Suy ngẫm

Biết bắt đầu công việc là người giỏi, biết làm việc là người tài, biết dừng lại đúng lúc là vĩ nhân.

Thỏ và Rùa

Tác giả: Đang cập nhật

Nội dung:

Đây là một câu chuyện có vẻ quen thuộc với chúng ta, chưa chắc đâu ^^!:

Ngày xửa ngày xưa, có một con rùa và một con thỏ cãi nhau xem ai nhanh hơn. Chúng quyết định giải quyết việc tranh luận bằng một cuộc thi chạy đua. Chúng đồng ý lộ trình và bắt đầu cuộc đua. Thỏ xuất phát nhanh như như bắn và chạy thụt mạng một hồi, và sau khi thấy rằng đã bỏ khá xa bạn rùa, thỏ nghĩ nó nên nghỉ mệt dưới một tán cây bên đường và thư giãn trước khi tiếp tục cuộc đua. Thỏ ngồi dưới bóng cây và nhanh chóng ngủ thiếp đi. Rùa từ từ vượt qua thỏ và sớm kết thúc đường đua, dành chiến thắng. Thỏ giựt mnh tỉnh giấc và nhận ra rằng nó đã bị thua.

Bài học: chậm và ổn định đã chiến thắng cuộc đua.

------------------------

Nhưng cuộc sống không quá đơn giản như thế, câu chuyện được tiếp tục phát triển thêm:

Thỏ vô cùng thất vọng vì để thua và nó cố suy nghĩ. Nó nhận ra rằng nó đã thua chỉ vì quá tự tin, bất cẩn và thiếu kỷ luật. Nếu nó không xem mọi thứ quá dễ dàng và chắc thắng, thì rùa không thể nào có cửa hạ được nó. Vì thế, nó quyết định thách thức một cuộc đua mới. Rùa đồng ý. Lần này, thỏ chạy với tất cả sức lực của nó và chạy suốt một mạch về đích. Nó bỏ xa rùa đến mấy dặm đường.

Bài học: Nhanh và vững chắc sẽ chiến thắng cái chậm và ổn định.

Nếu có 2 người trong công ty của bạn: một người chậm, nguyên tắc và đáng tin cậy; một người khác nhanh và vẫn đáng tin cậy ở những việc anh ta làm. Người nhanh và đáng tin cậy chắc chắn sẽ được thăng chức nhanh hơn. Chậm và chắc là điều tốt, nhưng nhanh và tin cậy là điều tốt hơn.

-----------------------

Nhưng câu chuyện cũng không dừng lại ở đây. Rùa đã suy ngẫm kết quả và nhận ra rằng: nó không có cách nào thắng được thỏ trên đường đua vừa rồi. Nó suy nghĩ thêm một tí nữa và rồi thách thỏ một cuộc đua khác, nhưng có một chút thay đổi về đường đua. Thỏ đồng ý. Họ bắt đầu cuộc đua. Như đã tự hứa với lòng mình là phải luôn nhanh, thỏ bắt đầu chạy và chạy với tốc độ cao nhất cho đến bên bờ sông. Vạch đích đến lại còn đến 2 Km nữa ở bên kia sông! Thỏ dành ngồi xuống và tự hỏi không biết làm sao đây. Trong lúc đó, rùa đã đến nơi, lội xuống sông và bơi qua bờ bên kia, tiếp tục chạy và kết thúc đường đua.

Ý nghĩa từ câu chuyện: Trước tiên, cần phải xác định ưu thế của mình, và sau đó là biết chọn sân chơi phù hợp.

--------------------------

Câu chuyện vẫn chưa dừng lại.

Đến đây, thỏ và rùa đã trở thành đôi bạn thân thiết và họ cùng nhau suy ngẫm. Cả hai nhận ra rằng cuộc đua sau cùng có lẽ sẽ có kết quả tốt hơn. Vì thế, chúng quyết định tổ chức một cuộc đua cuối cùng, nhưng chúng sẽ cùng chạy chung một đội. Cuộc đua bắt đầu, thỏ cõng rùa chạy đến bên bờ sông, rùa lội xuống sông và cõng thỏ bơi qua bên kia bờ sông. Lên đến bờ, thỏ lại cõng rùa đưa cả hai cùng về đích. Và chúng cùng nhận ra rằng đã về đích sớm hơn rất nhiều so với các lần đua trước.

Bài học: Thật tuyệt vời nếu mỗi người đều thông minh và đều có ưu điểm riêng, nhưng trừ khi các bạn cùng làm việc với nhau trong một đội và cùng chia xẻ, cống hiến ưu thế của từng người, bạn sẽ không bao giờ thực hiện công việc được hoàn hảo bởi vì luôn luôn có những trường hợp bạn không thể làm tốt hơn người khác. Điều quan trọng của làm việc theo nhóm là phải chọn được người trưởng nhóm trong từng trường hợp cụ thể. Phải chọn được người có ưu thế về lĩnh vực mà họ làm trưởng nhóm. Còn nhiều bài học nữa từ câu chuyện này. Lưu ý rằng cả thỏ và rùa đều không hề đầu hàng hay nản chí sau thất bại. Thỏ quyết tâm làm việc hăng hơn và cố gắng nhiều hơn sau khi phải thất bại cay đắng. Rùa phải thay đổi chiến lược vì nó đã cố gắng làm việc hết sức. Trong cuộc sống, khi phải chịu đựng, đối mặt với thất bại, có thể đó cũng là thời điểm thích hợp để cố gắng hơn và nỗ lực nhiều hơn nữa, nhưng đôi khi cũng cần phải thay đổi chiến lược và thử tìm kiếm giải pháp khác. Và đôi khi phải làm cả hai. Thỏ và rùa cũng đã học thêm một bài học để đời khác: thay vì chúng chống đối (hay cạnh tranh) với nhau, chúng bắt đầu tìm cách giải quyết tình huống, và chúng đã cùng nhau làm tốt hơn rất nhiều.

Bài học thực tế: Khi Roberto Goizueta đảm nhận vị trí CEO của Coca Cola vào những năm 1980, ông đã phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt với Pepsi. Nhân viên của ông ta đang tập trung vào cạnh tranh với Pepsi và cố gắng tăng thị phần từng 0,1%. Goizueta quyết định không cạnh tranh với Pepsi mà thay vào đó là tìm cách chiếm thị phần. Ông ta hỏi các nhân viên và biết rằng trung bình mỗi ngày, mỗi người Mỹ uống các loại nước là 14 ounces (đơn vị đo lường của Mỹ), trong đó thì Coke chỉ có 2 ounces/ngày/người. Rõ ràng việc cạnh tranh không chỉ là Pepsi mà còn là nước, trà, cà phê, sữa và các loại nước trái cây. Mọi người sẽ dễ dàng tìm thấy Coke bất kể khi nào họ cần uống. Coke quyết định đầu tư các máy bán coca cola tự động ở khắp các góc đường. Doanh thu tăng nhảy vọt và cho đến nay thì Pepsi vẫn không thể nào theo kịp.

Kết luận: câu chuyện ngụ ngôn thỏ và rùa đã dạy cho chúng ta khá nhiều bài học lý thú. Ý tưởng quan trọng nhất là "nhanh và vững chắc" sẽ luôn đánh bại "chậm và ổn định"; làm việc với những ưu điểm của bạn, đầu tư nhiều tài nguyên và làm việc theo nhóm sẽ luôn chiến thắng bất cứ một cá nhân nào, không bao giờ đầu hàng hay nản chí sau thất bại. Và cuối cùng, phải tìm giải pháp cho mọi tình huống, không chống lại cuộc chiến.

----------------------------

Tiếp tục đua:

Thỏ và Rùa được cáo thách đua. Chúng tự tin và nhận lời. Đích đến là hang cáo, khá xa. Chạy đến tối mệt mờ cả mắt, không nhấc nổi chân thì về đích. Chúng ngồi thở không ra hơi, vừa lúc đó cáo về...

Buổi tối, cáo ăn cơm có thỏ và rùa. Từ đó, chả có những thằng rỗi hơi chạy loạn xạ trong rừng.

Kết luận: Thỏ nướng và rùa hầm là số 1

Nguồn: facebook

Chia sẻ với bạn bè của bạn! Xin cảm ơn ^^!

.

210 lượt xem

Người Việt khôn hay dại?

Tác giả: NGUYỄN HOÀNG ĐỨC

Bài đã được xuất bản.: 06/10/2010 06:00 GMT+7

Cái khôn ranh chỉ là bản năng sống rình mồi kiếm ăn của các loài thú. Chỉ có cái khôn của hiểu biết mới biến con người thành công trình sư cho số phận của mình.

LTS: Sau khi đăng tải bài viết "Người Việt có thông minh không?", Tuần Việt Nam nhận được nhiều ý kiến thảo luận, tranh cãi xung quanh chủ đề này. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam sẽ lần lượt giới thiệu các góc nhìn khác nhau. Mời bạn đọc cùng thảo luận thêm.

TRONG MỤC NÀY (Đọc thêm)

    • +63

Một cây đàn không làm nên dàn nhạc?

Người Việt có danh từ "Lương - tri", có nghĩa là: Con người ta chỉ có lương tâm - khi đi kèm tri thức. Từ "lương tri", theo gốc Latin là Conscience - cũng có nghĩa là ý thức. Nó được các triết gia từ cổ đại đến hiện đại bàn rốt ráo rằng, người ta chỉ có thể có lương tâm khi có ý thức và hiểu biết để phân biệt được cái hay - cái dở, cái tốt - cái xấu, cái phải - cái trái. Trình độ tri thức, khôn hay dại, vì thế vô cùng quan trọng, bởi vì nó chính là trình độ của lương tâm, cái sẽ xây nên tầm vóc của xã hội.

Người Việt có thông minh không, hay chỉ khôn lỏi thôi? Mới đây, chúng ta có Giáo sư Ngô Bảo Châu đoạt giải Field thế giới về toán học, vậy thì ai dám nói là người Việt không thông minh?

Thế nhưng, vài chuyên gia đã chứng minh về cái gọi là "tâm lý đại biểu". Nghĩa là, thay vì bàn về sự thành - bại căn cứ vào bản thân mình, họ thường viện dẫn bằng tâm lý đại biểu, để nâng mình lên, rằng ở có người này người khác, ở phố kia, làng nọ, hay nước khác chẳng kém ai.

Giáo sư Ngô Bảo Châu

Xét về sự khôn - dại của người Việt ta cũng tương tự. Nếu cả nước ta lấy GS Ngô Bảo Châu ra để tự hào chính là dùng "tâm lý đại biểu" để ngụy biện cho mình. Lấy cái cố gắng, cái thông minh, cái thành công cao nhất của một con người bao phủ cho sự thiếu cố gắng, thiếu tư duy, và thiếu thành công cho bản thân mình, hay là cả dân tộc.

Đó sẽ là một niềm kiêu hãnh nguy hiểm, vì một bông hoa không làm nên vườn hoa, một người không làm nên dân tộc, và như nhạc sĩ thiên tài Shuman (1810-1853) nói: "Cái hay của âm nhạc nằm trong dàn nhạc". Nếu chúng ta chỉ cậy vào một cá nhân để tự hào, thì thay vì chúng ta có một dàn nhạc đại toàn tấu thì chúng ta chỉ có mỗi một cây đàn đang độc tấu.

Dân tộc 100 triệu người vẫn có thể là dân tộc... bé

Trước hết chúng ta hãy đưa ra một khung cảnh chung về một sự so sánh. Dân tộc Thụy Sĩ giờ đây có khoảng 5 triệu dân, cách đây gần 2 thế kỷ, lúc chỉ có khoảng vài chục vạn dân nhưng họ đã nổi tiếng về loại hình quốc hội mở ngoài trời, và có bộ não yêu sự chính xác đến mức tạo ra những chiếc đồng hồ nổi tiếng hoàn cầu.

Dân tộc Bồ Đào Nha, cách đây vài thế kỷ, cũng chỉ có khoảng vài chục vạn dân, vậy mà họ đã đóng những đoàn thuyền buồm lớn, chạy đua với Tây Ban Nha, sang tận châu Mỹ để tìm kiếm những thuộc địa mới.

Lần ngược lịch sử, các dân tộc Bắc Âu cũng vậy, vào lúc chỉ có một nhúm dân số, họ đã từng trở thành những kẻ khét tiếng chinh phục trên biển.

Còn nước Anh , cách nhiều thế kỷ, vào lúc dân số cũng lèo tèo một vài triệu, nhưng đã giong buồm đi chinh phục khắp thế giới với 1 khẩu hiệu ngạo nghễ rằng "Mặt trời không bao giờ lặn trên Vương quốc Anh".

Thụy Sĩ nổi tiếng là nước sản xuất đồng hồ hàng đầu thế giới

Ở ngay cạnh nước Việt, có Campuchia, dân số bằng 1/ 10 nước ta, nhưng lại có công trình Angkor Wat, một quần thể kiến trúc kỳ vĩ và đồ sộ hàng đầu thế giới. Công trình này có lẽ được xây dựng vào lúc dân số của họ chỉ đếm tới hàng vạn. Còn Việt Nam thì sao?

Theo số liệu mới nhất, nước Việt Nam hiện đang đứng thứ 12 về dân số, như vậy là sắp lọt vào "top ten". Rõ ràng chúng ta không nhỏ, trái lại còn là một cường quốc về dân số. Nhưng phẩm chất dân số thì sao? Theo các đánh giá về tri thức, giáo dục, nhân bản, xã hội, pháp luật, hay kinh tế... chúng ta còn nằm ở mức rất thấp, gần sát đáy của nửa cuối các dân tộc trong các bảng xếp hạng.

Tại sao nước ta lớn vậy, mà nhìn chung vẫn thấy vô vàn các điều bất cập, nhếch nhác, nghèo hèn, lộn xộn? Tất cả điều đó chắc chắn là sản phẩm của bộ não, tức ý thức, tức trí khôn, chứ không phải sản phẩm của cơ thể - tức da thịt.

Tại sao dân số nước Việt ngót trăm triệu người vẫn là dân tộc bé? Chúng ta hãy tham khảo cái nhìn hết sức chính xác của lãnh tụ Tôn Trung Sơn, trong cuốn "Chủ nghĩa tam dân". Ông nói: "Trung Quốc là một nước hơn 400 triệu dân (thời đầu thế kỷ 20) nhưng mà như một bãi cát rời rạc, bởi vì ở Trung Quốc chỉ có gia tộc và tông tộc mà không có quốc tộc". Khi đó, quốc gia chỉ là thứ gia đình được trải rộng dài, kéo dài ra. Nó là một đơn vị gia đình phồng lên, với các "gia quy", chứ không phải là một quốc thể với hệ thống lập hiến của mình....

Không có trí tuệ thì mỗi người chỉ là em bé to xác, không thể nào trưởng thành. Thân xác là thứ càng lớn càng giật lùi, như Lão Tử ở Trung Quốc đã ví: Đứa bé mới đẻ nắm tay chặt đến mức ngay cả người lớn cũng không kéo ra được, nhưng càng lớn đứa bé càng già và yếu. Bản năng không bao giờ tiến bộ! Chỉ có lý trí và trí tuệ mới tiến bộ được.

Một con người không phát triển trí tuệ không lớn lên, một dân tộc không dựa trên trí tuệ thì mãi mãi còn bé nhỏ. Triết gia Hegel , ông tổ của môn biện chứng pháp đã xác định: "Những tư tưởng dẫn dắtthế giới". Một dân tộc không có những tư tưởng thì sẽ như những toa tầu không có đầu tầu.

Tư duy bé nên làm ăn cò con

Mà tư tưởng của người ta lớn lên như thế nào? Triết học phương Tây xác định rằng: Trí tuệ chỉ có mỗi một con đường thể hiện, đó là ngôn ngữ. Anh muốn khoe khéo khoe khôn ư? Muốn trình bày lý thuyết hay phát minh của mình ư? Anh phải có công trình được viết ra, đọc lên, hay công bố.

Người ta dứt khoát rằng: Cái gì không nói ra miệng được thì không phải là trí tuệ. Đừng ấp úng, gật gật, rồi bảo mình khôn hơn hay có nhiều công trình trong đầu hơn người khác. Làm gì có thứ nhạc sĩ không có bản nhạc! Họa sĩ không có tranh! Nhà chế tạo không có phát minh?!

Nhưng ngôn ngữ lớn lên bằng cái gì? Bằng cách cọ xát bằng đối thoại. Một cầu thủ không thể tiến bộ nếu không trải qua thi đấu! Ngôn ngữ cũng như trí tuệ của người ta cũng không thể tiến bộ nếu không được đối thoại. Trong Kinh Thánh có câu "Ở đâu không có bàn định thì không có mưu sâu".Đó là điều chắc chắn, vì tất cả những ban tham mưu trên đời hình thành là để người ta bàn định tìm kiếm những giải pháp tốt nhất.

Người Việt cũng xác định đẳng cấp cao nhất phải hướng đến công lý của ngôn ngữ như: "Khôn ngoan đến cửa quan mới biết". Nhưng trong đời sống, vì hám theo đuổi tính vụ lợi hơn chân lý, người Việt thường áp dụng: "Người khôn ăn nói nửa chừng/ Làm cho kẻ dại nửa mừng nửa lo".

Rồi người ta hướng đến sự khôn ranh: "Khôn ăn người, dại người ăn". Hoặc tìm cách nói nước đôi để bảo toàn lấy mình: "Làm trai cứ nước hai mà nói". Dẫn đến "quan tám cũng ừ, quan tư cũng gật".

Tại sao người Việt lại có lối sống, lối thể hiện, cũng là tìm cách che giấu nước đôi như vậy? Đó là sự khiếp nhược vì sống quá lâu trong chế độ phong kiến. Sợ nói không đúng thì không phải đầu cũng phải tai, nên thà nói nước đôi để chuồn bề nào cũng tiện. Đó cũng là lối nói của mặc cảm "nô tài".

Tư tưởng bao giờ cũng dẫn đến hành động. Tư tưởng chưa trau dồi lớn, làm sao có hành động lớn? Đó rõ ràng là bằng chứng về việc chúng ta là nước đông dân mà không phải là nước lớn. Bởi vì người lớn, nước lớn thì phải có suy nghĩ lớn, những dự định lớn, những chương trình vĩ mô. Nhưng ngay từ trong tư tưởng chúng ta chưa lớn, nên không thể nào sản sinh cái lớn được.

Dân tộc 100 triệu người vẫn có thể là dân tộc... bé

Nói nước đôi thì có thể bảo toàn mình, nhưng không cách gì tiến bộ được, vì nói nước đôi là cách chưa nói gì.

Tư tưởng bao giờ cũng dẫn đến hành động. Tư tưởng chưa trau dồi lớn, làm sao có hành động lớn? Đó rõ ràng là bằng chứng về việc chúng ta là nước đông dân mà không phải là nước lớn. Bởi vì người lớn, nước lớn thì phải có suy nghĩ lớn, những dự định lớn, những chương trình vĩ mô. Nhưng ngay từ trong tư tưởng chúng ta chưa lớn, nên không thể nào sản sinh cái lớn được.

Nước chúng ta là tam nông: Nông thôn, nông nghiệp, nông dân. Vì tư duy bé nên chúng ta làm ăn cò con. Vì ít thực phẩm nên chúng ta thường ăn vặt, dẫn đến khôn vặt, rồi có cả gian vặt nữa. Từ đặc điểm tam nông, chúng ta còn mắc các chứng: Tiểu nông, tiểu trí, và tiểu xảo.

Có một mệnh đề là, nếu người Việt thông minh thì chắc hẳn chúng ta đã có tầm vóc của một quốc gia hùng cường, nhưng rõ ràng chúng ta còn đang yếu về rất nhiều mặt. Rõ ràng đa số chúng ta mới khôn vặt, khôn trốn việc, khôn láu cá ăn người, chứ không phải cái khôn ngoan di sơn đảo hải như người Việt mong muốn và ao ước "có cứng mới đứng đầu gió".

Trái lại đa số chúng ta chỉ muốn làm cỏ giả để tìm nơi khuất gió. Cái khôn ranh chỉ là bản năng sống rình mồi kiếm ăn của các loài thú. Chỉ có cái khôn của hiểu biết mới biến con người thành công trình sư cho số phận của mình.

Trở về đầu trang

Người Nhật bình tĩnh trước thảm họa, vì sao?

Những ngày gần đây, người ta truyền tai nhau trầm trồ về những chuyện lạ của người Nhật trong và sau thảm họa kép động đất-sóng thần.

Dù đói lạnh nhưng họ vẫn không hôi của. Nhiều người đi ngang qua một căn nhà hoang có hàng triệu yen (hơn 250 triệu đồng VN) trôi ra mà không ai thèm nhặt. Họ bình tĩnh xếp hàng rồng rắn chờ nhận đồ cứu trợ. Tại sao người Nhật vẫn giữ được tư cách trong thảm họa?

Trước hết, Nhật là một nước giàu. Người dân tin tưởng họ sẽ không thiếu lương thực, hàng hóa, thiếu đói chỉ là tạm thời do đường sá bị hư hại, hàng cứu trợ chưa đến kịp, trước sau gì cũng có.

Thứ hai, người Nhật tin ở những người thi hành công vụ, các tổ chức dân sự, những người làm công tác thiện nguyện luôn làm việc công bằng, chính trực, giỏi về tổ chức, có kinh nghiệm. Những người này sẽ sắp xếp công việc, điều động lực lượng và hàng hóa cứu trợ, trước sau gì khó khăn sẽ qua.

Thứ ba, người Nhật tin vào chính phủ. Ngay sau thảm họa, Thủ tướng và các vị lãnh đạo đã lên tiếng trấn an, nhận trách nhiệm và tìm mọi cách giải quyết. Chính phủ của họ từ xưa đến nay nhìn chung đã hứa là làm và làm được, còn không làm được thì từ chức, thậm chí nếu để xảy ra hậu quả nghiêm trọng thì mổ bụng tự sát theo đúng phong cách võ sĩ đạo thời xưa chứ không tranh công đổ lỗi, trốn tránh trách nhiệm.

Thứ tư, chính phủ và ngành giáo dục Nhật biết cách tổ chức một nền giáo dục đào tạo được kiến thức thực học và tư cách con người từ sự hấp thu văn hóa Đông-Tây và truyền thống dân tộc.

Cách hành xử của người Nhật dường như có một phần quan niệm về công bằng xã hội, tư cách công dân của đạo đức phương Tây, một phần đạo đức công chính, lễ nghĩa liêm sỉ của Nho giáo, một phần chữ nhẫn, hỉ xả của Phật giáo và một phần của lòng cao thượng theo kiểu võ sĩ đạo… Câu chuyện về thái độ của người Nhật cho thấy: Giáo dục người dân thành một cộng đồng có học vấn và tư cách là công việc rất khó khăn và lâu dài.

Trở về đầu trang

BA NGƯỜI THẦY VĨ ĐẠI

Khi Hasan, một nhà hiền triết Hồi giáo sắp qua đời, có người hỏi ông: "Thưa Hasan, ai là thầy của ngài?"

Hasan đáp: "Những người thầy của ta nhiều vô kể. Nếu điểm lại tên tuổi của các vị ấy hẳn sẽ mất hàng tháng, hàng năm, và như thế lại quá trễ vì thời gian của ta còn rất ít. Nhưng ta có thể kể về ba người thầy sau của ta.

Người đầu tiên là một tên trộm. Có một lần ta đi lạc trong sa mạc, khi ta tìm đến được một khu làng thì trời đã rất khuya, mọi nhà đều đi ngủ cả. Nhưng cuối cùng ta cũng tìm thấy một người, ông ta đang khoét vách một căn nhà trong làng. Ta hỏi ông ta xem có thể tá túc ở đâu, ông ta trả lời: "Khuya khoắt thế này thật khó tìm chỗ nghỉ chân, ông có thể đến ở chỗ tôi nếu ông không ngại ở chung với một tên trộm."

Người đàn ông ấy thật tuyệt vời. Ta đã nán lại đấy hẳn một tháng! Cứ mỗi đêm ông ta lại bảo: "Tôi đi làm đây. Ông ở nhà và cầu nguyện cho tôi nhé!" Mỗi khi ông ta trở về ta đều hỏi: "Có trộm được gì không?" và ông ta đều đáp: "Hôm nay thì chưa, nhưng ngày mai tôi sẽ cố, có thể lắm chứ". Ta chưa bao giờ thấy ông ta trong tình trạng tuyệt vọng, ông ta luôn hạnh phúc.

Có lần ta đã suy ngẫm và suy ngẫm trong nhiều năm ròng để rồi không ngộ ra được một chân lý nào. Ta đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, tuyệt vọng đến nỗi ta nghĩ mình phải chấm dứt tất cả những điều vô nghĩa này. Ngay sau đấy ta chợt nhớ đến tên trộm, kẻ hằng đêm vẫn quả quyết: "Ngày mai tôi sẽ làm được, có thể lắm chứ!"

Người thầy thứ hai là một con chó. Khi ta ra bờ sông uống nước, có một con chó xuất hiện. Nó cũng khát nước. Nhưng khi nhìn xuống dòng sông, nó thấy cái bóng của mình nhưng lại tưởng đó là một con chó khác. Hoảng sợ, nó tru lên và bỏ chạy. Nhưng rồi khát quá nó bèn quay trở lại. Cuối cùng, mặc nỗi sợ hãi trong lòng, nó nhảy xuống sông và cái bóng biến mất. Ta hiểu đây là một thông điệp đã được gửi đến cho ta: con người phải biết chiến thắng nỗi sợ trong lòng bằng hành động.

Người thầy cuối cùng là một đứa bé. Ta đến một thành phố nọ và thấy một đứa bé trên tay cầm một cây nến đã thắp sáng để đặt trong đền thờ. Ta hỏi đứa bé: "Con tự thắp cây nến này phải không?" Đứa bé đáp: "Thưa phải." Đoạn ta hỏi: "Lúc nãy nến chưa thắp sáng, nhưng chỉ một thoáng sau đã cháy sáng. Vậy con có biết ánh sáng từ đâu đến không?"

Đứa bé cười to, thổi phụt ngọn nến và nói: "Ngài thấy ánh sáng đã biến mất, vậy ngài bảo ánh sáng đã đi đâu?"

Cái tôi ngạo nghễ của ta hoàn toàn sụp đổ, pho kiến thức kim cổ của ta cũng sụp đổ theo. Lúc ấy ta nghiệm ra sự dốt nát của bản thân. Và từ đó ta vất đi tất cả những tự hào về kiến thức của mình.

Đúng là có thể nói ta không có một ai là thầy, nhưng điều này không có nghĩa ta không phải là một học trò. Ta xem vạn vật là thầy. Tinh thần học hỏi của ta luôn rộng mở hơn tất cả các người. Ta học hỏi từ tất cả mọi vật, từ cành cây ngọn cỏ đến đám mây trên trời kia. Ta không có một người thầy vì ta có hàng triệu triệu người thầy mà ta đã học được mỗi khi có thể. Điều thiết yếu trong cuộc sống là luôn làm một học trò. Điều này có nghĩa là gì? Nghĩa là có khả năng học hỏi, luôn sẵn sàng học để biết chấp nhận ý nghĩa của vạn vật.

Trở về đầu trang