Vài ghi nhận về văn học yêu nước
Đây là bài viết cuối trong loạt bài nhìn lại một vài nếp văn-hóa và văn-học miền Nam lục-tỉnh khởi từ cái mốc miền lục-tỉnh mất vào tay người Pháp và trở thành thuộc địa Cochinchine (1867). Suốt hơn 90 năm Indochine bị trị đó, dân-tộc ta đã nhiều lần khởi nghĩa, chống ngoại bang, dưới nhiều hình-thức, đến năm 1945 rồi 1954, Việt Nam mới tìm lại được độc lập quốc-gia tương đối, thì lại xảy ra cuộc chiến mới, một cuộc nội chiến vì ý thức hệ ngoại lai. Sau 30-4-1975, ngày chiến-tranh Việt Nam ngưng tiếng đạn, miền Nam vì hoàn cảnh phải buông súng và miền Bắc làm chủ cả nước nhờ thiên thời và địa lợi nhưng không nhân hòa. Độc lập đất nước và tinh thần ái quốc chưa ngừng ở đó; cuộc chiến thay đổi tần số, nồng độ và nhân sự. Tinh thần ái-quốc vẫn tiếp tục được dương cao, cổ võ, ở đầu thế-kỷ XXI! Do đó, bàn đến hai chữ "ái-quốc" dù của thời quá-khứ vẫn bị ảnh-hưởng bởi những chuyện đang diễn ra. Nhu cầu nghiên cứu buộc chúng tôi giới hạn định nghĩa hai chữ "ái-quốc" vào những thời điểm, biến cố và quan điểm có tính phổ quát, tránh không để thời-đại tính và phe-đảng tính chi phối. Bài khởi từ miền Nam lục-tỉnh nhưng không thể không mở rộng ra miền Nam tự do và Việt Nam thống nhất sau đó. Một đề tài khúc mắc, tế nhị và hãy còn nóng đối với người cùng thời hôm nay, tuy nhiên chúng tôi với mục-đích nhìn lại, tìm hiểu, với tâm trạng hậu sinh, thiển nghĩ có thể ghi lại được vài ý tưởng về chủ-đề này. Những từ "Nam Bắc, Nam-bộ, lục-tỉnh, miền Nam, v.v." trong loạt bài được dùng như lịch-sử đã xảy ra, ngoài ra chúng tôi không có ý phân biệt, chia rẽ, vì dân-tộc và văn-học Việt Nam trong-ngoài trước-sau chỉ là Một!
Thơ văn ái-quốc thường bùng phát khi nước nhà nguy biến và tình trạng bi đát đó càng kéo dài thì vô tình càng phong phú về lượng cũng như giá-trị. Lịch-sử nước Việt Nam ta là lịch-sử của một dân-tộc luôn phải trả giá đắt bằng sinh mạng, tài nguyên, để được tự chủ, độc lập và phải thường trực cảnh giác vì kẻ thù luôn có mặt. Nhưng kẻ thù ta qua lịch-sử là ai? Là những kẻ đồng màu da nhưng khác chủng tộc, là những kẻ khác màu da khác chủng tộc và cuối cùng là những kẻ cùng màu da nhưng khác lý tưởng. Kẻ thù còn là chính con dân, là đồng loại nhưng rước voi về dày mả tổ, rước con người và lý thuyết ngoài về dày xéo con người và đất nước. Lịch-sử đã và sẽ đánh giá những con người và tập thể tự biện minh và đánh bóng "sứ-mạng lịch-sử" của mình cũng như sẽ thẩm định công tội ái-quốc của các triều đại, chế độ và lãnh tụ! Con người và triều đại, chế độ sẽ qua đi nhưng thơ văn yêu nước luôn được trân trọng vì văn-học nghệ thuật là phương tiện và là hình thức hữu hiệu nhất cho mục-đích chính-trị yêu nước và vận động dân và nhân quyền!
Tinh thần yêu nước ở bất cứ miền nào đã được thể hiện dưới nhiều hình thức qua nhiều giai-đoạn khác nhau, lúc âm ĩ, lúc náo động. Các nhà trí thức và văn-nghệ sĩ đã sử-dụng đủ các hình thức và thể loại, để ghi nhận, nói lên, kêu gọi tinh thần ái-quốc đồng thời vạch mặt, chỉ tên, tố cáo những âm mưu và thủ đoạn "bán nước". Thời Pháp thuộc, nhiều văn phẩm bị kiểm-duyệt, cấm đoán, mà đến thời gọi là độc lập sau 1954 ở miền Bắc cộng-sản, các tác-phẩm nói lên long yêu nước cũng bị kiểm cấm và tác-giả của chúng bị án tù đày hoặc xử lý nặng nề. Ngay cả hiện nay, khi hai miền đã thống nhất và đất nước lớn mạnh về vật chất, lòng yêu nước vốn là thứ bộc phát tự nhiên và tưởng là tự do thể hiện, nhưng không ngờ hai chữ ái-quốc vẫn còn là cấm kỵ, trở nên hiểm nguy cho nhiều công dân; vì đối với nhiều tập đoàn bên này hay bên kia lằn ranh, yêu nước phải theo đúng quan điểm chỉ đạo hoặc ý đồ độc đoán!
1. Thơ văn ái-quốc hồi đầu thế-kỷ XX:
Từ khi miền Nam lục tỉnh trở thành thuộc địa Pháp, lòng trung quân ái quốc và tinh thần quốc gia của con người miền Nam được biểu lộ, lưu truyền qua các phương-tiện thông tin đại chúng như hò, thơ, ca dao, vè, v.v., những hình-thức văn-hóa qua đó đã nung đúc tư tưởng chiến đấu của người dân:
"Chim bay trong núi / Nước đổ trên nguồn
Mồ cha cái lũ Tây Dương / Mắc mớ chi nó tầm đường qua đây! "
Lịch sử đã chứng minh tinh thần chống ngoại xâm đã phải trở nên thường trực, liên tục, nhất là khi phải đứng lên để giải phóng đất nước:
"Nước rông, nước kém / Một tháng hai kỳ
đuổi loài bạch quỉ / đâu sá gì ngày đêm. .. "
Rồi những truyện thơ như Sáu Trọng, thơ Thầy Thông Chánh, v.v. được dùng để chuyên chở ý tình đối với đất nước. Thơ Sáu Trọng là truyện thơ dân gian được lưu truyền rộng rãi ở Nam bộ vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và được in thành sách lần đầu tiên khoảng năm 1905, là một tác phẩm văn học dân gian khá đặc sắc, câu đầu tiên "Kỷ vì thọ Pháp tân trào". Cùng với truyện thơ Thầy Thông Chánh, truyện thơ Sáu Trọng thuộc dòng văn học dân gian phản ánh khá chân thật diện mạo xã hội và tâm lý chống đối của giới bình dân lục-tỉnh thời ấy. Ở tác phẩm này, người đọc dễ dàng nhận ra giá trị tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp cướp nước, tố cáo hệ thống cai trị của Pháp nhằm đàn áp bóc lột dân ta cũng như chà đạp lên các giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống của người Việt.
Báo chí và văn-học chữ quốc-ngữ khởi hình từ thời Trương Vĩnh-Ký, Huình Tịnh Paulus Của, ... thời yêu nước kín đáo, ẩn mình của người dân bị trị, qua văn hóa, đạo lý dân tộc; đến đầu thế kỷ XX, những Trần Chánh Chiếu, Trương Duy Toản, v.v. tiếp nối, đông đảo hơn và công khai đối đầu với thế lực thực dân. Ngay từ đầu thế kỷ XX, thời Minh Tân ảnh hưởng trào lưu Tân thư từ Trung Hoa, Nhật Bản, năm 1903, Phan Bội Châu vận động ở miền Nam, đã viết Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư rồi sau đó, những Ái Chủng Ca, Ái Quốc Ca khoảng 1911; Đông Kinh Nghĩa Thục thành lập năm 1907, ... tiếp nối nỗ lực canh tân đất nước của những Nguyễn Truờng Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, v.v. Từ trời Âu, Phan Châu Trinh rồi Nguyễn An Ninh truyền bá tư tưởng tự do bình đẳng và nhân bản, bác ái, v.v. nhắm khai mở trí tuệ dân-tộc để yêu nước hơn. Mở đầu cho một ý thức hệ dân quyền! Nhóm Nguyễn An Ninh ra tờ La Cloche fêlée/Tiếng Chuông Rè rồi La Lutte/Tranh Đấu 1933 công khai đấu tranh chính-trị với người Pháp, kể cả ra tranh cử Hội đồng Thành phố Sài-Gòn!
Các thập niên 1920, 1930, báo chí và văn học miền Nam vào giai đoạn khai phá này còn chứng tỏ tinh thần dân tộc cao độ. Nhiều nhà báo và chủ báo đã bị nhà cầm quyền thuộc địa bắt bớ, báo chí bị đóng cửa hoặc cấm lưu hành ở Trung và Bắc kỳ như tờ Phụ Nữ Tân Văn (bị cấm lưu hành từ 1931 đến 1933 vì phổ biến tin về vụ khởi nghĩa Yên Bái). Tác phẩm của các nhà văn như Nguyễn Trọng Quản, Trương Duy Toản, Phạm Minh Kiên được viết với một tinh thần dân tộc lộ liễu. Trong khi ở miền Bắc, Nguyễn Tử Siêu và Đinh Gia Thuyết viết tiểu thuyết lịch sử chương hồi nhằm gửi gắm tâm tình yêu nước, thì cùng lúc đó một số nhà văn miền Nam như Trương Duy Toản đã xuất bản những tiểu thuyết lịch sử như Phan Yên Ngoại Sử Tiết Phụ Gian Truân (1910), Mộng Huê Lầu (tức Lê Hoằng Mưu) in Oán Hồng Quần Phùng Kim Huê (1920), Tân Dân Tử có Giọt Máu Chung Tình Tòng Đình Thảm Kịch, và Phạm Minh Kiên với Lê Triều Lý Thị, Tiền Lê Vận Mạt, v.v. - những truyện với đề tài lịch sử này gây tinh thần tích cực và yêu nước. Trần Chánh Chiếu viết Minh Tân Tiểu Thuyết (1907) và Hương Cảng Nhân Vật, Quảng Đông Tỉnh Thành Phong Cảnh cổ động Minh Tân. Trần Hữu Độ viết Hồi Trống Tự Do, Tờ Cớ Mất Quyền Tự Do, Nguyễn An Ninh viết Hai Bà Trưng, vv đều nhắm cổ động lòng yêu nước và chống thực dân. Ngay cả công chức làm việc với người Pháp như Hồ Biểu Chánh cũng không quên tình nước, đã soạn chung với Lê Quang Liêm vở tuồng hát Vì Nghĩa Quên Nhà (1917), v.v.
Giai đoạn văn học phôi thai này cũng đã có những tác phẩm nghị luận thời sự hoặc lý luận, lời sắc bén mà nội dung yêu nước cũng quyến rủ không kém. Đất thuộc địa do đó được quyền ăn nói và tự do báo chí hơn nhưng rồi một phần các tác phẩm đó cũng bị cấm hoặc tịch thu, như từ 1927 đến 1931 có cả trăm cuốn bị cấm như Hai Bà Trưng của Nguyễn An Ninh, Ngồi Tù Khám Lớn của Phan Văn Hùm, Tiểu Anh Hùng Võ Kiết của Phú Đức, cũng như một số truyện và tiểu thuyết phổ biến tình tự dân tộc, v.v. Các thư xã được thành lập ở nhiều tỉnh: Bảo tồn thư xã, Cường học thư xã, Nữ lưu thư quán, Tân dân học xã, Chiêu Anh thư quán, vv. Các hội kín được thành lập, nổi lên thành phong trào, như Hội kín Nguyễn An Ninh, ...
Như vậy, các Tân thư hồi đầu thế kỷ XX và các luồng tư tưởng dân chủ Tây phương, đã giúp đưa đến những tư tưởng mới về yêu nước, như tư tưởng dân chủ, nhân quyền, khác với yêu nước thời quân chủ cho đến đó chỉ là "trung quân ái quốc", yêu nước một chiều, lại như các chế độ sau 1945, 1954, 1975, v.v.
2. Thời kháng-chiến chống Pháp 1945-1954:
Năm 1944, Kỳ ngoại hầu Cường Để đã viết Khuyến Cáo Quốc Dân Ca như một tâm thư cuối cùng của đời ngài:
"Nước mất 80 năm rồi đó/ Quốc dân ta có nhớ hay không?
Kìa xem các nước Á-đông, / Diến, Phi đều đã thoát vòng Mỹ Anh!
Chỉ còn một mình ta đó / Vẫn để cho Pháp nó đè đầu.
Pháp kia còn có chi đâu, / Từ ngày thua Đức đã hầu diệt vong (...)"(1)
Đến thời điểm đó, thời điểm Kỳ ngoại hầu gửi đồng bào trong nước những lời trên, là thời chế độ thực dân tưởng đã vững mạnh ở Đông Dương, trong thực tế bắt đầu lung lay và phải chấm dứt sau đó, sau một cuộc kháng chiến kéo dài cả gần chục năm. Thật vậy, các vận động chính-trị của nhiều từng lớp và thành phần trí thức và cách-mạng từ khi chiến thuyền Pháp bắn vào Đà Nẳng rồi chiếm đoạt miền Nam lục-tỉnh đã hun đúc lòng yêu nước nơi người Việt khắp ba kỳ và đã đưa đến kháng chiến khởi động đúng lúc ở trong Nam. Cuộc chiến Đông Dương thứ nhất có thể xem như khởi đầu đêm 22 rạng 23 tháng 9 năm 1945 (trước đó gần năm năm, ngày 23-11-1940, đã có những nổi dậy chống Pháp ở Sài-Gòn và Mỹ Tho, Vĩnh Long, nhưng bị Pháp chận đứng). Đêm 22-9-1945, do liên quân Anh-Pháp bất ngờ đánh chiếm trụ sở Ủy-ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ là cơ-cấu xuất hiện từ 25-8-1945 khi Trần Văn Giàu tuyên bố Nam bộ độc lập và chế độ Cộng-hòa dân chủ thành lập tại đây - xem như một tiếp nối của phong-trào Thanh Niên Tiền-phong của BS Phạm Ngọc Thạch. Ngày 23-9-1945 Nam-Kỳ kháng-chiến (2), khởi đầu cho một cuộc chiến tranh nhiều mặt trận, bắt đầu mở ra với du kích, thanh niên vô bưng - rừng U-Minh, Đồng Tháp Mười, v.v., theo những đoàn Giải Phóng Quân, Vệ Quốc Đoàn. Sẽ bị cưỡng bức hoặc tinh tế lợi dụng, nhưng kháng-chiến chống Pháp đã là một phong trào đấu tranh bộc-phát của thanh niên, sinh viên học sinh yêu nước ngay trong vòng vây của thực dân. Kế thừa truyền thống cha ông, mang trong mình hào khí Hoa Lư, Lam Sơn và Đông A, tuổi trẻ thời nào cũng nhanh chóng tìm được tiếng nói chung trước cảnh sơn hà nguy biến. Ngoài Bắc từ khi Chính phủ lâm thời ra mắt ngày 2-9-1945, các nhóm chính trị đấu tranh (Việt quốc, Vìệt cách, đệ tứ và đảng cộng-sản Việt Nam) tranh giành thế chủ động, thì trong Nam, tình hình khác hẳn. Phải chăng miền Nam bị Pháp chiếm trước, tinh thần yêu nước đã bùng lên sớm và mạnh hơn, vì đã từng bàng bạc qua đạo lý, tinh thần hảo hán, Lục Vân Tiên, rồi các phong trào vận động Minh Tân, Đông Du, đám tang Trần Văn Ơn ngày 9-1-1950, v.v. Tiếng súng kháng chiến chống Pháp chỉ nổi lên ngày 19-12-1946 ở Hà Nội và vùng phụ cận, khá lâu sau Tạm ước ngày 14-9-1945 và Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946! Như vậy, miền Nam kháng chiến trước miền Bắc gần hai năm!
Sau ngày 1-7-1949, khi cựu hoàng Bảo Đại về nước trở thành quốc trưởng chính phủ "quốc-gia Việt-Nam" (thay cho Nam kỳ tự trị), nước Việt-Nam 'tự-do' trong Liên-hiệp Pháp, mặt khác, phía chính quyền kháng chiến Việt-Nam đã dần để lộ rõ chân tường cộng-sản, lúc bấy giờ ý nghĩa của "kháng-chiến" đã thay đổi và đến khi hiệp định đình chiến Genève ký ngày 20-7-1954 thì không ai còn nói đến "kháng-chiến" nữa, lúc đó quốc-cộng rạch ròi phân đôi đất nước cũng như trong lòng người dân Việt-Nam; vĩ tuyến 17 qua-phân lãnh thổ và người dân tập trung, tập kết chuẩn bị cho một cuộc đối đầu mới, sẽ được gọi là "chiến-tranh lạnh" (ngôn-ngữ đối ngoại) và "nội chiến" hoặc "chiến-tranh huynh đệ" (ngôn-ngữ đối nội), kéo dài gần 21 năm và hậu quả đến nay, hơn 31 năm sau, vẫn chưa chấm dứt! Văn-nghệ đã và cũng sẽ bắt đầu một cuộc qua phân thường trực, thành hai chiến tuyến; nền và mảng văn-nghệ "kháng-chiến cộng-sản" không có mặt người làm văn-nghệ ở "thành"(vùng tề), mà những người làm văn-nghệ "tự do, quốc-gia" sẽ không đứng bên những nghệ sĩ gọi là "chống Mỹ, chống ngụy"!
Thời điểm 1945-1950 đã là thời đặc biệt của văn học kháng chiến và yêu nước ở trong Nam. Nguyễn Văn Sâm nhận xét xác đáng về "nền" văn-chương tranh đấu : " ... Trước giai đoạn 1945, chúng ta chỉ có những tác phẩm tranh đấu nhưng chưa có một nền văn-chương tranh đấu vi thời đó chỉ có một vài nhà văn sáng tác lẻ tẻ khi lòng mình rung động về vấn đề quốc-gia, dân-tộc; nhà văn chưa đặt vấn đề đường hướng sáng tác để những cây bút đồng thời cùng đánh vào một mục tiêu. Ngày xưa, Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt ... lạc loài trước bao nhà văn cùng thời đại. Năm 1945, gần như tất cả văn gia đều hướng về việc tranh đấu, giải thực (...) Hi vọng vừa bừng nở đã chợt tắt vì ý đồ thực dân của người Pháp trong việc muốn tái lập chế độ đô hộ xưa, dân chúng vì vậy oán hận, căm thù. Thêm vào đó cảnh máu lửa khắp nơi, người chết, nhà cháy, lòng người như một cảm thấy yêu mến quê hương, dân-tộc hơn. Họ làm mọi điều hữu ích cho quốc-gia không để ý gì đến những hậu quả tai hại cho chính bản thân và gia đình họ: gia nhập bộ đội, xung vào ban cứu thương, sáng tác tuyên truyền lòng ái quốc hay phổ biến những sáng tác đó, muôn người như một (...) văn-chương Nam-Bộ vì vậy được những người cầm bút lúc đó coi như thể hiện sự đóng góp phần mình vào công cuộc chung của quốc-gia " (3).
Như đã phân tích ở trên, chính tinh thần đạo lý bình dân cộng với lòng trung quân và yêu nước của con người ở vùng đất bị thực dân xâm chiếm đã gây nên phong trào kháng chiến rất đặc biệt ở trong Nam. Tâm lý thực tế, ngôn ngữ dân gian càng khiến lòng ái quốc dễ đi vào lòng người hơn. Đó là lý do khiến trường ca Chiến Sĩ Hành (1949) và tiểu-thuyết Cây Ná Trắc của Vũ Anh Khanh, truyện Sương Gió Biên Thùy, Nắng Bên Kia Làng của Lý Văn Sâm, Vó Ngựa Cầu Thu (1945), Người Yêu Nước của Thẩm Thệ Hà, Tôi Bị Đày Đi Bà Rá của Việt Tha, Tàn Binh của Sơn Khanh (Nguyễn Văn Lộc), Cứu Lấy Quê Hương của Hoàng Tấn, ... và thơ văn ở Sài-gòn và trong Nam đã thành công khơi dậy tinh thần yêu nước và kháng chiến chống Pháp. Thơ văn này có khác biệt tinh tế nếu so sánh với thơ văn chống Pháp từ các liên-khu ở Bắc và Trung bộ sau đó. Cũng kêu gọi lên đường, cầm giáo mác khí giới, nhưng lòng ái-quốc trong thơ văn Vũ Anh Khanh, Lý Văn Sâm, Sơn Khanh, ... vừa có nét tình lý ... gần gũi và dễ cảm hóa người đọc - cũng như những Cha Tôi của Lê Đạt, Bên Kia Sông Đuống của Hoàng Cầm, Chiều Mưa Đường Số 5 của Thâm Tâm, nhiều bài của Quang Dũng, ... hơn là những Ta Đi Tới của Tố Hữu, Đất Nước của Nguyễn Đình Thi, Nhớ Máu của Trần Mai Ninh, v.v.
Văn học kháng chiến và yêu nước khởi dậy từ Sài Gòn với các nhóm văn-học yêu nước như nhóm gồm Thẩm Thệ Hà, Vũ Anh Khanh, Sơn Khanh, Quốc Ấn, Lý Văn Sâm, như Ngao Châu (Bùi Đức Tịnh), Phi Vân, Dương Tử Giang, Hoàng Tố Nguyên, Thiên Giang, Khổng Dương, Bách Việt (Mai Văn Bộ), ... Thẩm Thệ Hà, Vũ Anh Khanh lập nhà xuất-bản Tân Nam Việt. Lý Văn Sâm chủ trương tờ Việt Bút có sự cộng tác của các nhà thơ Hoàng Tấn, Hoàng Phố, ... tờ này về sau trực thuộc nhóm báo chí cũng như một số hiệp hội văn nghệ sĩ khác do Thành ủy Sài Gòn chi phối; họ tổ chức những cuộc bãi công vào tháng 3-1950, ký giả Nam Quốc Cang (người viết mục 'Sài-Gòn hoạt cảnh' và 'Trớ trêu' nhiều bài phúng thích các chính phủ Nam kỳ tự trị) bị ám sát (6-5-1950), Pháp bắt nhà báo Thành Nguyên của tờ Điện Báo ngay buổi họp ở rạp Nguyễn Văn Hảo, sau đó một số nhà văn nhà báo như Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Thiếu Sơn, v.v. phải rút vô khu kháng chiến. Đấu tranh công khai sau đó yếu dần, chuyển sang những cuộc chống những "sản phẩm khiêu dâm" (1952) và "đầu độc tinh thần dân-tộc" (1953) - trong thơ văn và cả kịch trường, ca nhạc, rồi quay ra làm báo giáo dục như tờ Việt-Nam Giáo Khoa của Bùi Đức Tịnh, Nguyễn Bảo Hóa, Thuần Phong, v.v. Các báo đăng nhiều truyện thơ nói lên tình yêu nước và kêu gọi chống xâm lăng, ... Riêng tờ Nhân Loại dần dà trở thành cơ quan văn-nghệ qui tụ nhiều nhà văn thơ yêu nước theo cộâng hoặc độc lập, như sẽ trình bày ở một đoạn sau.
Thơ văn nói chung đề cao lòng yêu nước, tinh thần dân-tộc và kêu gọi đấu tranh giành độc lập. Về văn xuôi, Con Đường Cứu Nước của Thẩm Thệ Hà và Hường Hoa nói với người đọc muốn họ "nhận lấy cái ý niệm tranh đấu của một mùa Xuân tranh đấu" (4). Trí thức và văn nghệ sĩ chính kiến và tư tưởng có thể khác nhau - như không khí trong Giai Cấp của Sơn Khanh nếu so với các tác phẩm khác, nhưng trước vận nước, tất cả chung vai đấu tranh! Người Yêu Nước 1950 của Thẩm Thệ Hà cũng như tác-phẩm của Vũ Anh Khanh đề cao, cổ võ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong hầu hết các tác-phẩm lớn nhỏ của ông, văn cũng như thơ: Cây Ná Trắc, Bạc Xìu Lìu, Nửa Bồ Xương Khô, Đầm Ô Rô, Sông Máu, Ngũ Tử Tư, v.v. Và nhiều nhà văn khác nữa!
Thơ là thể loại rất thịnh hành thời kháng-chiến. Đáng kể có Ái Lan với tập Trên Đường, Liên Chớp có Khói Sương, Ngao Châu Bùi Đức Tịnh tố cáo thực dân xâm lăng trong tập Chiêu Hồn trong đó có bài Hận Nam Kỳ, Xuân Miễn với Lửa Binh có bài An Phú Đông vẫn được chính thức đề cao "đã trở thành sử thi của cuộc kháng-chiến Nam Bộ" :
''Bạn đã từng nghe An Phú Đông,/ Một làng nho nhỏ ở ven sông.
Một năm chinh chiến! Ôi chinh chiến! / Sông nước Sài-Gòn nhuộm máu hồng,
(...) Nhưng chẳng nao gan người chiến sĩ, / Quân giặc vào đây chết ở đây.
Thân dẫu nát thành tro bụi nữa, / Cũng không rời khỏi Phú Đông này''
Tuyển tập Thơ Mùa Giải Phóng (1949) gồm 20 nhà thơ nói lên lòng yêu nước và cổ động tinh thần dân-tộc chống ngoại xâm: Chim Xanh, Bân Bân nữ sĩ (Mộng Tuyết), Ái Lan, Khổng Dương, Vũ Anh Khanh, Trúc Khanh, v.v
"Muôn lồng ngực hít khí trời cao rộng, / Muôn cánh tay chào đón phút tự do.
Ôi! Say sưa, cuồng nhiệt reo hò! / Thề lấy máu điểm tô trang lịch-sử "(Ái Lan, Thu Giải Phóng).
Nhà thơ Đằng Phương (Nguyễn Ngọc Huy) thì có cái nhìn khác, nhuốm âu lo hậu vận :
"... Trời mù mịt, giang-san tràn ngập máu, / Khúc lâm-hành đã trỗi thúc ba quân,
Cùng một lòng hăng hái, cả muôn dân / Đã tiến bước lên đường tìm ánh-sáng.
(...) Hồn dân-tộc bừng lên trong gió phất, / Tình quốc-gia bàng-bạc phủ sơn-xuyên,
Tim muôn dân chỉ nhịp một câu nguyền : / "Tranh quyền sống về dâng cho chủng-tộc"
Sao có kẻ nỡ manh-tâm lừa-lọc, / Hướng đấu-tranh theo một nẻo mơ-màng :
Mộng đại-đồng, hờ-hững với giang san / Lấy giai cấp để thay tình máu-mủ?
Cờ giải-phóng mầu trung ôi đã trở! / Và đồng-tâm đổ vở tự bao giờ.
Biết bao người đã lạc bước trơ-vơ / Trước thảm cảnh tương-tàn trong cốt-nhục!..." (5)
Bài thơ trường thiên Chiến Sĩ Hành của Vũ Anh Khanh, được viết cuối Thu năm 1947 nhưng chỉ được xuất-bản hai năm sau, vì kiểm duyệt và khó khăn thời đó cho thơ văn tranh đấu (6). Hành là một thể-loại thơ cổ Trung-Hoa, được các nhà thơ Việt Nam sử-dụng cho các đề tài ái-quốc (kêu gọi, đề cao, ...) và tranh đấu, tương đương với Hịch bên văn xuôi. Hành là thể thơ cho phép vấn hỏi và than thở với vài dụng-ngữ như "hề!" và cấu trúc nghi-vấn. Vũ Anh Khanh đã tận dụng những phép đó. Ngoài ra, chữ dùng và khí thơ trong bài Chiến Sĩ Hành dựng lại hình ảnh quê-hương hào hùng cha ông đã hy-sinh để lại mà nay chính mảnh đất đó lại lâm vào loạn ly:
"Hai năm trước, cuối mùa thu xám / Lửa căm hờn cháy nám trời xanh
... Khói hờn loạn phủ ải xa / Lửa hờn dậy khắp sơn-hà Việt-nam"
cũng như nói lên chí khí thanh niên yêu nước. Tác-giả đã tả rõ nét hình ảnh người yêu nước: những người thanh niên ra đi vì đại-nghĩa, vì đất nước lâm nguy, những chiến sĩ chủ-trì hành-động nhiều hơn nói xuông! Lời thơ và hình ảnh hùng tráng (Vó ngựa gõ dịp cầu cao vọi / Gươm mình khua mắt dõi đêm dầy) nhưng sao nỗi ngậm ngùi, thương tiếc cứ vương vất (Chiến-sĩ đi buồn tênh tiếng dế!), tâm-trạng người đi vướng tâm-tình người ở lại, hành trình dài và đầy hy vọng nhưng viễn tượng sẽ ra sao, nào ai hay (Trời hộ người trai trẻ thành công)! Chiến Sĩ Hành thuộc về thi-ca tranh đấu, và thiển nghĩ, nhà thơ đã thành công làm sống lại thời hào-hùng đầy khí-thế và hoài bão của người trẻ những năm tháng đó, dù có dăm câu cho thấy ảnh-hưởng thi-ca lãng-mạn yêu nước như Chinh phụ ngâm. Vũ Anh Khanh còn là tác-giả Tha La Xóm Đạo, một bài thơ nổi tiếng khác từ cùng thời kháng-chiến, được sáng-tác khi nhà thơ trên đường kháng Pháp về ngang qua quê nhà, nhìn lại nơi xưa đầy dấu vết chiến-tranh tàn phá và ngậm ngùi sự trống vắng của người xưa yêu dấu! Bài này đã được nói đến rất nhiều, nhưng hễ nói đến thơ văn kháng-chiến trong Nam không ai có thể quên giá-trị văn-học cũng như lịch-sử của bài Tha La Xóm Đạo!
Thời văn-học kháng chiến có một đặc điểm nữa là việc dịch thuật các tác-phẩm rất được chú trọng. Các tác-phẩm nói lên lòng yêu nước của các tác-giả Âu châu được liên tục dịch đăng báo và xuất-bản : Con Đường Cứu Nước (của P.I. Stahl do Thẩm Thệ Hà dịch chung với Xuân Tước, 1947), Đường Lên Cõi Bắc (của R. Wright do Bùi Nam Tử dịch), v.v.
Về lý luận và lý thuyết văn-nghệ, nhiều nhà văn hóa thời kháng-chiến này viết báo và xuất bản những vận động cho một văn-hóa mới, nghệ-thuật mới: Văn Nghệ Và Phê Bình, Nghệ Thuật Và Nhân Sinh (1949) của nhóm Chân Trời Mới (Tam Ích, Thiên Giang và Thê Húc), Việt-Nam Trên đường Cách Mạng Tân Văn Hóa (1949) của Thẩm Thệ Hà, Con Đường Văn Nghệ Mới (951) của Triều Sơn. Thiên Giang viết Văn Chương và Xã Hội (1947), Nghệ Thuật Vị Nhân Sinh (1949) dùng lý luận văn-nghệ cổ động đấu tranh văn-hóa, xã hội. Nhà thơ Ái Lan viết Sứ Mạng Thi Nhân (1948) cổ động thơ ca vị nhân sinh, thơ cứu nhân loại. Nguyễn Bảo Hóa xuất-bản Nam Bộ Chiến Sử (1949) với tự ngôn "Nghệ sĩ Việt-Nam lấy tư cách nghệ sĩ có nhiệm vụ phải làm trong cuộc giải phóng dân-tộc chống xâm lăng". Sách bị Pháp tịch thu!
Thời kỳ văn-học kháng chiến ở Nam bộ 1945-1950 có đặc điểm là thời này nhất là lúc khởi đầu, đảng cộng-sản Việt-Nam chưa can thiệp mạnh mẽ và chưa có nhân sự về văn-nghệ và các nhà văn vào các chiến khu 8,9 chưa nhiều. Chính người lãnh đạo kiêm lý thuyết văn-nghệ Lưu Quý Kỳ, phó ban tuyên huấn của Xứ ủy Nam bộ, chi hội trưởng Chi hội Văn Nghệ kháng-chiến Nam bộ, đã tường thuật trong Qua Thực Tiễn Văn Nghệ Kháng Chiến Nam Bộ xuất-bản ở Hà-nội năm 1958 rằng văn-nghệ sĩ kháng chiến Nam bộ cho đến năm 1949 hoạt động tự phát 'theo cảm tính' và 'bồng bột, sôi nổi', từ 7-1949 mới có cuộc nghiên cứu báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn-đề văn-hóa của Trường Chinh. Tháng 1 năm 1951 thêm cuộc họp lần thứ hai trong khu 9 đã nghiên cứu bản cương lĩnh của đảng, và đến đầu năm 1954 thêm cuộc họp để kiểm điểm sự thực hiện chủ trương 'khai thác và sử dụng vốn cổ văn-nghệ dân-tộc, phục vụ kháng chiến' (7). Chi hội Văn-nghệ Nam bộ được hình thành ngày 3-1-1950 và từ đó miền Bắc thật sự chi phối mạnh kháng chiến miền Nam. Xứ ủy Đảng CS Đông dương ở Nam bộ cấm đoán ca vọng cổ, hát bộ, nói thơ kiểu Bạc-Liêu, đàn nguyệt, đàn cò, v.v. nhưng các vùng kháng chiến vẫn không tuân theo - đó cũng có thể là lý do đưa đến bế tắc vì truyền thống tín ngưỡng bình dân và hạ tầng nông dân không hưởng ứng văn-nghệ chỉ huy - chính xứ ủy Lê Duẫn cũng đã báo cáo như vậy. Từ 1950, lãnh đạo văn-nghệ trương phương châm 'dân-tộc, khoa học, đại chúng' nhập cảng từ các chiến khu Việt Bắc và chú ý đến 'tác phong của người văn-nghệ sĩ nhân dân, văn-nghệ sĩ cách mạng' cũng như lập trường giai cấp của văn-nghệ sĩ! Phải chăng đó là lý do văn-nghệ yêu nước và kháng chiến bộc phát ở Sài-Gòn đã yếu dần rồi vắng tiếng? Và cũng từ đó, văn-nghệ chỉ huy từ lập trường đến nhân sự dần dà độc tôn chiếm lĩnh! Sau cuộc hội tháng 1-1951, đảng đề ra thêm lập trường giai cấp trong văn-nghệ, đề cao thơ lục bát (vè) và những hình thức văn-nghệ đại chúng từng bị cấm đoán nhưng không thành công: các tuồng cải lương và hát bộ được ... nhuận sắc theo văn kiện 'khai thác vốn cổ dân-tộc' đem từ đại hội thành lập đảng cuối năm 1951 ở vùng Việt Bắc vào. Lưu Quý Kỳ cho biết chiến dịch bộ đội 'sáng tác' ca dao, trong một vài tiếng đồng hồ, một tiểu đoàn (400 bộ đội) có thể 'sáng tác' được 500 câu "ca dao". Bảo Định Giang, một nhà thơ kháng-chiến đã có kỷ lục sáng tác 'ca dao' in thành tập (Ca Dao Đồng Tháp, 1947 và Ca Dao Gọi Lính, 1948). Tuy vậy, đến cuộc họp cao cấp vào tháng 5-1954, đảng và chỉ đạo văn-nghệ Nam bộ vẫn kiểm thảo và phàn nàn về tính văn-nghệ hữu khuynh 'dám nghĩ dám làm' của cán bộ và quần chúng trong Nam vẫn chưa 'chữa' được (8)!
Văn-nghệ kháng-chiến trong các Khu đã được sách báo trong nước ghi thành tích và xuất bản nhiều biên tập, ở đây xin nhắc sơ qua. Khu 8 Đồng Tháp Mười là nơi sinh hoạt văn-nghệ của Bảo Định Giang, Nguyễn Bính ('chín năm đốt đuốc soi rừng' của ông đã để lại trường ca Những Thanh Gươm Bén, truyện thơ Hương và hai kịch thơ Ông Lão Mài Gươm 1947 và Chiếc Áo Đêm Trăng); Khu 9 có Sơn Nam, Đoàn Giỏi, Kiên Giang Hà Huy Hà, ... Đặc Khu Sài-Gòn Chợ Lớn có sự góp mặt của Lý Văn Sâm, Lê Vĩnh Hòa, Dương Tử Giang, Nguyễn Bảo Hóa, v.v. Miền Tây địa phương văn-nghệ của Bảo Định Giang (lúc đầu), Viễn Phương, Xuân Miễn, ... Nguyễn Bính sau khi tập kết trở về Bắc đã xuất-bản Đồng Tháp Mười, Trả Ta Về, Gửi Người Vợ Miền Nam, v.v. Thơ rất bình dân, như lời hưá với người 'má' miền Nam trong bài Chung Một Lời Thề:
"(...) Mấy doi, mấy vịnh, mấy vàm / Con nhìn theo má chèo ngang bong dừa
Gió lùa mái tóc bạc phơ / Mến thương tràn ngập mấy bờ sông sâu:
'- Má ơi, con dám quên đâu / Con xin thề đúng như câu má thề
Nghìn muôn gian khổ chẳng nề / Má chờ con nhé, con về, má ơi!"
(Tuyền Tập Nguyễn Bính, 1986, tr. 107).
Khi viết về văn-học kháng chiến giai đoạn này, các nhà phê bình và văn-học sử tùy vị trí người quốc-gia hay cộng-sản hoặc yêu nước độc lập, đến nay, 2006, dù đã có những thay đổi, 'cải thiện', 'cởi mở', nhưng vẫn có những quan điểm và lựa chọn không đồng nhất (sự thật chỉ có Một nhưng có nhiều cái nhìn và 'tiếp cận'!). Như với Vũ Anh Khanh, kháng chiến thành rồi theo kháng chiến khu và tập kết năm 1954 nhưng rồi không lâu sau vượt cầu Hiền Lương vô Nam đã bị bộ đội bắn chết. Như định nghĩa hay cách xếp các nhà văn nhà báo vào loại "yêu nước công khai" ở Sài-Gòn của các soạn-giả tập Địa Chí Văn Hóa Thành Phố HCM trong đó người kháng chiến nằm vùng và người kháng chiến thành hoặc độc lập được đặt cạnh nhau. Với cách nhìn của trong nước cho đến nay, các tác-giả kháng chiến như Sơn Khanh, ... ít được nhắc đến hoặc có nhắc nhưng nhắc cho có như Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc, ... hoặc nhắc để phê phán nặng nề như với Hồ Hữu Tường, ..! Về tiểu sử, Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang hình như cũng có 'vấn đề' và Lê Vĩnh Hòa chẳng hạn từng xuất-bản Mái Nhà Thơ (1965) và Người Tị Nạn nhưng trong nước chỉ nhắc đến Chiếc Áo Thiên Thanh (1959) là một tuyển tập tuyện ngắn, còn Võ Phiến trong bộ Văn Học Miền Nam không ghi lại tiểu sử Lê Vĩnh Hòa - dù là em ruột, phải chăng vì anh chống Cộng?
Thơ văn kháng chiến ở Trung Bộ và Việt Bắc:
Khởi động từ Sài Gòn và lục-tỉnh Cochinchine, ngọn cờ Vệ quốc kháng chiến và thơ văn yêu nước sau đó đã chuyển lửa ra Trung Bắc và đồng thời một nền văn-học gọi là cách-mạng lớn mạnh trong các liên khu Việt Bắc và chuyển trở về các liên khu miền Nam, chỉ thị và đề cương theo nhân sự và tác phẩm vào Nam. Trần Mai Ninh với bài Nhớ Máu như tiếng kêu gọi lên đường từ miền Trung:
"Ta quyết thắng / Việt-Nam rồi đứng dậy
Sáng vô chừng / rất đẹp với Nha Trang và Nam Bộ
Phan Thiết, Phan Rang, Đà Lạt / Máu chan hòa trên góc cạnh kim cương
Các anh hùng tay hạ súng trường / Rồi khẽ vuốt mồ hôi và máu
Họ cười vang rung lớp lớp tinh cầu..."
Với phương châm 'văn-nghệ là vũ khí, nhà văn là chiến sĩ', viết văn theo đường lối xã-hội chủ-nghĩa là sử dụng phương pháp hiện thực phê phán, phê phán là xấu tất cả những gì của các chế độ khác, thứ hai là sử dụng hiện thực xã-hội chủ-nghĩa, nghĩa là cái gì của thế giới cộng-sản đều tốt hết, đều không có khuyết điểm, nếu có thì chỉ là hiện tượng (chứ không là thực chất), là do kẻ thù gây ra. Chiến tranh khủng khiếp nhưng nhà văn cách-mạng không được nói đến cái chết, những mất mát và cảnh bi thương - vành khăn trắng của Phạm Tiến Duật là trật chỗ, là sai! Kẻ thù không bao giờ tốt, hoặc có thì cũng không được nói. Các nhân vật chính đều 'tốt', là những nhân vật chính diện! Hình ảnh anh bộ đội - "điển hình bộ đội", lúc nào cũng "đẹp", "khoẻ" về hình hài cũng như lý trí: trong thơ Chính Hữu (Đồng Chí, 1947), người bộ đội đối xử với nhau bằng tình cảm cao quí, người lính bộ đội trong Xung kích của Nguyễn Đình Thi thì trưỡng thành, xứng danh là chiến sĩ cách mạng; cũng như những phụ nữ kháng chiến vùng Huế trong Gặp Gỡ của Bùi Hiển! Người phụ nữ mẹ và vợ bộ đội đảm đang, vị tha vì chồng con yêu nước!
"Thằng Trâu con chó / Cặp đuôi chạy dài
Mã bố nhà nó / Nịnh Tây hết thời"
Là Bà Mẹ Việt Bắc bên cạnh những Bầm ơi, Bà bủ, Chị là người Mẹ của Tố Hữu, Bà mẹ canh biển của Tế Hanh, Mẹ của Nguyễn Bính, Gửi mẹ trong vùng giặc chiếm của Chế Lan Viên, ... Người vợ trong Đợi chờ của Nam Cao đảm đang hết mọi việc nhà cho chồng đi công tác bộ đội xa. Quan hệ dân với bộ đội lúc nào cũng "chân thật, đẹp đẽ",... Huy Cận viết Gặt lúc đêm trăng tả cảnh bộ đội giúp dân gặt lúa, Hoàng Trung Thông viết Bao giờ trở lại tả lòng mong đợi anh bộ đội trở lại làm nhộn nhịp thôn quê:
"Anh đi chín đợi mười chờ
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?"
Lưu Trọng Lư thì:
'Ngò cải đã ra hoa / Bí bầu đã trổ trái
Nỡ nào anh đi mãi / Bộ đội đã về làng
Súng đạn đã âm vang / Giặc tháo sau tháo trước
Tay cơi trầu, đọi nước / Miệng gọi mạ gọi thầy
Chớ chi anh về đây / Giữa đoàn quân chiến thắng!' (Ngò cải đơm hoa, 1949) (9)
Bài thơ từng bị chỉ trích có tư tưởng bi quan, vì câu áp chót.
Phần lớn thơ văn yêu nước và kháng chiến ở ba miền nói chung hãy còn lãng mạn, trữ trình. Thơ vẫn là thể-loại được sử-dụng nhiều nhất và được xem là "binh chủng mũi nhọn".
"Thôi hãy lên đường tráng sĩ ơi!
Quê hương mong đợi đã bao đời
Biên thùy nghe dậy niềm ai oán,
Gươm hận mài chưa? Khát máu rồi..."(Biết gửi đưa ai, Vệ Quốc 1-1946) (10) Xin trích bài Chia tay - có thể là sáng tác tập thể. Vào những ngày đầu của Nam bộ kháng chiến, các chiến sĩ của Vệ Quốc Quân đã đột phát gia nhập hàng ngũ. Khả năng quân sự, trình độ văn hóa, tư tưởng v.v. rất phức tạp. Nhằm mục đích tuyển chọn các cấp sĩ quan, lãnh đạo các đơn vị chiến khu 9 đã tổ chức đại hội sát hạch để xác định khả năng các chiến sĩ ưu tú và cấp lãnh đạo sẽ định cấp bực quân hàm. Bài thơ được ghi lại sau đây được sáng tác vào đêm liên hoan bế mạc đại hội sát hạch lần đầu và được in trên báo Tiếng Súng Kháng Địch số 1, thu 1947. Bài thơ ghi lại qua trí nhớ của một cựu kháng-chiến, có thể có vài từ ngữ ghi sai và có thể thiếu một câu:
"Chia nẽo sa trường, / Bạn về, thôi thế.
Tặng bạn lưỡi gươm, / Đừng quên nhau nhé.
Cười hát điên cuồng, / Mắt không mờ lệ, / Lòng sao rất thương
. Bạn đi lồng lộng trùng dương, / Ta về gối súng ôm gươm đợi thù.
Nhớ mãi một mùa thu, / Tung bay cờ đại hội.
Ta cùng bạn thi đua. / Mến thương mà sôi nổi.
Có ngại gì hơn thua. / Chỉ biết nêu chói lọi,
Danh dự của toàn khu. / Vẳng nghe lời bạn như ru:
Ta thi là để rửa thù giang sơn.
Nghĩ tới giặc căm hờn nét mặt. / Gươm bạn trao vằng vặc trăng soi,
Rực lên ý thép sáng ngời. / Gươm trao là để cho người lập công.
Hãy lập chiến công, / Hãy giành thắng lợi.
Tiếng thét xung phong, / Rung cờ đại hội.
Còn cháy bên lòng, / Còn vọng núi sông. [có thể thiếu 1 câu]
Giờ đây sùng sục máu hồng cuộn trôi.
Trăng có sáng phương trời rạng đông.
Gió có reo lồng lộng đêm nay. / Cho ta nhắn bạn câu nầy:
Nhớ nhau xin chặt đầu Tây cho nhiều.
Rồi đây ta vỗ gươm reo. / Lũ ta nghèo súng không nghèo chiến công.
Rồi mai mốt cờ tung chiến thắng, / Ta gặp nhau đầm ấm làm sao !
Gươm thề chẳng hẹn lời trao. / Tình xưa đại hội ai nào quên ai ...
Đêm đã gần phai. / Trăng kia đã ngả bóng dài ngang sân". (Vô danh) (11)
Về Truyện và ký có Đôi mắt, Ở rừng, Đợi chờ, Truyện biên giới của Nam Cao, Du kích huyện của Tô Hoài, Làng của Kim Lân, Đường Vui, Tình chiến dịch của Nguyễn Tuân, Đất nước yêu dấu, Đêm giải phóng của Nguyên Hồng, Thư nhà của Hồ Phương, Xung kích của Nguyễn Đình Thi - được xem như là truyện dài đầu tiên thực địa về cuộc kháng chiến - những giao tranh ở chiến dịch Vĩnh Yên. Trong Đôi Mắt (1948), Nam Cao nói đến thay đổi nhãn quan, bỏ con mắt thờ ơ việc nước mà mang lấy đôi mắt của nhân dân; nhân vật chính, nhà văn Hoàng, từ một người "trí thức nửa mùa", "chỉ tài chửi đổng", "chẳng yêu một cái gì", giỏi buôn bán chợ đen, thích đọc Tam quốc, nuôi chó dữ, đã tự thắng bỏ cũ theo nếp sống mới, kháng chiến! Nhà văn yểu mệnh này ghi trong nhật ký Ở Rừng (1948): "cách mạng đã đổi hẳn óc mình, kháng chiến chẳng những làm già dặn thêm khối óc đã đổi mới kia, còn thay đổi ngay chính bản thân mình...".
Bên cạnh thơ văn trữ tình lãng mạn là thơ văn chính luận, loại dùng để kết tội, xử lý, ... tuyên truyền cổ võ cho một mục-đích, ý hướng, có khi không hẳn phải là văn-học yêu nước, những 'thơ văn' minh họa những anh bộ đội, v.v. Thơ văn đấu tranh cộng-sản tức thứ văn thơ mà đảng cộng-sản đề cao và gọi là cách-mạng yêu nước. Tính chiến đấu trở nên thường trực, phải là phẩm chất hàng đầu của nền văn nghệ, cũng là tính Đảng. Một thứ thơ văn đấu tranh với đề-tài, mục-đích dù sao vẫn là những thứ ngắn hạn, mang tính thời sự, Đề-tài cưỡng ép do đó đưa đến những bài bản không giá trị văn-chương và không sống mãi với thời-gian. Nhà văn viết tuyệt đối theo tư tưởng Đảng nhưng với ngôn-ngữ của nhà văn. Nhân vật, chủ đề thì theo hình tượng điển hình (hình tượng Tổ quốc, bộ đội anh hùng, nhân dân anh hùng, v.v.). Những nhà văn chân chính, đích thực hay muốn là lương tri của thời đại, có lúc cũng phải dằn vặt. Có người như Hoài Thanh đã phải phủ nhận công trình Thi Nhân Việt Nam của mình. Nhân Văn Giai phẩm là một thí dụ điển hình nhưng xảy ra sớm do đó các văn nghệ sĩ sớm cất tiếng ý thức đã phải khốn khổ phần đời còn lại. Ngay quan chức như Nguyễn Đình Thi đã phải viết hai vở kịch Con nai đen và Nguyễn Trãi Ở Đông Quan mà nhiều năm sau mới dám công khai nhắc đến như những vở kịch vạch trần sự nói dối.
Những Hội Văn Hóa Cứu quốc (9-1945), Văn Nghệ Việt Nam (1948) được thành lập, những tạp chí Tiền Phong, Văn Nghệ, Lúa Mới, Cứu Quốc Việt Nam, v.v. được ra mắt, để hổ trỡ cuộc kháng chiến. Báo-chí được chiếu cố, phát hành từ trung ương Hà-nội đến tận cùng các bưng biền cả ba miền. Trong khắp các liên-khu, vì vai trò của văn nghệ sĩ được đề cao nên họ bị theo dõi và chỉ đạo. Văn-học trở nên tập trung và được gọi là "văn-học cách mạng", chủ đạo và chi phối hết mọi ngành sinh hoạt; những tư tưởng bị gán nhãn "tư sản, phản động" bị loại trừ và kiểm điểm. Bản Đề-cương về văn-hóa Việt Nam (1943) được đem ra học tập và áp dụng và những Đại hội văn-hóa toàn quốc (lần 1, 12-1946) liên tục kiểm thảo, định hướng! "Nền" văn-học cách mạng ở các liên khu kháng chiến này trở nên cao độ sau 1948. Trong Nam, các chiến khu có những tờ Vệ Quốc (1946), Lá Lúa, Tiếng Súng Kháng Địch, Tổ Quốc, Tiền Đạo, Cứu Quốc, Nhân Dân Miền Nam (với phụ trương Tiểu Thuyết Nhân Dân), Văn Nghệ Miền Nam, ... phát hành đều đặn, nội-dung gồm những bài thơ văn, truyện ngắn, tùy bút và nghị luận, thông tin, tuyên truyền. Nhiều "nhà văn" như Anh Đức, Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành,... xuất thân và xuất hiện đều đặn trên các báo tuyên truyền này. Để cổ động và tuyên truyền mạnh hơn, giải văn-nghệ Cửu Long đã được lập ra (Sơn Nam từng được giải này về truyện ngắn Tây Đầu Đỏ). Tiếp là cuộc chiến "chống Mỹ", giải Nguyễn Đình Chiểu được lập ra từ 1965 để thưởng công những cây viết đã đạt được những tiêu chuẩn đề ra của "chủ-nghĩa anh hùng cách-mạng Việt-Nam của văn-học chống Mỹ", một "nền" văn-học có "đặc điểm thống nhất" là "sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng", như Từ Tuyến Đầu Tổ Quốc, tập thư của một miền Nam chống Mỹ!
Kịch thơ và kịch nói là những thể loại được sử-dụng nhiều trong giai đoạn kháng chiến. Từ 1945, ở Sài-Gòn đã có kịch thơ của nhóm Hoàng Mai Lưu (Hội nghị Diên Hồng, Đêm Lam Sơn, Mê Linh, ..), Tây Thi Gái Nước Việt của Hoàng Mai (Mai Văn Bộ), Giặc Cờ Đen của Ninh Huy, v.v.
Văn-học kháng-chiến dưới sự chỉ đạo và điều động của cộng-sản miền Bắc nay dần trôi vào quên lãng sau những đợt ghi lại lịch-sử và đề cao, nay mảng con rơi 1945-1950 của miền Nam thì lại được nói đến nhiều hơn. Tuy nhiên văn thơ do chỉ thị và chiến dịch giai đoạn thì giá trị văn-chương không có mà sự hiện diện của chúng cũng không bền lâu. Một cây viết của kháng-chiến thời này là Đoàn Giỏi sau này đã kiểm điểm như sau: "Truyện Cá Bông Má (1952) của tôi đã được viết đúng như chủ trương, mặc dù hồi đó viết như vậy tôi thấy cũng đã là "dám" vượt ra khỏi khuôn khổ quá xa rồi. Yêu cầu chỉ có cốt truyện, không cần tả cảnh, cảm xúc. Truyện như vậy, bây giờ tôi không muốn nhìn lại nó nữa, hoặc có đọc lại thì tôi không khỏi thấy buồn cười". Đoàn Giỏi phê bình cả những truyện thơ và kịch được giải thưởng Cửu Long thời kháng-chiến, "những tác-phẩm này bây giờ đọc lại thấy bình thường thậm chí có khi còn rơi vào tự nhiên chủ nghĩa (...) Chỉ có những chuyện của Sơn Nam bây giờ đọc lại vẫn còn thấy xúc động" (12). Bạn ông, Bảo Định Giang, 'tác-giả' nhiều tập 'ca-dao kháng-chiến', nổi tiếng với hai câu 'ca dao':"Tháp Mười đẹp nhất bông sen / Việt-Nam đẹp nhất có tên bác Hồ".
Nhìn chung, văn-học thời kháng chiến 1945-1954, với mục đích khẩn cấp, cấp thời, đã là những công trình bình thường về phương diện văn-chương hay thẩm mỹ học. Đãi lọc thì cũng có được một số tác-phẩm văn-chương như Chiến Sĩ Hành, Cây Ná Trắc của Vũ Anh Khanh, Sương Gió Biên Thùy của Lý Văn Sâm, Vó Ngựa Cầu Thu, Người Yêu Nước của Thẩm Thệ Hà, Tàn Binh của Sơn Khanh, v.v. Các lý thuyết văn-nghệ cũng có như đã trình bày, nhưng chưa qua thử thách và không có dịp thảo luận bình thường và công khai. Nhiều nghiên cứu và lý luận như tập Văn Học Kháng Chiến Chống Pháp 1945-1954 của Phong Lê, Vũ Tuấn Anh và Vũ Đức Phúc (1986) phê phán gay gắt và gần như phủ nhận thơ văn kháng chiến một cách "bộc phát" ở các thành phố và khu kháng chiến miền Nam không theo lập trường và chỉ đạo của đảng - họ phân biệt hai loại văn-nghệ sĩ "cách-mạng" và "tiến bộ". Ngay cả người từng được guồng máy đảng đề cao như Lý Văn Sâm cũng bị "đánh giá lại". Trên tờ Văn Nghệ Đồng Nai số 7 (1981) của Hội văn-nghệ tỉnh Đồng Nai (mà Lý Văn Sâm là chủ tịch): "Tiếc rằng tác-giả để ngòi bút của mình bị những chi tiết ly kỳ gây cấn, những cảnh ngộ éo le ngang trái dẫn đi khá xa, đến nỗi những tình cảm yêu nước bị chìm ngập trong không khí đường rừng phiêu lưu mang nặng màu sắc lãng mạn. Vì thế những nhân-vật của anh dù có nhiều đúc tính dũng cảm, phóng khoáng, cao thượng, trọng danh dự, cuối cùng cũng đều chịu một kết cuộc bi thảm, có khi kết cuộc bi thảm đó lại do chính những đức tính kia gây nên. Do tánh chất lưỡng phân đó, nên nhân-vật của anh chưa phải là nhân-vật tích cực theo đúng ý nghĩa của nó, cũng chưa phải là điển hình cho con người mầm mống của tương lai"(13).
Trong thời kháng chiến 1945-1954, miền Bắc đề ra những chính sách 'dân-tộc mới, cách mạng, khoa học và tiến bộ' để chống lại những cái mà họ gọi là 'chủ nghĩa vong bản' (có khi còn gọi là 'chủ nghĩa thế giới') cũng như chủ nghĩa dân-tộc của người quốc-gia và tự do là 'chủ nghĩa dân-tộc hẹp hòi' (14). Trí thức vong bản, văn-nghệ sĩ vong bản, kinh tế vong bản, cả nông dân cũng vong bản (thích nghe tân nhạc, v.v.), ... tất, nếu không xuất thân từ chính sách, đề-cương và lò tôi luyện của họ, đều là vong bản, đều không phải là tác-phẩm 'tốt', khán giả 'tốt'! Nhà văn ở những vùng họ gọi là 'vùng địch kiểm soát' nếu viết lên tình yêu đất nước vẫn bị những kẻ giáo điều miền Bắc phê phán là 'khách quan tư sản' và 'thiếu lập trường' nên không có nội-dung, chỉ trọng hình thức chủ nghĩa - thật ra vì nội dung và lập trường không theo ý họ và văn-nghệ cách mạng vô sản không quý hình thức văn-chương! Họ muốn đồng thời đẩy mạnh đấu tranh giai cấp, mà ở miền Nam lục-tỉnh cũng như miền Nam tự do, vấn-đề giai cấp không trầm trọng như ở miền ngoài! Nhưng một thiểu số người (sĩ có, nông có) trong Nam có cái Tôi quá cao nên đã bị chế độ miền Bắc sử dụng trong kháng chiến chống Pháp cũng như các MTGPMN, nằm vùng, nhị trùng, phản thùng, v.v.
Tinh thần ái-quốc ở miền Nam đã được biểu lộ dưới nhiều hình-thức: ái quốc cảm tính, lỗi thời, hiệp sĩ, nên bị lợi dụng; ái-quốc khoáng đạt, do đó dễ rơi vào sai lầm, bị lợi dụng. Văn-chương yêu nước và kháng-chiến 9 năm dù vậy đã góp phần đánh động lòng yêu nước, chống thực dân và đã là một phần tích cực của công cuộc kháng-chiến đó. Từ miền Nam văn-chương kháng-chiến đã trỗi lên, trong năm năm, 1945-1950, đã thành công khơi dậy và đi những bước đầu cho đại cuộc. Công việc văn-chương và cổ động đó đã được người đọc đón nhận một cách tích cực và hiển nhiên: văn-chương cảm hóa được lòng người, một thứ văn-chương dấn thân, không những ý tình tác-phẩm chuyên chở mà nhiều tác-giả đã thật sự dấn thân. Không những nhà văn thơ nhập cuộc mà cả nhà giáo, nhà báo và trí thức đủ ngành sinh hoạt (luật sư, thương gia, ...).Tất cả đã đồng loạt, mỗi người một con đường, phương pháp, tố cáo chế độ thực dân và cùng kết luận chỉ có một con đường cứu nước là đánh đuổi thực dân Pháp. Giai đoạn 1950-1954, đảng cộng-sản Việt-Nam dần nắm quyền điều khiển cuộc kháng-chiến, văn-chương trở vô các liên khu, từ Việt Bắc đến Đồng Tháp Mười, hình thành một thứ văn-học cách-mạng có tính đảng và giai cấp. Nhà văn Xuân Tước trong Hồi Ký 60 Năm Cầm Bút, đã kể lại kinh nghiệm mắt thấy tai nghe về kháng-chiến thời 1945, về những công tác văn-nghệ kháng-chiến ở nhiều Khu và các thành phố, như phe cộng-sản lấn chiếm những trại huấn luyện và đoàn Thanh Niên Cứu Quốc của kháng-chiến, như các lãnh đạo kháng-chiến ở Bắc (Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, ...) vào điều khiển cuộc kháng-chiến trong Nam.
Văn-nghệ vùng tự do
Các đảng phái quốc gia, dưới danh nghĩa chung Việt Minh lúc đầu kháng chiến, đã có những chiến khu, sau Việt Minh bị cộng sản hóa, các lực lượng quốc gia người bị tàn sát, người phải thiên sang đất Trung quốc, người về thành. Những năm 1946-1949, văn-nghệ sĩ theo kháng chiến về những chiến khu Việt Bắc, v.v. Hà-nội bị 'bỏ trống' do đó không thật sự có sinh hoạt trí thức và văn-nghệ. Từ khoảng năm 1950, tức từ khi có những vụ 'dinh tề' thì văn-nghệ ở thành bùng lên, ở Hà-nội một số nhóm văn-nghệ như nhóm Thế-Kỷ (tên tờ tạp-chí của nhóm gồm Bùi Xuân Uyên, Triều Đẩu, Tạ Tỵ, ..) chống kháng-chiến dưới sự chỉ đạo của đảng cộng-sản, nhưng cũng không hợp tác với Pháp, họ đi tìm một chủ nghĩa dân-tộc khác, một cách xây dựng 'tiêu cực', qua văn thơ và báo-chí. Trong số những nhà văn viết cho các báo và tạp-chí xuất-bản ở Hà-nội có thể ghi nhận Mặc Thu (Bão Biển, 1951), Trúc Sĩ (Kẽm Trống), Triều Đẩu (Trên Vĩa Hè Hà Nội), Nguyễn Thạch Kiên (Hương Lan, 1951), Ngọc Giao (Quán Gió, Mưa Thu, Đất, ...), ... chống kháng chiến cộng-sản, Hoàng Công Khanh (Trại Tân Bồi), Sao Mai (Ánh Mắt Mùa Thu 1952, Nhìn Xuống 1953) day dứt thân phận làm người Việt-Nam thời nhiễu loạn. Bên cạnh có văn-chương đô thị, lãng mạn với những Thanh Nam , Nguyễn Minh Lang, Vũ Đình Trung (Đồi Thông Hai Mộ), ... Có nhà văn thuộc quân đội quốc-gia như Kỳ Văn Nguyên (Những Kẻ Sống Sót, 1950), Nguyễn Ái Lữ (Sóng Gió, 1952), Huy Quang (Ngày Anh Trở Lại, 1951, Đôi Ngã, 1953), ... Phần lớn các tác-giả này, cũng như kịch giả Hoàng Như Mai với Tiếng Trống Hà Hồi (diễn ở vùng tề Hà-nội 1952, Vũ Khắc Khoan đạo diễn) đã dóng lên những tiếng nói yêu nước khác, không thuộc dòng kịch kháng-chiến chủ trì ở trong các Liên khu, phần còn lại diễn tả quan niệm sống trong thời chinh chiến!
Thời này, một số nhà thơ miền Trung xuất-hiện và dần vững bước thời văn-học miền Nam sau 1954, như Đỗ Tấn, Diên Nghị, Thanh Thanh, Thế Viên, Tạ Ký, v.v. Thơ yêu nước và kháng-chiến có mặt nhưng yếu hơn trong Nam dù về mặt văn-chương có nhiều nỗ lực sáng tạo. Một Hồ Hán Sơn (ký Trần Hồng Nam):
"Nhớ thuở / Anh cày thuê
Em chăn trâu / Bóng mát dưới cầu / Quen nhau ...
(...) Bao giờ / Giặc chết trên ngàn / Giặc tan ngoài bể
Nhớ lời em nhé / Và cánh đồng quê
Dù không may / Anh cứ về
Ai chê người đuổi giặc / Ai ghét kẻ thương binh
Còn làng, còn nước, còn anh
Còn đồng ruộng cũ, còn tình lứa đôi
Em vui / Nước nhà độc lập / đường quê tấp nập / Trai tráng về làng
Hai mùa lúa chin ngô vàng hơn xưa (Tình Nghèo, 1952)
Không xa một Kiên Giang Hà Huy Hà của Tình Quê Tình Nước - được ghi là sáng tác khi thì năm 1954 khi 1955, vì ý những câu chót đã/sẽ khác :
"... Quê hương là máu, là xương thịt, / Nước mắt mồ hôi của giống nòi,
Tranh đấu từ bao nhiêu thế kỷ, / Bảo tồn gấm vóc đến muôn đời .
Còn sống ngày nào trên đất nước, / Nếu ai xâm chiếm đến quê hương,
Tình quê sẽ xoá ra tình nước: / Tình nước đúc thành súng với gươm.
Lòng dân võ trang bằng tình cảm, / Tay dân võ trang bằng súng đạn.
Dân đứng lên siết chặt quân hàng: / Giặc vào đây giặc sẽ rã tan..."
Dù gì thì lịch sử đã ghi rằng quân đội viễn chinh Pháp rút hết ra khỏi Việt Nam ngày 25-4-1956. Nhà thơ đại tá Cao-đài Hồ Hán Sơn đã có bài thơ “Tiển đoàn quân viễn chinh Pháp” được in trên vài nhật báo Sài Gòn một hôm trước khi toán quân cuối cùng của Pháp xuống tàu rút quân vĩnh viễn. Tác giả của bài thơ này tuy ký là Vô danh nhưng về sau được biết là Hồ Hán Sơn. Có lẽ bài thơ này là tác phẩm cuối cùng của Hồ Hán Sơn, vì không lâu sau đó ông mất tích. Một người bạn của ông đã xác nhận như vậy!
"Ánh hồng chói rạng chân trời mới / Ngọn lửa đao binh tắt lịm rồi
Có kẻ chiều nay về cố quận / Âm thầm không biết hận hay vui
Chiều nay, / Kèn kêu tức tưởi nghẹn lời
Tiếng ngân xúc động dạ người viễn chinh
Chiều nay trên nghĩa địa / Có một đoàn tinh binh
Cờ rũ và súng xếp / Cúi đầøu và lặng thinh
Âm thầm giả biệt người thiên cổ / Đất lạ trời xa sớm bỏ mình
Thịt nát xương tan hồn thảm bại / Nghìn năm ôm hận cỏi u minh
Hởi ơi làm lính viễn chinh / Chiều nay bước xuống tàu binh trở về
Tàu xúp lê, tàu xúp lê / Cửa Hàm Tử lao xao sóng gợn
Bến Bạch đằng lởn vởn hồn quê / Bước đi những buớc nặng nề
Ngày đi không biết ngày về không hay
Một ngàn chín trăm năm sáu / Một ngàn tám trăm sáu hai
Giật mình bấm đốt ngón tay / Trăm năm một giấc mộng dài hãi kinh
Ngày anh đến đây, / Cửa Đà nẵng tan hoang vì đại bác
Xác anh hùng, Đinh Lý gục đâu đây
Giữ Gia Định, Duy Ninh liều mạng thác
Ôm quốc kỳ tử tiết giữa trùng vây
Phan Thanh Giản ngậm hờn pha thuốc độc
Bởi xâm lăng chẳng nhượng nước non nầy
Và Thăng long máu hòa ba thước đất
Mất kinh thành Hoàng Diệu ngã trên thây
Hởi ơi xương máu vẫy đầy
Chân anh dẫm đến nước nầy tóc tang
Tay gươm, tay súng / Bước nghênh, bước ngang
Anh bắn, anh giết / Anh đập, anh vằm
Anh đày Bà Rá Côn Loan / Anh đoạn Sơn La Lao Bảo
Anh đoạt hết cơm hết gạo / Anh giựt hết bạc hết vàng
Chém đàu ông lão treo hàng thịt / Mổ mật thanh niên giữa chiến tràng
Cối quết trẻ thơ văng máu óc / Phanh thây sản phụ ném vào than
Con lìa mẹ, vợ lìa chồng / Cây hết trái, nhà trống không
Người chìm đáy biển, người tấp ven sông
Người ngã trên núi, người gục trong rừng
Đây Cà Mau, đó Nam Quan / Thôi rồi mảnh đất Việt Nam
Hung hăng anh bóp trong lòng tay anh
Nước tôi đang độ yên vui sống / Mít ngát hương mùa bưởi ngọt thanh
Cỏ nặng tình quê khoai mến đất / Không thương nhau lại giết nhau đành
Cắn răng tôi chịu cực hình / Vuốt râu anh hưởng công trình của tôi
Nhưng thôi, / Hận thù kể mãi bao giờ dứt,
Bút mực làm sao tả hết lời / Nói mãi nói hoài thêm tủi nhục
Linh hồn thơm ngát tổ tiên tôi / Bao năm chiến đãu ta hiểu nhau rồi
Cái gì tàn ác và bạo ngược / Là trái lòng dân nghich ý trời
Sắt thép tinh ròng binh tướng dữ / Không sao thắng được trái tim người
Anh về là phải anh ơi / Về bây giờ để cho đời nhớ anh
Việt nam nước của tôi / Sông sâu đồng rộng / Trái tốt hoa tươi
Hà Nội kinh thành tràn sĩ liệt / Sài Côn đô thị rạng anh tài
Phú Xuân bừng chói gươm ưu quốc / Nghĩa nặng tình thâm vạn thuở nay
Việt nam nước của tôi / Già cũng như trẻ
Gái cũng như trai / Chết thì chịu chết
Chẳng cúi lòn ai / Tham lam ai muốn vô xâm chiếm
Thì giặc vào đây chết ở đây
Dù ai cắt đãt chia hai / Cho trong than thở cho ngoài thở than
Dù ai banh ruột xé gan / Cho tim xa óc cho nàng xa tôi
Thì anh cứ nhớ một lời / Ngày mai thống nhất liền đôi bến bờ
Anh về nước Pháp xa xôi / Chắc anh bao giờ quên được
Những là đường đi nước bước / Những là tên tuổi Việt nam
Suối Yên Thế tuôn tràn hậm hực / Đất Thái Nguyên câm tức nổi vồng
Tháp mười hận nước mênh mông / U Minh mấy trận bão lòng chưa nguôi
Bao giờ tôi chẳng nhớ / Nước Pháp rộng bao la
Cốt-Da-duya người thanh và cảnh lich / Bờ Mạc-xây xinh đẹp nhất sơn hà
Khí sông núi đúc nhiều trang tuấn kiệt / Bậc anh hùng cứu quốc Rốp, Gian-đa
Tôi nhớ mãi một ngày năm tám chin / Anh vùng lên phá ngục Bát-ti nhà
Anh giải thoát cho giống nòi đươc sống / Được yên vui trong đệ tứ cộng hoà
Anh vui anh sướng anh hát anh ca/ Tôi là người ở phương xa
Ngày anh xán lạn cũng hoà niềm vui
Thôi, / Đã đến giờ chia tay cách biệt / Anh rời nước Việt vừa tủi vừa mừng
Bên nhà vợ đợi con trông / Vắng anh tình mặn nghĩa nồng cũng phai
Tàu xúp lê một, tàu xúp lê hai / Bắt tay anh nhé anh về nước
Biển lặn trời êm nhớ lấy ngày / Và chẳng bao giờ quên chiến đấu
Cho ai đừng dến doạ đày ai
Bóng ngã trời tây, gió lồng biển cả / Phút giây từ giả
Trang sử trăm năm / Tàu anh rời bến Việt nam
Hãy xuôi một ngả một đường mà đi / Xin tàu đừng ghé bắc Phi
Sóng to gió lớn chắc gì đến nơi / Đừng oan trái nữa tàu ơi
Hảy xuôi về nước cho người hát ca / Anh về mạnh giỏi ô-voa".
3. Chiến tranh 1957-1975:
Đảng cộng-sản Việt-Nam giành độc quyền từ những thành phần yêu nước không cộng-sản, giành giơ cao ngọn cờ "yêu nước" vì mưu lược kế hoạch lâu dài và tuân theo chủ nghĩa quốc tế. Miền Bắc cộng-sản muốn xích hóa cả nước Việt-Nam, do đó đã ý đồ chiếm miền Nam bằng võ lực, ngay từ khi tiếng súng tạm ngưng với hiệp định Genève tháng 10-1954. Đề tài cải cách ruộng đất sôi nổi ngay từ 1953-1954, những năm cuối cuộc kháng chiến, nay rầm rộ lớn rộng, lên tiếng tố cáo, đấu tố và đấu tranh giai cấp. Trong những năm 1955-64, nhà văn miền Bắc viết lại kinh-nghiệm kháng-chiến chống Pháp và tỏ lòng thương miền Nam đưa đến mảng văn-học động viên đấu tranh song song với các chiến dịch Đồng Khởi và MTGPMN; nhưng cũng là thời của những vết thương Trăm Hoa Đua Nở, Nhân Văn giai phẩm!
Sự thành lập MTGPMN năm 1960 là sản phẩm của Hà Nội, nhưng sự tham gia nhiệt tình của một số người Nam theo thiển ý cũng là sự nối dài tinh thần đạo lý bình dân. Lịch sử là chuyện của lịch sử tập thể, nhưng ở đây chúng tôi nêu lên như một cắt nghĩa! Người miền Nam mở lòng yêu nước ra và người Cộng sản đã lợi dụng, hay có thể nói thêm rằng mọi người đều nghĩ lợi dụng thời cơ, tổ chức để thi thố, thực hiện lòng yêu nước, và trong mọi chiến thuật và tình huống, đã có người thua kẻ thắng, có kẻ lợi dụng có kẻ lòng ngay! Có thể nói người kháng-chiến miền Nam nếu có chung mừng "Cách-mạng Tháng Tám, Chiến Thắng Mùa Thu" nhưng có thể không ca mừng "chiến thắng Điện Biên Phủ" như người miền Bắc. Tết Mậu Thân 1968 là một thử nghiệm của guồng máy chiến-tranh miền Bắc, nhưng với người bên này vĩ tuyến 17, là một cơ hội để bạn thù có dịp phân minh, để những thành phần nằm vùng lộ mặt thật. Văn thơ phản chiến đã nở rộ ở các đô thị miền Nam, một phần phản chiến tự giác, phần kia nằm vùng và Cộng sản.
Thời chiến-tranh xâm chiếm miền Nam, là văn nghệ hiện thực phản ánh, xây dựng những hình tượng và tình cảm chống Mỹ, nguỵ. Văn học minh họa, các tác phẩm giống nhau, lẩn quẩn hiện thực, mỗi công trình là như một hòn đá xây chung bức tường cách-mạng một màu một kiểu:
"Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ
Hơn nghìn trang giấy luận văn chương" (Tiễn Bạn, Tố Hữu)
Tác-phẩm nào ra ngoài quỹ đạo chính thức sẽ bị phê (và đến nguy hiểm cho nhà văn) là "lệch lạc", là "hoang mang, hoài nghi, giao động" về cái gọi là "chiến thắng tất yếu của cách-mạng": từ các nhóm Nhân Văn Giai phẩm đến xét lại, v.v. Con chữ và lời, ý yêu nước dễ mang vạ vào thân!
Những nhà văn lớn ở tận trung ương đã phải tham dự việc hiện thực phản ánh, xây dựng những hình tượng và tình cảm chống Mỹ, 'nguỵ'. Tố Hữu (Miền Nam, Máu Và Hoa, Nước Non Ngàn Dặm, Theo chân Bác, Xuân 68, v.v.), Xuân Diệu (Tôi giàu đôi mắt), Chế Lan Viên (Những bài thơ giết giặc, Những Ngày Nổi Giận, Nhớ lấy để trả thù, Chim báo bão, ...), Huy Cận (Chiến-trường gần đến chiến-trường xa), Thâm Tâm (Căm thù, Đầu Quân, Lá Cờ Máu), Trần Huyền Trân (Soi Đường), Nguyễn Huy Tưởng (Bắc Sơn), v.v., nói chung không mấy giá trị văn-chương (của thời trước đó) vì mục đích trước mặt và nhu cầu cấp thiết. Tố Hữu ngồi ở Bắc bộ phủ gửi thơ vào "miền Nam trong lửa đạn, sáng ngời. Hà-nội, ngày 11-12-1963" như ghi ở cuối bài trong tập thơ Miền Nam được Ban tuyên truyền thành Đà-Nẵng in năm 1967 và người lính cộng hòa đã có thể tịch thu được trên xác người bộ đội sinh Bắc tử Nam, như tập Nhật ký của Đặng Thùy Trâm:
"... Ôi Tổ-quốc giang sơn hùng vĩ / Đất anh hùng của thế kỷ hai mưới!
Hãy kiêu hãnh: trên tuyến đàu chống Mỹ / Có miền Nam : anh dũng tuyệt vời"
Nhà thơ tay làm thơ tay cầm súng lục:
"Ai tạc chúng ta lúc này xin hãy tạc lời căm / Có những căm thù là hạnh phúc
Mặt ta rạng rỡ hào quang, tay ta hồng hào sinh lực / Có gì đâu ta sắp được giết mày'
Hay: " ... Ta đánh Mỹ vậy thì ta tồn tại"
Chế Lan Viên triết lý về hận thù, hăng đến độ triệt để: "Dĩ vãng buồn thương mang lá cờ đen / Đến làm giặc giữa lòng ta, ta bắn chết... ". Đem cả tiền bối Nguyễn Du ra để chống Mỹ: "Gặp Nguyễn nơi đây trên đất Quảng Bình / (...) Đêm thắng giặc Bảo Ninh, mẹ Suốt ngâm Kiều / Nhật Lệ sông dài thuyền mẹ lại qua / Câu thơ Nguyễn cũng góp phần đánh Mỹ ...". Thơ như vậy được đề cao là thơ chính luận, chi phối bởi cảm quan 'sử thi', nghĩa là trở thành tuyên truyền và thời sự! Yêu nước (được đổi thành Tổ quốc) bây giờ trở thành yêu xã hội chủ nghĩa!
Trẻ cũng được khuyến khích làm thơ chống Mỹ, với những cuộc thi thơ. Lâm Thị Mỹ Dạ :
"Tôi nhìn xuống hố bom đã giết em / Mưa đọng lại một khoảng trời nho nhỏ
Đất nước mình nhân hậu / Có nước trời xoa dịu vết thương đau
(...) Có phải thịt da em mềm mại trắng trong
Đã hóa thành những làn mây trắng? " (Khoảng trời hố bom)
Thời này xã hội cũng như văn nghệ được Đảng lãnh đạo chặt chẽ, văn học trở nên thống nhất, thành minh họa, không cá tính. Đường lối văn-nghệ cách-mạng qua các văn kiện của Đảng: văn-nghệ có nhiệm vụ chủ yếu động viên nhân dân đánh đuổi thực dân bảo vệ tổ-quốc; phương-pháp sáng tác hiện thực xã-hội chủ nghĩa, phản ánh cuộc song hiện thực như là đúng hướng đi của lịch-sử . Về nghệ-thuật phải điển hình hóa cao độ. Văn-học chiến-tranh phục vụ nhiệm vụ chính-trị của từng giai đoạn cách-mạng, mỗi thời theo những định hướng của tư tưởng chính trị có tính cách chiến lược của giai đoạn, từ chủ đề, nội dung và cả phương pháp sáng tác! Để đạt được mục đích thống nhất đất nước, thời 1957-1975, tiền tuyến nay ở trong Nam và phải thắng cho được 'giặc Mỹ'! Vì thế một bộ phận Đảng vào Nam, mà các văn nghệ sĩ cũng phải vào Nam đi 'thực tế' để có thể hoàn thánh sứ mạng mới. Các 'tác phẩm' làm ra trong cuộc chiến chưa đủ, sau 'hoà bình thống nhất', các nhà văn thơ vẫn phải tiếp tục 'nền' văn học cách-mạng chống Mỹ, vì 'giá trị của văn-học chống Mỹ trước hết là giá trị lịch-sử của nó' (15)
. Văn truyện được tung ra, những Nguyễn Thi (Từ tuyến đầu tổ-quốc, Người mẹ cầm súng, ..) , Hồ Phương (Kan Lịch), Phan Tứ, Nguyễn Sáng, Nguyễn Trung Thành (Rừng Xà-nu, Đất nước đứng lên, ), Trần Hiếu Minh, Trần Đình Vân (Sống như anh), Anh Đức (Hòn Đất), Nguyễn Đình Thi (Vào Lửa), Chế Lan Viên (Những Ngày Nổi Giận), Nguyễn Minh Châu (Dãu Chân Người Lính, Cửa Sông), ... Nhân vật Lữ của Nguyễn Minh Châu trong Dấu Chân Người Lính được xây dựng trên nền tảng anh hùng ca và là một người lính quá lý tưởng. Con tim yêu nước sang ngời nhưng người đọc không một lần biết được con tim tình cảm của anh hùng Lữ! Nhà văn Nguyên Ngọc dưới bút hiệu Nguyễn Trung Thành từ Bắc vào Nam tham gia cuộc chiến chống Mỷ và đã viết nhiều truyện và tiểu-thuyết; các nhân vật của ông "đều đã cầm súng chiến đấu từ một lòng căm thù, từ ý chí tiêu diệt giặc để bảo vệ cuộc sống và hạnh phúc" - không biết những tấm lòng và ý chí đó thật sự ra sao, hay chỉ là mỹ từ? Hăng quá rơi vào cường điệu cương: nhân vật Chị Út trong Người Mẹ Cầm Súng của Nguyễn Thi có những câu bất hủ như "Còn lại cái quần cũng đánh! (...) Đánh giặc sướng bằng tiên chớ cực gì!". Hai nhân vật chính của Mẫn Và Tôi (1972) của Phan Tứ là Mẫn và Thiêm theo sách giáo trình của Nguyễn Bá Thành và Bùi Việt Thắng là "hai ngôi sao sáng trên nền trời đầy sao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng toàn dân" (16). Chỉ là những sử thi của những nhân vật tiền chế, không dấu vết con người thật, có suy nghĩ và tình cảm, cùng lẽ phải, con người với bi hài kịch cuộc đời!!
4. Thơ văn yêu nước miền tự do từ sau đình-chiến tháng 7-1954:
Sau năm 1954, ở trong Nam và nhất là Sài-gòn hết còn nóng lửa chiến tranh, nhưng cuộc chiến vẫn âm ỉ, thời lập thuyết đấu tranh ý thức hệ bắt đầu, những mặt trận văn-hóa, những Phạm Thái, Thiếu Sơn, Hồ Hữu Tường,... Thời thơ của những Hồ Hán Sơn, Đỗ Tấn, Phan Lạc Tuyên, Hà Huyền Chi, Hoàng Trúc Ly, v.v. xuất-hiện trên các báo và tạp-chí Đời Mới, Nhân Loại, Mùa Lúa Mới, Nghệ Thuật, v.v. Trong tập 40 Năm Văn Học Chiến Tranh (1997), chúng tôi đã ghi nhận tổng quan các sinh hoạt và khuynh hướng văn-học. Trong khuôn khổ đề tài yêu nước, chúng tôi nghĩ có thể thâu tóm trong 3 khuynh hướng văn-học: yêu nước chống Cộng; yêu nước/ kháng-chiến thành và thiên tả và nằm vùng.
Những năm đầu sau 1954, nói chung, các tác-giả viết để ôn quá khứ, rút kinh nghiệm và xây dựng một miền Nam tự do, dân chủ. Tác-phẩm của những Kỳ Văn Nguyên, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ, Triều Lượng Chế, Đỗ Thúc Vịnh, Trần Lê Nguyễn, Võ Phiến , v.v. lấy chất liệu từ cuộc đời dấn thân kháng-chiến của những thanh niên thời chiến. Có người sử-dụng văn-chương cho chính-trị, lập thuyết, đao to búa lớn nhưng phần lớn làm văn-chương bình thường. Phan Lạc Tuyên qua bài Tình Quê-Hương:
"Anh về qua xóm nhỏ / Em chờ dưới bóng dừa
Ánh chiều lên mái tóc / Tình quê-hương đơn sơ
(...) Em hẹn em sẽ kể / Tình quê-hương đơn sơ
Mẹ già như chiều nắng / Nhớ con trai chưa về
Ruộng nghèo không đủ thóc / Vườn nghèo nong tầm thưa
Ngõ buồn mầu hoang loan / Quê nghèo thêm xác sơ... " (Mùa Hoa Mới, 1956)
Một Hoàng Trúc Ly nhẹ nhàng:
"Có người anh không quen / đến tôi nhà im cửa ngõ
Trời mưa phiêu bạt hoa đèn / Tâm sự nửa chiều cởi mở
Anh kể bài thơ / Ngổn ngang năm tháng
Thu xưa biền biệt áo tím kinh kỳ / Nắng không đè nổi vai người bước đi
đồng núi mênh mang / Dép mòn lá rụng / Xóm làng từ buổi thắm loang
Tàn phá đỏ loe đầu súng / Biết còn gì nữa ... người anh
Những mái nhà cay đắng chiến-tranh / Ruộng vườn ai lạnh lẽo cho đành
Từng vành khăn trắng như mây trắng / Xuân đến tha hồ thương tóc xanh
Đại dương lửa khói mờ nhân ảnh / Sực tỉnh nao nao khúc độc hành
Lạ lùng anh đến thăm tôi / Dừng chân mưa bay nhạt lối
Bóng chiều nghiêng xuống cuộc đời / Anh mỉm cười nghe đêm tối
Ngày ủng hoa sau lửa mắt khơi vơi". (Gặp Người Em, 1956)
Một Quách Thoại yêu dân chủ tự do :
"Chiều chiến-tranh / Những mẹ già run sợ
Và tiếng sung cối xay / Đêm sắp tối rồi
Người ta đang giết nhau quá mê say
(...) Ngoài kia vùng Bắc Việt / Nơi kẻ thù tôi
Và đồøng bào tôi / Đang giết nhau
Hỡi ôi / Đất nước chia đôi
Nam Bắc hai đầu / Nhìn nhau mà ruột đứt ..." (Những Buổi Chiều Việt-Nam).
* * *
Trong một khảo cứu về nhà văn Bình Nguyên Lộc viết năm 1996 (17), chúng tôi đã trình bày qua rằng Bình Nguyên Lộc bỏ bưng về thành, làm "kháng chiến thành". Ông xem văn chương là lương tri của thời đại, do đó ông đã kiên trì trong đường hướng này. Bình Nguyên Lộc yêu nước từ căn bản tình yêu đất, yêu làng quê nơi chôn nhau cắt rún (Tình Đất 1966, Cuống Rún Chưa Lìa 1969,...). Trong tác phẩm, Bình Nguyên Lộc rõ là có chủ trương đề cao và gìn giữ cội nguồn dân tộc, đề cao tình-yêu quê hương, đất nước, thiết tha với lịch sử dân tộc - thiết tha đến độ khảo cứu tận nguồn gốc dân-tộc với bộ Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt-Nam (1971). Tác-phẩm của ông mặt khác chứng minh thêm tính lạc quan, cũng là đặc tính làm nền cho tuần báo Vui Sống do ông chủ trương năm 1959. Báo Vui Sống (số 1 ra ngày 9-9-1959) là nơi quần hội những cây viết thường xuyên là: Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Diên Quỳnh, Nguyễn Ang Ca, Tô Kiều Ngân, Trang Thế Hy, Thiên Giang, Ngọc Linh, Kiên Giang Hà Huy Hà, Nguyễn Đạt Thịnh, Hà Liên Tử, Minh Phẩm (TTH), Minh Đức, Trần Lê Nguyễn, Từ Trẩm Lệ, Tường Linh, Khổng Nghi, Thanh Nghị, Lê Thương, Viễn Châu, ... Trong số có người từng đi kháng-chiến hoặc nằm vùng sau đình chiến 1954. Đặt biệt báo nhấn mạnh có sự cộng tác của 20 cây viết nữ: 'Cô Thu Trang, cô Linh Bảo, cô Minh Đức, cô Hương Trang. cô Linh Hà, cô Vinh Lan, cô Trúc Liên, cô Kiều Mỹ Thôn, cô Thạch Hà, cô Hợp Phố, bà Mộng Liên,.... '. Hợp Phố, Linh Bảo lúc đó đã nổi tiếng. Minh Đức văn trên báo hiền lành, trái hẳn với Minh Đức Hoài Trinh của Sám Hối, ... hoặc của Chiếm Lại Quê Hương, Bài Thơ Cho Quê Hương, Bên Ni Bên Tê sau này. Nhà văn Vinh Lan của Vui Sống mới đây xuất-bản tập truyện và ký Nỗi Sợ Và Niềm Hy Vọng (2006).
Lý tưởng của Vui Sống được in chữ đậm trong một cột nhỏ: "Tôi được Thượng đế mời dự đại hội liên hoan nơi thế gian nầy" Tagore Thi hào Ấn Độ (trích tập thơ Offrandes lyriques). Nhưng, xin chớ hiểu lầm! Vui Sống không có nghĩa là cười đùa hay buông trôi để tận hưởng cuộc đời. Và hội liên hoan không phải là những cuộc truy hoan. Vui Sống (la joie de vivre) là hòa mình với cuộc sống, để lấy thăng bằng hầu đủ can đảm mà làm việc. Trác táng không phải là Vui Sống, và kề gái đẹp, nếm rượu ngon, chỉ là nước bí của những kẻ mất thăng bằng. Vui Sống bắt nguồn nơi thanh thản của tâm hồn, mặc dầu ta bận rộn trí óc và nhọc nhằn xác thịt". Người đọc biết chủ trương, đường lối, quan điểm của Vui Sống qua các bài mở đầu mỗi số, như trong Vui Sống số 1 với tựa đề "Ngả ba số mạng : Cộp... Cộp... Cộp...- Lý tưởng đi vắng!":
"Trên đường lịch-sử, cứ vài mươi năm một, thì một dân-tộc tiến đến một ngả ba của số mạng của họ.
Đó là một khúc quanh lịch sử vô cùng nguy hiểm mà họ bắt buộc phải chọn nẻo, không thể trốn tránh được. Chọn đúng đường, họ sẽ đến nơi xán lạn, chọn lầm, họ sẽ rơi vào vực thẩm.
Mà một thế hệ hoang mang, không thế nào chọn đúng con đường được. Họ Phải Biết Cái Gì Họ Muốn, tức là họ phải có lý tưởng.
Năm 1945, ta đã đứng trước một ngả ba như thế. Ta đã chọn đúng con đường, là đem xương máu giành độc-lập, vì trong thời tiền-chiến, ta có lý tưởng rõ rệt, đó là ý-chí tự quyết-định số phận của mình.
Từ khi độc-lập được thu hồi, kẻ già an-phận vì kiệt lực, hoặc vì thích ngủ trên vòng hoa tráng lệ của thành công, còn thế-hệ mới thì ngơ-ngác không biết mình phải làm gì, trong khi còn không biết bao nhiêu công việc phải làm.
Cuộc phỏng vấn của Vui Sống, mà kết quả đăng bên trang 5, là bằng chứng hùng-biện của sự bỡ ngỡ của thanh niên hậu chiến.
Không lý-tưởng là nguồn gốc của bao nhiêu là cuộc đời thừa, có cũng như không, là nguồn gốc của bao nhiêu cuộc đời hư-hỏng, mà người ta không xét kỹ, cứ đổ lỗi cho nhiều nguyên nhơn khác.
Hồi tiền chiến, không nước nào có nhiều trà thất bằng nước Nhựt. Thế mà không thanh niên nước nào hăng hái với nhiệm vụ cho bắng thanh niên Nhựt của thời đó.
Hồi tiền chiến, số vũ trường ở V. N. không kém số vũ trường bây giờ. Thế mà lúc khởi nghĩa, thanh niên ta đã đứng lên đáp lời sông núi, trong sô chiến-sĩ ấy, có rất nhiều thanh niên đã đi nhảy.
Hồi tiền chiến, phim cao bồi vẫn chiếu ở đây. Thế mà thanh-niên ta thuở ấy không cao bồi.
Là vì thế hệ tuổi trẻ tiền chiến của ta có một chỗ nhắm để mà hướng tất cả tâm chí và hành động của họ về cái đích ấy: độc lập.
Trà thất, vũ-trường, hộp đêm, hay gì gì nữa, không là nguyên-nhơn chánh của sự buông trôi để hưởng-thụ. Những ánh đèn mê hoặc ấy không làm sao rù quến những con thiêu thân được, nếu những con thiêu thân kia có hào quang khác, rực rỡ hơn để mà say mê.
Khi thanh niên được hào quang lý tưởng chìếm lòng họ thì vũ nữ hay tiên nga đi nữa cũng chỉ là trò đùa giây lát, mà họ quên ngay sau vài giờ.
Nếu ta cứ lười nghĩ, dễ dãi tìm những nguyên-nhơn dễ-dàng và gạt-gẩm như thế thì không bao giờ ta trừ được căn bịnh đồi trụy cả.
Chánh thủ-phạm là sự thiếu lý-tưởng, sự rỗng không nơi trí và hồn của con người.
Vui Sống ra đời chỉ có một sứ mạng độc nhứt là gây cho thanh niên một lý tưởng. Khi họ có ngọn lửa thiêng ấy trong người họ rồi, thì xa hoa, trụy lạc khỏi phải trừ, cũng bị họ khinh thường.
Tham-vọng trên đây, Vui Sống cả quyết thực-hiện".
Dù một số biên khảo của trong nước có nhắc danh tính và tác-phẩm của Bình Nguyên Lộc nhưng đến nay chưa có thể kết luận rằng Bình Nguyên Lộc thuộc thành phần nằm vùng như Vũ Hạnh, Lý Văn Sâm, Sơn Nam, v.v. Nếu chỉ xét khía cạnh tư tưởng văn-nghệ dân-tộc qua các tác phẩm của ông cũng đã có thể liệt ông vào hàng ngũ yêu nước chân chất. Có thể với lý do đó mà trong nước đã vinh danh Bình Nguyên Lộc trong số các nhà văn "yêu nước tiến bộ cách mạng trên văn đàn công khai Sài Gòn 1954-1975" (18).
Văn-chương của những người lính cộng hòa theo nồng độ của chiến-tranh mà leo thang lên những góc độ hãi hùng, hiểm nghèo, từ cảnh tượng chiến trường đến tâm cảm, suy tư. Những Kinh Dương Vương, Trần Hoài Thư, Y Uyên, Nhã Ca, Nguyên Vũ, v.v. đưa chiến-tranh đến gần với người đọc. Khác với bộ đội miền Bắc, người chiến sĩ cộng hòa có thể viết về chiến-tranh một cách đa diện - dĩ nhiên nếu rơi vào phản chiến hay chống đối chế độ, sẽ bị kiểm duyệt cắt đục. Hồ Minh Dũng, với bài Khi giải ngũ về, đã nhắn nhủ người yêu dấu:
"Còn ba năm nữa anh sẽ về / anh biết chắc không còn quê hương để ở
em gắng sắm cho anh một cây đàn bầu / làm bằng nắp hòm người lính nghèo
chết ngoài mặt trận / anh sẽ đàn cho mọi người cùng nghe
mà không xin tiền / chỉ tìm lại ngững đôi mắt trân tráo
những bước chân đi qua vỉa hè / với nụ cười mà nhiều năm anh đã mất" (19).
Từ cuối năm 1963 là thời của đảo chánh, biểu dương lực lượng, người Mỹ đồng minh can thiệp công khai vào nội tình chính quyền miền Nam. ... Trong hoàn cảnh đó đã xuất hiện một số người thiên tả, phản chiến hay thiên cộng. Có người tự xưng là cấp tiến, lương tâm thời đại hay ý thức hệ dân quyền không cộng-sản! Phát sinh những nhóm Hành Trình, Thái Độ, Đối Diện, ... với báo chí, văn-chương xám (in roneo, phát hành bán chính thức, v.v.). Có người tự nhận là "thành phần thứ ba", có người thân cộng hay trở thành cộng sản. Họ là những trí thức ở thành thị, là sinh viên, giáo sư, nhà văn, nhà báo, tu sĩ. Thái độ của họ có khi chỉ là một thái độ tinh thần, chính trị hay luân lý nhưng có người dấn thân tranh đấu. Có người cho họ là can đảm nhưng hoạt động của họ bất lợi cho các chính quyền miền Nam và vô tình hay cố ý hỗ trợ hữu hiệu cho Mặt trận Giải phóng và cộng sản Bắc Việt. Có người ngây thơ hay không hiểu thấu đáo về cộng sản Bắc Việt hay Mặt trận Giải phóng, có người hoạt động có tính cách lãng mạn cách mạng. Bên cạnh họ có những nhà văn dấn thân tích cực, có thể nói đến Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Trần Hoài Thư, Thảo Trường, v.v. Nhân vật Lực của Thảo Trường đi lính cộng-hòa, phải theo chiến-tranh bom đạn và sống giữa những xác chết, của kẻ thù vă cả của đồng đội! "Cuộc chiến-tranh bây giờ là một cuộc giằng co khổ cực và giai dẳng. Giải đất quê-hương không còn là những hình ảnh êm đềm. Quê-hương đã bị dầy xéo, đã bị ung nhọt..." (Chạy Trốn, tr.37). Quê-hương đích thực không còn, trở nên xa lạ vì đã bị những kẻ cướp nhân danh đủ thứ chân lý. Mỗi con người là một hoang đảo, một kẻ khác, không ai cứu được ai. Tin được ai? Qua các nhân vật của Thảo Trường người đọc nhìn thấy đó là một đối kháng liên tục, những tra vấn không ngừng của con người trí thức, "cấp tiến", trong một xã-hội, đất nước đang lâm chiến và kéo dài, một cuộc chiến-tranh huynh đệ trong khung cảnh tranh chấp ý thức hệ của cái gọi là "chiến-tranh lạnh" của tương tranh quốc tế về sau biến dạng thành tranh hùng quốc-cộng nay vẫn còn tiếp tục.
Văn-chương gọi là "phản chiến", một mảng nhưng đa-loại chứ không đồng nhất, như chúng tôi đã phân tích khi viết về nhà văn Thảo Trường. "Thảo Trường thật sự đánh dấu một dứt khoát của dấn-thân và của một ý-thức muốn khác dòng tâm-thức đang thịnh-hành. Thật vậy, cùng với những trí thức, giáo sư đại học, trung học và nhà văn "cấp tiến" khác (Nguyễn Văn Trung, Trịnh Viết Đức, Lý Chánh Trung, Thế Nguyên, các LM Thanh Lãng, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần, ...), và khác với một dòng vận động trí thức khác, mạo danh "dân tộc", của những kẻ nằm vùng (Lữ Phương, Vũ Hạnh, Ngụy Ngữ, Trần Hữu Lục, Thế Vũ, . ..), Thảo Trường đã, qua các sáng tác văn-chương, vạch một ranh giới giữa vô thức và ý thức tích cực, giữa một dấn thân dù chân trời chưa rõ nét và một buông tay, chịu trận số-phận.
Trong cuộc chiến vừa qua, sống ở bên này hay bên kia thì người dân vẫn đã không có tự do lựa chọn. Nhưng có thể có thái đô. dấn thân khi đã chấp nhận định mệnh (chiến-tranh như một định mệnh), một chấp nhận rất hiện sinh mà cũng trung-thực không kém. Phản kháng trong khuôn định mệnh, tác-phẩm lấy bối cảnh cuộc chiến nóng bỏng đang diễn ra, đang tàn phá; nhưng Thảo Trường và một số nhà văn như Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Ngô Thế Vinh, Trần Hoài Thư, v.v. đã bị chụp mũ làm nhụt lòng chiến sĩ hoặc làm mất miền Nam, trong khi họ cầm súng bảo vệ miền Nam. Dĩ nhiên, họ là người dứt khoát của bên này chiến tuyến chứ không phải nằm vùng hoặc là người của bên kia - như Vũ Hạnh, Lữ Phương, Sơn Nam, Thế Nguyên, Ngụy Ngữ, v.v. là những người viết theo nghị quyết hoặc chỉ thị, làm công-cụ cho Mặt Trận Giải Phóng tức là Hà-nội! Như vậy, không thể xếp những nhà văn mặc áo lính nói trên vào số văn nghệ sĩ phản chiến được. Không thể tổng quát hóa cho rằng họ đã tiêu cực phản chiến làm mất miền Nam. Phản chiến đúng ra là một nhãn hiệu chỉ có thể áp dụng cho những nhóm thanh niên hoặc trí thức ở Hoa-kỳ hoặc Âu châu chống chiến-tranh Việt Nam; trong khi đó, các nhà văn trên đã nhập cuộc. Nói rằng họ nói lên cái ý chí phản kháng thì đúng hơn. Dấn thân, nhập cuộc là hình-thức hiện hữu trọn vẹn nhất của nhà văn qua tác-phẩm! Thật vậy, chân lý sẽ được tỏ ngời khi nó đã được nắm bắt hiệu lực qua các tố cáo, nhắc nhở, tra vấn, ... tức là qua phản-kháng! Dấn thân không chỉ trực diện, mà còn có thể đi đường vòng hoặc dùng các phương-tiện khác; vì phản kháng có những điều kiện và hậu quả cay đắng như tác-phẩm bị kiểm duyệt hoặc tịch thu và bị ra tòa - thường là tòa án quân sự. Thái độ dấn thân, phản kháng này được Thảo Trường đề cập nhiều lần, như trong Chạy Trốn, những thanh niên ở phía quốc-gia thì đi lính và chiến đấu nhưng khi đường cùng, thì quyết định không ... chạy trốn. Họ nhận ra chân lý rằng sự có mặt cũng đã là chiến đấu rồi. "Chiến đấu không cứ phải là bắn giết. Có thái-đô. cũng là chiến đấu" (tr. 58)."
Ngoài ra, có thể cùng chủ đích nhưng với mỹ-học khác với Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng, Nguyễn Hiến Lê, v.v. các tác-phẩm của Phan Nhật Nam, Thảo Trường, Thế Uyên, v.v. ẩn chứa tiềm tàng những cổ-xúy đạo-đức, những điểm nhắm chính-trị vừa con người cá-thể vừa con người tập-quần, và cả một chủ trương ngầm về văn-chương là gì, cho ai và để làm gì! Văn-chương ở đây là của dấn thân, của tra-vấn không ngừng, không nhân danh chủ nghĩa, ý thức hệ, nhưng nhân danh con người, nhân danh lương trí, ý thức, ... Như vậy, Thảo Trường và Phan Nhật Nam làm nhà văn dấn thân tham dự chiến-tranh, Thế Uyên dấn thân chính-trị làm cách-mạng xã-hội, Trần Hoài Thư, Ngô Thế Vinh, Nguyên Vũ, Hồ Minh Dũng, v.v. nhân danh con người và nạn nhân chiến tranh để phản đối chiến tranh còn những Vũ Hạnh, Thế Vũ, Thế Nguyên, Trịnh Công Sơn, Trần Hữu Lục, Ngụy Ngữ, ... đã phản chiến theo chỉ thị của guồng máy chiến-tranh trong đó một số đã bị lừa phỉnh!" (20).
Bút nhóm Việt ở Huế với Trần Hữu Lục, Trần Duy Phiên, Võ Quê, Đông Trình, Bửu Chỉ, Võ Trường Chinh, Tần Hoài Dạ Vũ, Nguyễn Phú Yên, Trần Hồng Quang, Huỳnh Ngọc Sơn, Trường Sơn Ca, Trần Phá Nhạc, Nguyễn Đông Nhật, Lê Gành... Trước 1975, họ viết theo chỉ thị, mệnh lệnh để tố cáo chế độ, xuyên tạc hay làm tuyên truyền, trên các báo Đối Diện, Bách Khoa, v.v. Là một nhóm trẻ theo Cộng "đánh Mỹ" và công khai chống chế độ cộng hòa miền Nam, được chế độ cộng-sản đánh bóng gọi họ là những "thanh niên trí thức đô thị miền Nam". Họ sử dụng chuyện nhỏ, tiểu tiết, ngoại lệ (ức hiếp, lợi dụng, 'chuồng cọp', v.v.) để tổng quát hóa làm lớn chuyện tuyên truyền. 'Chuồng cọp' của trại tù miền Nam - do thực dân Pháp làm ra, nhưng làm sao có thể so sánh được với nhà tù Hỏa Lò ở Hà-nội và những trại tù 'cải tạo' trên khắp nước Việt-Nam sau 1975 của cộng-sản? Nếu có thống kê thì những tù nhân của 'chuồng cọp' có mấy người đã chết vì tù hay gần như tất cả đều trở ra sau 1975 và làm chức lớn cả? Còn thống kê về những kẻ sống ở miền Nam bị đòn tù 'cải tạo' thì sao, bao nhiêu chết trong trại tù và bao nhiêu được thả về để chết ở nhà hoặc lê lết bệnh tật chết mòn? Sau 1975, nhiều người được chế độ thưởng công cho giữ những chức vụ trưởng, phó đầu ngành như Võ Quê, Trường Sơn, Lê Gành, Lê Văn Ngăn, Trần Hồng Quang, Tiêu Dao Bảo Cự, làm hội viên các Hội Nhà văn Việt Nam như: Võ Quê, Trần Hữu Lục, Đông Trình, Lê Văn Ngăn, Tần Hoài Dạ Vũ, Hội Nghệ thuật tạo hình Việt nam : Bửu Chỉ., Hội Nhạc sĩ Việt Nam (Nguyễn Phú Yên...).
Nhóm Ý Thức ở Phan Rang và các tỉnh miền Trung có tờ báo in ronéo Ý Thức và nhà xuất bản cùng tên tụ tập những cây viết Trần Hoài Thư, Võ Tấn Khanh, Mang Viên Long, Kinh Dương Vương, Hồ Mạnh Dũng, Ngụy Ngữ, Trần Hữu Lục, Trần Hữu Ngũ, Châu Văn Thuận, Phạm Văn Nhàn, Nguyên Minh, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Nguyễn Lệ Uyên, Chu Trầm Nguyên Minh, v.v. Cũng phản đối chiến-tranh nhưng nhóm Ý Thức của những người cùng tuổi với nhóm Việt, tỏ ra phẩn nộ với lương tâm và ý thức công dân khác nhóm ở Huế. Thơ truyện của họ viết chống các cấp chỉ huy xôi thịt, những cách điều khiển chiến-tranh phi lý, phí phạm, tả những cảnh cực hình lao công chiến trường (Kinh Dương Vương, Trần Hoài Thư) hay cảnh tòa án quân sự, hay trốn lính, đào ngũ, trình diện trễ, bất tuân thượng lệnh, v.v. Các cây viết thuộc khuynh hướng này nói lên cái tiêu cực nhưng đồng thời họ đang cầm súng chống cộng-sản và bảo vệ miền Nam. Sự có mặt của họ cùng với các nhà văn khác như Nguyên Vũ, Phan Nhật Nam, Ngô Thế Vinh, các nhóm Thái Độ của Thế Uyên, Hành Trình của Nguyễn Văn Trung, Trình Bày của Thế Nguyên, Diễm Châu, Giữ Thơm Quê Mẹ của văn nghệ sĩ và tu sĩ Phật giáo, Đối Diện của trí thức tu sĩ Công giáo, v.v. chứng tỏ miền Nam đã trưỡng thành về chính trị, chấp nhận đối lập và tiêu cực dù trong tình cảnh chiến tranh khốc liệt, dù rằng đức tính đó (và nhân đạo) đã bị lạm dụng và trong nhiều trường hợp đã tỏ ra yếu kém (Vũ Hạnh, Lữ Phương, Tin Văn, nằm vùng, gián điệp, v.v.). So với nhóm Việt, nhóm Ý Thức nhiều người cầm súng, để bảo vệ miền Nam tự do, không lựa chọn, hay nói cách khác họ phải bảo vệ đất nước của họ, dù họ biết cấp trên có người không tốt, chính quyền có thành phần lợi dụng, phung phí tài nguyên. Lời của Trần Hoài Thư "Tôi đang viết về một thảm kịch, cho con cháu chúng ta trong tương lai, để sau này khi lớn lên chúng sẽ hiểu về cuộc chiến này. đêm qua, cả làng bên sông, nơi mà bọn tôi đã đến và gìn giữ, sau đó bàn giao lại cho nghĩa quân và xây dựng nông thôn, đã bị pháo dập. địch kéo về cả đại đội chọc thẳng vào làng. Từ lâu những người bên kia đã coi cái làng như một cái gai cần phải nhổ bằng bất cứ giá nào. Những người ngồi ở Sài Gòn hay Hoa thịnh đốn thì muốn coi ngôi làng như một thành công trong chính sách bình định phát triển. Nhưng đó chỉ là lý thuyết. Họ đã ngu xuẩn để hiểu về kế hoạch bảo vệ dân làng về lâu về dài. Một trung đội nghĩa quân làm sao đủ sức che chở cả ngôi làng. (...) Tôi đã đến cùng với bãi hoang tàn để hiểu rõ hơn về sự thật của cuộc chiến. Cuối cùng cũng vẫn là dân vô tội. Rõ ràng chúng ta đã bị thua. Chúng ta đã đến với họ, mang lại niềm tin cho họ, nhưng chúng ta không thể bảo vệ họ..."(Nhật Ký Hành Quân). Cuộc chiến đã khiến con người đánh mất phẩm giá, trở thành biện minh dẽ dãi cho mọi hành động: "Chiến tranh, tôi phải cảm ơn nó, để tôi có thể dẹp bỏ hết những sự ghê tởm , khinh bỉ cái quá khứ rục mửa của tôi. Chiến tranh đã giúp cho tôi thấy rõ rằng mọi sự là vô nghĩa, là hư vô. đừng bận tâm và thắc mắc. đừng tự ái và ghê tởm. (...) Xã hội này thối nát này phải cảm ơn chiến tranh..."(21). Người lính của Trần Hoài Thư đáng tội, chỉ vì anh có suy nghĩ, biết nhìn thấy những bất nhân và bất công, những tâm địa và tư cách của những kẻ cùng chiến tuyến!
Sau 1975, Trần Vàng Sao đã viết Tôi Bị Bắt, Tiêu Dao Bảo Cự viết Nửa Đời Nhìn Lại rồi Tôi Bày Tỏ như một tự kiểm, Lý Quí Chung biên hồi ký Hồi Ký Không Tên (2005), không tên như thất vọng, bị dùng, không thể nói trắng ra và không lương thiện tự trách mình (tiên trách kỷ hậu trách nhân!). Thế Nguyên (tác-giả Cho Một Ngày Mai Mơ Ước, 1972) thì đã chết trong thất vọng, còn những Nguyễn Trọng Văn, Lý Chánh Trung còn đâu tiếng nói của lương tri? (Hơn nữa những gì các vị này phê phán miền cộng-hòa như đĩ điếm, nghèo đói, bất công hay sách báo, thời trang, Pepsi Cola của Mỹ thì nay đầy rẫy mà còn tệ hơn trước 1975!). Và những Thái Lãng (Nhật Ký Của Người Chứng, 1966, NXB Thời Mới của Võ Phiến), Thái Luân (Vùng Tủi Nhục, 1965) từ chống Cộng chuyển sang phản chiến chống Mỹ, họ nghĩ gì? Xin nhắc lại đây Trần Vàng Sao thời "bốn ngàn năm nằm gai nếm mật":
"Tôi bước đi / Mưa mỗi lúc mỗi to,
Sao hôm nay lòng thấy chật
Như buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọc
Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua
Nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước / Chim đậu trên cành chim không hót
Khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may / Tôi yêu đất nước này những buổi mai
Không ai cười không tiếng hát trẻ con / đất đá cỏ cây ơi
Lòng vẫn thương mẹ nhớ cha / Ăn quán nằm cầu
Hai hàng nước mắt chảy ra / Mỗi đêm cầu trời khấn Phật, tai qua nạn khỏi
Tôi yêu đất nước này áo rách / Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió
Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở / Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài
Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai
Tôi yêu đất nước này như thế "(Bài thơ của một người yêu nước mình, 1967)
* * *
Về các nhà văn nhà báo và trí thức năm vùng, cộng-sản hoặc yêu nước ở miền Nam sau hiệp định Genève 20-7-1954, thiển nghĩ hãy để lịch-sử sau này xét đoán vinh danh hay luận tội, hiện hãy còn khá gần để có thể có cái nhìn và kết đoán khách quan, trung thực; những Thiếu Sơn, Lưu Nghi, Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy, Thẩm Thệ Hà, Ngọc Linh, Kiên Giang, Ái Lan, Kiêm Minh, ... Tuy nhiên đã có một số khá hiển nhiên như Vũ Hạnh, Sơn Nam, Lê Vĩnh Hòa, Nguyễn Bảo Hóa, Dương Tử Giang, Lý Văn Sâm, Thái Bạch, Lữ Phương, Vân Trang, ...
Xin nói qua vài tạp chí và tên tuổi cánh tả.
Nhân Loại với chủ trương 'phục vụ văn-chương lành mạnh' như ghi trên tiêu đề báo bộ cũ 1955 đến 1956. Bộ mới từ tháng 4-1956 đến 1958 thì đình bản. Tiếng nói của văn-học miền Nam lục-tỉnh tiếp nối dòng văn-học Hồ Biểu Chánh, đăng truyện Nguyễn Chánh Sắt, Phi Vân, v.v. Có mặt Dương Tử Giang, Hợp Phố, Ngọc Linh, Viễn Phương, Lý Văn Sâm, Lê Vĩnh Hòa, Văn Phụng Mỹ Trang Thế Hy, Tiêu Kim Thủy Tô Nguyệt Đình, Kiêm Minh, v.v. Từ đầu đến gần cuối, tờ Nhân Loại là cơ quan ngôn luận bị Việt cộng thao túng sử dụng. Cùng trường hợp có nhà xuất-bản Phù Sa của Ngọc Linh (từng xuất-bản sách của Ngọc Linh, Lê Vĩnh Hòa, Sơn Nam, v.v.), nhà xuất-bản Trùng Dương của Lưu Nghi và Lá Dâu do Thẩm Thệ Hà phụ trách.
Tạp chí Bách Khoa ra mắt tháng 1-1957, do Huỳnh văn Lang điều khiển và viết bài về kinh tế; Phạm ngọc Thảo viết về quân sự, chính trị, ... 1958 Lê Ngộ Châu điều hành khi ông Lang đi tu nghiệp ở Mỹ, nhưng báo vẫn đứng tên Huỳnh văn Lang cho đến tháng 2-1965 dù sau đảo chánh 1-11-1963, ông Lang bị đảo chánh bắt vì tội ... Cần Lao. Bách Khoa vào những năm cuối trước tháng 4-1975 từng đổi ra Bách Khoa Thời Đại. Khi viết về văn-học miền Nam thời này, Võ Phiến nói đúng nhưng không đủ, có thể vì ông trong cuộc, khi cho rằng : " ... Bách Khoa là một tạp chí dung hòa rộng rãi mọi khuynh hướng. Không có chủ trương "văn nghệ cách mạng" cũng không chủ trương "vượt thời gian", nó đăng bài của các lão thi sĩ tiền bối Đông Hồ, Quách Tấn, Vũ Hoàng Chương, lẫn truyện của Thanh Tâm Tuyền, Trùng Dương... Về mặt chính trị, sức dung hòa của nó khiến có lần Nguyên Sa nói đùa: Bách Khoa là một vùng xôi đậu. Nó đón nhận cả Nguyễn văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Vũ Hạnh, lẫn Võ Phiến, Vũ Bảo..."(22). Nguyên Sa nói đúng hơn! Huỳnh Văn Lang chủ nhiệm với tinh thần bình dân học vụ, văn-hóa cần lao nhân-vị, Phạm Ngọc Thảo, Nguyễn Ngu Í... là người cựu kháng chiến, Võ Phiến từng ở Khu 5 kháng chiến, với bút hiệu Tràng Thiên và Thu Thủy (phê bình sách của Võ Phiến), những năm cuối trước 1975 là thời của Nguyễn Mộng Giác, Trần Hoài Thư, Phạm Long Điền, ... Vũ Hạnh lèo lái những người làm văn-hóa 'dân tộc'. Lê Ngộ Châu cũng như Nguyễn Hiến Lê là những người cẩn mực, có văn-hóa và tin người, riêng Nguyễn Hiến Lê vì tự tin đã tẩy chay giới cầm quyền chính trị văn-hóa thời cộng-hòa và có cảm tình với những người cộng-sản dưới áo khoác bảo vệ văn-hóa dân-tộc kiểu Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Văn Giáp, ... cộng tác với Tin Văn ("Văn-chương và dân-tộc tính", số 10, 1966). Sau 1975 thì Nguyễn Hiến Lê đã thức tỉnh và chỉ nhẹ nhàng phê chế độ cộng-sản phớt qua trong Hồi Ký (vẫn bị kiểm duyệt ấn bản in trong nước). Bách Khoa còn là đất vẫy vùng của những nhà văn nằm vùng hoặc cảm tình viên Việt cộng như Vân Trang, Thiếu Sơn, Trần Thúc Linh, Hợp Phố, Đông Trình, ... Người cộng-sản cũng như quốc gia và yêu nước không tả không hữu đều đã dùng người khác làm bình phong để thao túng, như với Bách Khoa, hay với Sinh Lực, Mai (Hoàng Minh Tuynh), v.v. hoặc đã dùng những chủ trương lành mạnh hóa xã hội, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bình dân học vụ, hội Khổng học, ... Nhưng chúng tôi không đồng ý với nhận xét cho rằng những nhà văn trẻ của thời cuộc chiến và văn thơ ca nhạc chống chiến-tranh cao độ nhất như Trần Hoài Thư, Kinh Dương Vương, Hồ Minh Dũng, Ngô Thế Vinh, ... bị cộng-sản lèo lái đưa vô tròng. Dĩ nhiên những người khác hoặc có kẻ hở, ngây thơ, háo thắng hoặc mạng nhện tình lý đã bị dùng như con cờ; đó là những Thế Nguyên, Ngụy Ngữ, Nguyễn Trọng Văn, Trần Hữu Lục, Bảo Cự, Trần Vàng Sao, ... bên văn thơ, và những Trịnh Công Sơn, Miên đức Thắng, Nguyễn đức Quang, Phạm Thế Mỹ, ... bên nhạc.
Do trung ương cục và đặc khu ủy Sài-Gòn-Gia Định do Trần Bạch Đằng chỉ đạo, tờ Tin Văn ngoài Nguyễn Nguyên (Nguyễn Ngọc Lương), Vũ Hạnh, Hoàng Hà, Vân Trang, Mặc Khải, Phương Đài, Thái Bạch, ... còn lôi kéo thêm Nguyễn Trọng Văn, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Văn Xuân, Minh Quân, Phan Du, ... Dùng dân-tộc làm bình phong, do đó khi chiến lược cần, lại hô hào tự do: nhóm tung ra "Bản tuyên ngôn của văn-nghệ sĩ về tự do sáng tác, tự do biểu diễn, tự do xuất-bản" ngay trong số ra mắt (6-6-1966)!
Vũ Hạnh viết cho nhiều tờ báo dưới nhiều bút hiệu Nguyên Phủ, Minh Hữu, Hoàng Thanh Kỳ, cô Phương Thảo, hoạt động trong Văn Bút Việt-Nam, tổng thư ký Hội Bảo vệ văn-hóa dân-tộc, một tổ chức ngoại vi của Việt cộng, viết phê bình, điểm sách và lý luận, tranh luận văn-nghệ (Tìm Hiểu Văn Nghệ 1970, ...) trước sau một ý cưỡng ép văn-nghệ làm chính-trị một chiều, dùng cả biệt hiệu tác-giả A. Pazzi lẫn dịch giả Hồng Cúc (cùng tên với phụ trách tòa soạn Tin Văn) dịch cuốn Người Việt Cao Quí để lừa người đọc, cuối cùng bị bắt ở tòa báo Bách Khoa (7-1967) - nhưng được chế độ pháp quyền và nhân đạo miền Nam buông thả (cùng áp lực của LM Thanh Lãng chủ tịch Văn Bút tin người và "ngây thơ" về cộng-sản!).
Sơn Nam trong thời kháng-chiến hoạt động ở miền Tây và Khu 9 và từng được giải giải Cửu Long 1952 với hai truyện ngắn Tây Đầu Đỏ, Bên rừng Cù lao Dung ký Phạm Minh Tài - cũng như khi cộng tác với báo Nhân Dân Miền Nam do đảng cộng-sản điều khiển, Trần Bạch Đằng phụ trách có đăng các truyện ngắn Tây Đầu Đỏ, Bên rừng Cù lao Dung, Cây đàn miền Bắc, v.v. Hai truyện đầu chống thực dân và địa chủ tức đấu tranh giai cấp và 'dân-tộc'; truyện sau đề cao tình đồng chí Bắc Nam. Trong Tây Đầu Đỏ (khu kháng-chiến xuất-bản thành tập cùng tựa), vì mắc nợ trả chưa đủ mà bị 'tên' tây bắt con bò đang chửa mổ bụng lấy bào thai nhắm rượu để trừ nợ:
"- Trời ơi! Phen này mổ bụng con bò chửa của tôi để trừ nợ. Thiệt sao, thầy Tư?
- Ổng nói vậy đó. Không tin, lát nữa ông qua bứng cột nhà cho coi"(23).
Sau đình chiến 10-1954, theo nhà văn Xuân Tước (24), Sơn Nam dựa bóng Bình Nguyên Lộc và Vương Hồng Sển để nằm vùng ỡ Sài-Gòn, bị bắt tù hai lần, 1960 và 1974. Suốt thời cộng hòa, Sơn Nam viết nhiều về lịch sử, văn-hóa và một số tiểu thuyết xã hội thời cựu trào.
Nguyễn Bảo Hóa là nhà văn yêu nước "tiến bộ" thời đầu kháng-chiến Nam-bộ, về sau theo cộng-sản nằm vùng sinh hoạt báo chí và trở qua viết tiểu thuyết dã sử đăng nhật trình. Lê Vĩnh Hòa tác-giả nhiều truyện ngắn trên Nhân Loại, Bách Khoa, v.v. sau xuất bản tập Mái Nhà Thơ (1965) và Người Tị Nạn. Ông chết do bom dội trong bưng, còn Dương Tử Giang, thì vượt ngục Tân Hiệp bị bắn chết năm 1956.
Trang Thế Hy (còn ký Văn Phụng Mỹ, Minh Phẩm, Triều Phong, Vũ Ái, Phạm Võ,...) xuất-bản Nắng Đẹp Miền Quê Ngoại (ký Văn Phụng Mỹ, 1963), làm thơ viết truyện ngắn và tiểu thuyết (đăng báo), có những tác-phẩm nổi tiếng như bài thơ Khoai Ngọt Bánh Đắng ký Minh Phẩm được Bình Nguyên Lộc đưa vào truyện Quán Bên Đường và Phạm Duy phổ nhạc, truyện ngắn Người bào chế thuốc giảm đau, ... Là cảm tình viên của Mặt Trận GPMN "chống Mỹ", sống ở Sài-Gòn, cộng tác với Nhân Loại, Vui Sống, Bách Khoa, v.v. bị bắt 1962 và sau đó vô bưng ở Củ Chi 1963, viết báo viết truyện đăng báo của Thành ủy Sài-Gòn ký dưới nhiều bút hiệu ông, truyện ngắn Anh Thơm râu rồng được giải văn học Nguyễn Đình Chiểu của Hội Văn nghệ Giải Phóng miền Nam Việt Nam 1960-1965, truyện ở tù của một phu đạp xích-lô 'cảm tình viên Việt cộng' đặt truyền đơn bị công an Cộng hòa bắt giam, trong tù anh gặp nhiều người cùng hoàn cảnh hoặc nạn nhân của những đấu tranh giai cấp chống 'địa chủ'. Sau 1975, ông có thêm các tập truyện ngắn Mưa Ấm (1981), Người Yêu Và Mùa Thu (1981), Vết Thương Thứ 13 (1983), Nợ Nước Mắt (2002), tập truyện ngắn và hồi ức Tiếng Khóc Và Tiếng Hát (1993) và mới đây, tuyển tập Truyện Ngắn Trang Thế Hy (2006). Ông viết trên dưới 50 truyện ngắn, không nhiều như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam. Thời chiến tranh 1957-1975, ông viết theo chiều hướng đề cao người theo Mặt trận chống lại miền Nam cộng hòa, cũng như khuyến khích cầm súng và vô bưng. Trong Mưa Ấm, cô gái tên Thu 'cảm tình viên cộng-sản', thuộc một 'tổ chức mà em phải chấp hành mệnh lệnh' rủ người yêu ra vùng giải phóng nhưng chàng Diệp chỉ muốn làm 'một người chân chính cỡ nhỏ' tức 'tham gia đại cuộc nhưng không toàn tâm toàn lực'. Dù sao thì con người Trang Thế Hy, cũng như tác-phẩm, thẳng thắn, chống bất công và những chuyện bất bình, yêu sự thật, dù có bị lợi dụng, tâm hồn bộc lộ qua những lời lẽ tự nhiên như bài thơ Lời nói dối nhân ái, ... không quỵ luỵ quyền hành dù là với những người 'bạn' từng chung chiến đấu thời kháng-chiến (truyện Chất Liệu), và lúc nào cũng lòng nhân ái (truyện Thèm Thơ, Chuyện Người Chế Thuốc Giảm Đau, ...). Truyện Thèm Thơ kết thúc trong nuối tiếc:
"... Loan ơi! Chết đem theo sự thèm nghe thơ và sống mà thèm nghe thơ chưa biết ai khổ hơn ai. Bài thơ mà em thèm nghe và anh thèm làm cũng chẳng đẹp gì cho lắm. Để thèm nó có lẽ ít buồn hơn là thưởng thức nó với sự đau xót trong lòng. Sẽ có một ngày kia, khi một cô gái ôm một chàng trai trong giấc ngủ yên lành, thì hơi ấm của cô ta tạo ra không gợi đến một tứ thơ cay đắng như em nghĩ. Bài thơ về hơi ấm đó sẽ có người làm và làm hay hơn bây giờ.".
Lòng thương người nhuốm sự bất lực không làm được gì nhiều, như trong một truyện ngắn khác, Một Thiếu Nữ Không Đáng Kể, đăng trên Nhân Loại năm 1957! Hoặc như nhân vật nam trong Nắng Đẹp Miền Quê Ngoại trong cơn lốc của chiến-tranh đã 'bán đứng' người con gái tên Thơm, cũng là bạn thời nhỏ, đẻ phải hối hận bên nấm mồ: "Em Thơm ơi! Có những kẻ muốn tàn phá hết, sát phạt hết không muốn chừa lại một chút gì tươi đẹp trên giải nước non này. Nhưng cái đẹp vẫn muôn đời tồn tại: biển cỏ đẹp, dòng kinh đẹp, màu nước đẹp, cô gái chèo ghe đẹp, tiếng hót con chim đẹp và tấm lòng bao dung tha thứ của người cha rộng lượng của em cũng đẹp đẽ vô cùng. Đến như cái tâm tư đen tối của anh mà cũng chói lên được vài tia sáng đẹp dưới ánh nắng miền quê ngoại. Anh không đổ thừa chiến-tranh để mong em tha thứ như người cha thân mến của em đã vịn vào đó mà xá tội cho anh. (...) Anh chỉ muốn hứa với em rằng tâm tư u tối của anh từ đây sẽ trong sáng lần lần nhờ sự soi rọi của nắng đẹp miền quê ngoại" (25).
Trang Thế Hy cũng như một số những người miền Nam (và cả nước) thiên tả vì lý tưởng yêu nước và nhân đạo, viết cho một sứ mạng xã hội, ông đứng về phía những người bị đàn áp, những nạn nhân của địa chủ, guồng máy chính trị và thực dân, cả guồng máy và con người cộng-sản sau 1975.
Văn thơ của những người yêu nước vì yêu nước, chân thành yêu nước, chân thành kháng-chiến, chống mọi bạo quyền bạo lực; văn thơ của những người này tự nó có giá trị đánh thức, tố cáo và phục vụ tình tự dân tộc. Lòng yêu nước xuất phát từ chế độ thực dân thành ý thức và hành cử kháng-chiến, như đã nói, người yêu nước miền Nam tự nguyện hoặc bị chiến thuật chiêu hiền hoặc tâm lý chiến mà sát nhập hoặc đi dưới trướng của Mặt trận GPMN; những người khác thành đối lập hay lực lượng chính trị sinh hoạt một cách dân chủ (Liên trường, Đại Việt miền Nam, 'Hoa Sen', Trần Văn Hương, Dương Văn Minh, v.v.), những thế đứng khác nhau, thành-bại, hay-dở đã là những kinh nghiệm! Cái nhãn có thể không quan trọng, nhưng lòng yêu nước chân thành nếu có, sẽ sáng tỏ với thời gian!
5. Những thăng trầm, ngụy tín, từ khi thống nhất:
Thống nhất đất nước xong là những chiến dịch bôi xóa, tịch thu, cấm đoán những văn-hóa phẩm của miền Nam 'thua cuộc', là tù đày, tra khảo những người làm văn-hóa văn-học ở miền đó. Chúng tôi đã có dịp viết về những sự kiện văn-hóa này trong bài "Văn học tự do khai phóng vẫn là nguồn hy vọng!"(26), do đó ở đây chỉ ghi lại đôi điều.
Từ Đề Cương về Văn-hóa Việt Nam (1943) qua thời kháng-chiến chống Pháp, chống Mỹ, văn-học đã bị chính-trị và guồng máy hóa, cơ cấu hóa, từ chủ đạo tiến sang độc tôn. Văn-học trong một thời-gian dài đã bị dùng như phương tiện, công cụ, chức năng bị hạ thấp ở giáo dục, tuyên truyền, trở nên công thức, dần dà qua thời Đổi Mới (1987) mới nhận ra thêm chức năng thẩm mỹ (mỹ cảm) và tính đa diện của văn-chương! Hiện thực rời sử thi, chỉ thị để xuống đường, đụng đến đời thường và con tim có những mạch máu. Từ đó sinh ra những nỗi buồn thật của chiến-tranh, những hiện thực của những Bến Không Chồng (Dương Hướng), Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma (Nguyễn Khắc Trường), Bước Qua Lời Nguyền (Tạ Duy Anh), v.v. Chu Lai phải Ăn Mày Dĩ Vãng, Lê Lựu phải trở về Thời Xa Vắng, Trần Mạnh Hảo phải Ly Thân, tất cả đã phải trở về quá khứ để có thể sống đời thường hôm nay, dùng quá khứ làm chỗ dựa tinh thần. Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh - được viết với tiềm thức, với ký ức trí tưởng và với tưởng tượng, đã nương theo phong trào Cởi Trói để viết công khai rằng người lính đã có thể nghe và nhìn thấy "những lời đồn đại, những sấm truyền và những lời tiên tri" (bản 1989, tr. 15), "những linh hồn lồm xồm lông lá", râu tóc quá dài, cởi trần truồng ngồi trên một thân cây "tay cầm lựu đạn"; những "bóng ma rách bươm, uyển chuyển và huyền bí, lướt ngang luồng ánh sáng rồi mất hút đi với mái tóc đen dài xõa bay". Những hồn ma của đồng đội từng là những con người biết cầm súng, biết yêu thương, được người sống kêu gọi "Anh là ai? Hãy ra với chúng tôi. Chúng tôi là bạn. Chúng tôi tìm anh, chúng tôi đã tìm anh bấy lâu nay, khắp nơi". Đời lính phải chứng kiến biết bao cái chết nhưng với Kiên, những cái chết ấy sao thảm thương, đau đớn quá! Có những người chết mà không được một nấm mồ, chết mà không còn nguyên vẹn thân xác để hồn mãi lang thang: "hồn bơi ra khỏi xác biến thành con ma cà rồng đi hút máu người". Có những người chết trở thành "đống giẻ nát nhừ vắt mình trên bờ công sự ". Bao nhiêu cái chết dồn dập về trong tâm trí Kiên. Truyện là "bầu không khí của những khu rừng tăm tối, ngùn ngụt tử khí và lam chướng, mờ mịt bóng yêu tà. Những di vật và những bộ xương mũn nát được vớt lên từ đáy những rừng cây ấy". Nếu trước đó thơ văn của Chế Lan Viên, Tố Hữu, v.v. rùng rợn thì vì phong phú tưởng tượng hơn là hiện thực, thì rùng rợn của Nỗi Buồn Chiến Tranh là của đời thường. Đây là tiểu-thuyết về một thế giới dị thường, về đêm tối - theo tác-giả, biểu tượng của chiến tranh là bóng đêm và những cơn mưa dày dặc trong rừng sâu! Tưởng huyền ảo, rùng rợn mà là hiện thực sống qua, do đó đã thành công gây được nơi người đọc những cảm xúc đau xót, ghê tởm chiến-tranh và con người, mở ra một tính nhân-bản như một khám phá mới, một tìm thấy (vì có đi tìm)!
Sau 1975, guồng máy "chiến thắng" tung hàng loạt ấn phẩm gọi chung là "thơ văn cách-mạng, kháng-chiến chống Pháp và chống Mỹ", nào là anh hùng ca, trường ca, hành, ... Người viết "lớn" có (Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, v.v.) "nhỏ" có, từ bưng biền ra (Anh Đức, Lý Văn Sâm,..), từ vùng nằm ra mặt (Vũ Hạnh, Lữ Phương, Sơn Nam, Bảo Cự, Cung Tích Biền, Thế Hoài, Trần Hữu Lục, v.v.). Văn thơ yêu nước và cách-mạng trong chiến-tranh 1945-54 (và cả 1957-1975) đã không thật sự có phần phản kháng, như sau 1987 cho đến nay. Trong vùng kiểm soát của đảng cộng-sản Việt-Nam, thơ văn phải phản ánh hiện thực theo quỹ đạo chính thức (chủ nghĩa hiện thực xã-hội chủ-nghĩa) - ngay đến 2005 mà Bóng Đè của Đỗ Hoàng Diệu viết theo linh cảm của thế hệ trẻ về tổ quốc mà hãy còn bị phê phán là không biết lịch-sử, quá-khứ, chiến-tranh nên đã "bắn súng lục và nã đạn vào quá-khứ". Hay truyện Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư đăng ba kỳ trên báo Văn Nghệ, và nhà xuất bản Trẻ in 2005, sau bị công văn của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tỉnh Cà Mau quy kết tội nhà văn trẻ thuộc diện quản lý của mình viết truyện đó có ý bôi xấu hiện thực quê hương vùng miền (!).
Văn chương kháng chiến cũ là tô hồng nên đã xa, sai sự thật, còn những Bảo Ninh, Nguyễn Minh Châu, Dương Thu Hương, v.v. sau này đã dũng cảm khi viết ra một số sự thật khác với chính thức, đó là phe bộ đội cũng có những tổn thất và những hành động tàn ác. Văn thơ kháng chiến cũ, đã chỉ vẽ ra được cái đại thể, cái đa số tốt đẹp, cái chiến thắng, còn thì kỵ tránh nói đến phần mất mát và xấu xa. Thường được tiếng nói chính thức xem đơn lẻ chứ không thuộc về bản chất của quân cách mạng. Thật ra, đã không ai viết thật (đúng sự kiện, thật lòng, thật biết) vì đã chỉ làm nô lệ cho một lý thuyết giáo điều, một ý thức hệ, ngày càng mơ hồ và cả bất lực! Đề cập đến tiêu chuẩn, vì văn thơ nào không theo đúng hai phương pháp đó, đều bị coi là phản động, đồi trụy... bị nghiêm khắc cấm đoán, tiêu hủy, như đã xẩy ra cho văn học miền Nam Việt-Nam trước đây và hải ngoại hiện nay.
Đã có những công trình nghiên cứu, phê-bình "văn-học" của chế độ cộng-sản Việt Nam trong thời chiến-tranh 1957-1975 và sau đó, mà tác-giả phần lớn là cán bộ văn-hóa và giáo dục, vì mục-đích chính-trị do đó đã có những xếp loại, phê phán mà nay có thể nói là sai, một chiều, bất cập! Thỉnh thoảng đây đó có những nhận xét "khách quan", "xét lại" về nền văn học 'cách-mạng' minh họa đó, gióng tiếng phê bất cập, tiếc rẻ, "giá như..." như Nguyên Ngọc, ngay cả Phong Lê (27). Văn-học yêu nước đã phải chịu thịnh suy cùng các biến cố lịch-sử và chế độ chính trị, nay còn lại gì với các thế hệ hôm nay? Có nên mổ xẻ thực chất và nhận diện nguồn cơn những sai lầm cá nhân và tập thể? Ai có thể làm công việc này? Nhiều người trong cuộc đã có dịp giãi bày, giải tỏa một số nghi vấn, phản kháng bằng tự phê tự kiểm (Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn, v.v.), nhưng phần lớn đã yên lặng và sống hết cái kiếp làm người, đã dĩ lỡ làm hoặc được tôn làm anh hùng yêu nước hoặc từng có thái độ, lựa chọn, thì muốn quên hoặc phó mặc công luận.
Cuộc chiến 1957-1975 đã lùi vào quá-khứ và lịch-sử đối với các thế lực quốc tế, chiến-tranh lạnh cũng đã được xem như tàn cuộc, Mỹ đi rồi Mỹ lại về, Trung quốc giúp từ 1949 rồi có lúc bị hất ra, đàn anh bèn cho bài học 1979 rồi anh-em lại tái hồi môi hở răng lạnh, v.v. Nhưng vấn-đề chiến-tranh và yêu nước vẫn còn đó giữa người Việt với nhau, giữa những người từng đối đầu chiến tuyến và cả giữa những người từng chung chiến tuyến ở cả hai bên, cảnh 'anh em nồi da xáo thịt' không cùng chiến tuyến là một đề tài dễ gặp, ngay từ đầu thập niên 1950 như trong Chiếc Mũ La của Nguyễn Hoài Văn, Sơn và Thành trong Cánh Hoa Trước Gió của Nguyễn Minh Lang, đến cuối thập niên 1980 với anh đại tá bộ đội thăm em bị cải tạo trong Gặp Gỡ Cuối Năm (Cánh Cửa) của Nhật Tiến, v.v. hay Dòng Đời (2005) của Nguyễn Trung mới in trong nước, ám ảnh với những vấn-đề của cơ chế và quá-khứ trong đó có những người anh em ruột thịt đã từng bị chiến tranh tách chia ở hai bên trận tuyến đối địch, dù trong những năm tháng chiến tranh, tình huynh đệ đã giữ được cho họ ý nghĩ 'không bao giờ có thể chĩa nòng súng vào đầu người em ruột của mình' nhưng rồi ngày nay xem như 'đất nước đã chiến thắng cuộc chiến tranh, nhưng anh chưa chiến thắng được em', chiến tranh đã phải phân chia thắng bại nhưng khi phải lựa chọn tương lai cho đất nước thì cần phải có đối thoại giữa những con người của những ý thức hệ từng đối nghịch nhau. Nhưng đối thoại có khả thi không với những người vẫn 'kiên định lập trường' và văn-nghệ chỉ huy theo cơ chế?
Sau bao nhiêu năm, trên con đường Nam Bắc hôm nay nhiều người Việt yêu nước vẫn còn đang đi tìm tổ quốc, một 'tổ quốc', một đất nước. Các nhật ký tìm thấy của Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thuỳ Trâm, các hồi ký của Trần Vàng Sao, Tiêu Dao Bảo Cự, v.v. được xuất hiện thời gian gần đây thêm dấu chứng cho những cuộc tìm hoặc dấn thân vì lòng yêu nước. Tuổi trẻ Thạc, Trâm chết với tâm nguyện mình yêu nước mình, nhưng tình yêu nước đó của họ không hẳn đã phát xuất từ trái tim chân chất và ý thức tinh tuyền của tuổi trẻ mà lịch sử đã chứng minh họ đã được dạy yêu nước một cách 'kiên định lập trường' theo quan điểm. Nhật ký của họ nằm cùng truyền thống 'cách-mạng' và tiếp nối sứ mạng tuyên truyền cho một mục đích phải đạt, cho 'sự nghiệp cách-mạng của tập thể', và nếu đạt rồi thì phải giữ. Sống còn sau chiến-tranh như Bảo Ninh, viết lại xúc cảm mà ngay khi xuất-bản đã bị một chiến dịch kết án đã đi sai con đường 'văn-học bảo hiểm cho sự thật lịch-sử' và tác-phẩm bị tố cáo là 'bệnh hoạn', là viết về một 'cõi chập chờn bất định'!
Cuộc chiến đã xong chưa khi mà âm ĩ tiếng bom tàn tích của quá khứ vẫn còn đó? Tùy phía nhìn, tùy cặp kính mầu mà ta có thể gọi tên cuộc chiến là "chiến tranh ý thức hệ", chiến tranh "ủy nhiệm", "giải phóng", "xâm lược". Phe nào nắm được cái gọi là "chính nghĩa"? Dù gọi là gì thì sau cuộc nội chiến nhiều tang thương đó, con người Việt Nam vẫn bất khả cảm thông và đối thoại với nhau sao? Như gần đây khi nói đến nhà văn Thanh Tâm Tuyền, một nhà văn tiêu biểu của văn-học miền Nam tự do 1954-1975, vừa mất, trong nước cất lời phê bình như sau: "Đối với độc giả miền Bắc, cái tên Thanh Tâm Tuyền hoàn toàn xa lạ, với nhiều độc giả miền Nam cái tên này gần với một giai đoạn đen tối của đất nước dưới ách kìm kẹp của Mỹ - nguỵ, đó cũng là giai đoạn sáng tác đắc ý của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, sĩ quan cộng hoà, với lý tưởng chống cộng tươi mới vừa chạy ngoài Bắc vào, phục vụ cho chính quyền nguỵ (...) Sự thất bại của chế độ bù nhìn cũng là sự thất bại của tư tưởng văn nghệ chống cộng. Trên thực chất nền văn nghệ ấy không có gì phù hợp về nội dung với văn nghệ của chúng ta". Đến nỗi nhà thơ Thanh Thảo từng tham gia cuộc chiến trước 1975 "ở chiến trường Nam bộ", đọc bài ông Tân cũng đã phải thốt lên " đọc nó người ta không khỏi cảm thấy một thoáng lạnh mình. Chúng ta đang ở năm thứ 6 của thế kỷ XXI, đất nước đã thống nhất 31 năm, người Việt dù sống trong nước hay nước ngoài đều muốn xích lại gần nhau, xóa đi những dị biệt, thậm chí những hận thù trong quá khứ, để cùng chung tay góp sức xây dựng đất nước Việt Nam trước ngưỡng cửa những vận hội mới"(28)!
* * *
Nước Việt Nam tồn tại đến ngày nay là do tình yêu đất nước và tinh thần phản kháng chống ngoại xâm của nhiều thế hệ con dân và qua nhiều ngàn năm văn hiến; nhưng Việt Nam ta do hoàn cảnh địa lý và lịch-sử cùng nhân chủng, đã từng mở cửa và hội nhập khi cần. Vì bản chất văn-hóa và nhân chủng của người Việt nhưng cũng vì sự sinh tồn và tương lai dân-tộc. Lịch-sử cho chúng ta nhiều bằng chứng về việc mở cửa hay tùy cơ ứng biến thì sống (tam giáo, thắng quân Tàu xâm lược xong rồi triều cống, ...) mà đóng cửa thì thất bại (như triều đình Tự Đức khi phải đối đầu với người Pháp và Tây Ban Nha, v.v.). Trong cuộc kháng chiến 1954-1954 cũng như cuộc chiến 1957-1975, guồng máy chiến-tranh và văn-hóa của miền Bắc đã cứng rắn đẩy việc chống vong bản đi quá xa. Họ xếp vào 'chủ nghỉa vong bản' những sản phẩm văn-hóa, văn minh từ Âu Mỹ (hoặc do Pháp, Mỹ để lại), kết án những người sống với tiện nghi kỹ thuật của thời đại là vong bản, xem thơ văn ca nhạc ảnh hưởng từ những trào lưu học thuật mới sau thế chiến thứ hai chẳng hạn là vong bản, kể cả mác-xít giáo điều tức những người theo troskisme tức đệ tứ quốc tế, tất cả, họ đã tung bao nhiêu chiến dịch rồi cả đặt bom, ám sát. Năm 1976 họ đã bỏ chung một rọ toàn bộ báo chí văn-hóa phẩm của miền Nam tự do 1954-1975 rồi tịch thu, tiêu hủy và cấm đoán. Tất cả những việc làm này nay đã bị chính người của chế độ phê phán và họ dùng lại hết mọi thứ ... 'vong bản', từ sách báo đến nếp sống! Văn-học chữ quốc ngữ mới hơn một thế kỷ, vậy mà từ thời khởi đầu đến nay, lúc nào 'mảng' yêu nước cũng có mặt. Yêu nước khởi phát từ niềm tin, văn-học yêu nước Việt-Nam suốt thế kỷ XX đã từ niềm tin mà xuất hiện, lúc công khai lúc thầm kín, lúc đơn sơ như tấm lòng người viết, lúc đạt đỉnh cao văn-chương. ... Như đã xét qua, yêu nước không thể ích kỷ, quá khứ dù oai hùng, thần thánh đến mấy, nếu cứ ôm chặt thì có ngày cũng vuột mất! Yêu nước oai đẹp khi tự phát, tự giác hay tự nhận thức, nghĩa là không vì chỉ thị, chiêu bài! Xin đừng để lịch sử che lấp con người!
Chú thích:
1. Trích từ Thái Bạch. Thi Văn Quốc Cấm Thời Thuộc Pháp. (SG: Khai Trí, 1968); Đại Nam tb, tr. 211.
2. Vấn đề định danh và thời điểm của Nam-kỳ khởi nghỉa, Nam-bộ kháng-chiến và Chiến-tranh Đông dương thứ nhất trước nay vẫn không đồng nhất, tùy quan điểm và chế độ. Trong nước vẫn xem ngày 23-11-1940 là ngày khởi động Nam-kỳ khởi nghỉa; Nam-bộ kháng-chiến 23-9-1945 lúc thì tính từ tháng 8 lúc thì văn vẻ gọi là "Mùa Thu rồi ngày 23", v.v. Theo Trần Bạch Đằng trong Đồng Bằng Sông Cửu Long 40 Năm (NXB TpHCM, 1986), "ngày 23 tháng 11 (1940) Nhân dân Nam Bộ tiến hành cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới sự lãnh đạo của Xứ Ủy Nam-Kỳ" (tr. 183).
3. Nguyễn Văn Sâm. Văn Chương Nam Bộ Và Cuộc Kháng Pháp 1945-1950. Los Alamitos CA: Xuân Thu tb, 1988, tr. 21-22. Nghiên cứu này là một công trình dồi dào tài liệu và tham khảo, Mã Giang Lân trong giáo trình Văn-học Việt Nam 1945-1954 đã đánh giá là "quyển sách có nhiều tư liệu quý, hiếm và có những nhận định thỏa đáng" (tr. 142). Ngoài ra công trình đã được các tác-giả tập Địa Chí Văn Hóa Thành Phố HCM dùng lại khi trích dẫn các tác-phẩm xuất-bản vào thời văn-học này.
4. Lời giới thiệu của Vũ Anh Khanh. Trích từ Xuân Tước. Hồi Ký 60 Năm Cầm Bút. Houston TX: Văn Hóa, 2000. Tr. 48.
5. Hồn Việt, NXB Đuốc Việt, 1950, tr. 97,98.
6. Chiến-Sĩ Hành. Thơ trường thiên của Vũ-Anh Khanh, Tam Ích đề tựa, Thẩm-Thệ Hà đề bạt, Nguyễn-văn Mười hoạ bìa và phụ bản, A. Tích Trú kẽ chữ và phụ bản, Nguyễn văn Dầu khắc bản, nhà xuất-bản Tân-Việt-Nam, 1949.
7. Lưu Quí Kỳ. Qua Thực Tiễn Văn Nghệ Kháng Chiến Nam Bộ. Hà-nội: NXB Văn Hóa, 1958. Tr. 5-6.
8. Lưu Quí Kỳ. Sđd, tr. 28, 32, 73, 39-40. 9. Trích từ Cách Mạng Kháng Chiến Và Đời Sống Văn Học (1945-1954) Hồi Ức Kỷ Niệm. Tập 1. Hà-nội : Tác Phẩm Mới, 1986, tr. 206.
10. Trích theo Mã Giang Lân. Văn Học Việt Nam 1945-1954. TpHCM: NXB Giáo Dục, 2004, tr. 37.
11. Chúng tôi cảm ơn GS Phan Tấn Tài đã cung cấp tài liệu này.
12. Cách Mạng Kháng Chiến Và Đời Sống Văn Học (1945-1954). Sđd, tr. 350, 348. Truyện viết về đấu tranh giai cấp giữa nông dân và 'địa chủ', theo chính sách và chỉ đạo, do đó sau này ông tự tiếc! Đoàn Giỏi tập kết ra Bắc và từng bị nghi ngờ trong vụ Nhân Văn giai phẩm! Một nhà thơ khác, Hoàng Tồ Nguyên cùng tập kết ra Bắc, bị kiểm điểm, kỷ luật.
13. Trích theo Địa Chí Văn Hóa Thành Phố HCM. 2-Văn Học. 1988, tr. 269.
14. Lưu Quí Kỳ. Sđd, tr. 75-85.
15. Nguyễn Bá Thành & Bùi Việt Thắng. Văn Học Việt Nam 1965-1975. Hà-nội: Tủ sách trường ĐH Tổng hợp, 1990. Tr. 28.
16. Nguyễn Bá Thành & Bùi Việt Thắng. Sđd, tr. 89.
17. Nguyễn Vy Khanh. Văn Học Việt-Nam Thế Kỷ XX: Một Số Hiện Tượng Và Thể Loại. Glendale CA: Đại Nam, 2004, chương 16, tr. 491.
18. Văn Học Yêu Nước Tiến Bộ - Cách Mạng Trên Văn Đàn Công Khai Sài Gòn 1954-1975. Tp.HCM : Nxb Văn Nghệ Tp.HCM, 1997.
19. Trích từ Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến. South Bound Brook NJ: Thư ấn quán, 2006, tr. 166.
20. X. "Thảo Trường, nhà văn dấn thân với nỗi ý thức không rời". Hợp Lưu 88, 4&5-2006, tr. 162-183.
21. "Cuộc Sống Tôi", Những Vì Sao Vĩnh Biệt, Saigon : Ý Thức, 1971. tr. 105. Năm 2006, nhà Thư ấn-quán xuất bản tuyển tập truyện Một Thời Ý Thức in lại truyện ngắn của 24 cây viết của tạp chí Ý Thức, 262 tr.
22. Võ Phiến. Văn học Miền Nam Tổng Quan. Westminster CA: Văn Nghệ, 2000, tr. 239.
23. Trích từ Hoài Anh. Văn Học Nam Bộ Từ Đầu Đến Giữa Thế Kỷ XX (1900-1954). NXB TpHCM, 1988. Tr. 360.
24. Xuân Tước. Sđd, tr. 40.
25. Nhân Loại, 82, 29-11-1957. Trích lại theo bản Trần Hữu Tá. Nhìn Lại Một Chặng Đường Văn Học. NXB TpHCM-Fahasa, 2000. Tr. 436.
26. X. Ngày Nay TX, 548, 1-5-2005; Đàn Chim Việt (danchimviet.com), 21-12-2005.
27. Phong Lê. Về Văn Học Việt Nam Hiện Đại - Nghĩ Tiếp. Hà-nội: NXB ĐHQGHN, 2005, tr. 223-227. Theo VietNamNet, "ngày 3/11/2006, trong khuôn khổ Hội thảo Quốc tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế, nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng không thể xét văn học Việt Nam thế kỷ 20 một cách toàn diện nếu không bao gồm hai mảng văn học mà lâu nay chúng ta vẫn không tính tới một cách thích đáng, Đó là văn học đô thị miền Nam trước năm 1975 và văn học của các tác giả đương đại người Việt ở nước ngoài".
28. X. Vũ Đức Tân. "Sự lập lờ trong đánh giá về Thanh Tâm Tuyền". Người Hà Nội, 22.9.2006; Thanh Thảo. "Quyết tâm... chụp mũ" (talawas.org) 23-9-2006.
11-2006
Nguyễn Vy Khanh