vào màn, cởi áo, dội nước, cát trôi, phát hiện Đồng Tử. Tiên Dung kinh sợ, thấy là người con trai, bèn nói: “Ta vốn không muốn lấy chồng, nay lại gặp người, cùng ở trần với nhau, đó chính là do duyên trời xui khiến nên vậy. Người hãy đứng dậy tắm rửa, ta ban cho quần áo mặc, rồi cùng ta xuống thuyền, mở tiệc ăn mừng. Người trong thuyền đều cho đó là cuộc giai ngộ xưa nay chưa từng có.
“Chử Đồng Tử ” là câu chuyện mà qua đó, dân gian ta “phản ánh nguyện vọng, ước mơ tự do hôn nhân và đề cao đức tính hiếu thảo” qua hai nhân vật Chử Đồng Tử và Tiên Dung.
Chử Đồng Tử là người con rất có hiếu đối với cha. Điều này thể hiện qua chi tiết chàng đã “đóng khố cho cha rồi mới chôn” dù cả hai cha con chỉ có chung một chiếc khố dùng thay nhau và trước đó, cha chàng đã dặn “cứ giữ lấy mà dùng”. Nhưng nghĩa tử là nghĩa tận, Chử Đồng Tử đã không nỡ để cha mình trần về nơi chin suối. Việc Chử Đồng Tử không nghe lời cha, nếu xét theo quan niệm chữ Hiếu của Nho giáo bảo thủ không những không được coi là hiếu thuận mà ngược lại, còn bị cho là bất hiếu. Thế nhưng, sự thực là không ai không xúc động trước tấm lòng hiếu thảo sâu nặng của chàng, cũng không ai chê trách mà tất cả đều đồng lòng ngợi ca hành động hiếu nghĩa đó. Trong trường hợp này, dân tộc ta đã có quan niệm rất thực tế về chữ Hiếu. Chử Đồng Tử, dù không nghe lời cha (là biểu hiện của sự bất hiếu) nhưng việc chàng làm lại toả sáng một tấm lòng rất mực hiếu thảo. Chử Đồng Tử đã được dân gian ban tặng “phần thưởng” là một cô Công chúa xinh đẹp để làm vợ. Quả thật đây là phần thưởng vô cùng cao quý mà không bạc vàng nào sánh được (Vì không thể dùng của cải vật chất làm thước đo lòng hiếu thảo con người). Chi tiết này thể hiện cách nghĩ hết sức thâm thuý, thấm đẩm tính chất nhân văn và có thể coi là sự bổ sung cho quan niệm về chữ Hiếu trong dân gian của dân tộc ta.
Công chúa Tiên Dung, nếu xét theo tiêu chí và quan niệm về chữ Hiếu của Nho giáo bảo thủ, cố chấp được coi là một người con “bất hiếu” bởi không nghe lời cha, “không chịu lấy chồng” và tự ý định đoạt hôn nhân cho mình – hành động “mặc áo qua đầu” vốn bị coi là cấm kỵ trong xã hội phong kiến về mối quan hệ giữa con cái đối với cha mẹ. Và Chử Đồng Tử, một chàng trai hiếu thảo, trớ trêu thay, lại được dân gian dành cho phần thưởng là một cô con gái “bất hiếu”! Thoạt nhìn, tưởng như dân gian ta có ý “chơi khăm” nhân vật của mình nhưng kỳ thực thì không phải vậy.
Trong nhận thức của nhân dân ta, Tiên Dung chưa bao giờ bị coi là bất hiếu bởi việc nàng làm chẳng những không phương hại đến ai mà còn hướng đến lẽ đời cao đẹp với hôn nhân tự do và sự phân định đẳng cấp xã hội bị xoá nhoà. Cái sâu sắc của dân gian ta ở đây là tạo ra cái nghịch lý bên ngoài để làm sáng lên cái có lý bên trong. Chử Đồng Tử xứng đáng được ban thưởng và Tiên Dung cũng xứng đáng với tư cách “phần thưởng” của mình.
Truyện “Chử Đồng Tử” kết thúc với việc Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay về trời cũng là dụng ý của dân gian, nhằm tránh sự xung đột trong quan hệ vua-tôi, cha-con giữa Chử Đồng Tử và Tiên Dung với vua cha, khi mà nhà vua cử binh tiến đánh để Trung và Hiếu được vẹn toàn. Truyện cổ tích, nhất là cổ tích thần kỳ của nhân dân ta phản ánh thời kỳ “ngây thơ” trong lịch sử xã hội loài người nhưng những gì được thể hiện trong “Chử Đồng Tử ” lại cho thấy quan niệm và cách xử lý tình huống không hề ngây thơ.
Quan niệm về chữ Hiếu qua câu chuyện về chàng trai họ Chử có màu sắc phong phú và giá trị thực tiễn phù hợp với đời sống tâm lý xã hội cộng đồng, dù vẫn giữ cái hạt nhân cốt lõi của quan niệm về chữ Hiếu. Việc tiếp thu và vận dụng văn hoá, tư tưởng nước ngoài bằng trí tuệ, tâm hồn và đạo lý dân tộc của người Việt qua truyện “Chử Đồng Tử ” nói riêng, trong quá trình xây dựng và phát triển bản sắc văn hoá, tư tưởng dân tộc nói chung luôn là điều khiến ta phải suy ngẫm và thán phục.
Đối với đạo Phật, Rằm tháng bảy hằng năm, lễ hội Vu Lan, lễ bông hồng cài áo, là mùa báo hiếu, Bởi vì: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh”.
Lòng hiếu tức là lòng Phật. Hạnh hiếu há chẳng phải là hạnh Phật sao?.
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹp và lâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, cho đến ngày nay. Vì thế ca dao ta có câu:
"Công Cha như núi Thái Sơn
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ Mẹ kính Cha,
Cho trọn chữ hiếu mới là đạo con."
Trí Bửu - Mùa Vu Lan Báo Hiếu - 2010
XUÂN NHƯ Ý
Xuân đến, Xuân đi, Xuân lại lại
***
Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ
Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường
***
Năm con cọp sống sao đừng xấu hổ
Mắt chưa mờ sờ chưa lộn cái chi chi
Gắng kịp bước cùng các anh các chị
Ai cũng già ta cững tới đó! Thôi đi.
Khai bàn phím Mùng Một Tết Canh Dần
***
Năm con cọp sống sao đừng xấu hổ,
Tết Canh Dần giữ cho đẹp như xuân.
Chiều Mùng 3 Tết Canh Dần (16-02-2010)
***
Không pháo, đối Tết luôn là Tết
Có Mai, Đào Xuân đã là Xuân!
***
Con cháu thảo hiền vui tuổi lão
Gia đình hoà thuận đẹp tình xuân
***
Năm con Rắn, nên mềm, đừng hành động cứng rắn
Tết Quý Tỵ, chớ hiểm, không nghĩ suy ganh tỵ
Mùng 1 Tết Quý Tỵ - 2013