Một số ghi nhận về văn học Miền Nam Lục Tỉnh 1954-1975
Hiệp định Genève 7-1954 chia đôi nước Việt Nam, chính thức công nhận sự thành công của chủ nghĩa cộng sản quốc tế ở nửa phần đất nước, vô tình bắt buộc chính phủ và người dân miền Nam nghĩ đến chủ quyền và xây dựng một miền Nam hùng mạnh và độc lập. Củng cố cái còn lại, xác định chỗ đứng với quốc tế và dân tộc. Trong hoàn cảnh mới đó của đất nước, biên giới địa lý thay đổi, sự di cư và tập hợp của người Việt đủ nguồn gốc, Nam Trung Bắc đã mất đi nhưng không mất hẳn ý nghĩa phân rẽ của thời thực dân, văn học miền Nam cũng sẽ có những biến đổi quan trọng. Cá tính "miền Nam lục tỉnh" và "Sài Gòn" sẽ phải chịu những phân thân, hóa thân và hội nhập để dần biến dạng trong biển văn nghệ "miền Nam cộng hòa". Ngược lại, các tác giả Bắc và Trung đã nhận phần nào ảnh hưởng của tiếng nói và tâm tính người vùng đất mới qua các tác phẩm của họ. Trong bài này, chúng tôi thử tìm và xác định lại những nét tiêu biểu và giới thiệu một số tác giả của miền Nam lục tỉnh của giai đoạn 1954-1975.
Cuộc di cư năm 1954 đã thay đổi bộ mặt văn học nghệ thuật miền Nam cho đến thời điễm ấy chủ động bởi người địa phương mà nơi hoạt động mạnh là Huế, Qui Nhơn, Nha Trang, Cần Thơ và nhất là Sài Gòn. Sài Gòn thủ đô Nam phần đã là nơi sinh hoạt báo chí và văn học nghệ thuật chủ yếu và nhiều nhà báo và văn nghệ sĩ gốc Trung và Bắc đã đến lập nghiệp hoặc công tác.
Viết về giai đoạn văn học miền Nam 1954-1975, các nhà phê bình và biên khảo thường theo một cách nhìn theo đó nền văn học này là tiếp nối tự nhiên của văn học miền Bắc trước đó hoặc vai trò của miền Nam không được đánh giá đúng mức. Nguyên Sa, Du Tử Lê, Tạ Tỵ, Mai Thảo, v.v. trong các bài đăng báo hoặc in trong các tuyển tập, đã nhìn giai đoạn này như có đó và như thế với từng ấy người mà không đi sâu vào những khúc mắc hình thành nền văn chương đó. Mai Thảo trong số ra mắt tạp chí Sáng Tạo đã nói văn nghệ từ thủ đô Hà Nội chuyển vào thủ đô văn hóa Sài Gòn (1). Cao Huy Khanh trong loạt bài biên khảo về 20 năm tiểu thuyết miền Nam (1954-1973) đăng nhiều kỳ trên tạp chí Thời Tập trước 1975 đã phân tích nền văn học đó như sự lớn dậy của một con người từ mới sinh đến khi khôn lớn. Họ Cao là người đầu tiên viết về giai đoạn văn học 1954-1973 (ông dùng thời điểm hiệp định Paris) nhưng chỉ mới được 4,5 bài dẫn nhập thì đã xảy ra biến cố 30-4-75, sau đó không thấy ông xuất hiện trên báo chí (2)! Nhà văn Võ Phiến, trong Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam (3), đã có cái nhìn tổng hợp hơn và đã công bình dành cho miền Nam "lục tỉnh" một vai trò hình thành và xuất phát cho nền văn học 1954-1975. Tuy nhiên, Võ Phiến đã không đánh giá đúng mức tác phẩm của các nhà văn miền Nam thời kháng Pháp ngay trước đó là thời Sài-Gòn rất sôi động về chính trị và cách mạng trong khi Hà Nội sôi nổi về quân sự. Khuynh hướng văn nghệ đấu tranh này đã lớn mạnh và đa dạng ở Sài-Gòn trong khi văn nghệ kháng chiến ở phía Bắc đã phải chịu sự chỉ đạo trực tiếp của đảng cộng sản ngay từ những ngày đầu; một khuynh hướng nẩy mầm từ những Trương Duy Toản, Lê Hoằng Mưu, Phạm Minh Kiên, Tân Dân Tử, ... của những thập niên 20 và 30 là thời văn học miền Bắc đang lãng mạn đến đẫm lệ và tự tử với những Cành Hoa Điểm Tuyết, Tuyết Hồng Lệ Sử, Tố Tâm, v.v. Viết về 20 năm văn học đó mà cứ nói đến các nhóm Sáng Tạo, Quan Điểm, Văn Hóa Ngày Nay, v.v. mà quên các nhóm "bản xứ" khác là một thiếu sót lớn! Văn học miền Nam đã có từ 1865, vẫn tiếp tục phát triển song hành hoặc hoà nhập nền văn học Việt Nam nói chung, hay từ năm 1954, miền Nam có văn học khác, mới? Theo thiển ý nên phân biệt ba dòng văn học tại miền Nam từ 1954 đến 1975 mà nếu công bằng ta có thể ghi nhận : một thuần Nam, từ Petrus Ký qua Hồ Biểu Chánh đến Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Vương Hồng Sển, ... bình dân hoặc trưởng giả trí thức với những đòi hỏi thông thường những giá trị dân chủ của Cách mạng Pháp 1789; một dòng giữa gồm miền Nam cộng với Trung và một ít Bắc đã khởi từ trước 1954, thiên chính trị cách mạng và công bằng xã hội; và dòng cuối là dòng nước mới từ miền Bắc di cư vào từ 1954, dòng trí thức tiểu tư sản và chính trị lý thuyết. Trong hơn 20 năm, ba dòng văn học đó đã sống chung, đã nhập làm một dưới biểu tượng dân chủ và cộng hòa.
Việc định ý nghĩa hai chữ "miền Nam" cũng đã hiếm có đồng thuận. Từ ngữ "miền Nam" có thể để chỉ "Đàng Trong" - tên chữ là Nam Hà, từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh, từ vĩ tuyến 17 trở vào từ hiệp định Genève 20-4-1954 mà cũng còn có nghĩa là "xứ Đồng Nai", "Gia Định thành" thời Gia Long đến thời Thiệu Trị trở thành "Nam-kỳ lục tỉnh". Nói đến lục-tỉnh là nói bao gồm lưu vực sông Cửu Long, Tiền giang và Hậu giang, và lưu vực sông Đồng Nai. Từ năm 1956, chính quyền Sài Gòn chính thức đổi thành Nam phần để phân biệt với Trung phần và cả hai cùng thuộc về miền Nam. Đảng cộng sản Việt Nam dùng từ "Nam bộ" để gọi chung Nam-kỳ lục-tỉnh. Trong bài này chúng tôi bàn về miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào nhưng mục đích ghi nhận những đặc điểm "lục tỉnh" của văn nghệ miền Nam, tạm gọi là "Nam-tính", Nam viết hoa.
Miền Nam của những năm đầu sau 1954 trước hết có nghĩa là tự do. Tự do trong chính trị, tự do của hết chiến tranh. Tự do của tái dựng cuộc đời, của thiên cư dù trong đổi thay đã có những bi kịch cho tập thể và cá nhân. Và tự do trong văn nghệ! Tuy nhiên cái tự do này sẽ bị hoàn cảnh mới về chính trị giảm thiểu đi phần nào, dù vậy vẫn giúp phát triển những cái mới trong văn nghệ như nhóm Sáng Tạo, thơ tự do, thơ lục bát mới, thơ văn xuôi, vv. Để đối phó với đấu tranh chính trị mà miền Bắc vẫn tiếp tục, dù sao thì tổng tuyển cử mà hiệp định đình chiến đã quy định vẫn như lưỡi kiếm Damoclès lơ lững trên sự sống còn của cả miền Nam. Người dân miền đất mới đã phải bắt tay xây nền móng. Một văn nghệ tâm lý chiến phục vụ giai đoạn sẽ nằm trong nỗ lực vô hiệu hóa mũi dùi của cộng sản Hà Nội, nỗ lực sẽ thành công chỉ mấy năm đầu 1954-1959, khiến cho miền Bắc tức tối sẽ thành lập Mặt trận giải phóng miền Nam và gây chiến cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Không khí tự do nói trên sẽ khiến một số nhà văn nghệ phải xét lại những nền tảng văn nghệ theo đuổi như thuyết đệ tứ quốc tế, thuyết giải phóng dân tộc, thuyết quốc dân và chống ngoại xâm, thực dân mới cũ. Dĩ nhiên có nhiều người sẽ tiếp tục "công tác" như trước 1954, sẽ vào tù hoặc vô bưng, tập kết, hay sẽ bị bắn chết khi vượt ngục như Dương Tử Giang. Những nhà đệ tứ Thiên Giang, Thê Húc sẽ đi vào con đường thuần giáo dục, Tam Ích sẽ pha Phật giáo nhưng vẫn bế tắc đến phải tự kết liễu cuộc đời, Hồ Hữu Tường xét lại thuyết của mình sau khi bị tù vì làm quân sư cho tướng Bảy Viễn nhưng sẽ vẫn không thuyết phục được nhiều người, Phú Đức Nguyễn Đức Nhuận, Tô Nguyệt Đình Nguyễn Bảo Hóa, Quốc Ấn, Phi Vân, ... sẽ hoạt động báo chí, Thẩm Thệ Hà sẽ chuyên hơn về giáo khoa, Sơn Khanh, .. sẽ bỏ viết, làm luật sư và thủ tướng, vv. Vũ Anh Khanh sẽ tập kết và vượt tuyến trở lại và sẽ bị bắn chết nơi đất nước bị qua phân. Lý Văn Sâm sẽ vô bưng khi đã lộ, riêng Thái Bạch, Sơn Nam, Trang Thế Hy, ... sẽ tiếp tục "nằm vùng" vững vàng trong một miền Nam quá tin người và "quá" đề cao những giá trị dân chủ, tự do!
Trong bầu không khí đó, các nhà văn thuần lục tỉnh và Sài Gòn sẽ làm gì ? Trước hết, họ tụ tập hoạt động báo chí và xuất bản. Các nhà xuất bản Phạm Văn Tươi, Phù Sa, Bến Nghé, Nam Cường,..., các nhật báo Tiếng Chuông, Sài Gòn Mới, Sài Gòn Mai, Tia Sáng, ... và các tạp chí Nhân Loại, Đời Mới, Mới, Sinh Lực, Đông Phương, ... sẽ là đất văn nghệ chính của các nhà văn miền Nam này trước khi họ sẽ hội nhập vào dòng văn học "miền Nam cộng hòa" với các tạp chí Phổ Thông, Văn Học, Văn, Bách Khoa, Nghệ Thuật, vv. Tạp chí Nhân Loại ra đời năm 1956 (có thời do Đông Hồ làm giám đốc) chuyên về văn nghệ và ít về nghị luận chính trị. Đời Mới của nhóm Trần Văn Ân, sẽ đóng cửa khi ông Ân bị bắt ở Rừng Sát, là tạp chí có nhiều ảnh hưởng về chính trị cũng như văn học nghệ thuật trong khi tờ Đông Phương của Hồ Hữu Tường chỉ chuyên về chính trị, cổ võ thuyết trung lập. Về sau có thêm báo chí Phật giáo như Giữ Thơm Quê Mẹ, Hải Triều Âm, Vạn Hạnh. Giai đoạn sau tiêu biểu có tờ Hoà Đồng do Hồ Hữu Tường chủ trương tổng hợp văn minh mới và Cấp Tiến của nhóm Nguyễn Văn Bông với chủ trương như một thay thế những thế lực chính trị cổ truyền đã "mỏi mệt"!
Một cách tổng quát, tạm có thể phân biệt một số khuynh hướng chính :
- phong tục và đời sống nơi vùng đất mới khai hoang và phù sa: Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên, Vương Hồng Sển, Mộng-Tuyết thất tiểu-muội, ...
- xã hội và đời sống thị tứ : Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Hoài Điệp Tử, ...
- chính trị, đấu tranh : Phạm Thái, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế Hy, ...
- tình cảm, lãng mạn, diễm tình bình dân : Ngọc Linh, Sĩ Trung, Dương Hà, Phú Đức, bà Tùng Long, Phi Long, Dương Trữ La, Thanh Thủy, Trọng Nguyên...
- luận đề, triết lý và tôn giáo : Hồ Hữu Tường, Phạm Công Thiện, Tô Thùy Yên, ...
* Phạm Thái, tên thật Lê Phùng Thời, thuộc nhóm Tự Quyết, tác giả tập Truyện Năm Người Thanh Niên (1954) và truyện dài Nhà Lá đăng dở dang trên báo Tự Quyết bị đình bản năm 1955. Truyện Năm Người Thanh Niên một tiểu thuyết luận đề trình bày dưới hình thức trên ba mươi lá thư và trích hồi ký, là chuyện của Hữu, Lưu, Phương, Ngọc, Trang, năm thanh niên thanh nữ sống buổi giao thời mà cách mạng như là giấc mơ. Thanh niên đầy nhiệt huyết sẽ làm gì? Làm nhiều tiền, hay đi tu, hay làm cách mạng? Chính Thu người yêu của Phương sau là vợ Hữu tuy chỉ là nhân vật được nói đến nhưng lại đóng vai chính giúp người đọc hiểu các nhân vật chính. Đoạn thư Trang gửi Phương :
"Thì ra chỉ có sự hy sinh của thằng chiến sĩ như mầy mới hoàn toàn cao quí vì nó không hề tơ vương, ích kỷ, không bao giờ hóa thành khô khan và vô bổ được. Người ta có thể thành nghệ sĩ vì bản tính thiên nhiên, vì tình yêu, vì tự ái, vì bị đời khinh bạc. Người ta thường đi tu vì bị một mối thất vọng lớn, vì không đủ nghị lực gánh chịu phần đau khổ của kiếp người. Nghệ sĩ như kẻ tu hành đã chọn con đường nghệ thuật vào đạo lý để tìm chốn dung thân. Riêng người chiến sĩ lấy dân tộc làm lẽ sống, lấy cách mạng làm nguồn vui, chiến sĩ đã can đảm nhìn vào sự thật nhận lấy thử thách, tình nguyện hiến thân mình làm chất vun bón đóa hoa Sinh Tồn cho nòi giống. Lặn lội nơi rừng sâu, núi thẳm,. tàn phế ... mòn mỏi... phơi xương nơi hoang đảo, chiến sĩ có bao giờ đòi hỏi chút gì bù lại đâu, họ chỉ thấy cần phải làm bổn phận...".
Một đoạn trích khác về Sài Gòn đầu thập niên 1950:
"Trời đất ơi! Bỏ xe ngoài đường đi thăm lòng vòng xóm lao động Bàn Cờ một hồi lâu mới đến cái ổ chuột của tụi nó. Trang mò mãi trong bóng tối mới mở được cánh cửa đánh diêm đốt đèn cho thằng Chương mở tủ lấy xấp tranh ra cho tao xem. Đèn dầu lửa tù mù, nhà thấp xùm xụp, bít bưng, nóng tháo mồ hôi. Tao xem chẳng thấy hay đẹp gì ráo trọi nhưng cũng khen bừa rồi bỏ hai trăm bạc mua bức tranh, vẽ cô thiếu nữ mơ màng trước rèm trúc..." (Thư Hữu gửi Ngọc).
Vào thời sùng sục kháng chiến và đấu tranh của đầu thập niên 1950, truyện TNNTN của Phạm Thái đã là một biến cố quan trọng, một văn nghệ mới và đi lên, một văn nghệ cho tiến bộ và cải cách xã hội, tiếp nối con đường của Quốc Ấn, Sơn Khanh, Vũ Anh Khanh, ...
Nhưng ba nhà văn trội bật của dòng văn chương lục tỉnh thời này là Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam và Hồ Hữu Tường. Sơn Nam và Bình Nguyên Lộc về sau lại có khuynh hướng viết biên khảo và hai ông đều đã có những đóng góp đáng kể: Sơn Nam viết Văn Minh Miệt Vườn, Bến Nghé Xưa, Cá Tính Của Miền Nam, ...; Bình Nguyên Lộc còn là tác giả Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam và Lột Trần Việt Ngữ.
* Bình Nguyên Lộc (xin xem bài viết Bình Nguyên Lộc và Tình đất).
Cá tính miền Nam lục tỉnh đã rõ rệt trong nhiều tác phẩm của Bình Nguyên Lộc, qua ngôn ngữ, nhân vật và một tình yêu đất đậm đà của tác giả. Rõ rệt, vì Bình Nguyên Lộc ý thức sứ mạng văn chương của mình. Cá tính này, ngoài Bình Nguyên Lộc, còn lộ rõ hơn nữa với nhà văn Sơn Nam.
* Sơn Nam nổi tiếng về những truyện ngắn về miền Nam thời khai phá, ở lưu vực sông Cửu Long mà ông coi là vùng đất linh thiêng, lòng người ngay thẳng nhưng cương trực, dứt khoát và trọng chữ tín. Có thể nói toàn bộ tác phẩm ông như một thiên anh hùng ca về những con người đã khai phá vùng đất mới, đầy hào hùng và có khi có tính cách huyền thoại. Văn ông hồn nhiên như kể chuyện. Ông từng được giải văn chương Cửu Long của kháng chiến với Bên Rừng Cù Lao Dung. Cộng tác với nhiều tạp chí và nhật báo, ông cùng Ngọc Linh lập nhà xuất bản Phù Sa. Sau 1975, mọi người biết ông đã "nằm vùng" cho Việt cộng. Tác phẩm của ông : Hương Rừng Cà Mau (1962), Chim Quyên Xuống Đất (1963), Hình Bóng Cũ (1964), Hai Cõi U Minh (1965), Vọc Nước Giỡn Trăng, Vạch Một Chân Trời (1968), Bà Chúa Hòn (1969), v.v.
Hương Rừng Cà Mau là một thiên anh hùng ca gồm 18 truyện đề cao những kẻ "tiên phuông" khai phá miền đất mới, xa lạ, nhiều cạm bẫy nhưng cũng đầy thử thách cho những người chân phải cứng. Đề cao tình quê hương, tình yêu đất, ghi lại những hình ảnh xinh đẹp trước khi biến mất với thời gian.
Chuyện người dân ở hòn Cổ Tron, ở rừng U Minh Hạ, vùng Xẻ Bần, rạch Bình Thủy, chuyện Phật thầy Tây An núi Sam, chuyện miễu bà Chúa Xứ, v.v. Hương rừng như một khám phá thích thú nơi vùng đất hãy còn hoang sơ: "... Con rạch quá nhỏ, uốn ngoằn ngoèo như ruột ngựa nối liền qua những lung, bào, tròn tròn méo méo như hình mấy cái bao tử, gan, lá lách... Sậy mọc khỏi đầu. Hương rừng ngào ngạt, mùi hương xa lạ nhưng rất quen thuộc. Thằng Kim hít mạnh để hửi cho kỹ, để nhớ cho rõ nhưng nhớ mãi không ra. Chợt ngẩng đầu lên, nó trố mắt. Rừng cơ hồ không còn chiếc lá nào cả! Trên hàng vạn nhánh to nhánh nhỏ, bàn tay thần nào rắc lấm tấm hằng hà sa số đợt bông gòn, không phải riêng trước mặt mà khắp các tứ phía. Rừng sáng lạn, ai dám nói là rừng âm u? Bông kết oằn sai, mịn màng, trắng tuyết; đài, cánh đâu không thấy chỉ thấy toàn là nhụy ngọt. Nó buột miệng :
- Rừng cây gì vậy? Chú Tư.
Tư Lập day lại, cười vang :
- Thằng quỉ! Hửi mà không biết mùi mật ong sao? tràm chớ giống gì! Muôn ngàn hủ mật ong của trời ban xuống cho trần gian còn treo lủng lẳng như mù sương trên nửa lừng đó. Hửi vô thì say. Say thì không tỉnh được. Có người toan dùng nó mà luyện thuốc trường sinh, từ trăm năm nay..." (Hương Rừng)
Nơi vùng đất mới đó, đời sống sẽ khó khăn như khi nước sông Hậu dâng. Thằng Nhi trong Mùa "Len" Trâu phải dẫn trâu tới núi Ba Thê để tránh mùa nước lên. Khi "nước giựt xuống", thằng con về nhưng ăn nói đã học đòi dân anh chị: "Đ.m. chết hết một con. Đem cặp sừng bộ da của nó về nè! Nặng gần chết. Đ.m, không lẽ bỏ luôn". Nó còn biết thêm hút thuốc rê, nhâm nhi rượu đế và tay cùng bụng xâm đầy những chữ "ngũ hồ tứ giải giai huynh đệ", "ái tình vạn tuế". Tâm tính con người thay đổi vì cuộc sống khó khăn!
Nhưng cũng có những cảnh trai gái tình tứ : "Con Lài nhìn dòng nước uốn khúc qua voi, qua vịnh như con rắn bò, thứ rắn có khoang màu vàng, con rắn hổ sơn. Nó bụm mặt lại để che cái hình ảnh đó. Nhưng nào được! Kìa chiếc xuồng của thằng Lợi bơi lướt tới, vạch ra hai làn bọt nước lốm đốm trắng như con bạch hoa xà... Lập tức nó xuống bến, bơi theo, mãi đến khi xuồng thằng Lợi ghé bên bờ đìa, kế gốc cây bình bát. Thằng Lợi day lại cười:
- Đi đâu vậy cô Hai ... rắn bông súng?
Con Lài sực nhìn chiếc áo có bông đang mặc. Nó e thẹn, liếc thằng Lợi:
- Em giống như con rắn bông súng. Còn anh, áo đen mốc như con rắn hổ đất. Cười em làm chi.
- Rắn đâu dám cười rắn. - Nó vừa nói vừa nắm tay con Lài. Con Lài rút tay ra cho có lệ. Nó bước qua xuồng, ngã vào lòng thằng Lợi.
- Anh à!
- Cái gì đó, hở rắn!
- Thiên hạ thấy, họ cười chết.
- Ai thấy mà cười? chung quanh đây cái gì cũng là rắn như hai đứa mình. Thí dụ như mấy sợi dây choại, dây bòng bong kia...
Con Lài gật đầu :
- Phải, dây choại, dây bòng bong giống như rắn lục, nó xanh tươi. Còn đám cỏ bồn bồn đằng kia, nó dẹp lép quả thật là rắn lá ... Nhánh củi khô, kế đó, anh thấy không anh Lợi?..." (Cây Huê Xà).
Về phần các tập tiểu thuyết, Vạch Một Chân Trời viết về lịch sử vùng đất Cái Tàu với những chuyến săn vàng đẫm máu, Bà Chúa Hòn kể chuyện âu mưu soán đoạt ngôi vị chúa tể ở một vùng đất mới. Nhưng Chim Quyên Xuống Đất là một thất bại về xây dựng tiểu thuyết và đề tài cũng ... lộ tẩy vì ông muốn đề cao giới thanh niên và trí thức miền Nam thời kháng Pháp - kín đáo khiêu gợi những giới đó thời ông vốn chợt có những băn khoăn ở vào cuối chế độ đệ nhất cộng hoà! Nói chung, văn chương Sơn Nam nặng nề Nam-tính, cần thiết cho các nhân vật sống vào thời khai phá miền Tây, những "anh hùng hảo hán lục lâm giang hồ", những tay "tứ chiến" xâm đầy mình, thời chống Pháp, ... Trong khung cảnh đấu tranh đó, vẫn có những đoạn văn cảm hoài nhẹ nhàng : "Ngồi đây mà nhớ đến cái thời xuân xanh năm nào! Nó như chiếc lá già rụng, mục nát trở về lòng đất để làm phân cho những cây tơ khác đâm lộc nẩy hoa. Nó như một chiếc xuồng cũ kéo lên trên đất khô, phơi dưới ánh nắng gay gắt. Còn đâu hơi gió cũ? Còn đâu ánh trăng xưa? Còn đâu hơi thở, còn đâu dáng người? Còn đâu bên sông "nhánh bần gie con đóm đậu"? (HRCM).
* Hồ Hữu Tường thời vẫy vùng với nhóm đệ tứ quốc tế, sau đình chiến, ông ra báo Phương Đông (1954) cổ võ cho thuyết trung lập và làm cố vấn cho nhóm Bảy Viễn nhưng ông bị quân đội dẹp loạn bắt tại Rừng Sát và bị tù ở Côn Đảo đến sau đảo chánh 1-11-1963. Ra tù, ông lại ra báo, tờ Hòa Đồng, mở nhà xuất bản Huệ Minh chủ yếu in sách của ông và viết rất nhiều bộ tiểu thuyết, lúc thì kể chuyện thời thơ ấu, lúc dựng lại không khí đấu tranh ở trong Nam phần trước và sau thời kháng chiến chống Pháp, lúc thì lập thuyết để cứu rỗi nhân loại và thường cứu rỗi nước nhà. Ông đưa ra thuyết tổng hợp mới, hợp ba nền văn minh mà ông gọi là kỹ sư (khoa học), chánh ủy (chính trị) và tu sĩ (triết lý, tôn giáo). Sau cùng ông lại đề nghị bỏ thuyết trung lập chế và đưa ra giải pháp "siêu lập", Việt Nam thành lãnh thổ Liên Hiệp quốc!
Ông để dấu văn nghệ qua Chuyện Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp (1953, in trong Nợ Tinh Thần, 1965) và cuốn Thằng Thuộc Con Nhà Nông (1966). Truyện Chuyện Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp được nhiều độc giả và nhà văn chọn là một trong những truyện ngắn hay nhất trong cuộc phỏng vấn của Nguiễn Ngu Í trên tạp chí Bách Khoa đầu thập niên 1960. Còn Thằng Thuộc Con Nhà Nông là cuốn đầu được xuất bản của bộ Một Kinh Nghiệm Sống, truyện tự thuật kể kinh nghiệm sống và thời thơ ấu của tác giả ở làng Thường Thạnh (Cái Răng, Cần Thơ) dưới thời Pháp thuộc. Các bộ truyện Phi Lạc, Hồn Bướm Mơ Hoa và Thuốc Trường Sanh, v.v. sẽ đưa người đọc vô những mê hồn trận lý thuyết và nhiều khi thần bí hơn là những cuộc đời thú vị và bình dị của con người miền Nam! Đó cũng là khuyết điểm chung trong toàn bộ tác phẩm của nhà "lập thuyết" họ Hồ tự cho là dòng dõi Quang Trung Nguyễn Huệ!
Ngoài ra Lê Xuyên, An Khê, Ngọc Linh, Dương Hà, Phi Long, bà Tùng Long, ... cũng sáng tác mạnh dù các nhà văn này ít làm văn chương hơn là viết tiểu thuyết "feuilleton" đăng nhiều kỳ ở các nhật báo.
* Lê Xuyên viết nhiều về đời sống phong phú của người đồng quê miền Nam: những mối tình thắm thiết, những gay cấn ly kỳ của cuộc đời, những kinh rạch chằng chịch, những ẩm ướt của thời tiết và dục vọng con người,.... Viết về đồng quê những vùng Rạch Giá, Hà Tiên, Cần Thơ, ... nhưng ông nổi tiếng vì các nhân vật trong Chú Tư Cầu, Vợ Thầy Hương, Rặng Trâm Bầu sống bồng bột tự nhiên đến độ buông thả theo bản năng. Dù sao cũng phải nhìn nhận ông đã có công ghi lại văn nói đặc biệt của người nhà quê, nhất là ở thành phần thanh niên thiếu nữ. Nói như Mai Thảo, Lê Xuyên "có thôn quê trong tâm hồn" (Lời tựa Chú Tư Cầu). Văn đối thoại tự nhiên, trong sáng, có ý vị duyên dáng đặc "lục tỉnh". Xuyên qua các tiểu thuyết của Lê Xuyên, người tinh ý sẽ nhận ra ông còn muốn vẽ lại chân dung người dân quê sống thời Pháp thuộc và Nhật thuộc, lúc nào họ cũng chân chất, đôn hậu ngay cả khi tức giận cũng như khi tỏ lòng yêu nước, họ cũng chừng mực, chậm chạp - khiến dễ bị hiểu lầm họ cam chịu dễ dàng! Hoặc một vài "anh hùng" kháng chiến, họ chống Pháp cho "sướng" hơn là cho "được"! Kinh Cầu Muống, Nguyệt Đồng Xoài, Người Chờ Góa, ... viết sau, có liên hệ nhiều hơn đến cuộc chiến lúc bấy giờ, những con người bất đắc dĩ phải tham gia cuộc chiến! Lê Xuyên có một số truyện ngắn đăng trên các tạp chí Khởi Hành, Nghệ Thuật, như Cuối Giờ Hưu Chiến, ... có giá trị nghệ thuật.
* Ngọc Linh: dịch giả và tác giả trên 60 xuất bản phẩm trong đó 20 ký Ngọc Linh. Ông bắt đầu viết bằng truyện ngắn từ năm 1957 (Chị Hà) và có nhiều tiểu thuyết được quay thành phim và cải thành tuồng cải lương: Trên Sông Hoàng Hôn, Ngã Rẽ Tâm Tình, ... nhưng với Đôi Mắt Người Xưa, ông đã cố gắng "làm văn chương" dù bị hệ lụy "feuilleton" đăng báo. Tiểu thuyết của Ngọc Linh có hai đặc điểm: đề cao tâm hồn phụ nữ Việt Nam, sự hy sinh và chịu đựng của họ, và thứ nữa, chuyện thường gây cấn, bi đát nhưng kết cục luôn có hậu, dù là chuyện thời chiến có những bất ngờ. Tiểu thuyết ông khai thác những khúc mắc tình cảm: hai vợ, hai chồng, hai chị em cùng yêu một người, anh rễ và em gái vợ, những ngộ nhận và hy sinh. Kết có hậu theo luân lý bình dân miền lục tỉnh, mà lạc quan, vì "thiện ác đáo đầu chung hữu báo", những nhân vật biết phục thiện: "Xin cha cứ yên lòng, con sẽ không bao giờ sa chân như trước nữa đâu. Con sẽ ra sức làm việc và sẽ vươn lên trong cuộc đời, như bao nhiêu người khác" (ĐMNX). Tiểu thuyết của ông dù vậy đã có công cho thấy những tâm hồn trữ tình hồn nhiên của con người lục tỉnh : "Dòng sông này buồn quá phải không cô? Nhất là trong những buổi hoàng hôn như chiều nay (...) tôi lại nghĩ đến những ngày vui rồi hết, những cuộc gặp gỡ rồi ly tan, những người yêu nhau rồi chia cách..." (TSHH).
* Bà Tùng Long, tác giả nhiều tiểu thuyết "feuilleton" đăng nhiều kỳ ở các nhật báo như Sài Gòn Mới sau một số in thành sách như Lầu Tỉnh Mộng, Chúa Tiền Chúa Bạc, Hoa Tỉ Muội, Tình Và Tiền, Những Kẻ Có Lòng,... Truyện của bà không nặng về phân tích tâm lý và không tình tiết phức tạp. Ngược lại truyện của bà có tính cách luân lý và tình tiết hợp tâm lý thông thường của đại chúng. Đối với những người chia chiếu văn nghệ thì bà không được coi là nhà văn, càng khó là nhà văn lớn. Tuy nhiên nếu muốn nghiên cứu tâm tình, nếp sống con người miền Nam những thập niên 1940, 1950 và cả 1960, không thể bỏ qua các truyện của bà. Hơn nữa bà vẫn được nhắc nhở đến như tiêu biểu cho một khuynh hướng văn nghệ ở miền Nam, khuynh hướng viết như nói, viết như nghĩ, không uốn cong nếp suy nghĩ và cả lời nói của nhân vật như các nhà văn khác nhận ảnh hưởng ngoại quốc. Chính nhà văn Duyên Anh đã nhiều lần đề cao bà như tiêu biểu cho khuynh hướng này. Tuy nhiên các truyện của bà thường dùng lại truyện của Pháp; cái đóng góp nếu có của bà chỉ ở những đối thoại, văn nói.
Nếu Sơn Nam, Lê Xuyên, An Khê, Ngọc Linh và Hồ Hữu Tường đưa vào văn chương tiếng nói và đời sống của người miền Tây và Bình Nguyên Lộc miền Đông, thì Nguyễn Thị Thuỵ Vũ thuộc thế hệ mới đã bị đô thị hóa, sẽ đưa vào văn chương lời ăn tiếng nói của người Sài Gòn - ngoại lệ Khung Rêu bà viết về một miền Đông trước thời Kháng chiến. Miền Nam trong văn chương Nguyễn Thị Thuỵ Vũ là một Sài Gòn thị tứ với những cuộc sống tân thời và những vấn đề của thời mới, chuyện các cô gái lỡ thời, gái bán bar, me Mỹ và làm sở Mỹ (Mèo Đêm, Thú Hoang, Lao Vào Lửa, Chiều Mênh Mông,...). Sau 1972, bà đã đưa đời sống "miệt vườn" vào tiểu thuyết, trong Nhang Tàn Thắp Khuya, Khung Rêu, phần lớn nói về giới giàu có, điền chủ ở nhà quê!
Trên tuần báo Đời Mới năm 1953, Đại Mạch, người giữ mục Tin Thơ, đã tiếp ý nhà văn vắn số Triều Sơn của Con Đường Văn Nghệ (1949) cổ động cho một loại thơ gọi là tự do. Tuy nhiên thơ tự do chỉ thật sự có hình dạng vì được nhiều nhà thơ dùng để sáng tác khi tạp chí Sáng Tạo ra đời tháng 10-1956. Sáng Tạo sẽ là diễn đàn của những người văn nghệ từ đất văn vật vào, nhưng cũng sẽ là đất nảy mầm của những văn nghệ sĩ miền Nam như Tô Thùy Yên, Trần Tuấn Kiệt,...
* Tô Thùy Yên sẽ là một ngoại lệ mỗi khi xếp khuynh hướng. Ông sinh trưởng ở Gia Định nhưng là nhà thơ tự do đặc sắc của nhóm Sáng Tạo. Dù chỉ xuất bản tập thơ đầu tay năm 1996, nhưng trước 1975, ông đã có một chỗ đứng đặc biệt. Ông từng đăng thơ trên nhật báo Tiếng Chuông và tạp chí Đời Mới, Người Việt nhưng từ khi ông đăng thơ trên các tạp chí Sáng Tạo, Nghệ Thuật, ... thơ ông đã cung cấp cho nền văn nghệ mới những khai phá mới của một lục tỉnh hội nhập dòng nước chung. Tương lai cũng sẽ trả lời rằng những lai láng, kể lể, pha loảng sau này ở hải ngoại sẽ không thể so sánh với những thu gọn, kín đáo, thâm trầm sáng giá của thơ ông trước 1975. Tinh tế của chữ dùng, của tâm hồn gói ghém trong lời, những hình ảnh xử dụng và nhạc điệu đã là của riêng ông. Khắc khoải của phận người và bi đát của cuộc sống là ý chính mà ông muốn giãi tỏ qua thơ sau khi đã vận dụng lý trí. Dù gì trong thơ họ Tô, miền Nam lục tỉnh vẫn đầy dẫy, qua một lăng kính!
"Anh buông ghềnh ưu tư thoát theo giấc ngủ
Con nước quánh đen cuồng bạo của đêm khuya
Để lại phù sa lấp bằng dăm khoảng trống
Nơi niềm vui như tràm xú mọc vươn lên...
... Anh uống cà phê trong tiệm Tàu cuối chợ
Hồi tưởng những chiều động bão ở Kiên Giang
Trời biển mịt mù mình anh trên mỏm đá
Cái chết kinh hoàng quyến rũ bủa lên chân
Và những khuya thứ năm rạng ngày thứ sáu
Trên chuyến xe đầu đi Cần Đước thăm em
Đồng ruộng trắng dần cặp đèn pha nhắm lại
Đeo cầu sắt sông tay người bệnh bẩn rung..."(Buổi Sáng)
* Kiên Giang Hà Huy Hà (Xem bài viết riêng về nhà thơ)
* Sa Giang Trần Tuấn Kiệt đã có những nỗ lực làm mới thơ lục bát:
"Bình thường mộng đó hồ vơi
Lá thưa cây ngủ chiều phơi bóng vàng
Giật mình gió bão tây phương
Đầm đìa mạch đất máu xương trổ hồng
Quả tròn trái rụng vườn không
Người đi qua ngõ tay bồng tay mang
(...) Tiếng sầu gởi với tây phương
Với sa mạc thổi nghe buồn thiên nhiên"(Chung Cuộc)
Ngoài khía cạnh sáng tạo, thơ ông còn là những hình ảnh phần đất quê hương của ông:
"Con chim cu ngói
Về hót một lần
Bên bờ Cửu Long
Một người thôn nữ
Gieo mạ bên đồng
Bên bờ Cửu Long
Những làn sóng biếc
Thao thiết muôn trùng
Bên bờ Cửu Long"(Bờ Cửu Long)
"Ngày Về" đất Sa Giang của nhà thơ:
"Lòng ta vì quá đổi nhớ thương
Cành hoa bụp cũ khóc bên đường
Bến khuya Sađéc trăng mười sáu
Mấy độ chìm theo sóng lớp lang
Hỡi người con gái bến Tân qui
Nàng hát ta nghe tiếng hát gì
Tóc xõa bốn trời trăng gió tụ
Mây vờn âm điệu nét phương phi
Hát nữa nàng ôi não bốn trời
Cành hoa bụp cũ bến kia rơi
Quê hương khúc hát chừng đưa lại
Lớp sóng trường giang lạnh đến trời".
* Kiệt Tấn với tập Điệp Khúc Tình Yêu Và Trái Phá viết về cuộc đời và chiến tranh trong khi hiện tượng Phạm Công Thiện với Ngày Sinh Của Rắn lớn lời : "Tôi giao cấu với Mặt Trời sinh ra mặt trăng / Tôi thủ dâm với Thượng dế sinh ra mặt trời" (tr. 6) thì đã vượt biên giới địa lý để vào với siêu nhiên. Nhưng Mỹ Tho của ông hay một nơi nào đó vẫn vướng trong thơ : "Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn / Cây khế đồi cao trổ hết bông" (tr. 2).
* Thanh Việt Thanh với Mây Xa, Rừng Bản Trăng Sao và nhất là Khói Quê Hương (1965) : quê hương chiến tranh trở thành xa xôi nhiều kỷ niệm :
"... Đêm sao rạng, tiếng chày khua tiếp nối,
Rộn câu hò làm nghẽn lối thời gian.
Vổ tay reo đàn trẻ tắm trăng vàng,
Đầu râu bạc cụ già lê bước dạo..."
(Đâu Mộng Quê Hương)
Những nhà thơ khác như Đông Hồ sáng tạo cạn nguồn, chỉ ra tập Trinh Trắng (1961), còn lại là những tùy bút và biên khảo về văn học miền Nam. Tuy người Hà Tiên nhưng Đông Hồ làm thơ viết văn theo tiêu chuẩn nặng Hán văn màu mè và du dương của tạp chí Nam Phong. Bài Mua áo vẫn hay được nhắc đến, tình tứ vợ chồng nhẹ nhàng, tế nhị mà cũng có thể là Nàng Thơ biết đâu tác giả muốn bộ lộ tâm sự của một nhà thơ cũ phải theo Thơ Mới nên đã phải giả tạo tình ý? Người bạn đường của nhà thơ, Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội, làm thơ và viết tùy bút ít nhiều để lộ đặc điểm miền Nam .
Chúng tôi có ý đi tìm "Nam-tính" trong "Việt-tính" qua một số văn thơ giai đoạn 1954-1975, nhưng chưa đủ điều kiện và thời gian, thành ra bài viết chỉ mới là những ghi nhận tổng quát về thế nào là nhà văn điển hình miền Nam lục tỉnh. Còn cá tính văn chương miền Nam thiết nghĩ nằm ở ngôn từ địa phương, ở tình yêu đất đai tiềm ẩn hay công khai trong tác phẩm. Và một thứ đạo đức phổ quát, nền tảng về đạo làm người và làm con dân đất nước, rồi một tâm tình đôn hậu, cởi mở như là xương sống cho Nam-tính đó! Nếu nông thôn miền Nam đang biến mất trong văn chương Việt Nam - từ những năm 1968, Võ Phiến đã từng xem nông dân là cố nhân (4), người dân quê cũng đô thị hoá nhanh chóng, khiến những chuyện Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Lê Xuyên, ... viết về thời thập niên 1940, 1950 đã như viết về những người xa xưa lắm. "Nam-tính" có thể tìm thấy trong nếp sống dân giả, quê mùa, nhưng cũng đầy dẫy trong văn nói của con người miền này cũng như trong những tiềm ẩn hay căn bản văn hóa của họ. Một câu hỏi dễ trả lời: văn viết hay văn chương đại chúng chứa đựng nhiều "Nam tính"? Bài này viết trong viễn tượng đi tìm đa dạng và đặc dạng của văn chương Việt Nam, xác định độc đáo trong tổng thể phức tạp. Một nhìn lại mình trước thềm thế kỷ XXI.
Chú-thích:
1. Mai Thảo. "Sài gòn, thủ đô văn hóa". Sáng Tạo, 1, 10-1956, tr. 1-5.
2. Cao Huy Khanh. "20 năm tiểu thuyết miền Nam từ chia cắt đến ngưng bắn". Thời Tập, 14-12-1973, tr. 21-34.
3. Võ Phiến. Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam 1954-1975. Westminster, CA: Văn Nghệ. 1986 ("Vai trò của miền Nam", tr. 128-135).
4. Võ Phiến. "Nông dân, một cố nhân". Tạp Luận (Westminster CA : Văn Nghệ, 1987), tr. 225-230.
5-1998
Nguyễn Vy Khanh