1.1. Quân Cấm Vệ:
Thường được gọi là "Cấm quân", "quân túc vệ". Mỗi đội Cấm quân lại có tên riêng như "Thánh Dực", "Thần Sách", "Toàn Chân Kim đô (1 đô quân tên Toàn Chân Kim)", "Chân Thượng đô (1 đô quân tên Chân Thượng)",... Khởi đầu, đây chỉ là loại quân có nhiệm vụ canh gác kinh thành, bảo vệ hoàng cung, và nhà vua, đôi khi là đi theo bảo vệ vua mỗi khi ông ta đi tuần bên ngoài. Những người này là quân nhân chuyên nghiệp, hầu như sống chỉ với hai nhiệm vụ là bảo vệ thiên tử và luyện tập võ nghệ, binh bị. Tất cả chi phí, trang bị, ngựa xe, voi chiến của họ đều do triều đình bỏ tiền túi ra cung cấp toàn bộ. Không những thế, Cấm quân còn có một số vinh dự như được phé xăm chữ "Thiên Tử Binh" trên trán, hoặc xăm vào người hoa văn, hình rồng,... theo đặc cách quy định của triều đình. Bởi vị thế và sự chu cấp trực tiếp từ nhà vua, Cấm quân là đội quân trang bị tốt nhất và thiện chiến nhất, ít nhất là trên lý thuyết. Cấm quân còn là đội quân được lãnh đạo trực tiếp bởi chính nhà vua. Tuy vậy, ở thời Lý, số lượng cấm quân còn rất ít (vài chục đô, vệ, tổng cộng ước tính chỉ 3200 người). Số lượng ít như thế nên dù trên lý thuyết là đội quân trực tiếp điều động bởi nhà vua, nhưng hiếm khi họ thật sự đóng vai trò lớn trên chiến trường. Sang thời Trần, vai trò của Cấm quân ngày càng nâng cao theo số lượng.
Nhà Trần từ khi lập quốc đã rất quan tâm đến Cấm quân. Cấm quân lần được được kết nạp thêm nhiều đội quân địa phương, nâng số lượng Cấm quân lên gấp nhiều lần. Con số mà sách sử ghi lại cho chúng ta biết là có đến 20000 Cấm quân ở thời Trần. Có khi họ được chỉ huy trực tiếp bởi nhà vua, có khi thì nhà vua trao quyền ấy cho một vị tướng tâm phúc để ông ta sử dụng (thời Trần, chỉ có hoàng tử mới được phép giữ chức Phiêu Kỵ Tướng Quân, thống suất Cấm quân). Chính nhờ sự thay đổi này mà từ đây, Cấm quân thực sự được đóng một vai trò quan trọng trên chiến trường nói chung và trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên nói riêng.
1.2. Quân Địa Phương:
Có nhiều tên gọi như thời Lý gọi là " Lộ quân", "Sương quân", thời Trần gọi là "chính binh" đối với quân đóng ở đồng bằng, "phiên binh" đối với quân đóng ở miền núi. Đây là lực lượng quân đội chủ lực truyền thống của người Việt trải suốt hai thời Lý - Trần. Chính họ là nòng cốt trong những cuộc chiến xâm lược Champa, đàn áp khởi nghĩa trong nước hay ngăn cản giặc ngoại xâm. Quân địa phương được tuyển từ dân chúng qua hình thức hoàn toàn bắt buộc, đương nhiên cũng có một số ngoại lệ tự nguyên nhập ngũ để được thi thố công danh hay vì những lý do khác. Nếu Cấm quân chỉ đóng ở kinh đô và vài vùng trọng điểm trong nước, thì Lộ quân có nhiệm vụ bảo vệ tất cả các địa phương còn lại. Quân ở địa phương nào thì đóng và giữ địa phương đó. Kém hơn Cấm quân một chút, Lộ quân cũng được cấp phát vũ khí, trang bị,... nhưng họ phải tự túc lương thực và nhiều thứ. Chính từ đây, chính sách " Ngụ Binh Ư Nông" ra đời.
Ngụ Binh Ư Nông là 1 quốc sách được người Việt sử dụng hầu như suốt thời phong kiến. Về cơ bản, nó có nghĩa là "gửi lính ở nhà nông", lính chia phiên cày ruộng để tự túc lương thực. Nhưng cách giải thích đơn giản này làm 1 số người lầm tưởng Lộ quân với Militia, một kiểu quân kém hơn rất nhiều. Sau đây tôi sẽ giải thích kỹ về Lộ quân:
Nhà Lý - Trần tuyển Lộ quân hoàn toàn do ép buộc (trừ 1 số ít tự nguyện), chiếu sổ tuyển người khỏe mạnh rồi biên chế họ thành quân ngũ (bởi thế thời này làm sổ dân số rất gắt gao, cấm cả việc mua bán con trai làm nô lệ.). Trong mỗi địa phương, số Lộ quân ở địa phương ấy sẽ được chia thành nhiều ca rồi thay phiên nhau canh gác, luyện tập, về nhà cày cấy. VD như 1 địa phương A có 3000 lính, thì vị tướng cai quản địa phương ấy chia lính thành 3 nhóm. Trong cùng 1 khoảng thời gian:
- nhóm 1 về nhà cày ruộng tự túc lương thực
- nhóm 2 luyện tập
- nhóm 3 đi canh gác hay làm 1 số việc như đắp đường, xây dựng, thậm chí nuôi ngựa,...
Sau 1 chu kỳ thời gian đã được quy định sẵn thì các nhóm này đổi ca với nhau. Chính sách này có một lợi ích rất lớn là dù có nhiều người bị bắt đi lính nhưng quốc gia vẫn ko bị mất một đội ngũ lao động lớn vì họ vẫn được thường xuyên về nhà làm việc hoặc về cày cấy ở những đồn điền nào đó gần chỗ đóng quân nên nền nông nghiệp không bị trì trệ. Bên cạnh đó, họ lại thường xuyên được luyện tập nên độ tinh nhuệ không hề suy giảm. Đã thế, nhà nước ngoài việc cung cấp trang bị, vũ khí khi họ nhập ngũ thì trong mỗi chu kỳ ấy chỉ phải trả lương cho nhóm đang phải đi canh gác và làm nhiệm vụ cho nhà nước mà thôi. Cho nên ở thời bình, chính sách này tiết kiệm rất nhiều chi phí. Nuôi 100 000 quân mà mỗi tháng chỉ phải trả lương cho 1/2 hay 1/3 số quân. Chỉ khi phải tổng động viên tất cả Lộ quân vào lính để chiến đấu trong thời chiến (VD như kháng chiến chống Nguyên - Mông), việc chia ca này bị tạm thời gác lại, nhà nước mới phải chi trả cho toàn bộ số quân tại ngũ trong lúc này. Chính sách này tính ra tiến bộ hơn nhiều cách nghĩ của phương Tây cùng thời: dồn thanh niên trai tráng vào lập 1 đạo quân khổng lồ để rồi thời bình toàn ăn dầm nằm dề chẳng làm gì, khiến các lãnh chúa nuôi không nổi.
Lâu nay nghe tới "Ngụ Binh Ư Nông" và cái lối nói sơ sơ mờ mờ theo hướng cổ vũ " tình đoàn kết quân dân, quân cày ruộng với dân" của SGK, ta rất hay lầm lẫn "Ngụ Binh Ư Nông" là "đến phiên đổi gác, địa phương liền chiếu sổ gọi vài ba anh dân cày lên huấn luyện, canh gác trong mấy tháng đó rồi cho về, gọi tiếp mấy anh dân cày khác.". Trong khi Lộ Quân tuy xuất thân là dân, nhưng họ có biên chế số lượng rõ ràng, chi ca làm việc chứ ko ruồi nhặng hỗn tạp theo kiểu mấy tiết huấn luyện kiến thức quốc phòng ở thời nay như vậy. Cái cách ta thường nghĩ ấy, nó "Milita" nhiều hơn là "Lộ quân".
Về quân số, ta không có con số rõ ràng, chỉ có thể ước đoán qua 2 chi tiết:
- Năm 1075 (thời chiến), khi tấn công Ung Châu, Lý Thường Kiệt dùng đến 10 vạn quân (1 vạn = 10 000 người), 1/2 số đó là Lộ quân.
- Thời Lý Anh Tông ( thời bình), có lần vua Lý ra lệnh Tô Hiến Thành dẫn 2 vạn quân đi tuần phía Nam để phòng giặc cướp.
Nếu giả sử 2 vạn quân của Tô Hiến Thành là toàn bộ số quân đang trong ca trực thì xét ra tổng số Lộ quân ta thời ấy khoảng từ 50 000 - 70 000 quân.
Sang thời Trần, Phan Huy Chú viết sử nhận định rằng tổng số Cấm quân, Lộ quân trên dưới khoảng 10 vạn (100 000 người.).
1.3. Militia - dân quân dự bị:
Bên cạnh số Cấm quân, Lộ quân vừa kể trên, khi tình hình chiến sự dai dẳng, tình thế khốc liệt ( như 3 lần đánh giặc Nguyên) khiến triều đình buộc phải gọi thêm nhiều người dân vào lính để đáp ứng nhu cầu số lượng cho quân đội. Phan Huy Chú viết " đại để người trúng tuyển thì suy vào quân ngũ, kẻ yếu thế thì biên vào sổ, có việc mới gọi ra.". "Kẻ yếu thế" ấy chính là những người dân mà khi thường không nằm trong biên chế Lộ quân, nay mới bị bắt vào lính vì tình hình bắt buộc. Ở phương Tây gọi họ là Militia, một bọn dân cày, thợ thủ công, thương nhân,... tóm lại là con người đang sống dưới sự cai quản của lãnh chúa vùng ấy, mà khi đánh nhau ông ta có quyền buộc tất tả những người ấy cầm vũ khí đi theo ông ta chém giết. Họ được huấn luyện cấp tốc, sơ sài, trang bị hầu như phải tự tìm lấy, bởi thế nên chất lượng lẫn tinh thần là cực kỳ kém (Phương Tây nuôi 1 đạo quân khổng lồ kiểu ăn không ngồi rồi thời bình thì không nổi, dùng Militia thì thua nhiều thắng ít, nên họ mới phát triển 1 loại quân rất đặc trưng phương Tây thời Trung Cổ, đó là "lính đánh thuê") . Ở VN ta cũng tương tự thế, những người dân bất ngờ bị động viên vào lính này phải tự túc mọi thứ, vào thời chiến tranh liên miên thì tình trạng này còn ồ ạt và liên miên dai dẳng hơn (ca dao tục ngữ có đầy). Thường thì việc động viên 1 lúc quá nhiều người thế này khiến nhà nước ko thể chu cấp hết binh lương cho họ, nên ta thường nghe vào thời chiến, có những nhà giàu gom gạo, rèn khí giới để góp cho triều đình. Số khí giới, lúa gạo ấy ngoài việc phòng khi thiếu thốn, chủ yếu là để giúp triều đình chu cấp cho số quân mới này.
Tình hình là thời Lý - Trần, quân đội Việt còn chuyên nghiệp và mạnh nên nhiều tướng lĩnh không thích thú gì chuyện phải dùng đến Militia (ai chơi game Total War sẽ hiểu Militia yếu và dễ quay lưng bỏ chạy đến độ nào). Chính Trần Hưng Đạo vào lần chống Mông thứ 3, dù đất nước đã bị tàn phá nhiều vì cuộc chiến trước đó, ông vẫn bảo " quân cần tinh chứ không cần nhiều". Tuy vậy, có thể khẳng định triều đình vẫn động viên ko ít dân chúng vào làm Militia để bù đắp những thiệt hại mà quân chính quy phải gánh chịu, dù Militia vẫn chưa phải trở thành chủ lực trên chiến trường.
Ngoài ra, để phân biệt với các đội quân không thuộc sự quản lý của nhà nước, triều đình thường ra lệnh làm những loại mũ dùng riêng cho quân đội nhà nước để phân biệt với những đội quân khác. VD như:
Từ trên xuống dưới (1) mũ Đầu Mâu (kiểu mũ như mũ sắt của TQ thôi, khác ở chỗ nó có 1 mũi giáo nhọn ở chóp mũ, nên gọi là "Đầu Mâu".); (2) mũ Tứ Phương Bình Đỉnh (3) mũ Ma Lôi, 1 kiểu nón lá.(mọi hình ảnh chỉ có tính minh họa tham khảo).
2. Những đội quân độc lập
Đây là những lực lượng không được lập ra hay chỉ huy bởi triều đình, nhưng họ sẽ vẫn liên kết với triều đình khi cần thiết để chống ngoại xâm.
2.1. Quân Vương Hầu:
Còn được gọi là "Gia Binh" (binh lính gia đình). Đây là một lực lượng độc quyền chỉ xuất hiện duy nhất ở thời Trần. Như ta biết, nhà Trần là một chính quyền phong kiến theo lối gia tộc, mọi chức vụ cao cấp trong nhà nước đều do người họ Trần nắm giữ. Mọi thành viên của hoàng tộc họ Trần đều có những đặc quyền to lớn như nắm giữ chức tước cao, được phép có nhiều ruộng đất, nô lệ,... và về quân sự, họ được tự do thành lập đội quân riêng cho mình. Nòng cốt quân Vương Hầu là nô lệ, gia nhân, tóm lại là toàn bộ những người giúp việc trong gia đình vị quốc thích đó. Khi thời bình, họ cày cấy, sản xuất, phục vụ chủ nhân, khi thời chiến, họ trở thành những người lính cùng chủ nhân ra trận. Tất cả trang bị của họ đều do chủ nhân chu cấp, và đương nhiên là họ được trang bị không tồi, vì chủ nhân vốn là thành phần thuộc loại giàu nhất nước khi đó. Họ giống như một loại quân nằm giữa Cấm quân và Lộ quân vậy.
Lính hỏa cầu. Gia binh. Vương hầu. Lí -Trần
Nếu xét vai vế thì quân Vương Hầu tương đương các hiệp sĩ ( knight), quân hầu đối với lãnh chúa ở phương Tây. Nhưng xét về thân phận, thì quân vương hầu khá giống đội quân nô lệ Mamluck lừng danh thiện chiến ở Trung Đông đương thời hơn. Tuy về lý thuyết, những người này là nô lệ, bị ép buộc đi lính cho chủ nhân, nhưng thực tế, khả năng chiến đấu và sự trung thành của họ là rất đáng gờm. Ta đều nhớ những huyền thoại Yết Kiêu, Dã Tượng, Nguyễn Địa Lô với những tài bơi lặn, nài voi, cưỡi ngựa bắn cung tuyệt vời, nhưng ta không nên quên một điều rằng: tất cả họ đều là nô lệ. Ta cũng không quên lời của Yết Kiêu từng nói với Trần Hưng Đạo: " Chúng tôi thà suốt đời làm gia nô còn hơn làm quan mà mang tiếng là người không trung hiếu.". Nói chung, có vẻ như thời đầu Trần, mâu thuẫn giữa nô lệ và vương hầu chưa sâu sắc nên mới có được sự sát cánh trung thành đến lạ lùng này. Chính sử gia đời sau khi viết về ba cuộc chiến chống Nguyên - Mông phải nhận xét rằng " nhờ sức gia nô các vương hầu nhiều lắm.". Mãi đến thời cuối Trần, khi lượng dân chúng bần cùng bị biến thành nô lệ quá nhiều, mâu thuẫn nổi lên sâu sắc, những cuộc khởi nghĩa của nô lệ chống lại triều đình và vương hầu mới bắt đầu nổ ra mãnh liệt ( VD: khởi nghĩa Ngô Bệ, Tề.). Đến khi Hồ Quý Ly ban hành chính sách hạn nô, chính thức ngăn cản việc sở hữu quá nhiều nô lệ thì hình thức quân Vương Hầu mới hoàn toàn biến mất.
Ngoài nô lệ, đương nhiên cũng có một số thành phần khác trong dân gian tự nguyên xin gia nhập quân vương hầu. Hình thức đại khái cũng giống như một nhà giàu vung tiền của ra chiêu mộ hiền tài mà thôi. Những người xin gia nhập này không hẳn bị xem như nô lệ mà giống môn khách hơn, không ít trong số họ sau này được chính vương hầu ấy cất nhắc lên chức quan to nếu có thực tài. Phạm Ngũ Lão là một trường hợp điển hình.
Về quân số, ta biết rằng Trần Quốc Toản là một thiếu niên, gia cảnh thuộc loại nghèo nhất đám vương hầu, đi dự hội nghị mà bị ngăn không cho vào, ấy thế mà cậu ta còn chiêu tập được 600 quân để ra trận. Thế nên việc những vương hầu quyền thế khác có vài ngàn gia binh là chuyện thường (đương thời, một ngôi chùa dạng quốc tự như chùa Quỳnh Lâm mà còn có 20 mẫu ruộng, vài trăm nô lệ thì vương hầu có vài ba ngàn đâu có gì là lạ).
Nỏ thủ - quân Vương hầu
Một số vương hầu đặc biệt như Trần Nhật Duật chiêu nạp cả tàn quân Nam Tống vào lực lượng của mình, nên quân số tăng vượt trội cũng là dễ hiểu. Vào cuộc chiến chống Nguyên lần 2 năm 1285, nhà Trần đã thực hiện một cuộc hội quân lớn ở Vạn Kiếp. Số quân các nơi tụ về, sử chép đến 20 vạn người. Vua Trần Nhân Tông nhìn thấy cảnh đó phải thốt lên:
" Cối Kê việc cũ ngươi nên nhớ,
Hoan Diễn ta còn chục vạn quân."
(Câu Tiễn có 1000 quân vẫn thắng được giặc, huống hồ nước ta vẫn còn hơn chục vạn người.)
Đương nhiên con số này rất có thể là phóng đại, chuyện này ở Đông Á chẳng lạ gì ( ngay quân Nguyên lúc này thực ra cũng không phải 50 vạn như họ tuyên bố). Nhưng nếu toàn quân của triều đình bao gồm Cấm quân, Lộ quân như tôi nói ở bài trước là 10 vạn, rồi xem qua số lượng đông đảo các vương hầu của nhà Trần, thì việc tổng số quân Vương Hầu được chừng 30 000 - 50 000 người thực sự là điều có thể.
2.2. Lực lượng người dân tộc thiểu số:
Suốt thời Lý, vấn đề dân tộc ít người là một điều được các vua Lý rất quan tâm. Thực ra vào thời đó, các vùng núi trung du phía Bắc (nhất là Tây Bắc) nằm giữa ta và Trung Quốc vẫn giữ một nền độc lập tương đối, không phụ thuộc cả ta hay Trung Quốc. Bên cạnh việc tồn tại độc lập, thế lực của họ là không thể xem thường. Ta biết rằng thực tế vùng Tây Bắc ta hiện nay có được, phần nhiều nhờ những cuộc chinh phạt giữa ta và Đại Lý (1 đất nước người Thái và là tổ tiên của Thái Lan và người Thái ở miền Trung Du phía Bắc hiện nay, đừng có xem Thiên Long Bát Bộ lậm rồi tưởng Đại Lý như người Hán mà lầm.). Dù chiếm được Tây Bắc, thì vùng đất này hầu như vẫn được cai quản bởi các tù trưởng Thái bản địa chứ chẳng có mấy người Kinh lên sinh sống. Bởi họ có một nền độc lập nhất định, nên việc khiến họ liên kết và sát nhập với Đại Việt là rất quan trọng. Cũng vì thế mà các đời vua Lý đều thực hiện chính sách gả công chúa cho các tù trưởng vùng này, để dùng quan hệ thông gia liên kết họ với người Việt. Và may mắn là chính sách này đã thành công.
Năm 1075, Lý Thường Kiệt thống lĩnh 10 vạn quân chia 2 đường thủy/ bộ tràn vào Lưỡng Quảng, ngoài cánh quân thủy do chính ông chỉ huy, một nửa số quân còn lại đi theo đường bộ hầu hết đều là quân của các dân tộc ít người, thống lĩnh bởi chính các tù trưởng của họ như Thân Thiệu Thái, Thân Cảnh Phúc,...(được gọi là Phò Mã, vì đều đã lập gia đình với các công chúa triều Lý). Lưỡng Quảng một phen rung chuyển, các chốt tiền tiêu vùng biên giới lập tức bị nhổ bật. Các quan nhà Tống tức tốc báo về một cảnh tượng kinh hoàng ' người Man cả làng 10 người đi tòng quân hết 9, chỉ có người già ở lại mà thôi.'. Ý điều này muốn nói rằng bên cạnh trai tráng đi đánh nhau, phụ nữ, trẻ con cũng đi theo để kiếm chác chiến lợi phẩm (trong chiến tranh 30 năm ở phương Tây hay cuộc hành quân chiếm Constantinope của Ottoman ta cũng thấy hiện tượng này).
Bên cạnh những người thần phục Đại Việt, cũng không ít tù trưởng nổi dậy chống đối và trở thành nỗi lo lắng của cả người Việt lẫn người Hán. Lãnh tụ vĩ đại nhất của người dân tộc là Nùng Trí Cao. Sau khi cha ông là Nùng Tồn Phúc tạo phản thất bại, bị giết, ông dù được nhà Lý chiêu dụ nhưng đã ngấm ngầm chuẩn bị, đợi thời cơ. Nùng Trí Cao sau đó đã nổi loạn lần nữa, nhưng lại kéo quân đánh vào Lưỡng Quảng, "các quan giữ thành bị giết hoặc bỏ chạy, không ai giữ được.". Nùng Trí Cao định đánh lên cả Hồ Nam, quân số tăng đến 5 vạn (vùng thuộc lãnh thổ Trung Quốc giáp với VN cũng có các bộ lạc người Thái khác, nhưng thần phục Trung Quốc). Chỉ đến khi danh tướng Địch Thanh của nhà Tống thân chinh Nam tiến thì Nùng Trí Cao mới phải cam chịu thất bại. Qua hai sự kiện trên, ta đủ thấy được sức mạnh của người dân tộc là như thế nào.
Sang thời Trần, những sự kiện "chấn động" cỡ trên tuy không còn nữa, có lẽ vì thế lực của họ cũng suy yếu nhiều, nhưng cũng không thiếu những lần các tù trưởng dân tộc tham gia chiến đấu sát cánh cùng người Việt. VD như Hà Bổng chặn đánh quân Mông khi chúng rút về, Hà Đặc làm giả hình nộm khổng lồ để hù dọa quân Nguyên,...
Nói chung không thể thống kê số lượng chính xác của loại quân này ( mà với cái kiểu 10 người đi tòng quân hết 9 đến cả con nít đàn bà thế kia thì thống kê làm sao cho chính xác ) nhưng ta chỉ có thể khẳng định người dân tộc là một lực lượng mạnh đương thời, một thời tung hoành ngang dọc. Vũ khí nổi tiếng của họ, như ta biết, là voi chiến, còn theo sách sử Trung Quốc ghi nhận qua cuộc xâm lấn của Nùng Trí Cao thì họ là loại quân với trang bị chủ yếu là lao và khiên tròn. Đó là tất cả những gì ta biết.
2.3. Dân quân:
Kỵ binh, tượng binh, Militia (những bộ binh có đội nón quân sự) và Dân quân (những người để đầu trần).
Đôi khi triều đình không thể ngăn chặn quân giặc ở biên cương mà để chúng tràn vào trong nước. Lúc này, những người dân ở các nơi phải có nghĩa vụ tự trang bị để bảo vệ lấy quê hương mình. Đây không chỉ là lòng yêu nước, mà là mệnh lệnh bắt buộc từ triều đình. Những làng đầu hàng quân giặc sẽ bị triệt hạ sau khi cuộc kháng chiến thành công. Nói chung, Loại quân này không có số lượng nhất định và họ cũng chẳng khác gì Militia kể cả trang bị lẫn huấn luyện. Điểm khác biệt duy nhất giữa họ với Militia là họ chưa bị động viên vào lính mà thôi. Thua sút về nhân lực, vật lực, kinh nghiệm và nhiều thứ khác nên ta thường nghe những đội dân quân này áp dụng chiến thuật du kích để chống lại kẻ thù (bao nhiêu cuộc khởi nghĩa của ta lâu nay vẫn bắt nguồn từ đội quân này và chiến thuật này chứ có gì xa lạ đâu)
Có 1 số trường hợp cá biệt khi dân quân tự nguyện gia nhập cùng triều đình để đánh giặc. Đó là vào năm 1285 khi quân ta phản công vây giặc Nguyên ở Thăng Long, dân binh các vùng đã kéo về xin cùng góp sức đánh giặc. Lúc này, khi trở thành những người chịu sự điều động của chính quyền, những người dân quân này chính thức trở thành Militia.
3. Các binh chủng
3.1. Bộ binh
Bộ binh thời Lê sơ
Đây là lực lượng chủ lực trong quân đội Đại Việt suốt nhiều thế hệ. Về hình thức thì như đã trình bày qua các loại quân trên, ta hiểu là bộ binh người Việt ngày xưa cũng chia ra bộ binh nặng, bộ binh nhẹ tùy theo mức độ huấn luyện và trang bị của họ. Theo sách Lê Quý Đôn ghi lại thì quân đội thời Lý cũng chiến đấu theo thế trận như ai. Ông trích dẫn Tống Sử của người TQ rằng " Thái Duyên Khánh là tri châu đất Hoạt, thường học được phép tổ chức quân đội của An Nam, bắt chước quy chế chia ra từng bộ phận, chia chính binh, cung tiễn phủ nhận mã đoàn thành 9 phủ. Hợp trăm đội chia làm tả, hữu, tiền, hậu 4 bộ. Mã đội có trú chiến (đóng quân), thách chiến (đi đánh) khác nhau. Tướng nào cũng có lịch bộ, quân kỵ, khí giới. Vua Thần Tông khen phải".
1 điều khá đặc biệt nữa là bộ binh thời này sử dụng chiến thuật hành quân rất thường dựa vào thủy quân. Hầu như mỗi khi hành quân đi đánh Champa, Tống hay đàn áp khởi nghĩa ở Nghệ An, họ chở quân đi lẫn về đều bằng thuyền vì như thế nhanh hơn. Thế nên mới có chuyện Lý Công Uẩn đi đàn áp Nghệ An về thì bị bão giữa đường, vua nghĩ rằng trời đất trừng phạt mình nên phải khấn to "Tôi là kẻ không có đức, không dám cậy có quân mạnh, chỉ vì Diễn Châu không theo giáo hóa, không thể không đánh được...". Thời chống Nguyên Mông cũng ghi nhận ta dùng thuyền chở quân nhiều lần rút lui thoát khỏi sự truy kích của địch. Hay thời 1075, khi Lý Thường Kiệt đánh Tống, 1/2 đội quân đi bằng thuyền. Bộ binh ta kết hợp với thủy binh trong tác chiến là ở điểm này.
bộ binh Tây Sơn
lính bộ binh thời nhà Nguyễn
Lính Việt qua con mắt của người Đức trong bản in năm 1800. Không rõ lính của Nguyễn Ánh hay Tây Sơn.
Trang phục quan văn, quan võ và thầy đồ thời đầu triều nhà Nguyễn trước khi cải tổ sang trang phục Mãn Thanh.
3.1. Thủy binh
Người ta thường nói, sở trường của phương Nam là sông nước, điều này đúng cho cả VN. Bởi địa hình Bắc Bộ lúc đó vốn 3 mặt bao quanh bởi núi, mặt còn lại hướng ra biển. Đồng bằng thì kênh rạch chằng chịt. Tất cả điều đó dẫn đến thói quen sử dụng thuyền để chuyên chở bộ binh trong những cuộc hành quân.
Hình ảnh chiến thuyền trên mặt trống đồng
Thủy quân thời nhà Lý
Đó là nói về thuyền chở quân. Còn về chiến hạm, dù không có con số chính xác, ta được biết trong hai cuộc kháng chiến chống Tống (năm 981 và năm 1076), thủy quân ta chặn đứng thủy quân Tống ở ngay cửa sông, khiến họ không thể hợp nhất với cánh quân bộ trên bờ. Qua đó có thể thấy thủy quân ta rất mạnh. Nhưng thử nghiệm trong lần dùng thủy quân tiến đánh doanh trại Tống ở bờ bắc sông Như Nguyệt thì kết quả không như ý muốn, ta bị máy bắn đá Tống đánh cho thiệt hại nặng, hai hoàng tử tử trận. Trần Khánh Dư nhận nhiệm vụ chặn đánh cánh quân thủy của quân Nguyên thì thất bại, suýt bị trách tội. Trong thời Lý - Trần cũng không ghi nhận lần nào ta trận đối trận mà thắng được thủy quân địch cả (nhưng trận đánh cửa Thị Nại ở Champa thì toàn thắng).
Hải cốt thuyền - một trong những loại thuyền có ở thời Lê Thánh Tông. Đây là loại thuyền chiến lớn với hàng chục tay chèo và hàng trăm binh sĩ.
Qua đó có thể hiểu sơ lược thủy binh ta thiên về thủ hơn công, sức mạnh thì nằm giữa Champa và Tống. Những chiến thắng thủy chiến vang dội nhất của ta hầu như đều phải kết hợp với chiến thuật địa hình, mà tiêu biểu là những chiến thắng Bạch Đằng không ai lạ gì. Trong những chiến thắng này, ta ghi nhận được việc thủy quân Việt sử dụng chất dễ cháy như bè lửa, cầu lửa (bình dầu lửa) để đốt cháy thuyền địch.
Chiến thuyền thủy quân Tây Sơn.
Bức vẽ người Pháp mô tả chiến hạm Định Quốc
Thủy quân thời nhà Nguyễn
Thuyền chiến, thuyền buồm, thuyền chỉ huy thời vua Minh Mạng triều Nguyễn.
3.3. Kỵ binh
Ở đây tôi dùng từ Cavalry để chỉ những người lính cưỡi cái gì đó để ra trận. Địa thế Bắc Bộ ta vốn không có những khu vực bằng phẳng rộng lớn, cái đó mọi người đều biết. Đã thế, khí hậu bản địa không cho phép ta phát triển chăn nuôi (cho tới tận giờ, thế mạnh của ta vẫn là nông nghiệp trồng trọt chứ không phải chăn nuôi.). Những yếu tố đó đã cản trở việc sử dụng kỵ binh như một lực lượng phổ thông trong quân đội, khiến cho họ dù có trở thành 1 binh chủng riêng biệt có biên chế đàng hoàng vẫn không thể thay thế bộ binh để trở thành binh chủng chủ lực của Đại Việt.
Bên cạnh Kỵ binh (ngựa) là tượng binh. Đây vốn luôn là nỗi kinh hoàng của người phương Bắc khi tràn xuống Đông Nam Á. Nhưng cũng như ngựa, tượng binh không được phổ biến trong quân đội Đại Việt. Nếu như thời Bà Trưng, Bà Triệu ta thấy xuất hiện rất nhiều voi thì ngược lại, ở thời này rất ity nghe đến voi chiến. Hầu như ta chỉ thấy người Việt dùng voi chiến như vật cưỡi cho các tướng lĩnh của họ hơn là làm mũi xung kích trên chiến trường. Điều này không có nghĩa là ta không có binh chủng tượng binh, thực sự là có, nhưng chưa lần nào nó phát huy khả năng của mình được như người Champa, người Khmer đã làm. Có thể nêu 3 sự kiện mà voi chiến tham gia trên chiến trường:
- Năm 1076, phò mã Thân Cảnh Phúc ( người dân tộc) lãnh đạo quân của các tù trưởng kháng cự cuộc tràn quân của nhà Tống vào Đại Việt. Kết cuộc, quân ta bỏ chạy vì "các tù trưởng thấy giặc đến là chạy, không chống cự hết mình". Duy chỉ có họ Thân do có thông gia với vua Lý nên dốc sức chiến đấu nhưng quân ít nên cũng không làm gì được nữa.
- Năm 1258, trận quyết chiến đầu tiên giữa ta và Mông Cổ tại Bình Lệ Nguyên. Quân Mông đã bắn tên vào voi ngựa của ta, khiến chúng hỗn loạn, nhân đó mà phá vỡ đội hình quân Việt.
- Năm 1406, trận thành Đa Bang. Sau khi bị công phá nặng nề, quân Hồ đành mở cổng thành xua voi ra quyết chiến. Nhưng nhà Minh biết ý, đã làm giả nhiều đầu sư tử phun lửa hù dọa rồi bắn hỏa khí vào tiêu diệt đội Tượng Binh.
Kỵ binh và tượng binh Nhà Nguyễn
- Thời Tây Sơn gắn liền với tượng binh trong chiến đấu. Quan Trung cưỡi voi, Bùi Thị Xuân cưỡi voi, ta xua voi dày xéo quân Thanh. Đây có thể xem là thời hiếm hoi voi được dùng hiệu quả đến vậy.
- đến tận thời nhà Nguyễn chống Pháp, cũng có vài lần ta xua voi ra đánh, nhưng đều nhanh chóng bị tiêu diệt trước hỏa lực hiện đại của địch.
Qua những ví dụ trên, ta thấy quân Việt thực sự có binh chủng tượng binh dù sử dụng xem chừng khá ít so với bề dày lịch sử và hầu như luôn gắn liền với thất bại.
3.4. Công thành
Công thành không phải thế mạnh của ta. Dù thực ra, công thành luôn là điều các tướng tá Đông Á luôn tránh né, kể cả TQ (Tôn Tử viết " Công thành chi pháp, vi bất đắc dĩ. Việc chế tạo và chuẩn bị vũ khí để công thành phải mất vài tháng mới hoàn thành, lại cần thêm vài tháng nữa để kiến tạo địa hình công thành. Tướng lĩnh vì nóng lòng xua quân tràn lên như kiến thì thành chưa lấy được mà đã thương vong mất một phần ba... Chính vì thế, nguyên tắc dùng binh là gấp 10 lần thì bao vây, gấp năm lần thì tấn công,..."). Tuy vậy, nếu người TQ qua chiến đấu đã tổng kết được rất nhiều kiểu mẫu vũ khí công thành (thống kê trên forum lịch sử của TQ có đến sơ sơ hai mươi mấy loại máy bắn đá, máy bắc thanh, tháp vây hãm, ...).
Một mô hình máy bắn đá của quân đội La Mã. Ảnh: wordpress.com.
Ở Việt Nam ta, việc tìm hiểu khó khăn vì không còn mấy tư liệu còn lại. Ta chỉ biết là khi đánh Lưỡng Quảng, vây Ung Châu năm 1075, ta đã dùng máy bắc thang gọi là " Thang Vân Thê" để công thành. Năm 1076, ta lại dùng máy bắn đá để nã vào bè gỗ của quân Tống. Nhưng chi tiết những kiểu mẫu của vũ khí ấy như thế nào thì ta... không biết.
1 số sách Sử VN ghi nhận ta có dùng Hồi Hồi pháo, và Champa cũng vậy (dùng trong lần nhà Nguyên xâm lược Champa) . Điều này trái với sử liệu của người TQ khi họ tin rằng người Việt học loại máy bắn đá này từ quân Minh ( còn người TQ thì học từ người Hồi giáo). Thực hư Hồi Hồi pháo của ta và Champa có đúng là Hồi Hồi pháo của người Hồi hay không thì khong thể kiểm chứng. Ta chỉ có thể khẳng định là vẫn có khả năng có người Hồi đã dạy cho cả Champa và Đại Việt cách chế tạo loại máy bắn đá này, vì lúc đó thực sự có rất nhiều người Hồi sống trong khu vực. Hốt Tất Liệt từng ban lệnh yêu cầu vua Trần bắt giữ và giao nộp toàn bộ thương nhân Hồi đang sống trên đất Việt, nhưng ta từ chối.
Một số sách như Lịch Sử VN Bằng Tranh và Đại Cương Lịch Sử xuất bản năm 2000 ghi rằng ta sử dụng cả " Hỏa Đồng" hoặc " Ống phun lửa". Điều này là ... rất đáng ngờ, không phải vì VN không có "Ống phun lửa" (Ống Phun lửa dùng đến tận khi Pháp xâm lược, còn Hỏa Đồng thì sau này là đại bác, cái ấy thì xứ nào cũng có cả) mà vì chính những tư liệu này viết rất lộn xộn. Ống Đồng bắn hỏa là tiền thân của đại bác, lần đầu tiên được quân Mông Cổ dùng để hạ thành Tương Dương, trong khi sự kiện này chỉ mới cách chừng 10 - 20 năm trước khi họ đánh Đại Việt lần 2. Người Nam Tống cũng mới phát minh ra súng hỏa thương và hỏa hổ cách đó không lâu. Làm sao người Việt có thể học một vũ khí tuyệt mật của Mông Cổ trong thời gian nhanh đến vậy, dù là sử ghi nhận VN ta có nhiều mỏ lưu huỳnh đi nữa. Kế đó là cách gọi tên cực kỳ lộn xộn, không thể hiểu nổi đó là " Ống phun lửa" hay "Hỏa Đồng" nữa vì đôi khi chính các tài liệu này lại viết như ghép cả hai lại thành "Ống đồng phun lửa", " Ống đồng bắn hỏa.". Tuy đây là thứ rất đáng ngờ nhưng cũng nêu ra đây để tham khảo.
quân Tây Sơn tấn công đồn Ngọc Hồi
Nói chung cũng khó biết là ta công thành giỏi hay dở, nhưng cũng như Trung Quốc, ta không thích việc dốc sức công thành. Thời Lê Lợi khởi nghĩa hầu hết dùng kế vây thành tuyệt lương, họa hoằn những trọng điểm cần chiếm ngay mới phải ra lệnh đánh thành gấp.
quân Lý Thường Kiệt công hạ thành Ung Châu 1075
Thời 1075, Lý Thường Kiệt đánh thành Ung Châu trong hơn tháng trời không hạ nổi, trong khi trong thành chỉ có 2000 quan quân và vài mươi ngàn dân chúng. Cũng có thể giải thích là tướng Tô Giám giỏi dụng binh và quân dân Tống đồng lòng góp sức, nhưng qua đó cũng có thể thấy ta không giỏi về công thành, cùng lắm chỉ là thường thường như ai. Nhưng mâu thuẫn với điều đó, khi đánh thành Đồ Bàn, kinh đô của Champa, lần nào ta cũng toàn thắng nhanh chóng. Việc này cần phải nghiên cứu kỹ hơn.
4. Vũ khí quân đội
Thời Ngô – Đinh – Tiền Lê:
Trong bài sớ của Tống Cảo dâng lên vua Tống trong một dịp đi sứ Đại Cồ Việt có nói: “Cuối mùa thu năm ngoài (tức năm 989)- chúng tôi là lũ Tống Cảo đến cõi giao Châu, Lê Hoàn đã sai lũ Đinh Thừa Chính làm Nha nội đô chỉ huy sứ. chở chín chiếc thuyền và 300 quân đến đón ở cửa biển Thái Bình... Đến Trường Châu (gần kinh đô) nước Nam: Lê Hoàn trang hoàng sẵn, đem hết cả thuyền chiến ra nói là “diễu quân”... Sĩ tốt độ 3.000 người. đều viết chữ vào trán là “thiên tử quân”, ngày lượng cấp thóc lúa cho, sai tự giã lấy mà ăn. Đồ tinh khí chỉ có: cung nỏ, mộc bài, giáo gỗ, giáo tre, yếu ớt không thể dùng được . . .” 1 (nhưng cái lũ không dùng được đó đã dàn trận tay đôi đập chết quân Tống trong cuộc xâm lăng lần 1, chẳng hề dùng du kích gì cả.)
Nhưng đây là thời mới lập quốc, tình hình trong nước còn lộn xộn, vua chúa thay liên tục nên chưa có điều kiện chu cấp cho quân đội cũng là dễ hiểu. Những miêu tả của người Tống, dù chất đủ sự khinh miệt, vẫn nói đúng phần nào tình hình ta lúc này.
Thời Lý – Trần:
Sự quan tâm của các vua Lý đối với trang bị quân đội được thể hiện qua những chi tiết sau:
* Vua Lý Thái Tổ khi xây thành Thăng Long đã nghĩ ngay đến việc tăng cường tổ chức cấm quân và trang bị cho quân lính giữ thành.
* Năm 1043. vua Lý Thái Tông “Xuống chiếu cho chư quân sắm sửa áo giáp và binh khí”.
* Lý Nhân Tông, vị vua trị vì trong thời kỳ phạt Tống bình Chiêm, lúc hoà bình vẫn luôn mong sao có quốc phòng tốt để trong nước được trên hàn, ngoài biên không có giặc giã”. Và trước khi qua đời nhà vua không quên dặn Thái tử và các đình thần: “ Lại phải sửa sang giáo mác, đề phòng việc không ngờ”
Huấn luyện:
Huấn luyện thủy quân và kỵ binh thời Lý
Cùng với Giảng Võ đường tức là nơi học tập lý luận binh pháp ở Thăng Long còn có trường bắn Xạ Đình, bãi tập hay trường đua. Ngoài đua ngựa, các tướng còn luyện tập và đọ tài cung kiếm ở đó. Về thủy chiến thì luyện trận nhỏ ở hồ Lục Thủy ( hồ Hoàn Kiếm, khi đó còn lớn, thông với sông Cái), luyện trận lớn ở Đông Bộ Đầu.
Huấn luyện quân đội thời Lê sơ
Các loại vũ khí:
- Cận chiến có gậy/ giáo/ mác/ gươm/ đao/ dao/ đoản kiếm./ câu liêm, thương, đinh ba,…
- Vũ khí tầm xa có: cung/ nỏ/ nỏ nước/ mũi tên độc/ lao/ móc câu chùm,…
- Công thành có máy bắn đá, thang vân thê, các phương pháp đào hầm,…
- bẫy có bẫy chông, bẫy đá,…
- hỏa khí có pháo, cầu lửa…
Đương nhiên bạch khí ( vũ khí cận chiến như gươm giáo và tấn công tầm xa như cung nỏ) vẫn là phổ thông nhất.
4.1. Cận chiến:
4.1.1. Gậy:
Thương, trượng và nhất là gậy là những vũ khí thông thường, phổ biến trong quân đội và dân binh Đại Việt.
Sứ giả Nguyên là Trần Phu từng nói rằng, ở Đại Việt mỗi khi có biến là trai tráng kéo ra ngay, khí giới đều do họ tự trang bị, có người còn vác cả cây gậy trơn. Trong một cuộc hành quân dẹp “giặc Ngưu Hống” ở tây bắc, tướng quân Phạm Ngũ Lão sai binh sĩ dùng gậy tre ngắn để phang vào chân voi, voi bị đau quay đầu chạy, vì thế đã hạn chế được thế mạnh tượng binh của đối phương. Sách Đại Việt sử ký toàn thơ có nói đến một đội đấu gậy trong cấm quân...
4.1.2. Giáo/ mác:
Mũi tên, mũi giáo dùng để đánh giặc trong thế kỷ 18, dưới triều Tây Sơn và nhà Nguyễn
Vũ khí đột kích bằng sắt, sắc và nhọn rất thông dụng. Giáo thân ngắn, cứng, có gờ nổi cao ở giữa, hai lưỡi vát sắc cạnh và nhọn để đâm kẻ địch Chuôi giáo bằng gỗ hay tre; . Giáo có nhiều loại như: giáo có họng tra cán (hình búp đa, hình ngòi bút) và giáo có chuôi tra cán hình lá lúa hay có ngạnh). Quân nhà Lý trong khi đánh Tống, phạt Chiêm phần lớn đều cầm giáo chiến đấu. Trên chiếc thạp bằng sứ tráng men hoa văn thời Lý-Trần, ta thấy vẽ hình các chiến binh tay trái cầm giáo. tay phải cầm khiên tròn. Đó có thể là thứ vũ khí chủ yếu thời Lý-trần.
Bộ binh cầm giáo
Vua Lý Nhân Tông căn dặn Thái tử “phải lo sửa sang giáo mác...”. Đội cấm binh của Lý Anh Tông do quan Điện tiền Vũ Đái chỉ huy đã sử dụng giáo trong vụ bắt tên phản thần Đỗ Anh Vũ năm 1150. Lính thị vệ nhà Lý dã sử dụng giáo trong sự biến cung đình năm 1210.
Năm 1044, nhà vua ra lệnh phát vũ khí trong kho cho quân sĩ trước khi lên đường đánh Chiêm Thành và cuộc chiến tranh đó được sử chép là: máu nhuộm gươm giáo, xác chất đầy đồng” chứng tỏ gươm giáo là những thứ vũ khí trang bị chính của quân đội nhà Lý.
Một bài thơ của sứ giả nhà Nguyên là Trần Phu trong Sứ Giao Châu tập có câu: “Kim qua ảnh lý tâm đau khổ” (trông thấy bóng giáo mác sáng loè mà lòng đắng cay), với ngụ ý mỗi lần đi sứ sang Đại Việt trông thấy gươm giáo mà não nùng vì những trận chiến quân Nguyên đã thất bại trên chiến trường nước ta. Cũng giống như câu: “Nghe tiếng trống đồng tóc đốm hoa” . . , đó là hiện tượng “hội chứng” chiến tranh của người Nguyên thời ấy.
Trong bài thơ Thuật hoài của tướng quân Phạm Ngũ Lão có câu: “Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu” (Cầm ngang ngọn giáo vì núi sông đã mấy mùa Thu).
Trương Hán Siêu mô tả quân nhà Trần trong trận Bạch Đằng như sau: “Bấy giờ muôn dặm thuyền bè tinh kỳ phất phới, Sáu quân oai hùng gươm giáo sáng chói”... (Phú sông Bạch Đằng)
4.1.3. kiếm/ đao/ dao găm/ đoản kiếm
Gươm và kiếm lưỡi dài. Thân gươm hơi cong, sống dày, lưỡi mỏng. Kiếm thân thẳng, dày ở giữa, hai lưỡi sắc. Chuôi gươm, kiếm bằng đồng, có thể được chạm khắc. Đã tìm thấy nhiều di vật vũ khí thời Lý ở Hà Nội và Thanh Hoá, trong đó có chiếc gươm dài 72cm, phần thân 59cm; chiếc kiếm dài 62,3cm, phần thân 62,3cm.
Tuệ kiếm và trường kiếm
Các tướng lĩnh, võ quan thời Lý phần lớn đeo kiếm cưỡi ngựa trong chỉ huy chiến đấu. Năm 1022. khi dẹp vụ loạn ba vương”, Lê Phụng Hiểu đã dùng kiếm chém Vũ Đức Vương. Ông nổi tiếng là người "quăng dao, múa kiếm lừng danh”, được vua Lý Thai Tông ngợi khen là giỏi hơn cả Kính Đức vậy”. Một số tư liệu chưa kiểm chứng viết rằng thời Trần có sử dụng 1 loại đao to bản.
Nếu xem qua phần về giáo mác, ta có thể thấy nó thường được đề cập kèm với gươm đao. Qua đó ta có thể hiểu là mức độ sử dụng giáo mác và gươm đao trong thời này là phổ thông ngang nhau, dù đương nhiên giáo mác có nhỉn hơn vì rẻ và dễ chế tạo hơn.
4.1.4. Câu Liêm:
1 loại vũ khí khá giống kiểu trường đao của Quan Vũ bên TQ, nhưng lưỡi của nó trông như cái móc câu. Thứ vũ khí này khá tiện dụng, ko những dùng để chém như trường đao, mà còn thể dùng để móc ( Phàn Tiếp bị câu liêm móc, bị bắt sống), dùng chặt dây buộc thuyền. Đây là 1 vũ khí khá tiện lợi cho thủy quân.
Lính câu liêm
4.1.5. Đinh ba:
Là thứ vũ khí rất phổ biến trong dân gian, cách chế tạo đơn giản dễ sử dụng, chỉ gồm ba mũi đinh nhọn, ở giữa cao hơn. Có địa phương gọi đó là cái xỉa, có tra cán, dùng để đâm. Thứ này thời Pháp xâm lược cũng ghi nhận quân Nguyễn sử dụng món này, sau khi đâm được ai thì cứ thế lôi luôn họ đi.
4.2. Tấn công xa:
4.2.1. Cung/ nỏ:
Cung nỏ là loại vũ khí truyền thống của quân đội nước ta ngay từ buổi đầu dựng nước và giũ nước. Phép cưỡi ngựa bắn cung có ở nước ta từ lâu đời. Thời Lý ở kinh thành Thăng Long có Xạ Đình, tức bãi tập bắn. Sử chép: vua (Lý Anh Tông - 1170) tập bắn và cưỡi ngựa ở phía nam thành Đại La gọi là Xạ Đình, sai các quan võ hàng ngày luyện tập phép công chiến, phá trận”.
Chỉ có hình bên dưới bên phải là nỏ chiến, còn lại là nỏ chủ yếu dùng săn thú của người Tây Nguyên, nỏ ở giữa phục chế theo nỏ An Dương Vương
Thời Lý. việc cưỡi ngựa, sử dụng cung kiếm là yêu cầu bắt buộc đối với các vương hầu, võ quan, tướng lĩnh triều đình. Bấy giờ, ở kinh thành có Điện Giảng Võ, có bãi tập và trường đua ngựa. Quan Thái uý Lý Tự Khánh nổi tiếng có tài bắn cung.
Trong các chiến trận lớn đánh quân Chiêm Thành và đánh quân Tống xâm lược, quân Lý sử dụng nhiều cung nỏ để tiêu diệt địch. Các đội quân của những thủ lĩnh dân tộc đã dùng nỏ, bẫy đá mai phục ở những nơi hiểm yếu, khiến quân Tống rất kinh sợ. Trong trận vây đánh thành Ung Châu, quân ta đã dùng tên độc bắn lên thành, người và ngựa quân Tống chết rất nhiều.
Trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn khuyên các tướng phải “huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”.
Đáng tiếc là thời này kỹ thuật chế tạo Liên Nỏ (nỏ lớn, 1 phát bắn nhiều mũi tên, là thứ được gọi là Linh Quang Kim Trảo trong truyền thuyết, đây vốn là loại nỏ có thật, Trung Quốc có ghi chép được) đã bị thất truyền nên ta mất đi một loại vũ khí tầm xa độc đáo.
4.2.2. Mũi tên tẩm thuốc độc
Đây là vũ khí lợi hại của quân đội Đại Việt. Sử chép về chiến công của các đội quân cung nỏ thời Trần năm 1285 như sau: “Lý Hằng đem quân hộ tống Thoát Hoan chạy về Tư Minh. Quân ta lấy tên độc bắn trúng vào gối bên tả của Hằng, Hằng chết. Tuỳ tướng là Lý Quán thu nhặt 5 vạn quân còn lại lấy đồ đồng dấu Thoát Hoan vào trong để trốn về Bắc. Đến Tư Minh, Hưng Vũ vương đuổi theo dùng tên thuốc độc bắn trúng, Lý Quán chết, quân Nguyên tan vỡ” 1. Tên Việt gian Trần Kiện không thể thoát khỏi mũi tên độc của gia nô của Hưng Đạo Vương là Nguyễn Địa Lô ở Ma Lục (Lạng Sơn). Nguyên sử nói rằng, trong trận Bạch Đằng (1288), quân Trần “bắn tên như mưa”, gây nhiều tổn thất cho chúng.
Khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi, vũ khí được sử dụng nhiều nhất là roi sắt, kiếm ngắn, lưỡi giáo, mũi tên
Đến tận thời Pháp đánh Hải Phòng còn ghi nhận việc họ bị tấn công bởi một loại tên lửa (mũi tên gắn ống phóng thuốc nổ, chủ yếu thuốc dùng để phóng cho tên bay xa mà thôi, sát thương vẫn dựa vào mũi tên sắc nhọn.), họ ghi lại rằng nếu trúng tên sẽ không thuốc gì chữa được. Qua đó ta đủ thấy mức độc tính của tên độc nước ta khủng khiếp thế nào.
4.2.3. Nỏ nước: Sứ giả Trần Phu đời Nguyên đã từng ghi chép thứ vũ khí lạ lung này trong chuyến đi sứ nước ta. Theo ông mô tả, thứ nỏ này không bắn tên mà bắn một thứ nước hồng. Bất cứ ai, nếu bị trúng thứ nước này phải lập tức dùng dao cắt bỏ ngay phần da thịt tiếp xúc với nước, nếu không sẽ bị hoại tử lan dần ra và chết.
4.2.4. Lao:
Tre, gỗ chắc vót nhọn (có thể bịt sắt) trở thành cây lao, cũng là thứ vũ khí phổ biến, dễ chế tạo. Phóng lao (ném thủ tiễn) là một sở trường của quân sĩ nhà Trần. Lao có hình dáng như mũi tên cánh lớn và có họng tra cán. Trong quân đội Đại Việt có môn thi phóng lao. Đó là những vũ khí truyền thống, đơn giản và dễ trang bị cho quân đội và dân binh. Sử Tống ghi nhận quân dân tộc của Nùng Trí Cao hầu hết dùng lao và khiên. Về sau, Liễu Thăng đời Minh cũng bị lao sắt của ta ném chết.
4.2.5. Móc câu chùm:
1. Câu liêm, móc dài, móc lửa, chàng nạng - những công cụ thô sơ được binh lính sử dụng khi ra trận vào thế kỷ 13, được phục chế (trái); 2. Móc bay - vũ khí đánh giặc thế kỷ 13 được phục chế
hình dáng như chiếc mỏ neo, có 3 móc hình lưỡi câu; cán có lỗ để buộc dây, chủ yếu do thủy quân sử dụng, dùng để kéo, nối vào thuyền giặc.
4.3. Công thành:
4.3.1. Máy bắn đá: đã nói ở phần trước.
4.3.2. Thang Vân Thê: trong trận đánh thành Ung Châu. quân ta đã dùng “vân thế” (thang chuyền nối nhau rất cao) để trèo lên mặt thành rồi dùng tên độc và hoả tiễn” (bắn chất cháy) để tiêu diệt và dốt trại giặc.
4.3.3. Đào hầm: Quân ta còn đào đường hầm, dùng da lót cho kín nước để chui vào thành và cuối cùng ta dùng hàng vạn bao chứa đất xếp chồng thành bậc thềm để quân sĩ leo lên. Nhờ đó quân ta đã hạ được thành Ung sau 42 ngày chiến dấu ác liệt.
4.4. Bẫy:
Bẫy đá/ chông sắt
trong hình là vũ khí thời Hồ khai quật được, bao gồm đạn đá, chông sắt, mũi giáo, dao, đinh đóng thuyền,...
4.5. Hỏa khí:
Nguyên sử, phần An Nam truyện có chép việc sử dụng pháo của quân nhà Trần. Sự kiện đó diễn ra vào tháng 2-1285, khi quân Nguyên tiến đến gần Đông Bộ Đầu, đóng ở bên kia sông Nhị, chuẩn bị tiến công vào Kinh thành Thăng Long, thì quân ta do vua Trần chỉ huy từ bên này sông đã “bắn pháo hô to, thách đánh” (nguyên văn của Nguyên sử là: Phát pháo đại hô cầu chiến). Tuy nhiên, đó mới chỉ là sử liệu duy nhất phản ánh về hoả khí của quân đội Đại Việt thế kỷ XIII. Theo cảm nhận bản thân thì pháo nhắc ở đây rất có thể chỉ là pháo hiệu ra quân mà thôi.
Nhưng ngược lại, chất cháy, cầu lửa bằng nhựa thông thì thủy quân ta đã sử dụng từ lâu để làm bè lửa, cầu lửa đốt tàu chiến của địch. Còn về hỏa khí thực thụ thì phải đợi đến nửa sau thế kỷ XIV
mới được ghi nhận rõ ràng việc sử dụng nó để chiến đấu. Đó là hai sự kiện dùng súng bắn chết Chế Bồng Nga và Hồ Nguyên Trừng đúc súng Thần Cơ.
Ta trong thời này cũng bắt đầu học hỏi rất nhiều từ kỹ thuật chế tạo hỏa khí của TQ, nước ngoài. Việc này tiếp tục kéo dài sang cả đời Minh. Trong Binh Thư Yếu Lược bản còn truyền đến ngày nay, những tác giả thế hệ sau Trần Hưng Đạo đã hiệu đính thêm vào tác phẩm này rất nhiều loại hỏa khí. Đa số trong chúng đều được các dân tộc Trung Hoa, Triều Tiên, thậm chí Nhật Bản sử dụng. VD loại trâu lửa ( trâu tẩm dầu và thuốc nổ) được người TQ từng sử dụng, tên lửa chùm mà người Triều Tiên dùng đánh giặc biển, hay cả quả mù khói đọc thậm chí từng được truyện Ninja Loạn Thị đề cập đến,… tất cả chúng đều được liệt kê chi tiết trong tác phẩm.
4.5. Giáp trụ:
Ngoài 3 loại mũ quân sự là Tứ Phương Bình Đỉnh, Đầu Mâu, Ma Lôi, sử sách còn ghi chép tản mạn về giáp trụ thời Lý – Trần như sau:
- Hồ Tùng (đầu thời Hồ) đi đánh Chiêm Thành, quân bộ đi đường núi cách xa quân thuỷ; gặp nước lũ, tướng sĩ giữa đường hết lương 3 ngày, phải nướng áo giáp bằng da để ăn
- tướng Nguyễn Nộn (cuối thời Lý) bị đối thủ dùng giáo đâm thủng áo giáp sắt, bị thương.
Trang phục dựng lại của quân lính thời nhà Lý
Phục dựng thiết kỵ thời nhà Trần, dựa vào hiện vật mũ sắt và khiên
- Phép thi võ trong quân đội Lê Sơ có môn bắn cung, ném thủ tiễn, sử dụng áo giáp và lá chắn. áo giáp được trang bị rất phổ biến trong quân đội Lê Sơ, vì thế trong bài Quan duyệt thuỷ trận, Nguyễn Trái viết rằng: “Muôn giáp khoe oai tì hổ dữ”.
Giáp vải: Giáp này xuất hiện thời nhà Nguyễn, bên trong độn sắt miếng:
- Nguyễn Trung Ngạn ( thời Trần) mặc áo chiến bào, đội khăn quan võ, đeo "lăng kim nghiền" (hộ tâm phiến) bằng gỗ vuông thiếp vàng 4 cạnh.
- Thái sư Trần Quang Khải và Thái úy Trần Đức Việt, mỗi người cầm một miếng ván tròn như gương màu xanh rộng 6 xích, trên vẽ mặt trời, mặt trăng, sao Bắc Đẩu và 28 vị tinh tú, có ý dùng để tự che chở cho mình" (An Nam tức sự)
Khiên và loa dùng khi ra trận, thế kỷ 13
- Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, vua Lý Thánh Tông đã múa khiên mừng thắng trận sau khi đánh Champa. Môn múa khiên ( 1 cái khiên đồng to và nặng) là 1 môn võ thịnh hành lúc đó.
- Trên các loại bình gốm thời Trần, ta hay thấy hình tượng người lính một tay cầm giáo, một tay cầm khiên.
- 1 số sách ghi nhận them rằng các tướng thời Trần thích đeo nhạc thành chùm, khi di chuyển tạo tiếng xóc như vó ngựa.
Kết luận: như vậy, chúng ta có thể khẳng định vài điều:
1/ quân ta từ thời Lý Trần đã tiến đến phổ cập giáp trụ, cùng lúc với phổ cập vũ khí.
2/ Món giáp trụ phổ thông nhất thời này, theo chi tiết Hồ Tùng cung cấp, là loại giáp da. Những thành phần cao cấp hơn thì có giáp trụ bằng kinh loại tốt hơn. Bởi thế, vào đầu thời hậu Lê, giáp trụ mới mau chóng phổ thông đến mức có cả môn thi dùng áo giáp và khiên như thế.
3/ Quân ta được trang bị khiên và mộc, tương tự như giáp, cũng có nhiều loại bằng chất liệu khác nhau như gỗ, đồng, sắt,…
4/ 1 loại giáp đặc trưng của ta, dùng từ tận thời Hùng Vương tới nay, đó là Hộ Tâm Phiến, tức 2 miếng hình vuông hay chữ nhật, có nhiều kích cỡ khác nhau, một miếng che ngực, một miếng che lưng, buộc lại với nhau. Như vậy, ta thịnh hành loại giáp tấm hơn là giáp vảy cá.
5/ tướng có đeo nhạc thành chùm.