Ôn Cố Tri Tân
Có Thể Bạn Chưa Đọc
Câu chuyện 1:
Một vị thiền sư nhìn thấy một con bọ cạp bị rơi vào vũng nước, liền muốn cứu nó. Không ngờ vừa mới đụng tay vào, đã bị bọ cạp cắn vào tay. Vị thiền sư vẫn không sợ hãi, lại cho tay vào, nhưng lại một lần nữa bị con bọ cạp hung hăng cắn.
Vừa hay lúc đó, có một người đi ngang qua nói:“Con vật này xưa này hay cắn người, làm sao phải cứu nó?”. Thiền sư đáp: “Cắn người là bản tính của nó, còn Thiện là bản tính của tôi, tôi sao lại có thể vì bản tính của nó mà quên mất bản tính của mình được chứ!”
Cảm ngộ:
Sai lầm của chúng ta là ở chỗ, vì chịu tác động bởi ngoại cảnh mà thay đổi quá nhiều bản thân mình.
Câu chuyện thứ 2:
Nelson Mandela từng bị giam giữ và xúc phạm trong suốt 27 năm. Đến khi ông trở thành Tổng thống Nam Phi, ông đã mời 3 người cai ngục từng canh giữ ông trong thời gian chốn lao tù đến gặp mặt. Khi Mandela đứng dậy cung kính chào 3 vị này thì mọi người có mặt và trên toàn thế giới đều phải tĩnh lặng.
Ông nói: “Khi tôi bước ra khỏi phòng giam của mình, đi qua cánh cổng nhà tù để được tự do, tôi đã hiểu rõ ràng rằng, nếu không thể để nỗi đau của riêng mình và oán giận ở lại đằng sau, thì tôi vẫn là còn ở trong tù”.
Cảm ngộ:
Tha thứ cho người khác, nhưng thực ra là giải thoát chính mình.
Câu chuyện thứ 3:
Có một người hỏi vị nông phu: “Trồng loại lúa mì nhé?”. Nông phu đáp: “Mỗi ngày đều phải chăm sóc nó thật tốt! Không, tôi sợ rằng trời sẽ không mưa”. Người kia lại hỏi: “Vậy ông trồng bông không?”, nông phu nói: “Không, tôi lo lắng sâu sẽ ăn bông”. Người kia hỏi tiếp: “Vậy ông sẽ trồng loại cây gì?”. Nông phu nói rằng: “Cây gì cũng không được, tôi muốn đảm bảo chắc chắn an toàn”.
Cảm ngộ:
Mọi điều đều không muốn nỗ lực, đều không muốn mạo hiểm, luôn sợ rủi ro, những người vô tích sự như vậy đương nhiên sẽ không làm nên việc gì.
Câu chuyện thứ 4:
Có một con quạ đang bay trên đường thì đụng phải một ngôi nhà chim bồ câu. Bồ câu hỏi:“Bạn muốn bay đi đâu?”. Quạ nói: “Thực ra là tôi không muốn đi, nhưng vì mọi người đều lo ngại rằng tiếng kêu của tôi không tốt lành, cho nên tôi phải rời đi”. Bồ câu nói với quạ: “Vậy thì tốt nhất là bạn đừng phí công vô sức! Nếu bạn không thực sự thay đổi tiếng kêu của mình thì cho dù bạn đi đến chỗ nào cũng sẽ đều không được chào đón”.
Cảm ngộ:
Nếu bạn mong muốn hết thảy mọi thứ xung quanh mình trở nên tốt đẹp, thì trước tiên hãy thay đổi chính mình.
Câu chuyện thứ 5:
Một gia đình có 3 người con trai, lũ trẻ từ nhỏ đã phải lớn lên trong tiếng cãi vã giữa cha mẹ, mẹ của chúng thường xuyên bị đánh tới mức thương tích khắp người. Người anh cả nghĩ: “Mẹ của mình thật đáng thương! Ta sau này nhất định sẽ đối xử tốt với vợ của mình”. Người anh thứ 2 nói: “Hôn nhân thật vô nghĩa, ta khi trưởng thành nhất định sẽ không kết hôn”. Người em út nói:“Hóa ra, làm chồng là có thể đánh đập vợ mình như vậy!”
Cảm ngộ:
Với cùng một hoàn cảnh nhưng sẽ có những lối suy nghĩ khác nhau, cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống sau này. Vì vậy, là cha mẹ ngoài việc giáo dục con cái bằng những hành động gương mẫu của mình, thì lời nói cũng vô cùng quan trọng.
Câu chuyện thứ 6:
Giai thoại về Nguyễn Bính
Sinh thời, nhà văn Chu Văn và họa sĩ Nguyệt Hồ rất hay kể cho tôi nghe những kỷ niệm của họ với nhà thơ Nguyễn Bính. Nhà văn Chu Văn thì mãi tới thời kỳ làm Trưởng ty Văn hóa tỉnh Nam Định, ông mới sống cùng Nguyễn Bính.
Còn Nguyệt Hồ thì làm bạn với Nguyễn Bính ngay từ thuở họ đang đặt những bước chân đầu tiên vào làng văn nghệ. Nguyệt Hồ xuất hiện trước Nguyễn Bính.
Ông sống ở Nam Định nhưng thường xuyên được các ông chủ báo ở Hà Nội mời vẽ minh họa. Chính Nguyệt Hồ giới thiệu Nguyễn Bính với ông chủ bút báo “Tiểu thuyết thứ năm” là nhà thơ Lê Tràng Kiều để Nguyễn Bính được đăng tác phẩm đầu tiên ở tờ báo này là bài “Cô hái mơ".
Đấy là vào những năm cuối thập kỷ ba mươi, đầu thập kỷ bốn mươi ở thế kỷ trước, thời kỳ dòng Thơ Mới xuất hiện. Giống như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính cũng bắt đầu làm thơ khi còn rất trẻ và sống ở tỉnh nhỏ.
Tại Nam Định ngày ấy có một nhóm văn nghệ sĩ chơi với nhau:
Nguyễn Bính, Nguyệt Hồ, Vũ Hoàng Chương, Phong Giao, Trúc Đường…
Nhưng nhóm này không chỉ quan hệ bạn bè khép kín trong phạm vi một tỉnh mà họ còn chơi với nhiều văn nghệ sĩ Thủ đô và các tỉnh khác như
Tô Hoài, Lê Tràng Kiều, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Anh Thơ, Ngân Giang, Nguyễn Vĩ, Hoàng Tấn, Trúc Khê, Vũ Trọng Can, Trúc Sơn, Hoàng Lập Ngôn, Trương Tửu…
Hồi ấy đường sá, xe cộ khó khăn, nhưng họ tìm đến với nhau như cơm bữa. Họ chơi với nhau thân tình, rất thoáng đãng nghệ sĩ nhưng vẫn giữ cái nếp sống đạo lý, tự trọng và quý tài năng của nhau.
Họa sĩ Nguyệt Hồ kể rằng, ngày ấy các nhà thơ chơi với nhau lấy tài năng thi ca, tài ứng đối, tài chơi chữ… để hấp dẫn nhau, quý trọng nhau nên tình bạn của họ rất bền chặt.
Chẳng hạn, một lần nhà thơ Trúc Khê mời một nhóm bạn gồm Nguyễn Bính, Ngân Giang, Trần Huyền Trân về nhà mình ở Ngô Sơn chơi. Họ ngồi uống rượu dưới trăng. Ông chủ nhà Trúc Khê ra đề tài “Đêm hội Ngô Sơn” để các bạn xướng họa:
Non Ngô dưới ánh trăng rằm
Duyên may hội ngộ tri âm buổi này
Trần Huyền Trân liền đọc tiếp:
Rượu nồng chưa nhấp đã say
Nhưng tình đã thấy rót đầy lòng nhau
Nguyễn Bính đọc:
Chắc rằng gặp mãi nhau đâu
Duyên bèo nước có bền lâu bao giờ?
Ngân Giang tiếp:
Tiệc này dưới ánh trắng mờ
Tiệc sau e bóng người thơ lạc loài
Họ cứ thế đọc tiếp thành một bài thơ dài. Và điều đáng khâm phục là giọng thơ của người nào mang phong cách riêng của người ấy.
Trong số bạn bè văn chương thời đó, Nguyễn Bính được coi là người hay chữ nhất. Ông thường xuất khẩu thành thơ và những áng thơ đó không hề xoàng xĩnh.
Đây là câu chuyện vào thời kỳ Nguyễn Bính đã phải rời báo “Trăm hoa” về làm việc ở Ty Văn hóa Nam Định. Cái đêm ấy chắc phải thức khuya sáng tác nên hôm sau tới nhà bạn chơi, trông Nguyễn Bính lờ đờ mệt mỏi. Họa sĩ Nguyệt Hồ liền “xuất khẩu” bài thơ “tục” chơi chữ rất sành điệu trêu Nguyễn Bính:
Văn nghệ hay là văn gừng
Sao ông lửng khửng lừng khừng vậy ôi?
Hay là tối đã tác rồi
Sáng không tác được mệt nhoài tứ chi?
Cứ tưởng Nguyễn Bính đang mệt thế không ứng đối ngay được, không ngờ ông nhấp một ngụm nước rồi đọc luôn:
Sáng tác hay là tối tác đây?
Tối không tác đủ tác ban ngày
Xem ra sáng tác không bằng tối
Tối tác, ông ơi, sướng gấp hai!
Các bạn ngồi đó đều cười, gật gù khen tài ứng đối của Nguyễn Bính. Nhưng cũng có khi vì cách chơi chữ quá sắc sảo mà Nguyễn Bính làm mất bạn.
Nguyễn Bính chơi thân với một nhà thơ nữ còn trẻ, nhưng nàng lại “dính bùa yêu” của một người nhiều gấp đôi tuổi nàng. Năm 1954, Nguyễn Bính từ miền Nam tập kết ra Bắc, ông tìm đến thăm nữ nhà thơ nọ. Nữ nhà thơ tiếp ông thân ái.
Nàng để đĩa cam lên bàn. Trong lúc nàng hí húi bổ cam mời Nguyễn Bính thì ông đã viết xong hai câu thơ toàn vần C để trêu bạn, nhét xuống dưới đĩa cam:
Cô cầm cam, cụ cầm cô, cô cứ cỳ cèo co céo cụ
Cụ càng cao, cô càng cáu, cô càng cay cú cái cò con!
Nguyễn Bính về rồi, nữ sĩ đọc bài thơ giận tím mặt. Nàng quyết định cắt đứt quan hệ với Nguyễn Bính. Bạn bè biết chuyện liền có thơ giễu lại Nguyễn Bính:
Chơi chữ cam, chơi chữ chua cay, câu chuyện cũ càng, còn cáu kỉnh. Cô cấm cửa, cuối cùng cũng cắt!Tuy nhiên, chuyện “không nhìn mặt nhau nữa” như trường hợp với nữ sĩ kia không xảy ra nhiều trong đời Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính rất dễ yêu song cũng hay thất tình. Mỗi lần thất tình ông thường trút nỗi niềm vào thơ. Những bài thơ như thế của Nguyễn Bính thường là hay.
Chẳng hạn, một lần Nguyễn Bính cùng Vũ Hoàng Chương nhảy tàu hỏa lên Bắc Giang chơi. Ở đây Nguyễn Bính có một người bạn là nhà thơ Bàng Bá Lân. Bàng Bá Lân cùng nhóm thơ Bắc Giang mới lập một hội gọi là “Tao đàn Sông Thương”.
Tại Tao đàn này có một nữ sĩ, rất xinh đẹp từng hút hồn Nguyễn Bính bấy nay. Nguyễn Bính “kết lắm”, nhưng nữ sĩ thì có vẻ chỉ mê thơ chàng chứ không mặn mà với con người chàng cho lắm.
Lần này Nguyễn Bính kéo Vũ Hoàng Chương lên để mong sự trợ giúp của bạn cho cuộc tình đi đến độ đơm hoa kết trái. Nhưng không ngờ tình hình càng trở nên xấu đi.
Trên đường về, ngồi trong toa tàu, Nguyễn Bính đã làm tức thì những câu thơ và đọc cho Vũ Hoàng Chương nghe:
Sông Thương nước chảy đôi dòng
Bao giờ bên đục bên trong hài hòa
Ngậm ngùi một bước một xa
Đến đây là… đến đây là… là thôi!
Cái câu “Đến đây là… đến đây là… là thôi!” thật kỳ tài. Chỉ có tâm trạng kẻ thất tình thì câu thơ mới dùng dằng, ngắt quãng kiểu ấy. Về sau, hai câu cuối của Nguyễn Bính đưa vào bài “Rượu xuân”.
Các nhà thơ thời Thơ Mới, dù sống ở tỉnh lẻ như Nguyễn Bính cũng ít nhiều biết chút tiếng Hán, tiếng Pháp. Vốn chữ Hán không nhiều nhưng Nguyễn Bính dịch thì rất giỏi.
Một lần tại tòa soạn báo “Tiểu thuyết thứ năm” hội ngộ khá đông bạn bè, Nguyễn Bính muốn có chút tiền khao các bạn một bữa, ông liền đề nghị mọi người thi dịch thơ. Ông chủ bút Lê Tràng Kiều cũng hưởng ứng, liền “ra đề” bằng một bài thơ Đường:
Hoàng mai thời thiết gia gia vũ
Phương thảo trì đường cứ cứ oa
Hữu ước bất lai hoa dạ bán
Nhàn sao kỳ tử lạc đăng hoa
Mọi người cầm bút dịch, gạch xóa mãi chưa xong thì Nguyễn Bính đã xin được đọc bản dịch của mình:
Ao hồ tiếng ếch gần xa
Cỏ thơm ngào ngạt, ngoài nhà mưa rơi
Nửa đêm cái hẹn sai rồi
Quân cờ gỗ nhảm làm rơi hoa đèn
Mọi người phải thừa nhận bài thơ Nguyễn Bính dịch khá hay. Ông chủ bút Lê Tràng Kiều cao hứng liền “ra” tiếp “đề” khác:
Nhất ấp xuân giao vạn lý tình
Đoạn trường phương thảo, đoạn trường oanh
Nguyễn tương song lệ đồ vi vũ
Minh nhật lưu quân bất xuất thành
Lần này Nguyễn Bính lại dịch xong đầu tiên:
Một chén tiễn đưa tình vạn lý
Oanh buồn rầu rĩ, cỏ buồn phai
Mong đem lệ tưới thành mưa lớn
Ngăn bước đường anh buổi sớm mai
Nghe đến đây mọi người lặng đi vì bài dịch quá hay. Ông chủ bút đành phải “ra đề” dễ hơn cho các nhà thơ khác tham gia dịch. Song cũng chỉ dịch thêm vài bài nữa là ông cho dừng lại vì nó liên quan đến số tiền nhuận bút ông phải thưởng.
Hôm ấy, Nguyễn Bính giật giải nhất. Số tiền đủ để ông khao cả nhóm bạn tại một quán ăn khá sang trọng của Hà thành.
Sinh hoạt, quan hệ của các nhà thơ trẻ hồi ấy là thế. Tài năng và phong cách sống của Nguyễn Bính là thế. Họ không giầu. Vả lại họ không quá câu nệ vật chất trong cư xử. Cách họ giao kết bạn bè thật trọng thị, chí tình chí nghĩa. Có lẽ đấy mới là cái tình đích thực của thi nhân!
Thị trấn Liễu Đề, tháng 12, năm 2006
Nhà văn Lê Hoài Nam
(Nguồn Tiền phong))
Cuộc đời do bạn quyết định - bí quyết 90/10.
Bí quyết 90/10 là gì? 10% cuộc đời là những gì xảy đến đối với bạn, 90% cuộc đời là do những phản ứng của bạn đối với những chuyện xảy ra.
Thế nghĩa là sao? Giờ hãy thử xét một ví dụ:
Bạn đang dùng điểm tâm cùng với gia đình. Con bạn làm đổ cà phê lên áo bạn. Chuyện đó xảy ra bất chợt, bạn không kiểm soát được.
Ðiều xảy ra tiếp sau đó là phản ứng thuộc quyền quyết định của bạn.
Bạn mắng cháu. Cháu phát khóc.
Bạn trách cả vợ mình đã đặt tách cà phê quá gần rìa bàn. Hai người bắt đầu cãi nhau một hồi.
Bạn đùng đùng bước lên lầu thay áo. Khi bạn trở xuống con bạn vẫn còn khóc, chưa ăn xong để đi học. Cháu bị lỡ chuyến xe đưa đón. Vợ bạn phải hối hả đi làm. Bạn đi nhanh ra, đưa con đến trường. Sợ trễ, bạn chạy xe vượt tốc độ cho phép. Sau khi chịu phạt nặng, bạn đưa con tới trường trễ hết 15 phút.
Con bạn chạy nhanh vào lớp không kịp chào bạn. Bạn đến văn phòng trễ 20 phút, lại thấy mình bỏ quên chiếc cặp ở nhà ...
Một ngày của bạn đã bắt đầu thật khủng khiếp. Chuyện càng lúc càng tệ hại tiếp tục xảy ra ...
Buổi chiều bạn buồn chán trở về nhà để thấy vợ con không vui vẻ đón mừng mình như ngày hôm trước.
Tại sao bạn có một ngày buồn chán như thế?
A. Tại tách cà phê chăng?
B. Tại con bạn chăng?
C. Tại người cảnh sát à?
D. Do bạn gây ra đấy chứ?
Câu trả lời đúng là D. Bạn đã không làm chủ cái 90% thuộc quyền phản ứng của mình.
Cách phản ứng chỉ trong năm giây của bạn đã tạo nên một ngày bất hạnh.
Bạn cũng đã có thể phản ứng một cách khác.
Khi tách cà phê đổ, cháu bé muốn khóc, bạn đã có thể nói: “Không sao đâu con, lần sau con nên cẩn thận hơn một chút”.
Bạn nhẹ nhàng lên lầu thay áo và mang theo chiếc cặp. Bạn xuống nhà vừa kịp vẫy tay chào lại cháu bé lên xe đưa đón.
Vợ chồng bạn hôn nhau rồi cùng đi làm.
Bạn đến văn phòng sớm năm phút và vui vẻ chào các đồng nghiệp buổi sáng. Có lẽ sếp cũng khen bạn về một ngày làm việc có hiệu quả.
Hãy nhớ rằng phản ứng của bạn rất quan trọng. Chuyện bất ngờ xảy ra chỉ chiếm 10%, quyết định phản ứng của bạn chiếm tới những 90%.
Hãy nhớ và áp dụng bí quyết 90/10 cho mọi việc xảy ra trong ngày, bạn sẽ thấy cuộc đời bạn tốt hơn thật nhiều.
Chúc bạn thành công!
(Sưu tầm từ Internet)
2 ĐÔLA VÀ 1 GIỜ
Một câu chuyện đầy ý nghĩa
Một người cha đi làm về rất muộn, mệt mỏi sau một ngày bận rộn ở cơ quan. Ông vừa về đến nhà, đứa con trai nhỏ đã ngồi chờ từ lúc nào và hỏi:
- Bố ơi, con hỏi bố một câu được không?
- Được chứ, con hỏi gì? - Ông bố đáp.
- Bố ơi, bố làm được bao nhiêu tiền một tiếng đồng hồ?
- Đó không phải là việc của con. Mà tại sao con lại hỏi một việc như thế hả?- Ông bố vì mệt nên cau có
- Con muốn biết mà- Đứa con nài nỉ.
- Nếu con cứ khăng khăng đòi biết, thì bố sẽ nói. Bố làm được hai đôla một giờ đồng hồ.
- Ôi! – đứa bé rụt rè hỏi – Bố cho con mượn một đôla được không ạ?
Ông bố rất bực mình:
- Thì ra con muốn biết bố làm được bao nhiêu tiền chỉ là để xin tiền bố mà mua mấy thứ đồ chơi vớ vẩn chứ gì. Thế thì con hãy đi ngay vào phòng mình và ngủ đi. Bố làm việc vất vả cả ngày, và không có thời gian cho những chuyện ấy đâu!
Đứa bé buồn bã đi vào phòng và đóng cửa. Một lát sau, khi đã bình tĩnh lại, ông bố mới nghĩ rằng có thể mình đã quá nghiêm khắc chăng, nó chỉ là một đứa bé, và cũng phải cần tiền để mua đồ chơi,bánh kẹo chứ.! Ông liền đi vào phòng con:
- Con ngủ chưa?
- Chưa ạ, con còn thức!– Cậu bé nằm trên giường đáp.
- Bố suy nghĩ rồi, có thể bố đã quá nghiêm khắc. Đây là một đôla cho con. Cậu bé cám ơn ông bố rồi thò tay xuống dưới gối, lôi ra thêm mấy tờ tiền lẻ nữa. Khi đứa con xếp thành một xếp tiền ngay ngắn, ông bố mới ngạc nhiên:
- Tại sao con lại cần thêm tiền khi con đã có rồi?
- Vì con chưa có đủ ạ! – Bỗng đứa trẻ ngẩng lên vui sướng – Bố ơi, đây là hai đô la, con có thể mua một giờ làm việc của bố không? Con muốn bố vui đùa,nói chuyện cùng con, bố cứ mải miết trong công việc con buồn lắm.!
Người bố lặng đi khi nghe đứa con nói như thế. Ông lặng lẽ cuối xuống ôm chầm và hôn lên trán cậu bé, một nụ hôn yêu thương, và hàm chứa sự hối hận.!
Còn bạn thì sao nào, chắc chắn bạn không vô tâm với người thân của mình như vậy chứ.!? Vâng, hãy luôn quan tâm đến cảm xúc của con cái, bạn bè, người thân của bạn, dù cho công việc cứ vây lấy bạn thì cũng hãy nhớ điều đó nhé.!
Vô tình… hữu ý…
Cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến và cụ Văn Đình Dương Khuê là đôi bạn tri âm, tri kỷ. Các cụ trọng nhau vì tài, nể nhau vì đức và cũng rất tâm đắc cả những khi ngịch… tính!
Một buổi sáng xuân đẹp trời, hai cụ cùng tản bộ ngắm xuân. Hai cụ túc nho đang lâng lâng cùng trời đất, bỗng thấy trên ruộng lúa cánh đồng làng không xa, một cô gái quê làm cỏ tưởng không có ai đang tốc váy… đi tiểu.
Cụ Vân Đình “phát hiện” được khẽ bấm cụ Yên Đổ. Tiếng cười khúc khích của hai vị “thánh hiền” đã làm cô gái hoảng hồn, vội vàng buông váy, lùi vào đồng lúa.
Nhà thơ Yên Đổ cao hứng thốt lên: “Vân Đình hữu ý tri song nguyệt”, nghĩa là: ông bạn hữu ý nên biết “được cả”! Cụ Nghè Vân Đình ứng khẩu: “Yên Đổ vô tình thức bán hiên”, nghĩa là: ông bạn vô tình nên chỉ thưởng thức được có “một nửa” thôi.
LXC sưu tầm.
GIÁ TRỊ CỦA CÔNG VIỆC
Một chàng trai trẻ vừa tốt nghiệp Đại học loại xuất sắc nộp đơn dự tuyển vào vị trí quản lý cấp thấp tại một Tập đoàn lớn.
Anh ta vượt qua các vòng đầu tiên. Đến vòng cuối cùng, đích thân CEO (Tổng giám đốc hoặc giám đốc điều hành) phỏng vấn để đưa ra quyết định cuối cùng.
Người CEO rất ấn tượng với CV (Thông tin cá nhân + Mục tiêu nghề nghiệp + Trình độ và bằng cấp) của chàng trai trẻ khi trong suốt các năm học, anh ta luôn đạt thành tích học tập một cách xuất sắc. Từ trường Trung học cho đến khi vào Đại học và thi tốt nghiệp, không năm nào mà chàng trai này không đạt các danh hiệu.
“Anh có bao giờ nhận được học bổng từ trường không”, vị CEO hỏi. “Không bao giờ”, chàng trai trả lời.
Vị CEO bèn hỏi tiếp,”Vậy là cha anh đã trả toàn bộ học phí cho anh phải không?”. Chàng trai trẻ trả lời:” Cha tôi đã mất từ hồi tôi được một tuổi, toàn bộ số tiền học phí là do mẹ tôi gánh vác”.
“Vậy mẹ anh làm việc ở công ty nào?”. Chàng trai trẻ trả lời: “Mẹ tôi làm công việc giặt quần áo”.
Người CEO im lặng một lúc. Sau đó, ông đề nghị chàng trai trẻ đưa hai bàn tay ra cho ông xem. Hai bàn tay chàng trai khá đẹp và mềm mại.
”Trước đây, có bao giờ anh giúp đỡ mẹ anh trong việc giặt quần áo chưa?”.
“Thưa ngài, xin thú thực là tôi chưa bao giờ”, chàng trai trả lời, “Mẹ tôi lúc nào cũng chỉ muốn tôi học và đọc thật nhiều sách. Hơn nữa, mẹ bảo mẹ có thể giặt quần áo nhanh hơn tôi. Tôi động vào chỉ khiến công việc của bà chậm lại”
Vị CEO nghe xong liền nói: “Tôi có một yêu cầu. Hôm nay lúc anh về nhà, hãy đi và rửa hai bàn tay của mẹ anh. Rồi hãy đến gặp tôi vào sáng ngày hôm sau”.
Qua ánh mắt và giọng nói của người CEO, chàng trai trẻ cảm giác rằng cơ hội trúng tuyển của mình chắc rất cao. Anh vui vẻ về nhà gặp mẹ và nói với bà hãy để anh ra rửa hai bàn tay của bà ngày hôm nay. Bà mẹ nghe vậy cảm thấy rất lạ, trong lòng bà khi ấy dấy lên những cảm xúc vui buồn lẫn lộn. Bà đưa hai bàn tay mình ra cho con trai mình.
Chàng trai trẻ chầm chậm rửa sạch bàn tay của mẹ mình. Từng giọt nước mắt của chàng trai rơi xuống khi anh ta thực hiện công việc của mình. Lần đầu tiên chàng trai nhận ra rằng đôi bàn tay của mẹ mình thật là nhăn nheo, hơn nữa hai bàn tay còn chằng chịt những vết sẹo và chai sạn. Những vết sẹo này hẳn là rất đau đớn vì chàng trai cảm nhận được mẹ khẽ rùng mình mỗi khi anh rửa chúng trong nước.
Đây cũng là lần đầu tiên chàng trai trẻ nhận ra rằng chính đôi bàn tay này hàng ngày làm công việc giặt quần áo để có thể trang trải đủ tiền học phí của anh ta ở trường học. Những vết sẹo trên đôi bàn tay của bà mẹ cũng là cái giá cho kết quả đậu tốt nghiệp, cho những bảng điểm xuất sắc và cho cả tương lai của anh.
Sau khi rửa sạch đôi bàn tay của mẹ, chàng trai trẻ lặng lẽ giặt nốt luôn chỗ quần áo còn lại trong ngày.
Tối hôm đó, bà mẹ và chàng trai đã nói chuyện với nhau rất lâu.
Sáng ngày hôm sau, chàng trai trẻ quay lại nơi phỏng vấn.
Vị CEO nhận thấy một đêm dài không ngủ trên đôi mắt của chàng trai. Ông hỏi: ”Anh có thể cho tôi biết anh đã làm gì và học được những gì ở nhà của anh ngày hôm qua không?”
Chàng trai trả lời: ”Tôi đã rửa đôi bàn tay của mẹ tôi, và tôi cũng đã giặt nốt chỗ quần áo còn lại.”
Vậy hãy cho tôi biết cảm giác của anh như thế nào?”
Chàng trai trẻ bèn trả lời trong nước mắt:
"Thứ nhất: Tôi thấu hiểu thêm những gì tôi đã có được nhờ có mẹ ngày hôm nay.
Thứ hai: Tôi hiểu được kiếm tiền vất vả đến như thế nào.
Thứ ba: Tôi đã nhận thức được sự quan trọng và giá trị của tình cảm gia đình."
Vị CEO nói: ”Đó chính xác là những gì tôi cần tìm ở một nhà quản lý, hoặc một người trong tương lai sẽ ở cấp quản lý cao hơn của Tập đoàn này.
Tôi muốn tìm những ứng viên có thể nhận thức được sự giúp đỡ của những người khác;
Người có thể hiểu được sự khó nhọc của người khác khi hoàn thành một công việc nào đó;
Và là người không đặt tiền bạc là mục đích sống duy nhất của mình...
Và còn nữa, xin chúc mừng anh. Anh đã được tuyển.” (Sưu tầm từ Internet)
Có một bài thơ đạt Giải Nhất, sau đó bị từ khước Giải Nhất.
Đó là bài TRĂNG NGHẸN của Tác giả Hoài Tường Phong.
Mẹ sinh tôi vào một đêm rằm mưa gió ngày xưa,
Lúc chào đời đã lỡ hẹn cùng vầng trăng viên mãn.
Vùng tản cư hồi nầy ruộng hoang nhà trống,
Rước được bà mụ vườn, ngoại cực trần thân.
Tôi lớn trong quê mùa như cây tạp vườn hoang,
Bảy tuổi biết leo lưng trâu, không từng ngồi xe đạp.
Không biết lời bải buôi để mua lòng người khác,
Nên thua thiệt cả đời vì không thể dối lừa ai.
Ngơ ngác buổi ra thành, trước cuộc sống đua chen,
Mười năm sau chưa gội rửa cho mình thành dân chợ.
Lớp phèn hết bám chân, nhưng chất chân quê vẫn còn đó,
Tôi tranh thủ những tháng hè, thích về lại thăm quê.
Bè bạn theo đuôi trâu một thời, mơ ước nhìn tôi,
Tưởng tôi thoát kiếp ngài, nhởn nhơ hóa bướm.
Tôi nhìn vẻ hồn nhiên của đám bạn xưa thèm quá,
Cộng một chút phù hoa đâu thêm lớn tâm hồn.
Mỗi lần về quê bè bạn cũ lại vắng hơn,
Gái mười bảy đã lấy chồng, trai hai mươi đòi vợ.
Cô bạn xưa nách con ngang nhà mua chịu rượu,
Đôi mắt ướt một thời bẽn lẽn ngó bàn chân.
Xóm bên sông nhiều cô gái rời quê,
Về thăm nhà xênh xang lụa là hàng hiệu.
Vài căn nhà xây, đổi đời nhờ những đồng tiền báo hiếu,
Khởi sắc một vùng quê sao nghe có chút bùi ngùi.
Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi:
Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất,
Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất,
Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa.
Chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn,
Vầng trăng vừa lên đã bị mây mưa vần vũ.
Tôi chợt nhớ lần lỗi hẹn đầu đời, trăng cũ,
Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê.
HOÀI TƯỜNG PHONG
(Cần Thơ)
Tỉnh Bình Đinh
Bình Định là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ ViệtNam. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố cảng Quy Nhơn nằm cách thủ đô Hà Nội 1.065 km về phía bắc và cách Thành phố Hồ ChíMinh 649 km về phía nam.
Mùng tám tháng ba
Mỗi năm mùng 8 tháng 3
Thì anh lại tính buộc... cha vào người
Cái nơ mầu đỏ thật tươi
Anh xin tặng cả cuộc đời… Tự do
Mỗi năm mùng 8 tháng 3
Thì anh lại muốn đi xa mấy ngày
Ở nhà thì rất là gay
Phải mua quà tặng đêm ngày nghĩ suy
Chung quy chẳng biết mua gì
Loanh quanh không khéo lại quy ra tiền
Nhận phong bì, vợ tức điên
Tỏ ra khó chịu nói: “Tiền trả công!”
Nếu mà mua một bó hồng
Thì chê đơn điệu, gã chồng chán ghê
Tức mình tặng vợ coóc - xê
Vào hàng đồ lót ngại ghê cả người
Cô bán hàng rất xinh tươi
Chạy ngay ra hỏi: Cỡ người vợ anh?
Ngượng ngùng "quả bưởi… quả chanh"
Chẳng thể nào nhớ, tay đành khum khum
"Cỡ này..." em hãy chọn giùm
Mấy cô bán “coóc” cười um cả nhà…
Mỗi năm mùng 8 tháng 3
Thì anh lại cứ suy ra tính vào
Sợ rằng vợ hỏi: “Tại sao
Tiền lương nộp hết, quỹ nào còn đây?”
Với câu hỏi khó thế này
Thể nào cũng lộ ra ngay món tiền
Bao ngày giấu tưởng đã yên
Bây giờ đùng cái, vợ liền tịch thu
Mỗi năm mùng 8 tháng 3
Qua được ngày ấy rất là sướng vui
Mất tiền miệng phải tươi cười
Đàn ông thật giống đười ươi trong rừng
Hết hôm mùng 8 tạm mừng
Cầu mong ngày ấy nó đừng đến nhanh
Nhưng rồi lại cứ loanh quanh
Thời gian loáng cái đã thành 1 năm
Tháng 3 có một cái còng
Hình con số 8 “đau lòng” đàn ông!
Cử Tạ
Vợ chồng nông dân làm thơ
Có hai vợ chồng nông dân mới cưới nhau được vài tháng, ông chồng đã phải lên đường đi xa sáu tháng. Chờ đợi được năm tháng bà vợ ở nhà đã lâu không được gần chồng nên mới động lòng ong bươm, nhưng bà vẫn sợ chồng nên mới gửi cho ông lá thư có nội dung thăm dò như sau:
Đám ruộng hai bờ giữa khe mông
Lâu ngày nghỉ cấy, vẫn để không
Nước non đầy đủ, bờ cỏ tốt
Nhờ người cày hộ, có được không?
Ông chồng đọc xong hiểu ý, vừa tức, vừa sợ nên vội vàng viết thư trả lời liền:
Đám ruộng hai bờ là của ông
Cho dù nghỉ cấy, vẫn để không
Mùa này không cấy, chờ mùa khác
Nhờ người cày hộ, chết với ông.
Đọc thư xong, bà vợ nóng lòng quá nên gửi tiếp:
Ruộng để lâu ngày cỏ xanh um
Hạ đi thu đến, sắp lập đông
Tốt tươi rồi cũng dần héo úa
Thợ cày đầy dẫy chẳng tính công.
Ông chồng hối hả đáp:
Biết là ruộng lâu ngày để không
Cỏ đội um tùm, nước mênh mông
Nhưng mà tụi nó cày tệ lắm
Kỹ thuật thua ông, bà biết không?
Bà vợ chịu không nổi, gửi tiếp:
Ông à, cỏ mọc đã quá mông
Dân cày quê mình vẫn ở không
Thôi tôi làm phước, cho họ cấy
Ông về thu hoạch, thế là xong.
Ông chồng càng tức giận hơn:
Cỏ dại có mọc lên quá mông
Thì bà cắt cỏ, có được không?
Bà mà léng phéng cho họ cấy
Ông về nhổ sạch, thế là xong.
Bà vợ tức tối gửi thư tiếp với hy vọng ông về sớm:
"Luật mới ban hành ông biết không?
Ruộng mà không cấy sẽ sung công
Vậy ông thu xếp mà về sớm
Kẻo mất ruộng rồi, ông trách ông"
Và đây là cuộc đối thoại của hai vợ chồng cùng ngành xuất bản sách trong đêm tân hôn.
Đêm tân hôn của họ thật thơ mộng. Họ nói với nhau đủ chuyện từ chuyện yêu đương gia đình, bè bạn, nghề nghiệp.
Anh chồng ôm vợ âu yếm rồi đọc thơ:
Sách mới cho nên phải đắt tiền
Chị vợ cùng nghề, nghe chồng đọc liền ứng khẩu đọc tiếp luôn:
Hôm nay xuất bản lần đầu tiên
Anh chồng ghì chặt vợ vào lòng mình đọc luôn câu thứ ba:
Anh còn tái bản nhiều lần nữa
Chị vợ sung sướng đọc câu thơ trong tiếng thở:
Em để cho anh giữ bản quyền
Có một vị tiểu hòa thượng phụ trách quét dọn lá rụng trong chùa, mỗi ngày phải cần rất nhiều thời gian mới có thể quét xong. Một người nói với anh ta: “Ngươi hãy rung cái cây thật mạnh cho lá rụng xuống rồi hãy quét, như vậy ngày mai sẽ không phải quét nữa!”. Tiểu hòa thường nghe vậy thấy cũng có lý, liền cao hứng làm theo, nhưng ngày hôm sau lá lại vẫn rụng khắp sân chùa như cũ. Mặc cho người này hôm nay ra sức rung mạnh cây, ngày mai lá vẫn lại rụng xuống như vậy.
Cảm ngộ:
Mọi việc đều không thể nóng lòng làm cho xong, làm tốt việc của ngày hôm nay, chính là có trách nhiệm với cuộc sống của mình vậy.
Dịch từ NTDTV.com
Vài năm sau:
Cô vợ than thở:
Sách đã cũ rồi phải không anh?
Sao nay em thấy anh đọc nhanh
Không còn đọc kỹ như trước nữa
Để sách mơ thêm giấc mộng lành
Anh chồng làu bàu:
Sách mới người ta thấy phát thèm
Sách mình cũ rích, chữ lem nhem
Gáy thì lỏng lẻo, bìa lem luốc
Đọc tới đọc lui, truyện cũ mèm
Cô vợ thanh minh:
Sách cũ nhưng mà chuyện nó hay
Đọc hoài vẫn thấy được bay bay
Đọc xong kiểu này, rồi kiểu khác
Nếu mà khám phá sẽ thấy hay
Anh chồng bực bội:
Đọc tới đọc lui mấy năm rồi
Cái bìa sao giống giấy gói xôi
Nội dung từng chữ thuộc như cháo
Nhìn vào hiệu sách, nuốt không trôi
Ông hàng xóm hắng giọng sang:
Sách cũ nhưng mà tui chửa xem
Nhìn anh đọc miết thấy cũng thèm
Cũng tính hôm nào qua đọc lén
Liệu có trang nào anh chưa xem?
Nguồn internet.
Di Tử Hà là bề tôi yêu của Vệ Hầu. Pháp luật nước Vệ, ai tự tiện lấy xe của vua đi thì bị chặt hai chân. Một đêm khi nghe tin mẫu thân bị mắc bệnh nặng, Di Tử Hà vội vàng lấy tạm xe vua về thăm mẹ. Vệ Hầu biết được nói:
- Thật là con có hiếu! Vì mẹ mà
đành phạm tội chặt chân.
Nhưng rồi vua vẫn tha. Vua và Tử Hà
đi dạo vườn. Tử Hà hái quả đào thấy ngon, không ăn hết, dâng phần còn lại cho vua. Vua khen:
- Tử Hà thật yêu ta! Quên cái miệng của mình mà nhớ ta!
Rồi một thời gian sau, không biết sao, vua lần lần chán Tử Hà. Có thể nói Tử Hà bấy giờ thất sủng. Lúc đó vua nói:
- Nó có lần dám tự tiện dùng ngự xa. Lại có lần nó cho ta ăn thức ăn thừa của nó. Nấu dầu hắn cũng chưa đáng tội.
Lời Bàn:
Ca dao ta có câu:
Yêu nhau cau sáu bửa ba,
Ghét nhau cau sáu bửa ra làm mười.
Thương ai thương cả lối đi,
Ghét ai ghét cả tông chi họ hàng.
Thói đời là vậy. Việc thương ghét không thể luôn luôn giữ mãi một chừng. Do đó mà nói: Khi chưa nắm chắc về tâm lý của con người thì không nên khen hay chê người, không nên yêu hay ghét người để rồi có thể đi đến chỗ bất cập. Hãy giữ tấm lòng thật bình lặng mới có sự phán xét công bình. Đời không có mấy ai được như anh em nhà Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi.
Khi người ta yêu ai, họ nhìn người đó điểm gì xấu nhất cũng thành tốt. Đến khi qua thời kỳ bồng bột đó rồi, họ bắt đầu hình dung lại, cuộn phim quá khứ bắt đầu lần lượt hiện ra trong tâm trí não họ, bấy giờ họ thấy lại toàn những điều trái ngược. Sau này chúng ta sẽ gặp chuyện Trương Nhĩ, Trần Dư".
QUÝ LỜI NÓI PHẢI
Vua nước Tấn đi chơi thuyền. Các quan đi hầu đông đủ cả.
Vua hỏi: Loan Doanh ta đã cấm cố một nơi, con là Loan Phường trốn chạy ra ngoại quốc. Có ai biết Loan Phường bây giở ở đâu không?
Các quan yên lặng, không ai nói gì cả.
Người lái thuyền tên là Thanh Quyên buông tay chèo đứng dậy thưa rằng:
- Nhà vua hỏi Loan Phường làm gì?
Vua nói: -Từ khi ta đánh được họ Loan đến nay, nghe họ Loan người già chưa chết hết, người trẻ đã lớn lên. Ta lo họ phục thù, cho nên ta mới hỏi.
Thanh Quyên: -Nếu nhà vua khéo sửa sang chính sách nước Tấn, trong được lòng quan, ngoài được lòng dân, thì dù cho còn con họ nhà Loan mà làm gì được nhà vua. Nhưng nếu nhà vua không sửa sang chính sách nước Tấn, trong mất lòng quan, ngoài mất lòng dân, thì ngay cả những người ngồi trong thuyền này ai cũng là con nhà họ Loan cả.
Vua khen: -Ngươi nói phải lắm.
Rồi sáng hôm sau cho đòi Thanh Quyên đến, ban cho một vạn mẫu ruộng.
Thanh Quyên từ không nhận.
Vua nói: -Lấy một vạn mẫu ruộng ấy đổi lấy một lời nói kia, kể ra nhà người còn thiệt mà quả nhân còn lợi nhiều, nhà ngươi cứ lấy.
Ấy người đời cổ quý lời nói phải như thế đấy.
Thi Tử
GIẢI NGHĨA
Thi Tử: người nước Lỗ đời nhà Chu, thầy học Thương Ưởng, có làm sách hai mươi thiên.
Tấn: một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
Loan Doanh: người nước Tấn, thời Xuân Thu, làm quan hạ khanh sau phải tội giết cả họ.
Cầm cố: giam cầm ở riêng một nơi rất là nghiêm ngặt.
LỜI BÀN
Sợ người phục thù, mà muốn giết chết hết cả họ người ta, thế là tàn nhẫn mà đã chắc trừ hẳn được hết mối oán thù chưa, hay lại chỉ gây cho mối oán thù ngày càng to lên. Kẻ có quyền thế chỉ có thể giết chết người, chớ có bao giờ giết chết được lòng người. Cho nên lo sợ như vua Tấn đây chỉ là biết lo sợ người ngoài muốn làm hại mình mà thôi. Sao cho bằng phòng bị như Thanh Quyên, mới là biết tự làm cho mình khỏe hơn. Sợ người, nhưng người chẳng nể mình thì sợ sao cho được, chớ làm cho mình khỏe, dù cho người ngoài đáng sợ cũng không cần sợ. Khi mình là người có đức và có sức thì ai cũng là bạn mình cả, dù có cừu địch, cừu địch cũng không làm gì nổi. Chớ nếu mình tàn ác, thì đến cả những người ở ngay bên mình cũng thành ra cừu địch mà hại mình được cả. Thanh Quyên bày tỏ cái ý ấy rất phải mà vua Tấn biết nghe cũng là đáng khen lắm vậy.
Không nên coi thường nói đùa
Vào thời Đông Chu liệt quốc, Tống Mẫn Công có người tướng tên là Nam Cung Trường Vạn. Một hôm đi đánh nước Lỗ, Nam Cung sa cơ thất thế bị giặc bắt. Cũng chính lúc ấy, nước Tống bị thiên tai, Lỗ Trang Công không nghĩ đến thù xưa, còn sai người sang cứu giúp. Tông Mẫn công thấy thế cho sứ giả đến tạ ơn và xin tha cho Nam Cung Trường Vạn. Nam Cung được thả về nước, Tống Mẫn Công ra nói đùa: “Trước kia ta rất coi trọng ngươi, bây giờ đã là tù nhân thì ta không còn trọng nữa đâu”. Thấy Nam Cung ngây ra, mặt đỏ tía tai, hết sức hổ thẹn, Đại phu Cừu Mục nói với Tống Mẫn Công: “Vương công chớ nên coi thường sự đùa giỡn mà sinh ra lòng khinh nhờn hay dẫn đến sự phản nghịch. Tống Mẫn Công trả lời: “Ta với Nam Cung Trường Vạn rất thân thiết, khanh chớ có sợ”. Một hôm Tống Mẫn Công đánh cờ thắng Nam Cung Trường Vạn nên đắc ý nói đùa giỡn: “Người là tên tù chẳng làm được việc gì, làm sao đánh thắng được ta”. Nam Cung Trường Vạn tức giận đứng lên nói: “Kẻ tù này tuy đánh cờ không thắng được vua, nhưng có thể giết vua”. Nói xong, lấy bàn cờ đập vỡ đầu Tống Mẫn Công chết ngay tại chỗ, rồi làm loạn.
Sự nói đùa dẫn đến nghiệp báo như thế.
Theo sách “Đại Nam chính biên liệt truyện” thì lúc sinh thời, Lê Quý Đôn (1726-1784) nổi tiếng là người thông thái, đọc và hiểu không biết bao nhiêu sách vở thời bấy giờ. Ông thi đỗ Khôi nguyên. Lẽ ở đời thì những người tuổi trẻ thông minh đĩnh ngộ, lại đỗ đạt sớm thường hay mắc tính kiêu ngạo.
Thời trẻ, Lê Quý Đôn cũng không tránh khỏi điều ấy. Chuyện kể, sau khi thi đỗ, ông liền cho treo ngay trước ngõ tấm biển với hàng chữ: Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn. Nghĩa là: Ai không hiểu chữ gì thì hãy đến đây mà hỏi. Nhưng chẳng thấy có ai tới. Mãi đến khi thân phụ ông qua đời, người đến viếng rất đông. Trong số đó có một cụ già mà Lê Quý Đôn không quen, cũng không biết. Cụ tự giới thiệu lai lịch:
- Cháu còn nhỏ, chứ lão là bạn thân với cha cháu từ xưa. Nhưng vì nhà nghèo, đường xa, lại tuổi già sức yếu nên ít đi lại thăm hỏi nhau. Nay nghe tin cha cháu qua đời, nghĩa tử là nghĩa tận nên lão đến để có câu đối viếng. Lão run tay, cháu hãy lấy giấy bút, lão đọc, nhờ cháu viết hộ.
Nghe vậy, Lê Quý Đôn liền đi lấy giấy bút rồi mang ra. Cũng lúc đó, ông cụ bèn đọc: “chi”. Khi đó, Lê Quý Đôn không biết nên viết chữ “chi” nào, bởi trong tiếng Hán có nhiều chữ “chi” viết khác nhau. Ông đành cầm bút chờ cụ già đọc tiếp xem sao. Nhưng ông cụ lại đọc “chi”. Lê Quý Đôn thấy lạ, liền hỏi:
- Bẩm, “chi” nào ạ?
Lê Quý Đôn vừa hỏi xong thì cũng là lúc ông cụ thở dài và than rằng:
- Đến chữ “chi” mà cũng không biết viết, thế mà treo bảng ngoài ngõ để cho người đến hỏi, thì sao trả lời được kia chứ?
Ngay lúc đó, Lê Quý Đôn ngượng chín cả người. Bây giờ cụ già mới đọc luôn một mạch hai vế đối:
Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kiên thượng tại. Tại tại số thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chỉ. Nghĩa của hai câu đối này là: Cách hơn ba chục năm, xích huyện hồng châu nay vẫn đó. Xa ngoài mấy ngàn dặm, đào hoa lưu thủy bác về đâu?
Thấy câu đối hay, lạ, Lê Quý Đôn và cả các nho sĩ đến viếng đều kinh ngạc. Còn ông già thì khi đó đã phủ phục trước linh cữu của thân phụ Lê Quý Đôn mà khóc rằng: Ới anh ơi, anh bỏ đi đâu để con anh đỗ đến Bảng Nhãn mà chưa biết chữ “chi” anh ơi!.
Lạy xong, cụ già chống gậy ra về. Lê Quý Đôn mời mãi nhưng cụ không chịu ở lại. Vậy nên sau này không ai biết ông cụ hay chữ đó tên là gì. Và cũng từ đó, Lê Quý Đôn đã cho gỡ tấm bảng treo trước ngõ.
Cũng về chuyện này, còn có giai thoại kể rằng, một lần Lê Quý Đôn đến cầu siêu ở ngôi chùa làng. Nhà sư thấy ông thì mừng rỡ mà rằng:
- Quan bảng vừa tới, may mắn sao. Bần tăng có điều muốn nhờ quan chỉ giáo. Chả là đứa tiểu đồng của bần tăng nghe người nào đó nói rồi về hỏi, nhưng bần tăng nghĩ không ra, nên đành theo lời quan bảng dạy “Nghi nhất tự lai vấn”. Câu đố thế này, xin quan chỉ cho: Hạ bất khả hạ. Thượng bất khả thượng. Chỉ nghi tại hạ. Bất khả tại thượng. Nghĩa là: Dưới không thể dưới, trên không thể trên. Đúng nên ở dưới, không thể ở trên.
Lê Quý Đôn nghĩ mãi không ra. Đúng lúc ấy chú tiểu chạy từ ngoài vào thưa với sư phụ là cậu đã giải được. Lê Quý Đôn giục chú tiểu nói thử xem, thì mới hay đó là chữ “nhất” (tức là một). Đúng là trong chữ “hạ” (dưới), thì chữ “nhất” ở trên chứ không thể viết dưới. Trong chữ “thượng” (là trên) thì chữ “nhất” nằm dưới và chữ “bất” (là không), với chữ “khả” thì chữ “nhất” lại ngồi trên.
Lê Quý Đôn biết nhà sư đã lấy ngay chữ “Nhất tự lai vấn” ông treo trước ngõ để nhạo lại mình. Ông tự nhủ thì ra thiên hạ còn nhiều người giỏi hơn mình liền về nhà sai người cất tấm bảng. Từ đó ông bỏ tính kiêu ngạo, chăm chú nghiên cứu, học hành, giúp đời, trở thành một ông quan đa năng, một thiên tài khoa học lớn nhất Việt Nam thời phong kiến.
Lời bàn:
Theo sử sách và các giai thoại còn lưu truyền đến ngày nay thì từ nhỏ Lê Quý Đôn đã nổi tiếng là một thần đồng, lớn lên ông là một “nhà bác học ham đọc, ham biết và ham viết”, là “một nhà bác học có kiến thức hết sức uyên bác và đa dạng”. Nhà sử học Phan Huy Chú đã viết về Lê Quý Đôn như sau: Ông có tư chất khác đời, thông minh hơn người mà vẫn giữ tính nết thuần hậu, lại chăm học không biết mỏi. Tuy đỗ đạt vinh hiển, tay vẫn không rời quyển sách. Bình sinh ông làm sách rất nhiều. Bàn về kinh sử thì sâu sắc, rộng rãi, mà nói về điển cố thì đầy đủ rõ ràng. Cái sở trường của ông vượt hơn cả, nổi tiếng trên đời.
Và với hậu thế, Lê Quý Đôn là một nhà chính trị quan tâm đến nhân dân, gần gũi nhân dân, hiểu những mong muốn của nhân dân, một nhà tri thức có tư tưởng tự tôn và tự hào dân tộc. Tuy vậy, nhưng là một nho sĩ trung thành với họ Trịnh và ý thức hệ của Lê Quý Đôn là ý thức hệ của giai cấp phong kiến Việt Nam hồi thế kỷ 18, nên trong sự nghiệp ông đã từng đi đánh dẹp các đội quân nổi dậy, mà thực chất là những người nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình Lê - Trịnh. Và có lẽ đây là sai lầm thứ hai của ông. Sai lầm lần thứ nhất là ông dám treo bảng đề ở ngoài cổng rằng ai không hiểu chữ nào thì cứ đến nhà hỏi. Ngay lần đó, Lê Quý Đôn đã bị một ông già và một nhà sư dạy cho bài học nhớ đời. Thế mới biết, “thiên hạ nhân, thiên hạ tài” (Trong thiên hạ, mỗi người có tài năng và sở trường của mình) quả là không sai. Thật đáng buồn là câu tục ngữ này cho đến bây giờ không phải ai cũng biết, ai cũng hiểu và ai cũng làm theo được.
Năm ấy, được tin sứ nhà Thanh khét tiếng hống hách sắp sang nước ta, vua Lê, chúa Trịnh tỏ ý lo ngại. Tin vào tài ứng đối của Quỳnh, triều thần giao cho trạng giữ việc tiếp sứ. Trạng cho dựng một ngôi quán nhỏ bên bờ sông Cái, xin vua triệu bà Điểm ra đó ngồi bán hàng. Còn mình tự quản một chiếc đò, nhận đón chở sứ bộ qua sông.
Mấy tên trong sứ bộ Tàu vừa đến nước ta, qua ngôi quán bà Điểm, nhác trông cô hàng nước xinh tươi óng ả, liền thả lời bỡn cợt. Một tên líu lớ đọc bâng quơ:
- Nam bang nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh.
(Nghĩa là: Một tấc đất nước Nam không biết bao nhiêu người cày. Ý nói mỉa đàn bà nước này lẳng lơ).
Bà Điểm đang nhai trầu, nhổ toẹt một bãi nước cốt xuống đất, nói trống không:
- Bắc quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất. (Nghĩa là: Bọn quan to, ông lớn ở nước phương Bắc đều từ chỗ ấy mà chui ra cả).
Câu đối lọt vào tai bọn sứ bộ, chúng giật mình, câm họng. Dè đâu chị hàng bán nước mà tài học cũng siêu việt đến thế!
Tiếp đến lúc xuống đò, Quỳnh đã mặc giả làm chú lái, cầm sào đợi sẵn… Đò ra giữa dòng sông, một tên trong đoàn sứ bộ hổng ruột, lỡ xổng ra một tiếng “bủm”. Hắn đã không biết sượng mặt, còn đọc một câu chữa thẹn lếu láo:
- Lôi động Nam bang. (Sấm động nước Nam).
Trạng Quỳnh đang cầm chèo, liền đứng thẳng, vạch quần đái vổng cần câu xuống nước mà nói:
- Vũ qua Bắc hải (Mưa qua bể Bắc). Từ đó, cả bọn Ngô ngọng bấm nhau ngồi im thin thít.
( Theo TTC )
Tú Xương ghi nợ cô hàng thịt
Nhà thơ trào phúng Tú Xương (tên thât là Trần Tế Xương) tuy rất nổi tiếng, nhưng vì lận đận đường khoa cử, chỉ đậu mỗi cái tú tài nên đường công danh hầu như bế tắc. Ông liền xoay qua kiếm sống bằng nghề dạy học. Lúc rãnh rỗi ông thường cùng bằng hữu tụ tập xướng họa thi ca bên tách trà, chung rượu làm vui. Gia cảnh ông thanh bạch, túng thiếu vì vợ yếu con đông (5 con). Thu nhập của gia đình chỉ trông vào gánh hàng rong tảo tần của người vợ hiền.
Mặc dù vậy, Tú Xương rất hiếu khách, luôn luôn chân tình, hết lòng với bằng hữu. Một hôm có hai bạn thơ lặn lội từ xa đến chơi. Tú Xương mừng lắm, phấn khởi chào đón và giục bà Tú làm cơm đãi khách quý.
Bà vợ rỉ tai:
- Nhà còn gạo, rau dưa và có chai rượu tăm ngâm chuối hột, chỉ ngặt nỗi đồ mặn chưa có.
Ông liền pha trà và xin lỗi hai vị khách ngồi chờ rồi chạy ra chợ. Đến hàng thịt heo, ông chọn mua hơn cân xương sườn rẻ quạt và 2 chân giò. Cô hàng thịt cân gói xương, giò xong lặng lẽ chờ ông trả tiền. Lục các túi trong người, giật mình thấy không còn hào nào, nhưng Tú Xương nhanh trí ứng biến:
- Thôi chết, nhà có khách vội quá, quên mang theo tiền. Tôi là Tú Xương, xin khất nợ cô, mai tôi đem tiền đến trả đủ có được không?
Cô hàng thịt dù ít học, nhưng đã nghe danh và từng đọc thơ Tú Xương nên tỏ ra nhã nhặn, thông cảm ngay.
- Cũng được, mai bác nhớ đem tiền ra cho em.
Nói xong cô mỉm cười trêu nhà thơ nghèo: Giờ em xin bác mấy chữ biên nhận để làm tin.
Giấy viết được đem ra, Tú Xương gật gù vài giây rồi cầm viết hí hoáy đề 4 câu như sau:
Tú tài đi chợ quên tiền
Xương sườn, giò lợn, bạn hiền chờ ăn
Nợ đời nặng gánh phong trần
Em đâu nỡ để tần ngần khách thơ.
Quả tài tình, trong thơ không nói gì về khất nợ, nhưng 4 chữ đầu câu cố ý viết to và đậm hơn chữ thường, đọc theo hàng dọc sẽ thành: Tú Xương nợ em.
Cô hàng thịt đọc qua rất hài lòng và thán phục tài thơ phú của Tú Xương. Do vậy, cô xin giữ lại bài thơ và nói: “Em đổi lấy thịt cho bác. Xem như khỏi nợ nần gì nhau nhé!” Nhờ đó, Ông Tú non côi, sông Vị có món ngon rộng đường thiết đãi bạn thơ.
Theo giai thoại văn học
Một lũ ăn mày một lũ quan
Tương truyền cuối thời Thiệu Trị (1840- 1847) Nguyễn Quý Tân được triệu vào kinh làm quan ở bộ, sau lại được bổ làm chức thanh tra quan lại ở Bắc kỳ, nhưng không được bao lâu ông lấy cớ ốm đau xin cáo về. Thời kỳ làm thanh tra, ông thường mặc giả học trò nghèo để dễ điều tra tình hình tham quan ô lại.
Người ta kể chuyện ngay hồi còn đi học nghè Tân đã tỏ ra khinh ghét chế độ quan trường.
Một hôm nhằm ngày rằm Trung thu, các quan đầu tỉnh Hải Dương rủ nhau cùng vợ con hầu cận ra phố xem nhân dân phá cỗ linh đình, lính tráng hò hét dẹp đường om sòm, các ngọn roi quất vào đầu dân kêu vun vút. Nghè Tân có mặt ở đó tức lắm, ông không chịu tránh đường cho quan đi. Lính bắt lại cho quan định tội. Nghè Tân nói mình là học trò nghèo mải xem chiếc đèn kéo quân đẹp quá, nên không biết quan đến.
Một viên quan bảo:
- À, có phải anh là học trò mải xem đèn kéo quân thì anh hãy làm một bài thơ vịnh đèn kéo quân đi. Hay thì các quan lớn tha, dở thì phải đánh đòn.
Nghè Tân vâng lời, nghĩ chốc lát, rồi đọc:
Một lũ ăn mày, một lũ quan
Quanh đi quẩn lại cũng một đoàn
Đến khi dầu hết đèn thôi cháy
Chẳng thấy ăn mày, chẳng thấy quan.
Các quan nghe xong thơ đều bầm gan tím mặt nhưng không biết chê vào đâu được, đành phải bấm bụng để nghè Tân đi.
(Theo Văn đàn bảo giám)
CHỦ QUAN...
Cô gái đang tắm thì có tiếng gõ cửa.
- Có ai ở nhà không?
- Ai đó?
- Anh mù hàng xóm đây.
Cô gái nghĩ thôi khỏi mặc đồ, dù sao anh ta cũng mù mà. Cô gái ra mở cửa và hỏi:
- Tìm tôi chi vậy?
- Cô chúc mừng tôi đi!
- Vì sao?
- Tôi đi mổ mắt và đã thành công, giờ thì mắt tui sáng rồi.
Tác dụng của ngực!
Me ơi, ngực của phụ nữ để làm gì ạ??
- À, ngực để khi phụ nữ chết thì sẽ là bong bóng cho cô ta bay lên trời.
Hôm sau, thằng bé hớt hải chạy về thưa mẹ:
- Mẹ ơi, dì Ann sắp chết rồi ạ. ???
- Con thấy bố và dì ấy đang ở ngoài vườn. Bong bóng của dì ấy bật hết ra ngoài, còn bố thì liên hồi bóp cho nó nhỏ lại, chắc là bố không muốn dì lên thiên đường. Còn dì ấy, chắc sắp chết thật rồi, luôn miệng kêu thét lên "ahhh...uhhhh".......
Ai chạy nhanh hơn
Hai anh chàng thổ dân cùng nhau đi săn, khi vào rừng sâu họ gặp 1 con sư tử, cả 2 hoảng hồn. Một anh chàng lôi trong túi ra đôi giày thể thao và luống cuống mang vào chân trong khi chúa sơn lâm lùi lũi tiến về phía họ. Anh chàng kia thấy thế lắp bắp:
- Cậu… cậu làm vậy cũng đâu… đâu có chạy nhanh hơn… hơn nnnn nó…
- Nhưng… tớ sẽ chạy nhanh hơn cậu.
Thấy hết rồi
Có một cô gái nuôi được một con vẹt rất khôn, biết nói đủ chuyện. Một hôm cô gái thấy con vẹt bẩn quá bèn mang nó vào nhà tắm và tắm cho nó. Nhân tiện đã ướt đồ, cô gái cho con vẹt đứng rũ khô lông rồi tắm cho mình luôn. Con vẹt nghiêng ngó một hồi rồi cứ lải nhải “Thấy hết rồi nha ! Thấy hết rồi nha !”. Cô gái bực quá bèn xách con vẹt ra vặt hết lông trên đầu nó cho chừa cái tội nói bậy. Vài hôm sau, xếp của cô gái nọ lại nhà chơi. Con vẹt nghiêng ngó nhìn cái đầu hói của vị khách một lúc rồi rụt rè hỏi: “Bộ cũng thấy rồi hả ?”
Áo không dám mặc
Cụ ông tâm sự với cụ bà: “Hôm qua, đi mua lúa giống, tôi được tặng một cái áo mà không dám mặc”
- Sao vậy, áo xấu hả ông?
- Không, rất đẹp.
- Hay ông mặc không vừa?
- Rất vừa.
- Thế thì tại sao?
- Trước áo có dòng chữ “Giống tốt, năng suất cao”.
Bình luận vui về động vật
Kiến là loài côn trùng thông minh nhất. Vì thế người ta hay hỏi ý kiến.
Vẹt là loài chim mẫu mực, giỏi giang nhất nên nhiều học trò thích học vẹt.
Nói thật
Trước ngày cưới cô gái nói với người yêu:
-Anh yêu, sau này lấy em, anh có đánh em không?
-Không bao giờ!
-Thật chứ anh?
-Thật!
-Anh không lừa dối em đấy chứ?
-Đã bảo là anh nói thật rồi cơ mà! cứ hỏi mãi, bực lên, anh lại cho mấy cái tát bây giờ!
Coi chừng bức tường
Nhà nọ có hai vợ chồng, chẳng may bà vợ bị chết sớm, sau khi tang lễ được tiến hành tại nhà, những người phu khuân hòm khiêng quan tài đi ra nghĩa trang.
Trên đường đi, họ đã vô tình để quan tài đụng vào tường. Sau đó họ nghe thấy một tiếng rên yếu ớt phát ra từ trong quan tài, họ mở nó ra và nhận thấy bà vợ đã sống lại.
Bà vợ sống được thêm mười năm nữa rồi qua đời. Buổi lễ tang cũng diễn ra như lần trước và khi những phu khuân hòm đang chuẩn bị khiêng quan tài đi, ông chồng khóc thét lên:
- Coi chừng cái bức tường đó.
Kinh nghiệm
Một gã trẻ tuổi gặp một ông già. Đang huênh hoang muốn khoe trình độ mình hơn người, gã bèn rủ:
- Tôi với ông so kiến thức bằng cách đố nhau nhé!
Ông già đắn đo, gã bèn đặt thêm điều kiện:
- Nếu thắng ông được 10 đồng, nếu thua ông chỉ mất 1 đồng thôi!
- Nhất trí, anh đố trước đi.
- Thế tay nào lên vũ trụ đầu tiên?
Ông già không trả lời, lẳng lặng rút tờ 1 đồng trả cho gã trẻ tuổi. Được thể, hắn hỏi tiếp:
- Thế ai phát minh ra định luật bảo toàn khối lượng?
Chịu. Lại 1 tờ nữa.
- Thôi, anh đố nhiều rồi. Để tôi đố anh 1 câu được không?
- Đồng ý!
- Con gì lên đồi bằng 2 chân, còn xuống đồi bằng 3 chân?
Sau một hồi lâu suy nghĩ, gã thanh niên quyết định rút tờ 10 đồng ra, đưa cho đối thủ và hỏi lại:
- Không biết! Thế con gì đấy hả ông?
Ông già lẳng lặng rút tiếp tờ 1 đồng đưa cho gã trẻ.
Sư phụ
Một người đàn ông nọ vừa mua 2 con két về, sau một thời gian anh ta không biết phân biệt đâu là con cái và đâu là con đực. Sau đó ông đến tiệm nuôi két và hỏi thì ông chủ mới nói: "Anh về rình 2 con két xem lúc nó làm bậy thì con nào ở trên là con đực".
Ông ta nghe thế bèn rình và biết được con đực, sau đó ông nhổ 1 sợi lông trên đầu con két và ông nói: Tao biết mày là con đực rồi nha con.
Bẳng đi một thời gian con két đực bị nhốt riêng ra một bên. Một hôm có một thầy tu đi bán nhan, đi ngang qua chổ con két đang đậu thì nghe kêu: Sư Phụ, Sư phụ. Ông ta kiếm chung quanh nhưng không biết ai kêu mình và 2 -3 lần như vậy ông để ý thật kỷ thì thấy con két kêu mình ông liền hỏi "sao mày biết tao là sư phụ mà kêu?"
Con két đáp: Tui "làm bậy" có 1 lần mà bị nhổ đi 1 sợi tóc còn ông, đầu ông trọc lóc thì ông còn hơn cả sư phụ nữa cơ.
Viết để cười
1- Quê tôi Long An trung dũng kiên cường
Toàn dân đánh giặc mượn chiếc xuồng hổng cho.
2- Tiên học lễ, hậu học văn
Hai đứa lăng nhăng làm sao mà học.
3- Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Đến khi có chửa mấy đèo cũng dông.
4- Thằng cho vay là thằng dại
Thằng trả lại là thằng ngu.
5- Còn thời cưỡi ngựa bắn cung
Hết thời xuống chợ lượm thun bắn ruồi.
6- Học không chơi đánh rơi tuổi trẻ
Chơi không học vừa khỏe lại vừa vui.
Hãy cứ chơi cho hết đời trai trẻ
Để về già lặng lẽ… đạp xích lô.
Trẻ xông pha, già … hối hận!
7- Ớt nào là ớt chẳng cay
Hot girl là ẻm rất hay khoe hàng.
8- Nhớ vợ thương con thèm thịt chó,
Vợ con chưa có chó chưa nuôi!
8- Nguyên nhân của tất cả các cuộc ly hôn là do kết hôn.
9- Buồn buồn tự tử chết chơi,
Ai dè chết thiệt buồn ơi là buồn.
Buồn buồn ngồi chửi sếp chơi
Hôm sau mất việc buồn ơi là buồn.
10- Đừng tự hào vì bạn nghèo mà vẫn giỏi, hãy tự hỏi vì sao giỏi mà vẫn nghèo.
Đừng tự ti vì sao giàu mà vẫn dở, hãy tự tin vì sao dở vẫn giàu.
Làm giàu không khó, nhưng khó ở chỗ làm mãi mà không giàu!
11- Chỉ tay lên trời hận đời vô đối
Úp mặt xuống gối nói dối ngại ghê.
12- Nhà mặt phố, bố làm Quan: Xưa rồi Diễm ơi! Chỉ cần Nhà gần đường ô tô, bố không ai sờ tới được là ok!
13- Đừng bao giờ đánh phụ nữ dù chỉ là một cành hoa mà hãy lấy khăn mùi soa gói thêm cục “gạch”.
14 Quân tử lông chân – Tiểu nhân lông bụng! Em có hai loại thì thế nào?
Quân tử nhất ngôn là quân tử dại
Quân tử nói lại là quân tử khôn!
15- Sống trên đời có 2 điều cần phải biết:
1. Không nói những gì bạn biết cho người khác biết.
2.Nhìn lại điều số 1.
16- Luôn luôn lắng nghe thật lâu mới hiểu.
Dù gái hay trai có thai là đẻ.
17-Bình tĩnh tự tin đừng cay cú, âm thầm chịu đựng trả thù sau.
18- Vạn sự khởi đầu nan
Gian nan bắt đầu nản
Chán nản sinh bần cùng
Bần cùng sinh đạo tặc
Thất bại vì ngại thành công.
19- Giang hồ đẫm máu anh không sợ, chỉ sợ đường về… thấy bóng em!
20- Cỏ và voi
Trời sinh voi, còn cỏ là do voi tự kiếm lấy.
21- Gần mực thì đen
Gần đèn thì cháy.
22- Xưa kia ta ở trên trời
Bởi hay uống rượu trời đày xuống đây.
Xuống đây ta uống cho say
Xơ gan cổ trướng lại bay về trời.
Rượu bất khả ép… ép bất khả từ.
Cha Ông Đức Độ Ban Cho Rượu.
Con Cháu Thảo Hiền Thoả Sức Say!!!
Trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia rượu vẫn còn trơ trơ.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư, rượu ngon không uống để rượu hư.
23- Nam thực như hổ, nữ thực hơn nam.
24- Một tay làm chẳng nên chi, thêm ba tay nửa thành sòng tiến lên.
25- Học quan trọng hay yêu quan trọng?
Yêu là chuyện nhỏ học là chuyện lớn,
=> Việc nhỏ không làm thì sao làm được việc lớn!
26- Tiền thì hông thiếu, mà nhiều thì hông có.
Tiền là giấy, nhưng giấy đây tiền đâu?
Tiền anh không thiếu, có điều phải biết “chiều”.
Tiền là giấy, thấy là lấy.
27- Điều gì bạn cũng nên biết, chỉ duy nhất 1 cái không nên biết là: Không biết điều.
28- Đàn ông thành đạt = 1, 2, 3, 4 (1 Vợ, 2 Con, 3 Tầng, 4 Bánh).
29- Đất lành chim đậu, đất không lành đất nhậu luôn chim.
30- Ai cũng hiểu chỉ… 1 người không hiểu
Có đồ chơi mang đến… lại mang về…
31- Đêm năm canh em nhớ anh canh đầu,
Bốn canh sau em u sầu ngủ tiếp.
32- Yêu nhau trong sáng, phang nhau trong tối.
Cứ a-bờ-cờ (abc) mãi thì kiểu gì cũng đến quờ-rờ-sờ (qrs).
33- Quê tôi nghèo lắm. Chó ăn đá, gà ăn sỏi, người ăn chó gà.
34- Quay đầu là bờ mà bơi sang bên kia…. cũng là bờ.
35- Người đàn ông đích thực là người khi vô đến cây xăng phải mạnh miệng: “Đầy bình cho tao ”
36- Chạy làng: Làm trai cho đáng nên trai, vắt chanh bỏ vỏ mấy ai… đã từng
37- Chân lý đố cãi: Sông có thể cạn, núi có thể mòn… Nhưng những người lùn không bao giờ cao lên được.
38- Đối với bác sĩ thuộc nằm lòng câu “Lương y như từ mẫu”,
Còn Công chức thì: “Lương y….như tháng trước”.
39- Có cái chết hóa thành bất tử
Và có cái chết hóa thành … chết thử.
Có con người như chân lý sinh ra
Nhưng, có những người do… sơ ý sinh ra.
40- Ngày xưa: Đi xe ôm uống bia hơi… ngày nay: Đi xe hơi uống bia ôm.
41- Thà chết chứ không chịu hi sinh.
42- Hữu duyên Air blade năng tương ngộ, vô duyên đi bộ bất tương phùng.
Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên lệch sóng cự um sùm
43- Diễn biến của một cuộc hôn nhân bao giờ cũng là: Bí mật rồi đến trăng mật và cái kết có hậu của nó là vỡ mật…
44- Cây ngay không sợ chết đứng… chỉ sợ chết ngay…
45- Hồng nào mà chẳng có gai.
“Đua đòi” thì ắt… phá thai đôi lần.
46- Dân ta phả biết sử ta… Nếu mà không biết thì tra Googe!
47- Cuộc sống hôn nhân rất khó chịu. Năm thứ nhất của hôn nhân ngừơi vợ nói và người chồng nghe, đến năm thứ hai người chồng nói và người vợ nghe, đến năm thứ ba thì cả hai cùng nói và hàng xóm phải nghe!
48- Bản chất tốt nhưng dòng đời xô đẩy
Xô không được ta đẩy lại dòng đời!
49- Bố em bảo chém gió là không tốt mẹ em bảo chém gió có lợi cho sức khoẻ vì cười nhiều, em không biết nghe ai?
50- Nhìn lên thì chẳng bằng ai, nhìn xuống thì chẳng có ai thèm nhìn.
51- Đau đớn thay phận đàn bà
Hơn năm ba tuổi vẫn là đàn em.
52- Cảm ơn đời mỗi sáng mai thức dậy
Ta thấy mình vẫn còn sống nhăn răng.
53- Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ dành phần… thằng ngu.
54- Trông bạn quen quen, hình như tôi chưa gặp bạn bao giờ?!
55- Nếu em cần một kẻ có thể sẵn sàng chết vì em, thì anh thề với Chúa anh không phải thằng ngu đó.
59- Bố mẹ ta nuôi ta lớn lên, còn vợ ta dạy ta nên người.
Phong ba bão táp không bằng mạng lag Võ Lâm.
Sưu tầm
Làm thế nào để lấy được một ông chồng giàu
(Bài nhận qua email do Nguyễn Văn Trị -
cựu HS Tăng Bạt Hổ gửi đến)
Đây là một lá thư của một cô gái đăng trên mạng, và được một CEO của một công ty trả lời.
16 chữ VÀNG !
尊 族 大 歸
Tôn tộc đại quy
尊 祿 大 危
Tôn lộc đại nguy
尊 才 大 盛
Tôn tài đại thịnh
尊 佞 大 衰
Tôn nịnh đại suy.
***
Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm
***
Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm (1889-1954) là một đại thần triều Nguyễn, nguyên Tham tri Bộ Hình, Phủ doãn Thừa Thiên, Quyền Tổng đốc Thanh Hóa. Ông sinh năm 1889 tại làng Gôi Vị, nay là xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ nhỏ, Nguyễn Khắc Niêm đã thông minh tuấn tú hơn người. Năm 1906, mới 18 tuổi, ông thi đậu cử nhân, trường thi Nghệ An. Năm 1907, ở tuổi 19, ông thi đậu đệ nhị giáp tiến sĩ (Hoàng giáp)[1], khoa thi đình Đinh Mùi, tại Huế. Có thể nói, Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm là một trong số rất ít người đậu đại khoa thời phong kiến khi ở cái tuổi còn rất trẻ như thế. Khi thi đỗ đại khoa, được cùng các vị tiến sĩ đồng khoa triều kiến vua Thành Thái, nhà vua đề nghị mỗi vị tân khoa tiến sĩ hãy góp kế sách để phục hưng quốc gia, Nguyễn Khắc Niêm đã đọc 4 câu như sau:
尊 族 大 歸
Tôn tộc đại quy
尊 祿 大 危
Tôn lộc đại nguy
尊 才 大 盛
Tôn tài đại thịnh
尊 佞 大 衰
Tôn nịnh đại suy.
***
(Đề cao nòi giống ắt đại hòa hợp
Coi trọng bổng lộc ắt đại nguy nan
Tôn trọng tài năng, ắt đại phồn thịnh
Ưa thích xiểm nịnh, ắt đại suy vong.)
***
Thành Thái, một ông vua yêu nước tràn đầy khí phách, đã không có cơ hội để thực hiện 4 câu châm ngôn mà vị Hoàng giáp trẻ tuổi đề xuất. Ngay sau khoa thi này, cũng trong năm 1907, Hoàng đế Thành Thái do bộc lộ tư tưởng chống Pháp ngày càng rõ rệt, đã bị Toàn quyền Đông Dương ép thoái vị. Thật đáng tiếc! Tuy không còn gặp được minh quân để thi thố cái chí hướng Y, Phó, Quản, Nhạc(2) lại bất đắc dĩ phải ra làm quan với chính quyền bù nhìn, nhưng suốt thời gian 32 năm xuất chính, khi làm học quan, khi làm quan hành chính ở các tỉnh và bộ, Nguyễn Khắc Niêm vẫn luôn luôn sống thanh liêm, giữ khí tiết và phần nào cố gắng thực hiện những tư tưởng, hoài bão mà bản thân ông đã nung nấu từ thuở thiếu thời.
Tháng 2 năm 1942, có lẽ chán với cảnh làm quan nô lệ [Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, bậc tiền bối của Nguyễn Khắc Niêm, đậu Phó bảng năm 1901, từng nói: quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ (quan trường là kẻ nô lệ trong đám nô lệ lại càng nô lệ)], ông từ quan về quê dạy học, làm thuốc. Sau năm 1945, ông tích cực tham gia công tác tại địa phương từ Hội đồng nhân dân xã, ủy ban phòng vệ huyện Hương Sơn, Ban văn hóa tỉnh Hà Tĩnh, ủy viên Ban chấp hành Mặt trận Liên Việt, kiêm trưởng ban cứu trợ thương binh Liên khu 4. Năm 1952, ông được chính phủ mời ra Việt Bắc họp hội nghị Liên Việt trung ương, nhưng vì sức khỏe yếu không đi được. Năm 1954, ông tạ thế tại quê nhà.
Tuy Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm không gặp được vận hội tốt lành để trí quân trạch dân (giúp vua chăm lo cho dân), nhưng 4 câu châm ngôn nói trên của ông thì đến nay còn nguyên giá trị. Chúng ta có thể xem 4 câu châm ngôn này là 4 vế câu của hai mệnh đề. Các vế câu có liên quan chặt chẽ với nhau; đồng thời, có thể xếp vế thứ nhất và vế thứ hai làm một mệnh đề, vế thứ ba và vế thứ tư làm một mệnh đề. Mỗi mệnh đề có hai vế đối lập nhằm làm nổi bật những vấn đề có liên quan chặt chẽ với nhau.
Trước hết, chủ trương “tôn tộc” để “đại quy” (quy tụ về một mối lớn) của Nguyễn Khắc Niêm thực chất là chủ trương đại đoàn kết dân tộc.
Chữ tộc trong câu nói của Nguyễn Khắc Niêm trước hết có nghĩa là giống loài, là cả một cộng đồng quần cư chứ không chỉ là các dòng họ trong cộng đồng. Có thể nói, cái sự “đại quy”, sự quy tụ lớn này, chính là sự đoàn kết trong nội bộ cộng đồng dân tộc, sự đồng thuận trong xã hội. Đó là tiền đề quan trọng nhất để đảm bảo thắng lợi cho mọi cuộc vận động xã hội từ xưa đến nay. Trong lịch sử dân tộc ta, đã có rất nhiều sự kiện trực tiếp hoặc gián tiếp chứng minh hùng hồn cho chân lý trong câu châm ngôn đó. Hồ Chủ tịch đã khẳng định chân lý này bằng câu khẩu hiệu “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết! Thành công, thành công, đại thành công” và bằng chính cuộc kháng chiến chống Pháp do Người lãnh đạo mà cụ Nguyễn Khắc Niêm là một trong những nhân sĩ đã hăng hái tham gia. Hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại, Đảng ta tiếp tục phát động sâu rộng hơn chính sách đại đoàn kết dân tộc. Để thực hiện có hiệu quả cao chính sách này, công tác dân vận đang được hết sức chú trọng. Hơn lúc nào hết, tại thời điểm này, khi chúng ta hội nhập với thế giới, nếu không tạo được sự đồng thuận, đoàn kết sâu sắc, chặt chẽ trong cộng đồng dân tộc thì chẳng những công cuộc xây dựng đất nước gặp trở ngại mà đến nền an ninh-quốc phòng cũng khó vững vàng. Nhận thức là như vậy, nhưng thật đáng buồn là ngày nay, ngay trong hàng ngũ cán bộ, công chức là Đảng viên, vẫn còn một số người, bằng những việc làm thiếu ý thức, vô trách nhiệm, đã trực tiếp hoặc gián tiếp phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc mà những bậc hiền tài các triều đại trước vun trồng và sau này, Đảng và Bác đã dày công bồi đắp
Lực cản đáng lo ngại nhất đối với việc thực hiện chủ trương “tôn tộc đại quy” (đại đoàn kết dân tộc) là tệ kéo bè, kết cánh vì lợi ích cục bộ theo kiểu cánh hẩu từng địa phương, thậm chí theo từng dòng họ. Đến bây giờ, quan niệm lỗi thời cho rằng “Một người làm quan cả họ được cậy, một người làm bậy cả họ mất nhờ” dường như vẫn đang còn những tàn dư đáng sợ. Trong bối cảnh phát triển hiện nay của dân tộc, việc củng cố, phát huy gia tộc là đúng, là cần thiết. Tuy nhiên, sự phát triển của gia tộc nếu không đúng hướng, không phù hợp với lợi ích chung thì sẽ phá vỡ mục tiêu “đại quy’, góp phần tạo ra tình trạng cát cứ, làm tổn hại đến khối đại đoàn kết dân tộc. Đành rằng, dân tộc Việt này, cũng như các dân tộc thiểu số khác trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, là sự hợp quần của bách tính (trăm họ), nhưng chỉ có việc phát triển dân tộc mới bảo đảm cho việc phát triển các dòng họ. Tình trạng phục hưng nghi lễ, củng cố tôn ty, hệ thống, uy thế của các dòng họ hiện thời, đã có không ít biểu hiện lệch lạc. Đặc biệt, ở môi trường nông thôn, một số kẻ hoạt đầu, cơ hội trong các dòng họ đã lợi dụng những kẽ hở để mưu lợi ích riêng, tạo ra các cuộc tranh chấp không đáng có giữa các dòng họ, gây rối loạn trong cộng đồng xã hội. Chính những kẻ này đã kích hoạt nhiều thói hư tật xấu của số đông thành viên trong các dòng họ, làm bại hoại thuần phong mỹ tục, cản trở cả việc thực thi pháp luật.
Liên quan chặt chẽ đến việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc là lẽ công bằng, là sự minh bạch, là tính dân chủ. Nếu một xã hội chỉ biết “tôn lộc”… ắt là “đại nguy”. Bởi, nếu chỉ biết coi trọng bổng lộc, coi trọng những thu nhập bất chính của các cá nhân hoặc phe nhóm thì lấy đâu ra công bằng, dân chủ, công khai. Từ đó, sẽ gây ra tình trạng xâu xé lẫn nhau, “trên dưới đánh nhau vì lợi” (上 下交 征 利, thượng hạ giao chinh lợi-Mạnh Tử), sẽ sinh ra hạng người chỉ biết lợi ích cá nhân, sống vì lợi quên nghĩa. Loại người này sẽ đánh mất hết cả lý tưởng, đạo đức cách mạng mà Đảng và Bác đã dày công đào luyện; thậm chí, đánh mất cả thiện lương, tính người. Đấy chính là bọn tham nhũng hiện nay mà Đảng và Nhà nước ta đang ra sức chống như một thứ đại dịch nguy hiểm. Tuy rằng, trong thời đại ngày nay, không thể không coi trọng các thứ lợi ích của các thành viên trong xã hội, không thể có thái độ coi thường lợi ích vật chất như các nhà Nho xưa, nhưng nếu chỉ biết coi trọng lợi ích một cách thái quá và thiên lệch (tôn lộc), thì cái nguy cơ làm rối loạn, suy yếu đối với cộng đồng dân tộc là rất lớn.
Nếu chủ trương “tôn lộc” làm nẩy sinh hạng tiểu nhân chỉ biết tranh nhau vì lợi thì chủ trương “tôn tài” sẽ là một trong những phương châm cứu thế tuyệt vời. “Tôn tài đại thịnh”! Cách đây 500 năm, Thân Nhân Trung (1418-1499), tiến sĩ thời Hồng Đức, đã khẳng định tầm quan trọng của nhân tài đối với sự thịnh suy của một quốc gia: “…Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế, các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết…”. Trải qua bao thăng trầm của các triều đại trong lịch sử dân tộc, chân lý này càng trở nên ngời sáng. Tuy nhiên, “tôn tài” cũng có năm bảy đường, năm bảy kiểu. Một mặt, “người tài” là những người vừa có tài đức, nghĩa khí hơn người nhưng mặt khác, họ cũng là những người rất có cá tính, rất nhạy cảm, rất tự trọng. Lịch sử Việt Nam, Trung Quốc và các nước khác trên thế giới đã có nhiều bài học sinh động, đắt giá cho nhà cầm quyền trong việc đối xử với nhân tài. Người tài thực sự không thể chỉ có lấy lợi mà mời họ được, cũng không lấy quyền lực mà uy hiếp họ phải theo mình. Họ là những người “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (Giàu sang không cám dỗ được, nghèo hèn không làm thay đổi ý chí, uy quyền không khuất phục được).
Tôn tài không chỉ là một phương châm đạo đức mà cần quán triệt trong mọi hành vi của người cầm quyền trong đó điều quan trọng nhất là phải biết dùng người tài đúng tầm mức, hợp sở trường. Nói chung, chỉ có hạng vĩ nhân, bậc thiên tài thì mới tự tạo ra được cơ hội, môi trường để thi thố tài năng còn nhân tài thì thường phải trông chờ vào cơ chế xã hội tạo cho môi trường, điều kiện thì mới có dịp để cống hiến. Thời xưa, chẳng đã từng có những người tài “sinh bất phùng thời” mang thái độ bi quan, uất ức với bầu tâm sự “hoài tài bất ngộ” đó sao? Hiện nay, trước vận hội mới, đất nước, dân tộc, chế độ đang cần người tài hơn bao giờ hết. Đảng ta đã có những chủ trương, sách lược đúng đắn để thu hút nhân tài, Nhà nước các cấp đã có những cơ chế, chính sách mạnh để chiêu mộ người tài vào làm việc trong bộ máy quản lý, điều hành xã hội. Tuy vậy, việc thực thi những chủ trương, chính sách này ở các cấp, các ngành, các đơn vị lại đang tỏ ra còn kém hiệu quả. Báo chí gần đây đã nêu lên những con số đáng giật mình về sự ra đi của người tài, sự chảy máu chất xám từ trong các cơ quan nhà nước ra các tổ chức kinh tế xã hội tư nhân hoặc liên doanh với nước ngoài. Hiện tượng chảy máu chất xám ngày nay sẽ ngày càng ồ ạt hơn vì các tổ chức kinh tế-xã hội, khoa học-công nghệ của ngoại quốc được phép vào khai thác chất xám tại chổ trên đất nước ta. Hiện tượng này là khó tránh khỏi trong điều kiện nền kinh tế thị trường, tuy nhiên cũng có mặt cần được nghiên cứu, lý giải và tìm cách hạn chế, khắc phục. Người tài xưa nay, phần lớn, là người có lý tưởng “kinh bang tế thế” (giúp nước, cứu đời). Vậy vì sao đất nước đang nghèo nàn, khốn khó như thế, chủ trương, chính sách của Nhà nước rõ ràng như thế mà lại có người tài tỏ ra chưa thật sự phấn khởi? Phải chăng vì chủ trương, chính sách có chỗ nào đó không hợp lý? Hay vì những người thực hiện chính sách không tử tế, không thực tâm cầu thị? Hay tại môi trường cán bộ, công chức trong các tổ chức, cơ quan đang còn những hiện tượng đố kỵ, ganh ghét khiến họ không an tâm làm việc? Hay tại sự đối xử thiếu công bằng, phân công lao động, đánh giá lao động không hợp lý?…
Bao nhiêu câu hỏi như thế đã được xới xáo lên trong dư luận xã hội và trên các diễn đàn nhưng vẫn chưa có những câu trả lời, những giải pháp hợp lý để giải quyết triệt để. Có địa phương ra nghị quyết này, quyết định nọ để thu hút nhân tài nhưng kết quả chỉ thu nhận về được một số người chưa hẳn đã có thực tài, hoặc giả nếu có chút năng lực nào đó thì cũng đã luống tuổi, “lão lai tài tận”. Mặt khác, trong khi đó, nhân lực hiện có của địa phương thực ra không phải không có người tài mà chỉ vì tâm lý đố kỵ, ganh ghét, tâm lý “bụt chùa nhà không thiêng”, tâm lý “sợ người tài”(3) mà để cho họ cảm thấy như bị định kiến, bị bỏ rơi. Thậm chí, có nơi không sử dụng họ nhưng khi họ xin chuyển đi chỗ khác lại tìm cách ngăn cản.
Ngoài ra, còn không hiếm quan chức địa phương và các bộ, các ngành đã tận dụng chủ trương, chính sách này để mưu lợi riêng. Nhân danh việc trọng dụng nhân tài, họ dàn dựng để đưa những kẻ hữu danh vô thực lên những vị trí quan trọng. Hoặc là mua quan bán tước, hoặc là để trả ơn riêng, hoặc là dành chỗ đẹp cho người nhà, cánh hẩu. Đấy toàn là những việc làm của những kẻ chỉ biết “tôn lộc” mà chúng ta đã đề cập ở phần trên. Với trạng huống như vậy, thì người tài thực là như cá lọt vào giỏ cua, làm sao phát huy được hết tài năng để phục vụ xã hội?
Trò đời, khi cái tích cực, cái thiện, cái tốt không được phát huy thì cái tiêu cực, cái ác, cái xấu có đất nảy nở. Cũng vậy, khi người tài không được trọng dụng thì ắt là bọn siểm nịnh được thời lấn lướt. Những kẻ này chỉ có một cái tài là làm vừa lòng người cầm quyền, dắt dẫn người cầm quyền vào con đường ăn chơi sa đoạ để lợi dụng. Lịch sử các dân tộc cổ kim, đông tây có quá nhiều tấm gương tày liếp về tai họa này. Chỉ nội một việc thời Lê sơ, khi Lê Thái Tổ nghe bọn nịnh thần nghi ngờ rồi sát hại, đày đoạ các bậc hiền tài, trung lương như Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi…, thì đã khiến nhà Lê rơi vào tình trạng rối loạn trong một thời gian khá dài. Câu “tôn nịnh đại suy” là một chân lý lịch sử phổ biến hầu hết ở mọi cộng đồng dân tộc. Bài học lịch sử thì rõ ràng như vậy, nhưng hầu như triều đại nào cũng mắc phải, cũng phải trả giá rất đắt. Sở dĩ như vậy là vì tâm lý con người ta thường “thích nghe nịnh hót, ghét bỏ lời trung”. Chỉ có những người có học thức, có văn hoá cao, biết suy nghiệm sâu sắc việc đời xưa nay, biết kiên trì lý tưởng cao cả thì mới hòng tránh khỏi hoạ nịnh thần. Ngày nay, người ta nói nhiều tới văn hoá chính trị; có lẽ, việc lánh xa kẻ nịnh, biết gần người trung sẽ là một trong những tiêu chí văn hoá quan trọng nhất của người cầm quyền.
Nói tóm lại, càng suy ngẫm càng thấm thía tính chân lý, ý nghĩa thời sự của bốn câu châm ngôn nói trên mà có người đã đặt tên là “Tứ tôn châm” 四 尊 箴 (lời răn về bốn cái sự tôn). Trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, vận vào đâu cũng thấy “Tứ tôn châm” đều nóng hổi ý nghĩa thời sự, đều có tính cập nhật cao. Để thấy hết giá trị của “Tứ tôn châm”, chúng tôi xin nêu nhận định của ông Cam Ly, một nhà báo lão thành, khi giới thiệu 4 câu này trên báo “Phụ nữ Thủ đô”: “Cụ Nguyễn Khắc Niêm chỉ với 16 chữ đã diễn đạt một cách súc tích sự minh triết Việt Nam… Mười sáu chữ vàng của cụ Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm nay vẫn còn nguyên giá trị, ý nghĩa giáo dục nhân sinh sâu sắc và lay động tâm can tất thảy những ai vì sự trường tồn của dân tộc” (4).
Một nhân sĩ mà hành trạng và tư tưởng có những điểm tiến bộ như thế, chúng ta cần tổ chức nghiên cứu các di cảo của ông một cách nghiêm túc để kế thừa và phát huy. Hy vọng, sẽ có một cuộc hội thảo nghiêm túc và có chất lượng về những gì Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm đã để lại, trên miền quê yêu dấu của ông.
TG Thế Việt - .forumotion.net/t1114-topic#1222
CHÚ THÍCH:
(1) Hoàng giáp là một loại danh hiệu của học vị Tiến sĩ trong hệ thống giáo dục Việt Nam thời xưa. Loại danh hiệu này được xác định trong kỳ thi Đình, còn gọi là tiến sĩ xuất thân (進士出身). Vì đứng thứ hai trong hệ thống các loại học vị tiến sĩ, trên đệ tam giáp, nhưng dưới đệ nhất giáp, (tức tam khôi: trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa) nên còn gọi là Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân. Đến nhà Nguyễn, triều đình thường bỏ không lấy hạng đệ nhất giáp, đặc biệt là Trạng nguyên, nên người đỗ hoàng giáp xếp trên cùng có thể coi là đình nguyên. Loại này không chia bậc, chỉ xếp thứ tự, ai đỗ cao hơn được xếp ở trên..
(2)Y, Phó, Quản, Nhạc: tức là Y Doãn, Phó Duyệt (đời nhà Thương), Quản Trọng (thời Xuân Thu), Nhạc Nghị (thời Chiến Quốc). Đây là 4 nhà chính trị kiệt xuất thời cổ đại Trung Hoa, lập công lớn để đời, tên tuổi lưu danh sử sách.
(3)Tương truyền, trong một cuộc hội nghị quan trọng của Tỉnh uỷ Nghệ An vào thập kỷ 90 của thế kỷ trước, có một vị quan chức đã vui miệng tổng kết về tình trạng sử dụng cán bộ của tỉnh này như sau: “giàu thì ghét, đói rét thì khinh, thông minh thì sợ” (tức là sợ người tài nên không dùng).
(4) Nguyễn Đắc Xuân (sưu tầm, biên soạn). Cụ Hoàng Niêm đất Hương Sơn. NXB Thuận Hóa. Huế, 2007, tr. 83, 84.
http://yume.vn/viethuvn/article/16-chu-vang.35D65FBD.html
Vị trí địa lý
Bình Định là tỉnh duyên hải miền Trung của Việt Nam. Lãnh thổ của tỉnh trải dài 110 km theo hướng Bắc - Nam, có chiều ngang với độ hẹp trung bình là 55 km (chỗ hẹp nhất 50 km, chỗ rộng nhất 60 km). Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi với đường ranh giới chung 63 km (điểm cực Bắc có tọa độ: 14°42'10 Bắc, 108°55'4 Đông). Phía Nam giáp tỉnh Phú Yên với đường ranh giới chung 59 km (điểm cực Nam có tọa độ: 13°30'10 Bắc, 108o54'00 Đông). Phía Tây giáp tỉnh Gia Lai có đường ranh giới chung 130 km (điểm cực Tây có tọa độ: 14°27' Bắc, 108°27' Đông). Phía Đông giáp biển Đông với bờ biển dài 134 km, điểm cực Đông là xã Nhơn Châu (Cù Lao Xanh) thuộc thành phố Quy Nhơn (có tọa độ: 13°36'33 Bắc, 109°21' Đông). Bình Định được xem là một trong những cửa ngõ ra biển của các tỉnh Tây Nguyên và vùng nam Lào.
Địa hình
Địa hình của tỉnh tương đối phức tạp, thấp dần từ tây sang đông. Phía tây của tỉnh là vùng núi rìa phía đông của dãy Trường Sơn Nam, kế tiếp là vùng trung du và tiếp theo là vùng ven biển. Các dạng địa hình phổ biến là các dãy núi cao, đồi thấp xen lẫn thung lũng hẹp độ cao trên dưới 100 mét, hướng vuông góc với dãy Trường Sơn, các đồng bằng lòng chảo, các đồng bằng duyên hải bị chia nhỏ do các nhánh núi đâm ra biển. Ngoài cùng là cồn vát ven biển có độ dốc không đối xứng giữa 2 hướng sườn đông và tây. Các dạng địa hình chủ yếu của tỉnh là:
* Vùng núi: Nằm về phía tây bắc và phía tây của tỉnh. Đại bộ phận sườn dốc hơn 20°. Có diện tích khoảng 249.866 ha, phân bố ở các huyện AnLão (63.367 ha), Vĩnh Thạnh (78.249 ha), Vân Canh (75.932 ha), TâySơn và Hoài Ân (31.000 ha). Địa hình khu vực này phân cắt mạnh, sông suối có độ dốc lớn, là nơi phát nguồn của các sông trong tỉnh. Chiếm 70% diện tích toàn tỉnh thường có độ cao trung bình 500-1.000 m, trong đó có 11 đỉnh cao trên 1.000 m, đỉnh cao nhất là 1.202 m ở xã An Toàn (huyện An Lão). Còn lại có 13 đỉnh cao 700-1000m. Các dãy núi chạy theo hướng Bắc - Nam, có sườn dốc đứng. Nhiều khu vực núi ăn ra sát biển tạo thành các mỏm núi đá dọc theo bờ, vách núi dốc đứng và dưới chân là các dải cát hẹp. Đặc tính này đã làm cho địa hình ven biển trở thành một hệ thống các dãy núi thấp xen lẫn với các cồn cát và đầm phá.
* Vùng đồi: tiếp giáp giữa miền núi phía tây và đồng bằng phía đông, có diện tích khoảng 159.276 ha (chiếm khoảng 10% diện tích), có độ cao dưới 100 m, độ dốc tương đối lớn từ 10° đến 15°. Phân bố ở các huyện Hoài Nhơn (15.089 ha), An Lão (5.058 ha) và Vân Canh (7.924 ha).
* Vùng đồng bằng: Tỉnh Bình Định không có dạng đồng bằng châu thổ mà phần lớn là các đồng bằng nhỏ được tạo thành do các yếu tố địa hình và khí hậu, các đồng bằng này thường nằm trên lưu vực của các con sông hoặc ven biển và được ngăn cách với biển bởi các đầm phá, các đồi cát hay các dãy núi. Độ cao trung bình của dạng địa hình đồng bằng lòng chảo này khoảng 25-50 m và chiếm diện tích khoảng 1.000 km². Đồng bằng lớn nhất của tỉnh là đồng bằng thuộc hạ lưu sông Kôn, còn lại là các đồng bằng nhỏ thường phân bố dọc theo các nhánh sông hay dọc theo các chân núi và ven biển.
* Vùng ven biển: Bao gồm các cồn cát, đụn cát tạo thành một dãy hẹp chạy dọc ven biển với chiều rộng trung bình khoảng 2 km, hình dạng và quy mô biến đổi theo thời gian. Trong tỉnh có các dãi cát lớn là: dãi cát từ Hà Ra đến Tân Phụng, dãi cát từ Tân Phụng đến vĩnh Lợi, dãi cát từ Đề Gi đến Tân Thắng, dãi cát từ Trung Lương đến Lý Hưng. Ven biển còn có nhiều đầm như đầm Trà Ổ, đầm Nước Ngọt, đầm Mỹ Khánh, đầm Thị Nại; các vịnh như vịnh Làng Mai, vịnh Quy Nhơn, vịnh Vũng Mới...; các cửa biển như Cửa Tam Quan, cửa An Dũ, cửa Hà Ra, cửa Đề Gi và cửa Quy Nhơn. Các cửa trên là cửa trao đổi nước giữa sông và biển. Hiện tại ngoại trừ cửa Quy Nhơn và cửa Tam Quan khá ổn định, còn các cửa An Dũ, Hà Ra, Đề Gi luôn có sự bồi lấp và biến động.
Hải đảo
Ven bờ biển tỉnh Bình Định gồm có 32 đảo lớn nhỏ được chia thành 10 cụm đảo hoặc đảo một mình.
* Tại khu vực biển thuộc thành phố Quy Nhơn gồm cụm đảo Cù Lao Xanh là cụm đảo lớn gồm 3 đảo nhỏ; cụm Đảo Hòn Đất gồm các đảo nhỏ như Hòn Ngang, Hòn Đất, Hòn Rớ; cụm Đảo Hòn Khô còn gọi là cù lao Hòn Khô gồm 2 đảo nhỏ; cụm Đảo Nghiêm Kinh Chiểu gồm 10 đảo nhỏ (lớn nhất là Hòn Sẹo); cụm Đảo Hòn Cân gồm 5 đảo nhỏ; Đảo đơn Hòn Ông Cơ.
* Tại khu vực biển thuộc huyện Phù Mỹ gồm cụm Đảo Hòn Trâu hay Hòn Trâu Nằm gồm 4 đảo nhỏ; Đảo Hòn Đụn còn gọi là Hòn Nước hay Đảo Đồn; Đảo Hòn Tranh còn gọi là Đảo Quy; Đảo Hòn Nhàn; Đảo Hòn Khô còn gọi là Hòn Rùa.
* Trong các đảo nói trên thì chỉ đảo Cù Lao Xanh là có dân cư sinh sống. Dọc bờ biển của tỉnh, ngoài các đèn hiệu hướng dẫn tàu thuyền ra vào cảng Quy Nhơn, thì Bình Định còn có 2 ngọn hải đăng: một ngọn được xây dựng trên mạng bắc của núi Gò Dưa thuộc thôn Tân Phụng xã Mỹ Thọ huyện Phù Mỹ, ngọn này có tên gọi là Hải Đăng Vũng Mới hay Hải Đăng Hòn Nước; ngọn thứ hai được xây dựng trên đảo Cù Lao Xanh thuộc xã Nhơn Châu thành phố Quy Nhơn.
Sông ngòi
Các sông trong tỉnh đều bắt nguồn từ những vùng núi cao của sườn phía đông dãy Trường Sơn. Các sông ngòi không lớn, độ dốc cao, ngắn, hàm lượng phù sa thấp, tổng trữ lượng nước 5,2 tỷ m³, tiềm năng thuỷ điện 182,4 triệu KW. Ở thượng lưu có nhiều dãy núi bám sát bờ sông nên độ dốc rất lớn, lũ lên xuống rất nhanh, thời gian truyền lũ ngắn. Ở đoạn đồng bằng lòng sông rộng và nông có nhiều luồng lạch, mùa kiệt nguồn nước rất nghèo nàn; nhưng khi lũ lớn nước tràn ngập mênh mông vùng hạ lưu gây ngập úng dài ngày vì các cửa sông nhỏ và các công trình che chắn nên thoát lũ kém. Trong tỉnh có bốn con sông lớn là Côn, Lại Giang, La Tinh và Hà Thanh cùng các sông nhỏ như Châu Trúc hay Tam Quan. Ngoài các sông đáng kể nói trên còn lại là hệ thống các suối nhỏ chằng chịt thường chỉ có nước chảy về mùa lũ và mạng lưới các sông suối ở miền núi tạo điều kiện cho phát triển thuỷ lợi và thuỷ điện. Độ che phủ của rừng đến nay chỉ còn khoảng trên 40% nên hàng năm các sông này gây lũ lụt, sa bồi, thuỷ phá nghiêm trọng. Ngược lại, mùa khô nước các sông cạn kiệt, thiếu nước tưới.
Hồ đầm
Toàn tỉnh Bình Định có nhiều hồ nhân tạo được xây dựng để phục vụ mục đích tưới tiêu trong mùa khô. Trong đó có thể kể tên một số hồ lớn tại các huyện trong tỉnh như: hồ Hưng Long (An Lão); hồ Vạn Hội, Mỹ Đức và Thạch Khê (Hoài Ân); hồ Mỹ Bình (Hoài Nhơn); hồ Hội Sơn và Mỹ Thuận (Phù Cát); hồ Diêm Tiêu, Hóc Nhạn và Phú Hà (Phù Mỹ); hồ Định Bình, Thuận Ninh (Tây Sơn); hồ Núi Một (Vân Canh-An Nhơn); hồ Vĩnh Sơn, hồ Định Bình (Vĩnh Thạnh). Ngoài ra Bình Định còn có một đầm nước ngọt khá rộng là đầm Trà Ổ (Phù Mỹ) và hai đầm nước lợ là Đề Gi (Phù Mỹ-Phù Cát) và Thị Nại (Tuy Phước-Quy Nhơn). Hệ thống hồ đầm này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản. Đặc biệt đầm Thị Nại là đầm lớn rất thuận lợi cho việc phát triển cảng biển tầm cở quốc gia và góp phần phát triển khu kinh tế Nhơn Hội, đầm còn được biết đến với cây cầu vượt biển dài nhất Việt Nam hiện nay.
Khí hậu
Khí hậu Bình Định có tính chất nhiệt đới ẩm, gió mùa. Do sự phức tạp của địa hình nên gió mùa khi vào đất liền đã thay đổi hướng và cường độ khá nhiều.
* Nhiệt độ không khí trung bình năm: ở khu vực miền núi biến đổi 20,1-26,1°C, cao nhất là 31,7°C và thấp nhất là 16,5°C. Tại vùng duyên hải, nhiệt độ không khí trung bình năm là 27,0°C, cao nhất 39,9°C và thấp nhất 15,8°C.
* Độ ẩm tuyệt đối trung bình tháng trong năm: tại khu vực miền núi là 22,5-27,9% và độ ẩm tương đối 79-92%; tại vùng duyên hải độ ẩm tuyệt đối trung bình là 27,9% và độ ẩm tương đối trung bình là 79%.
* Chế độ mưa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12. Riêng đối với khu vực miền núi có thêm một mùa mưa phụ tháng 5-8 do ảnh hưởng của mùa mưa Tây Nguyên. Mùa khô kéo dài tháng 1-8. Đối với các huyện miền núi tổng lượng mưa trung bình năm 2.000-2.400 mm. Đối với vùng duyên hải tổng lượng mưa trung bình năm là 1.751 mm. Tổng lượng mưa trung bình có xu thế giảm dần từ miền núi xuống duyên hải và có xu thế giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
* Về bão: Bình Định nằm ở miền Trung Trung bộ Việt Nam, đây là miền thường có bão đổ bộ vào đất liền. Hằng năm trong đoạn bờ biển từ Quảng Nam - Đà Nẵng đến Khánh Hòa trung bình có 1,04 cơn bão đổ bộ vào. Tần suất xuất hiện bão lớn nhất tháng 9-11.
Lịch sử
* Bình Định xưa là đất thuộc Việt Thường Thị và nền văn hóa SaHuỳnh, sau đó người Chăm đã tới chiếm lĩnh vùng đất này. Đến đời nhà Tần xứ này là huyện Lâm Ấp thuộc Tượng Quận, đời nhà Hán là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam, năm Vĩnh Hoà 2 (137) người trong quận làm chức Công Tào tên là Khu Liên đã giết viên huyện lệnh chiếm đất và tự phong là Lâm Ấp vương. Đời nhà Tùy (605) dẹp Lâm Ấp đặt tên là Xung Châu, sau đó lại lấy tên cũ là Lâm Ấp. Đời nhàĐường, năm 627 đổi tên là Lâm Châu. Năm 803, nhà Đường bỏ đất này và nước Chiêm Thành của người Chăm ra đời, đất này được đổi là Đồ Bàn, Thị Nại. Đời nhà Lê năm Hồng Đức 2 (1471) vua Lê ThánhTông đánh phá Chiêm Thành tới núi Thạch Bi chiếm đất này và chia thành 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn của phủ Hoài Nhơn thuộc thừa tuyên Quảng Nam. Năm 1602 Chúa Nguyễn Hoàng cho đổi phủ Hoài Nhơn thành Phủ Quy Nhơn thuộc dinh Quảng Nam. Năm 1651, chúa Nguyễn Phúc Tần, đã đổi tên phủ Quy Nhơn thành phủ Quy Ninh. Năm 1742, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy lại tên cũ là Quy Nhơn. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát đặt các đạo làm dinh, nhưng cấp phủ vẫn giữ nguyên. Phủ Quy Nhơn vẫn thuộc về dinh Quảng Nam, đặt các chức tuần phủ và khám lý để cai trị. Phủ lỵ dời ra phía Bắc thành Đồ Bàn, đóng tại thôn Châu Thành (nay là xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn). Năm 1725, ở phủ Quy Nhơn đặt các chức quan trông coi: Chánh hộ, Khám lý, Đề đốc, Đề lãnh, Ký lục, Cai phủ, Thư ký, mỗi chức đặt một người; mỗi huyện đặt cai tri, thư ký, mỗi chức một người và 2 viên lục lại; mỗi tổng có cai tổng. Từ 1773 đến 1797, nhà Tây Sơn chiếm cứ đất này, sau khi lấy lại đất này Nguyễn Ánh đổi tên đất này là dinh Bình Định, sai Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn thủ và đặt quan cai trị gọi là Lưu Thủ, Cai Bộ, Ký Lục. Năm 1808 đổi dinh Bình Định thành Trấn Bình Định. Năm 1825 đặt tri phủ Quy Nhơn, năm 1831 lại đổi thành phủ Hoài Nhơn. Năm 1832 tách huyện Tuy viễn thành hai huyện Tuy Viễn và Tuy Phước, tách huyện Phù Ly thành hai huyện Phù Mỹ và Phù Cát đồng thời Bình Định và Phú Yên thành liên tỉnh Bình Phú, sau đó bỏ liên tỉnh này. Năm 1888 đặt huyện Bình Khê. Vào năm 1885 Bình Định là một tỉnh lớn ở Trung Kỳ, nhiều vùng đất của Gia Lai-Kon Tum còn thuộc về Bình Định. Năm 1890, thực dân Pháp sáp nhập thêm Phú Yên vào tỉnh Bình Định thành tỉnh Bình Phú, tỉnh lỵ là Quy Nhơn. Nhưng đến năm 1899, Phú Yên tách ra khỏi Bình Phú. Ngày 4 tháng 7 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh tự trị Pleikou Derr, tỉnh lỵ đặt tại làng Pleikan Derr của dân tộc Gia Lai. Địa bàn tỉnh Pleikou Derr bao gồm các vùng cư trú của đồng bào thiểu số Xơ đăng, Bana, Gialai tách từ tỉnh Bình Định ra. Ngày 25 tháng 4 năm 1907 xoá bỏ tỉnh Pleikou Derr. Toàn bộ đất đai của tỉnh này chia làm hai phần: một là Đại lý Kontum cho sáp nhập trở lại tỉnh Bình Định và đặt dưới sự cai trị của Công sứ Bình Định; một gọi là Đại lý Cheo Reo, cho sáp nhập vào tỉnh Phú Yên và đặt dưới sự cai trị của Công sứ Phú Yên. Năm 1913, thực dân Pháp lại sáp nhập Phú Yên vào Bình Định thành tỉnh Bình Phú và thành lập tỉnh Kontum làm tỉnh riêng; địa bàn tỉnh Kontum bao gồm Đại lý Kontum tách từ tỉnh Bình Định, Đại lý Cheo Reo tách từ tỉnh Phú Yên và Đại lý Đắc Lắc. Ngày 28 tháng 3 năm 1917 cắt tổng Tân Phong và tổng An Khê thuộc cao nguyên An Khê, tỉnh Bình Định, sáp nhập vào tỉnh Kontum. Năm 1921, thực dân Pháp cắt tỉnh Phú Yên ra khỏi tỉnh Bình Định và kéo dài cho đến năm 1945. Thời ViệtNam Cộng hòa đổi các huyện thành quận, tỉnh Bình Định có 11 quận, 1 thị xã, trong đó có 4 quận miền núi. Tháng 2 năm 1976 Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ra nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam theo đó hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định hợp nhất thành tỉnh Nghĩa Bình. Năm 1989 Bình Định tách ra từ tỉnh Nghĩa Bình để tái lập lại tỉnh và kéo dài như vậy cho đến nay.
Hành chính
Bản đồ hành chính tỉnh Bình Định
Bình Định bao gồm 1 thành phố trực thuộc và 10 huyện:
Thành phố Qui Nhơn
Huyện An Lão
Huyện An Nhơn
Huyện Hoài Ân
Huyện Hoài Nhơn
Huyện Phù Cát website : http://phucat.net
Huyện Phù Mỹ
Huyện Tuy Phước
Huyện Tây Sơn
Huyện Vân Canh
Huyện Vĩnh Thạnh
Dân số, dân tộc
* Theo số liệu niên giám thống kê năm 2005, toàn tỉnh có 1.562.400 người, trong đó nam là (761.000 người) chiếm 48,7%, nữ là (801.400 người) chiếm: 51,3%. Dân số ở thành thị là (393.000 người) chiếm 25,2%, nông thôn là (1.169.400 người) chiếm 74,8%, mật độ dân số là 259,4 người/km2 và dân số trong độ tuổi lao động chiếm khoảng (793.687 người) chiếm: 50,8% dân số toàn tỉnh. Ngoài dân tộc Kinh, còn có các dân tộc khác nhưng chủ yếu là Chăm, Ba Na và Hrê, bao gồm khoảng 2,5 vạn dân.
Văn hóa
* Bình Định là mảnh đất có bề dày lịch sử với nền văn hoá Sa Huỳnh, từng là cố đô của vương quốc Chămpa mà di sản còn lưu giữ là thành Đồ Bàn và các tháp Chàm với nghệ thuật kiến trúc độc đáo. Đây cũng là nơi xuất phát phong trào nông dân khởi nghĩa vào thế kỷ 18 với tên tuổi của anh hùng Nguyễn Huệ; là quê hương của các danh nhân như Đào Tấn, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Yến Lan... Bình Định còn nổi tiếng bởi truyền thống thượng võ và có nền văn hoá đa dạng phong phú với các loại hình nghệ thuật như bài chòi, hát bội, nhạc võTây Sơn, hò bá trạo của cư dân vùng biển... cùng với các lễ hội như: lễhội Đống Đa, lễ hội cầu ngư, lễ hội của các dân tộc miền núi...
Thành phố Qui Nhơn có trường Đại học Qui Nhơn, Trường Cao Đẳng sư phạm Bình Định, Trường Đại học Quang Trung (tư thục), Trường Cao Đẳng Kỹ thuật, hàng năm đào tạo hàng ngàn sinh viên khoa học kỹ thuật cho tỉnh và khu vực miền trung Tây Nguyên .
Tuồng Bình Định
* Bình Định là nơi có nghệ thuật tuồng rất phát triển gắn liền với tên tuổi của Đào Duy Từ (Hiện Nay đền thờ danh nhân Đào Duy Từ ở tại xã Hoài Thanh Tây huyện Hoài Nhơn, cách quốc lộ 1A 2km), Đào Tấn. Các đoàn hát tuồng trong tỉnh được hình thành ở khắp các huyện. Với sự giao lưu của nghệ thuật tuồng và võ Bình Định đã đưa tuồng Bình Định lên một tầm cao mới khác lạ hơn so với các đoàn tuồng của Huế hay Nguyễn Hữu Dỉnh của Quảng Nam. Tuồng còn gọi là "hát bội" hay hát bộ sở dĩ nó có tên gọi như thế là vì ngoài việc hát thì yếu tố quan trọng góp phần tạo nên một vở tuồng hay và đặc sắc là hành động điệu bộ của các đào kép. Việc kết hợp võ thuật vào các màng nhào lộn, đánh trận ở mỗi đoàn có khác nhau tùy theo trình độ của đào kép. Trước kia khi hát bội còn thịnh hành thì có nhiều đoàn hát nhưng những năm gần đây dưới sự biến động của kinh tế thị trường thì nhiều đoàn dần giải tán. Lúc còn thịnh hành các đoàn hát bội thường được các làng, những gia chủ giàu có hay các lăng, đình ven biển mời về biểu diễn.Sau những đoạn diễn hay người cầm chầu ném tiền thưởng lên sân khấu. Vì thế mới có câu "Ở đời có bốn cái ngu làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu" Thường thì sau đêm hát cuối cùng các đoàn hay hát màn "tôn vương" để chúc tụng gia chủ, làng xóm gặp nhiều may mắn và cuối màn "tôn vương" thì thường hát câu: "rày mừng hải yến Hà Thanh-nhân dân an lạc thái bình âu ca" hay "ngũ sắc tường vân khai bắc khuyết-nhất bôi thọ tửu chúc nam sang".
Đặc sản
* Ngoài các đặc sản về lâm, thổ, thuỷ, hải sản của duyên hải miền Trung nói chung, Bình Định còn nổi tiếng có: rượu Bàu Đá (An Nhơn), cá chua nước lợ (Phù Mỹ, Đề Gi), bánh tráng nước dừa (Tam Quan. Ngày nay ở huyện Hoài Nhơn còn có thêm đặc sản Cá Ngừ Đại Dương dân địa phương gọi là cá "Bò Gù" )...
Những gì tôi viết sau đây đều thật lòng cả.
Tôi 25 tuổi. Tôi rất đẹp, tôi có phong cách và khiếu thẩm mỹ cao, tôi muốn cưới một anh chàng có thu nhập từ 500,000 đô mỗi năm trở lên. Bạn có thể nói tôi là người tham lam nhưng với thu nhập mỗi năm 1 triệu đô thì chỉ được coi là tầng lớp trung bình ở New York.
Yêu cầu của tôi không cao. Có ai trong forum này có thu nhập hàng năm là 500 nghìn đô không? Trong số các bạn có ai lập gia đình chưa? Tôi muốn hỏi: "tôi phải làm gì để lấy một ông chồng giàu như các bạn?", Trong số những anh chàng tôi hẹn hò, anh giàu nhất thu nhập chỉ là 250 nghìn đô mỗi năm, đối với tôi mức lương này là quá ít. Nếu như ai đó có ý định chuyển đến 1 căn hộ ở phía tây New york Garden thì mức lương này không đủ để chi tiêu.
Tôi có vài câu hỏi cho các bạn:
1. Những anh chàng giàu có thường lui tới những địa điểm nào? (làm ơn liệt kê ra tên và địa chỉ các quán bar, nhà hàng, phòng tập thể dục...)
2. Tôi nên nhắm những độ tuổi nào.
3. Tại sao mấy bà vợ của các đại gia chỉ có nhan sắc trung bình? Tôi từng tiếp xúc với vài người trong số họ, họ chẳng xinh đẹp và chẳng thú vị gì cả, nhưng tại sao họ lấy được những ông chồng giàu có.
4. Các bạn dựa vào những tiêu chuẩn nào để chọn vợ, và những người nào chỉ có thể là bạn gái của các bạn thôi? (Mục tiêu của tôi bây giờ là lấy chồng)
Ms. Pretty
Sau đây là câu trả lời thẳng thắn của CEO thuộc tập đoàn J.P.Morgans:
Dear Ms.Pretty tôi đã đọc bài viết của bạn và cảm thấy rất thích thú. Tôi đoán có rất nhiều cô gái cũng có những câu hỏi như bạn. Xin cho phép tôi được phân tích tình huống của bạn với tư cách của một nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Trước hết, mức thu nhập của tôi là hơn 500 nghìn đô một năm, đáp ứng được yêu cầu của bạn, vì thế hy vọng mọi người không nghĩ rằng tôi đang phí thời gian ở đây. Đứng dưới góc độ là một doanh nhân, tôi nghĩ cưới bạn quả là một quyết định thiếu sáng suốt. Câu trả lời rất đơn giản, hãy để tôi giải thích cho bạn hiểu, gạt qua những chi tiết linh tinh khác thì rõ ràng bạn đang cố gắng trao đổi "nhan sắc" lấy "tiền", có nghĩa là: A có nhan sắc và B có tiền để mua nó, công bằng và sòng phẳng.
Tuy nhiên, vấn đề mấu chốt ở đây là nhan sắc có thể phai tàn theo năm tháng nhưng tiền đầu tư thì không như vậy. Thực tế phũ phàng là thu nhập của tôi tăng dần qua năm tháng, còn bạn thì không thể ngày một đẹp hơn lên. Vì thế nếu xét dưới góc độ kinh tế mà nói, tôi là một tài sản luôn luôn tạo ra giá trị gia tăng, còn bạn chỉ là một tài sản hao mòn. Hơn nữa không phải hao mòn bình thường mà là hao mòn theo cấp số nhân. Nếu đó là tài sản duy nhất mà bạn có, thì giá trị của nó sẽ bị giảm rất nhiều sau 10 năm nữa.
Nếu so sánh với các phiên giao dịch trên phố Wall thì việc tôi hẹn hò với bạn cũng như một phiên giao dịch vậy. Nếu giao dịch bị giảm giá thì chúng tôi sẽ bán, chẳng ai ngốc giữ nó trong một thời gian dài - cũng như việc kết hôn vậy. Có thể bạn nghĩ tôi thật dã man khi nói ra điều này, nhưng một tài sản mà có giá trị khấu hao lớn như vậy, thì tốt nhất là nên bán nó đi hoặc cho thuê.
Bạn cần phải hiểu rằng bất kỳ một gã đàn ông nào có mức thu nhập. 500,000 đô mỗi năm đều không phải là những gã ngu. Chúng tôi chỉ hẹn hò với bạn nhưng chúng tôi sẽ không cưới bạn. Tôi khuyên bạn hãy quên chuyện tìm cách lấy chồng giàu đi. Thay vào đó hãy tự kiếm cho mình khoản thu nhập 500,000 đô mỗi năm để trở thành đại gia. Việc này có nhiều cơ hội thành công hơn so với việc tìm một thằng giàu mà ngu đấy.
Thân ái
Sumit Kishanpuria -Tổng giám đốc ngân hàng JP Morgan
Giỏi Chữ ... Nho
Trong giờ Văn, thầy giáo giảng về nghĩa của chữ... Nho. Ông thầy đưa ra một ví dụ như chữ Tử có nghĩa là chết. Để mớm ý lũ học trò và cũng để chứng tỏ mình thuộc loại Hán rộng tài cao, ông thao thao đưa ra một lô ví dụ:
-Người chiến sĩ chết ngoài mặt trận, gọi là ... Tử Trận.
-Người chống nạng đi chơi, chẳng may bị vấp té chết, gọi là ... Tử Nạng.
-Người phu lục lộ đang sửa đường, bị xe tung chết, gọi là ... Tử Lộ.
-Đến nhà bạn ăn đám giỗ, rủi bị chó cắn chết, gọi là ... Tử Tuất.
-Ngài thi sĩ hút thuốc nhiều quá, bị ung thư phổi chết, gọi là ... Tử Sĩ.
-Chàng rể nhảy vào can hai ông bà già vợ úynh nhau, bị ông già vợ lỡ tay đập chết, gọi là ... Tử Tế.
-Mấy tên đạo chích đang đêm mò vào nhà ăn trộm, bị chủ nhà bắn chết, gọi là ... Tử Đạo.
-Mấy tên bợm nhậu thích ăn ... đầu heo ngâm dấm, giò thủ, bị trúng thực chết, gọi là ... Tử Thủ.
-Thầy địa lý coi hướng nhà tầm bậy tầm bạ, bị chủ nhà giận quá đánh chết, gọi là ... Tử Địa.
-Đi vượt biển, bị cảm mạo chết, gọi là ... Cảm Tử.
-Bị hải tặc giết, gọi là ... Tặc Tử.
-Đi thi bị trợt vỏ chuối, buồn rầu uống thuốc độc chết, gọi là ... Tử Thi.
-Đi làm bị chủ đuổi, về nhà bị vợ bỏ, tức đến nghẹt tim mà chết, gọi là ... Tử Tức.
-Người yêu bị chết bất đắc kỳ tử, thương quá đứt ruột chết theo, gọi là ... Tử Thương.
-Nhân viên trong lò nguyên tử, hít phải khí độc chết, gọi là ... Tử Khí.
-Mấy chàng ưa chuyện ... mèo mả gà đồng, đưa người ... yêu đến các miếu đền thề thốt bậy bạ, bị ông thần vật chết, gọi là ... Tử Thần.
-Mấy người bị vi trùng bệnh AIDS hành đến chết, gọi là ... Tử Vi.
-Kể từ khi ... vong quốc, những người ra đi xui xẻo bị chết, gọi là ... Tử Vong.
-Đi trên chiến thuyền bị rớt xuống nước chết, gọi là ... Tử Chiến.
-Người đẹp đang ngồi chụp hình trong tiệm, bị đèn rớt xuống trúng đầu chết, gọi là ... Tử Hình.
-Cô ca sĩ hát bài "Biệt ly" hay quá, được khán giả khen nhiệt liệt, quá xúc động, bị đứng tim chết, gọi là ... Tử Biệt.
Thầy hỏi các em, vậy thì các cung nữ hầu hạ các bậc vua chúa ngày xưa, chẳng may bị chết, được gọi là gì?
Cả đám học trò nhao nhao:
- Thưa thầy là ... Tử Cung ạ!!!
Lục lọi
Mẹ mày bảo chưa cần
- Bố ơi, ngày xưa khi cầu hôn mẹ, bố có quỳ xuống không?
- Không!
- Vì hồi trẻ bố dũng cảm hơn bây giờ ạ?
- Không, vì mẹ mày bảo chưa cần, khi nào có lỗi thì mới phải quỳ!
Không thích phải noi gương con rể
Chàng trai hậm hực:
- Vì sao ông không muốn gả con gái cho tôi? Tôi không cờ bạc, rượu chè,
hút xách...
- Anh tuyệt vời kệ anh, tôi không muốn rồi người ta lại lấy anh ra làm gương
cho tôi noi theo, mệt lắm!
Thế mà cũng tin
Chàng trai sung sướng khoe với mẹ:
- Mẹ ơi, cuối cùng thì cô ấy cũng đã xiêu lòng trước lời tỏ tình của con.
Nàng bảo rằng con là người yêu đầu tiên của nàng.
- Trời ơi, sao con ngốc thế! Đúng là cha nào con nấy!
Không nói vì mọi việc đều ổn
Cặp vợ chồng nọ có một bé trai đã 7 tuổi rồi mà chẳng mở miệng nói câu
nào. Bỗng một hôm, nó bật ra câu nói đầu tiên:
- Thịt hôm nay hơi cháy!
Hai vợ chồng rất đỗi ngạc nhiên và vui mừng hỏi nó:
- Tại sao bây giờ con mới chịu nói?
Thằng bé nhăn mặt:
- Vì từ trước đến giờ đều ổn cả.
Sợ cô tủi thân
Để chọn ra một số học sinh cần bồi dưỡng thêm vào dịp hè, cô giáo hỏi:
- Trong lớp ta có ai nghĩ là mình dốt thì đứng lên.
Cả lớp ngồi yên, cuối cùng Johnny uể oải đứng dậy. Cô giáo mỉm cười:
- Chà! Dũng cảm đấy Johnny. Tại sao em lại nghĩ rằng mình dốt?
- Thưa cô, em không nghĩ như vậy đâu ạ. Chẳng qua là em không muốn...
thấy cô phải đứng một mình thôi.
Bà bán kẹo
Tom xin mẹ một penny, mẹ hỏi:
- Thế con đã tiêu gì một penny mẹ cho hôm qua?
- Con đưa cho môt bà cụ nghèo khổ.
- Con ngoan lắm! Đây là một penny nữa cho con. Nhưng tại sao con lại quan
tâm đến bà cụ ấy thế hả?
- Vì khi nhận tiền của con, cụ đã đưa lại cho con một ít kẹo.
Dằn mặt khách
Một người vừa mua bảo hiểm nhà cửa hỏi:
- Nếu chiều nay nhà tôi bị cháy thì tôi sẽ được nhận bao nhiêu?
Nhân viên bảo hiểm nhìn xoáy vào ông khách, gằn giọng:
- Ông nên cẩn thận thì hơn. Tôi đoán không dưới 10 năm.
Bắt khách phải đúng
Thấy cô nhân viên đang gân cổ lên tranh cãi với khách hàng, sếp rất bực, gọi
lại bảo:
- Tôi đã nhiều lần lưu ý cô là khách hàng luôn luôn đúng. Tại sao cô lại làm
căng với ông ta như thế?
- Nhưng thưa sếp, ông khách này lại cứ khăng khăng rằng ông ta đã sai lầm
ạ!
Cách nói xa xôi lịch sự
Trong nhà hàng sang trọng, thấy một thực khách đang cố buộc thật chặt
chiếc khăn ăn vào cổ, ông chủ nhăn mặt bảo anh bồi:
- Hãy đến nói với khách, một cách xa xôi và hết sức lịch sự, rằng ở đây
không nên làm như vậy.
Anh hầu bàn đăm chiêu tiến đến gần vị kia và hỏi hết sức nghiêm túc:
- Thưa, ngài định cạo râu hay cắt tóc ạ?
Luôn luôn phản đối các chuyến đi
Một anh chàng mới lấy vợ than thở với các bạn trai còn độc thân:
- Nếu như Christophe Colomb có vợ, hẳn ông ta đã không phát hiện ra châu
Mỹ...
- Tại sao vậy?
- Nàng sẽ hỏi: Anh đi đâu? Cùng với ai? Đi làm gì? Bao giờ trở về? Em thấy
chuyến đi này của anh sẽ chẳng ích lợi gì đâu...
Phải trả tiền, dùng lúc nào chả được
Hai vợ chồng vào một cửa hàng thời trang, khi người vợ đang thử quần áo,
anh chồng quay ra ngắm một cô khác cũng đang thử đồ. Bắt gặp chồng đang
nhìn "như ăn vã" người ta, cô vợ hờn dỗi đay nghiến:
Cô ấy đẹp hơn tôi nhiều lắm hay sao mà anh cứ há hốc mồm ra thế?
- Ờ cũng khá, nhưng vấn đề là ở chỗ anh ngắm cô ta không mất tiền, tội gì!
Còn với em thì khác, anh sẽ phải trả tiền rồi về nhà ngắm bao nhiêu cũng
được.
Dùng càng lâu càng chán
- Tại sao anh lại bỏ chị ấy?
- Sống chung càng lâu càng thấy chán.
- Thế tại sao anh lại đến với em?
- Vì ngay từ lần đầu gặp em, anh đã có cảm tưởng mình quen nhau từ thuở
nào rồi ấy!
Vài mẩu đối thoại trong gia đình
- Nếu em bận không đi biển cùng anh được, anh xin hứa là suốt cả tuần ở
biển anh chỉ nghĩ đến em thôi. Đồng ý chứ?
- Anh thật đáng yêu! Em đồng ý là trong suốt cả tuần ở nhà anh chỉ nghĩ đến
biển thôi. Thế nhé!
***
- Thôi được rồi, được rồi, anh đồng ý là em đã vun đắp gia đình, đã đem lại
những năm tháng tuyệt vời nhất, nhưng bây giờ anh phải làm gì đây? Có
phải viết giấy biên nhận không?
***
- Đầu ông chả còn lấy một sợi tóc, thế mà tuần nào ông cũng mò đến hiệu cắt tóc thanh nữ!
- Bà đừng lo, ở đó họ cũng... chẳng có lấy một cái kéo.
***
- Anh coi tôi là con gì trong nhà này hả?
- Sao cô lại hỏi tôi chuyện đó? Tôi đâu phải nhà động vật học!
***
- Suốt đêm em không sao chợp mắt nổi! Anh thì ngáy, còn chó thì sủa...
- Thế em muốn thế nào? Chó thì ngáy còn anh... sủa ư?
Nói thẳng nhưng vẫn xa
Trong quân y viện, anh thương binh bị bó bột cả hai chân hai tay đang khẩn
khoản nhờ cô y tá:
- Trời ơi ngứa... "ấy" quá, cô gãi giùm tôi!
- Tội nghiệp, anh ngứa ở đâu?
- Chỗ... không tiện nói.
- Anh cứ nói thẳng, đừng ngại.
- Vâng, ở giữa... hai ngón chân cái!
Bắt phải "mạch gỗ"
Một thương binh đi khám bệnh, bác sĩ sờ lên cổ tay anh ta và xem đồng hồ.
Sau một phút theo dõi, ông này phán:
- Tốt, mạch đập bình thường.
- Nhưng... thưa bác sĩ, đó là cánh tay giả của tôi đấy ạ!
Vẫn là bệnh cũ thôi
Bác sĩ khám cho một thương binh, mãi không luận ra được căn bệnh liền hỏi
anh ta:
- Những triệu chứng này có từ khi anh bị thương đúng không?
- Vâng, thưa bác sĩ.
- Phải rồi, bệnh của anh là vết thương cũ tái phát.
Lạy ông tôi ở bụi này
Hai tên trộm chui qua ống khói đột nhập vào một nhà triệu phú. Không may,
hôm đó ông chủ lại thức khuya đọc báo nghe thấy động, hỏi:
- Ai đó?
- Meo... meo... Tên trộm thứ nhất bèn giả giọng mèo để đánh lạc hướng.
Tưởng mèo thật, chủ nhà yên tâm tiếp tục nằm đọc.
Tên thứ hai gây tiếng động mạnh hơn, làm chủ nhà bật hẳn dậy:
- Ai?
- Lại một con mèo khác thôi mà, thưa ông.
Nghi cho ông nhà văn
Trong dịp nghỉ hè, nhà văn Victor Hugo đến một ngôi làng xinh đẹp. Cuộc
sống ở đây thật thanh bình, ngày nào ông cũng thả ngựa gặm cỏ trên cánh
đồng, còn mình thì lim dim tựa gốc cây tìm ý tưởng... Một hôm, choàng dậy
thì ông đã thấy con ngựa biến mất. Tức điên lên, nhà văn bổ đi tìm nhưng vô
ích. Thất thểu về nhà, gặp một ông cụ nông dân đi dạo trên đường, nhà văn
than phiền về con ngựa. Ông cụ nhìn Hugo như một "quái vật" rồi khẽ đáp:
- Làng này toàn người tự trọng cả, không ai làm chuyện ấy đâu - chợt cụ sực
nhớ ra - À, mà này, cách đây mấy hôm, nghe nói có cái ông nhà văn gì đấy
từ Paris đến. Hay là...
Trộm nhà băng
Bọn trộm đột nhập vào một ngân hàng, chúng đã tính toán thật kỹ nên vô
hiệu hóa được hệ thống báo động và đi đến gian phòng để các tủ sắt. Sau khi
mở các két sắt lạnh ngắt và nhìn thấy bên trong chỉ đựng toàn những cốc sữa
chua, tên trùm bực tức nói:
- Tao tin chắc là cảnh sát đã chơi khăm bọn mình. Để chơi lại, chúng ta sẽ ăn
hết chỗ sữa chua này, ngày mai các phương tiện thông tin đại chúng sẽ đưa
tin rằng chúng ta đã đàng hoàng ăn tối trong nhà băng.
Thế là chúng đã cạy tất cả các tủ sắt và chén hết sữa chua bên trong. Đến
gần sáng, lũ trộm no nê lặc lè rời ngân hàng. Hôm sau, trên trang nhất các
báo đều chạy dòng tít lớn:
"Kẻ trộm đã khoắng sạch ngân hàng tinh trùng của thành phố!".
Thiếu bông hoa thì ý nghĩa khác hẳn
Đạo diễn nhập vai làm mẫu cho một kép trẻ:
- Cậu đưa bông hồng lên mũi, nhắm mắt, từ từ hít vào thật sâu rồi nói: "Chao ôi, đây chính là mùi hương đằm thắm của nàng!" - Hiểu rồi chứ?
- Dạ, quá đơn giản ạ.
Đến hôm công diễn, màn độc thoại của chàng si tình làm khán giả cười
nghiêng ngả, anh ta vào hậu trường lo âu hỏi đạo diễn:
- Tôi đã làm sai điều gì đó phải không?
Đạo diễn gầm lên:
- Chết tiệt! Ngửi bàn tay không rồi ăn nói bậy bạ! Thế bông hoa đâu?
Ngay từ đầu, nhân vật chính đã chết
Màn hạ, chàng kép trẻ đóng vai Ôtenlô gặp đạo diễn chờ một lời khen, thấy
ông này có vẻ còn dư âm của vở kịch buồn, anh ta gợi ý:
- Thưa ông, ở hồi cuối tôi giết Đexđêmôna có đạt không?
- Vâng, đạt! Ngay lúc mở màn, anh đã giết chết Ôtenlô rồi còn đâu!
Một ý kiến cay độc
Đêm công diễn đầu tiên, tác giả vở kịch gửi giấy mời đặc biệt đến một nhà
phê bình sân khấu danh tiếng. Lúc màn hạ, thấy nhà phê bình ngủ tít mít,
kịch gia giận dỗi:
- Tôi thì tha thiết mong chờ nhận xét của ông, vậy mà ông lại đến đây chỉ để
ngủ!
- Ngủ cũng là một ý kiến đấy! - Vị khách mời bình thản đáp.
Tắm trong vạc dầu sôi còn sướng hơn
Một anh chàng kia sau khi chết bị dẫn xuống âm phủ. Quỷ sứ thông báo rằng
chúng sẽ dẫn tội nhân xem ba hình phạt khác nhau và phải chọn một. Phòng
thứ nhất, tội nhân bị tra tấn trong vạc dầu. Phòng thứ hai, tội nhân bị thiêu
đốt trên ngọn lửa hừng hực. Quá sợ, anh ta xin cho sang phòng cuối cùng.
Tại đây anh ta thấy một bệnh nhân già lụ khụ, bị AIDS giai đoạn cuối, nằm
thở khò khè trên giường. Ông này đang được một cô gái trẻ trung, xinh đẹp
ôm ấp, vuốt ve và hôn lên những vết thương nhiễm trùng... Anh ta mừng
quýnh vội xin vào phòng này. Tên quỷ liền dẫn ngay anh ta vào và nói với
cô gái:
- Đi sang phòng vạc dầu mà tắm! Sướng nhé, có người thay rồi!
Ngọc hoàng cũng chửi thề
Một nhà sư và một cao bồi chơi golf với nhau, mỗi lần đánh trượt, tay cao
bồi lại chửi thề. Ông sư tức lắm, mấy lần nhắc nhở mà hắn vẫn quen miệng,
cuối cùng ông quở hắn:
- Anh mà còn chửi thề nữa là Ngọc hoàng sẽ giáng sét vào anh đấy!
Ở gậy sau, tay cao bồi chưa dứt tiếng chửi thì một tiếng sét vang lên... Ông
sư lăn ra chết. Trên trời vọng xuống tiếng lẩm bẩm:
- Mẹ kiếp, lại đánh trượt rồi!
Với cô hàng xóm thì hứng thú có sẵn
Một ông than phiền với bác sĩ:
- Dạo này tôi chán lắm, chẳng có hứng thú gì với vợ.
- Ông uống liều thuốc này, sau ba ngày sẽ công hiệu.
- Thế nhỡ vợ tôi đi vắng thì làm sao biết được tác dụng của thuốc?
- Nếu vậy, ông có thể nhờ cô hàng xóm cho thử.
- Đừng có bịp tôi, cô ta mà đồng ý thì tôi cần quái gì thuốc của ông!
Mới bị "xích" tháng trước
Một anh chàng đến khám ở khoa thần kinh:
- Thưa bác sĩ, tôi luôn có cảm tưởng mình là một con chó bị xích.
- Triệu chứng này xảy ra từ bao giờ?
- Dạ, đúng một tháng nay rồi ạ.
- Rõ cả rồi, vậy là anh mới lấy vợ tháng trước, đúng không?
Có thể cưới hai "cái ruột thừa"
- Alô, tôi là B đây! Mời bác sĩ đến ngay cùng một xe cấp cứu, vợ tôi đang
đau ruột thừa.
- Ồ, ông B đấy ư? Tôi mới cắt ruột thừa cho bà nhà cách đây một tuần mà!
Ông đã thấy ai có đến hai cái ruột thừa chưa?
- Không có ai, nhưng ngài chưa bao giờ thấy đàn ông có hai vợ ư?
Trước hết, xin hiểu “Thầy” đây là “đấng bề trên” mà mỗi người đều có lúc cần gặp để nhờ vả, trao đổi khi có việc cần bởi người xưa từng nhắc nhở “Không thầy đố mày làm nên”!
Xin nêu ra một số kinh nghiệm “thăm Thầy” để chúng ta cùng suy ngẫm:
- Thăm Thầy ta không “thăm” tay không
Mà “thăm” to nhỏ ở trong phòng
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Thấy rõ “phong bì” trong mắt trong!
- Thăm Thầy ta không “thăm” vu vơ
Mà thăm có hẹn, có ngày giờ
Việc cần cứ nói, xin đừng ngại
Quan trọng hàng đầu trong “bao thơ”!
- Thăm Thầy ta không nên “thăm” lâu
Mà thăm gọn nhẹ, đạt yêu cầu
Mau chóng ra về, bì thơ gởi
Còn có khách chờ phía cửa sau!
- Thăm Thầy ta không “thăm” qua loa
Mà thăm gói nhỏ để thay quà
Nhờ vả, trình bày xong, lẹ rút
Thầy khoái “phong bì”, chẳng khoái hoa!
- Thăm Thầy ta không “thăm” lơ mơ
Mà thăm cụ thể, tạo bất ngờ
Thơ ca, thi phú đừng tranh luận
Thầy thích “bao bì”, chẳng thích thơ!
- Thăm Thầy ta nên “thăm” ban đêm
Là khi phố thị đã lên đèn
“Chúc Thầy sức khoẻ” rồi ta biến
Mai mốt chuyện chi cũng “đáp đền”!
- Thăm Thầy ta nên “thăm” ban trưa
Ít ai để ý hoặc nghi ngờ
Mau đưa “quà mọn” Thầy còn nghỉ
Chớ nói dông dài, Thầy không ưa!
- Thăm Thầy ta không “thăm” lung tung
Mà “thăm trọng điểm”, có khoanh vùng
Thầy nào nhờ được, quà ta gởi
Không nhờ, thăm thú chỉ mất công!
Theo Trần Nhương
THƠ VỊNH CON CHÓ
Có một anh học trò lỡ độ đường, vào huyện ăn xin, nói là học trò nghèo. Quan huyện vốn trước cũng là học trò nghèo, thương hại bảo:
-Có phải học trò thì ta ra thơ "Con chó" cho mà làm, làm được sẽ có thưởng.
Anh học trò nghĩ hồi lâu đọc:
-Thoạt thấy chúa về ngoe nguẩy theo
-Thương ôi con chó ngỡ con mèo
Quan huyện nghe xong phán:
-Học trò thật! Thơ không hay lắm, nhưng được cái đúng vần.
Liền thưởng cho một quan tiền và một thúng gạo.
Anh kia lạy tạ ra về. Giữa đường gặp một anh học trò khác, anh này hỏi:
-Tiền gạo đâu ra thế?
Anh kia kể đầu đuôi câu chuyện. Anh này liền vào huyện, cũng nói là học trò nghèo, lỡ độ đường vào huyện nhờ. Quan huyện cũng lại ra thơ như lúc nãy. Anh ta mừng quýnh, tưởng chuyến này ăn chắc liền đọc:
Thoạt thấy chúa nhà ngoe nguẩy đuôi
Thương ôi con chó ngỡ ông trời!
Quan huyện nghi anh ám chỉ mình, tái mặt, sai lính đánh mấy chục roi, rồi đuổi ra.
Đây là câu chuyện vượt qua bao câu chuyện khác để được làm câu chuyện hay nhất thế giới. Mẩu chuyện dưới đây được Hiệp hội Phát triển khoa học Anh (BA) công bố là hay nhất thế giới, sau một cuộc bầu chọn kéo dài 3 tháng với một lượng độc giả lớn tham gia.
BA nói rằng chuyện cười này được ưa thích nhất trong số 10.000 câu chuyện đã đăng trên website. Nó thu được 47% phiếu bầu cho câu chuyện hay nhất trong số 100.000 người tham gia từ hơn 70 quốc gia. Nó hay bởi cái câu hỏi của Holmes mang đậm chất 1 nhà thám tử.
Toàn văn câu chuyện như sau:
Watson, anh thật là ngốc!
Nhà thám tử lừng danh Sherlock Holmes và trợ lý của mình, bác sĩ Watson, đã dựng lều qua đêm trong một chuyến du lịch dã ngoại. Nửa đêm, Holmes bỗng đánh thức Watson dậy và hỏi:
Holmes: Watson, hãy nhìn lên trời và nói tôi biết anh suy được điều gì?
Watson: Tôi nhìn thấy hàng triệu ngôi sao. Và nếu như có hàng triệu ngôi sao, thậm chí vài ngôi trong số đó là hành tinh, rất có thể sẽ tồn tại một hành tinh như trái đất. Và nếu có một vài hành tinh như trái đất thì ở đó rất có thể sẽ có sự sống.
Holmes: Watson, anh thật là ngốc. Lều của chúng ta đã bị đánh cắp.
LXC Sưu tầm
Nghề chồng, sướng vợ
Ba cô gái mới lấy chồng trò chuyện với nhau:
- Một cô than thở: "Chồng tớ làm nhân viên điện báo, tay gõ nhiều quá, đến nằm ngủ cũng gõ đầu tớ côm cốp"
- Thường thôi, chồng tớ làm ở nhà máy vặn vít, làm nhiều quá, hậu quả là gặp gì vặn nấy. Ngủ mơ còn vặn tớ nheo nhéo.
Cô thứ 3 cười mãn nguyện:
- Chồng tớ cũng bị bệnh nghề nghiệp như thế. Nhưng may thay anh ấy là vận động viên bắn súng.
Ba Giai - Tú Xuất là một hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam xuất hiện vào những năm đầu thế kỷ 20. Đó là những mẩu chuyện về hai nhân vật đầy cá tính, thích trào lộng và hay bày ra tình huống quái ác khiến đối tượng bị "chiếu tướng" phải dở khóc dở cười.
Vì cùng mô-típ với các chuyện khôi hài, chuyện lỡm dân gian như Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Xiển Bột... nên từ trước đến nay nhiều người vẫn nghĩ đó là chuyện dân gian của tác giả khuyết danh...
Nhưng theo nhiều người thì Ba Giai - Tú Xuất là 2 nhân vật có thật, họ đã từng gây ra không biết bao nhiêu chuyện quái gở, cười ra nước mắt khắp Hà Nội và vùng phụ cận trong nửa đầu thế kỷ trước. Ở miền Bắc, trước Cách mạng tháng Tám (1945) có rất nhiều người biết đến những câu chuyện nghịch ngợm của Ba Giai - Tú Xuất.
Truyện cười Ba Giai - Tú Xuất cũng đã từng được xuất bản ở miền Nam nhiều lần trước năm 1975 và rất được bạn đọc yêu thích. Ba Giai - Tú Xuất được tái bản nhiều lần bởi nhiều nhà xuất bản nhưng hầu như không ai biết đích xác người đã sưu tầm, biên soạn đầu tiên khiến tác phẩm này được dân gian hóa, người biên soạn trở thành khuyết danh. Chỉ duy nhất vào năm 1972, trong cuốn Lược truyện các tác giả Việt Nam (NXB Khoa học xã hội), hai tác giả Nguyễn Văn Phú và Tạ Phong Châu đã khẳng định nhà văn Nguyễn Nam Thông (1893-1945) chính là người đầu tiên biên soạn tác phẩm này.
Mới đây, qua sự giao lưu của hai thư viện Việt - Pháp và sự giúp đỡ nhiệt tình của ông Vũ Văn Luân, NXB Hội Nhà văn đã có bản Truyện cười Ba Giai - Tú Xuất (do nhà văn Nguyễn Nam Thông biên soạn, Tân Dân Thư Quán xuất bản năm 1934) được lưu trữ tại thư viện Paris và NXB Hội Nhà văn đã tiến hành tái bản tác phẩm này kèm với việc trả lại tên cho người biên soạn đầu tiên. Trong buổi tọa đàm nhân ra mắt lần tái bản Truyện cười Ba Giai -Tú Xuất do tạp chí Kiến thức Gia đình và NXB Hội Nhà văn tổ chức tại TP.HCM, nhà văn Hoàng Đình Quang, người trực tiếp biên tập tác phẩm cho biết: "Trước đây, ông V.N. có đưa bản thảo truyện cười Ba Giai - Tú Xuất cho chúng tôi xuất bản nhưng chúng tôi từ chối vì đó chỉ là những câu chuyện cóp nhặt tản mạn, văn phong lại khác xa với thời đại các nhân vật đang sống... Khi đọc bản của cụ Nguyễn Nam Thông, chúng tôi thấy rõ công sức của người biên soạn, cụ sắp xếp các truyện một cách có ý đồ và cụ như đắm mình vào thế giới của các nhân vật khi viết lại các câu chuyện bằng ngôn ngữ của chính họ. Chính vì thế khi tái bản tác phẩm này, NXB Hội Nhà văn đã giữ nguyên bản với lần in năm 1934 (nếu có từ nào ít dùng hoặc khó hiểu với bạn đọc thời nay thì sẽ dùng chú thích, chứ không thay thế bằng từ mới). Chúng tôi cũng bỏ bớt những truyện không có tính giáo dục, làm tổn thương đến người mù, người hủi...". Trong buổi tọa đàm còn có nhà báo Bích Ngọc (ái nữ của nhà văn Nguyễn Nam Thông). Chị cho biết: "Khi biết NXB Hội Nhà văn cho tái bản Ba Giai - Tú Xuất với tên của cha tôi, gia đình tôi rất xúc động... Có thể nói đó là nỗi vui mừng của những người được trao trả một kỷ vật vô giá sau bao năm lưu lạc...". Như vậy, sau 72 năm lưu lạc, Truyện cười Ba Giai-Tú Xuất đã tìm lại được tên người đầu tiên biên soạn (theo nhà báo Bích Ngọc thì trong đó có nhiều truyện do chính cụ Thông sáng tác qua thực tế cuộc sống). Buổi tọa đàm thống nhất ở các lần tái bản sau sẽ bỏ hai chữ "biên soạn" nếu chưa tìm ra bản in của tác giả khác trước năm khi cụ Thông viết thành sách. Xin chia vui với gia đình cố nhà văn chuyện "châu về hợp phố".
Nhà văn Nguyễn Nam Thông tên thật là Nguyễn Xuân Thông, sinh năm 1906 (có tài liệu ghi nhầm sinh năm 1893), người làng Động Dã, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Ông là tác giả: Ba Giai (1931), Tú Xuất (1930), Đàn bà dễ có mấy tay (1930), Thằng ăn mày giàu nhất tham nhất thế giới (1930), Trung - Nhật chiến tranh yếu nhân (1938), Nhật Nga chiến ký (1939), Vợ lẽ của tôi (dịch của Từ Trẩm Á - 1933)... Nhà văn Nguyễn Nam Thông từng làm chủ bút tờ Đông Tây tiểu thuyết (1937).
(Theo_Thanh Nien)
Chỗ rẽ đây phải không nào?
Kiếm tiền
Cuỗm được một vố ở nhà một bà góa, Tú Xuất đi thẳng một lèo ra thành phố Nam Ðịnh. Sau những ngày ăn chơi, khi thấy túi đã cạn tiền, Tú Xuất đi mua cái vali, đem mấy cục gạch và giấy bổi bỏ vào, rồi khệ nệ xách đến một nhà hàng cơm, đánh chén một bữa no say, rồi ngủ trọ luôn đó.
Trước khi đi ngủ, Tú Xuất đưa vali cho bà chủ nhà hàng cất hộ. Bà hàng đỡ lấy:
- Chà, vali có tiền bạc không mà nặng thế này? Bà hàng vừa đỡ lấy vừa hỏi:
- Có chút đỉnh thôi, còn thì quần áo và sách vở. Tôi đi thăm ông cụ tôi đang làm án sát Bắc Ninh, đâu cần phải đem nhiều tiền bạc.
Bà hàng tưởng thật, đem vali cất vào chỗ gần giường Tú Xuất nằm.
Ðêm đến, Tú Xuất thừa lúc mọi người ngủ say, khẽ rón rén lại mở vali đem gạch và giấy bổi bỏ vào thùng rác nơi góc nhà, rồi trở lại giường, đánh một giấc ngon lành.
Tới sáng, bà chủ hàng cơm dậy trước, nhìn thấy chiếc vali bị mở tung, bên trong không còn vật gì, tá hỏa lên, đánh thức Tú Xuất dậy:
- Chết rồi, vali của ông bị bọn trộm mở, lấy hết đồ đạc, làm sao bây giờ?
Tú Xuất ngồi xổm dậy, ra vẻ sửng sốt:
- Làm sao, tôi biết đâu được, tôi gửi bà cất mà. Bà phải bồi thường chứ còn làm sao nữa?
Bà hàng đã đuối lý, lại sợ anh chàng là con quan án sát nữa, lại tưởng mất trộm thiệt, nên chỉ còn cách năn nỉ. Lời qua, tiếng lại cuối cùng Tú Xuất mới chịu nhận tiền bồi thường mười nén bạc.
Tú Xuất đi rồi, bọn đầy tớ nhà hàng, chiều đến mới phát hiện ra ở thùng rác lại có giấy bổi và mấy cục gạch, những thứ mà nhà hàng không có. Lúc ấy, người ta mới nhận ra anh chàng ngủ trọ đêm qua là một tên đại bịp. Nhưng mà chỉ còn nước nhìn nhau mà chửi rủa, chứ biết làm sao được, vì hắn đã mất hút từ sáng kia rồi.
Thế là, Tú Xuất lại kiếm được một món tiền to nữa./.
Làm gì khác
Một ông chồng rất lo lắng về vợ của mình vì 1 tháng nay 2 người không hề làm chuyện đó. Ông chồng đưa bà vợ đến bác sĩ để hỏi về vấn đề này, bác sĩ gặp riêng bà vợ và hỏi:
-Tại sao 1 tháng rồi cô không làm chuyện đó với chồng?
Bà vợ:
-Thưa bác sĩ, vì suốt 1 tháng qua em đi taxi đến nơi làm việc, sau đó tài xế taxi hỏi: Cô sẽ trả tiền tôi hay làm gì khác? Em muốn tiết kiệm tiền nên chọn phần “làm gì khác”.
Đến cơ quan, giám đốc lại hỏi em: Cô sẽ đánh máy văn bản này hay làm gì khác? Vì quá mệt nên em lại chọn phần “làm gì khác”.
Khi xong việc, em lại đi taxi về nhà, và 1 lần nữa em lại chọn phần “làm gì khác” để tiết kiệm tiền. Vì vậy, khi về đến nhà, em quá mệt mỏi và không muốn làm chuyện đó với chồng nữa.
Ông bác sĩ mỉm cười và hỏi:
- Vậy chúng ta sẽ nói chuyện này với chồng cô hay sẽ làm gì khác?
Lịch sự
Trong lúc phỏng vấn một nhà văn nọ, phóng viên cao hứng gác cả chân lên ghế. Ngay sau đó anh cảm thấy không phải, liền hỏi nhà văn:
- Xin lỗi ông, thói quen của tôi có phiền ông không?
- Không sao! Anh có thể gác cùng lúc cả 4 chân của mình lên cũng được!
Mọc sừng do uống sữa bò
Một anh nọ có vợ sinh con có nước da ngâm đen trong khi anh và vợ đều da trắng.
Anh hỏi vợ thì vợ nói: Khi mang thai con em uống cà phê sữa nhiều nên con có da ngâm đen.
Anh chàng nọ gọi điên cho mẹ và kể lại sự việc, mẹ anh nói: Khi mẹ mang thai con, mẹ uống sữa bò nên giờ con bị mọc sừng.
Lời tường thuật của nhà Sư
Cơ quan điều tra đang tìm chứng cớ vụ "trai gái" để xét xử; hiện trường bên trong khuôn viên của nhà chùa.
Sau khi được hỏi nhà Sư nọ tường thuật bằng thơ (có lẽ cho dễ mô tả) có âm Hán-Nôm như sau:
Nam tự Bắc quy lai
Nữ tự Đoài quy thứ
Nam chiết mộc vi sàn
Nữ giải y vi tịch
Tiền: sơ sơ, nhất thăng, nhất giáng
Hậu: bần bật, năng tiến, bất năng lùi
Tứ túc giao nhau, bất tri nhân sự.
***
Dịch nghĩa
Nam từ phía Bắc lại
Nữ từ phía Tây tới
Nam bẻ cây làm giường
Nữ cởi áo làm chiếu
Ban đầu: sơ sơ, một lên, một xuống
Sau: bần bật, chỉ có tới không có lui
Khi bốn chân giao nhau thì không còn biết gì!
Ca dao mới
Chắp tay lạy cụ tình yêu.
Cho con lấy được nàng Kiều ngày nay.
Cụ nhìn trợn mắt cau mày.
Không đưa hối lộ thì đây không ừ .
Bước chân dô quán đèn mờ.
Ngồi gần con gái không sờ là ngu!!
Thà rằng cắt tóc đi tu.
Ngồi gần con gái ….. ngu sao không sờ!!
Gió đưa bụi chuối sau hè.
Giỡn chơi chút xíu ai dè… có con.
Nam vô tửu như kỳ vô phong
Nữ vô phòng kỳ vô phong cũng phất!
Giỏi điền từ còn thiếu xem sao?
Trăng hôm nay cao quá,
Anh muốn hôn vào má.
Trăng hôm nay cao tít,
Anh muốn hôn vào …..
Trăng hôm nay mới nhú,
Anh muốn hôn vào …..
Hi!
***
Bệnh nghề nghiệp
Một cậu bé hỏi bố mình: "Bố ơi! Con được sinh ra như thế nào hả bố?"
Người cha là một kỹ sư công nghệ thông tin đang lướt web bèn ứng khẩu trả lời cậu quí tử. "Mẹ và bố cùng duyệt web trên một chiếc giường. Cha kết nối với mẹ. Cha upload dữ liệu từ một cái USB sang cho mẹ. Sau khi download hết về, mẹ sửng sốt thông báo là mẹ không cài một chương trình anti-virus nào cả, trong khi đó, bố cũng không cài đặt Firewall". "Rồi thế nào nữa hả bố?" "Cả cha và mẹ đều cố gắng xoá bỏ số dữ liệu trên, thậm chí là format lại ổ nhưng không kịp. Vậy là sau 9 tháng 10 ngày, con được sinh ra đời". Tú Còi (Theo st)
Bé Tý và cô giáo!
Bé Tý năm nay 6 tuổi học trường tiểu học lớp 5. Học được một tuần thì bé Tý không chịu làm bài vở nữa. Cô giáo bèn hỏi nguyên nhân tại sao thì bé Teo, ngồi cạnh bé Tý, trả lời rằng do chương trình học quá thấp so với trình độ của Tý.
Mấy hôm sau, bé Tý xin cô cho lên học bậc trung học. Cô giáo dẫn bé Tý lên văn phòng ông hiệu trưởng, trình bày đầu đuôi câu chuyện. Ông hiệu trưởng bán tín bán nghi, bàn với cô giáo là ông sẽ hỏi bé Tý một số câu hỏi về khoa học còn cô giáo sẽ hỏi Tý về kiến thức tổng quát, nếu bé Tý trả lời đúng ông sẽ cho bé nhảy lớp.
- Hiệu trưởng: 25 lần 25 là bao nhiêu?
- Bé Tý: Dạ là 625
- Hiệu trưởng: Công thức tính diện tích vòng tròn?
- Bé Tý: Dạ là bình phương bán kính nhân Pi
- Hiệu trưởng: Nước bốc thành hơi khi nào?
- Bé Tý: Dạ khi nước sôi ở 100 độ C
Sau 1 tiếng "tra tấn", câu nào bé Tý cũng đáp đúng hết, ông hiệu trưởng rất hài lòng về kiến thức khoa học của bé và giao cho cô giáo hỏi về kiến thức tổng quát :
- Cô giáo: Con gì càng lớn càng nhỏ?
Ông hiệu trưởng hết hồn, nhưng bé Tý trả lời ngay: "Dạ là con cua nó có càng lớn và càng nhỏ".
- Cô giáo: Cái gì trong quần em có mà cô không có?
Ông hiệu trưởng xanh cả mặt.
- Bé Tý: Dạ là 2 cái túi quần
- Cô giáo: Ở nơi đâu lông của đàn bà quăn nhiều nhất?
Ông hiệu trưởng run lên.
- Bé Tý: Dạ ở Phi Châu
- Cô giáo: Cái gì cô có ở giữa 2 chân của cô?
Ông hiệu trưởng chết điếng người.
- Bé Tý: Dạ là cái đầu gối
- Cô giáo: Cái gì trong người của cô lúc nào cũng ẩm ướt ?
Ông hiệu trưởng hóc mồm ra.
- Bé Tý: Dạ là cái lưỡi
- Cô giáo: Cái gì của cô còn nhỏ khi cô chưa có chồng và rộng lớn ra khi cô lập gia đình?
Ông hiệu trưởng ra dấu không cho bé Tý trả lời nhưng bé Tý đáp ngay: "Dạ, là cái giường ngủ ạ".
- Cô giáo: Cái gì mềm mềm nhưng khi vào tay cô một hồi thì cứng ra?
Ông hiệu trưởng không dám nhìn cô giáo
- Bé Tý: Dạ là dầu sơn móng tay
- Cô giáo: Cái gì dài dài như trái chuối, cô cầm một lúc nó chảy nước ra?
Ông hiệu trưởng gần xỉu.
- Bé Tý: Dạ là cây kem ạ
Ông hiệu trưởng đổ mồ hôi hột ra dấu bảo cô giáo đừng hỏi nữa và nói với bé Tý: Thày cho con lên thẳng đại học bởi vì con là thần đồng. Nãy giờ thày không trả lời đúng 1 câu nào hết!
Tú Xuất (Theo Sưu tầm)
***
Bơm xe
Đưa tay bóp thử cái xem sao
Thấy nó mềm nên đút vòi vào
***
Buôn Mê Thuột
Anh đi công tác Pờ Lây
Cu dài dằng dặc biết ngày nào vê
Xong rồi anh ghé Buôn Mê
Thuột xong một cái là về với em
***
Tác dụng của tuyên truyền:
Sau 2 tháng khẩu hiệu "Tích cực hưởng ứng tháng hành động về quốc gia dân số" được treo ở trước cơ quan. Công ty nọ có 80 % số cặp vợ chồng trong diện sinh đẻ "vỡ kế hoạch". Lời giải thích được đưa ra là "Tích cực hành động cả tháng thì làm gì không vỡ hả các Sếp" Sếp ?! (xc)
***
Lăng nhăng trong cơ quan
Sếp trách cô thư ký xinh đẹp:
- Báo cáo anh phó phòng đọc rõ ràng thế mà em đánh máy sai hàng trăm lỗi chính tả là sao?
- Dạ thưa sếp, anh ấy đọc rất rõ, nhưng mà ... nhột quá em không sao tập trung được!
- Sao lại nhột?
- Dạ hình như sáng nay anh í ... quên cạo râu ạ.
***
Có ai nhìn thấy chim của ta kg? hihihi.
Một cha xứ bị lạc mất một con chim quý, ông rất buồn, đi tìm khắp nơi mà không thấy. Ông nghĩ chắc nó bị lạc vào nhà ai đó, vì thế hôm sau trước lúc giảng đạo ông hỏi các con chiên:
- Ai trong số các con có một con chim? Tất cả đàn ông trong phòng đứng dậy. Cha xứ biết mình bị hiểu lầm, ông chữa lại: - Ý ta là ai trong các con đã nhìn thấy một con chim ... Tất cả phụ nữ trong phòng đứng dậy - Ồ không, ai trong số các con đã nhìn thấy một con chim, không phải của mình ... eh... mà là của hàng xóm. Một nửa số phụ nữ trong phòng đứng dậy. Vẫn sai, ông bèn sửa lại: - Ồ không, thế ai trong số các con đã nhìn thấy con chim của ta? Tất cả các bà xơ đều đứng dậy!
***
Trích từ trang www.loantin.com
Ngày xưa sung sức thì nghèo,
Bây giờ rủng rỉnh thì teo mất rồi
Ngày xưa công cụ tuyệt vời,
Bây giờ nó có đàn hồi nữa đâu.
Ngày xưa sức mạnh như trâu,
Bây giờ công cụ nát nhàu như dưa.
Ngày xưa chẳng kể sớm trưa,
Bây giờ loáng thoáng lưa thưa gọi là.
Ngày xưa như sắt như đồng,
Như đinh đóng cột như rồng phun mưa.
Bây giờ như cải muối dưa,
Mười thang Minh Mạng vẫn chưa ngẩng đầu.
Trải qua một cuộc bể dâu.
Ôi thời oanh liệt còn đâu nữa mà.
Nay mai về với Ông Bà,
Nấp sau nải chuối ngắm gà khỏa thân
Bổ sung, chỉnh lý
Ngày xưa như sắt như đồng
Như đinh đóng cột, như rồng phun mưa
Bây giờ như cải muối dưa
Mười thang Minh Mạng vẫn chưa ngẩng đầu
Hơn nửa thế kỷ dãi dầu
Tháng ngày oanh liệt còn đâu nữa mà
Ngày xưa súng ống sáng loà
Bây giờ chẳng khác quả cà mốc meo
Ngày xưa sung sức thì nghèo
Bây giờ rủng rỉnh thì teo mất rồi
Ngày xưa lớn khoẻ hơn chồi
Bây giờ nó có đàn hồi nữa đâu
Ngày xưa hùng hục như trâu
Bây giờ èo ọt như tàu lá khoai
Ngày xưa khám phá miệt mài
Bây giờ nửa cuộc mệt nhoài đứt hơi
Ngày xưa chiến tích để đời
Bây giờ chiến bại nhớ thời ngày xưa
Ngày xưa bất kể sớm trưa
Bây giờ thỉnh thoảng lưa thưa gọi là
Ngày xưa đầu tóc mượt mà
Bây giờ lởm chởm như là đá chông
Bây giờ sống cũng như không
Bây giờ hết kiếp làm chồng người ta
Bây giờ ôm hận đến già
Cho dù béo tốt cũng là cơm toi
Bây giờ pháo đã xịt ngòi
Gia tài còn lại một vòi nước trong
Ngày xưa vợ đợi bồ mong
Bây giờ vợ nguýt, bồ cong cớn lườm
Ngày xưa mặt mũi tinh tươm
Bây giờ nhầu nhĩ như tương nấu mì
Ngày xưa lên ngựa là phi
Bây giờ nước kiệu cố đi gọi là
Ấy là kể chuyện trong nhà
Sang nhà hàng xóm vẫn là… ngày xưa
Khác
Đời người mấy chốc qua mau
Nghĩ chi cho lắm để mau chóng già
Rồi ai cũng thế thôi mà:
Nấp sau nải chuối ngắm gà khỏa thân!
*****
Những bài văn lạ!
Ðề bài: Em hãy phân tích nghệ thuật tả người của Nguyễn Du trong tác phẩm Truyện Kiều.
Bài làm của một học sinh lớp 9 ở tỉnh Bình Dương có đoạn viết như sau: "...Nguyễn Du có thể nói là sư phụ trong việc sử dụng nghệ thuật biến hoá (?). Ông tả Từ Hải thiệt "ngầu": "vai năm tấc", " thân mười thước"- y như ông Thần Ðèn (chứ ngoài đời làm sao có thiệt). ông tả chỗ này còn độc đáo hơn: "Râu hùm, hàm én, mày ngài". Trên một nhân vật có tới ba đại diện loài vật: hổ-chim-bướm. Thật tài quá xá! "
Lời phê của giáo viên: Dùng từ ngữ cẩu thả; phân tích bậy bạ; tưởng tượng loạn xạ; thiệt cũng "tài quá xá"! 1 điểm.
*****
Đề bài: Viết về nhân vật Thúy Kiều
"Thúy Kiều là 1 người con gái tài sắc vẹn toàn, song nàng đã bị chế độ phong kiến vùi vào đống bùn nhơ. Đến nỗi, chịu không nổi, nàng đã nhảy xuống sông Tiền giang tự vẫn. May thay lúc đó có một bà đảng viên đi công tác về, bà liền nhảy xuống sông cứu nàng. Sau đó, Kiều giác ngộ và đi theo con đường Cách Mạng."
***
Nhắn vợ già
- Vợ ơi chồng bảo nghe này...
Tuổi cao sức yếu sao bày ghen tuông!
Chồng mình lắm việc đa đoan...
Sao không góp sức lại còn ghen chi?!
Nghe tiếng chó sủa... cũng nghi...
Chồng ra khỏi cửa, vợ đi theo rình!
Vợ làm rắc rối gia đình
Không sợ con cháu nó nhìn... cười chê!
Chồng người thoải mái thấy mê
Chồng mình như chó “Bẹc-giê” nhốt chuồng?!
Nói ra chỉ sợ vợ buồn...
Giữ chồng kiểu ấy... khó lường họa tai!
Già rồi! Ghen hổng giống ai!!!
***
Con gái được sinh ra như thế nào
Xưa kia ở tuốt trên trời
Ngọc Hoàng Thượng đế thảnh thơi thấy buồn
Sai bắt một chú chuồn chuồn
Xịt vô mười lít nước tương đem hầm
Bỏ thêm một ký ớt bằm
Chanh chua sáu trái, me dầm bảy tô
Nước mắt cá sấu tám xô
Dịu dàng chút xíu, một lô: dữ, chằn...
Nêm thêm chín chú lăng quăng
Mít khô, mít ướt, cằn nhằn, ghen tuông
Hai trăm (gr) nhõng nhẽo, giận hờn
Mụn cám, mụn bọc, mụn cơm, mụn dề
Ngọc Hoàng hứng chí hề hề
"Con này" hoàn tất khỏi chê chỗ nào
Sai Thiên Lôi lấy bột nhào
Bắc Đẩu canh lửa, Nam Tào quạt than
......................................
Bổng nhiên một tiếng nổ vang
Thế rồi "con ấy" nhẹ nhàng bay ra
Bèn đặt tên nó: E-va
Còn gọi "con gái" hay là "cô", "em"
Hi !.... Nguồn: toidalamtinem
***
Hai vợ chồng sau khi cưới nhau thường có 3 giai đoạn:
-Một tháng sau khi cưới hai người nói nhau nghe.
-Ba tháng sau khi cưới hai người nói cả xóm nghe.
-Một năm sau khi cưới hai người nói cho cả nước nghe. PASCAL
***
Hai vợ chồng từ thuở thanh xuân cho đến ngày đầu bạc.
Hai người vẫn sống với nhau không có gì thay đổi không phải như thế là chung tình mà thực ra chỉ vì họ chưa tìm gặp được người nào đáng say mê.
Chỉ biết thế nào là chung tình khi trong hai người có một kẻ ra đi về nơi cõi chết, nhắm mắt buông xuôi giã từ nhân thế, người còn lại lúc đó mới thực sự biết rằng kẻ đã chết chung tình. RIGAUT LEBRUN
***
ĐỊNH NGHĨA HAY GIẢI THÍCH ĐÂY?!
*Người đàn ông không mặc gì nằm úp xuống nền đất thì gọi là gì? “Đất lành chim đậu”.
*Nằm úp xuống 1 hòn đá? “trứng chọi đá”.
*Hai người đàn ông không mặc gì cõng nhau? “Gậy ông đập lưng ông”.
*Người đàn ông không mặc gì nhảy xuống bể cá cảnh? “Chim sa cá lặn”.
*Một người đàn ông không mặc gì ngồi sau xe đạp? “Chọc gậy bánh xe”.
*Người đàn ông không mặc gì nằm đắp chăn bông ngủ: CHIM CHÍCH BÔNG!!
Sưu tầm
Cần Thơ | Đà Nẵng | Hải Phòng | Hà Nội | TP. Hồ ChíMinh
An Giang | Bà Rịa-Vũng Tàu | Bạc Liêu | Bắc Giang | Bắc Kạn | Bắc Ninh | Bến Tre | Bình Dương | Bình Định | Bình Phước | Bình Thuận | Cà Mau | Cao Bằng | Đăk Lăk | Đăk Nông | Điện Biên | Đồng Nai | ĐồngTháp | Gia Lai | Hà Giang | Hà Nam | Hà Tây | Hà Tĩnh | Hải Dương | Hậu Giang | Hoà Bình | Hưng Yên | Khánh Hòa | Kiên Giang | Kon Tum | Lai Châu | LạngSơn | Lào Cai | Lâm Đồng | Long An | Nam Định | NghệAn | Ninh Bình | Ninh Thuận | Phú Thọ | Phú Yên | Quảng Bình | Quảng Nam | Quảng Ngãi | Quảng Ninh | Quảng Trị | Sóc Trăng | Sơn La | Tây Ninh | Thái Bình | Thái Nguyên | Thanh Hóa | Thừa Thiên-Huế | TiềnGiang | Trà Vinh | Tuyên Quang | Vĩnh Long | VĩnhPhúc | Yên Bái
Những bước thăng trầm của nhân vật lịch sử Nguyễn Công Trứ
Có thể nói trong hàng quan lại triều Nguyễn, ít người có được tài năng đa dạng như Nguyễn Công Trứ: học giỏi, làm thơ hay, đánh giặc rất thành công, có tài quy dân lập ấp, mang lại sự no ấm cho dân nghèo.
Ông sinh năm 1778 tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh, lúc nhỏ đã nuôi mộng tế thế kinh bang. Năm 1803, tức năm Gia Long thứ hai, trong chuyến Bắc tuần, khi nhà vua dừng lại hành cung ở Nghệ An, Nguyễn Công Trứ đã tìm đến dâng một bản điều trần 10 điểm, vua giao cho Bộ Lại duyệt tấu. Tuy nhiên, phải đợi đến 16 năm sau, đường công danh mới bắt đầu rộng mở với ông. Năm 1819, ông đỗ Giải nguyên (đỗ đầu kỳ thi Hương lấy Cử nhân và Tú tài) tại trường thi Nghệ An và qua năm Minh Mạng thứ nhất (1820) được bổ làm Biên tu Sử quán. Năm 1824, Nguyễn Công Trứ, từ chức danh thự (*) Tư nghiệp Quốc Tử Giám (như Hiệu trưởng), được bổ làm Thiêm sự Hình bộ (chánh tứ phẩm), qua năm sau được bổ làm Phủ thừa Thừa Thiên (như Phó Thị trưởng), rồi Tham Hiệp trấn Thanh Hoa (chánh tứ phẩm). Cuối năm 1826, ông được gia hàm Thị lang (chánh tam phẩm), quyền Biện hình tào Bắc thành. Năm 1828, Nguyễn Công Trứ được thăng từ Thị lang lên thự Hữu Tham tri Bộ Hình (tòng nhị phẩm) và đến năm 1832, ông đạt đến mức cao nhất của đời làm quan: từ Bố chánh sứ Hải Dương (chánh tam phẩm) được thăng Tuần phủ (tòng nhị phẩm) rồi thự Tổng đốc Hải An (chánh nhị phẩm).
Về mặt công trạng trong đời làm quan, Nguyễn Công Trứ đã có ít nhất hai đóng góp quan trọng:
- Trong hơn 5 năm, từ những năm 1826-1827 triều Minh Mạng đến những năm đầu thập niên 1840 triều Thiệu Trị, ông như một chiến sĩ luôn xả thân trong việc đánh dẹp các cuộc nổi dậy chống lại triều đình, trong đó có các cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành (1827) và Nông Văn Vân (1838). Trong lúc triều đình gặp nhiều khó khăn trước cuộc nổi dậy của binh sĩ thành Phiên An (Gia Định) dưới quyền Vệ uý Lê Văn Khôi (1833-1835), thì Nguyễn Công Trứ và Lê Văn Đức là hai công thần đã tả xung hữu đột suốt miền Bắc, đem lại sự yên bình cho nhiều địa phương. Cuối năm 1838, triều đình cho dựng bia Võ công trước Võ miếu, khắc tên 20 công thần, trong đó có Nguyễn Công Trứ.
- Năm 1828, Nguyễn Công Trứ lĩnh chức Dinh điền sứ, lo việc giúp dân khẩn hoang, cải thiện đời sống nông nghiệp, chỉ 5 tháng sau (tháng 8 âm lịch 1828), triều đình đã lập huyện mới Tiền Hải thuộc phủ Kiến Xương, Nam Định, một nơi “trước kia cây cỏ rậm rạp, bọn cướp hay tụ họp ở đây, không ai dám đến gần…” (Đại Nam thực lục). Tháng 3 âm lịch năm 1829, lại đặt huyện Kim Sơn thuộc phủ Yên Khánh, Ninh Bình, chia 14.620 mẫu ruộng hoang cho 1.260 dân nghèo. Kim Sơn và Tiền Hải là hai huyện tiêu biểu cho công lao quy dân lập ấp, cải thiện đời sống người dân nghèo của Nguyễn Công Trứ.
Cũng trong đời làm quan, Nguyễn Công Trứ đã có ít nhất ba lần bị phạt nặng:
- Đầu năm 1831, ông cùng Hiệp trấn Nam Định Nguyễn Nhược Sơn bị giáng chức. Ông từ Tham tri (tòng nhị phẩm) bị giáng còn Kinh huyện (chánh lục phẩm), lý do là hai ông đã tiến cử một người tên Phí Quy Trại làm Huyện thừa huyện Tiền Hải, về sau triều đình phát hiện Trại không có khoa mục (không đổ đạt gì) nên phạt cả hai về tội tiến cử người không xứng đáng với chức vụ đươc giao. Tuy nhiên, chỉ một năm sau, ông được bổ nhiệm làm thự Tổng đốc, phẩm hàm còn cao hơn cả chức danh Tham tri trước đó.
- Năm 1841, triều đình luận tội các tướng biên ở Trấn Tây (Campuchia). Nguyễn Công Trứ bị tước hết quan chức, nhưng đến cuối năm lại được khôi phục chức Thị lang Bộ Binh, lãnh Tuần phủ An Giang.
- Tháng 5 âm lịch 1844, ông bị giáng làm lính gần Quãng Ngãi vì sự vu tấu của Tổng đốc An Hà Nguyễn Công Nhân, tố cáo ông phái người đi mua riêng sừng tê và đậu khấu. Sau triều đình sai người đi thẩm tra, biết ông bị cáo oan nên bỏ hình phạt, bổ ông làm thự Phủ thừa Phủ Thừa Thiên.
- Năm 1848, ông xin và được vua Tự Đức cho về trí sĩ với hàm Phủ doãn Thừa Thiên (như Thị trưởng). Ông làm căn nhà nhỏ bên cạnh một ngôi chùa trên núi, vui cảnh non xanh nước biết cho đến cuối đời (ông mất năm 1858).
Văn chương thi phú của Nguyễn Công Trứ được đưa vào chương trình học của nhiều thế hệ hoc sinh trung học, đáng chú ý có Hàn nho phong vị phú với “phong vị” lãng mạng của người học trò nghèo vẫn bền tâm đèn sách, nhiều bài hát nói của ông biểu lộ chí làm trai của người thanh niên gặp lúc nước nhà nguy biến.
Đọc tiểu sử của ông, ta cảm phục gương kiên nhẫn, chí phấn đấu của một con người “thắng không kiêu, bại không nản”, từ một Tổng đốc hàm chánh nhị phẩm triều đình, xuống làm người lính thú miền biên viễn vẫn không hề chán nản. Những gì ông trải qua trong đời còn nhắc chúng ta nhiều điều, đó là thời phong kiến, việc tiến cử người tài ra làm việc nước rất nghiêm túc và khắc khe, ai tiến cử người vì tư lợi hay không xứng với chức được trao là bị trừng phạt ngay. Một điều nữa là thời phong kiến thưởng phạt công minh, có tội là trừng phạt, khi biết vô tội thì minh oan và phục chức. Bài học này còn có giá trị đến hôm nay./.
Theo Lê Nguyễn, có bổ sung
Ghi chú: (*) thự: tạm nhận chức việc.
Mời quý vị và các bạn đọc Di chúc của Tam nguyên Yên Đổ, liên hệ thực trạng ngày nay về việc tang và cùng suy ngẫm.
"Kém hai tuổi xuân đầy chín chục
Số thầy sinh phải lúc dương cùng
Đức thày đã mỏng mòng mong
Tuổi thầy lại sống hơn ông cụ thầy
Học chẳng có rằng hay chi cả
Cưỡi đầu người kể đã ba phen
Tuổi là tuổi của gia tiên
Cho nên thầy được hưởng niên lâu ngày.
Ấy thủa trước ông mày chẳng đỗ
Hoá bây giờ cho bố làm nên
Ơn vua chửa chút báo đền
Cúi trông hổ đất, ngửng lên thẹn trời
Sống không để tiếng đời ta thán
Chết được về quê quán hương thôn
Mới hay trăm sự vưông tròn
Sống lâu đã trải chết chôn chờ gì?
Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt
Kín chân tay đầu gót thời thôi
Cỗ đừng to lắm con ơi
Hễ ai chạy lại con mời người ăn
Tế đừng có viết văn mà đọc
Trướng đối đừng gấm vóc làm chi
Minh tinh con cũng bỏ đi
Mời quan đề chủ con thì không nên
Môn sinh chớ bỏ tiền đạt giấy
Bạn của thầy cũng vậy mà thôi
Khách quen chớ viết thiếp mời
Ai đưa lễ phúng con thời chớ thu
Chẳng qua nợ để cho người sống
Chết đi rồi còn ngóng vào đâu
Lại mang cái tiếng to đầu
Khi nay bày biện, khi sau chê bàn
Cờ biến của vua ban ngày trước
Khi đưa thày con rước đầu tiên
Lại thuê một lũ phường kèn
Vừa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng
Việc tống táng nhung nhăng qua quýt
Cúng cho thầy một chút rượu hoa
Đề vào mấy chữ trong bia,
Rằng: "Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu"
Bí quyết
của nghệ thuật cư xử
Philippe, vua nước Macédoine, khi đang đem quân vây thành Méthone, có một tên cung thủ đại tài tên là Aster đến xin vào đội tinh binh của nhà vua. Người ấy khoe rằng tài nghệ cung tiễn hay lắm, chim bay dầu lẹ đến bậc nào, y bắn cũng không sai bao giờ. Vua ghét đứa khoe mình nên phán rằng: Được, để ta đánh trận với chim sẻ, bấy giờ ta sẽ dùng đến tài ngươi.
Aster nghe câu nói mỉa mai ấy, lấy làm căm tức vô cùng, liền chạy thẳng vào thành bị vây chờ dịp trả thù.
Một hôm Aster đứng trên bờ thành, thấy vua Philippe đang đi kinh lý các trại quân đóng ngoài thành, liền lấy một cây tên, viết vào mấy chữ: “Gởi cho con mắt bên hữu của vua Philippe”, rồi bắn xuống. Tên trúng giữa mắt phải của vua. Vua sai sứ cầm chiếc tên vào trả lại trong thành giặc, phê lên trên mũi tên rằng: “Ta mà lấy được thành này, Aster sẽ bị xử trảm”.
Sau quả y lời.
Vua Philippe, thật đã mua đắt cái cao thú được nói một lời có ý vị. Nhưng mà, Aster lại mua rất đắt cái thú trả được thù. Cái lòng hiềm thù nhiều khi nó ngộ chúng ta mà đưa chúng ta đến chỗ bại. Cái tính châm chích người ta cũng chẳng nguy hiểm kém gì.
Đành rằng nói được những câu thâm trầm, khiến cho kẻ khác sợ ta, nhưng chúng sợ ta thì ít mà lòng oán hận lại nhiều. Những lời nhạo báng để lấn áp người, để thoả được lòng tự ái của mình, khiến cho lòng người bị chạm lấy đau khổ không thể quên được.
Thường thường người ta có thể tha thứ cho ta một cái tội ác dễ hơn là tha thứ cho ta một lời nói độc.
Cái “tôi” có phải là dễ ghét đâu theo như lời Pascal. Nó là cái chữ dễ yêu nhất trong đời. Nhưng vì ta đã quá nâng niu chiều chuộng nó… mà thành ra cách cư xử trong đời ta gây không biết bao nhiêu sự vụng về, ân hận, đau khổ, tai ương… Và cũng chính vì thế mà Pascal mới thốt ra câu nói chua cay này, “Cái tôi thật đáng ghét”.
Cái “tôi” chẳng những dễ yêu mà thôi, nó lại là trung tâm điểm của vũ trụ là khác. Bao nhiêu sự vật trong đời, chung quy đều quây quần theo cái cốt ấy: Bản ngã.
Như ta đã thấy, lòng tự ái là nguồn gốc lớn của muôn sự đắng cay chua xót ở đời. Muốn cho tâm hồn được bình tĩnh, thời không có gì kỵ bằng lòng tự ái. Trong các thị dục, thị dục về lòng tự ái là vô độ hơn cả: trong các khổ não, cái khổ não do lòng tự ái gây ra là khó tránh và thường thống thiết hơn.
Có người nói: “Lòng tự ái đã là kẻ thù cho sự bình tĩnh bên trong, nó lại cũng là kẻ thù cho sự yên ổn bên ngoài nữa. Phàm khi lòng tự ái được thỏa mãn là tất có xâm phạm đến bên ngoài…”
Lòng tự ái của ta xui khiến ta bao giờ cũng chăm chăm, đáu đáu chỉ chực có dịp miệt kẻ khác để cho khỏi bị kẻ khác miệt mình. Thành ra nhiều người trong chúng ta bao giờ cũng cứ lo đi dòm ngó người khác; xem ai có gì xấu thì phô trương lên, ai có gì tốt thì bài bác đi, để nuôi cái lòng tự đắc của mình.
Xem đấy đủ rõ câu “Ẩn ác dương thiện” (che dấu, bỏ qua cái xấu, biểu dương, khen ngợi điều tốt của người khác) của cổ nhân khó thi hành biết chừng nào! Tại sao? Tại lòng tự ái của chúng ta quá nặng, thường tin rằng dìm được người ta là đem được mình lên, chê cái dở của người tức là đem được cái hay của mình ra… Thật không gì vụng về bằng! Khiến nên, ở đời, trong sự giao tế hằng ngày, gây cho ta không biết bao nhiêu khốc hại.
Như vậy, ta có thể thấy tất cả bí quyết của nghệ thuật cư xử có thể gồm trong hai nguyên tắc quan trọng:
1. Chớ chạm vào lòng tự ái của ai cả.
2. Ẩn ác dương thiện.
Nguyên tắc thứ nhất thuộc về tiêu cực; còn nguyên tắc thứ hai thuộc về tích cực. Cả hai không phải là những câu châm ngôn chỉ sự khôn dại cho người đời mà thôi, mà thật ra nó là câu nói của lòng Nhân, hay ít ra, của lòng yêu chuộng Công Bình.
Người xưa đã bảo: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” sao? Cái gì mình không muốn người làm cho mình, thì đừng làm cho kẻ khác. Có ai là người muốn bị người ta chạm đến lòng tự ái của mình không? Thế sao mình lại thích lấn áp người trong lời nói để người ta phải đỏ mặt, tía tai cho cam. “Làm cho người ta cùng lý đến phải ngậm miệng, đỏ mặt, toát mồ hôi, mình tuy hả lòng thật, nhưng đấy là người nông nổi, khắt khe làm sao…”. Thế là bất công, mà cũng là bất nhân nữa…
Nhưng rồi, hả lòng được một ít mà lắm khi còn di hại cho mình đến thảm khốc cũng không chừng… Thế thì đâu phải chỉ bất công, bất nhân mà lại còn bất trí nữa là khác./.
HẬU SANH KHẢ ÚY
(Đáng phục kẻ sinh sau)
Bấy giờ Lã Bất Vi đang làm Thừa tướng ở Tần, đang hợp với Yên để đánh Triệu. Yên sai Thái tử Yên vào Tần làm con tin, và xin Tần một tướng giỏi qua Yên để cầm quân. Lã Bất Vi liền cử Đại tướng Trương Đường qua Yên. Con đường qua Yên buộc phải qua Triệu, Trương Đường sợ Triệu giết mình nên từ chối. Lã Bất Vi đích thân đến dinh Trương Đường thuyết phục, Trương Đường vẫn không đi. Lã Bất Vi buồn bực ra về.
Cam La là môn hạ của Lã Bất Vi lúc đó mới 12 tuổi, mặt như dồi phấn, môi đỏ như son, đón Lã Bất Vi, hỏi:
- Thừa tướng có việc gì mà buồn vậy?
Lã Bất Vi đang bực mình, trợn mắt hét:
- Trẻ con biết gì mà hỏi?
Cam La bình tĩnh nói:
- Đã là môn hạ của ngài, tôi phải chia sẻ buồn vui với ngài chứ!
Lã Bất Vi nghe vậy liền nói:
- Tần và Yên mới giao hiếu với nhau. Yên đã gửi Thái tử vào Tần. Tần đã cử Trương Đường sang Yên làm tướng. Đường sợ Triệu nên không đi.
Cam La cười:
- Đó là chuyện nhỏ! Sao không nói sớm để tôi nói cho!
Lã Bất Vi nổi giận hét:
- Cút! Cút gấp! Ta đã đích thân mời hắn mà hắn còn chưa đi, huống gì là ngươi? Con nít gì mà lớn lối? Cút!
Cam La cười cười:
- Thừa tướng chớ khinh người. Chừng nào tôi nói không xong thì hãy làm tội.
Nói rồi Cam La qua yết kiến Trương Đường.
- Công của ngài so với Vũ An quân Bạch Khởi (Bạch Khởi là danh tướng của Tần, đã từng chôn sống 45 vạn quân Triệu trong một đêm) như thế nào?
- Ta không bằng.
Cam la nói tiếp:
- Ứng hầu Phạm Thư so với Thừa tướng, ai quyền hơn?
- Thừa tướng.
Cam La nói:
- Ấy mà, Ứng hầu sai Vũ An Quân Bạch Khởi đi đánh Triệu, Bạch Khởi không chịu đi, cuối cùng phải chịu chết, huống gì hôm nay đến ngài?
Trương Đường cả sợ nói:
- Xin tiểu tiên sinh cứu tôi với!...
Cam La về nói với Lã Bất Vi:
- Trương tướng chạy đi rồi! Bây giờ ngài tâu với vua, cho tôi qua thuyết Triệu cắt đất cho Tần.
Lã Bất Vi mới biết Cam La có tài, liền tâu với vua Tần phong chức Thượng Khanh và sai Cam La đi thuyết vua Triệu. Vua Triệu thấy sứ giả là một đứa bé lên mười, lòng lấy làm ngạc nhiên. Cam La hỏi:
- Đại Vương có nghe Thái tử Yên Đan qua Tần làm con tin không?
Triệu Vương đáp:
- Nghe!
- Và có nghe Trương Đường qua Yên làm tướng không?
- Nghe!
Cam La nói:
- Thái tử Yên vào Tần là Yên không gạt Tần. Trương Đường làm tướng Yên là Tần không gạt Yên. Tần và Yên không gạt nhau đi đánh Triệu tất nguy. Nay đại vương cắt cho Tần 5 thành thì Tần không giao thiệp với Yên nữa, mà giao hiếu với Triệu, nhân đó mà đánh Yên, Triệu sẽ được một số đất.
Vua Triệu nghe lời.
Lời Bàn:
Ngày xưa làm vua không có quy chế về tuổi tác. Lã Vọng ra giúp Chu Văn Vương lúc 80 tuổi. Nhà thơ Vương Bột đời Đường làm chức "Thái tử Thiếu Phó" (thầy dạy Thái tử) lúc 11 tuổi lúc đến 14 tuổi bị cách chức vì Bột làm bài phú "Đá gà". Lí Bí đời đường Minh hoàng vào cung dạy Thái tử Hanh khi chưa tới 11 tuổi. Đêm đêm thầy trò ôm nhau ngủ như hai đứa trẻ.
Điều đáng nói ở đây, uy quyền và mưu trí như Lã Bất Vi sai Trương Đường làm tướng nước Yên mà Đường không đi, ta thấy Cam La là người có tài. Càng phục cậu bé Cam La hơn nữa khi Cam La qua thuyết vua Triệu nạp thành. Chỉ tiếc là, năm sau (13 tuổi) Cam La đã qua đời. Dù sao Cam La cũng nổi danh là một thần đồng.
_______________
Một lần Khổng Tử ngồi trên chiếc xe nhỏ có ngựa kéo đi chu du khắp nước. Đến một vùng nọ, thấy có chú bé đang dùng đất đắp một toà thành, ngồi vào trong đó. Khổng Tử liền hỏi:
-Này cháu! Cháu trông thấy xe ngựa của ta đi qua, cớ sao không chịu tránh?
Chú bé kia nhìn Khổng Tử trả lời:
- Cháu nghe người ta đồn rằng người là Khổng Phu Tử trên thì thông hiểu thiên văn, dưới thì am tường địa lý, giữa thì biết thấu lòng người. Vậy mà hôm nay, cháu gặp Phu Tử thì không đúng như thế. Bởi vì, từ xưa đến nay, chỉ nghe có chuyện xe tránh thành chứ có bao giờ thành lại tránh xe đâu!
Khổng Tử ngạc nhiên quá liền hỏi:
- Tên cháu là gì vậy?
Chú bé trả lời:
- Cháu tên là Hạng Thác.
Khổng Tử lại hỏi:
- Năm nay cháu bao nhiêu tuổi?
- Thưa Phu Tử, cháu sáu tuổi
Khổng Tử liền nói:
- Cháu mới sáu tuổi mà đã sớm khôn ngoan như thế sao?
- Thưa Phu Tử – Chú bé lễ phép – Cháu nghe nói con cá nở ra ba ngày đã bơi tung tăng từ hồ nọ đến hồ kia. Con thỏ sáu ngày đã chạy khắp đồng cỏ. Cháu sinh ra sáu năm thì lấy gì mà khôn?
Lần này thì Khổng Tử thật sự lấy làm kinh ngạc, Nghĩ thầm sẽ đưa ra một loạt câu hỏi dồn cho chú bé phải chịu thua, rồi nói:
Này cháu! Ta xem ra cháu cũng khá lanh lợi đấy. Nay ta hỏi nhé: Trên núi nào không có đá? Trong Thau nước nào không có cá? Có loại cửa nào không có cánh? Loại xe nào không có bánh? Trâu nào không sinh con, Ngựa nào không đẻ? Con dao nào không có khuyên? Thứ lửa gì mà không có khói? Chàng trai nào lại không có vợ? Cô gái nào mà lại không có chồng? Thứ gì không có trống, có mái? Ngày nào thì ngắn, ngày nào dài? Loại cây nào thì không có cành? Thành nào thì không có quan viên? Con người nào lại không có tên riêng?
Hỏi xong. Khổng Tử nhìn Hạng Thác cười.
Hạng Thác nghĩ một thoáng rồi đáp:
- Xin tiên sinh nghe đây: Trên núi đất thì không có đá. Trong nước giếng không có cá. Loại cửa không có cánh thì không có cửa. Kiệu dùng người khiêng thì không có bánh (xe). Trâu đất thì không sinh con. Ngựa gỗ không đẻ. Dao cùn không có khuyên. Lửa đom đóm không có khói. Thần tiên không có vợ, tiên nữ không có chồng. Chim mái cô đơn không có trống, chim đực cô đơn không có mái. Ngày mùa đông ngắn, ngày mùa hạ dài. Cây chết không có cành. Thành bỏ không có quan viên. Trẻ mới sinh không có tên riêng.
Khổng Tử ngạc nhiên. Thằng bé con này trí tuệ hơn người!
Lúc này thì Hạng Thác không để cho Khổng Tử suy nghĩ, liền nói:
- Vừa rồi Phu Tử đã hỏi cháu nhiều, đến lượt cháu xin được hỏi Phu Tử: Tại sao con ngỗng và con vịt lại nổi bồng bềnh trên mặt nước được ạ? Chim hồng, chim hạc tại sao lại kêu to thế? Cây tùng, cây bách xanh cả mùa hè lại cả mùa đông là vì sao?
Khổng Tử đáp:
- Con ngỗng, con vịt có thể nổi bồng bềnh trên mặt nước được là nhờ hai bàn chân vuông là phương tiện. Chim hồng chim hạc kêu to là do cổ chúng dài, tùng bách xanh tươi bốn mùa là vì thân chúng đặc rắn.
- Thưa không đúng – Hạng Thác reo to lên – con rùa nổi trên mặt nước đâu có phải nhờ đôi chân vuông làm bàn đạp. Con ếch ương kêu to mà cổ chúng có dài gì đâu. Cây trúc bốn mùa cũng xanh mà ruột của chúng rỗng không đấy thôi.
Khổng Tử thấy chú bé đối đáp trôi chảy như thế, chưa biết xử trí ra sao, thì chú bé lại nói:
- Thưa Phu Tử cho phép cháu được hỏi thêm. Tại sao mặt trời buổi sáng lại to mà buổi chiều lại nhỏ?
- Là bởi vì buổi sáng mặt trời gần ta hơn- Khổng Tử đáp.
- Không ạ – Hạng Thác vặn lại.
- Thế tại sao buổi sáng mặt trời lại mát, buổi trưa mặt trời xa hơn chúng ta lại nóng như thế?
Khổng Tử đang ngập ngừng thì Hạng Thác hỏi tiếp:
- Cháu không hiểu làm sao hiểu được buổi sáng mặt trời ở phương Đông, buổi chiều lặn ở phương Tây rồi sáng hôm sau lại mọc ở phương Đông (mà không chờ phương Tây mọc lại), và tại sao người ta lại gọi tên một trái núi là Bất Chu? (không tròn)
Khổng Tử thở dài trách:
- Cháu còn ít tuổi mà lại thích hỏi những chuyện xa xôi viển vông ở tận đâu đâu. Chuyện trước mắt thì không hỏi.
Hạng Thác cười khanh khách.
- Thưa Phu Tử, vâng, cháu xin hỏi ngay chuyện trước mắt đây thôi. Lông mày của Phu Tử có bao nhiêu sợi ạ?
Khổng Tử không đáp, sai người đánh xe đi và than rằng: “Hậu sanh khả úy! Hậu sanh khả úy!”
***
Ở nước Việt ta có câu chuyện:
Cậu bé lên 5 được mẹ sai sang nhà hàng xóm xin lửa (thời xưa không có quẹt lửa, mọi nhà phải giữ lửa bằng cách ủ trong bếp tro, lỡ bị tắt phải đi xin nơi khác).
Khi cậu bé sang nhà hàng xóm gặp ông lão 70 đang đánh cờ cùng bạn, cậu thưa:
Xin ông cho cháu ít than lửa về cho mẹ.
Ông già nói: Cháu vào bếp mà lấy.
Cậu bé chạy vào một lúc, rồi lại chạy ra thưa.
Xin ông cho cháu ít than lửa về cho mẹ.
Ông già hơi cáu nhắc lại cháu vào bếp mà lấy.
Cậu bé chạy vào một lúc lâu hơn, rồi lại chạy ra thưa.
Xin ông cho cháu ít than lửa về cho mẹ.
Ông già cáu thật sự và quát: Đã báo vào bếp mà lấy, sao cứ hỏi mãi thế?
Cậu bé không biết nói sao, chỉ đứng cạnh thút thít khóc.
Cuối cùng ông già cũng cùng cậu bé vào bếp.
Khi vào đến nơi ông khều ra nhiều cục than đỏ và hỏi, cái gì đựng than lửa đâu?
Lúc nầy cậu bé hớn hở đưa hai tay hốt đầy tro bếp nguội và giơ trước mặt ông lão.
Ông lão thoáng ngạc nhiên và nói: Hèn chi.
Câu chuyện về sau hình thành câu nói "Bảy mươi còn học lên năm" hoặc "Bảy mươi còn học mười lăm" là vậy./.
Sưu tầm từ nhiều nguồn
***
Lịch sử ghi lại
Ngô Thì Nhậm (người miền nam hay viết Ngô Thời Nhiệm) là người trong nhóm Ngô Gia văn phái, làm quan dưới triều Lê và triều Tây Sơn, bị Nguyễn Ánh (vua Gia Long) sai Đặng Trần Thường chủ trì cuộc nhục hình ông tại Văn miếu, hai người đã có đối như sau:
Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai ai dễ biết ai (Đặng Trần Thường).
Thế Chiến quốc, thế Xuân thu, gặp thời thế thế thời phải thế (Ngô Thì Nhậm).
**************
Dần là con cọp trong 12 con giáp (thập nhị chi)
Nói về cọp thì có lẽ mọi người đã biết, nhưng có câu nói của ông cha ta về cọp để răn đời thì có lẽ còn có người chưa biết, xin được ghi lại để mọi người xem
Tróc hổ dị, phóng hổ nan
(Bắt cọp dễ, thả cọp mới khó)
Không dám giải thích hay bình luận gì thêm.
*************
Hoài Ân
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hoài Ân là một huyện của tỉnh Bình Định.
Địa lý
Hoài Ân là huyện trung du ở giữa tỉnh Bình Định, giáp các huyện HoàiNhơn (đông bắc), Phù Mỹ (nam và đông nam), An Lão (tây bắc) và Vĩnh Thạnh (tây nam). Diện tích 744,1 km2. Dân số 91.100 (1999), gồm các dân tộc: Kinh, Ba Na, Hrê. Địa hình đồi núi lượn sóng, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam; các sông Kim Sơn, An Lão chảy qua. Rừng nhiều gỗ hương, gỗ chò, dầu rái, sa nhân, thảo quả, mây, nhưng có nơi rừng bị phá chỉ còn là truông hoang.
Từ 1890, là châu Hoài Ân; năm 1899, đổi thành huyện Hoài Ân của tỉnh Bình Định rồi của tỉnh Nghĩa Bình (1976 - 1981). Năm 1981, tách phần bắc ra lập huyện An Lão. Từ 1981, là huyện Hoài Ân của tỉnh Bình Định.
Hành chính
Huyện Hoài Ân có 15 đơn vị hành chính cấp xã gồm:
● 1 thị trấn: Tăng Bạt Hổ
● 14 xã: Ân Tường Đông, Ân Tường Tây, Ân Hữu, Ân Nghĩa, Ân Đức, Ân Phong, Ân Thạnh, Ân Tín, Ân Hảo Đông, Ân Hảo Tây, Ân Mỹ, BokTới, Ân Sơn và ĐakMang. Trong đó có 5 xã có người dân tộc Ba-na, H're sinh sống, đó là BokTới, ĐakMang, Ân Sơn, Ân Tường Đông và Ân Mỹ.
* Phần lớn người dân sinh sống bằng nghề nông, trồng dâu tằm, lạc, mía; khai thác gỗ và lâm sản; trồng rừng, chăn nuôi gia súc, gia cầm, một số hộ kinh doanh dịch vụ tập trung chủ yếu ở khu vực thị trấn Tăng Bạt Hổ và các trung tâm của các xã.
Thắng cảnh và di tích
* Thác Đổ, Thác Trà lan(trà cơi) (Nghĩa Điền-Ân Nghĩa, Bocktới là những ngọn thác đẹp. Tại đây, đặc biệt là vào dịp lễ Tết có rất nhiều người đến tham quan ngắm cảnh.
* Hồ Thạch Khê (Ân Tường Đông) là một hồ chứa nước lớn đầu tiên ở huyện phục vụ công tác tưới tiêu cho nông nghiệp.
* Hồ Vạn Hội (thôn Vạn Hội, Ân Tín) là một hồ chứa nước lớn nhất huyện (tính đến năm 2007) phục vụ công tác tưới tiêu cho nông nghiệp.
* Thác Đổ (Tân Xuân-Ân Hảo),Thác Đá Dàn (Bình Hòa-Ân Hảo ): là những ngọn thác đẹp vv...
Văn hóa và giáo dục (Năm 2011)
Hoài Ân có 4 trường trung học phổ thông: Trường PTTH Nguyễn Bỉnh Khiêm, PTTH Hoài Ân ở thị trấn Tăng Bạt Hổ, PTTH Võ Giữ ở xã Ân Mỹ và PTTH Trần Quang Diệu ở xã Ân Tường Tây. Có 10 trường THCS (theo xã, thị trấn): Ân Nghĩa, Ân Hữu, Phổ thông Dân tộc nội trú (xã Ân Hữu), Ân Tường Tây, Ân Tường Đông, Ân Đức, Tăng Bạt Hổ, Ân Thạnh, Ân Tín, Ân Hảo. Có 19 trường Tiểu học (theo xã, thị trấn): BokToi, Đakmang, Số 1 Ân Nghĩa, Số 2 Ân Nghĩa, Ân Hữu, Số 1 Ân Tường Tây, Số 2 Ân Tường Tây, Ân Tường Đông, Số 1 Ân Đức, Số 2 Ân Đức, Tăng Bạt Hổ, Ân Phong, Ân Thạnh, Tăng Doãn Văn (xã Ân Thạnh), Số 1 Ân Tín, Số 2 Ân Tín, Ân Mỹ, Ân Hảo Tây, Ân Hảo Đông. Có 10 trường Mẫu giáo: Vùng cao (Làng T2, xã BokToi, thu nhận trẻ Mẫu giáo của 3 xã: BokToi, Đakmang, Ân Sơn), Ân Hữu, Ân Tường Đông, Ân Tường Tây, Ân Phong, Ân Thạnh, Ân Tín, Ân Mỹ, Ân Hảo Đông, Ân Hảo Tây. Có 4 trường Mầm non: Ân Nghĩa, 19-4 (Thị trấn Tăng Bạt Hổ), Tăng Bạt Hổ, Ân Đức. Có 01 cơ sở Mầm non tư thục Hồng Nhung (Thị trấn Tăng Bạt Hổ). Tại thời điểm tháng 4 năm 2011 các trường học đã được kết nối mạng Internet đến điểm trường chính. Riêng 3 trường Mẫu giáo Vùng cao, Tiểu học BokToi, Tiểu học Đakmang phải dùng mạng không dây di động ở nơi khác vì điểm chính chưa đủ điều kiện.
Giao thông
Hoài Ân không có quốc lộ chạy qua, phía bắc có tỉnh lộ 629 nối với quốc lộ 1A tại Bồng Sơn, Hoài Nhơn, chạy qua địa phận 2 xã Ân Mỹ, Ân Hảo Đông lên tới huyện lỵ An Lão và đi Ba Tơ, Quảng Ngãi; phía nam có tỉnh lộ 630 nối với quốc lộ 1A tại cầu Dợi, Hoài Đức, Hoài Nhơn, chạy qua thị trấn Tăng Bạt Hổ, xã Ân Đức, Ân Tường Tây, Ân Nghĩa, lên huyện Kbang, Gia Lai nối với tỉnh lộ 637 qua huyện lỵ Vĩnh Thạnh và nối với quốc lộ 19 tại vườn Xoài, Tây Thuận, Tây Sơn. Ngoài ra còn có tỉnh lộ 631 nối với quốc lộ 1A tại đèo Nhông, Mỹ Trinh, Phù Mỹ chạy qua địa phận xã Ân Tường Đông tới Gò Loi, Tân Thạnh, Ân Tường Tây giáp với tỉnh lộ 630. Trong tương lai gần (theo kế hoạch cơ bản thông toàn tuyến vào năm 2020) có đường bộ cao tốc bắc nam chạy qua địa phận thị trấn Tăng Bạt Hổ, Ân Phong, Ân Tường Đông huyện Hoài Ân(cuối tháng 4 năm 2011 đã khảo sát cắm mốc trên địa bàn huyện).
Lịch sử
Hoài Ân là quê hương của người anh hùng Tăng Bạt Hổ, quê ngoại của Trần Quang Diệu, truông Mây (Ân Nghĩa) là nơi nghĩa quân chàng Lía xây dựng căn cứ. Truông Mây dài 3 km với sự tích chàng Lía. Thời chống Mỹ có Anh hùng lực lượng vũ trang Võ Giữ ở An Thường, Ân Thạnh, Hoài Ân (tên trường PTTH Võ Giữ).
Chàng Lía
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chàng Lía là một anh hùng Việt Nam người Bình Định, được biết đến nhiều qua miếng võ "cú nhảy cá lóc".
Truyền thuyết
Nguyên nhân khởi nghĩa
Giữa thế kỉ XVIII, chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong suy yếu dần. Việc mua quan chức phổ biến. Số quan lại ngày càng tăng, nhất là quan thu thuế. Có nơi một xã có 20 xã trưởng và hàng chục nhân viên thu thuế (gọi là tướng thần). Quan lại, hào cường kết thành bè cánh đàn áp bóc lột nhân dân thậm tệ, đua nhau ăn chơi xa xỉ. Trương Phúc Loan nắm hết quyền hành, tự xưng "quốc phó", khét tiếng tham nhũng ở triều đình Phú Xuân.
Nông dân bị địa chủ hào cường lấn chiếm ruộng đất. Nhân dân đồng bằng phải nộp nhiều thứ thuế, nhân dân miền núi phải nộp lâm thổ sản.
Cuộc sống nhân dân ngày càng khổ cực. Nỗi bất bình oán giận của các tầng lớp xã hội đối với chính quyền họ Nguyễn ngày càng dâng cao. Cuộc khởi nghĩa chàng Lía đã bùng lên trong hoàn cảnh đó.
Nhân vật lịch sử
Mặc dù thông tin cụ thể chưa xác định được, xong có giả thiết cho rằng chàng Lía vốn tên thật là Võ Văn Đoan, quê nội huyện Phù Ly (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định ngày nay), quê ngoại làng Phú Lạc, tổng Thời Hòa, huyện Tuy Viễn. Lía xuất thân trong 1 gia đình nghèo khổ. Là người có khí khái, giỏi võ nghệ, Lía tập hợp dân nghèo nổi dậy, chọn Truông Mây (Bình Định) làm căn cứ, lấy của người giàu chia cho người nghèo. Khi khởi nghĩa chàng Lía bị dập tắt, nhưng hình ảnh chàng Lía còn mãi trong lòng người dân miền Trung. theo "Nguồn gốc võ học BìnhĐịnh"
Ca dao
Ai vào Bình Định mà nghe,
Nghe thơ chàng Lía, vè về Quảng Nam.
Chiều chiều én liệng Truông Mây,
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành.
Bài vè
Lên yên thẳng xuống trùng trùng rinh rang,
Lâu la kén đủ trăm ngàn,
Thình lình cướp trại đánh ngang quân triều.
Quân binh đang lúc bao vây,
Chợt đâu bị đánh, xiết bao hãi hùng.
Trần Quang Diệu
Trần Quang Diệu (chữ Hán: 陳光耀;, 1746–1802) là võ tướng quan trọng nhất của nhà Tây Sơn thời vua Cảnh Thịnh. Ông và vợ là Bùi ThịXuân nằm trong số những tướng lãnh trung thành cuối cùng đã chiến đấu để bảo vệ sự tồn tại của triều Tây Sơn.
Quê quán và họ tên
Sử liệu hiện nay nêu không rõ ràng và thống nhất mối quan hệ giữa ông và gốc tích họ Trần. Có sách chép ông họ Nguyễn.
Hiện có 2 ý kiến khác nhau về quê quán của Trần Quang Diệu:
∙ Xã Ân Tín, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định
∙ Xã Tú Sơn, huyện Đức Lân, tỉnh Quảng Ngãi.
Sự nghiệp
Giai đoạn trước khi Nguyễn Huệ qua đời
Trần Quang Diệu tham gia phong trào Tây Sơn từ những ngày đầu. Ông được coi là một trong Tây Sơn thất hổ tướng.
Trong chiến thắng Kỉ Dậu 1789, Quang Diệu được biên chế trong đạo trung quân do Nguyễn Huệ chỉ huy.
Sau chiến thắng này, ông là Đốc trấn Nghệ An, làm nhiệm vụ trấn thủ Nghệ An và xây dựng thành Phượng Hoàng trung đô.
Tại thời điểm Quang Trung qua đời, ông là Thiếu phó.
Giai đoạn sau khi Nguyễn Huệ qua đời
* Năm 1792, Quang Trung băng hà, Quang Diệu cùng Thái sư Bùi ĐắcTuyên và Tư đồ Vũ Văn Dũng lập Nguyễn Quang Toản (khi này 10 tuổi) lên ngôi, tức vua Cảnh Thịnh. Sau đó, ông đem quân đóng ở xứ Lào và quản lí, chế ngự các tiểu vương và tù trưởng ở đấy.
* Năm 1793, Quang Diệu về nước và trấn thủ Quảng Nam. Hay tin quân Nguyễn Ánh xâm nhập, ông đưa quân đánh với ý định chiếm lại thành Diên Khánh. Nguyễn Ánh đưa đại binh đi cứu viện, ông thua.
* Năm 1795, Quang Diệu một lần nữa xuất quân chiếm lại Diên Khánh. Khi chiến sự đang giằng co với lợi thế thuộc về quân Tây Sơn thì có triều biến tại Phú Xuân: không có lệnh vua, Vũ Văn Dũng và Nguyễn Văn Huấn lập mưu giết Ngô Văn Sở và cha con Thái sư Bùi Đắc Tuyên . Quang Diệu vội thu quân về triều, đóng quân ở mạn Nam sôngHương, hướng mặt vào thành Phú Xuân, trong khi Vũ Văn Dũng đóng ở mạn Bắc sông và muốn đem quân cự lại. Nguyễn Văn Huấn ra tạ tội. Cảnh Thịnh hòa giải hai bên, hạch tội và giết Nguyễn Văn Huấn. Mâu thuẫn giữa Văn Dũng và Quang Diệu được thu xếp ổn thỏa.
* Năm 1799, Qui Nhơn bị Nguyễn Ánh đánh ngặt, Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng vào cứu. Do quân lệnh không nghiêm, quân của Văn Dũng thất lợi. Nghe lời gièm, vua Cảnh Thịnh viết mật thư, lệnh cho Văn Dũng trừ Quang Diệu đi. Văn Dũng không nghe, tin cho Quang Diệu biết. Trần Quang Diệu tức tốc về triều, nói là để bắt quân phản loạn, Cảnh Thịnh giao lại những người gièm pha.
Khi này, nhà Tây Sơn đã không còn thực lực vững vàng như ngày trước: Cảnh Thịnh giết oan Lê Tung và Nguyễn Văn Huấn; một số tướng như Lê Chất bỏ sang với Nguyễn Ánh; sự ủng hộ của nhân dân đối với nhà Tây Sơn giảm sút, nhân dân không còn coi họ như những người đại diện của mình.
* Năm 1800, Quang Diệu và Vũ Văn Dũng cùng vào đánh Qui Nhơn. Sau khi nhận thấy hai tướng giỏi nhất và lực lượng quân sự lớn của Tây Sơn đã tập trung cả ở Qui Nhơn, tháng 5 âm lịch năm 1801, Nguyễn Ánh quyết định bỏ rơi Võ Tánh – khi này đang cầm cự để giữ thành Qui Nhơn và tấn công Phú Xuân – khi này đang trống trải do quân số không đủ để tự bảo vệ. Quang Diệu điều một bộ phận quân tướng về cứu Phú Xuân nhưng đạo quân này thất bại. Võ Tánh giữ thành được gần một năm. Khi Tây Sơn hạ thành, Võ Tánh và Ngô TòngChâu tự vận, Quang Diệu tha cho tướng tá và quân sĩ nhà Nguyễn, không giết một ai. Sau đó, ông chia người đi cứu Phú Xuân và Phú Yên nhưng việc không thành.
* Tháng 5 âm lịch năm 1802, sau khi biết Cảnh Thịnh và Bùi Thị Xuân thất trận khi cố đánh thu hồi luỹ Trấn Ninh (tháng giêng âm lịch năm 1802), thêm vào đó, tuy chiếm lại được thành Qui Nhơn nhưng các mặt đều là địch cả, Trần Quang Diệu bỏ thành, đem tượng binh đi đường thượng đạo qua Lào với ý định tập trung với quân của Cảnh Thịnh giữ thành Nghệ An. Nhưng khi tới châu Quỳ Hợp, vào được đất HươngSơn thì thành Nghệ An đã thất thủ, Quang Diệu và vợ là Bùi Thị Xuân về huyện Thanh Chương. Lúc này, quân của Quang Diệu đã tan rã cả, tướng của Nguyễn Ánh dùng mưu mua chuộc người chỉ điểm nơi trú ẩn của gia đình Trần Quang Diệu. Ông và vợ con đều bị bắt.
Cái chết
Nguyễn Ánh – khi này đã lên ngôi và lấy hiệu Gia Long, chiêu hàng Trần Quang Diệu. Ông đáp:
“Trung thần không thờ hai vua, nay tôi bị bắt thì chỉ có tội chết. Nếu nhà vua mới rộng lượng tha cho, như trước đây tôi đã tha cho các tướng ở Qui Nhơn thì tôi sẽ về ở nơi thôn dã, cày ruộng, nộp thuế như người thường dân, chứ nhận chức quan của triều đại mới thì không phải là trượng phu“.
* Mẹ ông – đã ngoài 80 tuổi – được Gia Long tha chết, còn Quang Diệu thì bị đem làm tội. Về cái chết của Trần Quang Diệu, thông tin là không thống nhất:
* Có thuyết nói do ông thờ mẹ già 80 tuổi có hiếu nên Nguyễn Ánh chỉ ra lệnh chém, chứ không hành hình dã man như một số người khác. Tuy vậy, thuyết này không nói rõ ông bị chém ra sao và khiến người đọc có thể nghĩ là ông bị chết chém bình thường.
* Có thuyết nói ông bị chém làm trăm mảnh.
* Trần Xuân Sinh trong Thuyết Trần thì cho rằng ông bị lột da nhồi trấu.
Lưu danh
Tên của ông hiện nay đã được đặt cho một con phố ở Hà Nội (Phố Trần Quang Diệu, khu Hoàng Cầu) và nhiều thành phố khác ở Việt Nam.
Chú thích
1. ^ Một số tướng lĩnh khác nằm trong số này là Đặng XuânBảo (đô đốc Bảo, mất 1802), Nguyễn Tăng Long (đô đốc Long, sinh 1750), Vũ Văn Dũng.
2. ^ Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1.
3. ^ Nguồn: Sách Thuyết Trần, NXB Hải Phòng 2003, mục Trần Quang Diệu.
Thuyết Trần (dịch nghĩa: “Nói về nhà Trần“), được tác giả - Trần Xuân Sinh (sinh 1912) – coi như gia phả của dòng họ Trần ở Việt Nam. Trước đó, một cuốn sách có mục đích tương tự là Thuyết Mạc cũng đã được xuất bản.
Thăm mộ chí sĩ Tăng Bạt Hổ tại Huế
Chí sĩ Tăng Bạt Hổ, tên thật là Tăng Doãn Văn, là một nhân vật tiêu biểu trong phong trào yêu nước chống Pháp vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Ông quê ở làng An Thường, xã Ân Thạnh (huyện Hoài Ân). Tuy nhiên, người Bình Định không phải ai cũng biết là mộ phần của ông hiện nằm ở Bến Ngự (thành phố Huế), ngay trong khuôn viên vườn nhà và mộ phần Phan Bội Châu...
Ngay trên đỉnh dốc Bến Ngự là khu vườn nhà và lăng mộ của Sào Nam Phan Bội Châu. Nơi đây có một ngôi nhà tranh và nhà thờ Phan Bội Châu cùng bức tượng cụ Phan đúc bằng đồng. Nằm sát cổng chính của khu vườn, là ngôi mộ nhà chí sĩ yêu nước Tăng Bạt Hổ nằm yên bình, dưới những bóng cây. Mộ xây gạch, có tường bao, nhuốm màu thời gian, bên trong là một tấm bia bằng chữ Hán, ngoài có tấm biển nhỏ đề: Lăng mộ Tăng Bạt Hổ.
Tăng Bạt Hổ mất ở Huế thì ai cũng rõ, sách nào cũng viết, nhưng tại sao mộ phần ông lại được táng ở trong khu vườn nhà và lăng mộ Phan Bội Châu? Trong khi đó, tập san kỷ niệm 30 năm giải phóng Hoài Ân lại viết: "Mộ phần ông (Tăng Bạt Hổ) hiện nay nằm ở Hương Trà".
Hồi ký Tự phán của Phan Bội Châu viết: "Mùa xuân năm Bính Ngọ (1906), ông (Tăng Bạt Hổ) tự Bắc Kỳ chạy khắp khoảng Thanh, Nghệ, Tịnh, Bình, ngày nghỉ đêm đi sức hao lòng mỏi. Mùa đông năm ấy, đến Kinh Huế... nào ngờ ông xanh quá ghen, việc chẳng như lòng, kịp đến nhà cụ Võ ở An Hòa (Huế) bệnh phát nặng. Cụ Võ (Võ Bá Hạp, người đồng chí của Phan Bội Châu) vì giữ tai mắt người ngoài, thuê một thuyền con đậu dưới bến, khuya sớm phụng dưỡng ông, mới có vài tuần mà ông đã tạ thế trong thuyền". Theo khảo sát của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, sau khi cụ Tăng Bạt Hổ mất, cụ cử Võ cùng các đồng chí đồng sự đã đem táng thi hài cụ Tăng trên một gò cao thuộc ấp Thế Lại Thượng. Năm 1956, cụ Lê Ngọc Nghị, một nhân sĩ đã cùng với một số hậu duệ các bậc tiền bối hợp tác cùng thân hào xã Thế Lại Thượng tổ chức lễ truy điệu và cải táng hài cốt Tăng Bạt Hổ lên chôn tại khu vườn nhà và lăng mộ Sào Nam Phan Bội Châu như hiện nay.
Cũng cần nói thêm về khu vườn này. Đây nguyên là nơi ở của cụ Phan Bội Châu trong suốt 15 năm cụ bị giam lỏng ở Huế (từ 1925 đến 1940). Tiền mua đất và dựng nhà do đồng bào cả nước góp. Khi mất, cụ Phan được cụ Huỳnh Thúc Kháng và các nhà yêu nước đương thời táng ngay trong vườn nhà. Đồng thời, ngay bên cạnh ngôi nhà tranh của cụ, cụ Huỳnh làm thêm một ngôi nhà nhỏ để thờ cụ Phan. Sau cuộc kháng chiến chống Pháp, khu vườn, lăng mộ và nhà thờ bị tiêu điều. Những người còn tưởng nhớ đến cụ Phan đã thành lập một ủy ban xây dựng nhà thờ cụ Phan do bác sĩ Thân Trọng Phước đứng đầu. Tháng 10 năm 1956, công việc xây dựng hoàn tất. Những người có trách nhiệm thời bấy giờ đã đưa tên tuổi các nhà yêu nước khác trong phong trào chống Pháp khởi đầu từ Thủ khoa Huân, Trương Định, cho đến các nhà yêu nước trong phong trào Cần Vương, văn thân Đông Du, khởi nghĩa Thái Nguyên, Yên Bái… vào thờ chung với Phan Bội Châu và nhà thờ cụ Phan trở thành Nhà thờ Việt Nam Liệt sĩ cách mạng và Phan Bội Châu tiên sinh. Cụ Tăng Bạt Hổ, một chí sĩ của phong trào Cần Vương và Đông Du, nên hài cốt được đưa về táng ở đây.
Người Bình Định, những ai có dịp ghé đất Thần Kinh, xin nhớ ghé và thắp một nén hương tưởng niệm chí sĩ Tăng Bạt Hổ và các anh hùng, nghĩa sĩ.
Mộ Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử (22 tháng 9, 1912 – 11 tháng 11, 1940) là một nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra trường thơ loạn, trường thơ điên.
Tiểu sử
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm. Ông cũng đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sĩ này. Ông được Phan Bội Châu giới thiệu bài thơ Thức khuya của mình lên một tờ báo. Sau này, ông được một suất học bổng đi Pháp nhưng vì quá thân với Phan Bội Châu nên đành đình lại. Ông quyết định lên Sài Gòn lập nghiệp. Năm đó ông 21 tuổi.
Lên Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy, Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người [1].
Ít lâu sau, ông mắc bệnh phong - một căn bệnh nan y thời đó. Ông bỏ tất cả quay về Quy Nhơn và mất khi mới 28 tuổi [2].
Cuộc đời của ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông - có những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên như Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện.
Tên của ông được đặt cho đường phố ở Huế và Phan Thiết. Có ít nhất hai bài hát được sáng tác để nói về cuộc đời ông: Hàn Mặc Tử của Trần Thiện Thanh[3] và Trường ca Hàn Mặc Tử của Phạm Duy[4].
Năm 2004, Hãng phim truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (TFS) đã thực hiện bộ phim Hàn Mặc Tử để kỷ niệm ông.
Một số bài thơ nổi tiếng
Nhiều bài thơ của Hàn Mặc Tử đã được phổ nhạc vì tính lãng mạn của nó. Sau đây là một số bài được nhiều nhà phê bình đánh giá là hay và đã được đưa vào sách giáo khoa bậc trung học.
Ôn cố tri tân
Mộng Cầm hình năm 1990
Đây thôn Vỹ Dạ
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà.
Mùa xuân chín
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây...
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Bình luận và nhận xét
Đánh giá và bình luận về tài thơ của Hàn Mặc Tử có rất nhiều, sau đây là một số đánh giá của các nhà thơ văn nổi tiếng:
"Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình"
"Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn MạcTử." (Nhà thơ Chế Lan Viên)
"Sẽ không thể giải thích được đầy đủ hiện tượng Hàn Mặc Tử nếu chỉ vận dụng thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn và ảnh hưởng của Kinh thánh. Chúng ta cần nghiên cứu thêm lý luận của chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực. Trong những bài thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử, người ta không phân biệt được hư và thực, sắc và không, thế gian và xuất thế gian, cái hữu hình và cái vô hình, nội tâm và ngoại giới, chủ thể và khách thể, thế giới cảm xúc và phi cảm xúc. Mọi giác quan bị trộn lẫn, mọi lôgic bình thường trong tư duy và ngôn ngữ, trong ngữ pháp và thi pháp bị đảo lộn bất ngờ. Nhà thơ đã có những so sánh ví von, những đối chiếu kết hợp lạ kỳ, tạo nên sự độc đáo đầy kinh ngạc và kinh dị đối với người đọc."
(Nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ).
"Hàn Mặc Tử có khoảng bảy bài hay, trong đó có bốn bài đạt đến độ toàn bích. Còn lại là những câu thơ thiên tài. Những câu thơ này, phi Hàn Mặc Tử, không ai có thể viết nổi. Tiếc là những câu thơ ấy lại nằm trong những bài thơ còn rất nhiều xộc xệch..." (Nhà thơ Trần Đăng Khoa).
* "...Theo tôi thơ đời Hàn Mặc Tử sẽ còn lại nhiều. Ông là người rất có tài, đóng góp xứng đáng vào Thơ mới." (Nhà thơ Huy Cận).
* "...Một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng..." và "Vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh..." (Nhà phê bình văn học Hoài Thanh), Trích từ vi-wikipedia.
Người khởi xướng phong trào Đông Du
Tăng Bạt Hổ tên thật là Tăng Doãn Văn, tự Sư Triệu, hiệu là Điền Bát, sinh năm Mậu Ngọ (1858) tại làng An Thường, huyện Bồng Sơn, phủ Hoài Nhơn (nay là huyện Hoài Ân), tỉnh Bình Định.
Tính tình ông cương trực, khí khái, văn võ song toàn. Năm 18 tuổi (1876), ông đầu quân làm đến xếp đội, sau được làm đến Cai Cơ chỉ huy một đội quân đóng ở cửa An Giũ (xã Hoài Hương, huyện Hoài Nhơn) để đề phòng giặc Pháp đổ bộ.
Khi nghe Kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn ra Quảng Trị ban chiếu Cần Vương, ông cùng một số người bỏ đồn An Giũ, rút lên nguồn Kim Sơn (Hoài Ân) chiêu mộ nghĩa quân chống Pháp. Ông được mọi người tôn làm Đề dốc để chỉ huy quân kháng chiến. Ông đặt bản doanh ở hòn Tổng Dinh trong dãy núi Kim Sơn. Liền đó, ông liên lạc được với nguyên soái Mai Xuân Thưởng ở Hương Sơn (huyện Bình Khê) và Thống trấn Bùi Điền ở núi Chóp Chài (huyện Phù Mỹ) để cùng chung sức hoạt động chống Pháp. Trong trận đánh nhau với đội quân bán nước Nguyễn Thân tại Lại Giang và Lộc Giang (Hoài Ân), ông bị trọng thương. Mấy hôm sau thì mật khu Tổng Dinh cũng bị thất thủ, ông phải lẩn tránh từ làng này sang làng khác. Từ đó, lực lượng nghĩa quân tan rã dần và thấy khó gây dựng lại như cũ, nên ông nghĩ cách “cầu viện” nước ngoài. Tháng Giêng năm Đinh Hợi (1887) ông xuống thuyền ngược dòng Kim Sơn để lên Tây Nguyên tìm đường sang Xiêm. Tuy nhiên, ông nhận thấy Xiêm La lúc bấy giờ không phải là nơi nhờ cậy được nên ông rời Xiêm để sang Trung Quốc. Ông đi khắp hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây để tìm đồng chí. Khi nghe tin Lưu Vĩnh Phúc (chủ tướng Cờ Đen) đã thắng Pháp ở ô Cầu Giấy và giết được viên đại tá Pháp, nay đã sang Đài Loan. Ông liền sang bên đó để tìm gặp họ Lưu. Rủi thay, Đài Loan vừa bị Nhật chiếm đóng nên đảng viên Cờ Đen tứ tán hết cả. Ông liền nghĩ ngay đến nước Nhật, một đất nước cường thịnh, cũng dân châu Á da vàng. Ông xin làm thủy thủ một tàu buôn để sang Nhật và cũng nhờ làm nghề này mà ông thường qua lại giữa Yo-ko-ha-ma (Hoành Tân) và Na-ga-sa-ki (Trường Kỳ) được ít năm thì thông thạo tiếng Nhật. Ông được sung vào hải quân Hoàng gia Nhật. Tại binh chủng này, ông học được cách sử dụng vũ khí và tìm hiểu chiến lược, chiến thuật tác chiến của phương Tây.
Sau khi thôi phục vụ trong hải quân Nhật, ông đã trở thành chính khách và quen thân với các nghị sĩ như Khuyển Dưỡng Nghị, Đại Ôi, Trọng Tín... và tỏ ý muốn cầu viện Nhật để đánh đuổi Pháp ở Việt Nam. Họ khuyên ông: “Trước hết phải lo phát triển phong trào Duy Tân trong nước để nâng cao dân trí, dân khí cho đại sự. Muốn thế thì phải chọn lựa thanh niên ưu tú gửi sang đất nước chúng tôi và chúng tôi sẽ đào tạo họ”.
Tăng Bạt Hổ trở về nước, đến Hải Phòng vào cuối năm 1904, sau đó vào Quảng Nam gặp cụ Phan Bội Châu. Đầu năm sau (1905) ông đưa cụ Phan sang Nhật gặp Khuyển Dưỡng Nghị rồi trở về nước hoạt động, có mang theo “Khuyến thanh niên du học” do cụ Phan soạn. Ông tìm gặp cụ Nguyễn Quyền ở Lạng Sơn, cụ Nguyễn Thượng Hiền ở Nam Định và cụ Lương Văn Can ở Hà Nội để luận bàn tình hình trong nước và thế giới. Do cuộc gặp gỡ trên mà hai người con của cụ Lương Văn Can là Lương Ngọc Quyến và Lương Nghị Khanh cùng hai sinh viên khác là Nguyễn Điển và Nguyễn Thức Canh là những sinh viên đầu tiên của nước ta sang du học tại Nhật. Từ đó phong trào Đông Du ngày càng phát triển và hai năm sau, số du học sinh tại Nhật lên trăm người, đủ cả ba miền Nam, Trung, Bắc. Phong trào Đông Du làm cho Pháp hết sức lo ngại.
Vào mùa đông năm Đinh Dậu (1908), ông từ Bắc vào Nam để vận động Đông Du, khi ghé lại Huế thì mắc phải bệnh kiết lỵ và từ trần tại đây. Ông được mai táng tại làng Đốc Sơ thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Ngày nay, tỉnh Bình Định đã lấy tên Tăng Bạt Hổ để đặt cho một đường phố chính ở trung tâm thành phố Quy Nhơn và tên một thị trấn huyện lỵ huyện Hoài Ân là quê nhà của cụ./.
Hoài Ân xưa và nay
Nằm ở phía Bắc của tỉnh Bình Định, huyện Hoài Ân là vùng đất nối liền dải đồng bằng ven biển phía đông với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ ở phía tây. Là một địa bàn xung yếu của tỉnh Bình Định, có tầm quan trọng về kinh tế và quốc phòng, Hoài Ân đồng thời là vùng đất có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống yêu nước và văn hóa.
Trong lịch sử, Hoài Ân đã từng là nơi xuất phát và là căn cứ của cuộc khởi nghĩa chàng Lía (thế kỷ XVIII), là địa bàn hoạt động của nghĩa quân chống Pháp trong phong trào Cần Vương (1885- 1887) do Bùi Điền và Tăng Bạt Hổ chỉ huy. Trong kháng chiến chống Pháp, Hoài Ân là nơi đóng cơ quan của Liên khu ủy khu V và Ủy ban Kháng chiến hành chính miền Nam Trung bộ. Trong kháng chiến chống Mỹ, Hoài Ân là cái nôi ra đời của Sư đoàn 3 anh hùng, là mảnh đất còn lưu giữ nhiều chiến công oanh liệt đánh bại nhiều đơn vị sừng sỏ của Mỹ – Ngụy như Sư đoàn kỵ binh bay số 1 Mỹ, Lữ đoàn thiết giáp 173 Mỹ, Sư đoàn 22 ngụy với những địa danh đã đi vào lịch sử Gò Loi, núi Chéo…
Hoài Ân cũng là vùng đất được giải phóng sớm nhất ở tỉnh Bình Định vào ngày 19-4-1972. Từ đó đến nay miền đất trung du Hoài Ân đã ngày càng khởi sắc trên con đường phát triển kinh tế, xây dựng lại quê hương giàu đẹp sau bao nhiêu năm chiến tranh ác liệt.
* Phác họa một vùng đất
Hoài Ân là huyện trung du có diện tích rộng vào hàng thứ ba trong 11 đơn vị hành chính của tỉnh Bình Định (sau 2 huyện Vân Canh, Vĩnh Thạnh) với diện tích tự nhiên 777,8 km2, chiếm 12% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Đây là mảnh đất gắn bó và sinh sống lâu đời của 3 dân tộc anh em: Ba na, H’rê, Kinh. Trong đó, hai dân tộc Ba na, H’rê chính là những cư dân bản địa đã sinh sống từ rất lâu đời ở phía thượng du. Hiện nay dân số Hoài Ân đã có trên 92 ngàn người, người Kinh chiếm đa số.
Theo các tài liệu lịch sử, từ 1471 đến 1889 địa vực Hoài Ân là vùng thượng du phía tây của huyện Bồng Sơn, phủ Hoài Nhơn. Năm 1890, lần đầu tiên vùng đất này được đặt thành châu Hoài Ân thuộc Nghĩa Định sơn phòng. Năm 1899, vua Thành Thái ra chỉ dụ lập huyện Hoài Ân gồm 3 tổng: Hoài Đức, Quy Hóa, Vân Sơn, với 61 làng, do phủ Hoài Nhơn thống hạt. Năm 1937, Hoài Ân được phiên thành 4 tổng: Phú Hữu, Hoài Đức, Quy Hóa, Kim Sơn với 66 làng. Huyện lỵ đầu tiên đặt tại làng Phước Bình (Ân Hảo), sau chuyển xuống làng Mỹ Thành (Ân Tín); năm 1937 dời về làng An Thường (Ân Thạnh), đến cuối năm 1955 chuyển qua làng Gia Chiểu (Ân Đức), cuối năm 1964 dời qua làng An Hậu (Ân Phong); sau tháng 3-1975 huyện lỵ về đóng lại tại Gia Chiểu, từ năm 1988 đến nay đóng tại trung tâm thị trấn huyện lỵ (thị trấn Tăng Bạt Hổ).
Trải qua các thời kỳ, địa giới và địa danh làng, xã ở Hoài Ân có nhiều thay đổi. Đầu năm 1946, thực hiện xóa tổng hợp xã lần thứ nhất, 66 làng được gộp thành 22 xã. Đầu năm 1948, hợp xã lần 2 còn lại 8 xã, lấy chữ "Ân" làm tên đầu cho các xã mới: Ân Hòa, Ân Hảo, Ân Tín, Ân Thạnh, Ân Đức, Ân Tường, Ân Hữu, Ân Nghĩa. Năm 1952, xã Hoài Phong của huyện Hoài Nhơn được sáp nhập vào huyện Hoài Ân và đổi tên thành xã Ân Phong.
Sau ngày giải phóng miền Nam, tháng 1-1976, huyện Hoài Ân cùng 2 xã Dak Mang, Bok Tới của huyện Vĩnh Thạnh hợp nhất với huyện An Lão thành huyện Hoài An với 18 xã, 105 thôn. Tháng 8-1981, huyện Hoài An được tách thành 2 huyện Hoài Ân và An Lão, xã Ân Hòa của Hoài Ân được nhập vào huyện An Lão và xã An Sơn của huyện An Lão được nhập vào huyện Hoài Ân. Lúc này huyện Hoài Ân có 11 xã. Cuối tháng 12-1988, chia xã Ân Tín thành 2 xã Ân Tín và Ân Mỹ, đồng thời thành lập thị trấn huyện lỵ lấy tên là thị trấn Tăng Bạt Hổ, gồm các thôn: Gia Chiểu (Ân Đức), Thanh Tú, Du Tự, Gò Cau (Ân Phong). Tháng 9-1998, xã Ân Tường tách thành 2 xã: Ân Tường Đông và Ân Tường Tây, năm 2007 tách xã Ân Hảo thành 2 xã Ân Hảo Tây và Ân Hảo Đông. Hiện nay (2009), huyện Hoài Ân gồm 14 xã (Ân Hảo Tây, Ân Hảo Đông, Ân Tín, Ân Mỹ, Ân Thạnh, Ân Đức, Ân Phong, Ân Tường Đông, Ân Tường Tây, Ân Hữu, Ân Nghĩa, Dak Mang, Bok Tới, Ân Sơn) và thị trấn Tăng Bạt Hổ. Trong đó, có 3 xã vùng cao là Dak Mang, Bok Tới, An Sơn; 6 xã miền núi là Ân Nghĩa, Ân Hữu, Ân Tường Đông, Ân Tường Tây, Ân Hảo Tây, Ân Hảo Đông.
Huyện Hoài Ân là vùng bán sơn địa nên địa hình đa dạng, đồi núi xen kẽ với đồng bằng, thung lũng. Trên địa bàn huyện có 2 sông lớn là Kim Sơn (62km) và An Lão (20 km). Hai con sông này gặp nhau tại Phú Văn (Ân Thạnh) và hợp thành dòng sông Lại đổ ra cửa An Dũ (Hoài Hương – Hoài Nhơn). Hai dòng sông này chảy quanh co, uốn lượn nên đã hình thành các bãi bồi và các cánh đồng màu mỡ phù sa trên địa bàn huyện. Hệ thống sông suối ở Hoài Ân chia cắt mạnh địa hình, gây khó khăn cho việc giao lưu giữa các vùng, nhất là vào mùa mưa, song đóng một vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp nước tưới, bồi đắp phù sa, điều hòa khí hậu… để phát triển kinh tế của dân cư trên địa bàn.
Mặc dù là huyện trung du, không nằm trên trục quốc lộ 1A, nhưng mạng lưới giao thông của Hoài Ân khá phát triển và thuận lợi trong việc giao lưu với các vùng khác. Phía bắc có tỉnh lộ 629 nối với quốc lộ 1A tại Bồng Sơn (Hoài Nhơn) lên tới huyện lỵ An Lão và Ba Tơ (Quảng Ngãi); phía Nam có tỉnh lộ 630 nơi với quốc lộ 1A tại cầu Dợi (Hoài Đức- Hoài Nhơn) qua huyện lỵ Hoài Ân, lên Kim Sơn (Ân Nghĩa) rồi lên huyện Kbang (Gia Lai) nối với tỉnh lộ 637 qua huyện lỵ Vĩnh Thạnh và nối với quốc lộ 19 tại vườn Xoài (Tây Thuận – Tây Sơn). Ngoài ra còn có tuyến đường từ Tân Thạnh (Ân Tường) nối với quốc lộ 1A tại Mỹ Trinh (Phù Mỹ).
Tuy có diện tích đất tự nhiên khá lớn nhưng chỉ có chưa đầy 10% là đất nông nghiệp (7.465/77.780ha), diện tích đất có rừng cũng chỉ có 11.195ha, còn lại là diện tích đất lâm nghiệp chưa có rừng. Từ trước đến nay kinh tế Hoài Ân chủ yếu là nông nghiệp, bên cạnh đó còn có một số ngành nghề thủ công như mộc, đan tre, đúc đồng, làm nón, ươm tơ dệt lụa…
Hoài Ân là vùng đất có lịch sử phát triển lâu đời, giàu truyền thống yêu nước và văn hóa. Tuy không phải là nơi có nhiều nhà khoa bảng nhưng lại là vùng đất nổi tiếng có nhiều người trẻ học giỏi và đỗ đạt cao. Dưới thời nhà Nguyễn, trong 14 giải nguyên (đỗ đầu khoa thi Hương) ở Bình Định thì Hoài Ân chiếm tới 3: Trần Văn Chánh (Linh Chiểu), Lê Chuân (Phú Văn), Lê Đình Thoại (Kim Sơn). Riêng Trần Văn Chánh đỗ giải nguyên trường Thừa Thiên khoa Canh Tý (1840) lúc 19 tuổi; năm 21 tuổi đỗ tiến sỹ khoa Nhâm Dần (1842), là một trong 6 người đỗ tiến sỹ khoa này và là người đỗ đại khoa thứ hai của Bình Định. Những năm gần đây con em Hoài Ân đỗ vào các trường Đại học nổi tiếng ở trong nước rất nhiều, nhiều em được giữ lại làm giảng viên bậc đại học; các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia cũng thường có tên là học sinh của Hoài Ân.
* Những dấu son lịch sử
Tiếp nối truyền thống yêu nước trong lịch sử, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hoài Ân là vùng đất có nhiều đóng góp to lớn và là nơi đánh dấu nhiều mốc son lịch sử.
Trong kháng chiến chống Pháp, Hoài Ân là nơi đóng cơ quan của Liên khu ủy khu V và Ủy ban Kháng chiến hành chính miền Nam Trung bộ. Đồng thời còn là hậu cứ vững chắc của phong trào địch hậu đông bắc Gia Lai- Kon Tum. Trong kháng chiến chống Mỹ, Hoài Ân là một trong những căn cứ địa vững chắc của Bình Định và là nơi sinh ra Sư đoàn 3 Sao Vàng anh hùng.
Sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại đối với phong trào cách mạng Hoài Ân là sự ra đời của chi bộ Vạn Mỹ (Ân Tín) vào tháng 7-1931. Đây là tổ chức Đảng cộng sản đầu tiên của Hoài Ân làm hạt nhân lãnh đạo nhiều phong trào cách mạng mà kết quả to lớn nhất là lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền vào tháng 8-1945. Đây là tiền đề để quân và dân Hoài Ân viết tiếp nhiều trang sử hào hùng.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Hoài Ân là vùng hậu cứ có nhiều đóng góp to lớn về nhân tài, vật lực chi viện cho các chiến trường Quảng Nam, Quảng Ngãi, Tây Nguyên, Hạ Lào… cùng cả nước đánh bại chủ nghĩa thực dân. Tiếp đến là tinh thần bất khuất, chịu đựng hy sinh, gian khổ, ác liệt trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ. Là địa bàn chiến lược và căn cứ của phong trào cách mạng tỉnh nhà nên ngay sau khi nhảy vào miền Nam, đế quốc Mỹ liên tục tiến hành càn quét đánh phá ác liệt mảnh đất này. Không biết bao nhiêu bom đạn, chất độc hóa học đã đổ xuống địa bàn Hoài Ân. Mặc dù vậy quân và dân Hoài Ân vẫn kiên cường bám trụ và lập nhiều chiến công vang dội trên mảnh đất quê hương. Chiến thắng Ân Nghĩa (1960) là một trong ba chiến thắng đầu tiên của lực lượng vũ trang Bình Định; tiếp đó là thắng lợi giải phóng 9 thôn phía tây sông An Lão (1962). Chiến thắng Phú Hữu, An Lão (1964), bao vây tấn công quận lỵ (1965); bẻ gãy 2 cuộc hành quân "cánh trắng" của sư đoàn kỵ binh bay số 1 của Mỹ và chiến thắng Lộc Giang – Long Giang (Ân Tường Đông), Xuân Sơn – Nhơn Tịnh (Ân Hữu, An Nghĩa –1966)…
Đặc biệt, trong cuộc tiến công chiến lược Xuân – Hè năm 1972, quân và dân Hoài Ân đã phối hợp cùng Sư đoàn 3 Sao Vàng dồn dập tấn công và nổi dậy, bao vây tấn công toàn bộ hệ thống ngụy quân, ngụy quyền đóng trên địa bàn. Trong 10 ngày đêm liên tục chiến đấu đã đánh tan hàng chục cứ điểm, chốt điểm của địch. Mở màn là chiến thắng Gò Loi (9-4) đến 19-4 ta đã san bằng chi khu quận lỵ giải phóng hoàn toàn huyện Hoài Ân. Hoài Ân giải phóng đã tạo căn cứ địa vững chắc cho phong trào cách mạng ở Bình Định, làm bàn đạp giải phóng các vùng lân cận tạo thành vùng chiến lược quan trọng ở đồng bằng trung Trung bộ, nối liền duyên hải với Tây Nguyên. Tiếp đó là 1.000 ngày đêm liên tục vừa sản xuất vừa chiến đấu chống địch phản kích bảo vệ vùng giải phóng, góp phần vô cùng quan trọng cho đại thắng mùa xuân 1975.
* Hoài Ân hôm nay
Hoài Ân hôm nay đã mang trên mình diện mạo của một miền quê trù phú, xanh tươi cùng nhịp sống rộn rã từng ngày để ngày càng khởi sắc hơn. Không còn nữa hình ảnh của một thời gian khó vì chiến tranh và đạn bom khốc liệt. Cảnh đồng ruộng hoang tàn; đồi núi xác xơ ngày nào đã được thay bằng những cánh đồng lúa, bãi dâu trải dài tít tắp, cùng màu xanh của những cánh rừng ngày một nhiều thêm. Những con đường đất đỏ quanh co, nhỏ hẹp đã được thay bằng những con đường rộng rãi, trải nhựa, trải bê tông phẳng lỳ, chắc chắn. Cũng không còn nữa những xóm nhà thưa thớt với những mái tranh bạc xám, thay vào đó là những xóm làng đông đúc, trù mật…
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Nhà nước và sự nỗ lực của chính mình để xây dựng lại quê hương, nhân dân Hoài Ân đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và đáng tự hào trên mọi mặt kinh tế, xã hội. Đặc biệt là trong 10 năm gần đây nền kinh tế của huyện liên tục phát triển với mức tăng trưởng khá, bình quân đạt 9,9%/năm. Trong đó, sản xuất nông – lâm nghiệp tăng trên 9,2%/năm, gấp đôi mức bình quân của tỉnh. Sản xuất nông nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu đã có sự chuyển biến mạnh về chất trong việc lựa chọn cơ cấu sản xuất hợp lý, nhanh chóng xây dựng các mô hình sản xuất hiệu quả cao như kinh tế trang trại, chăn nuôi qui mô tập trung… nên đã nâng cao hiệu quả rõ rệt. Hiện nay bình quân lương thực đầu người đã đạt gần 600 kg/năm. Sản xuất công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp của huyện tuy chưa mạnh nhưng từng bước đã có sự phát triển khá với mức tăng trưởng 7%/năm. Riêng các ngành dịch vụ- thương mại có tốc độ tăng trưởng khá hơn, đạt 22%.
Điểm nổi bật trong sự phát triển của Hoài Ân là hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế- xã hội và dân sinh được tập trung đầu tư khá mạnh mẽ. Về thủy lợi, huyện đã xây dựng được 22 công trình hồ chứa nước và trên 40 trạm bơm điện, hình thành hệ thống mạng lưới công trình thủy lợi rộng khắp chủ động tưới cho gần 90% diện tích canh tác, đưa năng suất lúa lên 10-12tấn/ha/năm. Trong đó đáng kể nhất là công trình hồ chứa nước Vạn Hội có năng lực tưới 1.300ha.
Hệ thống đường giao thông cũng được mở mang mạnh nhờ phương thức "nhà nước và nhân dân cùng làm" được thực hiện có hiệu quả. Ngoài hai tuyến đường tỉnh được trải nhựa, các tuyến khác với hàng trăm cây số đã được kiên cố hóa bằng bê tông xi măng trên hầu hết các tuyến đường huyết mạch của xã, thôn. Với thành tích này huyện Hoài Ân đã được Chính phủ và Bộ GT-VT trao cờ luân lưu xuất sắc. Cùng với hệ thống đường là hệ thống cầu kiên cố cũng được xây dựng. Có thể kể đến các cây cầu trọng điểm như Ngã Hai, Phong Thạnh, Mỹ Thành, Đá Bạc, Mục Kiến… Tất cả đã tạo nên mạng lưới giao thông liên hoàn, khép kín thuận lợi cho việc giao lưu trong huyện và từ huyện đi các nơi khác.
Bên cạnh đó hệ thống mạng lưới điện đến nay cũng đã được xây dựng gần như hoàn chỉnh. Đã có 100% số xã với 75/78 thôn bản và 90% số hộ có điện sử dụng. Các vùng quê xa xôi như Ân Nghĩa, Dak Mang, Bok Tới, Ân Sơn nay cũng đã bừng lên ánh điện. Mạng lưới thông tin viễn thông cũng đã được phủ kín đến các xã, với 9 điểm bưu điện văn hóa, bình quân 100 dân có 1 máy điện thoại. Tại trung tâm huyện và các xã lân cận đã có sóng điện thoại di động…
Nhờ kinh tế- xã hội phát triển nên đến nay đời sống của nhân dân Hoài Ân đã được cải thiện về nhiều mặt. Thu nhập bình quân đầu người đã đạt mức 3,5 triệu đồng/năm, tăng gấp rưỡi so với năm 1990. Tỷ lệ hộ đói nghèo giảm mạnh từ 19,6% năm 1995 xuống còn trên 10% hiện nay. Đặc biệt là đời sống tinh thần được nâng cao đáng kể, nhất là về giáo dục và y tế. Từ năm 1997 Hoài Ân đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học. Đến nay, trên 80% số xã đồng bằng đạt chuẩn quốc gia về phổ cập trung học cơ sở. Bình quân cứ 3 người dân có một người đi học. Số con em được đào tạo đại học, cao đẳng ngày càng nhiều. Mạng lưới y tế ngày càng được mở rộng, đảm bảo khá tốt việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Hiện 50% số xã trong huyện đã có bác sĩ cắm trạm…
Thật khó mà nói hết, kể hết những đổi thay của Hoài Ân hôm nay. Chỉ biết rằng vùng đất này ngày nay không chỉ mang hình ảnh của một miền quê trung du xanh thắm mà còn bắt đầu hình thành những đường nét của nhịp sống công nghiệp hóa- hiện đại hóa mạnh mẽ và sôi động. Để lại đằng sau những đau thương, mất mát người Hoài Ân hôm nay đã phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng trong công cuộc dựng xây quê hương và đã đạt được những thành tựu đáng tự hào. Đó là nền tảng vững chắc để Hoài Ân tiếp tục vươn lên trong hành trình hội nhập với sự phát triển của Bình Định và cả nước./.
NGUYỄN NHÂN THỐNG
Mặt trận phối hợp Bắc Bình Định (1972)
Địa bàn Bắc Bình Định với các huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn và Phù Mỹ có tai trò quan trọng đối với chiến cục ở miền trung năm 1972. Từ đây có hơn 50 km đường quốc lộ 1 đi qua, có đường 19 nối với Kon Tom, Pleiku trên Tây Nguyên, là điểm nối hiểm yếu giữa vùng chiến thuật I của QLVNCH với các vùng chiến thuật khác. QLVNCH đóng tại Bắc Bình Định có sư đoàn bộ binh 22 (thiếu) gồm 2 trung đoàn 40, 41, 3 chi đoàn xe tăng, xe bọc thép hỗn hợp, 42 khẩu pháo, 50 đại đội bảo an và 200 trung đội dân vệ bán võ trang. Lực lượng QĐNDVN tham gia chiến đấu tại đây có Sư đoàn bộ binh 3 Sao Vàng, 2 tiểu đoàn đặc công của khu V và một số đơn vị nhỏ du kích.
Ngày 9 tháng 4, Trung đoàn 21 (sư đoàn 3 Sao Vàng) tấn công cứ điểm Gò Loi. Trung đoàn 21 tiến đánh các cứ điểm Bàu Đá, Bàu Sen, Phú Khương, Gò Thị, Đồng Bịch, chiếm cầu Bến Vách. Liên đoàn bảo an 48 QLVNCH đóng tại đây phải rút về Gò Dê, các lực lượng còn lại co cụm ở ngã Ba Tân Thạnh. Ngày 10 và 11, chỉ huy tiểu khu quân sự Hoài Ân của QLVNCH tung 4 đại đội bảo an thuộc các liên đoàn bảo an 46 và 47 có 11 trực thăng yểm hộ lên giải toả khu vực Gò Loi nhưng không thành công, bị đối phương tiêu diệt một đại đội, mất 7 trực thăng.[16]
Sư đoàn 22 QLVNCH tổ chức chiến đoàn 40 gồm trung đoàn 40 và 2 chi đoàn thiết giáp tiến về giải toả ngã ba Tân Thạnh. Liên đoàn 48 bảo an (QLVNCH) cơ động chiếm lĩnh cứ điểm Hòn Bồ (nơi trước đây, quân của sư đoàn kị binh bay số 1 của Hoa Kỳ đóng giữ). Ngày 11 tháng 4, trung đoàn 12 (sư đoàn 3 Sao Vàng hoạt động độc lập ở hướng An Khê đã cắt đường 19 ở Đông và Tây An Khê, cô lập lữ đoàn Mãnh Hổ của Đại Hàn ở An Khê, đồng thời cắt đứt giao thông giữa Tây nguyên và ven biển qua đường 19.
Ngày 14 tháng 5, 2 tiểu đoàn đặc công QĐNDVN tập kích sở chỉ huy sư đoàn 22 ở Phù Mỹ. Đêm 14, hai tiểu đoàn này tiếp tục tập kích các căn cứ Tam Quan và Đệ Đức (sở chỉ huy trung đoàn 40). Ngày 15 tháng 5, Trung đoàn 2 (sư đoàn 3 Sao Vàng) tấn công Hòn Bồ, cô lập Chiến đoàn 40. Chiều 15 tháng 5, Chiến đoàn nhận được điện quay về Phù Mỹ và điện đài QĐNDVN cũng bắt được bức điện này. Sư đoàn 3 Sao Vàng chia quân vừa tổng công kích Hòn Bồ, vừa phục kích QLVNCH đang trên đường rút lui, Chiến đoàn 40 bị thiệt hại đáng kể, hơn 400 binh sĩ chết, thêm 17 xe thiết giáp bị bắn cháy. [17]
Từ ngày 18 đến ngày 19 tháng 4, Trung đoàn 21 của Sư đoàn 3 tiếp tục đánh chiếm các vị trí Đồi 75, Truông Sỏi, Núi Một, cầu Giáo Ba, Núi Bụt, Du Tự, Thanh Tú. Sư đoàn 22 QLVNCH không còn bàn đạp nào phía Bắc Phù Mỹ để phản kích. Sáng 19 tháng 4, trung đoàn 40 QLVNCH rút khỏi Hoài Ân sau khi phá 5 kho đạn vì không thể đem theo. Sư đoàn 6 không quân QLVNCH đưa 12 máy bay A-37 yểm hộ cho Trung đoàn 40 rút quân nhưng vẫn không ngăn được QĐNDVN truy kích đơn vị này. Trưa 19 tháng 4, QĐNDVN hoàn toàn làm chủ quận lỵ Hoài Ân.
5 giờ sáng ngày 25 tháng 5, Trung đoàn 2 và trung đoàn 21 (sư đoàn 3 Sao Vàng) được tăng cường tiểu đoàn đặc công 40, 2 đại đội đặc công 71 và 72 tấn công gần 20 chốt của QLVNCH từ Nam Bồng Sơn đến Đèo Nhông và vây lấn tiểu khu Bình Dương. Sở chỉ huy Sư đoàn 22 QLVNCH điều trung đoàn 41 và địa phương quân Hoài Nhơn đánh mở vây cho tiểu khu Bình Dương nhưng bị chặn lại ở Bồng Sơn, Trung Lương và Phú Văn. Ngày 27 tháng 4, tiểu khu Bình Dương di tản chiến thuật nhưng không thoát, 480 binh sĩ VNCH bị quân của các tiểu đoàn 2 và 3 (trung đoàn 2) vây và bắt sống tại cánh đồng ấp Vĩnh Bình.[18]
Ngày 29 tháng 4, các đơn vị của sư đoàn 3 Sao Vàng đồng loạt tấn công cứ điểm Tam Quan và quận lỵ Bồng Sơn (huyện Hoài Nhơn). Đến 11 giờ trưa, quận lỵ Bồng Sơn lọt vào tay QĐNDVN. Do bị bao vây và chủ lực QLVNCH đang phải giải quyết mặt trận Kon Tum nên không thể ứng cứu cho Bồng Sơn.
Sáng ngày 1 tháng 5, đến lượt căn cứ Đệ Đức bị vây đánh. 1.200 quân nhân QLVNCH đóng tại đây bị cắt làm 2 cụm, cụm bên trong hon 500 quân, cụm bên ngoài hơn 600 quân. Ngày 2 tháng 5, cụm quân phía ngoài rút lui về Tam Kỳ, Quảng Nam. Cụm quân phía trong căn cứ bị tràn ngập. Căn cứ Đệ Đức và thị trấn Tam Quan lọt vào tay QĐNDVN.
Từ tháng 5 năm 1972 đến thời điểm ký Hiệp định Paris, QĐNDVN tại bắc Bình Định không đủ sức tiếp tục tấn công. QLVNCH cũng không đủ lực lượng để giành lại các địa bàn đã mất. Hai bên giữ thế cầm cự giằng co và còn tiếp tục giao chiến nhiều trận nhỏ đến tháng 3 năm 1975./.
Tiếng Việt
Từ nguyên
Phiên âm từ thành ngữ tiếng Hán 温故知新
Thành ngữ
Ôn cố tri tân
1. (Nghĩa đen) Xem lại cái cũ, biết cái mới.
2. (Nghĩa bóng) Lời khuyên nên nhắc lại cái cũ để hiểu biết hơn cái mới. Ôn lại quá khứ để tiên đoán tương lai.
Ôn: Học lại bài vở. Cố: xưa, cũ, chuyện xưa. Tri: biết. Tân: mới.
Ôn cố tri tân là xem xét lại những điều xưa cũ thì biết được nhiều điều mới.
■ Sách Luận Ngữ có viết rằng: Ôn cố nhi tri tân, khả vi sư hỹ. Nghĩa là: Ôn lại những điều cũ mà biết được điều mới, có thể làm thầy được vậy. Ý nói: Xem xét nghiền ngẫm các việc đời xưa, thì có thể suy đoán biết rõ việc ngày nay, và như thế là có thể làm thầy dạy kẻ khác.
■ Trong sách Trung Dung, Chương thứ 27 có viết rằng:
Nghĩa là:
Cố quân tử tôn đức tính nhi đạo vấn học,
Trí quảng đại nhi tận tinh vi,
Cực cao minh nhi đạo Trung Dung,
Ôn cố nhi tri tân, đôn hậu dĩ sùng lễ.
Thị cố cư thượng bất kiêu, vi hạ bất bội,
Quốc hữu đạo, kỳ ngôn túc dĩ hưng;
Quốc vô đạo, kỳ mặc túc dĩ dung.
Cho nên người quân tử tôn đức tánh mà lo học vấn,
Tìm đến chỗ rộng lớn mà xét hết những cái tinh vi,
Rất cao minh mà vẫn noi theo đạo Trung Dung,
Ôn lại việc đời xưa mà biết việc đời nay, đắp dày nền nhân mà sùng kính lễ.
Vậy cho nên ở địa vị cao thì không kiêu, ở địa vị thấp thì không trái,
Lúc nước trị (có đạo) thì lời nói đủ làm hưng thịnh,
Lúc nước loạn (vô đạo) thì sự yên lặng đủ giữ lấy mình.
TƯ TƯỞNG LÊ QUÝ ĐÔN
Lê Quý Đôn (chữ Hán: 黎貴敦), thuở nhỏ có tên là Danh Phương, sau đổi thành Quý Đôn; tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường.
Ông sinh ngày 5 tháng 7 năm Bính Ngọ, niên hiệu Bảo Thái thứ 7 (02 tháng 8 năm 1726), quê tại làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình và mất ngày 14 tháng Tư năm Giáp Thìn (02 tháng 6 năm 1784) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45.
Lê Quý Đôn là con trai thứ của ông Lê Trọng Thứ. Thân sinh của Lê Quý Đôn đậu tiến sĩ năm Bảo Thái thứ 2 (1721) và làm quan đến chức Hình Bộ Thượng Thư, được phong tước hầu.
Khi còn bé, Lê Quý Đôn đã nổi tiếng là thần đồng. Nhiều sách chép tiểu sử của ông có ghi: năm tuổi đã đọc được nhiều bài Kinh Thi, mười tuổi đã học sử. Năm 13 tuổi (1739), theo cha lên kinh đô học, đến năm 18 tuổi, ông đậu giải nguyên kỳ thi Hương trường thi Sơn Nam. Sau đó, dự thi Hội không đỗ, ông về quê nhà dạy học và viết sách.
Năm 1752, Lê Quý Đôn được 27 tuổi, ông đỗ đầu thi Hội và khi vào thi Đình ông cũng đậu đầu Bảng Nhãn tức Tam Nguyên (Khoá này không lấy Trạng Nguyên). Sau khi thi đỗ, Lê Quý Đôn được bổ nhiệm chức Thụ Thư ở Viện Hàn Lâm. Năm 1754, ông được bổ làm Hàn lâm thừa chỉ rồi sung Toản tu Quốc sử quán.
Năm 1756, ông đi liêm phóng ở trấn Sơn Nam, phát giác được 7 viên quan hối lộ. Vào tháng 5 năm 1756, ông được biệt phái sang Phủ Chúa, coi phiên binh, đến tháng 8 ông đi hiệp đồng với các đạo Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hóa. Lúc về triều ông dâng bài điều trần gồm 19 khoản nói về chức Chưởng phiên binh. Chúa Trịnh Doanh xem khen ngợi và thưởng 50 lạng bạc. Năm 1757, Lê Quý Đôn được thăng chức Thị Giảng Viện Hàn Lâm.
Tháng 6 năm Kỷ Mão niên hiệu Cảnh Hưng thứ 20 (1759) triều vua Lê Hiển Tông, thái thượng hoàng Lê Ý Tông mất. Sang tháng Giêng năm Canh Thìn (1760) triều đình cử một phái đoàn sứ bộ đi báo tang và dâng cống lễ với nhà Thanh. Lê Quý Đôn và Trịnh Xuân Chú được cử làm phó sứ.
Trong dịp này, khi sứ đoàn An Nam đi qua các phủ châu Trung Hoa đều bị họ gọi là Di Quan Di Mục, nghĩa là quan lại mọi rợ. Khi sứ đoàn đến Quế Lâm, Lê Quý Đôn viết thư cho quan tổng trấn Quảng Châu để phản đối sự kiện nầy. Với uy tín và học vấn của Lê Quý Đôn, triều đình Trung Hoa đành phải chấp nhận bỏ những danh từ miệt thị khinh khi này và gọi sứ đoàn là An Nam Cống sứ.
Năm 1762, Lê Quý Đôn về triều được thăng chức Hàn Lâm Viện Thừa Chỉ. Ông lập Bí Thư Các và dâng sớ xin thiết lập pháp chế để trị dân nhưng không được triều đình chấp thuận và bổ ông làm Tham chính Hải Dương.
Năm 1765, ông từ quan xin cáo hưu về sống nơi quê nhà, viết sách.
Năm 1767, Trịnh Doanh qua đời, Trịnh Sâm nối ngôi Chúa, Lê Quý Đôn được phục chức Thi Thư và tham gia biên soạn Quốc sử kiêm chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám.
Năm 1770, ông được thăng chức Công Bộ Hữu Thị Lang. Mùa xuân năm 1776, ông được bổ làm Hiệp Trấn, Tham Tán Quân Cơ ở xứ Đàng Trong.
Năm 1778, ông được bổ nhiệm chức Hành Tham Tụng nhưng cố từ và xin được đổi sang võ ban. Ông được trao chức Hữu Hiệu Điểm, quyền Phủ Sự, phong tước Nghĩa Phái Hầu.
Năm 1781, ông được sung chức Quốc sử Tổng tài.
Năm 1783, ông đi hiệp trấn Nghệ An, không lâu sau thì mất.
Nhận xét về thân thế và sự nghiệp văn chương của Lê Quý Đôn, nhà sử học Phan Huy Chú viết:
"Ông có tư chất khác đời, thông minh hơn người" và "Ông là người học vấn rộng khắp, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ trong sáng. Lời văn hồn nhiên..., không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia".
(Theo Wikipedia)
Nhà văn hóa, nhà giáo dục lớn Lê Quý Đôn đã để lại cho chúng ta một câu bất hủ:
“Trẻ không kính già,
Trò không trọng thầy,
Quan kiêu, tướng thoái,
Tham nhũng tràn lan,
Sĩ, phu ngoảnh mặt,
Xã tắc lâm nguy”.
Ngẫm lại, giật mình thấy đúng thay!
***
Lòng người
Ở đâu đó, thi thoảng ta nghe được các bà, các mẹ hát câu có âm Hán như sau:
“Hoạ hổ hoạ bì nan hoạ cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm”.
Dịch nghĩa: Vẽ cọp vẽ được da bên ngoài khó vẽ xương bên trong, biết người biết được mặt không thể biết được lòng.
Có câu khác như: Dò sông dò suối dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người.
Nhiều và rất nhiều câu nói mà ông cha ta từ ngàn đời đã đúc kết để nói về lòng người không thể biết.
Ở đây xin nói rõ là không thể biết.
Các bạn tự liên hệ lại trong đời sống của mình xem sao nhé.
Miễn bình luận.
***
Ngụ ngôn Ấn Độ
Ngày xưa, có một họa sĩ tên là Ranga, một người siêu việt, vẽ được rất nhiều kiệt tác đáng ghi nhớ khiến ai cũng đều khen ngợi.
Ông mở một lớp học mỹ thuật để dạy nghề cho mọi người và cũng để tìm đệ tử nối nghiệp.
Ông không mấy khi khen ngợi ai, cũng không bao giờ đề cập đến thời gian của khóa học.
Ông nói, một học trò chỉ có thể thành công khi ông hài lòng với kỹ năng và hiểu biết của người đó.
Ông truyền cho học trò những phương pháp đánh giá, ước định của ông, và chúng cũng độc đáo như những tác phẩm của ông vậy.
Ông không bao giờ thổi phồng tầm quan trọng của những bức tranh hay sự nổi tiếng, mà ông luôn nhấn mạnh đến cách xử sự, thái độ với cuộc sống của học trò.
Trong một số lượng lớn học trò, Rajeev là một người có tài nhất, chăm chỉ, sáng tạo, nên anh ta tiếp thu nhanh hơn nhiều so với các bạn đồng môn. Ông Ranga rất hài lòng về Rajeev.
Một ngày kia, sau bao nhiêu cố gắng, Rajeev được ông Ranga gọi đến và bảo:
- Ta rất tự hào về những tiến bộ mà con đã đạt được. Bây giờ là thời điểm con làm bài thi cuối cùng trước khi ta công nhận con thực sự là một họa sĩ tài năng. Ta muốn con vẽ một bức tranh mà ai cũng phải thấy đẹp, phải khen ngợi.
Rajeev làm việc ngày đêm, trong rất nhiều ngày và đem đến trình thầy Ranga một bức tranh tuyệt diệu. Thầy Ranga xem qua rồi bảo:
- Con hãy đem bức tranh này ra đặt ở quảng trường chính, để tất cả mọi người có thể chiêm ngưỡng. Hãy viết bên dưới bức tranh là tác giả sẽ rất biết ơn nếu bất kỳ ai có thể chỉ ra bất kỳ sơ sót nào trên bức tranh và đánh một dấu X vào chỗ lỗi đó.
Rajeev làm theo lời thầy: đặt bức tranh ở quảng trường lớn với một thông điệp đề nghị mọi người chỉ ra những sơ sót.
Sau hai ngày, Ranga đề nghị Rajeev lấy bức tranh về.
Rajeev rất thất vọng khi bức tranh của mình đầy dấu X. Nhưng Ranga tỏ ra bình tĩnh và khuyên Rajeev đừng thất vọng, cố gắng lần nữa.
Rajeev vẽ một kiệt tác khác, nhưng thầy Ranga bảo phải thay đổi thông điệp dưới bức tranh. Thầy Ranga nói phải để màu vẽ và bút ngay cạnh bức tranh ở quảng trường và đề nghị mọi người tìm những chỗ sai trong bức tranh và sửa chúng lại bằng những dụng cụ để vẽ ấy.
Hai ngày sau, khi lấy tranh về, Rajeev rất vui mừng khi thấy bức tranh không bị sửa gì hết và tự tin đem đến chỗ Ranga. Ranga nói:
- Con đã thành công vào ngày hôm nay. Bởi vì nếu chỉ thành thạo về mỹ thuật thôi thì chưa đủ, mà con còn phải biết rằng con người bao giờ cũng đánh giá bừa bãi ngay khi có cơ hội đầu tiên, cho dù họ chẳng biết gì về điều đó cả. Nếu con luôn để cả thế giới đánh giá mình, con sẽ luôn thất vọng. Con người thích đánh giá người khác mà không nghĩ đến trách nhiệm hay nghiêm túc gì cả. Mọi người đánh những dấu X lên bức tranh đầu tiên của con vì họ không có trách nhiệm gì mà lại cho đó là việc không cần động não. Nhưng khi con đề nghị họ sửa những sơ sót thì không ai làm nữa, vì họ sợ bộc lộ hiểu biết - những thứ mà họ có thể không có. Nên họ quyết định tránh đi là hơn.
Cho nên, những thứ mà con phải vất vả để làm ra được, đừng dễ dàng bị ảnh hưởng bởi đánh giá của người khác. Hãy tự đánh giá mình. Và tất nhiên, cũng đừng bao giờ đánh giá người khác quá dễ dàng.
Dĩ hoà vi quý – nên chăng?
Một người Việt Nam lớn lên vẫn không quên với rất nhiều lời răn dạy về cách sống, cách cư xử ở đời...
Thôi thì chịu chín bỏ làm mười, một sự nhịn chín sự lành, thôi thì đóng cửa bảo nhau, thôi thì dĩ hoà vi quý...
Tất thảy đều mang một tấm lòng khoan nhượng.
Nhưng những tính tốt ấy có phải lúc nào cũng là một cách sống tích cực?
Nếu nhìn vấn đề ở góc độ lịch sử, những cái đang trở thành nhược điểm của người Việt Nam hiện nay chủ yếu được hình thành trong thế kỷ 20.
Một thế kỷ đầy biến động, chúng ta kế thừa một thứ chủ nghĩa phong kiến để chống chủ nghĩa thực dân và đế quốc, và quy luật chiến tranh đè bẹp, lấn át mọi quy luật kinh tế xã hội. Ở miền Bắc hình thành cơ chế bao cấp. Nhưng bao cấp, nhất là bao cấp kéo dài sau năm 1975 lại làm nảy sinh hai đứa con tệ hại là thói đạo đức giả và thói vô trách nhiệm.
Báo “Ong đất” của Bungari nhìn lại thời kỳ này của chính họ, đã tổng kết nên 6 nghịch lý mà ta có thể tham khảo:
- Ai cũng có việc làm nhưng không ai làm việc.
- Ai cũng không làm việc nhưng ai cũng có lương.
- Ai cũng có lương nhưng không ai đủ sống.
- Ai cũng không đủ sống nhưng ai cũng sống.
- Ai cũng sống nhưng không ai hài lòng.
- Ai cũng không hài lòng nhưng ai cũng giơ tay "đồng ý".
Bây giờ cơ chế thị trường lại sinh ra hai đứa con là nóng ruột kiếm tiền và cắm đầu hưởng thụ.
Mọi nhược điểm chỉ phát huy tác dụng trong môi trường của bốn thói xấu này.
Một câu nhịn, tốt quá. Nhưng nếu tôi vô trách nhiệm, đó là sự biện hộ cho thói vô trách nhiệm của tôi.
Nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh./.
THUẬT XỬ THẾ CỦA NGƯỜI XƯA
Một hôm Trang Tử dẫn học trò đi ngao du, nhân lúc ghé vào nhà một người bạn để thăm. Chủ nhà tay bắt mặt mừng, nói:
- Tiếng tăm tiên sinh vang dội như sấm bưng tai. Hôm nay tiên sinh ghé thăm bỉ phu thật là vạn hạnh.
Nói rồi quay lại gọi một gia đinh, bảo:
- Hôm nay ta gặp khách quý, để mở đầu câu chuyện ngươi hãy thịt một con chim cho ta đãi khách!
Đứa ở hỏi:
- Vâng ạ! Nhưng thưa chủ nhân, có hai con chim, một con hót hay, một con không biết hót, thịt con nào?
Chủ nhân chép miệng:
- Dĩ nhiên phải thịt con chim không biết hót, thứ vô dụng đó để làm gì?
Trang Tử cùng chủ nhân ngồi nhâm nhi ly rượu với thịt chim, luận việc thế thái nhân tình, đoạn từ giã chủ nhà, dẫn học trò ra đi. Họ đến bìa rừng, thấy một tiều phu chống búa nhìn cảnh rừng núi bao la. Trước mắt lão là một cây cổ thụ. Trang Tử thấy vậy hỏi:
- Trời chiều mà chưa thấy tiều ông đẵn được cây nào. Gặp cây này cao thẳng sao ông không hạ đi?
Lão tiều thở dài nói:
- Tôi cũng muốn hạ nó, nhưng ngặt gỗ nó xốp lắm, thứ vô dụng đó đẵn mà làm gì?!
Một học trò nghe vậy, hỏi thầy:
- Cây vô dụng thì bỏ qua, con chim vô dụng thì giết. Con thật không hiểu nổi thói đời?
Trang Tử mỉm cười nói:
- Ta ở vào khoảng hữu dụng và vô dụng đó. Chỉ có bậc đạo đức mới tránh khỏi tai họa mà thôi.
LỜI BÀN:
Đây là một bài học ngụ ngôn nhằm khuyên răn người đời.
Câu kết luận của Trang Tử nói nghe như lạc đề. Vì chim và cây không phải là người. Hữu dụng và vô dụng là hai mặt đơn giản của cuộc đời...
Nhưng ta để ý, làm thế nào để ẩn mình vào giữa lằn mắt vô hình hữu dụng và vô dụng đó? Trang Tử nói: "Chỉ có bậc đạo đức!" Người vô dụng không phải không làm được việc gì?
Ít ra họ cũng biết hô hoán (Nếu cho họ canh cửa), cũng biết dọn dẹp giặt giũ (nếu dùng họ trong việc sai vặt). Người vô dụng có thể bị người khôn khéo bóc lột công sức cho đến khi hơi thở cạn kiệt. Còn người hữu dụng thì sao? Người thấy việc gì cũng làm được, thành ra việc gì cũng ôm lấy, cáng đáng, vong động, vong tưởng, cuối cùng cũng làm con rối cho bọn quyền thế cường hào. Tựu trung, hữu dụng hoặc vô dụng cũng đều bị dùng. Người đạo đức, theo người xưa là người hiền trí. Trí để không ai lợi dụng mình. Hiền để không ai ghét mình. Chỉ có bậc hiền trí mới tránh được cạm bẫy của người khác. Có thể chứng minh một câu chuyện tương tự:
Nước Tề có loạn lạc. Đôi bạn Bảo Thúc Nha và Quản Di Ngô (tức Quản Trọng) phò hai vị công tử chạy ra nước ngoài. Bảo Thúc Nha đem công tử Tiểu Bạch sang nước Củ, và nói: "Chỉ có mấy nước nhỏ mới không thất tín". Quản Di Ngô đưa công tử Củ chạy sang nước Lỗ, và nói: "Lỗ là cường quốc của thời này. Vả lại Lỗ là quê ngoại của công tử". Vua Tề bị giết. Nhờ nước Củ ở gần Tề nên Bảo Thúc Nha đem công tử Tiểu Bạch về kịp đã lên ngôi. Công tử Củ ở nước Lỗ rất xa không về kịp. Bảo Thúc Nha nói với công tử Tiểu Bạch (bấy giờ đã lên ngôi lấy hiệu là Tề Hoàn Công):
"Trước đây Quản Di Ngô muốn giết chúa công là bởi "ai vì chúa nấy". Lúc ấy Di Ngô đang phò công tử Củ. Xin chúa công đừng giận ông ta. Di Ngô là bậc đệ nhất kỳ tài. Chúa công muốn dựng nghiệp bá, không có ông đó, không xong. Nay tôi đem binh đóng biên giới làm áp lực, buộc vua Lỗ phải "xử trí" lấy Củ, và buộc vua Lỗ giao Di Ngô cho chúa công". Bên kia Di Ngô và vua Lỗ tranh không kịp với Tiểu Bạch, lòng còn đang tức. Bỗng nghe quân Tề kéo đến. Mưu sĩ nước Lỗ là Thi Bá, hiến kế: "Để tránh binh đao với Tề, chúa công nên giết Củ đi, vì Củ là tên vô dụng! Nhưng chúa công phải tìm mọi cách trọng dụng Quản Di Ngô, vì tài của ông ta "kinh thiên vĩ địa". Vua Lỗ nói: "Di Ngô một lòng với chủ. Nay ta giết Củ là chủ hắn, thì hắn không bao giờ chịu giúp ta đâu. Vả lại, Tiểu Bạch một mực đòi Di Ngô về Tề, để tự tay mình trả thù". Thi Bá nói: "Đó là mẹo của Thúc Nha đòi Di Ngô về Tề để dùng. Chúa công không dùng thì giết chứ đừng trả Di ngô". Vua Lỗ không nghe. Di Ngô về Tề giúp cho Tề Hoàn Công, đưa nước Tề lên địa vị bá chủ. Vua Lỗ ân hận mãi.
Chuyện này có phần hơi khác chuyện Trang Tử trên đây. Ở đây kẻ vô dụng bị giết đã đành, nhưng người tài giỏi vẫn bị người ta đòi giết. Cũng may, Di Ngô và Thúc Nha là những người kỷ mưu tuyệt trí nên không bị những kẻ tầm thường hạ sát. Nhưng cái ý nghĩa của nó vẫn giống nhau, chỉ có bậc đạo đức, hiền trí mới giữ được mình./.
<><><>
ÔNG GIÀ HỌ MÃ MUA... NGỰA HAY LÀ MIỆNG THẾ GIAN
Nhà họ Mã ngày trước chuyên nghề nuôi dạy ngựa và bán ngựa. Có một dạo gia đình ông suy sụp vì con ông bị bệnh nặng, đã vét hết tiền trong nhà mà con ông vẫn không khỏi. Ông bán hết số ngựa nuôi để thang thuốc cho con. Con ông sống được. Từ đó ông bắt đầu dành dụm, tằn tiện được một số tiền. Ngày nọ Mã ông nghe ở Hương Lâm có bán một giống ngựa quý, ông đến nơi đó xem tướng ngựa thật kỹ, biết đó là giống ngựa hay, thuộc loại Hoàng Tuyết Phiêu, mặc dù nó có phần hơi gầy. Mã ông thích quá, nên chịu mua với giá đắt. Ông về nhà bàn lại với con:
Phụ thân xem biết nó rất quý, dù hơi gầy, thuộc giống Hoàng Tuyết Phiêu của người Khương. Nhà ta gây được giống này sẽ làm giàu không mấy hồi. Ngặt vì xa ngót ngày đường, qua đèo truông e có cướp, nên cha con ta cùng đi. Hai cha con họ Mã thử ngựa và ngã giá xong, tra yên cương, cha con đồng lên ngựa ra về, lòng thấy hoan hỉ.
Họ đi qua một xóm nhà, Mã ông khiêm tốn cho ngựa đi nước kiệu, dân làng đón ông lại nói:
- Mã lão! Ông là người nuôi ngựa, sao không biết thương ngựa? Con ngựa gầy thế kia, còn cha con ông cọp ăn bảy ngày không hết, nỡ nào cả hai lại đè trên mình nó?
Ông Mã nói với con mình:
- Họ nói phải đấy con ạ! Vậy cha nhường cho con cưỡi. Cha cầm cương cho. Thế là một mình Mã công tử ngồi ngựa, ông Mã đi bộ theo. Họ yên tâm đi đến xóm nhà khác, bây giờ trời đã khá trưa, những người ngồi mát trên đường thấy cảnh cha con họ Mã như vậy, họ kéo ra đón đầu ngựa, xỉ vả người con:
- Ai dạy công tử về cách hiếu đạo như thế? Con thì ngồi ngựa kênh kiệu, để cha chạy bộ theo đổ mồ hôi! Qua cánh đồng kia có học hiệu Khổng Môn, chắc họ đánh công tử trào máu ra mất! Mã công tử lật đật nhảy xuống ngựa, chắp tay thưa với cha:
- Họ nói phải đấy cha ạ! Nãy giờ con cũng khỏe rồi, cha hãy cưỡi nó cho đỡ mệt. Người cha lên ngựa đi, ngang qua "Khổng Môn học hiệu", một số học trò ở đó biết mặt ông già, chúng chạy lại đón ông nói:
- Mã lão bá! Lão bá lâu nay mạnh giỏi chứ? Nghe nói lệnh
lang lâu nay bệnh thập tử nhất sinh, nay mới vừa hơi bình phục lão bá để lệnh lang nhọc nhoài cho đành. Mã lão nhảy xuống ngựa nhìn con rồi thì thầm:
- Kể ra họ nói cũng phải. Kể không còn bao xa, ta dắt ngựa đi vậy. Hai cha con xuống ngựa dắt bộ, hồi lâu đến xóm khác, có ai đó nhìn ngựa rồi chửi:
- Đúng là cha con một lão vô học. Đây là giống Hoàng Tuyết Phiêu, một loại thiên lý mã, mua về để cưỡi hoặc làm giống, nào phải mua về để thờ, sao có ngựa lại không cưỡi? Cha con họ Mã thiếu điều muốn khóc. Lão nói với con:
- Cưỡi ngựa cũng bị chửi, mà không cưỡi cũng bị chửi! Ta chịu hết nổi! Thôi thả quách cho xong! Hai người dắt đi một đoạn cho khuất mắt mọi người, rồi tháo cương, cởi yên, đánh một roi, ngựa dong tuốt vào rừng mất dạng. Về đến nhà, bà cụ nghe đón đầu ngõ. Ông cụ thuật lại mọi chuyện. Bà cụ nghe qua đấm vào đầu bình bịch, vừa khóc vừa nói:
- Ngu sao là ngu! Có bao nhiêu vét đi mua ngựa, rồi thả ngựa đi! Xưa nay miệng lưỡi thế gian. Việc mình mình cứ làm, chiều ý, nghe lời họ làm gì? Rồi đây lấy gì mà sinh sống, lấy gì mà cưới vợ cho con? Ngu ơi la ngu!...
LỜI BÀN:
Quả là, không "ở sao cho vừa lòng người"! Ông già họ Mã hiền hậu đến mức thiếu tự tin. Những người ngoài nhìn vào làm sao hiểu được tình trạng của họ Mã và con ngựa kia như thế nào?
Ý kiến nào họ nói cũng phải, nhưng trước nhất họ Mã phải biết đánh giá được cái việc của mình. Tục ngữ có câu: "Chín người mười ý", thì ý thứ mười là ý mình vậy. Mua ngựa là quyết tâm, mà giữ được "quyết tâm" (chỉ con ngựa) là thiếu quyết định. Thiếu một trong hai cái đều hỏng./.
***
Trong một câu chuyện của Mạnh Tử: Có một người bán mâu và thuẫn quảng cáo về mâu và thuẫn của mình như sau:
- Mâu này bất cứ thứ gì cũng đâm thủng đươc.
- Thuẫn này không có thứ gì đâm thủng được.
Lời quảng cáo như trên của người bán "mâu thuẫn" với nhau và hai mệnh đề mâu thuẫn với nhau không thể cùng đúng một lượt. Phải có một mệnh đề (quảng cáo) sai. Vì vậy dẫn đến câu nói mà chúng ta thường nghe: "Chân lý chỉ có một" dựa trên "nguyên lý bất mâu thuẫn" này.
Trong lịch sử toán học, chúng ta nhận thấy có ba tiền đề mâu thuẫn làm nền tảng cho ba nền hình học khác nhau (Euclide, Riemann và Lobatchevsky):
- Hình học Euclide dựa trên tiền đề: Từ một điểm ở ngoài một đường thẳng, ta chỉ có thể kẻ được một đường thẳng duy nhất song song với đường thẳng đã cho.
- Hình học Riemann dựa trên tiền đề: Từ một điểm ở ngoài một đường thẳng, ta không thể kẻ được một đường thẳng nào song song với đường thẳng đã cho.
- Hình học Lobatchevsky dựa trên tiền đề: Từ một điểm ở ngoài một đường thẳng, ta có thể kẻ được vô số những đường thẳng khác nhau song song với đường thẳng đã cho.
Nếu theo nguyên lý bất mâu thuẫn thì chắc chắn chỉ có một nền hình học là đúng. Nhưng trong thực tế thì cả ba nền hình học này đều được ứng dụng rất đúng trong ba mặt khác nhau của không gian. Hình học Euclide ứng dụng trong thế giới thường ngày của chúng ta (hình học phẳng) . Hình học Riemann ứng dụng trong việc nghiên cứu thế giới của các nguyên tử và phân tử (ngành vi vật lý). Hình học Lobatchevsky ứng dụng trong việc nghiên cứu thế giới của các thiên thể vũ trụ (hình học không gian). Điều này cho thấy một thực tại như không gian có thể có nhiều mặt (thực tại đa diện) và nếu chúng ta giữ quan niệm không gian chỉ có một mặt duy nhất (thực tại đơn diện) thì chúng ta không thể giải thích được tại sao cả ba tiền đề mâu thuẫn với nhau, như ở trên, đều đúng.
Trước thực tế đó, triết học bắt buộc phải đặt lại vấn đề về nguyên lý bất mâu thuẫn của nhận thức luận cũ. Vì căn cứ theo thực tế thì mọi sự vật đều có nhiều mặt, tối thiểu là với ba chiều (dài, rộng, cao), và người ta có thể nhìn một sự vật từ sáu mặt khác nhau (trước, sau, trên, dưới, phải, trái) và sáu cách nhìn sẽ dẫn đến những nhận thức khác nhau, thậm chí có thể mâu thuẫn nhau. Giả sử, nếu có người nào đó đặt vấn đề là trong sáu cách nhìn một sự vật, cách nhìn nào đúng? Đây là một câu hỏi khôi hài và càng vô lý hơn nữa khi có ai xác quyết là trong sáu cách nhìn ấy chỉ có một cách nhìn là đúng. Và như vậy là năm cách nhìn còn lại , theo câu nói "chân lý chỉ có một" đều phải sai hết. Mặc dù rất rõ ràng đây là một chuyện khôi hài và vô lý. Tuy nhiên nó cũng có thể xảy ra một cách dễ dàng nếu người ta chấp nhận nguyên lý bất mâu thuẫn là đúng và quan niệm thực tại chỉ có một mặt (thực tại đơn diện).
Câu chuyện "Những người mù sờ voi" là một thí dụ diễn tả rõ ràng cái nhận thức phiến diện của con người. Những người mù sờ voi cãi nhau vì ai cũng quả quyết là mình đúng. Và nếu mình đúng thì mọi người khác phải sai và làm sao mình chấp nhận được? Nhân loại thảm sát nhau trong những cuộc chiến tranh không những để tranh dành quyền lợi mà còn để bảo vệ chân lý. Bảo vệ cái chân lý chính bản thân mình đã chứng nghiệm, đã xác tín và tin tưởng đó là chân lý duy nhất. Ngờ đâu đó chỉ là "chân lý của mình" mà không biết rằng người khác cũng có "chân lý của họ". Các tôn giáo, các ý thức hệ, các khuynh hướng và đảng phái chính trị ... phe nhóm nào cũng khăng khăng xác quyết là chỉ có lập trường của phe mình là đúng. Ai cũng sẵn sàng đổ máu của mình cũng như của phe đối lập để bảo vệ "chân lý của mình". Ai cũng coi bảo vệ chân lý là một lý tưởng cao đẹp!
Đa số chúng ta đều cho mình biết được thực tại (reality), cái gì tôi thấy, biết, nghe, hiểu đều là sự thật (truth). Vì thế nên mới có “ngã kiến” (tức là cái thấy của tôi) và “kiến thủ” (khư khư cho cái thấy của tôi là đúng). Nhưng thực ra chúng ta chỉ nắm bắt được những mảnh vụn của thực tại xuyên qua nhiều cái lọc (filter) hay lăng kính (mirror).
Đứng trước thực tại, chúng ta thâu nhận nó qua những giác quan của mình như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nếu các giác quan của ta không được chính xác như mắt cận hay viễn thị, tai điếc, mũi nghẹt, lưỡi khô, thân bệnh, ý đang tán loạn, vui buồn v.v... thì thực tại sẽ bị méo mó đi một phần. Tri giác là một cái lọc hay lăng kính thứ nhất. Và thực tại ban đầu trở thành thực tại số 1 qua tri giác. Kế tiếp thực tại đó được nhìn ngắm qua lăng kính gia tài văn hóa, xã hội mà ta đã sinh ra và lớn lên. Tùy theo ta là người Việt, người Hoa, người Pháp, người Anh ... ta sẽ nhìn thấy sự việc một cách khác nhau. Và qua cái lọc văn hóa xã hội thực tại số 1 đã biến thể thành thực tại số 2. Tiếp theo đó, cũng cùng là người Việt, nhưng mỗi người có những kinh nghiệm riêng tư không giống nhau. Và như vậy, qua cái lọc của kinh nghiệm bản thân ta, thực tại số 2 đã biến thành thực tại số 3. Cuối cùng, khi cái Ý của ta nhận thức thực tại thì nó chỉ có thể thấy thực tại số 3 chứ không thể thấy cái thực tại ban đầu nữa. Sau khi nhận thức thực tại số 3, ý thức của ta "đóng khung" thực tại số 3 qua hình ảnh, ngôn ngữ, khái niệm ... thành thực tại số 4 và ta cho đó là thực tại "thứ thiệt". Cái thực tại sau cùng mà Ý nhận thức được chỉ còn là một bóng dáng, một thực tại méo mó với những mảnh vụn rơi rớt vì đã trải qua nhiều cái lọc. Thực tại (chân lý) chỉ còn là cái bóng. Tuy vậy, đa số chúng ta lại "Tưởng" là mình nắm bắt được thực tại, tự cho là mình biết đúng, thấy đúng sự thật. Và vì vậy, chúng ta muốn người khác phải tin và nghe theo ý kiến của chúng ta.
Trên phương diện tương đối trong đời sống hàng ngày, chúng ta không thể không có "Tưởng", không Tưởng cái này thì cũng Tưởng cái kia. Tưởng rồi Tin vào cái Tưởng của mình gọi là tin tưởng (belief). Những cái Tưởng đúng hoặc gần với thực tại, với chân lý thì được gọi là chánh kiến, hay minh triết... vì nó đem lại an vui hạnh phúc, còn những cái Tưởng méo mó sai lầm không đúng thực tại, tin vào đó sẽ đưa đến buồn phiền khổ đau thì gọi là vọng tưởng (false belief). Ngay cả những cái ta cho là sự thật hay chân lý rồi và khư khư bám chặt vào đó thì nó cũng trở thành một loại vọng tưởng. Về phương diện tuyệt đối, có thể nói con người không có khả năng nhận thức thực tại (chân lý) mà chỉ là nhận thức cái bóng của thực tại (chân lý). Vì thực tại biến đổi theo từng "sát-na".
(Theo Phật giáo, danh từ sát na được dùng để chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi. Một ngày 24 giờ được tính bằng sáu ngàn bốn trăm tỷ, chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát na.)
Và chúng ta thường lầm lẫn giữa ý tưởng và thực tại, cũng như giữa danh từ và sự vật. Thí dụ khi chúng ta nhìn ngắm một bức ảnh chụp một vật gì đó, như một trái táo chẳng hạn. Hãy để ý, hình ảnh (chụp) trái táo không phải là trái táo, danh từ trái táo không phải là trái táo và ý tưởng về trái táo cũng không phải là trái táo, trái táo như là một thực tại đã biến đổi. Một thí dụ khác như khi ta xem bản đồ của một thành phố, như New York chẳng hạn. Bản đồ NewYork không phải là thành phố New York dù cho đây là bản đồ mới nhất và được chụp với máy ảnh tối tân nhất thì cũng chỉ là bức ảnh của thành phố New York chụp vào một thời điểm cố định trong quá khứ. New York hiện tại đã khác với hình ảnh New York đã chụp. Những danh từ, ý tưởng và bản đồ giúp cho chúng ta có một khái niệm về thực tại và sự vật, nhưng khi có trong tay thì chúng ta lại xem chúng (danh từ, ý tưởng, bản đồ) như là thực tại và quên đi thực tại. Thực tại luôn luôn biến đổi theo từng sát na trong khi danh từ, ý tưởng và bản đồ thì cứng ngắc không thay đổi.
Tóm lại, tri thức của chúng ta về một sự vật nào đó thì không phải là sự vật chính nó. Cái mà chúng ta biết được về thế giới thực tại chung quanh ta chỉ là những phóng ảnh từ tâm thức, hay nói khác hơn chỉ là thế giới biểu tượng của thực tại, chứ không phải là thực tại nguyên bản. Bởi vì, tính chất của nhận thức là phân biệt thế giới thực tại qua khái niệm; mà giữa khái niệm và thực tại thì hoàn toàn khác nhau. Do đó, bất luận một sự vật nào, hễ còn được xây dựng trên khái niệm thì đều là huyễn ảo - nghĩa là chúng luôn luôn Vô Thường.
(Vô thường là luật tuần hoàn của vũ trụ. Nơi nào có sự vận hành, chuyển biến, đổi dời, nơi đó có Vô Thường. Vô Thường không phải chỉ là giáo lý riêng của Phật giáo, mà vào thế kỷ thứ 6 trước Tây Lịch, một triết gia Hy-Lạp Herakleitos cũng đã nói: "Tất cả (sự vật) đều ở trong trạng thái biến đổi" (All is in a state of flux).
Từ xưa đến nay, biết bao nhiêu triết gia, biết bao nhiêu lý thuyết chủ trương không giống nhau, và chúng ta vẫn chưa biết được đâu là chân lý. Cái mà hôm qua người ta gọi là chân lý, hôm nay đã không còn là chân lý. Cái mà hôm nay mọi người cho là chân lý, ngày mai lại có thể là sai lạc. Lý trí con người khổ sở vô cùng trong khi đi tìm chân lý, và cho đến bây giờ con người vẫn nghi ngờ không biết rằng lý trí mình có thể có khả năng đạt đến chân lý hay không? Sự nghi ngờ đó cho thấy sự yếu kém của tri thức nhân loại. Và như vậy cái gọi là chân lý mà con người nhận thức được bằng tri thức giới hạn của mình không phải là chân lý đúng và toàn thể (chân lý tuyệt đối “?”) mà chỉ là những nhận thức có tính chất chủ quan và phiến diện. Vì vậy, có thể nói, tất cả những học thuyết triết học muốn giải nghĩa, giải thích ... toàn thể vũ trụ này cũng chẳng khác nào những lời mô tả con voi của những người mù sờ voi mà thôi???
Đi tìm chân lý ở đâu?
Câu hỏi quá khó đau đầu thế nhân.
Lý Lạc Long ( TTL/TCT/MAI/ 29/5/06)
Mời quý vị và các bạn đọc những bài viết của diễn giả Quách Tuấn Khanh về Giáo dục theo Link bên dưới
http://quachtuankhanh.net/Articles.aspx?CategoryId=12&CategoryName=Khanh bàn về Giáo Dục