Trước đây, Ban chỉ đạo Cải cách được đặt ở Bộ Công thương, nhưng sau đã chuyển về Văn phòng Nội các và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng. Ban này đã đưa ra quy định là các bộ, ngành phải xây dựng kế hoạch hàng năm với các mục tiêu cụ thể trên cơ sở kế hoạch cải cách tổng thể của Ban quy định và gắn kế hoạch này với dự toán ngân sách của mỗi cơ quan. Chính phủ duy trì một bộ phận chuyên trách chịu trách nhiệm cải cách thể chế tại trung ương và trong phạm vi từng bộ, ngành. Chính phủ Anh cũng như Chính phủ hàng loạt quốc gia EU đã đưa ra mục tiêu cắt giảm gánh nặng hành chính cụ thể và tiến hành tham vấn các doanh nghiệp nhằm đảm bảo các nỗ lực cải cách thực sự sẽ phục vụ cho doanh nghiệp.
Sau khi tìm hiểu về CCHC tại Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc, Cu Ba, Malaysia, Ai Cập, Anh, chúng tôi có thể nhận xét sơ bộ như sau:
i) Mặc dù mức phát triển và tình hình kinh tế - xã hội của các nước khác nhau, nhưng CCHC luôn là mối quan tâm lớn của giới lãnh đạo các nước này. Luôn được sự chỉ đạo tập trung, sát sao của những người đứng đầu BMNN như Tổng thống, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ thông qua việc hình thành một số cơ quan chuyên trách đủ mạnh và có thẩm quyền đặc biệt quyết định. Mục tiêu của cải cách là để thích ứng và xử lý các vấn đề mới nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế, khắc phục các bất cập của bộ máy, xoá bỏ quan liêu, tham nhũng.
ii) Cải cách thể chế phải gắn với mục tiêu về chính trị và kinh tế, có sự tham vấn chặt chẽ với khối doanh nghiệp và người dân, vì vậy luôn tạo được sự đồng tình, ủng hộ cao trong xã hội đối với mục tiêu và phương hướng CCHC.
iii) Các lĩnh vực cải cách được ưu tiên là cải cách thể chế (bao gồm cả TTHC); điều chỉnh chức năng và cơ cấu tổ chức BMHC; nâng cao chất lượng dịch vụ công. Mọi nỗ lực cải cách đều hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế, tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp; giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp và cấm đoán, thay bằng sự khuyến khích và hỗ trợ.
iv) Phân quyền cho địa phương và mở rộng sự tham gia của người dân vào việc cung cấp dịch vụ công thông qua việc đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công.
v) Chú trọng đẩy mạnh đào tạo nâng cao trình độ năng lực, chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ, công chức.
vi) Tập trung đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở kỹ thuật hạ tầng phục vụ nền hành chính. Đây được coi là giải pháp quan trọng hàng đầu để nâng cao hiệu quả, hiệu lực của BMHC nhà nước. Áp dụng các tiến bộ công nghệ thông tin để đổi mới phương thức hoạt động của BMHC, nâng cao hiệu quả công tác điều hành, chỉ đạo của Chính phủ, áp dụng tiêu chuẩn ISO (Singapore) vào hoạt động QLHC nhà nước.
vii) Quyết liệt chống tham nhũng, làm trong sạch bộ máy với các giải pháp: quy chế hoá chế độ trách nhiệm, tăng cường công khai minh bạch trong hoạt động; áp dụng các chế độ khuyến khích người lao động như lương, thưởng hợp lý và minh bạch hơn, tạo động lực cho cán bộ công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; loại bỏ các quy trình, thủ tục có thể gây phiền hà đối với người dân.
viii) Về khó khăn, thách thức trong quá trình CCHC của các nước: Các khó khăn, tùy theo hoàn cảnh của mỗi nước mà thể hiện ở mức độ, phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, điều khá phổ biến là: quyết định đổi mới cải cách trong giới lãnh đạo Đảng cầm quyền, Nhà nước đôi khi còn chưa thống nhất cao; khó khăn trong việc tạo ra sự đồng thuận của đội ngũ cán bộ công chức về nội dung cải cách; khó khăn trong việc điều chỉnh chức năng, giảm bớt sự can thiệp của cơ quan nhà nước vào hoạt động của người dân và doanh nghiệp; trong việc tinh giản biên chế, sửa đổi cơ cấu bộ máy các Bộ, ngành; ngân sách đầu tư cơ sở vật chất cho BMHC còn hạn chế; chống tham nhũng; nâng cao trình độ công chức, vấn đề sở hữu và đại diện quyền sở hữu đối với các DNNN đang sắp xếp lại...